Đề tài Tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng

Tài liệu Đề tài Tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng: Chương I: Khái quát chung I. Tình hình kinh tế thế giới: Trong nhiều năm vừa qua, kinh tế thế giới có nhiều biến chuyển mạnh, sau 10 năm khủng hoảng Châu á, một lần nữa khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra có quy mô lan rộng hơn, tất cả đều bắt đầu từ cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng tài chính Mỹ. Ngay khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Mỹ bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Giá chứng khoán Mỹ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Mỹ cũng rơi vào tình thế khó khăn...

doc58 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1067 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Khái quát chung I. Tình hình kinh tế thế giới: Trong nhiều năm vừa qua, kinh tế thế giới có nhiều biến chuyển mạnh, sau 10 năm khủng hoảng Châu á, một lần nữa khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra có quy mô lan rộng hơn, tất cả đều bắt đầu từ cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng tài chính Mỹ. Ngay khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Mỹ bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Giá chứng khoán Mỹ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Mỹ cũng rơi vào tình thế khó khăn. Theo số liệu thống kê cuối năm 2008 đầu năm 2009 cho thấy 11,6 triệu người Mỹ đã chính thức bị thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp cũng có thể khiến cho số người không trả được nợ tăng cao, làm cho lĩnh vực nhà ở đã lao đao lại càng căng thẳng hơn. Theo các kinh tế gia, tình trạng thất nghiệp trầm trọng có phần chắc sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, khiến cho niềm tin của người tiêu dùng và việc chi tiêu của họ bị tác động theo. Khoản chi tiêu của người tiêu thụ chiếm 2/3 hoạt động của nền kinh tế Mỹ. Kinh tế Mỹ trong giai đoạn cuối năm 2008 đầu năm 2009 đã có 4 quý âm liên tiếp. Bên cạnh đó giai đoạn này cũng là giai đoạn chứng kiến thị trường chứng khoán lao dốc từ đỉnh cao bởi những tác động tiêu cực liên tiếp từ các hoạt động kinh tế. Thị trường tiền tệ, các ngân hàng và doanh nghiệp đều gặp khó khăn, nhu cầu tiêu dùng sụt giảm cùng với sự đóng băng của thị trường bất động sản. những khó khăn chung này đẩy thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Tại Mỹ, chỉ số Dow Jones hạ từ mức đỉnh cao nhất 14.164,53 điểm ngày 9/10/2007 xuống dưới 8.000 điểm vào ngày 20/11/2008. Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính Mỹ đã kéo theo hệ thống tài chính cả thế giới chao đảo, châm ngòi cho sự suy thoái kinh tế cùng lúc ở các nước đang phát triển. Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở của Mỹ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Mỹ. Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) thừa nhận rằng nguy cơ kinh tế Anh rơi vào suy thoái, với tăng trưởng gần như chững lại và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. BOE cũng nâng dự báo lạm phát của nước này từ mức hơn 4% lên gần 5% trong vài tháng. Toàn bộ châu Âu phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn như lạm phát, giá dầu cao, sản xuất công nghiệp giảm, thị trường nhà đất ở nhiều nước đang xấu đi. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực này đã giảm đáng kể. Theo Uỷ ban châu Âu, tăng trưởng kinh tế ở châu lục này sẽ giảm xuống còn 1,5% năm 2009, thấp hơn mức kỳ vọng 1,7% năm 2008. Thị trường nhà đất châu Âu cũng đáng báo động với những dấu hiệu lặp lại bi kịch tương tự như thị trường nhà đất Mỹ. Trước tình trạng lạm phát gia tăng và giá nhiên liệu tăng cao, sản xuất công nghiệp sa sút, các ngành kinh tế châu Âu buộc phải cắt giảm nhân công, khiến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp tại Anh hiện đã tăng lên mức cao nhất trong 15 năm qua kể từ sau cuộc khủng hoảng đầu những năm 90 của thế kỷ trước, do nền kinh tế nước này đang có những dấu hiệu bước vào thời kỳ suy thoái. Không chỉ có Mỹ và Châu Âu, Châu á cũng gánh chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng lần này. Lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới, cả 3 nền kinh tế trụ cột của thế giới cùng lúc rơi vào suy thoái sau tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và sự đi xuống theo chu kỳ sau giai đoạn tăng trưởng bùng nổ. Nước đầu tiên chịu ảnh hưởng chính là Nhật Bản, nước có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và là đầu tàu của kinh tế châu á. Nhật Bản trong năm 2008 đã có 3 quý liên tiếp kinh tế tăng trưởng âm do xuất khẩu sụt giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản có thể sẽ tiếp tục giảm do những khó khăn của kinh tế Mỹ và những biến động trên thị trường tài chính toàn cầu.Theo IMF tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Nhật Bản chỉ tăng 1,5% năm nay so với 2,1% năm 2007 và 2,4% năm 2006. Chính phủ Nhật Bản cũng tuyên bố, kinh tế nước này đang suy thoái. Chính phủ vừa được cải tổ đang đối mặt với nhiều khó khăn. Lạm phát của Nhật Bản đang tăng cao do giá các nhu yếu phẩm tăng mạnh, trong khi nhiều mặt hàng công nghiệp trong nước giảm giá và tiêu thụ chậm. Dấu hiệu suy thoái được báo động ở nhiều lĩnh vực. Xuất khẩu và đầu tư, hai “động lực” của nền kinh tế Nhật Bản từ 5 năm qua, cũng bị đình trệ, do ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ đang trên đà suy thoái. Cũng giống như Nhật Bản, Trung Quốc cũng phải đón nhận những tác động xấu từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế nước này. Trung Quốc vốn được hưởng lợi nhiều nhất từ chính sách tiền tệ của Mỹ cũng sẽ gánh chịu nhiều rủi ro nhất từ cuộc khủng hoảng này. Trong những năm vừa qua, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc, đồng thời cũng là chủ nợ lớn của Mỹ. Do vậy, khi khủng hoảng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới nền sản xuất của Trung Quốc. Các chỉ số kinh tế tháng 11/2008 cho thấy hoạt động kinh tế của Trung Quốc đang suy giảm với tốc độ thậm chí nhanh hơn. Tăng trưởng kinh tế giảm xuống khoảng 9% trong năm 2008, thấp hơn mức tăng ấn tượng 11,9% năm 2007. Cuộc suy thoái kinh tế không chỉ ảnh hướng đến các nền kinh tế lớn mà còn có tác động lớn đến các nền kinh tế nhỏ. Việt Nam tuy chỉ là 1 nền kinh tế đang phát triển ở khu vưc Đông Nam A nhưng cũng là 1 bộ phận của nền kinh tế thế giới. Mỹ luôn được coi là 1 đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực xuất khẩu, vì vậy nền kinh tế Mỹ có tổn thất thì kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều bất lợi. Để nắm rõ hơn điều này, chúng ta cần đi sâu phân tích thêm tình hinh kinh tế trong thời gian qua ở Việt Nam. II.Tình hình kinh tế trong nước: Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng đến một số hoạt động của kinh tế Việt Nam, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát triển khác. Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng, nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường có nhiều biến động do tâm lý của người dân. Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các biện pháp, chính sách để điều hành, ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu, rà soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước. Những tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đang và sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2008. Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 chỉ đạt khoảng 6,7%, thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua là 7%. Với những tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính thế giới đến đầu tư nước ngoài, thương mại, tài chính tiền tệ,... trong thời gian vừa qua, cũng như phạm vi ảnh hưởng của khủng hoảng đến kinh tế thế giới như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta cũng gặp khó khăn trong năm 2009 và các năm tiếp theo. Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới và khu vực châu á được dự báo khả quan hơn. Điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. III. Lý do chọn đề tài: Ngành ngân hàng trong những năm qua có những bước phát triển vượt bậc, đồng thời cũng gặp phải rất nhiều biến động khó khăn do tác động của cả tình hình kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong nước. Đầu năm năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với lạm phát tăng cao do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Ngân hàng phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Đồng thời do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Chính vì thế nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng. Cuối năm 2008, đầu 2009 ngành tài chính ngân hàng tiếp tục phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Đây là 1 cú shock với nền kinh tế toàn cầu và cũng là 1 tấm gương cho hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Các ngân hàng sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Để phát triển và tồn tại, các ngân hàng luôn tìm các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, không thể phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động tín dụng trung dài hạn trong việc phục hồi và thúc đẩy nền kinh tế sau ảnh hưởng của suy thoái và lạm phát. Hoạt động tín dụng trung dài hạn có hiệu quả hay không không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi ngân hàng mà còn là vấn đề quan tâm của cả nền kinh tế. Nguồn vốn trung và dài hạn từ các Ngân hàng thương mại chính là tiềm lực ổn định và là lợi thế để các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ, phát triển, đẩy mạnh nền kinh tế của cẩ nước phát triển. Là một bộ phận trong hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Điện Biên Phủ đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung- dài hạn đối với các DN thuộc mọi thành phần kinh tế bên cạnh hoạt động tín dụng ngắn hạn truyền thống. Trong những năm gần đây hoạt động tín dụng trung- dài hạn của Chi nhánh đã đạt được kết quả đáng kể song còn không ít những mặt hạn chế về quy mô cũng như chất lượng. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề trên em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Điện Biên Phủ”. CHƯƠNG II: kiến thức chung về tín dụng của ngân hàng thương mại I. Khái quát chung về ngân hàng thương mại 1. Khái niệm ngân hàng thương mại. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá.Ngân hàng thương mại(NHTM) ra đời là kết quả của một quá hình thành và phát triển lâu dài, phù hợp và gắn liền với tiến trình phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Nó được coi là sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá, là một bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất yếu trong nền kinh tế hiện đại. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới thì NHTM là một doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Theo Peter S.Rose: ''Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dich vụ tài chính da dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.'' Theo luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:''Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thương xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.'' 2. Chức năng của Ngân hàng thương mại. Trung gian tín dụng Ngân hàng thương mại một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, hay nói cách khác là một tổ chức đóng vai trò “cầu nối” giữa các đơn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn. Thông qua sự điều chuyển này. ngân hàng thương mại có vai trò quan trong trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, cải thiện mức sống dân cư, ổn định thu chi Chính phủ. Đồng thời chức năng này còn góp phần quan trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Từ đó cho thấy rằng, đây là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại. Trung gian thanh toán Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội đều được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí thực hiện là rất lớn, bao gồm: chi phí in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền... Với sự ra đời của ngân hàng thương mại, phần lớn các khoản chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ của xã hội dần được thực hiện qua ngân hàng, với những hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện với công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Chính nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội ở ngân hàng nên việc lưu thông hàng hoá dịch vụ trở nên nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm hơn. Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chức năng tạo tiền Xuất phát từ khả năng thay thế lượng tiền giấy bạc trong lưu thông bằng những phương tiện thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi... Chức năng này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định về giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm. 3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 3.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Khi nhắc tới vai trò của Ngân hàng thương mại thì không thể không nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu tiên các chủ doanh nghiệp các doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể thu được. Do nhược điểm của thị trường tài chính dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh toán,…NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế,…hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Là một kênh phân phối vốn có hiệu quả NHTM đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cải tiến quy trình cộng nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động để có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 3.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà yếu tố đầu vào quan trọng nhất chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai thác các nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy, Ngân hàng chính là cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian. 3.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Nếu NHTM có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất,…thì các NHTM một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các công cụ này mặt khác nó còn tham gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên quan đến hoach định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW, giúp NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trường và phát triển ổn định. 3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Trên thế giới, mỗi quốc gia độc lập trường xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hóa, khoa học – kỹ thuật,…trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng, áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hòa nhập nền của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hội, ủy thác đầu tư,…Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế, đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế. 4. Các loại hình tín dụng Ngân hàng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng Thương mại mà có cách phân loại tín theo thời hạn cho vay như sau: - Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống - Tín dụng trung hạn: có thời gian từ 1 năm đến 5 năm (có nơi quy định là 7 năm). - Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm trở nên (có nơi quy định là 7 năm). Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hay thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ sung vào tài sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được số tiền vay ở Ngân hàng. Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi ... các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 năm đến 5 năm. Ngược lại, những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô như: máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường... có nhu cầu nguồn vốn từ 5 năm đến 10 năm có khi tới 20 năm. Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có thể tính được hết khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy mức độ rủi ro của các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với Ngân hàng sẽ tăng nên. Điều này một phần lý giải tại sao lãi suất các khoản cho vay dài hạn thường cao hơn các khoản các khoản cho vay ngắn hạn. Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng Thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và sinh lợi của một Ngân hàng Thương mại. II. Tổng quan về tín dụng trung - dài hạn và vai trò tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.Tổng quan về tín dụng trung - dài hạn Tín dụng trung và dài hạn “ là hoạt động tài chính cho khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tín dụng là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu và nó chiếm phần lớn hoạt động trong các Ngân hàng Thương mại, song không phải tất cả các Ngân hàng Thương mại đều thực hiện tốt hoạt động này. Một số Ngân hàng gặp khó khăn trong việc quản lý và thu hồi nợ, một số khác lại gặp khó khăn trong việc không thể tìm được dự án thích hợp để cho vay hoặc gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Vì vậy việc xem xét chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng nhất là tín dụng trung và dài hạn là hết sức cần thiết. Nó giúp các Ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động tín dụng của mình từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng. Chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng Ngân hàng được nhìn nhận từ 3 phía: các nhà Ngân hàng, các doanh nghiệp, và từ nền kinh tế. Trong bài viết này, chúng ta tạm giới hạn việc nghiên cứu chất lượng tín dụng dưới giác độ của Ngân hàng. Nếu xét theo quan điểm của các nhà Ngân hàng thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các Ngân hàng khi tiến hành cho vay trung dài hạn thì khoản vay đó phải đảm bảo trang trải được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí hoạt động của Ngân hàng và lãi dự tính. Song không phải các Ngân hàng cứ cho vay nhiều, mang lại nhiều lợi nhuận là có hiệu quả cao bởi vì nếu chỉ cho vay ra mà không thu hồi được vốn cho vay hoặc cho vay không cân xứng với nguồn huy động được thì sớm hay muộn, Ngân hàng cũng rơi vào tình trạng thua lỗ, đổ bể. 2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn. * Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp - Tín dụng trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình và nếu vậy phải mở rộng sản xuất. Mở rộng sản xuất không phải là hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiến hành một sớm một chiều. Đó là hoạt động lâu dài và cần có nguồn vốn dài hạn. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ vốn để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh. Do vậy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp rất cần thiết. Với những lợi thế đặc thù, tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích hơn hình thức phát hành cổ phiếu. - Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất. Điều đó giúp doanh nghiệp thích nghi với tình hình thị trường cũng như đặc thù của chính doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Việc vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng thương mại sẽ làm cho doanh nghiệp có thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình mà không phải phân chia quyền kiểm soát với các cổ đông nếu huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. - Tín dụng trung và dài hạn còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả mãn và chớp cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp có thể nhanh chóng vay vốn của Ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, tín dụng trung và dài hạn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký... Việc trả nợ trung và dài hạn cũng được xây dựng theo một sự phân chia ổn định và hợp lý do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dễ dàng hơn. * Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế - Tín dụng trung và dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Với chức năng là trung gian tài chính, các Ngân hàng tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho vay đối với các đối tượng có nhu cầu điều đó được thể hiện rõ trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung hoạt động một cách liền mạch không ngắt quãng và là một kênh truyền dẫn vốn có hiệu quả. - Tín dụng trung và dài hạn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, tăng tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. - Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước cho nền kinh tế mở phát triển. Tín dụng trung và dài hạn đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là nhiệm vụ có ý nghĩa với sự phát triển kinh tế trong cả hiện tại và tương lai. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết với thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay: Nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất lớn trong khi việc sử dụng vốn còn có nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng vốn không cao, còn thất thoát và gây lãng phí lớn. * Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của NHTM: - Tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Tín dụng trung dài hạn cả về số lượng và chất lượng là hoạt động mang tính chiến lược của các Ngân hàng Thương mại. Với những khoản tín dụng trung và dài hạn có quy mô lớn và lãi suất cao, thời gian dài, tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Do vậy tín dụng trung và dài hạn mang lại thu nhập chủ yếu trong tổng thể các hoạt động của Ngân hàng Thương mại từ trước đến nay. - Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng chính là ngân hàng đang tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai. Tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Mặt khác, tín dụng trung và dài hạn còn là công cụ cạnh tranh hiệu quả của Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng về phía mình. Khi có được mối quan hệ, Ngân hàng có điều kiện lôi kéo khách hàng sử dụng các dịch vụ khác do mình cung cấp - Tín dụng trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi ngân hàng thương mại. Đồng thời là cách để Ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. III. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượg tín dụng trung dài hạn của NHTM 1. Khái niệm Trong điều kiện hiện nay khi nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thị trường thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này càng mạnh mẽ, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải khong ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Muốn vậy các doanh nghiệp không nâng cao chất lượng sản phẩm, giá cả phù hợp. Trong đó chất lượng chiếm vị trí quan trọng hàng đầu quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với các NHTM. Khi đây là doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên kĩnh vực tiền tệ. Chất lượng nói chung có thể được hiểu là mưc độ phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng hay là tập hợp tính chất của sản phẩm, chứa đựng mức độ thích ứng của nó để thoả mãn nhu cầu nhất định theo công dụng của nó với những chi phí xã hội cần thiết. Qua đây chúng ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng( người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn trong việc thu hồi vốn thông qua sự phát huy hiệu quả của phương án được hình thành bằng đồng tiền vay hay hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, tăng lợi nhuận của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Tín dụng trung dài hạn được đánh giá là có chất lượng khi: - Mục tiêu đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển của nền kinh tế, của xã hội, phù hợp với xu hướng của thị trường. - Có biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro phù hợp với tính chất pháp lý của từng hình thức tín dụng. - Có tính được hiệu quả kinh tế trực tiếp các căn cứ để tính toán dựa trên thông tin đáng tin cậy. - Thủ tục cho vay, đầu tư chặt chẽ về mặt pháp lý. - Trong quá trình cho vay, doanh nghiệp vẫn khai thác tốt tài sản, trả nợ ngân hàng đúng lịch trình cả vốn gốc và lãi. - Doanh nghiệp được đầu tư có kinh nghiệm sản xuất, có khả năng cạnh tranh cao. 2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn. * Chỉ tiêu định tính Tín dụng là một trong những hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho các NHTM, song không phải tất cả các NHTM đều thực hiện tốt hoạt động này. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong việc không thể tìm được dự án thích hợp cho vay hoặc gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Vì vậy việc xem xét chất lượng hiệu quả tín dụng trung dài hạn là hết sức cần thiết, nó giúp ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động cho vay của mình từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay. Để đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn, đứng trên giác độ là một nhà ngân hàng chúng ta phải xem xét cả những chỉ tiêu về mặt định tính và mặt định lượng. Về mặt định tính, các chỉ tiêu được thể hiện qua một số khía cạnh sau. - Chất lượng tín dụng được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng. - Những ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, cơ sở vật chất trang thiết bị tốt, đồng thời ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn, đa dạng hoá và không ngừng ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Ngân hàng có tổng nguồn vốn huy động lớn, ổn định có lượng khách hàng vay đông đảo chứng tỏ ngân hàng có uy tín. - Ngoài ra chất lượng tín dụng còn được xem xét thông qua tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, tình hình khai thác tiềm năng của ngân hàng trên địa bàn hoạt động. * Chỉ tiêu định lượng: Chỉ tiêu định lượng gồm một số chỉ tiêu cơ bản như - Chỉ tiêu về dư nợ Tổng dư nợ tín dụng ngân hàng bao gồm: Dư nợ vốn ngắn hạn, dư nợ vốn trung dài hạn, vốn góp đồng tài trợ. Chỉ tiêu dư nợ này được tính bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Tổng dư nợ cao chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, uy tín của ngân hàng tương đối tốt, có khả năng thu hút khách hàng. Ngược lại, khi tổng dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng và phát triển cho vay, từ đó có thể thấy rằng uy tín của ngân hàng chưa cao, chưa có khả năng thu hút khách hàng, khả năng tiếp thị kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng. Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ dựa vào riêng một chỉ tiêu này để đánh giá, Tuỳ từng thời điểm chỉ tiêu này sẽ phản ánh những thực trạng khác nhau. Do đó khi đánh giá chúng ta phải đặt vào mối quan hệ với nguồn vốn điều kiện kinh doanh cụ thể, của khách hàng và ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng. Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể so sánh được quy mô của tín dụng trung dài hạn so với tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Tỷ lệ dư nợ này càng cao chứng tỏ ngân hàng này có quy mô tín dụng trung dài hạn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cũng như của nền kinh tế. Tuỳ từng ngân hàng cụ thể và tuỳ từng thời điển mà ngân hàng mong muốn lệ này cao sẽ đem lại cho ngân hàng thu nhập cao do lãi suất tín dụng trung dài hạn cao song rủi ro đối với ngân hàng cũng cao. -Vòng quay vốn tín dụng Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch thoả thuận trong hợp đòng tín dụng. Sau đó lại tiến hành cho vay dự án mới. Vòng quay tín dụng nhỏ hơn hoặc bằng chu kỳ sản xuất kinh doanh chứng tỏ khách hàng hoàn trả nợ vay đúng hạn, có nghĩa là chất lượng tín dụng tốt và ngược lại ngân hàng phải gia hạn nợ và có thể chuyển nợ quá hạn, đưa tìa sảo có không sinh lời tăng, phản ảnh chất lượng tín dụng yếu. Tuy nhiên chúng ta không chỉ thể dựa vào một chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng trung dài hạn thường dùng để đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới công nghệ do vậy thời gian thu hồi vốn lâu: - Hệ số sử dụng vốn Hệ số sử dụng vốn cho biết khả năng sử dụng nguồn vốn trung dài hạn huy động được để cho vay trung dài hạn là cao hay thấp. -Chỉ tiên về nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn xem xét giá trị các khoản nợ quá hạn trung dài hạn trong tổng dư nợ trung dài hạn, còn tỷ lệ nợ khó đòi xem xét đến giá trị các khoản nợ trung dài hạn khó đòi trong nợ quá hạn. Các chỉ tiêu trên là những chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn cao biểu hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì số lượng lớn nợ không được hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Do vậy không phả dư nợ tín dụng trung dài hạn càng cao thì càng tốt bởi điều đó còn phải phụ thuộc nhiều yếu tố khác như việc quản lý và chất lượng các khoản tín dụng đó. - Chỉ tiêu về lợi nhuận Chỉ tiêu này phả ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung dài hạn. Nó cho biết một đồng dư nợ tín dụng trung dài hạn mang lại bao nhiêu đồng lợ nhuận. Bất kì một khoản tín dụng nào cũng sẽ không thể được đánh giá là có chất lượng cao nếu không đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chức tỏ chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng càng tốt, mang lại lợi nhuân cao cho cả ngân hàng. Mỗi một ngân hàng có một cách đánh giá về chỉ tiêu này khác nhau song hầu như không có một con số chính xác cụ thể nào để làm căn cứ đưa ra so sánh, mà các ngân hàng dựa vào chỉ tiêu này của từng dự án cụ thể của từng năm để đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng mình. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại NHTM Chất lượng tín dụng tại các NHTM luôn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố khách quan và chủ quan. Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của TS. Phan Thị Thu Hà do NXB Thống Kê xuất bản năm 2004, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại NHTM được chia thành các nhóm sau: * Nhân tố thuộc về phía khách hàng - Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các doanh nghiệp thường có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu muốn mở rộng tín dụng. - Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Chỉ những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng thì mới được xem xét cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau tuỳ theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm tới một số vấn đề sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính khả thi của dự án, các biện pháp bảo đảm. Rõ ràng khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của các doanh nghiệp quá thấp, thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng. - Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả: Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, trong đó có một số nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của doanh nghiệp, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý của doanh nghiệp. * Nhân tố thuộc phía ngân hàng. - Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM: Muốn cho vay được thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì chưa đủ, do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, không ổn định thì không thể mở rộng cho vay trung và dài hạn được. Các nguồn vốn mà một NHTM có thể sử dụng để cho vay trung và dài hạn có quy mô và cơ cấu khác nhau trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Quy mô các nguồn vốn này là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. - Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các dự án: Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông thường, công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ yếu tập trung vào xem xét các mặt: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, khả năng quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiêm. Nếu khách hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do ngân hàng đặt ra thì dự án đầu tư sẽ được tiếp tục xem xét để quyết định có cho vay hay không. Vấn đề đặt ra ở đây là thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn được sử dụng làm căn cứ để đánh giá khách hàng và dự án đầu tư có hợp lý hay không. Nếu thủ tục rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với thực tế thì sẽ có rất ít các doanh nghiệp bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các NHTM phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình. - Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân hàng: Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, những dự án khả thi có khả năng sinh lời cao song đó chưa phải là sự đảm bảo chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao, đặc biệt là với tín dụng trung và dài hạn. Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước được. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng làm nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì vậy mà công tác giám sát và xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp; tình hình hoạt động thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của doanh nghiệp; những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, qua việc luôn bám sát hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin bổ ích, kịp thời, đưa ra các lời khuyên hoặc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn bằng cách gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, cho vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. - Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong từng thời kỳ. Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết là về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế tín dụng trung và dài hạn thì có nghĩa là quy mô tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Khi đó không thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt ít ra là về mặt quy mô. Ngoài ra, chính sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm một loạt các vấn đề như quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền vay, quy trình quản lý tín dụng, lãi suất…Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ không cao thậm chí rất thấp. - Thông tin tín dụng: Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. - Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật cũng là một nhân tố tác động tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn. - Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: Cho dù khoa học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa trong nhiều lĩnh vực song nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội thì vai trò của con người lại càng quan trọng. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được sự nhạy cảm hay kinh nghiệm của người cán bộ tín dụng. Do đó vấn đề nhân sự là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng, trong đó nổi bật lên hai vấn đề : chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ đơn thuần đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng động sáng tạo trong công việc, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao của các cán bộ, trong một chừng mực nào đó có thể giúp ngân hàng bù đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật, nhờ đó mà ngân hàng vẫn có thể tồn tại và phát triển được cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có tiềm lực mạnh hơn về công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật. Bên cạnh chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục tiêu chung là nhu cầu chất lượng tín dụng ngân hàng * Nhân tố khách quan - Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng. - Môi trường kinh tế : Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. - Môi trường chính trị, xã hội: Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng - Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng. Chương III: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ I. Khái quát chung về Ngân hàng TMCP Quân đội: 1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Quân Đội: Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) chính thức được thành lập và đi vào hoạt động ngày 4/11/1994. Trụ sở chính của MB tọa lạc tại Số 3 Đường Liễu Giai, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. 14 năm qua MB liên tục giữ vững vị thế là một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam. Cổ đông chính của MB: - Tổng Công ty Viễn thông Quân Đội Viettel - Công ty vật tư công nghiệp Bộ quốc phòng (GAET) - Tổng công ty bay dịch vụ Việt nam - Tổng công ty xây dựng Trường Sơn - Công ty Tân Cảng - Ngân hàng ngoại thương Việt nam(Vietcombank) Các dự án chính của MB qua các năm : - Năm 2007 : Ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với ngân hàng Ngoại Thương, Ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện MB va LILAMA, Thỏa thuận hợp tác MB va SacomBank - Năm 2008: MB tài trợ hơn 13 triệu Euro cho dự án đóng tàu xuất khẩu 3.300 tấn của công ty Hồng Hà, ký kết hợp đồng dự án hệ thống chuyển mạnh và quản lý thẻ, ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện giữa MB và Tổng công ty Viễn thông Toàn Cầu, ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện giữa MB và công ty Phú Thái - Năm 2009: Ký kết Thoả thuận Tài trợ thương mại với Ngân hàng Phát triển châu á, Ký kết Hợp đồng tham gia Dự án Tài chính nông thông III với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV, MB hợp tác với Viettel phát triển dịch vụ Mobile banking, MB ký kết Thoả thuận hợp tác toàn diện với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam 2. Chức năm và nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng: - Huy động vốn bằng nội tệ và ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức kinh tế dưới mọi hình thức : Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn , phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi… - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với mọi thành phần kinh tế, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, hùn vốn liên doanh, liên kết, hợp tác đồng tài trợ. - Bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh công trình, ứng trước, thanh toán, tái cấp vốn trong và ngoài nước. - Kinh doanh ngoại hối, thanh toán trực tiếp qua mạng trong nước và quốc tế (SWIFT) , thanh toán L/C hàng xuất, nhập khẩu, chi trả kiều hối và các dịch vụ Ngân hàng khác. - Làm Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ đầu tư phát triển( uỷ thác) từ nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức tài chính, tiền tệ, các tổ chức xã hội toàn thể, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ: Ban giám đốc Phòng Khách hàng doanh nghiệp Phòng Khách hàng cá nhân Phòng kho quỹ Phòng Giao dịch Phòng Kinh doanh tổng hợp Phòng Kế toán Phòng Kiểm tra kiểm soát Phòng Tổ chức hành chính 4. Nhiệm vụ của các phòng ban: Ban giám đốc: Thực hiện hoạt động quản lý nói chung của toàn chi nhánh. Điều hành, hướng dẫn, tổ chức nhân sự thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của chi nhanh. Phổ biến thực hiện các kế hoạch từ trụ sở chính, trực tiếp báo cáo với cấp trên những vấn điều phát sinh và việc thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của chi nhánh. Phòng kinh doanh: Thực hiện các hoạt động như là cho vay, thẩm định dự án, các vấn đề về thẻ, maketing, huy động vốn… Do phạm vi của chi nhánh và nhân sự đang còn thiếu nên phòng kinh doanh thực hiện cả chức năng đối với khách hàng là doanh nghiệp, khách hàng là cá nhân. Phòng kế toán: Gồm có bộ phận kế toán nội bộ và kế toán giao dịch với khách hàng. Kế toán nội bộ: quản ký các khoản thu chi nội bộ trong chi nhánh, cân đối lỗ lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh. Kế toán giam dịch với khách hàng: Thực hiện các nghiệp vụ như là chuyển tiền trong nước, chuyển tiền liên ngân hàng, thanh toán bù trừ. Trong giao dịch với khách hàng hình thành hai khoản tiền vay và tiền gửi. Đối với tiền vay thì kế toán có thể phải thực hiện các nghiệp vụ như chuyển tiền, thu hoặc chi tiền. Đối với tiền gửi, thỉ kế toán phải thực hiện các nghiệp vụ nộp tiền vào tài khoản, lĩnh tiền thừ tài khoản, lệnh chi chuyển tiền. Khi một khoản vay đã được phong kinh doanh phê duyệt thi phòng kế toán thực hiện giải ngân. Phòng kế toán cũng thực hiện theo dõi các tài khoản của khách hàng. Phòng kho quỹ: Thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhân sự Phòng giao dịch: Thực hiện chức năng như là một phòng tín dụng, chức năng kế toán, thực hiện huy động vốn . Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ: Kiểm tra, kiểm soát, hoạt động của các phòng ban. Báo cáo với ban giám đốc để thực hiện các hoạt động điều chỉnh kịp thời. II. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ: 1. Kết quả hoạt động kinh doanh: Mặc dù tình hình tài chính, tiền tệ quỗc tế có nhiều biến động không thuận lợi, nghành ngân hàng đã đạt được những thành tựu rất đáng trân trọng trên mọi mặt. Các nhà tài chính quốc tế đánh giá cao nỗ lực và thiện chí cửa Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các NHTM trong việc chống lạm phát trong nước và suy thoái toàn cầu.. Sau đây là 1 số các chỉ tiêu mà chi nhánh Điện Biên Phủ đã đạt được qua các năm: Bảng 1: Cơ cấu huy động vốn (Đơn vị : Tỷ đồng VN) Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 Chỉ Tiêu Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Tổng nguồn vốn huy động 2126 2505 2775 379 17.8 270 10.8 1 Phân theo khách hàng 11 TG dân cư 1247 1444 1586 197 15.8 142 9.8 12 TG các tổ chức kinh tế 879 1061 1189 182 20.7 128 12.1 2 Phân theo kỳ hạn 21 Không kỳ hạn 914 1019 1144 105 11.5 125 12.3 22 Có kỳ hạn 1212 1486 1631 274 22.6 145 8.4 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007 - 2008 - 2009) Bảng 2. Cơ cấu dư nợ cho vay của Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ: (Đơn vị : Tỷ đồngVN) Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Tổng Dư Nợ 1656 1875 2145 219 13.2 270 14.4 1. Phân theo TP kinh tế 1.1 KTQD 993 1081 1223 88 8.9 142 13.1 1.2 KTNQD 663 794 922 131 19.8 128 16.1 2.Phân theo loại tín dụng 2.1 TD ngắn hạn 777 861 986 84 10.8 125 14.5 2.2 TD trung và dài hạn 879 1014 1159 135 15.4 145 14.3 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007 - 2008 - 2009) 2. Một số đánh giá cụ thể hoạt động của Ngân hàng. 2.1. Kết quả hoạt động huy động vốn: Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng. Trong những năm gần đây, Ngân hàng đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn. Các hình thức huy động cũng phong phú hơn, thích hợp với nhu cầu đa dạng của người gửi tiền như kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm kỳ hạn từ 1 đến 24 tháng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm bậc thang. Quan hệ rộng với các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế, phát huy được nội lực và tranh thủ được ngoại lực. Do đó đã góp phần tăng trưởng nguồn vốn, tạo được cơ cấu đầu vào hợp lý. Vốn huy động của Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Điện Biên Phủ trong những năm qua có mức tăng trưởng ổn định, năm 2008 tăng trưởng vượt bậc so với năm 2007: 379 tỷ đồng, tương đương tăng 17,8%. Năm 2009 so với năm 2008 mức tăng có thấp hơn nhưng vẫn giữ được đà tăng :270 tỷ đồng, tương đương mức tăng 10,8% Trong cơ cấu nguồn vốn phân theo đối tượng khách hàng, tiền gửi tập trung phần lớn vào dân cư, và tăng dần qua các năm, năm 2008 tăng hơn 197 tỷ đồng (15,8%), năm 2009 tăng hơn năm 2008 là 142 tỷ đồng (9,8%). Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tuy chiếm tỷ trọng không cao nhưng cũng tăng khá mạnh, năm 2008 tăng so với năm 2007 là 182 tỷ đồng (22,8%), và năm 2009 tăng so với năm 2008 là 128 tỷ đồng (12,1%). Điều này chứng tỏ các tổ chức kinh tế sẽ là mục tiêu chiến lược trong chính sách huy động vốn của chi nhánh Điện Biên Phủ. Tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn huy động và tăng mạnh qua các năm, năm 2008 tăng so với năm 2007 là 22,6%, năm 2009 tăng so với năm 2008 là 8,4%. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng vẫn có xu hướng tăng đều qua các năm: năm 2008 tăng hơn 2007 là 105 tỷ đồng (11,5%), năm 2009 tăng hơn năm 2008 là 125 tỷ đồng (12,3%). 2.2.Kết quả hoạt động cho vay. Cùng với sự gia tăng về nguồn vốn trong những năm qua hoạt động cho vay của Ngân hàng cũng không ngừng tăng trưởng. Hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã mở rộng hơn so với những năm trước đó. Cụ thể tổng dư nợ năm 2008 tăng so với năm 2007 là 219 tỷ đồng (13,2%), năm 2009 tăng so với năm 2008 là 270 tỷ đồng (14,4%). Phân theo thành phần kinh tế, dư nợ tập chung chủ yếu vào KTQD, năm 2008 dư nợ của KTQD tăng 8,9% trong khi dư nợ của KTNQD năm tăng 19,8% so với năm 2007. Mức tăng của năm 2009 so với 2008 của cả 2 thành phần kinh tế có chênh lệch không quá nhiều như các năm trước , KTQD tăng 13,1% và KTNQD tăng 16,1%. Phân theo loại tín dụng thì dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn và tăng đều trong các năm. Năm 2008 dư nợ trung và dài hạn tăng 15,4% so với năm 2007, năm 2009 tăng 14,3% so với năm 2008. 2.3. Các hoạt động khác : Hoạt động dịch vụ, bảo lãnh: Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ trong những năm qua đã có sự phát triển mạnh mẽ các loại hình dịch vụ ngân hàng như: Thanh toán L/C, chi trả kiều hối, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh, đại lý uỷ thác đầu tư…Đáng chú ý là nghiệp vụ thanh toán quốc tế mỗi năm hoạt động thanh toán quốc tế có doanh số từ 45-50 triệu USD, năm cao nhất đạt tới 60 triêu USD. Mua bán ngoại tệ cũng đạt từ 16-20 triệu USD, số dư bảo lãnh các loại từ 25-30 tỷ đồng, năm cao nhất đạt tới 40 tỷ đồng. Các hoạt động chuyển tiền trong nước và nước ngoài của các năm qua cũng tăng rất mạnh với doanh số hàng tỷ VN đồng và hàng triệu USD. Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ đã đưa vào khai thác các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng mới; thực hiện thành công hiện đại hoá ngân hàng, thay đổi phương thức giao dịch. Triển khai dịch vụ thanh toán, rút tiền tự động qua máy ATM, phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và hội nhập khu vực và quốc tế. III. Thực trạng chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ : 1. Chỉ tiêu về tổng quan thực trạng cho vay: Hiện nay, tại Chi nhánh có hai loại đối tượng khách hàng, đó là thành phần KTQD và thành phần KTNQD, và đều tập trung vào hai hình thức cho vay: Cho vay ngắn hạn và cho vay trung- dài hạn. Tuy năm 2008 - 2009 là năm có nhiều biến động, thử thách trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nhưng Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ vẫn giữ được bản lĩnh vững vàng, năng lực quản trị tốt, vượt qua khó khăn thích ứng với thay đổi. Doanh số cho vay vẫn tăng ổn định qua giai đoạn khủng hoảng thể hiện ở bảng số liệu sau: Chỉ tiêu 2007 2008 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Tăng giảm Tỷ lệ % Tăng giảm Số tiền Tăng giảm Tỷ lệ % Tăng giảm 1.Tổng doanh số cho vay 2061 2393 2677 332 16.1 284 11.9 1.1. Cho vay ngắn hạn 871 941 1007 70 8 66 7 1.2 Cho vay trung-dài hạn 1190 1452 1670 262 22 218 15 2. Tổng doanh số thu nợ 1887 2274 2616 387 20.5 342 15 2.1 Thu nợ ngắn hạn 832 907 969 75 9 62 6.8 2.2 Thu nợ trung-dài hạn 1055 1367 1647 312 29.6 280 20.5 3. Tổng dư nợ 1656 1775 1869 119 7.2 94 5.3 3.1 Dư nợ ngắn hạn 777 811 838 34 4.4 27 3.3 3.2 Dư nợ trung- dài hạn 879 964 1031 85 9.7 67 7 Tổng doanh số cho vay đến ngày 31/12/2008 là 2393 tỷ đồng, tăng 332 tỷ đồng so với năm 2007, tỷ lệ tăng 16,1%: cho vay ngắn hạn năm 2008 tăng 8% so với năm 2007, cho vay trung- dài hạn năm 2008 tăng 22% so với năm 2007. Doanh số thu nợ năm 2008 tăng so với năm 2007 là 387 tỷ đồng, đạt tỷ lệ tăng trưởng 20,5%: doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2008 so với năm 2007 tăng 9%, doanh số thu nợ trung- dài hạn tăng 312 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 29,6 %. Tổng dư nợ đến ngày 31/12/2008 là 1.775 tỷ đồng, tăng so với năm 2007 là 119 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 7,2%, dư nợ ngắn hạn tăng 4,4 %, dư nợ trung – dài hạn cũng tăng so với năm 2007 là 9,7%. Tổng doanh số cho vay năm 2009 là 2677 tỷ đồng, tăng 284 tỷ đồng so với năm 2008, tương đương tỷ lệ tăng là 11,9%, cho vay ngắn hạn năm 2009 tăng 66 tỷ đồng (tăng 7%) so với năm 2008, cho vay trung- dài hạn năm 2009 tăng 15% so với năm 2008. Doanh số thu nợ năm 2009 tăng so với năm 2008 là 342 tỷ đồng, đạt tỷ lệ tăng trưởng 15%, doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2009 so với năm 2008 tăng 62 tỷ đồng (tăng 6,2%), doanh số thu nợ trung- dài hạn tăng 280 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 20,5 %, tổng dư nợ năm 2009 là 1869 tỷ đồng, tăng so với năm 2008 là 84 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 5,3%, dư nợ ngắn hạn tăng 3,3%, dư nợ trung - dài hạn tăng 7% so với năm 2008 Nguyên nhân của những chỉ số trên là do ngân hàng vẫn tập trung vào tín dụng trung dài hạn vốn là thế mạnh của mình . Hầu hết các doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn là các doanh nghiệp quốc doanh cần nhiều vốn để thực hiện các dự án mang tính lâu dài như : dự án phát triển dịch vụ Mobile banking của tập đoàn Viettel; dự án đóng tàu xuất khẩu 3.300 tấn của công ty Hồng Hà; dự án Thăm dò và khai thác dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam... Dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là chính sách về lãi suất thay đổi liên tục, nhưng được sự hỗ trợ về lãi suất của nhà nước về nguồn vốn vay dài hạn, đặc biệt là Quyết định 443/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành và có hiệu lực ngay ngày 4/4/2009, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới phát triển sản xuất-kinh doanh, kết cầu hạ tầng. Bên cạnh những vấn đề trên, có thể thấy cơ cấu nguồn vốn cho vay ngắn hạn của Ngân hàng còn hạn chế, đây là khoản cho vay khá quan trọng, thu hồi vốn nhanh và bớt rủi ro hơn nhưng vẫn chưa được Ngân hàng quan tâm đúng mức. 2. Doanh số cho vay- thu nợ - dư nợ trung- dài hạn phân theo các thành phần kinh tế Bảng 4: Doanh số cho vay- thu nợ - dư nợ trung- dài hạn phân theo các thành phần kinh tế. Chỉ tiêu 2007 2008 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Tăng giảm Tỷ lệ % Tăng giảm Số tiền Tăng giảm Tỷ lệ % Tăng giảm 1. Doanh số cho vay 1490 1752 1998 262 17.6 246 14 1.1  KTQD 1006 1157 1295 151 15 138 11.9 1.2  KTNQD 484 595 703 111 22.9 108 18.2 2. Doanh số thu nợ 1355 1667 1954 312 23 287 17.2 2.1 KTQD 934 1161 1359 227 24.3 198 17.1 2.2 KTNQD 421 506 595 85 20.2 89 17.6 3. Dư nợ 1179 1264 1336 85 7.2 72 5.7 3.1 KTQD 775 783 789 8 1 6 0.8 3.2 KTNQD 404 481 547 77 19.1 66 13.7 ( Nguồn :Báo cáo kết quả cho vay- thu nợ-dư nợ trung dài hạn 2007 - 2008 - 2009) Doanh số cho vay của thành phần KTQD luôn chiến tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay và tỷ lệ tăng trong năm 2008 và 2009 lần lượt là 15% và 11,9%. Đối với doanh số cho vay của các thành phần KTNQD tuy còn thấp song nó cũng tăng trưởng rất nhanh. Năm 2008 doanh số cho vay thành phần KTNQD là 595 tỷ, tăng so với năm 2007 là 111tỷ, tỷ lệ tăng là 22,9%, đến năm 2009 : doanh số cho vay thành phần KTNQD là 703 tỷ (tương ứng với tỷ lệ tăng là 18,2%). Doanh số thu nợ năm 2008 tăng so với năm 2007 là 23% . Trong đó thu nợ của các thành phần KTQD tăng 24,3% và thu nợ của thành phần KTNQD tăng 20,2% so với năm 2007. Sang đến năm 2009, doanh số thu nợ đạt 1954 tỷ đồng, tăng 287 tỷ (17,2%) so với năm 2009, trong đó thành phần KTQD tăng 198 tỷ (17,1%), thành phần KTNQD tăng 89 tỷ (17,6%). Về dư nợ, cơ cấu dư nợ của KTNQD thấp hơn so với cơ cấu dư nợ của KTQD nhưng mức tăng trưởng tương đối lớn. Năm 2008 dư nợ KTNQD tăng so với năm 2007 là 19,1% trong khi dư nợ của KTQD chỉ tăng có 1%. Năm 2009 dư nợ của cả 2 thành phần này cũng có sự tăng chênh lệch nhau khá lớn, dư nợ KTQD tăng 6 tỷ (0,8%) trong khi KTNQD tăng 66 tỷ (13,7%) Khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các đơn vị kinh tế quốc doanh với số lượng ngày càng tăng, trong đó có một số lượng lớn khách hàng truyền thống uy tín như: Tập đoàn Dầu Khí, Tổng công ty Viễn thông Toàn Cầu, Công ty Viễn thông Viettel…. Nguyên nhân sự vượt trội của các khách hàng là DNQD có thể nêu ở một vài điểm sau: Thứ nhất, do truyền thống của NHTMCP Quân Đội nói chung và của Chi nhánh nói riêng có những lợi thế về nguồn vốn, kinh nghiệm, khách hàng, ưu đãi của Chính phủ ... về các khoản cho vay trung và dài hạn với DNQD nên Chi nhánh không ngừng phát huy những lợi thế này, tăng cường mối quan hệ tín dụng với những khách hàng uy tín và mở rộng thêm nhiều khách hàng mới. Chi nhánh đã có những chính sách ưu đãi với các DNQD về lãi suất, thời gian trả nợ, thế chấp ... Thứ hai, các DNQD có quan hệ với Ngân hàng ngày càng phát triển do được mở rộng quyền và thích nghi với nền kinh tế mới. Các DNQD lớn thường nhận được nguồn vốn ưu đãi từ nước ngoài, có điều kiện cải tiến công nghệ, tạo nên ưu thế trong cạnh tranh. Do đó có nhu cầu và điều kiện vay vốn ngân hàng. Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường có nhiều biến động làm cho hoạt động của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Các DNNQD là thành phần kinh tế nhạy cảm với những biến động của thị trường, chỉ hoạt động với quy mô nhỏ nên chưa có nhiều doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay vốn đầu tư dài hạn mở rộng sản xuất. Thứ tư, nhà nước có một số chính sách ưu đãi với thành phần kinh tế QD, do đó các DNQD ưu thế hơn trong vay vốn . Như vậy, cũng trong tình hình chung của các Ngân hàng Thương mại, cơ cấu cho vay trung và dài hạn của NHTMCP Quân Đội chi nhánh Điện Biên Phủ lệch hẳn về các doanh nghiệp quốc doanh. Ngân hàng phát huy lợi thế của mình, có chính sách cho vay ưu đãi, chính sách khách hàng phù hợp nên đã tăng cường được mối quan hệ tín dụng tốt đẹp với các DNQD. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng không quá xem nhẹ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vẫn coi đó là thị trường tiềm năng có điều kiện mở rộng nghiệp vụ cho vay của NH. 3. Tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn và nợ quá hạn Bảng 5: Tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn năm 2007 - 2008 - 2009 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2007 2008 2009 Tổng dư nợ Tỷ đồng 1656 1875 2145 Dư nợ trung- dài hạn Tỷ đồng 879 1014 1159 Tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn/ Tổng dư nợ % 53.1 54.1 54 Bảng 6: Cơ cấu dư nợ cho vay trung- dài hạn Đơn vị tính: tỷ đồng VN Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số tiền T.T % Số tiền T.T % Số tiền T.T % Tổng dư nợ trung- dài hạn 879 100 1014 100 1159 100 Nợ trong hạn 842.04 95.8 980.3 96.7 1118.3 96.5 Nợ quá hạn 36,96 4.2 33.68 3.3 40.68 3.5 Qua bảng 5 ta thấy, dư nợ cho vay trung- dài hạn của Chi nhánh năm 2008 chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng dư nợ(54,1%) và tăng một cách đáng kể. Năm 2007 dư nợ trung- dài hạn là 879 tỷ đồng, đến năm 2008 tăng lên 1014 tỷ đồng, đến năm 2009 tăng lên 1159 tỷ đồng. Các số liệu chỉ rõ cho ta thấy, tốc độ tăng trưởng tính dụng cao và có nhiều tiềm năng, chất lượng hoạt động tín dụng được nâng cao, ngân hàng có đủ khả năng mở rộng hoạt động cho vay. Khi xem xét chất lượng tín dụng trung – dài hạn chúng ta cần phải xem xét đến tình trạng nợ quá hạn để đánh giá chính xác năng lực của Ngân hàng Tại bảng 6, ta thấy dư nợ trung-dài hạn năm 2007 là 879 tỷ đồng đến năm 2008 số dư nợ này đã tăng lên 1014 tỷ đồng , và đến năm 2009 là 1159 tỷ đồng. Trong đó nợ trong hạn chiếm tỷ trọng tới 95,8% (2007), năm 2008 và 2009 đều chiếm tỷ trọng lần lượt là : 96,7% và 96,5%. Điều đáng nói là nợ quá hạn chiếm tỷ trọng nhỏ (4,2% năm 2007, 3,3 năm 2008, và 3,5 năm 2009), có xu hướng giảm từ 2007 đến năm 2008 và tăng nhẹ ở năm 2009. Khả năng kiểm soát các khoản nợ quá hạn của chi nhánh rất khả quan, nếu đánh giá chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dung trung dài hạn nói riêng thì chất lượng tín dụng ở chi nhánh đạt kết quả rất tốt. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trung dài hạn của chi nhánh như ta vừa đánh giá là cao và có nhiều tiềm năng thì kết hợp với chỉ tiêu nợ quá hạn ta thấy chi nhánh đang thực hiện đúng quan điểm về chất lượng tín dụng đó là tăng trưởng về quy mô đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tin dụng. Để thực hiện được điều này chi nhánh không ngừng cải tiến quy trình tín dụng, tăng cường giám sát khoản vay, có biện pháp xử lý kịp thời các khoản vay có dấu hiệu không bình thường, tăng cường công tác thẩm định dự án, chất lượng cán bộ tín dụng cũng không ngừng được nâng cao, chi nhánh cần tiếp tục phát huy thế mạnh này. Trong điều kiện trên địa bàn có rất nhiều NHTM hoạt động, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không thể tránh khỏi, để thu hút khách hàng thì chất lượng tín dụng phải được đặt lên hàng đầu. 4. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng. Bảng 7: Vòng quay vốn tín dụng trung- dài hạn Chỉ tiêu Đ/v tính Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Doanh số thu nợ trung-dài hạn Tỷ đồng 1055 1367 1647 Dư nợ trung-dài hạn bình quân Tỷ đồng 912 1035 1119 Vòng quay vốn TD trung-dài hạn Vòng 1.16 1.32 1.47 Doanh số thu nợ tăng khá ổn định ( từ 1055 tỷ đồng năm 2007 tăng lên 1367 tỷ đồng năm 2008, lên đến 1119 tỷ đồng năm 2009) và dư nợ bình quân cũng tăng( từ 912 tỷ đồng lên 1035 tỷ đồng, đến năm 2009 là 1119 tỷ đồng) làm cho vòng quay vốn tín dụng cũng tăng lên. Năm 2007 vòng quay vốn tín dụng là 1.16 đến năm 2008 tăng lên 1.32 và 2009 là 1,47. Ta thấy rằng vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng có xu hướng ngày càng tăng. Đây là một dấu hiệu tốt, nó chứng tỏ khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn trong việc đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp của ngân hàng ngày càng được cải thiện và tốt hơn, mặt khác nó thể hiện khách hàng đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn vay của mình hay nói cách khác là nhờ có năng lực, kinh nghiệm quản lý tốt của khách hàng cho những đồng vốn ngân hàng bỏ ra nên việc thu hồi nợ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn . 5. Nhóm chỉ tiêu định tính. - Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ trong những năm qua đã đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. - Thủ tục cho vay đơn giản, thuận tiện, lãi suất thì hợp lý, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng nên đã thu hút được một lượng khách hàng lớn. - Các dự án cho vay vốn sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. - Ngoài ra còn góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. IV. Đánh giá hoạt động tín dụng trung- dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ: 1. Những kết quả đạt được: Trong những năm qua hoạt động tín dụng trung- dài hạn luôn được Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ quan tâm và xác định đây là hoạt động mang tính chiến lược. Với sự chỉ đạo, quan tâm sát sao của ban lãnh đạo, hoạt động tín dụng trung- dài hạn 2007 - 2008 - 2009 đạt được những kết quả sau: - Dư nợ tín dụng trung- dài hạn liên tục tăng cao - Doanh số cho vay, thu nợ tín dụng trung-dài hạn cũng tăng. - NQH trung-dài hạn giảm, chất lượng tín dụng trung- dài hạn được nâng lên. - Vòng quay vốn trung- dài hạn được đẩy nhanh hơn.. Chất lượng tín dụng trung- dài hạn ngày càng được nâng cao, do Chi nhánh thường xuyên chú trọng kiểm tra, kiểm soát công tác tín dụng trung- dài hạn với những biện pháp như: Rà soát, chấn chỉnh hồ sơ tín dụng trung- dài hạn. Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ quy định phải kiểm tra chặt chẽ quá trình phát triển vay và sử dụng vốn vay. Việc quy định phát triển vay chặt chẽ và thực hiện đầy đủ các quy định này là biện pháp khắc phục những sơ hở yếu kém ở những khâu trước. 2. Những tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cho vay trung- dài hạn của Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ còn một số tồn tại sau: - Chính sách tín dụng còn nhiều điểm chưa phù hợp. Tuy chính sách tín dụng của ngân hàng đã có những mềm dẻo và thay đổi hợp lý với cơ chế thị trường, tuy nhiên cũng còn nhiều điểm chưa phù hợp. Tính chủ động và phán quyết của chi nhánh còn bị hạn chế. Đôi lúc cơ chế tín dụng giữa NHTMCP Quân Đội và chi nhánh quá chặt chẽ, ít linh hoạt làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. - Chiến lược đa dạng hoá đối tượng cho vay trung dài hạn của Ngân hàng chưa thực sự hoàn thiện. Chiến lược đa dạng hoá đối tượng cho vay trung dài hạn của chi nhánh đã được mở rông, đã đạt một số kết quả đáng khích lệ song trên thực tế ngân hàng vẫn có sự ưu tiên đối với các doanh nghiệp quốc doanh, chưa thực sự quan tâm nhiều đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. - Trình độ chuyên môn của cán bộ chưa đồng đều còn nhiều bất cập trong công tác thẩm định các dự án trung dài hạn ngân hàng đã thực hiện rất tốt tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu đầu tư đầu tư cho rất nhiều dự án. Vì thế các cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để thẩm địnhcác dự án lớn với dây truyền công nghệ phức tạp là rất cần thiết. Cán bộ tín dụng còn chuyên trách kiêm nhiệm nhiều khâu trong quá trình thẩm định, họ vừa phải sàng lọc, vừa thẩm định tính khả thi của dự án, vừa giám sát khiến công việc trở nên quá căng thẳng đối với họ đội ngũ cán bộ của chi nhánh có trình độ nhưng chưa thực sự đồng đều chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay, nên có nhiều khó khăn trong thực hiện công việc. Do đó ngân hàng nhiều khi không chớp được thời cơ kinh doanh cũng có khi có những quyết định đầu tư không hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chi nhánh. - Hoạt động Marketing-ngân hàng chưa thực sự được chi nhánh quan tâm. Hoạt động marketing-ngân hàng đã được chi nhánh thực hiện nhưng kết quả chưa đạt được như mong muốn. Để đạt được kết quả kinh doanh tốt trong năm 2010 và giai đoạn tiếp theo chi nhánh cần chủ động trong việc tiếp thị, khai thác tìm kiếm khách hàng, còn thiếu các biện pháp để tổ chức thực hiện các mục tiêu chiến lược khách hàng. Việc tổ chức một trương trình quảng cáo, tuyên truyền rộng rãi đến công chúng trên địa bàn về hoạt động của chi nhánh. Những sản phẩm của ngân hàng chỉ đơn thuần phục vụ nhu cầu của khách hàng mà chưa có những khuyến mãi và tiện ích đi kèm khi khách hàng tham gia giao dịch. Điều này gây khó khăn cho chi nhánh trong việc cạnh tranh với các NHTM khác. - NHTMCP Quân Đội chi nhánh Điện Biên Phủ chưa thực sự chủ động trong quá trình cho vay trung dài hạn đối với các dự án có quy mô vốn lớn. - Cơ sở hạ tầng của ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Trong giai đoạn hiện nay các NHTM đều đang trong quá trình hiện đại hoá, NHTMCP Quân Đội chi nhánh Điện Biên Phủ cũng hoà nhịp theo xu thế đó và đã có những cố gắng đáng kể. Tuy nhiên trên thực tế qua một thời gian thực tập tại ngân hàng em thấy cơ sở vật chất của ngân hàng, quy mô chưa thực sự xứng đáng với tầm vóc, uy tín và khả năng mở rộng hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ là một chủ thể kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường, do đó sự hạn chế về chất lượng tín dụng trung- dài hạn của Chi nhánh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. * Về phía doanh nghiệp Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng còn lúng túng trong lựa chọn hướng đầu tư, dự án thiếu tính khả thi và không đủ điều kiện về mức vốn tự có tham gia. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ lại không hội đủ các điều kiện vay vốn. - Không có các dự án khả thi: Để sản xuất kinh doanh hiệu quả, ngân hàng phải lựa chọn dự án có tính khả thi cao để đẩu tư. Một dự án có tính khả thi phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, phân tích đánh giá tình hình một cách chính xác, vì vậy dự án phải được nghiên cứu tỉ mỉ, phải do người có đầy đủ chuyên môn, kinh nghiệm, trách nhiệm xây dựng và thẩm định. Trong thực tế hầu hết các doanh nghiệp không thể tự xây dựng dự án đầu tư trung và dài hạn có những doanh nghiệp có ý tưởng đầu tư kế hoạch làm ăn lớn nhưng không lập được kế hoạch dướ dạng bảng, biểu theo yêu cầu của ngân hàng. Cán bộ tín dụng nhiều khi phải giúp đỡ người vay tính toán và lập phương án trả nợ, giúp doanh nghiệp lập kế hoạch lưu chuyển vốn trong năm để biết lượng tiền chu chuyển từ nguồn nào, chi vào mục đích gì, cân đối thu chi để ngân hàng có cơ sở ấn định thời gian, số tiền giải ngân, thời hạn cho vay, số tiền thu nợ để toạ điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngân hàng thu được nợ. - Không đủ vốn tự có tham gia dự án: Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để đầu tư cho các dự án lớn tuy nhiên vốn tự có của các doanh nghiệp tham gia vào dự án là rất nhỏ. Do vậy ngân hàng không dám cho các doanh nghiệp này vay. - Không đủ tài sản thế chấp hợp pháp: Điều kiện doanh nghiệp phải có đủ tài sản thế chấp hợp pháp là biện pháp bảo đảm vốn vay, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hoạt động không hiệu quả. - Năng lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, có doanh nghiệp sau khi được ngân hàng tư vấn giúp đỡ vay trung dài hạn vẫn hết sức lúng túng trong việc điều hành dự án dẫn đến hiệu quả dự án giảm sút thậm chí không có hiệu quả * Về phía cán bộ ngân hàng: Trình độ của cán bộ tín dụng cho vay trung và dài hạn còn có những hạn chế nên việc cho vay trung và dài hạn chưa khai thác hết những tiềm năng có trên địa bàn. Trong việc cho vay trung và dài hạn sự yếu kém của các cán bộ tín dụng thể hiện ở những mặt sau: - Trình độ thu thập và phân tích thông tin còn mang tính một chiều nên chưa kịp thơi và độ chính sác chưa cao. Việc thu thập, khai thác sử lý thông tin còn nhiều hạn chế. Có thể nói 80% nguyên nhân của các khoản nợ xấu là do ngân hàng không đủ khả năng thu thập và phân tích thông tin cũng như giám sát hoạt động của người đi vay sau khi đi vay. - Việc phân tích tính khả thi của dự án chủ yếu dựa vào kết quả phân tích đánh giá trên phương diện kinh tế tài chính của dự án nhưng nguồn số liệu, cơ sở để phân tích chủ yếu được lấy từ các báo cáo của đơn vị gửi tới với độ tin cậy không cao, chưa được cơ quan kiểm toán xác nhận . Ngân hàng chưa đẩy mạnh công tác Maketing. Các thông tin về thị trường và khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Ngân hàng chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng quen mà quên rằng nếu họ luôn được các ngân hàng khác chào mời thì ngân hàng có thể mất khách. Chính vì vậy ngân hàng phải thường xuyên có chính sách khuyến khích khách hàng. - Công tác xây dựng chiến lược cho vay trung dài hạn chưa được quan tâm đúng mức. Ngân hàng chưa có chiến lược phù hợp mở rộng cho vay trung dài hạn. Công việc cho vay còn bị động, phụ thuộc vào khách hàng. Ngân hàng chỉ thẩm định những dự án do khách hàng đưa đến để xin vay mà chưa chủ động tham mưu với khách để tạo ra những dự án khả thi để mở rộng cho vay. * Nguyên nhân khách quan: - Do tác động của môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng còn chưa đầy đủ. Các cơ quan chịu trách nhiệm về công tác chứng từ sở hữu tài sản và quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản chưa thực hiện kịp thời cấp giấy tờ sở hữu cho các chủ sở hữu làm cho việc thế chấp và tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng khó khăn phức tạp, nhiều khi ách tắc. - Việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh nghiệp chưa nghiêm túc. Đa số các số liệu kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là khối kinh tế ngoài quốc doanh. - Do nền kinh tế trong nước chưa ổn định, nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được thị trường nên không có dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đầu tư hàng triệu USD để nhập dây truyền sản xuất hiện đại công trình chưa kịp thu hồi vốn thì trên thị trường đã tràn đầy những sản phẩm ngoại nhập chất lượng cao dẫn đến việc thị trường bị bão hoà loại sản phẩm đó, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và không trả được nợ cho ngân hàng. - Do có sự cạnh tranh về lãi suất giữa các ngân hàng nên lãi suất cho vay giảm. Đây là một yếu tố ảnh hưởng đến việc giảm lợi nhuận cho vay của ngân hàng. Do có sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng nên ngân hàng không hoàn toàn chủ động kinh doanh thu lợi nhuận mà còn bị chi phối bởi những quyết định của Chính phủ. Đối với hình thức cho vay ưu đãi các dự án trung và dài hạn của các doanh nghiệp Nhà nước, sự can thiệp của Chính phủ càng rõ rệt, ngân hàng buộc phải thực hiện theo quyết định hay hướng dẫn của Chính phủ. Ngân hàng không có quyền quyết định việc cho ai vay, cho vay bao nhiêu và lãi suất cho vay như thế nào. nói một cách khác trong việc cho vay trung và dài hạn đối với các khoản vay ưu đãi, ngân hàng chỉ là người giữ tiền hay là người quản lý tiền cho Chính phủ, có lỗ thì cũng do ngân sách Nhà nước bù đắp. Những dự án này lại thường là những dự án lớn, góp phần quan trọng vào việc tăng doanh số cho vay của ngân hàng song nó lại không thực sự là một khoản vay của ngân hàng. - Các quy định có tính pháp quy của Nhà nước liên quan đến tín dụng trung và dài hạn còn thiếu và không đồng bộ gây kho khăn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Chương IV: giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ I. Các định hướng chung: 1. Định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: - Chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá phù hợp diễn biến thị trường, nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ở mức hợp lý phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội (lạm phát dưới 7%), ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế trên 6,5% - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trọng tâm là hoàn thiện các dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng để trình Quốc hội thông qua tại phiên họp lần thứ VII; đồng thời, nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa và xây dựng hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, phù hợp với các cam kết hội nhập và mở cửa thị trường tài chính, nhất là các quy định về bảo đảm an toàn và quản lý ngoại hối. - Tổ chức triển khai và kiểm tra thực hiện các cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng trên địa bàn các tỉnh, thành phố; đảm bảo tuyệt đối an toàn kho quỹ. Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương và lãnh đạo NHNN về hoạt động ngân hàng trên địa bàn. - Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm toán, thanh tra các mặt hoạt động đối với các tổ chức tín dụng, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và các đơn vị trong toàn Ngành, bảo đảm hoạt động thông suốt, đúng hành lang pháp luật. - Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và hiệu quả. - Tiếp tục tổ chức thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính, văn hoá công sở, đạo đức nghề nghiệp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức viên chức và người lao động trong hoạt động quản lý Nhà nước. Thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng. - Ngân hàng nhà nước cần có chính sách tiền tệ đúng đắn, đáp ứng đầy đủ vốn cho nền kinh tế nhưng vẫn kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn những mặt tồn tại cần khắc phục, Ngân hàng phải rà soát, sửa đổi các quy định quản lý sàn vàng và ngoại hối để làm rõ cơ quan nào quản lý, quản ký như thế nào và phải có trách nhiệm sát sao trong việc quản lý sàn vàng, ngoại hối. - Ngân hàng nhà nước trong năm 2010, cùng với Chính phủ điều hành chính sách theo hướng tăng cường yếu tố ổn định, không để lạm phát vượt 7%; tăng trưởng kinh tế GDP đạt 6,5% . 2. Định hướng của NHTMCP Quân Đội: Năm 2009, kinh tế Việt Nam và thế giới đều gặp nhiều khó khăn. Trước những thách thức đó, MB vẫn đạt được những tăng trưởng đáng kể, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, bao gồm: lợi nhuận trước thuế trên toàn hệ thống đạt hơn 1500 tỷ đồng, tăng 75% so với cùng kỳ năm trước và vượt tới 51% chỉ tiêu kế hoạch đầu năm, tổng tài sản lên đến hơn 69 nghìn tỷ đồng, tăng 56% so với cuối năm 2008. Kết thúc năm 2009, huy động vốn tại MB đạt hơn 59 nghìn tỷ đồng, tăng 53% so với đầu năm, nợ xấu luôn được duy trì ở mức dưới 2%/năm. Ngoài ra, với hệ số thu nhập trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROE) đạt 26,6%, hệ số thu nhập trên tổng tài sản bình quân (ROA) đạt 2,66% và tỉ lệ chia cổ tức đạt 18% bằng tiền mặt và 5% bằng cổ phiếu trong năm 2009, MB đã khẳng định vị thế của một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam. Kết quả trên đã chứng tỏ sự nỗ lực hết mình của tập thể Ban lãnh đạo, CBNV MB hướng tới giữ vững mục tiêu “Vững vàng – Tin cậy” và đảm bảo quyền lợi của các cổ đông, đối tác và khách hàng của MB. Trên cơ sở những kết quả đạt được năm 2009, HĐQT và Ban điều hành MB đã đặt ra năm 2010 là năm: “Tăng trưởng vững chắc, quản lý tốt, hiệu quả cao”. Lấy lợi nhuận và chất lượng hoạt động làm mục tiêu chủ đạo trong quản trị điều hành và chỉ đạo kinh doanh, đảm bảo tốt các chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn, khả năng chi trả, đảm bảo quyền lợi của cổ đông và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán bộ nhân viên. Phấn đấu đạt tăng trưởng bình quân các chỉ tiêu khoảng 30% trở lên. Tại đại hội, các cổ đông cũng đã thảo luận và nhất trí thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 5.300 tỷ đồng lên 7.300 tỷ đồng bằng thông qua hai đợt: đợt 1 là tăng 1400 tỷ thông qua việc chào bán 140 triệu cổ phiếu, trong đó chào bán cho cổ đông hiện hữu với tỉ lệ 53:13 và 5% tổng số cổ phiếu phát hành cho các đối tác chiến lược và CBNV; tăng vốn điều lệ đợt 2 thông qua việc chia cổ phiếu thưởng với tỉ lệ 67:6 từ từ các quỹ đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Đại hội cũng thông qua phương án phát hành 20 triệu trái phiếu chuyển đối (trị giá 2000 tỷ đồng) với thời hạn 5 năm nhưng ủy quyền cho HĐQT quyết định linh hoạt thời gian chuyển đổi; thông qua Quy chế tổ chức hoạt động của Ban kiểm soát và phương trích lập các quỹ và phân phối lợi nhuận Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2010 của MB đã kết thúc trong sự đồng thuận, nhất trí cao của các đại biểu cổ đông. HĐQT, Ban điều hành và toàn thể cán bộ nhân viên của MB sẽ tiếp tục nỗ lực, cố gắng phấn đấu để hoàn thành vượt mức các kế hoạch, nhiệm vụ năm 2010 được Đại hội cổ đông thông qua, tiếp tục đưa MB phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững. Được biết, kết thúc Quý I/2010, MB đã hoàn thành 30% chỉ tiêu lợi nhuận cả năm, đạt 517 tỷ đồng, huy động vốn tăng 12% và dư nợ tăng 9% so với thời điểm cuối năm 2009, nợ xấu tiếp tục giảm và duy trì ở mức dưới 2%. Tính đến thời điểm hiện tại, MB đã nâng tổng số điểm giao dịch lên con số 110 điểm trên toàn quốc. II. Định hướng phát triển của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ. Năm 2010 là năm được đánh giá là thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam vừa phục hồi sau lạm phát và ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Để góp phần thực hiện tốt chiến lược mục tiêu đặt ra của Ngân hàng TMCP Quân Đội. Chi nhánh Điện Biên Phủ cũng đặt ra các định hướng và chỉ tiêu phấn đấu như sau: -Tập trung làm tốt công tác huy động vốn bằng các hình thức huy động và lãi suất thích hợp. - Nâng cao công tác vận động, tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị, đổi mới phong cách làm việc, thái độ giao tiếp và công tác thanh toán kịp thời đối với khách hàng. - Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn. - Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nâng cao chhất lượng tín dụng và hạn chế nợ quá hạn gia tăng. * Một số mục tiêu cụ thể: - Tổng vốn huy động tăng từ 20-25% so với năm 2009. - Tổng dư nợ tăng 15-20% so với năm 2009. - Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% trên tổng dư nợ. - Kết quả tài chính: Đảm bảo kinh doanh có lãi và chênh lệch thu lớn hơn chi( lãi ) tăng 20% so với năm 2009. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ. Nâng cao chất lượng tín dụng là một yếu tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng Thương mại. Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm tăng thu nhập, tối ưu hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro là mục tiêu cho các NHTM kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh tín dụng rất phức tạp, sự vận động của vốn tín dụng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau và gắn liền với sự thăng trầm của nền kinh tế. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường, các NHTM nói chung và NHTMCP Quân Đội nói riêng phải thường xuyên quan tâm đến hoạt động tín dụng, từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng để giảm thấp nợ quá hạn, hạn chế rủi ro tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn trong quá trình kinh doanh. Đối với Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ để nâng cao chất lượng tín dụng cần tiến hành đồng bộ và nhịp nhàng một số giải pháp sau: 1. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng trong hoạt động tín dụng trung- dài hạn. Trong mọi lĩnh vực, con người luôn là yếu tố quyết định đặc biệt nhất là trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng, lĩnh vực chứa đầy rủi ro thì yếu tố con người có thể coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Với mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn đảm bảo an toàn trong kinh doanh, Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ cần tiến hành một số biện pháp như: - Rà soát lại đội ngũ cán bộ tín dụng của Ngân hàng chuyển công việc khác cho cán bộ tín dụng không đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn. Sắp xếp lại cán bộ tín dụng cho phù hợp với khả năng và thực lực của mỗi người. -Thường xuyên hướng dẫn tổ chức tập huấn bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ tín dụng. - Đồng thời cần tuyển dụng và đào tạo một số cán bộ làm công tác thẩm định có trình độ chuyên môn về kỹ thuật như: xây dựng, giao thông, thiết kế. - Cần có các chế độ thưởng phạt nghiêm minh, thích đáng đối với người làm công tác tín dụng. 2. Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoàn thiện quy trình tín dụng trung- dài hạn. Cơ cấu tổ chức và quy trình tín dụng trung- dài hạn của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ còn bộc lộ một số hạn chế, chưa phát huy hết hiệu quả, năng lực, sở trường của cán bộ tín dụng. Mỗi cán bộ tín dụng đều phải đảm nhận hết tất cả các khâu của một quy trình tín dụng. Điều này dẫn đến chất lượng tín dụng trung- dài hạn trong mỗi khâu, mỗi bộ phận đều không được đảm bảo. Để khắc phục nhược điểm này nên tách rời các khâu, các bước của quy trình tín dụng trung- dài hạn giao cho các bộ phận khác nhau đảm nhận với nhiệm vụ yêu cầu cụ thể, là một việc làm hết sức cần thiết. Giải pháp này được thực hiện trên cơ sở chuyên môn hoá từng bộ phận tín dụng trung- dài hạn, cũng như từng cán bộ tín dụng với mục đích đảm bảo chất lượng tín dụng trung- dài hạn cao nhất và hiệu quả tốt nhất. 3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng trung- dài hạn. Nâng cao chất lượng thẩm định đòi hỏi thông tin phải chính xác về khách hàng vay vốn, thông tin về xu hướng phát triển của các ngành kinh tế. Do đó Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ cần xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở dữ liệu chứa đựng những thông tin phong phú liên quan đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung- dài hạn nói riêng. Với hệ thống thông tin tổng hợp đó, việc thẩm định của Ngân hàng sẽ có chất lượng hơn. 4. Đẩy mạnh công tác tự huy động vốn. Trong điều kiện đất nước đang trên đà phát triển, phục hồi kinh tế, các DN cần rất nhiều vốn để đẩy mạnh sản xuất. Chi nhánh cần phải có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu vốn, đặc biệt đối với nguồn vốn trung- dài hạn. Để làm được điều đó Chi nhánh cần hoàn thiện hơn nữa công tác thu hút nguồn vốn không chỉ từ dân cư hay từ các tổ chức kinh tế mà còn từ nhiều nguồn khác. 5. Tăng cường công tác giám sát sử dụng tiền vay trung- dài hạn. Giám sát quy trình sử dụng tiền vay trung- dài hạn của khách hàng là một điều hết sức cần thiết và một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Việc giám sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Trong việc giám sát tiền vay trung- dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ, các cán bộ phải xem xét các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng và các giấy tờ hoá đơn liên quan. Cần kết hợp kiểm tra định kỳ với kiểm tra đột xuất. Ngoài ra các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng. 6. Đa dạng hình thức tín dụng trung - dài hạn. Một trong những nguyên nhân khiến cho hoạt động trung– dài hạn của Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ còn nhỏ so với quy mô là do hình thức tín dụng còn chưa đa dạng. Chi nhánh chỉ chú trọng cho vay với đối tượng chủ yếu là Doanh nghiệp nhà nước và một số tập đoàn kinh tế ngoài quốc doanh, chưa tập trung cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân. Trong thời gian tới Chi nhánh cần phát triển một số hình thức tín dụng trung - dài hạn như : Tăng cường cho vay theo lương để xây dựng nhà ở đối với người có việc làm và thu nhập ổn định. Ngân hàng cũng cần sớm áp dụng hình thức thu mua tài sản cố định… 7. Tăng cường hoạt động marketing Ngân hàng và áp dụng chính sách khách hàng hợp lý. Hiện nay Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ chưa có phòng marketing, gây khó khăn lớn cho hoạt động của Chi nhánh. Khách hàng đến giao dịch chưa nhận được sự phân tích đánh giá một cách khoa học. Vì vậy các nhà quản lý Ngân hàng phải đổi mới tư duy, lấy quan điểm marketing làm chủ đạo, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng phân tích. Cần thành lập phòng marketing trong cơ cấu tổ chức để định hướng cho hoạt động marketing có bài bản với đội ngũ nhân viên nhạy bén và am hiểu. Thông qua việc xây dựng chiến lược khách hàng, Chi nhánh có thể tiến hành quản lý khách hàng sát thực, chính xác hơn. Đồng thời qua đó Chi nhánh cũng nắm rõ dự án, giúp cho hoạt động tín dụng trung – dài hạn hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng hơn nữa. Chương V: Kết luận I. Kết luận chung : Trong thời kỳ nỗ lực vượt qua khủng hoảng, các chính sách tài chính, tài khoá kích cầu, giải cứu nền kinh tế đã được Chính phủ cân nhắc và đưa ra một cách hợp lý, tránh cho nền kinh tế rơi sâu vào suy thoái. Sau khoảng 2/3 chặng đường của năm 2009, các chính sách này đã có những thành công và hiệu quả rõ rệt. Điển hình là việc thông qua gói kích cầu với hình thức bù 4% lãi suất khi các doanh nghiệp (DN) vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Lãi suất cơ bản cũng được điều chỉnh giảm từ 8,5% xuống 7% - bằng một nửa so với mức đỉnh của năm 2008 - và duy trì liên tục tới cuối tháng 11-2009. Tuy nhiên, chính sách kích thích kinh tế cũng tạo ra tác dụng phụ và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Cơ chế hỗ trợ lãi suất tác động còn ảnh hưởng không thuận lợi đến việc ổn định lãi suất và tỷ giá, gây sức ép tăng lãi suất VND, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán (cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 1,9 tỷ USD), dự trữ ngoại hối giảm, thị trường ngoại hối có biểu hiện căng thẳng về cung - cầu, Ngân hàng Nhà nước đã phải can thiệp. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô đã bắt đầu ra khỏi suy thoái và hồi phục trở lại, những dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện, thị trường tiền tệ có những biểu hiện bất ổn với sự căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và diễn biến bất thường của giá vàng, ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã bất ngờ thắt chặt chính sách tiền tệ, đồng thời chính sách vĩ mô cũng có những thay đổi. Vào cuối tháng 11-2009, NHNN nâng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% sau khi đã cam kết ổn định CSTT đến hết năm 2009, đồng thời chấp nhận phá giá VND ở mức thấp. Sự điều chỉnh này thể hiện thay đổi trong chính sách vĩ mô từ hỗ trợ tăng trưởng sang hướng ổn định vĩ mô (kèm theo là hạn chế tín dụng). Mặc dù các chính sách của NHNN có tác động tích cực cho nền kinh tế trong trung và dài hạn nhưng đã khiến cho những mầm mống khó khăn trong thanh khoản của ngân hàng xuất hiện, quan ngại về việc doanh nghiệp khó vay vốn với lãi suất cao. Năm 2010 được dự báo có tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5%, chỉ tiêu lạm phát khoảng 7%, tổng phương tiện thanh toán cũng như tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng 25%, thâm hụt NSNN khoảng 6,2% GDP... Đây là những con số đưa ra rất tích cực nhưng để đạt được các chỉ tiêu này thì các vấn đề lạm phát, tỷ giá, lãi suất, chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá cần được xử lý một cách uyển chuyển, nhịp nhàng và hợp lý. II. Kết luận đối với Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung- dài hạn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của NHTM mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lựơng tín dụng trung- dài hạn là một vấn đề đòi hỏi phải thường xuyên và thực hiện nghiêm túc. Năm 2010 là 1 năm đầy hứa hẹn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng, việc khắc phục những hạn chế còn tồn đọng sẽ giúp nâng cao hơn được vị thế của Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ. Đồng thời giúp chi nhánh có thể đạt được những chỉ tiêu trong định hướng tương lai của chi nhánh trong năm 2010 : tổng vốn huy động tăng từ 20-25% so với năm 2009; tổng dư nợ tăng 15-20% so với năm 2009; tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% trên tổng dư nợ… Qua nghiên cứu về công tác tín dụng trung- dài hạn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ trong giai đoạn 2007 - 2008 - 2009 và để có cơ sở đánh giá đúng hoạt động tín dụng trung- dài hạn, bản chuyên đề này đã nêu tóm tắt khái quát về lý luận có liên quan đến hoạt động tín dụng trung- dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường, đồng thời đánh giá thực trạng tín dụng trung, dài hạn trong các năm qua và rút ra những mặt được, chưa được tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ. Tuy mặt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn không chỉ do chi nhánh mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Xuất phát từ tình hình đó một số giải pháp và đề xuất kiến nghị được nêu ra trong bài hy vọng sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn đối với Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Điện Biên Phủ. Tài liệu tham khảo 1. TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê , 2004 2. Giáo trình Tín dụng ngân hàng- NXB Thống kê 3. PGS. TS Lưu Thị Hương, Tài chính doanh nghiệp, Thẩm định tài chính dự án, NXB Thống Kê. 4. Các văn bản hướng dẫn Luật Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tỏ chức tín dụng. 5. Frederic s.Mishkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2001. 6. TS. Nguyễn Hữu Tài, Lý thuyết tài chính và tiền tệ, NXB thống Kê,2002. 7. Báo cáo thường niên năm 2008 - 2009 của Ngân hàng MB 8. Nghị quyết đại hội cổ đông 2008 - 2009 của Ngân hàng MB 9. www.militarybank.com.vn 10. vietnamnet.vn 11. www.saga.vn 12. google.com.vn nhận xét của đơn vị thực tập ......................., ngày....... tháng....... năm 2010 nhận xét của đơn giảng viên hướng dẫn ......................., ngày....... tháng....... năm 2010 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc164..doc