Đề tài Tình hình đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Hải Dưong

Tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Hải Dưong: LỜI NÓI ĐẦU Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư phát triển quan trọng nhằm tạo ra hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội. Đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế luôn là một nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương. Nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này, trong những năm qua tỉnh Hải Dương đã nỗ lực tập trung mọi nguồn lực cho lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh đã đạt được một số thành tựu quan trọng, tạo ra hạ tầng cơ sở, kỹ thuật vững chắc, tạo ra động lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như đầu tư dàn trải, tình tráng thất thoát lãng phí vốn còn xảy ra nhiều, quy hoạch xâ...

docx92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Hải Dưong, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư phát triển quan trọng nhằm tạo ra hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội. Đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế luôn là một nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương. Nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này, trong những năm qua tỉnh Hải Dương đã nỗ lực tập trung mọi nguồn lực cho lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh đã đạt được một số thành tựu quan trọng, tạo ra hạ tầng cơ sở, kỹ thuật vững chắc, tạo ra động lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như đầu tư dàn trải, tình tráng thất thoát lãng phí vốn còn xảy ra nhiều, quy hoạch xây dựng chưa đồng bộ và phù hợp. Xuất phát từ thực tế đó, em quyết định chọn đề tài: “Tình hình đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Hải Dưong” nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư XDCB trong thời gian tới. Kết cấu đề tài gồm hai phần: Chương I: Thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Hải Dương thời gian qua. Chương II: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trong thời gian tới. Em xin chân thành cám ơn Thạc sĩ Nguyễn Thị Ái Liên và các cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG. I, Những đặc điểm kinh tế xã hội 1. Điều kiện tự nhiên 1.1. Vị trí địa lý Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có địa giới chung với 6 tỉnh là: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh ở phía Bắc; Thái Bình ở phía Nam; Hưng Yên ở phía Tây và Hải Phòng ở phía Đông. Nằm ở trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), có các tuyến đường bộ, đường sắt quan trọng của quốc gia như quốc lộ 5, 18, 183, 37 chạy qua. Hải Dương là điểm trung chuyển giữa Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng theo trục quốc lộ 5; phía Bắc có 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay Nội Bài với cảng Cái Lân (Quảng Ninh). Vì vậy Hải Dương rất thuận lợi trong việc giao lưu, trao đổi thương mại với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và các tỉnh khác cũng như giao lưu với nước ngoài. 1.2. Đặc điểm địa hình Hải Dương được chia ra làm 2 phần rõ rệt : Phần đồi núi thấp chiếm 11% diện tích tự nhiên, thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, độ cao trung bình dưới 1000m. Vùng đồng bằng chiếm 89% diện tích tự nhiên, chủ yếu do quá trình bồi đắp phù sa của sông Thái Bình và sông Hồng. Độ cao trung bình 3 - 4 m, đất đai bằng phẳng, tương đối màu mỡ, thích hợp với việc trồng lúa, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Địa hình nghiêng và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, phía đông có một số vùng trũng xen lẫn vùng đất cao. Khí hậu Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mùa nóng và mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh và khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,3oC. Độ ẩm tương đối trung bình năm dao động từ 84 - 88% tổng số giờ nắng trong năm là 1500 - 1600 giờ, lượng mưa trung bình năm từ 1400 - 1700 mm. 1.3. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên đất: Hải Dương có diện tích tự nhiên 1.662 km2, được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã huyện Kinh Môn, là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Tài nguyên rừng: Hải Dương có hơn 9000 ha rừng, tập trung ở vùng đông bắc tỉnh, thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn. Tuy diện tích rừng không lớn nhưng thành phần loài khá phong phú và đa dạng, nhất là rừng Chí Linh, bao gồm 117 họ; 304 chi và 400 loài thực vật; có gỗ lát hoa, lim xanh, tán một, cây dược liệu, cây cảnh. Rừng Chí Linh còn có một số loài động vật quý hiếm như: gà tiền mặt vàng, sáo mỏ gà, cu li lớn, ếch xanh, tắc kè, kỳ đà hoa, trăn mốc… Tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản của Hải Dương tuy không nhiều chủng loại nhưng một số có trữ lượng lớn, chất lượng tốt đáp ứng cho nhu cầu phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sản xuất VLXD của tỉnh, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho TW và một số tỉnh khá. Đá vôi xi măng ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, chất lượng tốt, CaCO3 đạt 90 - 97% cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sứ. Xi măng sản lượng 4 - 5 triệu tấn. Cao lanh ở Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 40 vạn tấn, cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sứ trong tỉnh và một số tỉnh khác. Sét chịu lửa ở huyện Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt, cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa trong tỉnh và một số tỉnh khác. Bôxít ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn. Tài nguyên nước: Mạng lưới sông ngòi khá dày và trải đều trên phạm vi toàn tỉnh. Các dòng chính thuộc hệ thống sông Thái Bình (vùng hạ lưu) chảy qua địa phận Hải Dương dài 63km và phân thành 3 nhánh: sông Kinh Thầy, sông Gùa và sông Mysa. Các sông này có đặc điểm là lòng sông rộng, độ dốc lòng sông nhỏ, có khả năng bồi đắp phù sa cho các cánh đồng, tưới nước cho cây trồng, là điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hoá bằng đường thuỷ giữa Hải Dương và các tỉnh khác trong vùng đồng bằng sông Hồng. Hải Dương còn có diện tích ao, hồ, đầm khá lớn như hồ Bến Tắm (35ha), hồ Tiên Sơn (50ha), hồ Mật Sơn (30ha), hồ Bình Giang (45ha)… Những hồ, đầm này không chỉ cung cấp nước cho sản xuất và đời sống, là nguồn thuỷ sản lớn của tỉnh mà cảnh quan xung quanh đẹp là những điểm du lịch, vui chơi giải trí nhiều triển vọng. Tài nguyên du lịch: Hải Dương là một trong những cái nôi văn hoá lâu đời của dân tộc Việt Nam, với hàng trăm di tích lịch sử văn hoá. Vùng đất này gần với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân nước Việt như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi với địa danh nổi tiếng Côn Sơn, Kiếp Bạc, cùng với những tên tuổi khác như Mạc Đĩnh Chi, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Tuệ Tĩnh… Vùng đất này còn có nhiều ngôi chùa nổi tiếng với những lễ hội đặc sắc: đền Côn Sơn và lễ hội Côn Sơn, đền Kiếp Bạc và lễ hội Kiếp Bạc, đền Yết Kiêu và lễ hội Yết Kiêu và những danh thắng: Kính Chủ An Phụ, Phượng Hoàng, Bến Bình Than, Bàn Cờ Tiên… Hải Dương cũng chính là mảnh đất đã tạo nên những làng nghề truyền thống với những sản phẩm tinh xảo đã nổi tiếng từ nhiều thế kỷ như chạm khắc đá ở Kính Chủ, làm bánh đậu xanh ở thành phố Hải Dương, sản xuất gốm sứ ở làng Cậy, thêu ở Xuân Ngô, chạm khắc gỗ ở Đông Giao, kim hoàn Châu Khê. Dân số và nguồn lao động: nguồn nhân lực được coi là một lợi thế phát triển quan trọng. Quy mô và tốc độ phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số. Theo số liệu gần đây nhất, dân số Hải Dương năm 2006 là 1697 ngàn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 937 ngàn người, chiếm khoảng 55,21% dân só toàn tỉnh. Số lao động ở khu vực nông thôn là 756 ngàn người chiếm gần 81% và ở thành thị chiếm 19%. Là một tỉnh nông nghiệp với nguồn lao động như trên đang gây sức ép về việc làm và cải thiện đời sống, đồng thời đây cũng là nguồn lao động dồi dào và rẻ để hấp dẫn các nhà đầu tư vào sản xuát kinh doanh. Mặt khác, lao động nông nghiệp chiếm đến 70%, lao động công nghiệp và dịch vụ chiếm 30%, trong số đó đã được đào tạo ngành nghề là 14% khoảng 129 ngàn người. ở nông thôn thời gian nông nhàn còn nhiều mà cơ hội gia tăng việc làm ở khu vực nông nghiệp là không đáng kể, có chăng chỉ là rải rác ở nhưng nơi có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp với tay nghề gia truyền là chính, không qua đào tạo cơ bản. Thực tế Hải Dương có nguồn lao động dồi dào nhưng lao động phổ thông chưa được đào tạo còn khá nhiều và thiếu lao động kỹ thuật đã qua đào tạo, nhất là lao động có kỹ thuật cao. 2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Hải Dương là một tỉnh mới được tái lập và đi vào hoạt động từ năm 1997. Với thời gian ngắn lại phải trải qua nhiều khó khăn thử thách do mới chia tách, nhưng tỉnh đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng uỷ tỉnh về những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, tập trung khắc phục những khó khăn góp phần làm cho tình hình kinh tế - xã hội chuyển biến tiến bộ và đang đi vào ổn định. Nền kinh tế tăng trưởng khá, GDP thời kỳ 1996 - 2001 tăng bình quân 9,2%/năm cao hơn tốc độ tăng trung bình cả nước (8,5% trong cùng thời kỳ); thời kỳ 2001 - 2005 tốc độ tăng bình quân là 10.5 %/năm, vượt mục tiêu đề ra (9-10%/năm), cao hơn bình quân chung của cả nước, năm 2006 tôc độ tăng GDP là 11%. Thu ngân sách nhà nước luôn tăng theo từng năm, đặc biệt năm 2003 là năm có bước đột phá về thu ngân sách 1.135 tỷ đồng đã đưa tỉnh Hải Dương lần đầu tiên đứng vào đội ngũ các tỉnh có thu ngân sách trên 1.000 tỷ đồng; thu ngân sách các năm sau luôn tăng hơn các năm trước. Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng 8157 9789 11563 13665 16380 Nông, lâm , thuỷ sản 2607 2935 3270 3713 4406 Công nghiệp, xây dựng 3229 4063 4903 5916 7158 Dịch vụ 2321 2791 3390 4036 4816 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Từ bảng số liệu trên ta thấy giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh đã có sự thay đổi về thứ tự xếp hạng từ công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ năm 2002 sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp năm 2006. Đây là một sự thay đổi hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước, theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá với sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công nghiệp và sự vươn lên của ngành dịch vụ khẳng định giá trị của mình trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh. Trong đó ngành công nghiệp có sự tăng trưởng mạnh nhất, giá trị công nghiệp năm 2006 tăng 122% so với năm 2002, tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ là 107,5%, ngành nông nghiệp có tốc độ tăng thấp nhất chỉ là 69%. Nếu so với năm 2005 thì công nghiệp tăng 21%, dịch vụ tăng 19,32%, còn nông nghiệp chỉ tăng 18,66%. Những kết quả đó đã chứng minh cho nhận định ban đầu, hoàn toàn phù hợp vói xu thế phát triển kinh tế xã hội. Biểu đồ 1 : Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế (Giá thực tế) (%) Năm 2001 Năm 2006 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Qua mô hình trên ta thấy cơ cấu kinh tế của tỉnh Hải Dương phát triển theo hướng tích cực, tỷ trọng nông lâm thuỷ sản – công nghiệp + xây dựng - dịch vụ từ 33%-38%-29% năm 2001 sang 27%-43%-30% năm 2006, đặc biệt là ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong đóng góp cho GDP xứng đáng với vai trò đầu tầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Tỷ trọng của nông nghiệp và dịch vụ trong GDP thì có sự hoán đổi vị trí cho nhau, trong đó giảm đáng kể là ngành nông nghiệp từ chỗ đóng góp 33% GDP năm 2001 đến 2006 chỉ còn 27%, điều này là phù hợp với xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tuy nhiên về tỷ trọng tuyệt đối so với các năm trước thì ngành nông nghiệp lại tăng (xem bảng 1.1) vì trong nông nghiệp đã tăng cường cơ giới hóa trong các khâu sản xuất dẫn đến làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi. Ngành dịch vụ tăng không đáng kể từ 29% lên 30%, chứng tỏ đầu tư cho các ngành dịch vụ còn chưa mạnh; tuy nhiên đây cũng là một chỉ tiêu đáng kể. 3, Thực trạng huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển Những năm gần đây, vận dụng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tỉnh Hải dưong ban hành nhiều cơ chế chính sách thông thoáng và cởi mở nhằm thu hút vốn đầu tư cho phát triển. Đặc biệt 3 năm gần đây công tác thu hút vốn đầu tư đã đạt được những kết quả rất khả quan, cụ thể như sau: 3.1, Vốn đầu tư đăng ký: Trong 5 năm ( 2001-2005), tổng vốn đầu tư đăng ký 30.178 tỷ đồng (mục tiêu 14.480 tỷ đồng), đạt 208,4% mục tiêu. Trong đó + Tổng nguồn vốn trong nước 25.662 tỷ đồng chiếm 85% tổng vốn đầu tư, tăng 185,6% so với mục tiêu (11.130 tỷ đồng) + Vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA, NGOs) 4.516 tỷ đồng, chiếm 15% tổng vốn đầu tư thu hút, tăng 51,2% so với mục tiêu (3.350 tỷ đồng). 3.2, Vốn đầu tư thực hiện: Tổng vốn đầu tư từ các nguồn được thực hiện 21.121 tỷ đồng đạt 145,6 % mục tiêu. Trong đó: * Tổng nguồn vốn trong nước là 17.811 tỷ đồng, chiếm 84,3% tổng vốn đầu tư, đạt 163,2 % so với mục tiêu chương trình, bao gồm - Vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương 2.597,5 tỷ đồng chiếm 13,1% tổng vốn đầu tư - Vốn ngân sách địa phương là 2006, 6 tỷ đồng chiếm 8,8% tổng vốn đầu tư - Vốn tín dụng đầu tư phát triển 8.905 tỷ đồng, chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư - Vốn dân doanh 3.625 tỷ đồng, chiếm 17,2 % tổng vốn đầu tư * Vốn nước ngoài (FDI, ODA, NGOs) 3.310,5 tỷ đồng, chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư. Bảng 1.2: Đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương Đ/v: tỷ đồng Chỉ tiêu Thời kỳ 2001 - 2005 Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 2006 Tổng đầu tư toàn xã hội 3211 3546 4082 4890 5391 21121 5675 1. Vốn đầu tư NSNN 499 585 912 1052 1310 4538 1320 Tỷ lệ % so với tổng VĐT 15.5 16.5 22.3 21.5 24.3 20.6 23.3 2. Vốn tín dụng ĐTPTNN 2177 2059 1310 1433 1926 8905 2010 Tỷ lệ % so với tổng VĐT 67.8 58.1 32.1 29.3 35.7 42.2 35.4 3. Vốn đầu tư DNNN 92 130 190 205 305 922 355 Tỷ lệ % so với tổng VĐT 2.9 3.7 4.7 4.2 5.7 4.4 6.3 4. Dân cư và DN ngoài QD 325 400 800 850 1250 3625 1280 Tỷ lệ % so với tổng VĐT 10.1 11.3 19.6 17.4 23.2 17.2 22.6 5. Đầu tư trực tiếp NN 118.5 372 870 1350 600 3310.5 710 Tỷ lệ % so với tổng VĐT 3.7 10.5 21.3 27.6 11.1 15.7 12.5 Nguồn: “ Số liệu Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương ” Tổng đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương ngày càng tăng qua các năm, từ 3211 tỷ năm 2001 đến năm 2006 là 5675 tỷ, điều đó thể hiện sự tăng trưởng của nền kinh tế Hải Dương là rất khả quan ; trong bảng trên thì nguồn vốn tín dụng ĐTPTNN chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể từ 67.8% tổng đầu tư năm 2001 đến năm 2006 chỉ còn chiếm 35.4%; nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hàng năm vẫn chiếm một tỷ lệ quan trọng trung bình khoảng 20% và vẫn là một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế của tỉnh. Trong khi đó nguồn vốn của khu vực dân cư và ngoài quốc doanh cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng thể hiện đúng phương châm phát triển của kinh tế hiện nay đó là tăng cường thu hút nguồn lực bên ngoài đồng thời phát huy mạnh mẽ nguồn nội lực bên trong đặc biệt là nguồn vốn trong dân; điều này càng chứng tỏ môi trường đầu tư của tỉnh ngày càng được cải thiện và tạo được lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài; và nguồn nội lực trong dân là rất lớn cần phải có các chính sách tích cực để thu hút nguồn lực này cho phát triển kinh tế trong thời gian tới. Tuy nhiên nguồn vốn đầu tư từ khối doanh nghiệp nhà nước lại chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn dưới 6%, điều này chứng tỏ các DNNN làm ăn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến tỷ lệ đầu tư cho các năm sau thấp. II, Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1, Tình hình thu hút vốn đầu tư xây dựng cơ bản Trong những năm qua tỉnh đã tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có 2 lĩnh vực được đặc biệt quan tâm là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư phát triển sản xuất. Vốn đầu tư cho phát triển sản xuất là 11.672 tỷ đồng bằng 112% mục tiêu và chiếm 51,7% tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng là 10.943 tỷ đồng, bằng 183,9% mục tiêu và chiếm 48,3% tổng vốn đầu tư, trong đó vốn ngân sách trung ương 2.457,6 tỷ đồng ( chiếm 22,5%), vốn ngân sách địa phương 1,991,6 tỷ đồng ( chiếm 18,2%), vốn tài trợ 375,7 tỷ đồng (chiếm 3,4%), vốn tín dụng 3.149,3 tỷ đồng (chiếm 28,8%), vốn dân doanh 2.969,2 tỷ đồng (chiếm 27,1%). Hầu hết các lĩnh vực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có vốn đầu tư vượt so với mục tiêu đề ra. Một số lĩnh vực có vốn đầu tư lớn như: nông-lâm- thuỷ sản 950,6 tỷ đồng (chiếm 8,7%), giao thông 2584,1 tỷ đồng (chiếm 23,6%), điện 625 tỷ đồng( chiếm 5,7%), cấp thoát nước 1.117,8 tỷ đồng (chiếm 10,2%), hạ tầng công nghiệp 851,7 tỷ đồng (chiếm 7,8%). Một số lĩnh vực được quan tâm đầu tư là: chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ giới hoá nông nghiệp, phát triển đô thị và nhà ở, an ninh quốc phòng với tổng vốn đầu tư 1.933,0 tỷ đồng (chiếm 17,7%) tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, một số lĩnh vực không đạt mục tiêu về mặt khối lượng như: tu bổ đê điều, làm đường giao thông (đường tỉnh, đường huyện). Vốn đầu tư cho một số lĩnh vực đạt thấp như: điện (bằng 87% mục tiêu đề ra), văn hoá-xã hội, thể dục thể thao (bằng 55% mục tiêu đề ra), khoa học công nghệ và vệ sinh môi trường (bằng 48% mục tiêu đề ra)… Bảng 1.3: Vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản trong tổng vốn đầu tư phát triển và tổng chi ngân sách. Đơn vị: tỷ đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Chi ngân sách 1.093 1.485 2.256,3 2.237 2.552 Tỷ lệ % 100 100 100 100 100 Chi ĐTPT 224,4 294 584,7 1.047,99 1.267,5 Tỷ lệ % 20,53 19,79 25,9 46,84 49,66 Chi XDCB 198,7 292 532 646 953,6 Tỷ lệ % 18,17 19,66 23,57 28,87 37,37 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Những năm qua vốn đầu tư chi cho đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách của tỉnh Hải Dương tăng lên nhanh chóng, từ chỗ chỉ đạt 224 tỷ đồng năm 2002 (chiếm 20,53% tổng chi ngân sách) đã tăng gấp 5 lần lên 1.267,5 tỷ đồng năm 2006 ( chiếm 49,66% tổng chi ngân sách). Trong chi đầu tư phát triển thì chi cho đầu tư xây dựng cơ bản luôn chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng khẳng định tầm quan trọng của mình trong quá trình phát triển kinh tế. Nếu như năm 2002 chi cho đầu tư XDCB chỉ đạt 198,7 tỷ đồng (chiếm 18,17% chi ngân sách) thì con số này đã nhanh chóng tăng qua các năm và đạt 953,6 tỷ đồng (chiếm 37,37% chi ngân sách) năm 2006. Điều này chứng tỏ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế của tỉnh Hải Dương và cũng chứng tỏ được tầm quan trọng của xây dựng cơ bản trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương vì đầu tư XDCB tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu và cần thiết cho nền kinh tế, góp phần tăng cường khả nămg khoa học công nghệ, thúc đẩy và thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra tích luỹ cho nền kinh tế. Có thể nói đầu tư XDCB là chỉ tiêu quan trọng quyết định nhịp độ tăng trưởng kinh tế. 2, Cơ cấu nguồn vốn đầu tư Xây dựng cơ bản. Theo tiêu chí này vốn đầu tư có thể được phân loại như sau; 2.1, Vốn nhà nước. Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng,lãnh thổ… Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Vói cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Bên cạnh đó vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vì mô. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Là nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước độc lập với ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương nơi đặt địa bàn của doanh nghiệp đó. 2.2, Vốn ngân sách địa phương Đây là nguồn vốn của địa phương tích luỹ được từ các khoản thuế, phí.. sau khi đã nộp ngân sách trung ương. Nguồn vốn này cũng chủ yếu được dùng để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, quy hoạch xây dựng thành thị và nông thôn… 2.3, Nguồn vốn nước ngoài Gồm: Tài trợ phát triển chính thức (ODF): Nguồn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển, có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh. Hơn nữa, đóng góp cho ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể. Nguồn vốn nước ngoài cũng góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông… 2.4. Nguồn vốn tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Với số lượng không nhỏ các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ góp phần đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bảng 1.4: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo nguồn vốn Đơn vị: Triệu đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Ngân sách nhà nước 289038 308474 773134 789986 808847 829523 Trung ương quản lý 112038 149095 553899 98142 86656 85259 Địa phương quản lý 177000 159379 219235 691844 721791 743994 Vốn tín dụng 86007 228375 207394 791845 828851 850433 Vốn đầu tư của các DNNN 31240 21450 184280 18491 12158 11267 Vốn dân doanh 655923 757919 770543 1723730 2148204 2512428 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 56849 343080 870000 375990 828851 841033 Vốn khác 3174299 689962 447996 457570 - - Tổng vốn 4582394 2657734 4026481 4947598 5435358 5873937 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Từ bảng số liệu trên ta thấy các nguồn vốn huy động cho đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hải Dương đều tăng qua các năm ở mọi nguồn vốn, đặc biệt tăng mạnh trong các năm 2003, 2004, 2005, 2006; trong đó đặc biệt tăng mạnh là ở khối dân doanh trong 3 năm 2004, 2005, 2006. Có thể lý giải những con số này như sau: năm 2003 là năm diễn ra sự kiện SeaGames 22 được tổ chức tại Việt Nam, và tỉnh Hải Dương là nơi diễn ra môn thi đấu bóng bàn, một môn thể thao dẫn hấp dẫn và là môn thể thao truyền thống của Hải Dương. Chính vì sự kiện trên mà hoạt động xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2003 đã có bước chuyển mình mạnh mẽ với sự quan tâm đầu tư của Trung ương cho việc cải tạo lại hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố Hải Dương. Cho nên trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước năm 2003 thì ngân sách trung ương chiếm tỷ trọng lớn, gấp hơn 2 lần so với ngân sách địa phương. Đây cũng là năm tỉnh Hải Dương đạt mức kỷ lục trong thu hút đầu tư nước ngoài sau nhiều năm trì trệ trước đó do cơ chế chính sách chưa thông thoáng, cho nên tổng vốn đầu tư từ nước ngoài là 870 tỷ, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng các dự án đầu tư và mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Năm 2004, 2005, 2006 là 3 năm Thành phố Hải Dương thực hiện quy hoạch mở rộng về phía đông và phía tây, cho nên đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn cho nên mọi nguồn vốn đều được huy động tối đa phục vụ cho hoạt động xây dựng cơ bản. Do đó, mọi nguồn vốn huy động đều tăng chỉ có vốn từ trung ương và vốn của các doanh nghiệp nhà nước là có tỷ lệ giảm dần qua các năm. Tỷ trọng vốn trung ương giảm là do tỷ lệ phân bổ của chính phủ giảm, phù hợp với xu hướng giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. vốn của các doanh nghiệp nhà nước giảm là do việc xây dựng cơ bản đã hoàn thành từ các năm trước và nay chỉ có hoạt động sản xuất; hơn nữa muốn đầu tư xây dựng mới thì phải đựoc sự cho phép của Chính phủ trong khi phần lớn các Doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay hoạt động thực sự chưa có hiệu quả. Cho nên không thực sự cần thiết phải xây dựng cơ bản mới mà nên tập trung vào mua sắm, cải tạo máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong khu vực dân cư có sự tăng vọt trong 3 năm 2004, 2005, 2006 chủ yếu là do hoạt động xây dựng nhà ở mạnh gắn liền với sự mở rộng của đô thị, dẫn đến xuất hiện hàng loạt các khu dân cư mới hiện đại, đẹp đẽ. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất tư nhân, các hợp tác xã trên khắp địa bàn tỉnh cũng đã góp phần không nhỏ làm gia tăng lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ khối dân doanh. Nguồn vốn địa phương và vốn vay tín dụng cũng tăng mạnh chủ yếu phục vụ cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, vành đai đô thị, hệ thống chiếu sáng, công cộng, và đầu tư xây mới các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nguồn vốn khác ở đây chủ yếu là viện trợ nước ngoài ( ODA), được trên phân bổ và viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và vốn ủng hộ của các tổ chức khác phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, ở những nơi khó khăn, xóa nhà tranh, tre cho các hộ nghèo. Bảng 1.5: Tốc độ tăng vốn liên hoàn qua các năm Đơn vị: Lần Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng vốn 4582394 2657734 4026481 4947598 5435358 5873937 Tốc độ tăng vốn liên hoàn 1 0,57 1,51 1,23 1,09 1,08 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương So sánh tốc độ tăng vốn liên hoàn thì ta thấy năm 2002 là thấp nhất chỉ là 0,57 có nghĩa là vốn huy động cho đầu tư xây dựng cơ bản không những không tăng mà lại còn giảm đi. Tuy nhiên các năm sau đó thì tình hình đã khả quan hơn cao nhất là năm 2003 đạt 1,51 lần đó là do sau năm 2002 sụt giảm thì đến năm 2003 đã có sự hồi phục lớn. Xét về giá trị tuyệt đối là có sự tăng trưởng qua các năm (trừ năm 2002). Tuy tốc độ có khác nhau nhưng nhìn chung tình hình huy động vốn như vậy là tạm được. Nhìn chung thì nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản trên điạ bàn tỉnh Hải Dương là rất lớn. Các nguồn lực huy động mới chỉ đáp ứng được cơ bản nhu cầu. Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường các biện pháp thu hút vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bảng 1.6: Cơ cấu vốn đầu tư XDCB phân theo nguồn vốn (%) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Ngân sách nhà nước 6,7 13,1 23,8 19,0 17,5 14,1 Trung ương quản lý 2,6 6,3 17,0 2,4 1,9 1,5 Địa phương quản lý 4,1 6,8 6,8 16,6 15,6 12,7 Vốn tín dụng 2,0 9,7 6,4 19,0 17,9 14,5 Vốn đầu tư của các DNNN 0,7 0,9 5,7 0,4 0,3 0,1 Vốn dân doanh 15,3 32,3 23,7 41,5 46,4 42,8 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1,3 14,6 26,7 9,1 17,9 14,3 Vốn khác 74,0 29,4 13,7 11,0 - - Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Ta thấy nguồn vốn ngân sách nhà nước tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm một tỷ trong tương đối lớn trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cao nhất là 23,8% năm 2003 sau đó giảm dần còn 19% năm 2004, 14,1% năm 2006, thấp nhất là năm 2001 chỉ chiếm 6,7% tổng vốn đầu tư. Trong cơ cấu vốn ngân sách thì lại có một xu hướng ngược lại, mặc dù vốn ngân sách có xu hướng giảm qua các năm nhưng nguồn vốn ngân sách địa phương lại có xu hướng tăng dần qua các năm song song đó đương nhiên là sự sụt giảm của vốn trung ương trong cơ cấu. Điều này chứng tỏ được nội lực kinh tế của tỉnh Hải Dương, thể hiện qua sự tích lũy hàng năm tăng lên cho nên số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản cũng tăng lên, dẫn tới giảm bớt sự phụ thuộc vào ngân sách trung ương. Nguồn vốn vay tín dụng cho xây dựng cơ bản cũng có sự tăng lên về tỷ trọng tương đương với nguồn vốn ngân sách, điều này chứng tỏ nhu cầu về vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hải Dương là rất lớn, và cần phải huy động mọi nguồn vốn. Tuy nhiên sử dụng nguồn vốn vay tín dụng thì sẽ phải cân nhắc tới hiệu quả, và giảm thiểu thất thoát lãng phí trong hoạt động đầu tư, và phải chứng minh được hiệu quả của quá trình đầu tư, nếu muốn tăng cường nguồn vốn này hơn nữa trong những năm tới. Không thể không nhắc tới bước nhảy vọt của nguồn vốn dân doanh trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ chỗ chỉ chiếm 15,3% năm 2001 đã tăng mạnh lên 32,3% năm 2002, tuy có sự sụt giảm năm 2003 do đó là năm nguồn vốn ngân sách tăng cường mạnh cho đầu tư phát triển, nhưng đã lại tăng mạnh lên trên 40% trong các năm 2004, 2005, 2006. Điều này chứng tỏ nhu cầu xây dựng cơ bản ở khu vực dân doanh là rất cao, có thể nói là lớn nhất trong các khối, và có thể thấy là nguồn nội lực vốn huy động từ khối này rất lớn. Đây là một tín hiệu đáng mừng trong chiến lược tăng cường kết cấu hạ tầng trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên cần phải có những định hướng về quy hoạch cụ thể, và những biện pháp quản lý chặt chẽ nhằm tránh tình trạng xây dựng ồ ạt, lộn xộn làm mất cảnh quan, kiến trúc đã được hoạch định của tỉnh. Nguồn vốn FDI cũng có sự tăng lên về tỉ trọng trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chủ yếu là xây dựng kết cấu hạ tầng của các dự án đầu tư trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cùng trong xu hướng sụt giảm là nguồn vốn viện trợ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng ở cá vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Điều này chứng tỏ chính sách phát triển các vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có được sự quan tâm, dẫn đến kết cấu hạ tầng ở các khu vực này ngày một được cải thiện, có sự tăng trưởng cả về kinh tế - xã hội, và nâng cao đời sống nhân dân cho nên nguồn vốn viện trợ có xu hướng giảm là hợp lý. Tuy có sự tăng giảm tỷ trọng khác nhau trong các loại nguồn vốn nhưng có thể khẳng định là vốn huy động cho xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có một mức tăng tương đối cao, và việc huy động vốn tương đối hiệu quả. Nhu cầu về vốn chắc chắn sẽ còn tăng cao trong các năm tới cùng với việc quy hoạch mở rộng thành phố Hải Dương và 11 huyện. Do đó vấn đề đặt ra là các biện pháp huy động vốn cụ thể, và sử dụng vốn có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, hạn chế thất thoát lãng phí trong xây dựng cơ bản để có thể hoàn thành được khối lượng xây dựng lớn trong những năm tới. 3, Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo lĩnh vực đầu tư. Bảng 1.7: Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giai đoạn 2001-2006 trên địa bàn tỉnh Hải Dương Đơn vị: triệu đồng Lĩnh vực đầu tư Tổng vốn đầu tư Vốn TW Vốn NS địa phương Vốn nước ngoài Vốn tín dụng Vốn dân doanh Tổng số 10.943.400 2.457.600 1.991.600 375.7 3.149.300 2.969.200 Nông-lâm-thuỷ sản 950.6 141900 397700 0 40000 371000 Giao thông 2584100 766000 667300 12000 333000 805800 Hệ thống điện 625000 550000 30000 0 10000 35000 Y tế 133500 65000 45500 0 0 23000 Giáo dục đào tạo 210700 35000 113500 10000 9000 43200 Văn hoá - xã hội, TDTT 167000 63000 76000 10000 0 18000 Quản lý nhà nước 250700 25100 225600 0 0 0 KHCN và môi trường 47900 3000 30000 11900 3000 Cấp thoát nước 1117800 19200 72600 331800 88000 606200 Hạ tầng công nghiệp 851700 18000 94700 0 550000 189000 Phát triển đô thị và nhà ở 1813000 0 143700 0 1259300 410000 An ninh-Quốc phòng 10000 10000 Các ngành dịch vụ 2181400 771400 85000 0 860000 465000 Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Hải Dương Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy những lĩnh vực thu hút được nhiều vốn đầu tư nhất là giao thông 2.457,6 tỷ đồng (chiếm 23,6%), sau đó đến các ngành dịch vụ 2.181,4 tỷ đồng (chiếm 19,9%), cấp thoát nước 1.117,8 tỷ đồng (chiếm 10,2 %), phát triển đô thị và nhà ở 1.813 tỷ đồng (chiếm 16,57%)… Tỷ lệ này phù hợp xu thế phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và phản ánh đúng nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản của các lĩnh vực then chốt phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên một số lĩnh vực then chốt như điện, việc huy động vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu; tỷ lệ huy động vốn cho các lĩnh vực văn hoá - xã hội, thể dục thể thao cũng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Cũng từ bảng trên ta thấy nguồn vốn ngân sách của trung ương và địa phương được giải đều hầu như cho khắp các lĩnh vực đầu tư trong đó tập trung cho một số lĩnh vực chủ chốt là nông-lâm-thuỷ sản, giao thông, điện, giáo dục, y tế; nếu như nguồn vốn ngân sách trung ương tập trung cho lĩnh vực giao thông, điện, là những lĩnh vực tạo ra hạ tầng cho phát triển kinh tế và cho đầu tư phát triển các ngành dịch vụ thì nguồn vốn ngân sách địa phương lại bị chia nhỏ hơn cho nông-lâm-thuỷ sản, y tế, giáo dục.. nói chung là nhằm xây dựng hạ tầng ở hầu khắp các lĩnh vực trên địa bàn tỉnh. Trong khi đó nguồn vốn vay tín dụng lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước, hạ tầng công nghiệp, đây là những lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn và là những lĩnh vực thiết yếu nhằm xây dựng hạ tầng cơ sở cần thiết cho phát triển kinh tế, xã hội. Nguồn vốn của khu vực dân cư thì lại tập trung vào các lĩnh vực giao thông chủ yếu là xây dựng đường làng, xã, thôn và tập trung đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ phục vụ cho khu vực kinh tế dịch vụ của tư nhân; một phần nữa là tập trung vào xây dựng nhà ở trong các khu đô thị. Nguồn vốn nước ngoài thì lại tập trung đầu tư cho cấp thoát nước. Đây chủ yếu là nguồn vốn ODA tài trợ cho tỉnh Hải Dương nhằm xây dựng một nhà máy nước sạch mới và cải tạo hệ thống thoát nước của thành phố. Bảng 1.8: So sánh kết quả huy động vốn đầu tư XDCB với mục tiêu Đơn vị: Triệu đồng Lĩnh vực đầu tư Mục tiêu Kết quả thực hiện So sánh (%) Tổng số 5950000 10943400 1,84 Nông - lâm - thuỷ sản 830000 950600 1,15 Giao thông 1900000 2584100 1,36 Hệ thống điện 720000 625000 0,87 Y tế 70000 133500 1,91 Giáo dục đào tạo 120000 210700 1,76 Văn hoá-xã hội, TDTT 305000 167000 0,55 Quản lý nhà nước 150000 250700 1,67 KHCN và môi trường 100000 47900 0,48 Cấp thoát nước 430000 1117800 2,6 Hạ tầng công nghiệp 100000 851700 8,52 Phát triển đô thị và nhà ở  0 1813000 An ninh - Quốc phòng  0 10000 Các ngành dịch vụ 1225000 2181400 1,78 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương Theo kết quả so sánh giữa mục tiêu huy động vốn với kết quả đạt được của các ngành kinh tế nhìn chung phần lớn các ngành đều đạt được mục tiêu huy động vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản đề ra, chỉ có 3 ngành không đạt được mục tiêu đề ra đó là huy động vốn cho ngành điện, cho phát triển khoa học công nghệ và lĩnh vực văn hoá – xã hội, thể dục thể thao; trong đó vốn huy động cho khoa học công nghệ, và văn hoá – xã hội, thể dục thể thao chỉ dạt 50% so với mục tiêu đề ra, ngành điện đạt tỷ lệ cao hơn nhưng so với mục tiêu thì vẫn chưa đạt. Cần phải quan tâm đầu tư cho 3 lĩnh vực này hơn nữa trong thời gian tới, đặc biệt là đầu tư cho ngành điện, một ngành công nghiệp quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất cũng như tiêu dùng. Các ngành còn lại đều vượt chỉ tiêu đặt ra, thì huy động vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng công nghiệp đạt tỷ lệ cao nhất gấp 8,5 lần so với mục tiêu đề ra. Đó là do tỉnh đã đầu tư xây dựng 6 khu công nghiệp tập trung đã được Chính phủ phê duyệt, cùng hàng loạt các cụm và điểm công nghiệp nằm rải rác trên địa bàn tỉnh; đồng thời cũng khẳng định sự quan tâm đầu tư cho phát triển hạ tầng công nghiệp của tỉnh nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn nữa các dự án đầu tư vào tỉnh. Đứng thứ hai là Cấp thoát nước với kết quả thực hiện đạt 2,6 lần so với mục tiêu. Đây cũng là một chương trình mục tiêu của tỉnh phấn đấu đến năm 2010 sẽ có 90% dân số được sử dụng nước sạch với việc đầu tư xây dựng nhà máy nước mới do Nhật tài trợ, bên cạnh đó là việc nâng cấp hệ thống thoát nước và xử lý nước cũ trong thành phố và xây mới hệ thống thoát nước trong khu đô thị mới ở phía Đông và phía Tây thành phố. Cũng cần phải nhắc tới lĩnh vực phát triển đô thị và nhà ở, tuy không đặt ra mục tiêu cụ thể về huy động vốn nhưng kết quả đạt được là rất khả quan với lượng vốn huy động đạt được chỉ đứng sau ngành giao thông. Điều này chứng tỏ tốc độ phát triển đô thị mới của Hải Dương là rất cao với hai khu đô thị mới mở rộng ở phía Đông và phía Tây thành phố Hải Dưong đã được quy hoạch và tiến hành triển khai xây dựng. Phát triển đô thị cũng là một chương trình mục tiêu nhằm nâng cấp thành phố Hải Dưong lên thành thành phố loại II. Vốn huy động được bao gồm một phần là vốn ngân sách, phần lớn là vốn vay tín dụng và phần còn lại là vốn của khu vực dân doanh. Một số ngành còn lại cũng có kết quả đạt được tương đối cao so với mục tiêu là vốn huy động cho các ngành dịch vụ, giáo dục đào tạo và y tế. 4, Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo cấu thành. Quy mô vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo cấu thành nhìn chung tăng nhanh qua các năm, đặc biệt trong các năm gần đây, chủ yếu tập trung ở xây lắp và thiết bị. Vốn cho xây dựng cơ bản khác nói chung không ổn định, nhưng thường có quy mô nhỏ so với 2 loại hình kia Bảng 1.9: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo cấu thành Đơn vị: triệu đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Xây lắp 1,602,292 1,441,330 2,450,608 3,005,995 2,396,608 3,233,764 Thiết bị 2,289,161 639,939 673,362 1,020,000 2,016,277 2,547,143 Xây dựng cơ bản khác 401,903 267,991 129,377 131,617 213,626 250,344 Tổng 4,293,356 2,349,260 3,253,347 4,157,612 4,626,511 6,031,251 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Từ bảng trên ta thấy Tổng vốn đầu tư theo cấu thành sau khi đạt khối lượng lớn trong năm 2001 là 4.293,4 tỷ đồng đã sụt giảm trong năm 2002 chỉ còn 2.349,26 tỷ, sau đó tăng dần qua các năm và đạt cao nhất là 6.031,51 tỷ đồng vào năm 2006 cao hơn ngưỡng 2001 đó là nhờ sự gia tăng đồng thời về khối lưọng vốn đầu tư của lĩnh vực xây lắp và thiết bị tương ứng với sự gia tăng khối lượng xây dựng và lắp đặt, mua sắm thiết bị trên địa bàn tỉnh trong thời gian này. Cũng cần nói thêm là trong khoảng thời gian 3 năm gần đây trên địa bàn tỉnh đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung và đã tiếp nhận rất nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước cho nên nhu cầu xây dựng cơ bản hàng năm rất lớn, đạt cao nhất là 3.233,764 tỷ đồng vào năm 2006,năm 2004 đạt 3.005,995 tỷ đồng là những năm nhu cầu xây dựng cơ bản của tỉnh là rất cao và đạt thấp nhất là năm 2002 với 1.441,3 tỷ đồng. Cùng với đó là việc lắp đặt máy móc thiết bị của các dự án đi vào sản xuất cho nên khối lượng vốn cho lắp đặt cũng tăng rất mạnh từ khoảng 650 tỷ trong 2 năm 2002, 2003 tăng lên 1.020 tỷ đồng năm 2004 và đạt 2.547,143 tỷ đồng năm 2006. Riêng hoạt động xây dựng cơ bản khác thì chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ, khiêm tốn so với 2 lĩnh vực kia: Cao nhất là 402 tỷ đồng năm 2001, thấp nhất là 129 tỷ đồng năm 2003. Bảng 1.10: Tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo cấu thành (%) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Vốn đàu tư XDCB 100 100 100 100 100 100 Xây lắp 37,32 61,35 75,32 72,3 51,8 53,6 Thiết bị 53,34 27,25 20,7 24,53 43,58 42,23 Xây dựng cơ bản khác 9,34 11,4 3,98 3,17 4,62 4,17 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dưong Nhìn vào cơ cấu vốn ta có thể thấy tỷ trọng của lĩnh vự xây lắp chiếm tỷ trọng lớn như thế nào trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, thấp nhất là 37,32% năm 2001, cao nhất là 75,32% năm 2003 là một trong những năm đầu tư trọng điểm của tỉnh Hải Dương sau đó có giảm đi và đạt 53,6% năm 2006. Tỷ trọng vốn cho thiết bị đạt cao nhất là 53,34% năm 2001, giảm mạnh trong các năm 2002-2004 sau đó tăng lên 43,58% năm 2005, 42,23% năm 2006 gần bằng tỷ trọng của xây lắp. Lý giải cho điều này đó là do cứ sau mỗi một cao điểm của chu kỳ đầu tư với sự gia tăng ồ ạt của các công trình xây dựng và sau khi các hạng mục cơ bản đã hoàn thành, các công trình (sản xuất) chuẩn bị bước vào giai đoạn vận hành, sản xuất ( nhất là các dự án đầu tư trong khu công nghiệp) thì cần phải lắp đặt máy móc thiết bị cho nên khối lượng vốn đầu tư cho hạng mục này sẽ gia tăng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản khác là chi phí cho gíai đoạn chuẩn bị đầu tư, chi phí cho ban quản lý dự án và chi phí đào tạo công nhân kỹ thuật, phần chi phi này thường chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ so với 2 hạng mục kia, đạt cao nhất là 11,34% năm 2002, thấp nhất là 3,17% năm 2004. Nói chung nguồn vốn này cao hay thấp hàng năm dẫn đến tỷ trọng cao hay thấp tưong ứng trong cơ cấu vốn là tuỳ thuộc vào nhu cầu thực tế của từng năm và một số điều kiện khách quan khác. 5, Vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo khu vực Theo tiêu đề này vốn đầu tư xây dựng cơ bản sẽ dược phân theo 3 khu vực là nông-lâm nghiệp- thuỷ sản, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ. Bảng 1.11: Vốn đầu tư XDCB phân theo khu vực Đơn vị: triệu đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 256,342 146,900 435,516 89,045 89,849 tỷ lệ % trong tổng VĐT 5,97 6,25 13,38 2,14 1,94 Công nghiệp, xây dựng 3,438,780 1,558,860 1,355,361 2,174,760 2,354,347 tỷ lệ % trong tổng VĐT 80,1 66,4 41,66 52,3 50,9 Dịch vụ 598,234 643,500 1,462,470 1,893,807 2,182,315 tỷ lệ % trong tổng VĐT 13,93 27,35 44,96 45,56 47,16 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Xem xét vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo khu vực là Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản – công nghiệp, xây dựng và dịch vụ thì ta thấy vốn đầu tư xây dựng cơ bản chủ yếu được tập trung cho khu vực công nghiệp và xây dựng, sau đó đến các ngành dịch vụ, cuối cùng là nông nghiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh Hải Dương trong quá trình công nghiệp hoá đó là tăng cường đầu tư cho các ngành công nghiệp và dịch vụ và cơ giới hoá trong nông nghiệp đã được thể hiện trong nghị quyết Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng thì vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản được tập trung nhiều nhất vào năm 2002 đạt 3.438,78 tỷ đồng, chiếm 80,1% tổng vốn đầu tư, sau đó giảm dần trong các năm 2003 đạt 1.558,860 tỷ đồng chiếm 66,4%, thấp nhất năm 2004 chỉ đạt 1.355 tỷ đồng, chỉ chiếm 41,66% sau đó tăng trở lại trong năm 2005, 2006 và đạt 2.354 tỷ đồng chiếm 50,9% tổng vốn đầu tư.Tuy nhiên có thể thấy là vốn đầu tư cho khu vực này không có được mức tăng ổn định qua các năm. Nếu so với năm cao nhất là 2002 thì năm vốn đầu tư năm 2003, 2004 chỉ đạt mức dưới 50%. Năm 2005, 2006 có tăng cao nhưng cũng chỉ đạt khoảng 60 – 70% so với năm 2002. Điều này chứng tỏ tốc độ phát triển ngành công nghiệp của tỉnh chưa cao, chưa tạo được cú hích mạnh mẽ cho tăng trưởng. Vốn đầu tư cho khu vực công nghiệp chủ yếu tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tập trung; lắp đặt thiết bị, máy móc và vốn đầu tư cho mở rộng của các ngành công nghiệp như xi măng, điện.., chủ yếu sử dụng vốn ngân sách và vốn vay tín dụng. Đến nay tỉnh đã cón 6 khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt là Đại An, Nam Sách, Phúc Điền, Phú Thái, Tân Trường và khu công nghiệp phía tây thành phố Hải Dương; hi vọng trong thời gian tới với cơ chế chính sách có nhiều đổi mới, thông thoáng và linh hoạt hơn cùng với những chính sách ưu đãi khuyến khích sẽ thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh Hải Dương góp phần tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2006 – 2010. Bảng 1.11: Vốn đầu tư XDCB phân theo khu vực Đơn vị: triệu đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 256,342 146,900 435,516 89,045 89,849 tỷ lệ % trong tổng VĐT 5,97 6,25 13,38 2,14 1,94 Công nghiệp, xây dựng 3,438,780 1,558,860 1,355,361 2,174,760 2,354,347 tỷ lệ % trong tổng VĐT 80,1 66,4 41,66 52,3 50,9 Dịch vụ 598,234 643,500 1,462,470 1,893,807 2,182,315 tỷ lệ % trong tổng VĐT 13,93 27,35 44,96 45,56 47,16 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Đứng thứ hai trong cơ cấu vốn đầu tư theo khu vực là vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong các ngành dịch vụ. Trong khoảng 5 năm trở lại đây chúng ta có thể thấy vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho khu vực này đã có dược mức tăng đáng kể và đều có sự gia tăng qua các năm, từ chỗ chỉ có 598 tỷ đồng năm 2002 chiếm 13,93% tổng vốn đầu tư, một tỷ lệ rất thấp so với tổng vốn đầu tư đã tăng lên qua các năm, đặc biệt tăng nhanh trong 3 năm gần đây và đạt cao nhất năm 2006 với 2.182 tỷ đồng chiếm 47,16% tổng vốn đầu tư. Như vậy là so với năm 2002 thì tổng vốn đầu tư cho ngành dịch vụ tăng gần 4 lần tương ứng với đó cũng là mức tăng của tỷ trọng ngành dịch vụ trong tổng vốn đầu tư. Có được những kết quả khả quan như vậy đó là do sự quan tâm đầu tư đúng đắn của tỉnh cho ngành dịch vụ, coi đây là một ngành kinh tế mũi nhọn, có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế cùng với đó là chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Nhờ những chính sách và biện pháp đồng bộ như vậy mà trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản khu vực dịch vụ đã có được mức độ gia tăng rất đáng chú ý như vậy. Do xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên cho công nghiệp và dịch vụ cho nên vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong khu vực nông – lâm nghiệp - thuỷ sản chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư đạt cao nhất là 435 tỷ năm 2004 (chiếm 13,38% tổng vốn đầu tư), và thấp nhất là năm 2005 (chỉ chiếm 2,14% tổng vốn đầu tư). Xét theo tỷ trọng vốn thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực này là rất nhỏ, trung bình là thấp hơn 10% tổng vốn đầu tư. Tuy xét theo giá trị tuyệt đối thì vốn đầu tư vẫn có xu hướng tăng qua các năm nhưng tỷ trọng lại có xu hướng giảm dần trong tổng vốn đầu tư. Như vậy là có thể thấy trong giai đoạn hiện nay khu vực kinh tế này không còn có được sự quan tâm như trước đây do vốn được ưu tiên cho hai khu vực kia, và vốn đầu tư cho nông nghiệp là chưa thoả đáng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong khu vực này chủ yếu phục vụ cho xây dựng cơ sơ vật chất nhỏ, giá trị không lớn, mua sắm thiết bị và phục vụ việc cơ giới hoá trong nông nghiệp; nhìn chung tập trung nhiều vào thuỷ lợi. Trong điều kiện khô hạn như hiện nay, tình trạng thiếu nước cho sản xuất rất có thể xảy ra, vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho công tác thuỷ lợi, tưới tiêu. Bảng 1.12: Vốn đầu tư XDCB phân theo ngành kinh tế Đơn vị: triệu đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Nông nghiệp, lâm nghiệp 235,171 133,362 352,561 74,039 74.843 Thuỷ sản 21,171 13,538 82,955 15,006 15,006 Công nghiệp khai thác mỏ 5,260 8,051 34,367 40,063 37,300 Công nghiệp chế biến 227,867 440,935 712,530 883,876 1,517,295 SX và phân phối điện nước 3,129,067 1,043,736 480,899 474,934 53,030 Xây dựng 76,586 66,138 127,575 775,887 746,722 Thương nghiệp, sửa chữa… 50,305 34,417 49,094 74,019 81,420 Khách sạn & nhà hàng 278 3,922 15,366 13,400 15,410 Vận tải, kho bãi, TTLL 175,941 253,873 1,087,240 649,265 503,798 Tài chính, tín dụng 7,238 10,427 7,259 934 10,000 Khoa học & công nghệ 1,948 6,112 8,422 2.98 Kinh doanh tài sản, tư vấn 267,246 208,087 225,919 2,766 3,000 Quản lý nhà nước và ANQP 32,753 51,189 16,243 101,088 49,700 Giáo dục và đào tạo 40,768 39,643 12,994 131,391 72,569 Y tế 6,489 13,515 11,370 24,215 33,100 Văn hoá, thể thao 6,595 15,995 16,743 58,552 41,100 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Xem xét cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2002 – 2006 ta thấy theo xu hướng chung của chuyển đổi cơ cấu kinh tế thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho các ngành công nghiệp và dịch vụ vẫn là cao nhất. Cụ thể các ngành có vốn đầu tư xây dựng cơ bản cao là công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện nước, xây dựng, vận tải kho bãi và thông tin liên lạc; trong đó vốn đầu tư cho sản xuất và phân phối điện nước lại có xu hướng giảm dần qua các năm từ chỗ chiếm tỷ trọng cao nhất năm 2002 với 3.129 tỷ đồng đã tụt xuống chỉ còn 53 tỷ đồng năm 2002. Trong tình trạng khan hiếm điện như hiện nay thì đầu tư cho ngành điện như vậy là chưa thoả đáng. Các ngành còn lại đều có xu hướng tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua các năm, trong đó tăng mạnh nhất là ngành công nghiệp chế biến đã tăng gần 7 lần từ 228 tỷ năm 2002 lên 1.517 tỷ năm 2006 chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành kinh tế đã chứng tỏ công nghiệp chế biến tại Hải Dương rất phát triển, chủ yếu là chế biến nông sản và thức ăn gia súc; đây quả là một tín hiệu đáng mừng cho nhà nông. Trong các ngành dịch vụ thì có tốc độ phát triển cao nhất là vận tải - kho bãi và thông tin liên lạc, cũng là một ngành có vốn đầu tư tương đối cao tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không ổn định qua các năm: năm cao nhất là 2004 với trên 1000 tỷ đồng, nhưng năm 2006 lại tụt xuống chỉ còn hơn 500 tỷ đồng. Tuy nhiên xét theo tổng thể thì ngành dịch vụ là ngành có tốc độ tăng đầu tư xây dựng cơ bản là lớn nhất với sự gia tăng tương đối cao ở hầu như tất cả các ngành dịch vụ Các ngành có khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản thấp là y tế, văn hoá, thể dục thể thao và khoa học công nghệ, đặc biệt là khoa học công nghệ. Trong thời kỳ mà khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, được coi là chìa khoá để phát triển của mỗi quốc gia thì đầu tư như vây cho ngành khoa học công nghệ là chưa hợp lý. Với khối lượng vốn đầu tư ít như vậy, thì khó có thể phục vụ tốt công tác nghiên cứu khoa học công nghệ. Tuy nhiên đây là tình trạng chung của cả nước khi mà khoa học công nghệ còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, trang thiết bị quá thiếu thốn. Cũng trong tình trạng này là ngành y tế, có thể nói vốn đầu tư cho y tế chưa đủ để nâng cấp các tuyến bệnh viện ở các cấp nhằm giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên do tình trạng cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn các trang thiết bị khám, chữa bệnh hiện đại, đặc biệt là ở các bệnh viện tuyến dưới. III, MỘT SỐ THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XDCB. 1, Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm. 1.1, Nông nghiệp-lâm nghiệp-thuỷ sản 1.1.1, Nông nghiệp Tổng vốn đầu tư trong 5 năm là 36,2 tỷ đồng. Tập trung đầu tư cho cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng (nhà làm việc, kênh mương tưới, sân phơi, nhà kho, hệ thống điện, máy bơm, trạm giống…) cho các đơn vị sản xuất giống cây trồng vật nuôi của tỉnh; đầu tư trang thiết bị hệ thống bảo vệ thực vật, thú y. Bên cạnh vốn dầu tư của nhà nước, các thành phần kinh tế khác cũng tích cực đầu tư các cơ sở sản xuất giống (chuồng trại, thiết bị…) Nhìn chung việc đầu tư đã góp phần hoàn thiện một bước các cơ sở giống cây trồng vật nuôi, nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm song đầu tư còn manh mún và chưa đồng bộ. 1.1.2 Thuỷ lợi a, Hệ thống đê điều: Tổng vốn đầu tư trong 5 năm là 148,8 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương 80,5 tỷ đồng, ngân sách địa phương 68,3 tỷ đồng. - Đắp đê: Khối lượng đắp đê trung ương quản lý là 1.285.426m3 (trung bình 257.085m3/năm, bằng 43% mục tiêu đề ra), khối lượng đắp đê do địa phương quản lý là 1.126.321m3 (trung bình 225.264m3/năm, bằng 50% mục tiêu đề ra). Gia cố đê 140.033m khoan sâu (mks), trong đó đê Trung ương quản lý là 48.417 mks, đê do điạ phương quản lý là 91.616mks, tu bổ đê kè 129.126m3, trong đó kè đê thuộc Trung ương quản lý là 80.485m3 đá (bằng 107,3% mục tiêu đề ra), đê địa phương quản lý 48.641m3 đá (bằng 243,2% mục tiêu đề ra), xây dựng và cải tạo 14 cống dưới đê, trong đó Trung ương quản lý 6 cái (bằng 60% mục tiêu đề ra), địa phương quản lý 8 cái (bằng 80% mục tiêu đề ra), cải tạo và xây mới 96 điếm canh đê, trong đó địa phương 91 cái, trung ương 5 cái, nhà quản lý đê xây mới 4 cái do trung ương đầu tư; cải tạo và cứng hoá 91km đê, trong đó đê Trung ương quản lý 62,2 km, đê địa phương quản lý 28,9 km. Các công trình khác phục vụ yêu cầu phòng chống lụt bão (trồng tre chắn sóng, rải đá cộn, đất núi mặt đê,…) được quan tâm đầu tư, góp phần bảo vệ đê trong mùa lũ. Trong những năm qua công tác tu bổ hệ thống đê điều thường xuyên được quan tâm đầu tư nên hệ thống đê trong tỉnh ngày một vững chắc, chưa xảy ra sự cố lớn trong mùa mưa bão. Tuy nhiên, do hệ thống đê điều của tỉnh lớn, nguồn kinh phí đầu tư còn hạn chế nên hệ thống đê điều hiện nay của tỉnh vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều điểm xung yếu. Nhiều tuyến đê còn mảnh chưa đủ mặt cắt thiết kế, hầu hết các tuyến đê chưa có cơ, sát chân đê còn nhiều thùng ao sâu, nhiều cống dưới đê được xây dựng từ lâu đã quá tuổi thọ và ngắn so với đê; một số bờ sông đang có diễn biến sạt lở; hệ thống điếm canh đê, nhà quản lý, tre chắn sóng ở một số khu vực chưa đáp ứng được yêu cầu phòng chống lụt bão; nhiều tuyến đê qua các khu vực đông dân cư chưa được cứng hoa mặt đê nên việc giao thông đi lại đã ảnh hưởng đến chất lượng công trình. b, Hệ thống thuỷ nông: - Nạo vét, khơi sâu dòng chảy sông trục chính thuộc hệ thống Bắc Hưng Hải, hệ thống kênh tiêu Đồng Gia, hệ thống kênh mương nội đồng với khối lượng nạo vét là 310.000m3 (bằng 15,5% mục tiêu đề ra); củng cố, nâng cấp các tuyến đê hệ thống Bắc Hưng Hải, An Kim Hải với khối lượng thực hiện 550.000m3 (bằng 1105 mục tiêu).Tổng kinh phí đầu tư 23,1 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương 14,6 tỷ đồng, ngân sách địa phương 8,5 tỷ đồng. - Hệ thống trạm bơm: Đã đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng 11 trạm bơm (bằng 73,3% mục tiêu đề ra) tăng thêm năng lực tiêu chủ động cho khoảng 10.150 ha (bằng 52% mục tiêu đề ra). Hoàn thành tự động hoá cống sông Hương, hệ thống điều tiết nước trạm bơm Ô Xuyên, trạm bơm Khuông Phụ. Tổng số kinh phí đã đầu tư cho hệ thống trạm bơm là 69,5 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương 12 tỷ đồng, ngân sách địa phương 57,5 tỷ đồng. - Kiên cố hoá kênh mương: Đã kiên cố hoá 873,3km kênh mương các loại (đạt so với mục tiêu đề ra là KCH từ 850km-1000km kênh mương các loại), trong đó kênh chính, kênh cấp I là 144,2 km, kênh cấp 2 là 16,5km, kênh cấp 3 là 650,1km. tổng vốn đầu tư 365,0 tỷ đồng, trong đó ngân sách đầu tư 233 tỷ đồng, vốn huy động trong dân 132 tỷ đồng. Trong những năm qua hệ thống thuỷ nông của tỉnh được đầu tư nâng cấp đã đảm bảo yêu cầu dẫn nước, mở rộng diện tích tưới tiêu, nâng cao năng suất cây trồng. Việc kiên cố hoá kênh mương đã nâng cao năng lực tưới, tiết kiệm được từ 10-15% điện năng, dôi được 154ha đất chuyển sang đất canh tác hoặc mở rộng giao thông. Tuy nhiên, diện tích tưới tăng thêm thực tế mới đạt 48,35% kế hoạch, việc xoá bỏ trạm bơm dã chiến chỉ đạt 15%. Hạn chế trên là do khối lượng đầu tư lớn trong điều kiện địa bàn rộng, trong khi vốn đầu tư hạn hẹp. Việc đầu tư xây dựng còn dàn trải, chưa tuân theo quy trình đồng bộ của hệ thống kênh mương (mới có 37% kênh được kiên cố hoá từ cấp 1-2-3) nên hiệu quả khai thác công trình còn hạn chế. Một số công trình xác định vị trí xây dựng chưa phù hợp thực tế, chất lượng thi công chưa đảm bảo, việc lấn chiếm đục phá xâm hại kênh còn diễn ra ở một số nơi nhưng chưa được xử lý kịp thời. Một số chủ đầu tư chưa có kinh nghiệm trong quản lý đầu tư, quản lý chất lượng công trình. Cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan như chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, chính quyền địa phương còn chưa quy định chặt chẽ rõ ràng đã ảnh hưởng tới công tác quy hoạch, giám sát chất lượng quy hoạch. 1.1.3, Hạ tầng cho nuôi trồng thuỷ sản Tổng vốn đầu tư là 185 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương đầu tư và hỗ trợ là 25 tỷ đồng, vốn vay tín dụng 30 tỷ đồng, vốn dân tự đầu tư 130 tỷ đồng. 1.2, Hệ thống giao thông a, Hệ thống đường sắt: Tổng số vốn đầu tư khoảng 55 tỷ đồng. Tập trung đầu tư cải tạo, nâng cao chất lượng các tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Kép - Hạ Long, Chí Linh - Cổ Thành; nâng cấp các nhà ga, mở một số trạm gác barie của đường sắt ở các điểm giao cắt giữa đường sắt với đường bộ,… góp phần nâng cao năng lực vận chuyển, rút ngắn thời gian hành trình, giảm tai nạn giao thông đường sắt. Tuy nhiên, hệ thống đường sắt chạy qua địa bàn tỉnh hiện chưa đáp ứng nhu cầu vận tải, các tuyến chuyên dụng chỉ phục vụ trong phạm vi hẹp. b, Hệ thống đường bộ - Đường quốc lộ: Hệ thống đường quốc lộ trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện có 6 tuyến là 5A, 37, 183, 18, 38,10 với tổng chiều dài 115,6km, mặt đường được trải thảm bê tông nhựa, các Quốc lộ 5A, 18, 183, 10 đã được đầu tư hoàn chỉnh. Về cơ bản hoàn thành xây dựng các nút giao thông Quốc lộ với các đường địa phương, cầu vượt dân sinh, đường gom các dự án nâng cao hiệu quả khai thác quốc lộ 5A, quốc lộ 10, đặc biệt các đoạn đi qua thành phố Hải Dương, thị trấn, thị tứ. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm khoảng 410 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 400 tỷ, vốn tín dụng 10 tỷ đồng. - Đường tỉnh: Đã đầu tư cải tạo, nâng cấp 70km đường tỉnh (bằng 42% kế hoạch). Tổng vốn đầu tư đã thực hiện khoảng 626 tỷ đồng, trong đó ngân sách địa phương 346 tỷ đồng, vốn vay tín dụng 160 tỷ đồng. Trên địa bàn hiện có 20 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 337km, có 90 cầu và 489 cống, 5 bến phà. Mạng lưới đường tỉnh đã được gắn kết chặt chẽ với hệ thống Quốc lộ và mạng lưới giao thông của tỉnh nhưng chưa thực sự được phân bố hợp lý. Hiện nay phần lớn các tuyến đường tỉnh chưa đạt cấp IV đồng bằng, mặt đường cấp cao chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 10%); các cầu, cống qua đường đa số có trọng tải thấp từ H8-H13, khổ cầu hẹp, một số cầu phải hạn chế trọng tải dưới 3 tấn, ảnh hưởng đến giao thông. Nguyên nhân là do nhu cầu đầu tư lớn, chủ yếu được đầu tư bằng vốn ngân sách XDCB tập trung, vốn đầu tư tăng nhưng khối lượng không tăng (chủ yếu tăng là do cải tạo, nâng cấp). Nhìn chung đầu tư vẫn còn dàn trải, các tuyến đường được đầu tư mới chỉ là cải tạo, nâng cấp mặt đường, chưa đầu tư vào cấp đường chuẩn. - Đường huyện và đô thị: Trong giai đoạn 2001-2005 đã đầu tư 80km đường huyện và đường đô thị, 20 cầu, cống. Tổng vốn đã đầu tư 290 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách địa phương đã đầu tư 150 tỷ đồng, vốn ngân sách trung ương hỗ trợ 15 tỷ đồng, vốn JBIC 12 tỷ đồng (đường 190C, đường Phùng Khắc), vốn vay tín dụng 113 tỷ đồng. Các tuyến đường đô thị được đầu tư theo hướng hiện đại, đa số mặt đường cấp cao (chỉ còn 12,9km đường đá dăm, chiếm 37,5%). Tuy vậy, chất lượng đường chưa đảm bảo (đường chất lượng tốt là 21,5km, còn lại là đường chất lượng trung bình và chất lưọng xấu), các cửa ô, đường vành đai của thành phố Hải Dương vẫn chưa được quy hoạch xây dựng. Nguyên nhân là do nhu cầu đầu tư lớn, vốn đầu tư hạn chế, nhiều tuyến đường trong thành phố chưa được đầu tư đồng bộ với hạ tầng kỹ thuật (cấp thoát nước, cấp điện, thông tin liên lạc) nên hiệu quả đầu tư thấp. Nhiều khu vực trong thành phố chưa có quy hoạch và do quản lý quy hoạch chưa được quan tâm nên kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng mức đầu tư. Hiện nay có 138 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 716,4km, 191 cầu và 387 cống, mặt đường cấp cao 308 km (chiếm 43% mục tiêu đề ra 50% km đường huyện cấp cao), nhiều tuyến đường chạy qua các khu vực thị trấn, thị tứ. Hầu hết các công trình cầu cống tải trọng thấp, nhiều tuyến bị gián đoạn vì qua sông chưa có cầu hoặc phà cơ giới. Nguyên nhân chủ yếu là do việc đầu tư vẫn còn dàn trải, các tuyến đường được đầu tư chủ yếu là cải tạo, nâng cấp mặt, chưa đưa vào cấp, khối lượng vốn đầu tư lớn nhưng chưa có giải pháp huy động các nguồn vốn để thực hiện, chủ yếu vẫn trông chờ vào vốn ngân sách. - Giao thông nông thôn: Từ năm 2001-2005 đã đầu tư xây dựng 7.070km đường giao thông nông thôn, trong đó đường chất lượng cao là 4.211km (bê tông xi măng là 3.584km, đường nhựa 627km) và 6.953m cầu cống, các xã đều cố đường ô tô vào đến trung tâm xã. Tổng kinh phí đầu tư trong 5 năm khoảng 1.148,1 tỷ đồng (bằng 197,9% mục tiêu) trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ từ chương trình phát triển giao thông nông thôn (WB) là 131 tỷ đồng, ngân sách địa phương hỗ trợ 161,3 tỷ đồng, vốn vay tín dụng 50 tỷ đồng, vốn huy động từ dân 805,5 tỷ đồng Về cơ bản hệ thống giao thông nông thôn được hình thành và trải đều khắp địa bàn tỉnh, tuy nhiên mật độ phân bố còn chưa đồng đều, tỷ lệ đường chất lượng cao thấp, hầu hết cốn tải trọng thấp. c, Hệ thống đường thuỷ: Trong 5 năm qua bằng nguồn vốn ngân sách chủ yếu đầu tư cho công tác nạo vét thông luồng, quản lý và đảm bảo an toàn giao thông đường thuỷ với tổng kinh phí đầu tư khoảng 55 tỷ đồng (bằng 110% kế hoạch). Hiện nay độ sâu các tuyến sông còn hạn chế về tải trọng thuyền thông qua, nhiều tuyến sông chưa được đưa vào quản lý khai thác vận tải, chưa có quy hoạch đầu tư phát triển giao thông thuỷ với phát triển du lịch. 1.3, Hệ thống điện Tổng vốn đầu tư khoảng 625 tỷ đồng (bằng 86,8% mục tiêu đề ra), trong đó ngân sách trung ương 550 tỷ, ngân sách địa phương 30 tỷ, vốn tín dụng 10 tỷ đồng, vốn dân doanh 30 tỷ đồng. Tập trung đầu tư cho cải tạo, xây dựng hệ thống lưới điện, điện chiếu sáng đô thị và điện nông thôn, đảm bảo cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt khá ổn định. a, Điện lực: Hệ thống lưới điện được đầu tư theo hướng nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi phục vụ, giảm tổn thất điện năng. Do nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân được nâng cao nên hệ thống lưới điện đã bị quá tải, tổn thất điện năng vẫn còn lớn, đường điện cấp trong các khu vực đô thị chưa đảm bảo cảnh quan và an toàn. b, Điện chiếu sáng và điện nông thôn: Nhìn chung hệ thống điện chiếu sáng đô thị được đầu tư đã tạo nên diện mạo mới cho thành phố Hải Dương và các thị trấn, thị tứ và khu dân cư tập trung. Nhiều tuyến điện chiếu sáng vẫn chưa đạt tiêu chuẩn cấp đô thị, nhiều tuyến phố chính trong nội thị vẫn chưa được đầu tư. Hệ thống điện nông thôn được cải tạo,đảm bảo cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt, tuy vậy chất lượng cung cấp điện ở nhiều khu vực nhất là các vùng sâu, vùng xa chưa được đảm bảo, tỷ lệ tổn thất điện năng vẫn còn lớn. 1.4, Y tế a, Bệnh viện tuyến tỉnh: Đã đầu tư 83 tỷ đồng ( bằng 117% kế hoạch đặt ra), tập trung cho đầu tư củng cố , nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị của bệnh viện tuyến tỉnh và khu vực, trong đó xây mới và cải tạo được 5.866 m2 khoa phòng, góp phần nâng cao năng lực khám và điều trị bệnh. Hiện nay diện tích các khoa phòng còn thấp so với quy định và nhu cầu khám và chữa bệnh ngày càng tăng. Hầu hết các bệnh viện đều trong tình trạng quá tải, thiếu thiết bị chẩn đoán và điều trị bệnh hiện đại, chất lượng phục vụ chưa đáp ứng được yêu cầu do đó chưa giảm tải được cho các bệnh viện tuyến trên. Việc đầu tư cho xử lý ô nhiễm môi trường chưa được quan tâm, nhất là vấn đề xử lý chất thải rắn và độc hại. b, Bệnh viện tuyến huyện: Đã đầu tư xây dựng mới và cải tạo khoảng 4.200m2 (đạt 84% kế hoạch) các khoa phòng, nhà bệnh nhân các bệnh viện tuyến huyện, khắc phục một phần điều kiện cơ sở vật chất đã bị xuống cấp. Tổng vốn đầu tư cho bệnh viện tuyến huyện trong 5 năm là 18 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc đầu tư mới chỉ tập trung cho mở rộng diện tích các khoa phòng, chưa quan tâm đầu tư mua sắm các trang thiết bị chẩn đoán và điều trị bệnh, đây cũng là một nguyên nhân làm cho bệnh viện tuyến trên bị quá tải. Vẫn còn nhiều khoa phòng, nhà bệnh nhân… xây dựng từ lâu đã xuống cấp, hệ thống xử lý môi trường đã bị xuống cấp và lạc hậu, phát huy tác dụng kém. c, Trạm y tế xã: Đến hết năm 2005 có khoảng 65% trạm y tế xã, phường được xây dựng kiên cố (vượt 5% so với mục tiêu đề ra), hầu hết các xã được đầu tư bổ sung trang thiết bị y tế cần thiết. Tổng vốn đầu tư khoảng 12,5 tỷ đồng. Thực hiện chủ trương xã hội hoá lĩnh vực y tế, trên địa bàn tỉnh nhiều tổ chức và cá nhân đã đầu tư mở các phòng khám bệnh tư nhân, đáp ứng một phần nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, tổng vốn đầu tư từ dân doanh khoảng 20 tỷ đồng. hiện nay hoạt động của các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân vẫn còn hạn chế và quy mô nhỏ do thiếu mặt bằng để đầu tư. 1.5, Giáo dục – Đào tạo a, Bậc học mầm non: tổng vốn đầu tư trong 5 năm khoảng 8,5 tỷ đồng. Đến năm 2005 toàn tỉnh có khoảng 282 trường mầm non trong đó có 276 trường bán công, 3 trường tư thục, 3 nhà trẻ độc lập. Nhìn chung các trường mầm non đã đáp ứng được nhu cầu học tập nhưng đa số các trường có diện tích nhỏ, hẹp (tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn), thiết bị học tập còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu về chuẩn hoá. b, Khối trung học cơ sở, tiểu học: Đến nay 87% số phòng học cấp II, 75% phòng học cấp I được kiên cố cao tầng, vượt so với mục tiêu đề ra; xây dựng được 1.450 phòng học. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm là 62 tỷ đồng c, Khối Trung học phổ thông: Đã đầu tư mới và cải tạo được khoảng 25.000m2 ( bằng 167% kế hoạch đặt ra) phòng học của các trường công lập, bán công, dân lập. Hầu hết các huyện, thành phố đều có trường bán công, có 2 trường dân lập đã đi vào hoạt động ở các huyện Ninh Giang và thành phố Hải Dương. Trong năm 2005, tiếp tục triển khai xây dựng các trường dân lập ở các huyện Tứ Kỳ, Kim Thành. Tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 là 70 tỷ đồng. Nhìn chung các phòng học đã được kiên cố, cao tầng. Ngoài đầu tư cho phòng học còn tăng cường cơ sở vật chất, một số trường đảm bảo các điều kiện cho giảng dạy học tập như nhà hiệu bộ, phòng chuyên môn, thực hành, thiết bị giảng dạy và học tập…Tuy nhiên, đa số các trường vẫn còn thiếu các phòng học chức năng, nhà bộ môn, thiết bị giảng dạy thiếu và chưa đạt yêu cầu về nâng cao chất lượng giảng dạy. d, Các trường chuyên nghiệp và dạy nghề: tổng vốn đầu tư trong 5 năm khoảng 70 tỷ đồng.Trong 5 năm 2001-2005 khối các trường chuyên nghiệp và dạy nghề đã có sự phát triển mạnh, đáp ứng một phần nhu cầu học tập nâng cao trình độ, học nghề của nhân dân. Do chưa có quy hoạch lâu dài nên việc đầu tư vẫn còn manh mún, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đượpc yêu cầu về chất lượng để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Cơ sở vật chất của một số trường chuyên nghiệp còn nhiều hạn chế so với yêu cầu nâng tầm lên thành trường đại học. hiện tại các cơ sở dạy nghề mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ về đào tạo nghề cho các đối tượng đến tuổi lao động, trong khi máy móc, thiết bị thực hành thiếu thốn ảnh hưởng đến chất lượng dạy nghề. 1.6, Văn hoá-xã hội, thể dục thể thao a, Văn hoá Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng văn hoá với phát triển du lịch, nâng cao một bước đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân: Trùng tu tôn tạo và mở rộng các di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh, đền, đình, chùa,…; xây dựng mới nhà văn hoá trung tâm của một số huyện (Gia Lộc, Thanh Miện, Tứ Kỳ,..), nhà thư viện trung tâm của một số huyện Thanh Miện, Ninh Giang, Thanh Hà, nhà văn hoá xã…Tổng vốn đầu tư trong 5 năm qua khoảng 46 tỷ đồng. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư nhưng cơ sở hạ tầng văn hoá từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu, chưa dành đất hợp lý cho xây dựng các thiết chế văn hoá thông tin từ tỉnh đến cơ sở, phương tiện, thiết bị lạc hậu; thiếu các điểm hoạt động văn hoá, hầu hết các huyện vẫn chưa có nhà văn hoá trung tâm độc lập, nhà thư viện, các xã chưa có thư viện, các khu dân cư chưa có điểm đọc sách , báo. b, Đầu tư giải quyết những vấn đề xã hội: Đầu tư cải thiện điều kiện học tập, ăn ở, sinh hoạt cho các đối tượng chính sách của các trung tâm bảo trợ xã hội, trung tâm nhân đạo của các tổ chức chính trị-xã hội; đầu tư các công trình phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, giáo dục truyền thống cách mạng, phục vụ dân sinh như Đài tưởng niệm liệt sỹ, nghĩa trang liệt sĩ các xã; đầu tư hạ tầng phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre,… góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,5%. Tổng vốn đầu tư khoảng 41 tỷ đồng. Việc đầu tư phục vụ cho các đối tượng chính sách, thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, phát huy truyền thống cách mạng, xoá đói giảm nghèo,..trong những năm vừa qua là một chủ trương đúng và cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Do vốn đầu tư còn hạn chế nên mới chỉ khắc phục được một phần tình trạng xuống cấp của các công trình và tình trạng quá tải của các trung tâm; hệ thống đài tưởng niệm, nghĩa trang liệt sĩ của huyện, thành phố, thị trấn, xã, phường chưa có quy hoạch cụ thể và lâu dài nên chiếm nhiều diện tích, ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường… c, Thông tin: Tổng vốn đầu tư là 37 tỷ đồng, chủ yếu bằng nguồn vốn ngân sách. Sau đầu tư, chất lượng báo nói, báo hình và báo đọc đã được nâng lên, góp phần tích cực tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống phát thanh, truyền hình từ tỉnh xuống cơ sở còn yếu và thiếu, chưa có nhiều đổi mới, trang thiết bị thiếu đồng bộ, chất lượng truyền hình còn thấp, nhiều vùng sâu, vùng xa chưa có hệ thống phát thanh. d, Thể dục thể thao: Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thể dục thể thao được quan tâm đầu tư từ nhiều nguồng vốn, góp phần đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Tổng vốn đầu tư là 43 tỷ đồng. Cơ sở vật chất của ngành thể dục thể thao hiện nay còn nhiều bất cập, thiếu phương tiện và trang thiết bị luyện tập, hệ thống sân vận động từ tỉnh xuống huyện không đáp ứng được yêu cầu luyện tập và thi đấu, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng phát hiện tài năng thể thao còn khó khăn… 1.7, Quản lý nhà nước Cơ sở vật chất hệ thống quản lý Nhà nước được quan tâm đầu tư đã góp phần cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, tập trung đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cơ quan Đảng và chính quyền cấp huyện, cải tạo, nâng cấp và xây dựng trụ sở làm việc của các sở, ban, ngành, hệ thống ngân hàng, Kho bac nhà nước, Hải quan. Hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở xã nghèo. Tổng vốn đầu tư khoảng 250,7 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch nên đầu tư còn mang tính chắp vá, đa số khuôn viên trụ sở làm việc của các sở, ban ngành chật hẹp, một số cơ quan phải ghép chung với cơ quan khác, một số cơ quan mới đầu tư xây dựng nhưng đã không đáp ứng yêu cầu làm việc… 1.8, Khoa học công nghệ và môi trường + Về khoa học công nghệ: Tổng vốn đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ là 13 tỷ đồng. Tập trung đầu tư tăng cường cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu, kiểm định chất lượng đo lường, quản lý khoa học, chú trọng đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong khối cơ quan Đảng, quản lý nhà nước. Hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu phương tiện, thiết bị nghiên cứu, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý còn hạn chế; hoạt động quản lý đo lường-tiêu chuẩn-chất lượng chưa được mở rộng mà mới ở phạm vi cấp tỉnh… + Môi trường: Tổng vốn đầu tư 34,9 tỷ đồng, trong đó quan tâm đầu tư cho vấn đề xử lý rác thải và nước thải đô thị, bệnh viện, quy hoạch trồng cây xanh, cải tạo hè phố, rãnh thoát nước,…góp phần cải thiện môi trường sinh thái, tạo cảnh quan đô thị. Do nguồn vốn đầu tư hạn hẹp nên mới chỉ hạn chế một phần tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường đô thị hiện nay nước thải vẫn trực tiếp đổ vào các ao hồ mà chưa qua khâu xử lý; dự án Nhà máy xử lý rác thải thành phố Hải Dương là một công trình trọng điểm trong giai đoạn 2001-2005 nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được do khó khăn về địa điểm,.. 1.9, Cấp thoát nước a, Cấp thoát nước đô thị: Đối với thành phố Hải Dương tập trung cải tạo hệ thống đường ống cấp nước, thoát nước, giảm tỷ lệ thất thoát nước, hạn chế một phần tình trạng ngập úng ở một số tuyến phố chính. Đến nay 100% số dân trong nội thành được sử dụng nước sạch. Đối với các huyện đầu tư xây dựng trạm cấp nước và mở rộng đường ống cấp nước ở các thị trấn, đảm bảo 50% số hộ dân ở các khu dân cư tập trung được sử dụng nước sạch. Tổn vốn đầu tư trong 5 năm khoảng 522,4 tỷ đồng. Hiện nay hệ thống thoát nước đô thị còn nhiều hạn chế và đã bị xuống cấp, không đảm bảo thoát nước nhanh khi có mưa to, tiến độ thực hiện dự án cải tạo hệ thống thoát nước thành phố Hải Dương chậm, nhiều tuyến đường ống cấp nước chưa được đầu tư cải tạo nên tỷ lệ thất thoát nước vẫn còn lớn, công suất của các nhà máy nước hiện tại chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng khi thành phố Hải Dương và các thị trấn được quy hoạch mở rộng, nhiều hộ ngoại thành chưa được sử dụng nước máy… b, Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Trong 5 năm qua đã đầu tư xây dựng 23 trạm cấp nước tập trung, 2.600 giếng khoan, 39.600 giếng khơi, 69.600 bể nước mưa đưa tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh khoảng ttrên 70%, đầu tư xây dựng 29.756 hố xí tự hoại, 44.600 hố xí 2 ngăn hợp vế sinh, 1.716 hầm sinh khí Biogas, góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao sức khoẻ cộng đồng. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm khoảng 595,4 tỷ đồng. Mặc dù đã đạt được kết quả khả quan trong việc thực hiện đề án nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tuy nhiên do địa bàn rộng, mức hỗ trợ từ ngân sách còn thấp trong khi đời sống và mức thu nhập của khu vực nông thôn còn thấp nên khả năng đầu tư bị hạn chế; quá trình thực hiện thiếu sự theo dõi kiểm tra nên kết quả thực hiện còn hạn chế; công tác tuyên truyền để thay đổi nhận thức của nhân dân về môi trường chưa được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy hết khả năng và nội lực của nhân dân. 1.10, Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tập trung và làng nghề a, Khu công nghiệp: Đến nay đã có 6 Khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt, trong đó 3 Khu côn nghiệp đã lựa chọn chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng công trình là: Khu công nghiệp Nam Sách, Đại An, Phúc Điền (trong đó khu công nghiệp Nam Sách giai đoạn I đã được lấp đầy), tạo môi trường thuận lợi thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng thu ngân sách cho địa phương. Tổng vốn đầu tư khoảng 612,5 tỷ đồng. Trong những năm qua tỉnh Hải Dương đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển Khu công nghiệp tập trung nhưng các dự án xin vào khu công nghiệp chưa nhiều, công tác giải phóng mặt bằng khó khăn nên dự án chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh hạ tầng. b, Cụm công nghiệp: Quy hoạch và hình thành nhiều Cụm công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút các dự án trong và ngoài nước (đã có 9 Cụm công nghiệp được phê duyệt quy hoạch). tuy nhiên, khả năng thu hút các dự án đầu tư còn hạn chế do tiến độ quy hoạch chậm (các dự án đầu tư được chấp thuận chủ yếu bám mặt đường), khó khăn về vốn đầu tư nên hầu hết hạ tầng các Cụm công nghiệp này chưa được đầu tư, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện các dự án (đến nay tỉnh mới tiến hành đầu tư hạ tầng 2 cụm công nghiệp ở thành phố Hải Dương), trong khi đó tỉnh chưa có chính sách cụ thể huy động vốn của các doanh nghiệp tham gia đầu tư. Tổng vốn đầu tư khoảng 227,2 tỷ đồng. c, Làng nghề: Từ năm 2002 đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (chủ yếu là đường giao thông cho 9 làng nghề với tổng vốn đầu tư 12 tỷ đồng, góp phần khôi phục và phát triển một số làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh như gốm Chu Đậu… 1.11, Phát triển đô thị và nhà ở. Trong 5 năm qua, tỉnh Hải Dương đã áp dụng linh hoạt cơ chế chính sách, khai thác nguồn vốn từ quỹ đất cho đầu tư phát triển đô thị của thành phố Hải Dương và các thị trấn, thị tứ (cơ chế đổi đất lấy công trình, giao đất thu tiền sử dụng đất, đấu thầu quyền sử dụng đất). Các khu đô thị, khu dân cư mới được quy hoạch đồng bộ theo hướng hiện đại, trong đó có cả các công trình phục vụ thương mại, dịch vụ, du lịch sinh thái, công cộng, văn hoá…Tổng vốn đầu tư cho hạ tầng phát triển đô thị là 1.760 tỷ đồng, trong đó ngân sách đầu tư 140 tỷ đồng, vốn vay tín dụng 1210 tỷ đồng, vốn dân doanh 410 tỷ đồng. Bước đầu có quan tâm quy hoạch xây dựng nhà ở cho các đối tượng có thu nhập thấp, lao động ở các khu công nghiệp. Tổng vốn đầu tư 53 tỷ đồng, trong đó ngân sách 3,7 tỷ đồng, vốn tín dụng 49, 3 tỷ đồng. Việc phát triển đô thị của tỉnh hiện nay còn nhiều bất cập do công tác quy hoạch xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều khu vực hiện nay chưa có quy hoạch chi tiết nên khó khăn cho việc đầu tư mở rộng đô thị, vấn đề đánh giá tác động, ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, môi trường trong quá trình phát triển đô thị chưa thực sự được quan tâm. 1.12, An ninh quốc phòng Phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng-an ninh là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và nhà nước ta. trong 5 năm qua, bằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh (12 tỷ đồng) và nguồn vốn của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ sở vật chất phục vụ công tác huấn luyện, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm cho thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố; điều kiện làm việc, ăn ở của cán bộ chiến sĩ trong ngành công an, quân đội đã được cải thiện đáng kể. 1.13, Các ngành dịch vụ a, Dịch vụ Thương mại và Du lịch + Dịch vụ thương mại: Quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư mới gắn liền với các công trình phục vụ thương mại và dịch vụ du lịch; đầu tư phát triển hệ thống siêu thị nhỏ, chợ, cửa hàng kinh doanh hàng hoá, hệ thống cửa hàng kinh doanh xăng dầu ở địa bàn thành phố Hải Dương, các thị trấn, thị tứ và các khu công nghiệp tập trung, dọc các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ, chú trọng quy hoạch xây dựng các chợ đầu mối hoa quả và nông sản của các huyện. Tổng vốn đầu tư trong lĩnh vực thương mại dịch vụ khoảng 290 tỷ đồng. + Dịch vụ du lịch: Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng các khu du lịch trọng điểm đã được quy hoạch; hình thành các khu du lịch sinh thái kết hợp với vui chơi giải trí; tiếp tục trùng tu, tôn tạo hàng chục khu di tích đình, đền, chùa nhằm gìn giữ, phát huy truyền thống văn hoá của Hải Dương và thu hút khách thập phương đến thăm quan, du lịch. Tổng vốn đầu tư cho hạ tầng du lịch khoảng 880 tỷ đồng b, Dịch vụ vận tải: Lực lượng vận tải trong những năm qua phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Nhìn chung lực lượng vận tải đã đáp ứng được nhu cầu xã hội nhưng chất lượng vận tải còn kém, tổ chức quản lý vận tải chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là lực lượng vận tải hành khách. Dịch vụ vận tải đường sắt tăng do có sự đầu tư nâng cao số lượng và chất lượng thiết bị toa xe, rút ngắn thời gian vận chuyển trên các tuyến, nhất là tuyến Hà Nội - Hải Phòng Đến năm 2006. tổng số phương tiện ô tô vận tải hàng hoá trên địa bàn tỉnh là 1400 chiếc, ô tô vận tải hành khách là 600 chiếc. Hoạt động kinh doanh khai thác vận tải đường thuỷ phát triển nhanh, chủ yếu là tăng ở khối tư nhân. Tổng số phương tiện vận tải thuỷ là 630 chiếc với tổng trọng tải khoảng 110.000 tấn, đa số là tàu tự hành. Hệ thống cảng sông, bến bãi đã được đầu tư nâng cấp, chủ yếu là ở các cảng chuyên dụng. Tuy nhiên công nghệ xếp dỡ, phương tiện thiết bị tại các bến, cảng địa phương còn thô sơ, thủ công nên năng lực xếp dỡ còn thấp. Tổng vốn đầu tư khoảng 350 tỷ đồng. c, Bưu chính viễn thông: Tổng vốn đầu tư khoảng 475 tỷ đồng (bằng 132% mục tiêu đề ra). Tập trung đầu tư hoàn thiện mạng bưu chính, nâng cao chất lượng thông tin liên lạc và mở rộng phạm vi phục vụ. Trong 5 năm qua đã xây dựng được 70 điểm bưu điện-văn hoá xã, phường, nâng tổng số điểm bưu điện-văn hoá xã trên địa bàn toàn tỉnh là 196. Ngoài ra còn mở thêm hàng trăm điểm dịch vụ điện thoại công cộng, phát triển gần 80.000 máy điện thoại cố định, 25000 máy di động đưa số máy trên 100 dân từ 2,56 năm 2001 lên gần 10 máy năm 2006, vượt so vơí mục tiêu đề ra. Tuy vậy, chất lượng truyền dẫn vẫn chưa cao, nhiều xã còn chưa có điểm bưu điện-văn hoá xã, số máy điện thoại trên 100 dân còn thấp so với bình quân cả nước,… d, Tín dụng và bảo hiểm: Tổng vốn đầu tư khoảng 230 tỷ đồng. Tập trung đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ, mở rộng các loại hình bảo hiểm, các tổ chức tín dụng, phát triển các chi nhánh ngân hàng thương mại, tín dụng trên địa bàn các huyện thành phố. Tuy nhiên việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động ngân hàng còn chậm, số máy rút tiền tự động còn ít và chưa thực sự phổ biến. 2. Các thành tựu về kinh tế-xã hội Trong thời gian qua, kinh tế Hải Dương có được sự tăng trưởng cao và ổn định năm 2002 và 2003 đều đạt trên 12%, năm 2004 đạt 9,2%, năm 2005 đạt 11,9 %, năm 2006 đạt 11%. Như vậy GDP bình quân đạt 11,4%, vượt mục tiêu đề ra (9 – 10%), cao hơn bình quân chung của cả nước, cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp – công nghiệp, xây dựng - dịch vụ từ 34,8%-37,2%-28% năm 2000 sang 27%-43%-30% năm 2006. Thu ngân sách nhà nước luôn tăng theo từng năm, đặc biệt năm 2003 là năm có bước đột phá về thu ngân sách 1.135 tỷ đồng đã đưa tỉnh Hải Dương lần đầu tiên đứng vào đội ngũ các tỉnh có thu ngân sách trên 1.000 tỷ đồng; thu ngân sách các năm sau luôn tăng hơn các năm trước, năm 2004 đạt 2.103 tỷ đồng, năm 2005 đạt 2.407 tỷ đồng, năm 2006 ước đạt 2.636 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 9,02 triệu đồng năm 2006. Bảng 1.13: Một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội Các chỉ tiêu chủ yếu 2002 2003 2004 2005 2006 GDP (tỷ đồng) 8.157 9.789 11.563 13.334 15.533 Tốc độ tăng GDP (%) 12,2 12,9 9,2 11,9 11 Tổng thu NSNN trên địa bàn (tỷ đồng) 817,3 1.116,2 2.243,2 2.407,6 2.636,7 Giải quyết việc làm mới ( 1000 lao động) 20 21 24 26 30 GDP/ người ( triệu đồng) 5,8 6 6.5 7,79 9,02 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Bằng các cơ chế chính sách có nhiều đổi mới nhằm thu hút vốn đầu tư và ưu tiên chi cho hoạt động đầu tư phát triển của tỉnh đã tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần ổn định tình hình an ninh-xã hội trên đại bàn. Trong 5 năm thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, đã giải quyết được trên 120.000 việc làm mới cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị xuống còn 5,5% và thời gian lao động ở nông thôn tăng lên gần 80%. Bảng 1.14: Một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu của một số tỉnh miền Bắc năm 2006 Tốc độ tăng GDP (%) Cơ cấu kinh tế (%) GDP BQ đầu người (Tr.đ) Tốc độ tăng GTSX N, LN, TS Tốc độ tăng GTSX CN Tổng giá trị xuất khẩu (Tr,USD) Hải Dương 11 26,9-43,7-29,4 9,02 2,3 17,8 220,5 Hà Nội 11,5 1,5-40,7-57,8 27,8 1,5 16,5 3.576 Hải Phòng 12,5 12-36,8-51,2 14,1 6,1 18 1025 Vĩnh Phúc 15,2 18,8-54,8-26,4 10,99 8,7 16,3 241,6 Hà Tây 12,5 29,6-40-34,4 7,04 4,1 24 112 Bắc Ninh 15,3 23,6-47,8-28,6 10,04 0,7 20,3 167,8 Hưng Yên 13,7 27,8-40,2-32 8,6 4,2 28,2 270 Hà Nam 11,3 28,4-39,8-31,8 6,18 4,8 19,7 45 Nam Định 11,5 32,2-32-35,8 6,2 22,4 30,3 145,9 Thái Bình 10,6 39,6-25,9-34,5 6,77 4,8 23,6 130 Ninh Bình 12,6 27,7-39-33,3 6,4 7,5 17,9 23,6 Quảng Ninh 13,2 7,2-54,3-38,5 14,33 -4 20,5 1090,9 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương So với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thì Hải Dương chỉ có tốc độ phát triển kinh tế vào loại trung bình. Tuy nhiên xét một cách tổng thể trên tất cả các chỉ tiêu thì tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh là rất khả quan, tuy rằng trong những năm gần đây mà cụ thể là năm 2006, tốc độ tăng trưởng trên các mặt có sự sụt giảm so với những năm trước nhưng về giá trị tuyệt đối thì vẫn đạt rất cao chỉ kém Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc. Tổng giá trị xuất khẩu năm 2006 đạt 220,5 triệu USD, kém Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp chỉ là 17,8%, tuy có thấp hơn các tỉnh khác nhưng cũng cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người cũng đạt loại khá là 9,02 triệu đồng/ người. Xét về cơ cấu kinh tế thì Hải Dương nằm trong nhóm tỉnh có cơ cấu kinh tế là công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp với sự chiếm ưu thế của công nghiệp và xây dựng trong tổng vốn đầu tư cũng như tổng giá trị sản xuất. 3, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hải Dương năm 2006 là một cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Với tỷ trọng 43% công nghiệp giữ vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh. Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP chỉ còn là 27%, điều này chứng tỏ vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế của tỉnh không còn giữ vị trí quan trọng nữa nó đang dần được thay thế bằng công nghiệp và dịch vụ. Còn dịch vụ chiếm 30% trong cơ cấu GDP của tỉnh nó đang dần khẳng định vị trí của mình trong phát triển kinh tế. Bảng 1.15: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hải Dương 1995 2000 2002 2004 2006 Tổng 100 100 100 100 100 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 40,6 34,8 32 28,3 27 Công nghiệp, xây dựng 34,9 37,2 39,6 42,4 43 Dịch vụ 24,5 28 28,4 29,3 30 Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Trong nông nghiệp, trồng trọt vẫn là một ngành chính chiếm khoảng 70% giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong công nghiệp, tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2006 là 19.092 tỷ đồng tăng 28% so với năm 2005. Điều này là một tín hiệu đáng mừng vì ngành công nghiệp có sự khởi sắc, giá trị sản xuất ngành không chỉ tăng về con số tuyệt đối mà còn tăng về số tương đối. Các ngành sản phẩm có giá trị tăng trưởng cao là công nghiệp chế biến, công nghiệp xây dựng, dệt may xuất khẩu. Các mặt hàng như xi măng, và một số mặt hàng thủ công đã khẳng định được vị trí và có sức cạnh tranh trên thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Trong đó công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao, khoảng 76% giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Cùng với sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất, các ngành dịch vụ của Hải Dương cũng phát triển theo. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 220,5 triệu USD, trong đó xuất khẩu địa phương là 55,8 triệu USD, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 164,7 triệu USD. Một số nhóm hàng có giá trị xuất khẩu cao là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, giày các loại, hàng may mặc… Cơ cấu lao động trong các ngành chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu lao động trong nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là: 82,35% - 8,99% - 8,66% vào năm 2000; đến năm 2006 thì cơ cấu lao động là 67,5 – 18,2% - 14,3%. Sự chuyển dịch này cũng chứng tỏ ngành công nghiệp và dịch vụ đã có được bước phát triển tích cực để có thể thu hút được lao động dư thừa trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang hoạt động trong hai ngành này. Tuy nhiên tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chưa qua đào tạo vẫn còn khá lớn cho nên chưa đủ trình độ để có thể đáp ứng được yêu cầu làm việc của ngành công nghiệp và dịch vụ. Do vậy cần phải có chiến lược đào tạo sao cho phù hợp để tận dụng hết nguồn lao động dồi dào trong tỉnh là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các cơ quan chức năng. 4, Nguyên nhân kết quả đạt được - Công tác quy hoạch được quan tâm Trong những năm qua công tác quy hoạch đã được quan tâm, trong đó có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, quy hoạch phát triển các ngành, huyện, thành phố, thị trấn, thị tứ, quy hoạch các khu cụm công nghiệp tập trung là cơ sở định hướng đầu tư cho phù hợp và có hiệu quả. Quy hoạch một số ngành, quy hoạch ngắn hạn, dài hạn đã được tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả. Bước đầu gắn quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh với các quy hoạch phát triển bền vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, quy hoạch phát triển các Bộ, ngành trung ương. - Công tác quản lý đầu tư được củng cố và tăng cường Công tác xây dựng và giao kế hoạch đầu tư, chuẩn bị đầu tư từ nguồn vốn ngân sách đã có nhiều đổi mới, được công khai hoá, giúp chủ động trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch hàng năm. Từng bước khắc phục dần tình trạng đầu tư dàn trải để tập trung vốn cho các công trình trọng điểm. Cơ chế sử dụng vốn “mồi” của nhà nước đã có tác dụng thúc đẩy nhanh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nhiều lĩnh vực (giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương…). Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đầu tư và có biện pháp tháo gỡ vướng mắc khó khăn cho các chủ đầu tư và đơn vị thi công nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư. Trong thực hiện kế hoạch, các ngành đã chủ động tham mưu cho tỉnh có biện pháp xử lý điều chuyển vốn của một số công trình tiến độ thực hiện chậm, không có khả năng hoàn thành theo tiến độ cho các công trình có khả năng hoàn thành trong năm kế hoạch để sớm đưa vào khai thác sử dụng. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản theo mô hình một cửa ở các khâu tiếp nhận và thẩm định dự án đầu tư, thiết kế dự toán. Công khai các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thẩm định dự án, thiết kế dự toán, quyết toán công trình so với thời gian quy định. Công tác thông tin chế độ, chính sách về quản lý đầu tư kịp thời giúp cho việc nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư. Trình độ năng lực cán bộ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đã được nâng lên. Hàng năm đều có chương trình tập huấn cho các chủ đầu tư về quản lý đầu tư. - Tích cực khai thác, huy động các nguồn vốn đầu tư: Đẩy mạnh khai thác các nguồn vốn đầu tư của các bộ, ngành trung ương như: chương trình hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn, vốn tài trợ ODA, cải tạo hệ thống cấp thoát nước thành phố Hải Dương, vốn JBIC cho đầu tư đường giao thông, xây dựng trạm cấp nước của một số thị trấn, thị tứ, chương trình mục tiêu quốc gia cho y tế, giáo dục, văn hoá… Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn chế, tỉnh đã cho phép sử dụng nhiều hình thức đầu tư đối với các công trình quan trọng của tỉnh nhưng chưa có khả năng cân đối vốn để đầu tư ngay như hình thức: BOT, BT, ứng vốn thi công; khai thác có hiệu quả nguồn vốn từ quỹ đất cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị: đổi đất lấy công trình, giao đất có thu tiền sử dụng đất, đấu thầu quyền sử dụng đất. Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã bám sát định hướng phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn, tập trung cho vay đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. - Cơ chế chính sách có nhiều đổi mới Với mục tiêu huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong những năm vừa qua tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư như: các quy định về ưu đãi đầu tư trong các khu, cụm công nghiệp tập trung, chính sách hỗ trợ vốn cho đầu tư giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, cấp nước sạch nông thôn…; ban hành các quy định về trình tự và chấp thuận dự án trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện về mặt bằng cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, du lịch và dịch vụ… Các tổ chức tín dụng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư hạ tầng được vay vốn, thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vào bản lãnh tín dụng. IV, MỘT SỐ TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ XDCB 1, Hạn chế - Kết quả thực hiện một số lĩnh vực chưa đạt so với mục tiêu đề ra. Một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đề ra mục tiêu cụ thể trong chương trình như: đầu tư cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển đô thị và nhà ở, hạ tầng làng nghề,…nên chưa tạo thành động lực để thực hiện - Định hướng đầu tư còn hạn chế, việc đầu tư còn thiếu sự đồng bộ nên hiệu quả một số dự án thấp, chất lượng thi công của một số công trình chưa đảm bảo. Đầu tư phát triển chưa gắn với hạ tầng xã hội. - Tình trạng đầu tư dàn trải vẫn chậm được khắc phục. - Một số công trình tiến độ thi công chậm, vốn thanh toán còn kéo dài 2, Nguyên nhân 2.1, Công tác tổ chức thực hiện Một số ngành, địa phương chưa bám sát các mục tiêu của chương trình để chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện hàng năm, đồng thời đề ra các giải pháp thực hiện có hiệu quả, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện chương trình. 2.2 Công tác quy hoạch chưa đáp ứng được với yêu cầu Triển khai và thực hiện chưa đồng bộ giữa 3 loại quy hoạch đó là quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng nên việc định hướng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở một số lĩnh vực thiếu tính đồng bộ. Tiến độ lập quy hoạch còn chậm, nhất là quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch khu, cụm công nghiệp tập trung, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch chi tiết thị trấn, xã. Một số dự án sau khi có chủ trương đầu tư mới tiến hành lập quy hoạch tổng thể và chi tiết nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án; nhiều dự án đã có chủ trương đầu tư nhưng không triển khai đựơc do khó khăn về địa điểm, hoặc nếu có triển khai được thì chi phí đền bù giải phóng mặt bằng quá lớn. Chất lượng nhiều đồ án quy hoạch thấp, không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và thiếu sự định hướng lâu dài. Tầm nhìn của các quy hoạch còn hạn chế do thiếu thông tin dự đoán, dự báo. Tính đồng bộ của các loại quy hoạch với việc triển khai đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và quản lý quy hoạch còn yếu nên quy hoạch phải bổ sung, chỉnh sửa, chắp vá, thậm chí bị phá vỡ. Vấn đề công khai hoá các quy hoạch sau khi được duyệt chưa được quan tâm nên khi thực hiện gặp khó khăn do người dân chưa nắm được chủ trương quy hoạch của tỉnh, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện dự án. 2.3, Công tác quản lý đầu tư còn nhiều yếu kém Trong khi nhu cầu đầu tư lớn, khả năng cân đối vốn còn hạn chế, kế hoạch đầu tư của một số ngành, địa phương chủ yếu trông chờ vào vốn ngân sách nên đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung. Việc bố trí vốn cho dự án nhóm C còn kéo dài quá 2 năm dẫn tới tình trạng nợ đọng vốn kéo dài, thậm chí có công trình đã hoàn thành từ cách đây vài năm nhưng vẫn chưa bố trí đủ vốn, ảnh hưỏng tiến độ thi công, chất lượng công trình và hoạt động của các đơn vị xây lắp. Một số dự án đầu tư hiệu quả thấp do xây dựng không có quy hoạch, không dựa trên quy hoạch, quá trình khảo sát lập dự án chưa đánh giá được đầy đủ về hiệu quả kinh tế, về ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, môi trường. Một số dự án, chương trình đầu tư của trung ương và địa phương chưa có sự lồng ghép nên hạn chế hiệu quả đầu tư. Một số dự án thi công chậm do khó khăn về vốn, đền bù giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công chậm, không đảm bảo tiến độ được giao. Một số dự án có trong kế hoạch chuẩn bị đầu tư nhưng nhiều chủ đầu tư vẫn còn lúng túng trong việc triển khai lập dự án, dẫn đến tiến độ lập dự án của một số công trình còn chậm, không đảm bảo tiến độ được giao, không đủ thủ tục để giải ngân vốn. Trình độ, năng lực về quản lý đầu tư của nhiều chủ đầu tư còn hạn chế: nhiều dự án chủ đầu tư giao việc lập dự án cho các đơn vị tư vấn nhưng thiếu sự kiểm tra, kiểm soát và xem xét dự án trước khi tổ chức thẩm định cũng như trong quá trình thực hiện dự án. Trình độ, năng lực của một số đơn vị tư vấn còn hạn chế, chất lượng lập dự án không đảm bảo yêu cầu, nhiều dự án lập còn sơ sài, phải chỉnh sửa, bổ sung nhiều lần. Công tác cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng cơ bản còn chậm và chưa thực hiện triệt để. Hiện nay cải cách hành chính theo mô hình một cửa mới chỉ thực hiện ở từng công đoạn, chưa có sự kết nối cả quá trình thực hiện dự án. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn chế. Chế độ chính sách về quản lý đầu tư trong những năm qua có nhiều thay đổi, một số quy định chưa phù hợp với thực tế nên khó khăn trong công tác quản lý đầu tư. 2.4, Khả năng huy động vốn chưa đáp ứng được với nhu cầu đầu tư Một số ngành, địa phương chưa tích cực và chủ động đề xuất các giải pháp huy động vốn đầu tư, chủ yếu trông chờ vào nguồn vốn ngân sách. Việc cân đối vốn cho công tác chuẩn bị đầu tư vẫn còn thấp, nhất là vốn cho công tác quy hoạch nên ảnh hưởng đến công tác thu hút vốn đầu tư. Việc triển khai các nguồn vốn ODA, JBIC, vốn tài trợ còn thấp so với tổng vốn đầu tư; các dự án sử dụng vốn ODA, JBIC tiến độ giải ngân chậm. Vốn thực hiện chủ yếu là vốn vay ngân hàng với lãi suất cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả chung của dự án, dự án tiềm ẩn khả năng rủi ro cao. Trong khi nhu cầu đầu tư lớn nhưng cơ chế chính sách chậm được đổi mới nên chưa khai thác hết tiềm năng nội lực cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. 2.5, Công tác giám sát trong quá trình thi công Tình trạng sử dụng vật tư, vật liệu không đúng quy cách, không có xác nhận quy cách, chất lượng, không đầy đủ chứng từ, hoá đơn…là hiện tượng khá phổ biến trong đầu tư xây dựng cơ bản nói chung. Bên cạnh đó, tình trạng khoán trắng cho các đội trực tiếp sản xuất ở các đơn vị thi công cũng tương đối phổ biến. Khối lượng và chất lượng vật tư, nhân công…dùng cho thi công công trình gần như không thể quản lý, kiểm soát được. Công tác giải phóng mặt bằng hiện nay ở nhiều địa phương đang gặp rất nhiều khó khăn do chưa có một cơ chế thống nhất trong việc đền bù giải phóng mặt bằng. Sự chưa thống nhất trong phương án đền bù, đơn giá đền bù và việc triển khai khu tái định cư còn vướng mắc dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công, gây lãng phí thời gian và tiền bạc. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng mặc dù đã có nhiều tích cực song còn gặp nhiều khó khăn. Công tác quản lý đầu tư còn những tồn tại như việc lập và phê duyệt dự án đầu tư ở các cấp chưa xem xét kỹ lưỡng, do đó khi triển khai dự án gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng thiếu vốn, làm cho thời gian thi công kéo dài chậm đưa vào sử dụng khai thác, làm giảm hiệu quả đầu tư. 2.6, Sai sót trong khâu thanh quyết toán Dự toán thường do các đơn vị thi công lập mà không loại trừ phần giá trị tùng giữa các công việc, giữa các hạng mục hoặc áp giá cao hơn đơn giá quy định. Công tác thẩm định, phê duyệt dự toán cũng còn chưa hiệu quả, chưa chính xác. Khi tiến hành thẩm định quyết toán các cơ qaun chức năng thường chấp nhận thanh toán nếu quyết toán bằng dự toán. Chính việc thẩm định không kỹ cũng đã góp phần làm cho quyết toán không chính xác. Vì vậy ngân sách nhà nước đã phải chi trả hết cả chi phí lập, thẩm định, phê duyệt dự toán, quyết toán bao gồm cả phần dự toán, quyết toán không chính xác. Tình trạng này đã làm giảm hiệu quả đầu tư, và gây thất thoát, lãng phí vốn. Công tác cấp phát vốn thanh toán cũng còn chậm. Một phần do ban quản lý dự án không tích cực làm thủ tục thanh toán cho bên B, mặt khác nhiều chủ đầu tư lại tập trung thanh toán vào cuối năm gây khó khăn cho ngân sách trong việc thanh toán. Nhiều dự án do chất lượng lập dự án, tư vấn thiết kế chưa đạt yêu cầu cho nên khi triển khai đã phát sinh thêm nhiều khối lượng công viêc, tổ chức nghiệm thu chưa chặt chẽ hoặc chưa đảm bảo thủ tục đầu tư nên không đựoc thanh toán do khối lượng nghiệm thu chưa có dự toán chi tiết được duyệt. 3. Những bài học kinh nghiệm. - Công tác định hướng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và đề ra các mục tiêu, giải pháp thực hiện phải phù hợp với tình hình thực tế và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, quy haọch phát triển ngành, quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch xây dựng. - Công tác thu hút vốn đầu tư và quản lý đầu tư được coi trọng và xác định là nhiệm vụ quan trọng để huy động mọi nguồn lực cho đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. - Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu của chương trình nhằm phát huy trí tuệ và sức mạnh tổng hợp thông qua việc xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm và đề xuất các giải pháp thực hiện. Công tác tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm tiến hành thường xuyên và được tập trung điều hành của các cấp, kịp thời có giải pháp khắc phục hạn chế trong quá trình thực hiện chương trình. CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG. I, Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dưong giai đoạn 2006 - 2010. Giai đoạn 2006-2010 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lượcc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và định hướng mục tiêu phát triển đến năm 2020 với nhiều cơ hội và thách thức mới trong quá trình hội nhập. Ngoài bối cảnh chung trong nước và thế giới tác động vào, tỉnh Hải Dương còn có những thuận lợi và khó khăn thách thức nội tại. Những thuận lợi cơ bản là: Tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế liên tục tăng trưởng; cơ sở hạ tầng, năng lực sản xuất, trình độ, kinh nghiệm quản lý trên các lĩnh vực bước đầu được tích luỹ, là tiền đề quan trọng cho bước phát triển trong thời gian tới, công cuộc đổi mới được tiếp tục đẩy mạnh, cơ chế quản lý từng bước được hoàn thiện, hệ thống quản lý nhà nước và hệ thống pháp luật đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của quản lý, tạo hành lang thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội; vị trí địa lý, giao thông có nhiều thuận lợi. Những khó khăn, thách thức cơ bản là: Quy mô nền kinh tế nhỏ, trình độ công nghệ và chất lượng lao động còn thấp; chưa có sản phẩm mũi nhọn với sức cạnh tranh cao, nhiều vấn đề về xã hội, nhất là việc làm, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường… trở nên gay gắt, tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng vẫn là một nguy cơ lớn cản trở sự phát triển; thiên tai, bệnh dịch có thể xảy ra. 1, Mục tiêu tổng quát Tiếp tục đoàn kết, đổi mới, tận dụng mọi thời cơ và chủ động tạo ra cơ hội mới, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân chung của cả nước, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần cho nhân dân; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bảỏ vệ sức khoẻ cộng đồng. Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự và an toàn xã hộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDT48.docx