Đề tài Tìm hiểu hoạt động PR (Quan hệ công chúng) của các Doanh nghiệp Kinh doanh Xuất Bản Phẩm

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu hoạt động PR (Quan hệ công chúng) của các Doanh nghiệp Kinh doanh Xuất Bản Phẩm: KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GV hướng dẫn: ThS Lê Phương Nga SV thực hiện: Lê Nhị Hà- PH 23B Đề tài: Tìm hiểu hoạt động PR (Quan hệ công chúng) của các Doanh nghiệp Kinh doanh Xuất Bản Phẩm Lời nói đầu “Cảm tình của công chúng là tất cả. Có được cảm tình này, chúng ta không thể nào thất bại, không có được cảm tình này, chúng ta không thể nào thành công.” Abramham Lincoln đã nhấn mạnh tầm quan trọng và tính quyết định của công chúng đối với thành công hay thất bại của chúng ta. Phải khẳng định rằng PR đã tồn tại và luôn luôn có mặt trong hoạt động của con người nói chung nhưng nó trong thế kỷ 21 này- thế kỷ thông tin, vai trò của mối quan hệ với công chúng càng được khẳng định. Và PR- Public Relations (tiếng Việt là quan hệ công chúng) đã là một hoạt động không thể thiếu được trong bất cứ doanh nghiệp, tổ chức nào. Chính vì muốn tìm hiểu thêm những kiến thức về PR nói chung và những vai trò của nó đối với các doanh nghiệp KD XBP để từ đó đưa ra một số giải pháp để giúp hoạt động nà...

docx61 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1069 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu hoạt động PR (Quan hệ công chúng) của các Doanh nghiệp Kinh doanh Xuất Bản Phẩm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GV hướng dẫn: ThS Lê Phương Nga SV thực hiện: Lê Nhị Hà- PH 23B Đề tài: Tìm hiểu hoạt động PR (Quan hệ công chúng) của các Doanh nghiệp Kinh doanh Xuất Bản Phẩm Lời nói đầu “Cảm tình của công chúng là tất cả. Có được cảm tình này, chúng ta không thể nào thất bại, không có được cảm tình này, chúng ta không thể nào thành công.” Abramham Lincoln đã nhấn mạnh tầm quan trọng và tính quyết định của công chúng đối với thành công hay thất bại của chúng ta. Phải khẳng định rằng PR đã tồn tại và luôn luôn có mặt trong hoạt động của con người nói chung nhưng nó trong thế kỷ 21 này- thế kỷ thông tin, vai trò của mối quan hệ với công chúng càng được khẳng định. Và PR- Public Relations (tiếng Việt là quan hệ công chúng) đã là một hoạt động không thể thiếu được trong bất cứ doanh nghiệp, tổ chức nào. Chính vì muốn tìm hiểu thêm những kiến thức về PR nói chung và những vai trò của nó đối với các doanh nghiệp KD XBP để từ đó đưa ra một số giải pháp để giúp hoạt động này phát triển và mang lại hiệu quả cho các DN XBP nên tôi đã lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu hoạt động PR- quan hệ công chúng của các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình . Bài khóa luận gồm có 3 phần chính : Chương 1: Những khái quát chung về PR và vai trò của nó đối với doanh nghiệp XBP Chương 2 : Tình hình phát triển của hoạt động PR trong các doanh nghiệp XBP Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tác dụng của PR trong các doanh nghiệp XBP ******************* Chương 1: Những khái quát chung về PR và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp XBP 1.1 : Những khái quát chung về PR-Quan hệ Công chúng 1.1.1: Định nghĩa PR Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về PR.Những người làm PR đưa ra những cách hiểu khác nhau về nó. Điều này cũng dễ hiểu bởi PR là một lĩnh vực hoạt động rất phong phú và những người làm PR có thể tiếp cận nó dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nội dung chính vẫn là cung cấp kiến thức cho công chúng, trong đó bao hàm mục đích thay đổi nhận thức của họ. Như vậy, PR là một hình thức giao tiếp, nó được áp dụng trong tất cả các dạng tổ chức, cả thương mại và phi thương mại, trong khu vực tư nhân và nhà nước. PR xuất hiện sớm hơn cả tiếp thị và quảng cáo, và phạm vi hoạt động của nó rộng hơn. Trong số các định nghĩa đó có 3 định nghĩa được chấp nhận trên phạm vi quốc tế và quen thuộc với các chuyên gia PR. - Định nghĩa của Viện nghiên cứu PR Anh : PR là một nỗ lực được lên kế hoạch và kéo dài liên tục để thiết lập và duy trì sự tín nhiệm, hiểu biết lẫn nhau giữa một tổ chức và công chúng Định nghĩa này nhấn mạnh hoạt động PR được tổ chức thành một chiến dịch hay chương trình và là một hành động liên tục và nó không thể không có kế hoạch. - Hiệp hội PR thế giới :PR là một nghệ thuật và môn học khoa học xã hội phân tích những xu hướng, dự đoán những kết quả, tư vấn cho các nhà lãnh đạo của tổ chức, và thực hiện các chương trình hành động đã được lập kế hoạch để thực hiện quyền lợi của tổ chức và công chúng Định nghĩa này chú trọng đến việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu trước khi lên kế hoạch PR và khía cạnh xã hội của một tổ chức, một doanh nghiệp. Một tổ chức, doanh nghiệp sẽ được đánh gia qua sự quan tâm và trách nhiệm của nó đối với quyền lợi của công chúng. PR liên quan đến sự tín nhiệm và danh tiếng của tổ chức. - Frank Jefkins ( tác giả của “ Public Relations” – Frameworks do Tạp chí Tài chính thời đại xuất bản ) : PR bao gồm tất cả các hình thức giao tiếp được lên kế hoạch, cả bên trong và ngoài tổ chức, giữa một tổ chức và công chúng, của nó nhằm đạt đựoc những mục tiêu cụ thể liên quan đến sự hiểu biết lẫn nhau Tác giả muốn nhấn mạnh khía cạnh hoạt động có mục tiêu cụ thể của PR ( không chỉ là sự hiểu biết lẫn nhau chung chung), và như vậy chúng ta có thể đánh gia mức độ thành công hay thất bại của một chiến dịch PR dựa trên những mục tiêu để ra. Không chỉ vậy ông còn muốn nói đến khả năng có thể áp dụng việc quản lý trong hoạt động PR. Một khi đã đặt ra những mục tiêu cụ thể thì ta có thể quan sát được và đo lường các kết quả của hoạt động PR. Trong những trường hợp cần thiết, các kỹ thuật nghiên cứu marketing có thể được sử dụng để đo lường mức độ thành công hay thất bại của một chiến dịch PR. Khẳng định này ngược lại với ý tưởng cho rằng PR là mơ hồ, không cụ thể. Các định nghĩa khác về PR Các tác giả cuả cuốn “Nghề PR: Quan hệ công chúng” coi “ cơ sở chủ yếu cuả hoạt động PR là cung cấp thông tin cho công chúng, xây dựng thông tin hai chiều giữa công chúng và tổ chức, tạo nên sự hiểu biết và ủng hộ của công chúng. Hay hiệp hội PR Mỹ lại quan niệm : “ PR giúp cho một tổ chức và công chúng của nó thích ứng với nhau”. 1.1.2: Quá trình hình thành và phát triển 1.1.2.1: Lịch sử ra đời và hình thành Có nhiều người lầm tưởng là PR mới xuất hiện trong một vài năm qua hay là trong thế kỷ 20 mà thôi. Nhưng có thể khẳng định rằng PR ra đời cùng với nền văn minh của nhân loại, bởi nhu cầu giao tiếp và mong muốn người khác hiểu mình ở con người là rất lớn. Từ xa xưa, ngay trước khi có chữ cái, ký tự và số ra đời, người ta dùng chữ tượng hình như công cụ giao tiếp. Tất cả những bức tranh vẽ trong hang động của người tiền sử, các kim tự tháp, đền thờ cách đây hàng ngàn năm đều chứa đựng một thông điệp nào đó. Ngày nay, tại các sân bay chúng ta có thể nhận ra ngay các hãng hàng không thông qua màu sắc đặc trưng, logo và đồng phục của các nhân viên. Tập hợp những yếu tố này người ta gọi là văn hóa doanh nghiệp ( corperate identity) hay thương hiệu ( brand) đối với các tổ chức kinh doanh. Đây là một cách giao tiếp hiệu quả, vì chỉ cần nhìn những yếu tố này, chúng ta có thể nhận biết và phân biệt được các tổ chức. Cho đến nay vẫn có rất nhiều cuộc tranh cãi, những ý kiến trái ngược nhau về ý nghĩa của cụm từ “ public relations” cũng như sự ra đời, xuất hiện và sử dụng nó trên trong xã hội nhưng cụm từ “ public relations”- “quan hệ công chúng” được sự dụng với ý nghĩa hiện nay bắt đầu từ năm 1897 khi nó xuất hiện trong cuốn “ Niên giám Bài văn hay của ngành đường sắt” thuộc Hiệp hội Ngành Đường sắt Mỹ. Thành công thực sự của từ này có thể nói là thuộc về ông Edward L.Berneys- người được coi là “ Cha đẻ của ngành PR” Berneys là người đầu tiên gọi mình là “ Chuyên viên tư vấn PR”, vào 1921. Hai năm sau đó ông đã viết sách về đề tài “ Kết tinh Quan niệm Công chúng” cũng như dạy khóa đầu tiên về PR tại đại học New York. Như vậy vào đầu thế kỷ 20, PR đã trở thành cụm từ chính thức và được xem là một nghề, một chương trình đào tạo mang tính học thuật. Trong lúc ngành xã hội học còn đang trong thời kỳ sơ khởi, Berneys đã tiến hành nghiên cứu tâm lý học. Hoạt động này được triển khai và kiểm chứng thông qua những lời khuyên mà ông đưa ra cho tập đoàn Procter & Gamble ( P&G) giải quyết các vấn đề khủng hoảng xảy ra trong vài thập kỷ trước đây. Khi đó P&G phải đối đầu với việc những người da đen “ tẩy chay” hàng hóa trong chiến dịch quảng cáo của mình… Sau khi nghiên cứu, Berneys khuyên P&G loại bỏ những yếu tố phân biệt chủng tộc trong chiến dịch quảng cáo của họ, và thuê những người da đen làm công việc văn phòng và mời những người da đen đến dự lễ khánh thành nhà máy. Ngay lập tức khủng hoảng được giải quyết và hình ảnh P&G được cải thiện. Nhưng với tất cả những ảnh hưởng của mình trong ngành PR, Bernays không phải là người sáng lập ra ngành PR bởi nhiều tác giả cho rằng Bernays đã học PR trong khi phục vụ Geogre Creel’s Committee về thông tin công cộng, nhằm mục đích gia tăng sự ủng hộ của công chúng đối với nước Mỹ trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Để hiểu rõ ngành PR, cần thiết phải xem xét những thực tế toàn cầu. Nhiều người Mỹ nghĩ rằng, PR đã phát triển từ Mỹ, và thực tế là người Mỹ đã đóng góp rất nhiều cho lý thuyết và thực hành PR. Tuy nhiên, nhiều quốc gia và khu vực khác cũng có truyền thống lịch sử lâu dài trong hoạt động thực hành PR: chỉ là khác nhau về hình thức và kỹ thuật. Van Ruler và Vercic cho rằng PR Cộng đồng Châu Âu đã tồn tại hơn một thế kỷ, điều này thể hiện qua công ty Krups thành lập bộ phận quan hệ báo chí vào 1870; Giai đoạn sơ khai của PR thực hành tại nước Anh là vào những năm 1920, và văn phòng đầu tiên được thành lập ở Hà Lan vào đầu thế kỷ 20. Hà Lan là đất nước có hiệp hội nghề PR chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới, được thành lập vào năm 1946. Một số chuyên gia Ả Rập cho rằng Mohammed là chuyên gia PR đầu tiên trong nền văn minh của họ, mặc dù trong thế giới Ả Rập, PR và quảng cáo đựơc sử dụng sau những năm 1930. Có ý kiến lại cho rằng ngành PR đã được bắt đầu tại Trung Quốc cách đây hàng nghìn năm. Anantachart cho rằng, tại Thái Lan, PR đã phát triển từ năm 1283, khi đức vua phát triển những ký tự đầu tiên của Thái. Ông thiết lập hệ thống giao tiếp hai chiều với thần dân của mình bằng cách thiết lập lập một cái chuông to phía ngoài lâu đài của mình. Thần dân có thể đánh chuông, và Đức vua sẽ phán xét, giúp giải quyết vấn đề của dân chúng. Rõ ràng nhiều kỹ thuật và cách thức từ các nước trên thế giới đã triền khai trong suốt tiến trình lịch sử có thể rất xa lạ với các chuyên gia thực hành hiện nay, nhưng trong nhiều phương cách, mục tiêu và mục đích của PR vẫn không thay đổi. 1.1.2.2:Nguồn gốc của PR hiện đại Trong việc tạo ra những thay đổi xã hội, khi chính phủ ở các nước đang phát triển phải “ đi đầu”, chính phủ ở Mỹ và châu Âu áp dụng phương pháp PR. Năm 1809, Bộ Tài chính Anh đã bổ nhiệm một phát ngôn viên báo chí. Năm 1854, Bưu điện trong báo cáo thường niên đầu tiên đã tuyên bố cần phải giải thích những dịch vụ của mình cho công chúng. Một trong những lần sử dụng PR đầu tiên của chính phủ Anh là vào năm 1912 khi Lloyd George, Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh tổ chức một đội ngũ diễn thuyết để giải thích chương trình trợ cấp người già. Sau chiến tranh thế giới I, chính phủ Anh tiếp tục sử dụng các kỹ năng PR để giải thích chính sách nhà ở và sức khỏe. Trong giai đoạn 1926- 1933, một trong những người nỗ lực sử dụng PR ở Anh là Ngài Stephen Tallents, đại diện cho Ủy ban Tiếp thị ( Empire Marketing Board). Một triệu bảng Anh được dùng để thực hiện chiến dịch tiếp thị trái cây và những sản phẩm khác của Ủy ban với công chúng Anh, sử dụng các phương cách như phim ảnh, áp phích quảng cáo và triển lãm. Năm 1948, Tallents trở thành chủ tịch đầu tiên của Viện Quan hệ Công chúng ( Institute of Public Relations). Năm 1948 là một năm lịch sử trong lĩnh vực PR ở cả nước Anh và Mỹ. Trong năm nay, Viện Quan hệ Công chúng ( Institute of Public Relations ) và Tổ chức Quan hệ Công chúng Mỹ ( Public Relations Society of America) được thành lập. 1.1.2.3: Các công cụ, chiến lược, chiến thuật PR trong suốt tiến trình lịch sử Trong suốt tiến trình lịch sử: PR đã được sử dụng để khuyến kích chiến tranh, để vận động hành lang cho các nguyên nhân chính trị, để hỗ trợ các phe đẳng chính trị, để khuyến khích tôn giáo, để bán hàng, để tăng tiền tệ và để tuyến bố các sự kiện và con người. Thực vậy, hầu hết các tính năng mà xã hội hiện đại tìm thấy ở PR không mới, và PR thực hành hiện đại đã học rất nhiều từ việc nghiên cứu các chiến dịch thực hiện bởi các chuyên gia trước đây. Vào năm 1095, Pope Urban đệ II khuyến khích chiến tranh và ông ta truyền tải thông điệp theo các kênh mà ông ta có được thời  bấy giờ nhằm đạt được mục đích. PR và các hoạt động liên quan đã được sử dụng nhằm khuyến kích tôn giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và chúng ta cũng đã hình thành được từ “tuyên truyền”. Tuy nhiên, các học giả về PR nhận thức rằng một trận chiến Hoàng đế đạt được trong lịch sử những người nổi tiếng và các sự kiện đặc biệt không thể hoàn toàn giải thích tiến trình phát triển của PR, tầm nhìn vào các giai đoạn phát triển xã hội rất cần thiết cho việc am hiểu những sự kiện này. 1.1.2.4: Sự phát triển của văn phòng tư vấn PR Nước Mỹ tuy không phát minh ra PR nhưng cũng có rất nhiều đóng góp trong việc phát triển các văn phòng tư vấn PR. Một trong những văn phòng tư vấn đầu tiên được thành lập bởi nhà báo Ivy Ledbetter Lee, người đảm nhận công tác PR cho một cơ sở công nghiệp than đá và hãng Đường sắt Pénnylvania. Năm 1914, ông trở thành cố vần cho nhà tài phiệt dầu lửa John D. Rockefeller. Lee đã phải cố gắng để có những bài báo công bình trong thời kỳ ngành đường sắt và than đá gặp khủng hoảng. Ông đã tạo ra mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa các ông chủ trong ngành và giới báo chí. Ông đã tiến xa hơn và thiết lập những nguyên tắc cơ bản cho quan hệ báo chí. Trong lời phát biểu nổi tiếng của ông trước giới báo chí năm 1906 có nêu ra những nguyên tắc đó – cam đoan rằng ông sẽ “ cung cấp thông tin về những đề tài có giá trị và đáng quan tâm cho công chúng một cách nhanh chóng và chính xác”. Mặc dù PR bắt đầu được áp dụng trong chính phủ Anh cách đây khoảng 200 năm nhưng thật sự ngành nghề tư vấn ở Anh bắt đầu muộn hơn ở Mỹ. Điều này phần lớn là do Chiến tranh thế giới thứ II, khi ngành thương mại hoàn toàn bị lơ là ở Anh và những sản phẩm chính được phân phát theo dạng khẩu phần, chứ không phải được tự do mua bán. Nhưng sau chiến tranh, vào cuối những năm 1940 nhiều người làm quảng cáo tham gia công việc tuyên truyền cho các bộ, bắt đầu nhờ đến công tác tư vấn PR. 1.1.2.5: Sự phát triển của phương tiện truyền thông và tác động của nó tới hoạt động PR Cùng với sự phát triển của PR hơn 200 năm qua là sự phát triển của phương tiện truyền thông. Trước khi có các phương tiện hiện đại hơn như truyền hình và vệ tinh thì báo chí, đài phát thanh và phim ảnh đóng một vai trò quan trọng. Đi cùng với sự phát triển của những phương tiện truyền thông này là sự tăng lên của dân trí. Việc ngộ nhận PR là cái gì mới mẻ cũng có thể là do trong những năm gần đây chúng ta được tiếp xúc với nhiều phương tiện truyền thông mới. Nhờ đó, việc giải thích hay giúp công chúng hiểu biết hơn về nhiều đề tài trở nên dễ dàng và cần thiết hơn. Mọi thứ đều có tính hai mặt. Bên cạnh những thuận lợi mà các phương tiện truyền thông hiện đại mang lại còn có những điều bất lợi. Chúng ta đem đến những thông tin tốt và cả tin tức xấu. Như chúng ta thấy các dịch vụ truyền hình quốc tế như CNN có thể cung cấp cho chúng ta nhanh chóng những tin tức tồi tệ nhất đúng như thực tế diễn ra. Nếu tin tức này liên quan đến một công ty hay chính quyền, thì chuyên viên PR phải làm việc khẩn cấp để điều chỉnh ngay những thông tin sai lệch, hay phải trình bày những thông tin chính xác về biến cố đó. Khi có khủng hoảng, như xưởng hóa chất của công ty bị nổ tung, máy bay bị tai nạn hay khách sạn bị cháy, doanh nghiệp hay tổ chức sẽ không có thời gian để cố gắng trình bày với khách hàng những mặt tốt đẹp. Hơn bao giờ hết, PR phải giải quyết sự việc với đúng bản chất của chúng – xấu, tốt hay bình thường. Và như vậy PR phải luôn tươi mới như thế giới mà nó đang hoạt động. 1.1.3: Phân biệt PR và các hoạt động khác 1.1.3.1: PR, tiếp thị và quảng cáo Viện những người hoạt động trong ngành quảng cáo của Anh( Institue of Practitioners in Advertising) đưa ra định nghĩa về quảng cáo như sau: “ Quảng cáo trình bày thông điệp bán thuyết phục và hợp lý nhất cho những khách hàng tuơng lai để có thể bán sản phẩm hay dịch vụ với mức giá thấp nhất có thể”. Theo định nghĩa này thì thông qua những kỹ năng sáng tạo trong việc viết lời quảng cáo, minh họa, bố trí, trình bày bản in, viết bản thảo và làm video dựa trên 1 chủ đề hay trong việc chọn phương tiện truyền thông để thực hiện. Trọng tâm được đặt lên việc bán, khác biệt với vai trò của PR là cung cấp thông tin, giáo dục và tạo sự hiểu biết thông qua kiến thức. Một chương trình quảng cáo sẽ có nhiều khả năng thành công hơn nếu trước đó có hoạt động PR hỗ trợ, cung cấp kiến thức cho khách hàng tiềm năng về sản phẩm hay dịch vụ đang được quảng cáo. Nó thực tế và đúng đắn hơn việc chỉ đơn thuần dựa vào quảng cáo để tiến vào một thị trường mới hoặc giới thiệu một sản phẩm hay dịch vụ mới chưa được biết đến. Nhiều sản phẩm đã thất bại, không bán ra được đơn giản chỉ vì không có sự cung cấp kiến thức cho thị trường, và như thế chi phí quảng cáo bị lãng phí. Còn “tiếp thị là một quá trình quản lý – có nhiệm vụ xác định, dự đoán, và đáp ứng yêu cầu của khách hàng để thu lợi nhuận.” - theo định nghĩa của Viện nghiên cứu thị trường đặc quyền của Anh ( Chartered Institue of Marketing) Như vậy, PR hay giao tiếp cộng đồng là việc một cơ quan tổ chức hay doanh nghiệp chủ động quản lý các quan hệ giao tiếp cộng đồng để tạo dựng và giữ gìn một hình ảnh tích cực của mình. Các hoạt động PR bao gồm việc quảng bá thành công, giảm nhẹ ảnh hưởng của các thất bại, công bố các thay đổi, và nhiều hoạt động khác. Có thể hiểu nôm na PR là tạo các mối liên hệ ảnh hưởng đối với môi trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp. Nó tác động hoặc thay đổi nhận thức, định kiến, quan niệm… một cách có lợi cho tổ chức. Chính vì dấu hiệu này mà nhiều người thường đồng nhất PR và quảng bá thương hiệu (Thực chất quảng bá thương hiệu dù rất quan trọng nhưng cũng chỉ là một trong rất nhiều lĩnh vực của PR mà thôi. Thậm chí, quảng bá được coi là mô hình “sơ khai nhất của PR”. (Dozier.1995). Trong khi đó, mục tiêu của tiếp thị và quảng cáo là bán sản phẩm, hoặc dịch vụ được khách hàng chấp nhận. Với tiếp thị và quảng cáo, đối tượng tác động là nhóm công chúng được coi là khách hàng tiềm năng. Còn với PR, đối tượng và phạm vi liên quan lớn hơn và đa dạng hơn rất nhiều. Có thể lấy ví dụ như để tiếp thị và quảng cáo cho sản phẩm Bia Hà nội loại chai 330ml, các nhân viên tiếp thị và bộ phận phụ trách các đại lý thuộc Tổng công ty Rượu bia và nước giải khát Hà Nội (Habeco) hướng vào các nhóm đối tượng có khả năng nhiều nhất để có thể bán được sản phẩm này ra thị trường. Song song với việc tiếp thị và quảng cáo, Tổng công ty này cũng có thể làm công việc xây dựng và quảng bá thương hiệu Bia Hà nội 330 (tức là làm PR) bằng cách xác định, phân tích, tác động và truyền thông đến các nhóm công chúng rộng rãi hơn. Những hoạt động PR có thể làm là: tác động đến công chúng trẻ tuổi thông qua tài trợ cho các giải bóng đá, bóng chuyền, tổ chức các buổi uống bia miễn phí tại các câu lạc bộ tennis, tặng bia các khách sạn, nhà hàng nổi tiếng ở các tỉnh, thành phố, UBND các tỉnh, thành, thị xã … vào những ngày lễ đặc biệt, hoặc các buổi chiêu đãi cấp cao…Mục tiêu của các hoạt động này không phải đơn thuần chỉ là bán được hàng là xây dựng hình ảnh của sản phẩm bia Hà nội 330, và hơn thế nữa là thông qua đó, hình ảnh của Habeco được công chúng biết đến, cảm tình và “thân thiết”. Công chúng của PR trong trường hợp này không đơn thuần chỉ là khách hàng, người mua sản phẩm Bia Hà Nội 330, mà là tất cả các nhóm công chúng có liên quan: các nhân vật nổi tiếng, những cá nhân, nhóm người có khả năng gây ảnh hưởng, các đối tác, các đại lý, khách hàng tiềm năng. Rõ ràng, mục tiêu và công chúng của PR rộng hơn rất nhiều so với tiếp thị và quảng cáo. Trong các mục tiêu của PR, luôn có mục tiêu của tiếp thị và quảng cáo (tức là mục tiêu bán được hàng), nhưng không phải là bán hàng đơn thuần. Mục tiêu của PR khác so với mục tiêu của tiếp thị và quảng cáo là bán hàng dựa trên cơ sở cung cấp thông tin, tạo sự hiểu biết, từ đó thay đổi nhận thức, định kiến, quan niệm của khách hàng không chỉ là sản phẩm mà là những con người, những nhóm người làm ra sản phẩm đó với tất cả hình dáng, phương thức làm ăn, định hướng giá trị, động lực và mục tiêu hướng tới của họ. Để quảng cáo và bán hàng, bộ phận phụ trách tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp phải cung cấp thông tin cho khách hàng. Các nhân viên tiếp thị và các hình thức quảng cáo, giới thiệu bằng tờ rơi, các quảng cáo đăng tải trên báo chí cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng khác là những thông điệp 1 chiều từ người bán hàng đến những công chúng có khả năng sẽ mua hàng. Thông tin trong quảng cáo là thông tin 1 chiều. Còn trong PR, do mục tiêu tác động không dừng lại ở cung cấp thông tin về sản phẩm và mời gọi mua hàng, để tạo ra sự hiểu biết và cảm tình của công chúng, để tác động đến nhận thức, tình cảm và giáo dục công chúng, PR cần xây dựng một môi trường thông tin 2 chiều giữa chủ thế PR và công chúng.Việc nghiên cứu công chúng, thu nhận và xử lý thông tin phản hồi, xây dựng và điều chỉnh chiến lược và chương trình truyền thông, quản lý các thông tin phát ra là những công việc dành cho các nhân viên PR, chứ không phải dành cho các nhân viên bán hàng và tiếp thị. Để tiếp thị sản phẩm, các quảng cáo được thiết kế và các doanh nghiệp trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đăng tải quảng cáo.Quảng cáo là các thông điệp mang tính chủ quan của người giới thiệu sản phẩm, doanh nghiệp, áp đặt cho công chúng trong quá trình tiếp nhận. PR không dùng cách như vậy. Các nhân viên PR tổ chức các sự kiện, họp báo và chuyển thông điệp chính thức của tổ chức, doanh nghiệp của mình đến các nhà báo và các ở quan báo chí. PR cung cấp thông tin cho các nhà báo viết các bài báo, mang tính khách quan giới thiệu vế sản phẩm, doanh nghiệp... Công chúng được tiếp nhận thông tin chính thức, khách quan, từ đó tăng hiểu biết về sản phẩm, con người thương hiệu, hình thành một hình ảnh xác định về sản phẩm và doanh nghiệp. Vì thế Quảng cáo mua được, mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu độ tin cậy và đắt. Còn PR thì chỉ có thể có được bằng nỗ lực, mang tính khách quan, có độ tin cậy cao hơn và rẻ hơn rất nhiều so với quảng cáo, nếu xem xét những kết quả thu được từ nó. Trong thực tế, mối quan hệ giữa PR- tiếp thị - quảng cáo là mối quan hệ không thể tách rời.. Một doanh nghiệp sẽ bị mất tín nhiệm nếu theo đuổi lợi nhuận tối đa làm gia tăng phí tổn cho khách hàng. PR thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với công chúng. Một cách chung nhất, tiếp thị và quảng cáo hướng tới mục tiêu lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp, còn PR thì chung hoà quyền lợi của tổ chức/ doanh nghiệp và công chúng. Trong hoạt động của từng tổ chức, doanh nghiệp, nếu phòng PR nội bộ làm việc tốt, các thông điệp phát ra được quản lý chặt chẽ, tính khoa học, thống nhất của một chiến dịch tiếp thị, quảng cáo được xác định, nhóm công chúng được mô tả rõ ràng. Khi đó, PR đã tạo một môi trường thuận lợi, định hướng cho tiếp thị và quảng cáo thành công, tiết kiệm chi phí, thời gian và sức lực cho các hoạt động này. Những quảng cáo thiếu thông điệp cụ thể, không hướng vào các nhóm đối tượng xác định chắc chắn sẽ không tồn tại nếu có sự tham gia của PR. Chiến dịch tiếp thị và quảng cáo sử dụng PR như một công cụ hỗ trợ làm tăng hiệu quả hoạt động. Về phần mình, quảng cáo và tiếp thị lại là một công cụ quảng bá cho PR. Nhiều công chúng biết đến sản phẩm và thương hiệu thông qua quảng cáo và tiếp thị. Trong trường hợp này, tiếp thị và quảng cáo lại là điểm khởi đầu tôt đẹp để PR tiếp tục công việc của mình. Khi đã xây dựng được thương hiệu và có hình ảnh tốt đẹp với công chúng, tiếp thị và quảng cáo sản phẩm mới sẽ là biện pháp quan trọng nhất nhằm duy trì và phát triển theo hướng tích cực các thành tựu mà PR đã đạt được trước đó. Sự tương tác giữa PR- tiếp thị và quảng cáo tạo ra một quá trình tác động thống nhất hướng tới cả quá trình tiếp nhận và chấp nhận doanh nghiệp, các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp- cả mặt vô thức và ý thức của công chúng. Để tạo sự tương tác nhằm tăng hiệu quả hoạt động của PR- tiếp thị- quảng cáo, từ đó sử dụng phối hợp được cả 3 loại “công cụ” này trong doanh nghiệp, việc xây dựng và phát triển phòng PR nội bộ, với các chức năng cơ bản nhất và đội ngũ nhân viên PR chuyên nghiệp là một trong những điều kiện quan trọng nhất. 1.1.3.2: PR và khuyến mại Khuyến mại ( sales promotion) bao gồm các chiến lược ngắn hạn, thường ngay tại thời điểm bán và cả trong tiếp thị trực tiếp, để giới thiệu hay “ làm mới” lại sản phẩm, hoặc tăng lượng hàng bán ra. Khuyến mại thường được dùng thay thế cho quảng cáo trên phương tiện truyền thông. Chi phí khuyến mại- một món quà, hay giảm giá- cũng tương tụ như chi phí quảng cáo. Đôi khi PR bị nhầm lẫn với khuyến mại. Điều này là do khuyến mại cũng giúp người sản xuất và khách hàng gần nhau hơn. Nó cũng là một hình thức tiếp thị mang tính cá nhân nhiều hơn cách quảng cáo truyền thống trên phương tiện truyền thông. Đồng thời nó cũng có những khía cạnh PR, ví dụ như thông tin có quà khuyến mại nhưng lại trao tặng trễ sẽ gây ra sự thất vọng cho khách hàng. 1.1.3.3: PR và tuyên truyền Tuyên truyền là một cách vận động để đạt được sự ủng hộ cho một ý kiến, hành vi hay niềm tin. Tính chất của tuyên truyền là tập trung vào những vấn đề tình cảm và lý trí. Đó là những đề tài mang tính lý trí, tri thức hay tình cảm như vấn đề chính trị hay tôn giáo – những đề tài thường gây ra tranh cãi. Tuyên truyền cũng là một hình thức giao tiếp mà người ta thường nhầm lẫn với PR nhưng cả hai rất khác biệt bởi vì để thành công PR phải đáng tin cậy trong khi tuyên truyền có thể gây ra nghi ngờ nhất là những lĩnh vực liên quan đến chính trị. 1.1.3.4: PR và dư luận Dư luận là kết quả từ việc cung cấp thông tin. Kết quả tố hay xấu thường nằm ngoài tầm kiểm soát của chủ thể hay vấn đề liên quan. Dư luận tốt hay xầu phụ thuộc vào hành vi và thông tin, và như vậy cũng tương tự như PR, vì PR liên quan nhiều đến hành vi của các cá nhân, của các tổ chức, sản phẩm và dịch vụ. 1.1.4: Mục tiêu của PR - Tăng cường khả năng kinh doanh Các tập đoàn và những doanh nghiệp nhỏ có xu hướng sử dụng PR dể tăng cường khả năng kinh doanh của họ. Những tập đoàn lớn cũng có một phòng PR riêng (gọi là “in-house PR”) gồm các chuyên gia của riêng họ hay những chuyên gia được thuê để giải quyết các vấn đề liên quan tới truyền thông và đóng vai trò ngôn luận của tập đoàn/công ty. Những chủ doanh nghiệp nhỏ thường sử dụng hoạt động này một cách độc lập hoặc thuê một công ty PR nhỏ thực hiện. Mục tiêu là để tạo ra càng nhiều bài báo mang tính tích cực về công ty/tổ chức càng tốt. Rất nhiều công ty thực hiện những hành động mang tính cống hiến như từ thiện, quỹ học bổng và các tổ chức phi lợi nhuận khác nhằm đạt được những tình cảm tốt đẹp từ đại đa số công chúng. - Kêu gọi tài trợ Rất nhiều tổ chức phi lợi nhuận sử dụng truyền thông nhằm kêu gọi đầu tư cho những nỗ lực của họ. Những hoạt động mang giá trị tin tức – như lễ ký kết trang trọng giữa những nhân vật danh tiếng hay lễ trao tài trợ chính thức – luôn lôi kéo sự quan tâm của giới truyền thông. Trong những sự kiện như vậy, tất cả mọi đối tượng đều có lợi… Các công ty hay các nhà tổ chức đều dành được sự trân trọng của công chúng, sự tham gia của họ giúp kêu gọi thêm nhiều tài trợ hoặc làm dày thêm danh sách những người đóng góp, và hoạt động từ thiện bản thân nó đã kêu gọi được tài trợ cần thiết để hoạt động. -Củng cố hình ảnh trước công chúng Mục đích thực sự của công tác PR là tạo dựng danh tiếng cho tổ chức. Để đạt được điều này thì tổ chức phải thực hiện chăm sóc khách hàng chu đáo, giao tiếp với các giới hữu quan một cách hiệu quả, cũng như thể hiện trách nhiệm xã hội với người lao động, với cộng đồng địa phương và môi trường. Những mánh lới quảng cáo chộp giật nhằm đánh lừa công chúng hoặc những hoạt động giả tạo nhằm che đậy những hoạt động xấu của nhiểu tổ chức đã để lại nhiều ấn tượng tiêu cực chắc chắn sẽ không có chỗ trong chiến dịch PR hiệu quả. Các chính trị gia, những người đứng đầu các tập đoàn và những nhân vật danh tiếng chỉ là một số ít người sử dụng PR nhằm đạt được sự nể vì của công chúng. Những cá nhân này trở thành những nhân vật có lòng bác ái và có nhiều nỗ lực trong việc làm giàu mạnh cho cộng đồng. Một ví dụ kinh điển là cô ca sỹ Geri Halliwell (được biết đến với tên gọi Ginger Spice - thuộc nhóm Spice Girls), đã được nhân vật PR danh tiếng Matthew Freud đứng đằng sau. Cựu thành viên Spice Girl này đã chuyển từ một ca sỹ mà người ta đặt nhiều câu hỏi về tài năng và từng một lần nhảy thoát y trở thành đại sứ thiện chí của Liên hợp quốc và là người dẫn đầu cuộc chiến chống căn bệnh ung thu vú của phụ nữ. Các tập đoàn cũng sử dụng mẹo mực này để củng cố danh tiếng của họ trong mắt công chúng bằng cách góp tiền vào các nỗ lực hỗ trợ cộng đồng như xây dựng thư viện hoặc cải tạo công viên công cộng. - Xuất hiện trước công chúng Nhận thức của công chúng là phần cốt lõi của mọi chiến dịch PR. Điều quan trọng là phải đưa được thông tin tới công chúng về những dịch vụ mà bạn cung cấp cho cộng đồng. Mặc dù công việc của bạn là kiếm tiền, cho dù bạn có đáp ứng được một yêu cầu nào đó của công chúng hay không thì bạn vẫn tiếp tục kiếm tiền. Bạn có thể đem tặng những chiếc xe sạch, dã chiến hay tặng quần áo cho một nhà sưu tầm nào đó. Cho dù bạn làm gì, bạn cần phải liên lạc với một đối tượng thứ ba về công việc của bạn: nói cho họ biết bạn đã đóng góp gì cho cộng đồng. Đây sẽ là mạch ngầm cho tất cả những nỗ lực PR và quảng cáo của bạn. 1.1.5: Nhiệm vụ của PR Một cách ngắn gọn, PR là quá trình truyền thông nhiểu chiều được xây dựng, duy trì và phát triển nhằm tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp. Các nhiệm vụ của PR bao gồm: Truyền thông: Tức là đề xuất hoặc trao đổi ý tưởng, ý kiến hoặc thông điệp qua các phương tiện khác nhau như hình ảnh, văn bản hoặc đối thoại trực tiếp. Công bố trên báo chí : Tức là các thông điệp đã đuợc lập kế hoạch vơí mục đích rõ ràng, đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng một cách có lựa chọn nhằm nâng cao lợi ích cho tổ chức Quảng bá: tức là các hoạt động được thiết kế nhằm tạo ra và kích thích sự quan tâm vào một cá nhân, một sản phẩm, một tổ chức hoặc một vấn để gì đó Tạo thông tin trên báo chí : tức là tạo ra các câu chuyện tin phản ánh về phong cách sống, những thể loại thông tin “ mềm” , thường liên quan các thông tin giải trí Tham gia cùng với marketing: tức là PR cùng chung mục đích với hoạt động tiếp thị hoặc quảng cáo để phục vụ lợi ích của tổ chức Quản lý các vấn đề : tức là nhận dạng, theo dõi và tiến hành các chính sách liên quan tới công chúng vì lợi ích của tổ chức. 1.1.6 :Nội dung của PR 1.1.6.1:Xây dựng chiến lược tổng thể Theo Học viện PR Anh Quốc thì “Hoạt động PR là một nỗ lực có kể hoạch và mang tính lâu dài” chính vì vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng hoạt động PR không thể thiếu sự hoạch định rõ ràng. Một mô hình kế hoạch PR đơn giản được đông đảo các chuyên gia PR chấp nhận, nó bao gồm 6 mục: Đánh giá tình hình Xác định mục tiêu Xác định nhóm công chúng Lựa chọn phương tiện truyền thông Hoạch định ngân sách Triển khai kế hoạch Đánh giá kết quả Công tác chuẩn bị: - Tìm hiểu kỹ các nội dung sau: sản phẩm, thương hiệu công ty, khách hàng, cách thức hoạt động của công ty. - Tìm hiểu các thông tin về công chúng đang được quan tâm, ai là người đề xướng, cá nhân hay tổ chức nào chỉ đạo. - Tập hợp các thông tin trên bằng văn bản. - Chuẩn bị sẵn nhân lực, trang thiết bị và những người đủ kinh nghiệm. Đánh giá tình hình Trưóc khi một chương trình PR đặt ra, các DN phải xác định rõ điểm khởi đầu của nó. Các nhà làm PR thường tự đặt các hỏi và tìm lời giải đáp cho câu hỏi : “ Chúng ta đang ở đâu ? Công chúng hiểu không chính xác những vấn đề nào? Công chúng nhìn nhận như thế nào về chương trình của chúng ta” . Nếu chỉ dự đoán hay giả định hoặc hành động theo cảm tính và bản năng thì chúng ta có thể mắc sai lầm và chương trình PR sẽ trở nên vô dụng. i.Tiến trình chuyển đổi những tình huống cơ bản nhờ hoạt động PR Tình huống tiêu cực Tình huống tích cực Đối nghịch à Thông cảm Thành kiến à Chấp nhận Thờ à Quan tâm Thiếu hiểu biết à Kiến thức Đây là 4 tình huống mà các chuyên viên PR thường phải đối mặt. Và như vậy mục đích sau cùng của PR là cung cấp kiến thức để giúp mọi người hiểu biết. Đôi khi điều này áp dụng ngay cả với những điều mà đối tượng tiếp xúc không thích hay không đổng ý. PR không nhất thiết phải là cố gắng làm cho người khác nghĩ về mình một cách tuyệt vời mà quan trọng là hiểu đúng. Khi tiến hành đánh giá hiện trạng hình ảnh công ty hoặc sản phẩm, người ta thường xem xét từng tình huống tiêu cực: Sự đối nghịch Nguyên nhân là do những sai lầm của doanh nghiệp hoặc cũng có thể do những nguyên nhân sự bất hợp lý, hiểu lầm, thông tin không chính xác…trong quá trình cung cấp thông tin. Như vậy khi rơi vào tình huống này người làm PR sẽ phải xác định được mức độ đối nghịch, sự đối nghịch này được diễn ra dưới hình thức nào? Cách giải quyết là thể hiện lời giải thích thông qua các chương trình sao cho khách hàng đạt được sự thông cảm Thành kiến Nguyên nhân của sự thành kiến là do có thể ảnh hưởng từ mội trường xung quanh như gia đình, giáo dục, tôn giáo, xã hội, môi trường hay chỉ là những hiểu lầm. Trước kia, người dân Anh rất có thành kiến với hàng hóa Nhật Bản nhưng bây giờ họ lại ưa chuộng sản phẩm của nước này- thành kiến đã được xoá bỏ. Sự thờ ơ Đây là “kẻ thù” tệ hại nhất của sự hiểu biết. Nó có thể là sản phẩm của sự “ích kỷ”, lười biếng, thiêú trí tưởng tượng, hay là kết quả của buổi thuyết trình không thú vị, kém thuyết phục về một để tài. Chẳng hạn chiến dịch sử dụng xăng không chì, lúc đầu nó không thu hút được sự quan tâm vì nó chưa đủ sức thuyết phục mọi người về việc giữ gìn môi trường. Bí quyết về việc thông tin PR thành công theo lời nhà báo Ivy Better Lee – là nó phải thu hút được sự quan tâm và nó có giá trị vơí người nhận. Thu hút được mọi người là một kỹ năng quan trọng nhất đối với người làm PR. Đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết, thuyết phục, năng động và không ngừng sáng tạo để tổ chức những sự kiện hây thu hút sự quan tâm mọi người tránh để họ thờ ơ với công ty Hiện nay, rất nhiều công ty đã tiến hành làm các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, đa số các công ty theo sau lại làm theo những gì các công ty đi trước đã làm. Với các tổ chức như vậy luôn làm cho mọi người nhàm chán và dẩn đến sự thờ ơ. Đối với những công ty luôn sáng tạo thì thu hút rất nhiều người quan tâm. Ví dụ như, trong rất nhiều sự kiện tổ chức theo hình thức tài trợ chương trình ca nhạc ngoài trời, thì Uniliver muốn thu hút sự quan tâm về sản phẩm P/S bằng chương trình triển lãm nổi bậc mô hình du lịch tại công viên 30/4. Sự thiếu hiểu biết Trong sự phát triển như ngày nay của xã hội, con người không thể hiểu biết hết tất cả. Vì vậy ta phải chấp nhận cạnh tranh để giành lấy vị trí trong tâm trí mọi người. Việc tìm ra những xu hướng chung thiếu hiểu biết của con người và từ đó trang bị cho họ những kiến thức đúng đắn về vấn đề nào đó. ii. Tìm hiểu tình hình Để có thể đánh giá tình hình chính xác và hiệu quả, cần phải tìm hiểu tình hình cẩn thận. Việc tìm hiểu có thể được thực hiện bằng một cuộc nghiên cứu những thông tin hay số liệu thống kê sẵn có, hoặc phải thực hiện một cuộc nghiên cứu hoàn toàn mới. Một phương pháp thường được sử dụng cho mục đích PR là thăm dò dư luận. iii.Giải quyết vấn đề Sau khi đã đánh giá tình hình, vấn đề đã được nhận biết và giải pháp được đưa ra. iv.Phương pháp đánh giá hiện trạng PR là tai mắt, là tiếng nói của công ty do vậy cần phải tổ chức tìm những thông tin cả ở bên trong lẫn bên ngoài công ty. Các thông tin thu được cần phải nghiên cứu cẩn thận, đặc biệt là các quan điểm bên ngoài công ty. Tránh theo đuổi các ảo tưởng. Một chương trình PR không thể dựa trên cơ sở của sự linh cảm, hoặc có thái độ bi quan. Mà ta phải tiến hành nghiên cứu thực tế khách quan, để đánh giá hiện trạng và xác định được mức độ hình ảnh của công ty và tên sản phẩm trong tâm trí khách hàng. Sau đây là một số phương pháp giúp đánh giá hiện trạng: - Nghiên cứu thị trường: muốn đánh giá một nhận thức, một quan điểm hay thái độ của quần chúng phải tiến hành làm cuộc điều tra, cũng có thể lập bảng câu hỏi về công ty, về sản phẩm. Kết quả thu được đưa vào sơ đồ để dễ dàng đánh giá. Hoặc có thể nghiên cứu bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp hay ngẫu nhiên, hoặc phỏng vấn theo đối tượng đã định sẵn. -Nghiên cứu hình ảnh: thông qua so sánh ý kiến của các cơ quan bảo trợ đối với công ty đối thủ. Phỏng vấn trao đổi với vài cơ quan, khách hàng, đại lý… tham khảo cảm nhận của họ về sản phẩm, cung cách phục vụ, giá cả, quảng cáo… kết quả đưa vào sơ đồ phân tích. - Nghiên cứu tài liệu lưu trữ: có nhiều thông tin trong và ngoài công ty rất có giá trị. Cần làm việc với các bộ phận bán hàng, dịch vụ sau bán, marketing, các bản báo cáo thường kì. - Nghiên cứu các văn bản than phiền của khách hàng: các văn bản góp ý của khách hàng là tài liệu rất rõ các yếu điểm của công ty. Nếu đi thăm một vòng các bộ phận công ty, cửa hàng đại lý sẽ thu thập được nhiều thông tin. - Tình trạng tài chính của công ty: thông qua tình trạng tài chính của công ty, chế độ khen thưởng thường năm, chế độ nghỉ hưu trí… ta có thể biết được thực trạng của công ty. - Thái độ của cơ quan truyền thông đối với công ty: thông qua các tin tức được đăng tải trên báo, ta có thể biết được thái độ của báo chí đối với công ty. Họ có trao đổi với công ty trước khi đăng báo không? Thường xuyên xây dựng mối quan hệ với giới báo chí. - Quan hệ giữa lãnh đạo với nhân viên: mối quan hệ này tốt đẹp thể hiện sự thống nhất trong công việc. Nó cũng là điều kiện tất yếu cho sự thành công của công ty. - Quan hệ công đồng: những người dân sống chung địa điểm công ty và thân nhân của nhân viên trong công ty đang làm nhiều lọai công việc rất khác nhau trong xã hội có rất nhiều mối quan hệ cộng đồng. Thông qua một số phương pháp nghiên cứu trên, có thể tiến hành đánh giá hình ảnh công ty và tên sản phẩm của mình một cách khách quan trong tâm trí cộng đồng. Sự đánh giá nhất thiết phải thật sự khách quan để ta xác định đúng vị trí, những ấn tượng tốt đẹp và ấn tượng xấu trong của công ty, sản phẩm trong lòng mọi người để có thể có những giải pháp hiệu quả và kịp thời. (2)Xác định mục tiêu chiến lược i.Tầm quan trọng Việc xem xét lại hiện trạng, sự định hướng của ban giám đốc và nhu cầu của các bộ phận trong công ty cấu thành mục tiêu chiến lược. Để từ đó có kế hoạch ngắn hạn hoặc lâu dài cho phù hợp. - Mục tiêu gắn liền với việc quản lý được gọi là chiến lược PR - Mục tiêu cho từng bộ phận phải gắn liền với kế hoạch kinh doanh tổng thể của công ty được gọi là chiến thuật PR. Nó bao gồm: các chương trình chiến thuật, khả năng tiềm ẩn, kế hoạch kinh phí, lịch trình cụ thể, các hoạt động thông tin phản hồi… ii. Quá trình liệt kê các mục tiêu Có hai cách để xác định mục tiêu: -Cách thứ nhất là dựa vào kết quả của việc nghiên cứu. Từ đó lập các danh sách các vấn đề đang gặp phải. Sau đó tập trung ý kiến tập thể đề ra giải pháp PR thích hợp. -Cách thứ hai là tham vấn các trưởng phòng để phát hiện các nhu cầu giao tiếp hay những khó khăn họ gặp phải trong quá trình làm việc. Các bộ phận trưởng phòng lập ra danh sách các mục tiêu quan trọng của mình. Tuy nhiên, do tiềm lực ngân sách PR và thời gian có hạn do đó ta phải sắp xếp các thứ tự ưu tiên và chọn ra những mục tiêu quan trọng nhất. Trong thứ tự ưu tiên ta có thể phân theo thời gian gồm mục tiêu ngắn hạn hay mục tiêu dài hạn. (3) Xác định loại đối tượng i.Lý do: Khi tiến hành một chương trình PR chúng ta phải xác định nhóm công chúng, bởi vì nguồn ngân sách của chúng ta có giới hạn. Do đó ta nên phân thành những nhóm công chúng nhất định và liệt kê những phương tiện truyền thông. Từ đó thực hiện chế độ ưu tiên nhóm công chúng và phương tiện theo khả năng của ngân sách. Khi hiểu rõ được nhóm công chúng ưu tiên thì từ đó mới có thể chọn được những phương tiện truyền thông và những thông điệp phù hợp nhất. Nếu không xác định nhóm truyền thông, thì ta sẽ rơi vào những thất bại thường thấy của PR như sau: - Công sức và ngân sách sẽ phân bổ không hợp lý khi cố gắn vươn tới quá nhiều nhóm công chúng. - Gửi cùng một thông điệp đến các nhóm người khác nhau mà không xét đến tính chất phù hợp của từng nhóm. - Công việc cũng sẽ không được tính toán và phân chia hợp lý để có thể sử dụng thời gian nguyên liệu một cách hiệu quả nhất và kinh tế nhất. - Không đạt được những mục tiêu đề ra. 
 
ii.Phân loại: Ta có thể chia đối tượng quần chúng thành 10 nhóm công chúng cơ bản: -Cộng đồng: tùy theo mỗi tổ chức có một nhóm cộng đồng khách nhau. Đối với các tổ chức như nhà xưởng, phòng thí nghiệm, khách sạn, bến cảng, bệnh viện… thì việc giải quyết tốt các vấn đề như an ninh, tiếng ồn, rác thải, ô nhiễm, đậu xe… đối với họ rất quan trọng. Việc giữ mối quan hệ với cộng đồng trong khu vực phải được bắt đầu từ ngay khi tổ chức thành lập. Riêng các tổ chức lớn mạnh, hay do chức năng hoạt động của tổ chức đó còn quan tâm thêm các vấn đề chung của xã hội như nghèo đói, bệnh dịch, thiên tai, giáo dục, mội trường… -Nhân viên tiềm năng: nhân viên tiềm năng của một tổ chức có thể đang làm việc tại từ các tổ chức khác, các trường học, dạy nghề hay từ nước ngoài. Để thu hút được những đối tượng này chúng ta phải cho họ hiểu được những công việc làm trong tổ chức như thế nào, chính sách lương bổng và sự quan tâm của công ty. Ngoài ra chúng ta còn phải thông tin cho họ biết được khả năng phát triển trong tương lai và uy tín hiện tại của công ty. Cụ thể, hiện nay đa số các công ty có thương hiệu nổi tiếng như Uniliver, P&G, Trung Nguyên, Thái Tuấn… là đối tượng cho các công ty giới thiệu việc làm và người xin việc. -Nhân viên: có thể phân thành nhiều nhóm nhỏ như nhóm quản lý điều hành, nhóm làm việc trong phòng thí nghiệm, nhóm kho hàng và phân xưởng, nhóm văn phòng, nhóm vận chuyển… họ có thể đại diện cho các nhóm khác nhau về mức lương, tầng lớp xã hội, chủng tộc hay tôn giáo. -Nhà cung cấp: có thể phân thành hai nhóm như nhóm cung cấp dịch vụ và nhóm cung cấp nguyên liệu thô. -Nhà đầu tư: có thể kể đến đầu tiên là ngân hàng địa phương. Đối với một công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết chính thức thì nhà đầu tư không chỉ bao gồm những cá nhân mua bán chứng khoán mà cả những nhà phân tích đầu tư các định chế tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm… -Nhà phân phối: là người đóng vai trò trung gian trong việc vận chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Tuỳ theo tổ chức, qui mô và tính chất của nhà phân phối sẽ khác nhau nhà phân phối có thể bao gồm người buôn bán sĩ, người đại lý, người môi giới, người bán lẻ, các cửa hiệu… -Người tiêu dùng: bao gồm cả người phân phối thứ hai mua sản phẩm về sản xuất ra sản phẩm khác. Ngày nay đa số các công ty làm PR chủ yếu nhắm vào đối tượng này. -Người có ảnh hưởng đến dư luận: bao gồm tất cả những người có ảnh hưởng tốt hay xấu đối với tổ chức tuỳ theo tổ chức có thể có nhóm người này khác nhau chẳng hạn như bậc phụ huynh học sinh, chính trị gia, linh mục hay những người chống đối… Họ có thể tác động đến dư luận trong bất kì xã hội nào. -Các đoàn thể, các hiệp hội: có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống chính trị, công nghiệp và thương mại. Ngày nay, các tổ chức còn là những người đại diện, những chuyên viên trong từng lãnh vực kinh doanh, chuyên gia tư vấn, vận động hành lang… Đa số các công ty khi kinh doanh thường tham gia mình vào một tổ chức nào đó do đó nhóm công chúng này hiện nay rất được quan tâm. -Giới truyền thông: ta cần phải quan tâm hoàn toàn khác biệt với nhóm công chúng khác. Bởi vì, giới truyền thông là đối tượng trung gian làm cho tổ chức gắn bó trực tiếo với các nhóm công chúng khác. Họ là những nhà xuất bản, nhà biên tập, nhà báo có quyền quyết định những gì cho công chúng xem và đọc. Họ còn có thể được xét vào nhóm những người ảnh hưởng lớn công chúng. (4) Lựa chọn phương tiện truyền thông Kênh truyền thông là phương tiện tiếp xúc quần chúng. Tuy nhiên, ở mỗi kênh có ưu điểm và nhược điểm riêng, rất khó có kênh truyền thông nào truyền tải đến được mọi đối tượng. Do đó khi tuyền tải chúng ta cần phải chuẩn bị nhiều kênh truyền thông, nhiều hình thức truyền tải để việc thông tin đến công chúng đạt hiệu quả cao. Chúng ta có thể liệt kê một số phương tiện như: - Báo chí: phát hành trên cả nước hay chỉ trong địa phương, báo miễn phí, báo chuyên ngành… - Các phương tiện nghe nhìn: băng hình, phóng sự, video clip, các tờ rơi, đặc san, kỉ yếu… - Phương tiện truyền thanh, truyền hình: mang tính chất quốc tế, cả nước, hay địa phương. - Triển lãm: các cuộc triển lãm đặc biệt như triển lãm quốc tế, triển lãm thương hiệu mạnh, giới thiệu hàng mới. - Sách được tài trợ: tài trợ các cẩm nang hay chủ đề liên quan với lãnh vực hoạt động của tổ chức. Ví dụ như công ty bột ngọt thường tài trợ các sách hướng dẫn nấu ăn ngon kèm theo các báo chí. - Thư trực tiếp: gởi thư ngõ, thư cảm ơn, thư báo cáo có kèm theo thông diệp PR. Ví dụ, công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA gởi thư cảm ơn khách hàng và kèm theo thông điệp có những sản phẩm mới và dịch vụ trả phí mới thông qua ngân hàng. - Lời nói: những buổi giao tiếp trực tiếp có thể mang lại hiệu quả PR thông qua bữa ăn, lúc uống cà phê, nói chuyện qua điện thoại… - Tài trợ: thường các doanh nghiệp tài trợ trong các lãnh vực nghệ thuật, thể thao, các hoạt động lễ hội, học bổng và các chương trình từ thiện… - Tạp chí: công ty dành cho những người đại lý và những người tiêu dùng… - Hình thức và văn hoá công ty Ngoài ra, còn nhiều phương tiện PR khác cũng có thể truyền tải được thông điệp PR hiệu quả và gây ấn tượng mạnh mẽ khác. Nó tuỳ vào ý tưởng sáng tạo của mỗi công ty. (5) Hoạch định ngân sách i.Lý do phải hoạch định ngân sách? - Dự trù ngân sách để biết được chi phí thực hiện chương trình PR nhiều hay ít để chọn được đối tượng và phương tiện truyền thông trong giới hạn ngân sách. - Lập kế hoạch chi tiết về số lượng công việc cần thực hiện và qui mô thực hiện theo ngân sách. - Thiết lập mức chi và khống chế mức chi trong phạm vi ngân sách cho phép. - Sau khi hoàn thành chương trình sẽ căn cứ vào bản dự thảo ngân sách và để đo lường kết quả, xem xét ngân sách đã sử dụng đúng mức hay phân bỗ có hợp lý hay không và rút kinh nghiệm cho lần sau. ii. Các yếu tố cấu thành chi phí Có ba yếu tố để làm cơ sở dự trù chi phí là thời gian, vật liệu và các chi tiêu khác. Trong PR chi phí cho thời gian là chỉ yếu nên các dự trù khách cũng dựa trên cơ sở thời gian. - Thời gian đại diện cho lao động. Có hai cách tính tổng số công thực hiện (tính khoán) hoặc trả tiền lương cho người làm PR (cũng như tiền thuê một công ty PR khác) - Vật tư bao gồm các lọai vật tư phải dùng như trang trí, phim ảnh, triển lãm, in ấn, băng … - Các khoản chi khác như phí đi công tác, tiền tiếp khác, tiền thuê mặt bằng, thuê âm, thanh đầu máy, thuế, bảo hiểm … iii. Phân bổ ngân sách Nguồn ngân sách được chia nhỏ thành nhiều phần, và chỉ có tổng số của nó thể hiện trong ngân sách của chương trình. Tuy nhiên, các chi phí cuả từng chương trình phải được liệt kê và dự đoán cụ thể theo từng chi tiết riêng lẻ. Bởi vì nó phụ thuộc rất lớn vào số lượng khách mời, loại giấy kích cở in ấn, vị trí, chương trình giải trí… Chẳng hạn như một chương trình khai trương phụ thuộc rất nhiều vào số lượng khách mời, hình thức chương trình, phục vụ ăn uống, tiếp tân, vận chuyển, thuê thiết bị và nhân viên. Chi phí cho tạp chí nội bộ phụ thuộc vào chi phí viết bài, thiết kế, in ấn, phát hành, chất lượng giấy, khổ giấy… iv. Bảng dự kiến ngân sách cho chương trình PR - Đối với chương trình do công ty tư vấn PR thực hiện. Công ty tư vấn tính tiền công theo giời hay theo ngày bao gồm chi phí lương, tổng chi phí và lợi nhuận. Những chi phí phát sinh sẽ do hai bên thoãi thuận với nhau. Thu nhập của các công ty tư vấn xuất phát từ tiền thù lao theo thời gian và uy tín của công ty tư vấn đó. - Đối với các công ty tự làm chương trình PR: (PR- In House) Khi ước tính chi phí công ty nên nhớ tính vào các khoản như khấu hao các máy móc thiết bị của công ty, tiền lương lao động của nhân viên. Và chúng ta cần phải chú ý so sánh rõ ràng hơn nếu như thuê một công ty tư vấn thì cũng phải tốn chi phí cho nhân viên chạy chương trình PR đại diện cho công ty chúng ta. (6)Triển khai kế hoạch - Kế hoạch chiến lược phải được ban hành thông qua và có phân công cụ thể cho từng đơn vị. Phổ biến cho tới từng nhân viên có liên quan bằng văn bản cụ thể. - Thực hiện kế họach theo từng bước đã đề ra, mỗi bước đều phải có thu thập các kết quả phản hồi lại cho ban chỉ đạo biết để co giải pháp xử lý kịp thời. (7) Đánh giá kết quả Kết quả hoạt động của một chương trình PR thường ở 2 loại định tính và định lượng. Thường kết quả của một chương trình PR thuộc nhóm định tính. Có nghĩa là kết quả không đo lường được bằng số liệu thống kê mà bằng kinh nghiệm và tính chất hiển nhiên của chương trình. Kết quả loại định lượng kết quả này cho thấy cụ thể về tỉ lệ phần trăm nhận thức và số lời phàn nàn giảm đi, số lượng báo đài được đăng tải nhiều hơn. Một vài phương pháp đánh giá kết quả chương trình PR -Đánh giá qua hiệu quả báo chí: Để đánh giá tin tức được đăng trên các phương tiện truyền thông. Bằng cách cho trọng số thể hiện sự quan trọng của các tờ báo. Và cho điểm các tờ báo đăng thông cáo báo chí về mức nội dung và sức thuyết phục theo thang điểm 10. Ví dụ, đánh giá việc đăng tin sự kiện G-PRO ngày 4 tháng 5 năm 2005 tại Sofitel Hotel. Nội dung thông cáo báo chí gởi đi có 5 ý chính. Các ý có giá trị ngang nhau là hai điểm. Sức thuyết phục chấm theo thang điểm 10. Kinh Tế sài Gòn đăng 4 ý chính và sức thuyết phục là 7. Chấm điểm nội dung và sức thuyết phục = (4x2+7)/2 = 7.5 điểm. Hiệu quả báo chí là 79/150 = 52.67% Bảng đánh giá hiệu quả chương trình G-PRO Tên báo Trọng số (1) Thông cáo đã đăng (2) Điểm nội dung và thuyết phục (3) Giá trị (4)=(1)x(2)x(3) Doanh nhân Sài Gòn 5 1 6 30 Kinh tế Sài Gòn 4 1 7.5 30 Tuổi trẻ 3 0 0 30 Thanh niên 2 1 6 12 Người lao động 1 1 7 7 Tổng cộng 15 79 -Thăm dò dư luận:
Việc thay đổi hay mức độ nhận thức của công chúng có thể được đo lường bằng một cuộc thăm dò dư luận. Lập bảng các mục tiêu cần đạt của chương trình và hỏi sự nhận biết đúng của đối tượng. Ta có thể chia thành nhiều kỳ, thường thì thời gian rất dài. Bởi vì chương trình PR có tác động lâu dài. Số liệu thu thập được chỉ mang tính tạm thời. Ví dụ, Lập bảng các mục tiêu cuả chương trình giới thiệu Gas Picnic 4kg cho các đại lý gas và hỏi sự hiểu biết đúng đắn của khách mời và những đại lý có đọc tin những tờ báo đã đăng thông cáo. Việc tìn hiểu chia làm hai kỳ, kỳ đầu tiên ba tháng sau khi tổ chức xong sự kiện. Và sau 6 tháng kế tiếp. Hiệu quả dự tính ban đầu chương trình là 70% đại lý hiểu đúng mục tiêu chương trình. Sau hai cuộc điều tra chưa đạt 70% thì chúng ta xem lại nguyên nhân và rút kinh nghiệm cho lần sau. -Đánh giá kết quả bằng số liệu thống kê: Bằng cách đo lường kết quả trước và sau khi thực hiện chương trình PR. Phương pháp này áp dụng cho việc bán sản phẩm, thu hút nhân viên, thu hút khách hàng… những kết quả dễ đo lường. Ví dụ, công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA bình thường mỗi tháng có 5% Tư vấn bảo hiểm mới xin vào công ty làm việc. Sau khi thực hiện chương trình Cơ hội Nghề Nghiệp cùng AIA tại trường đại học Kinh Tế thì số lượng tư vấn vào công ty mỗi tháng tăng từ 5% lên 12%. Hiệu quả của chương trình làm tăng thêm 7% tư vấn mới. -Phản hồi ý kiến của đối tượng qua phương tiện truyền thông Sau khi chương trình kết thúc, các đối tượng có thể viết bài gởi lên báo chí để viết cảm nghĩ hay số lượng người gọi điện lại công ty đã biết thêm về thông tin đó hoặc số lượng khách hàng phàn nàn về những thông tin của công ty… Đây là kết quả của hoạt động PR qua thông cáo báo chí, hình ảnh, bài điểm tin, việc cung cấp thông tin cho giới báo chí, họp báo hay các chuyến tham quan cơ sở vật chất. -Đánh giá sự gia tăng hiểu biết: Ví dụ như sau khi làm bản hướng dẫn chi tiết về sản phẩm cho khách hàng. Thông qua việc mua bán, khách hàng có hiểu biết nhiều về thông tin sản phẩm hay không? Hoặc sau khi xuất bản tạp chí cho người bán hàng thì họ có hiểu them về sản phẩm, có thể giải thích cho khách hàng một cách hiệu quả hơn không? ... 1.1.6.2: Quan hệ báo chí Nhằm mục đích đưa các tin tức có giá trị lên các phương tiện truyền thông để thu hút sự chú ý của mọi người về một doanh nghiệp/cá nhân/sản phẩm hay dịch vụ. Trong quá khứ, quan hệ báo chí được coi như là quan hệ công chúng bởi: -Báo chí được coi là “ quyển lực thứ 5”, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị xã hội và đặc biệt là nhận thức của công chúng - Báo chí là phương tiện truyền tải thông tin nhanh, có uy tín và thường xuyên - Chúng ta không thể kiểm soát được thông tin sẽ xuất hiện trên báo chí- nhưng có thể dự đoán -Báo chí đặc biệt quan trọng trong các tình huống khủng hoảng Quan hệ với báo chí và giới truyền thông bao gồm: Phát hành thông cáo báo chí, gói tài liệu truyền thông (media kits), thư từ ngẫu nhiên, tuyên bố dịch vụ Thông cáo báo chí - Cung cấp thông cáo báo chí là cách chủ yếu để xuất hiện trên TV,radio hoặc báo chí. Thông cáo báo chí đơn giản chỉ là bản tin của công ty được viết theo văn phong báo chí. Các phóng viên báo đài sẽ dựa trên thông tin này để thu thập thông tin, số liệu và cương lĩnh của công ty. Hàng ngày mỗi tòa soạn nhận được rất nhiều thông cáo báo chí của các công ty khác nhau thế nên để có thể trụ lại và được đăng tin trên các phương tiện truyền thông thì thông cáo báo chí phải thú vị, bất thường, gây tranh luận, độc đáo, bất ngờ hoặc quan trọng. - Nhằm đảm bảo có được bản tin tốt về công ty, doanh nghiệp thì thông cáo báo chí thường công bố những điều tích cực, hấp dẫn giới truyền thông. Những thông tin này có thể là: những sản phẩm và dịch vụ mới; cải tiến sản phẩm và dịch vụ; thăng tiến và nhân viên mới; giải thưởng và huy chương; đại lý và cơ sở mới; thông báo quan trọng như tạo những việc làm mới, mở một văn phòng chính mới; đột phá và tiến bộ; mở rộng công ty. - Thông cáo báo chỉ phải súc tích và chứa đầy đủ những sự kiện. Nó phải bao gồm 5W là : + Ai ( Who) sẽ tiến hành hoạt động? Có thể là một người, một tổ chức hoặc cả 2 +Nội dung của thông cáo báo chí ( What) ? Có thể là một hoạt động hoặc thông báo +Thông cáo báo chí được làm khi nào ( When) ? +Sự kiện xảy ra ở đâu ( Where)? +Tại sao đưa ra thông cáo báo chí ( Why) ? Gói tài liệu truyền thông ( media kits) Nếu doanh nghiệp đang xây dựng chiến dịch hoặc tung ra một sản phẩm mới thì có thể phải cung cấp cho nhà báo nhiều thông tin hơn là chỉ một thông cáo báo chí. Trong những trường hợp đó, phải tổ chức một gói tài liệu truyền thông. Nó bao gồm một phiên bản của thông cáo báo chí và những thông tin hữu ích khác. Ví dụ có thể kèm theo thông tin cơ bản về công ty, chiến dịch, hoặc sản phẩm, lý lịch trích ngang, tiểu sử của nhân vật chủ chốt, tờ số liệu, danh sách những người có trách nhiệm trả lời câu hỏi, những bức ảnh và mẫu sản phẩm. Phỏng vấn, phát biểu, câu chuyện thương mại Tiếp xúc cá nhân, xây dựng quan hệ, các chuyến đi làm quen Họp báo, gặp gỡ báo chí Họp báo, gặp gỡ báo chí được tổ chức khi công ty, doanh nghiệp có khuynh hướng tạo ra sự quan tâm lớn của giới truyền thông. 1.1.6.3: Tổ chức các sự kiện Tổ chức sự kiện là tổ chức các hoạt động tuyên truyền cả bên trong lẫn bên ngoài để phát triển mạnh mẽ sự hiểu biết về doanh nghiệp, sản phẩm. Các hoạt động PR thường dựa vào những sự kiện lớn vì vậy tổ chức thành công một sự kiện đóng vai trò rất quan trọng. 1.1.6.4: Đối phó với các rủi ro Rủi ro, khủng hoảng là bất cứ tình huống nào đe dọa sự ổn định hay danh tiếng của tổ chức, và thường xảy ra do sự “ nhòm ngó” theo hướng bất lợi của giới truyền thông. Những tình huống này có thể là một vụ tranh chấp liên quan đến pháp luật, tai họa hay hoả hoạn, lũ lụt hay những tai họa do con người gây ra mà ảnh hưởng xấu đến tổ chức của bạn. Nó cũng có thể là tình huống mà trong mắt của giới truyền thông hay công chúng nói chung, tổ chức của bạn đã không phản ứng với một trong những tình huống nêu trên một các thích hợp. Nếu khủng hoảng và rủi ro được xử lý đúng cách, thiệt hại có thể giảm đến mức tối thiểu. 1.1.6.5: Các hoạt động tài trợ cộng đồng Quyên góp và tài trợ, hoạt động tình nguyện, diễn văn trước công chúng, các chuyến thăm mở rộng Họp mặt trực tiếp 1.1.6.6: Các hoạt động phi thương mại trực tiếp với khách hàng Sự kiện đặc biệt, phát hành thông tin định kỳ, xây dựng cơ chế phản hồi, trả lời các cuộc gọi, xây dựng và quản lý đường dây nóng 1.1.6.7: Quan hệ PR đối nội Giao tiếp nội bộ trong một tổ chức hay công ty có thể chia làm 3 loại: giao tiếp giữa ban lãnh đạo với nhân viên ( quan hệ từ trên xuống), giao tiếp giữa nhân viên vơí ban lãnh đạo (quan hệ từ dưới lên), và giao tiếp giữa nhân viên với nhau ( quan hệ ngang hàng) Để vấn đề PR nội bộ đạt được hiệu quả cần có sự kết hợp giữa các yếu tố : Sự công bằng của ban lãnh đạo Ban lãnh đạo nhận biết giá trị và tầm quan trọng của việc giao tiếp với nhân viên Người quản lý PR không chỉ có kỹ năng và kinh nghiệm mà còn có những phương tiện kỹ thuật hiện đại hỗ trợ. Các phương pháp giao tiếp trong quan hệ lao động: Họp, gặp mặt tay đôi Thư tín tạp chí, bảng thông tin nội bộ Tài liệu và phản hồi trong đào tạo Các bài phát biểu Mạng nội bộ Các sự kiện nội bộ đặc biệt (thi đấu thể thao, đi nghỉ, lễ hội cuối năm, …) 1.1.6.8: Tư vấn cho các nhân viên trong công ty trong các lĩnh vực Khi các nhân viên được tư vấn, được cung cấp thông tin về công ty một cách đầy đủ thì chính họ là người sẽ phổ biến, làm công tác PR cho khách hàng, cho những đối tác bên ngoài một cách hiệu quả nhất. 1.2 : Vai trò của PR trong hoạt động của các doanh nghiệp XBP Đối vơí doanh nghiệp, truyền thông là một công cụ quản lý hữu hiệu. Công cụ này được hình thành bằng các quy tắc được thống nhất sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp và với các tổ chức bên ngoài nhằm tạo ra một môi trường hoạt động “dễ chịu” cho doanh nghiệp đó. Các kỹ năng PR được hình thành từ các hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp. Đồng thời, công tác truyền thông hiệu quả đem lại những đóng góp to lớn đối với các mục tiêu mang tính chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp đó như : - Cải thiện hình ảnh hay thương hiệu cuả doanh nghiệp -Tạo lập một cái nhìn với báo chí về doanh nghiệp ở bị thế cao hơn, chuyên nghiệp hơn. - Thay đổi thái độ của công chúng mục đích ( đặc biệt là khách hàng) - Cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xã hội - Tăng cường thị phần đầu tư trên thị trường - Gây ảnh hưởng lên các chính sách của chính phủ ở các cấp độ tăng dần, địa phương, nhà nước, quốc tế. - Cải thiện mối quan hệ truyền thông đối với các nhà đầu tư và các cố vấn doanh nghiệp - Nâng cấp quan hệ công nghiệp * Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà kinh tế học Milton Friedman, người ủng hộ chính sách tự do kinh doanh, khẳng định: Chỉ có một trách nhiệm duy nhất cuả doanh nghiệp la sử dụng nguồn lực ( nhân lực và tài lực) vào các hoạt động đã được hoạch định sẵn để gia tăng lợi nhuận. Ông cho rằng thật sai lầm khi các doanh nghiệp phải chịu mọi trách nhiệm xã hội, chỉ có cá nhân riêng lẻ mới phải đóng góp, thực thi trách nhiệm xã hội. Đối với các thành phần kinh tế, dù là kinh tế tự do, kinh tế nhà nước hay là kinh tế tư nhân… thì giám đốc hay chủ tịch hội đồng quản trị phải là cá nhân chịu trách nhiệm trước toàn thể doanh nghiệp, các phòng ban và công nhân lao động. Trách nhiệm đó là điều hành công việc kinh doanh phù hợp với nguyện vọng và hoàn cảnh của doanh nghiệp, xác định nhiệm vụ duy nhất là kiếm được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Như vậy, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gồm hai việc: Kinh doanh có đạo đức và kinh doanh có đạo đức phải sinh lợi nhuận. Trách nhiệm của người làm PR là phải phổ thông hoá các thông tin của doanh nghiệp, cụ thể là làm cho công chúng biết đến các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp của mình có khả năng cung cấp trên thị trường. 1.2.1: Đối với marketing Chúng ta thường khó nhận biết được những điểm khác biệt giữa PR và marketing. Thực tế mỗi hoạt động đều có vai trò riêng của mình trong sự thành công của mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả tối đa thì vận dụng hoạt động PR hỗ trợ marketing và phối hợp hai hoạt động này là cách tối ưu nhất. Hoạt động marketing đòi hỏi phải tạo ra được sản phẩm phù hợp với một mức giá hợp lý, phân phối sản phẩm đến nơi khách hàng để tiếp cận, quảng cáo, xúc tiến để làm cho khách hàng biết đến sản phẩm và mua hàng. Bốn thành phẩn trong phương thức marketing 4P : sản phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối ( Place), xúc tiến ( Promotion). PR được xem là thành phần thứ 5 của phương thức này, nó biểu thị cho sự cảm nhận của khách hàng (Perception) về công ty, sản phẩm … Người tiêu dùng thường thích giao dịch với những công ty mà họ đánh giá cao và có cảm nhận tốt. PR tạo ra những cảm nhận tích cực ở khách hàng, hình thành môi trường thuận lợi giúp hoạt động marketing thành công dễ dàng hơn. HỖ TRỢ CÁC MỤC TIÊU MARKETING BẰNG PR Mục tiêu Marketing Hoạt động PR hỗ trợ Xây dựng các mối quan hệ bền vững và lâu dài hơn với khách hàng -Tổ chức sự kiện, chiêu đãi khách hàng - Xây dựng bản tin hàng tháng/quý hoặc tạp chí để gửi khách hàng Nâng cao nhận thức của công chúng về công ty - Bảo đảm mức độ truyền thông tích cực -Cho khách hàng đi thăm quan công ty, doanh nghiệp, cửa hàng … Quảng cáo những sản phẩm mới -Cố gắng đưa bài viết lên báo chí chuyên ngành, báo chí tiêu dùng - Cho dùng thử sản phẩm mới Cần kết hợp hoạt động marketing với PR để tạo ra ảnh hưởng mạnh nhất. Khi bộ phận tiếp thị triển khai quảng cáo những sản phẩm mới thì bộ phận PR có thể hỗ trợ bằng cách khai thác sự quan tâm tích cực của giới truyền thông. Trang web của công ty có thể được xem như một công cụ tiếp thị, đồng thời là một kênh PR hiệu quả, cung cấp các loại thông tin, thông cáo báo chí, hình ảnh cho báo giói khai thác. Chiến dịch tiếp thị khi được kết hợp với hoạt động PR sẽ có giá trị hơn hẳn tổng mức tác dụng của từng hoạt động riêng biệt. 1.2.2: Đối với tiêu thụ Trong thời đại hiện nay chúng ta nhìn vào đâu cũng thấy sự chuyển dịch đầy kịch tính từ tiếp thị định hướng quảng cáo sang tiếp thị định hướng PR. Chúng ta không thể tung ra một thương hiệu mới, 1 sản phẩm mới bằng quảng cáo vì quảng cáo không mang trong nó tính chất đáng tin cậy. Nhưng qua công tác PR,thông tin đại chúng sẽ tạo ra sự tín nhiệm dẫn đế độ tin cậy trong quảng cáo. Như chúng ta đã biết, một DN được cấu thành từ 3 yếu tố: Tài sản cố định như nhà xưởng, văn phòng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và sản phẩm - Tài sản lưu động như tiền mặt,.. Con người Tài sản cố định của DN luôn có 1 giá trị nhất định và có thể đong đếm trên bản cân đối kế toán. Tương tự, lượng tài sản lưu động mà tổ chức sở hữu cũng cớ thể đếm được. Và chúng ta cũng có thể thống kê được số lượng nhân viên của bất kỳ DN nào. Thế nhưng khi xét trên nhiều khía cạnh khác nhau thì lực lượng lao động của DN là tài sản không định lượng được. Năng lực của về cơ bản là vô hạn. Họ là những người truyền sức sống cho tổ chức, nhằm tạo ra các giá trị gia tăng, họ sử dụng sức sáng tạo và tài năng vốn có để tạo ra những sản phầm mới cho thị trường, họ cung cấp dịch vụ khách hàng và họ thúc đẩy hoạt động của DN. Không chỉ vậy, họ là một dạng tài sản đặc biệt trong khi tài sản cố định và tài sản lưu dộng chỉ là những hàng hóa vô tri. Bởi thông qua giao tiếp, họ còn tạo ra các mối quan hệ với gia đình và bạn bè – đây chính là những khách hàng tiềm năng của DN. Hơn nữa họ còn là người làm việc trực tiếp với các nhà cung cấp, với chính quyền địa phương và trung ương, với cộng đồng … Chính những hoạt động như thế sẽ giúp cho hàng hóa của DN được tiêu thụ nhanh hơn, tốt hơn và đến với người tiêu dùng nhiều hơn. Nếu bản thân các doanh nghiệp ý thức được điều này và quan tâm đến hoạt động PR ở nội bộ doanh nghiệp thì chính những cá nhân đó sẽ là nhũng người làm công tác PR có hiệu quả không kém gì phòng PR hay 1 công ty PR chuyên nghiệp nào. 1.2.3: Đối với xây dựng thương hiệu Theo giáo sư David A. Aaker, giá trị thương hiệu gồm có bốn yếu tố cấu thành: sự trung thành của khách hàng đối với thương hiệu (brand loyalty), việc khách hàng nhận ra thương hiệu một cách mau chóng (brand awareness), chất lượng sản phẩm hay dịch vụ cung cấp trong nhận thức của khách hàng (percived quality), những liên tưởng của khách hàng khi nghe hoặc nhìn thấy thương hiệu (brand associations).   Muốn xây dựng được hình ảnh nhãn hiệu có giá trị lâu bền và mang giá trị vǎn hóa thì phải hiểu được tâm lý tiêu dùng. Diễn biến hành vi tiêu dùng thực sự là một đề tài khá phức tạp hiện đang tiếp tục được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu. Những thông điệp hay và hấp dẫn luôn xuất phát từ một quá trình nghiên cứu công phu về hành vi và tâm lý nhóm mục tiêu. Điển hình của quá trình này là việc xây dựng nhãn hiệu Bino do các chuyên gia Việt Nam thực hiện. Có không ít các nhà doanh nghiệp tự mình suy luận hay phán đoán suy nghĩ của công chúng và tự mình ra quyết định mang tính chủ quan về quan điểm, tình cảm của người tiêu dùng. Đây là một việc làm mang tính rủi ro rất cao vì nó chủ quan và khập khiễng, đơn giản vì áp đặt cái mình muốn vào cái người ta cần.  “2/3 các vị giám đốc marketing và giám đốc nhãn hiệu ở Mỹ tin rằng PR giữ vai trò quan trọng hơn quảng cáo trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu” (nguồn “Marketing report”, 1999)     Trong bối cảnh thị trường hiện nay, hàng hóa, dịch vụ đa dạng, phong phú, người tiêu dùng gặp khó khăn trong việc phân biệt, đánh giá sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng tạo một phong cách, một hình ảnh, một ấn tượng, một uy tín riêng cho sản phẩm của mình nhằm đem lại cho sản phẩm hình ảnh riêng, dễ đi vào nhận thức của khách hàng, nói cách khác, đưa thương hiệu vào tâm trí khách hàng. Sách tuy là hàng hóa đặc biệt nhưng xét cho cùng vẫn theo những qui luật của thị trường. “Doanh nghiệp cần tập hợp các hoạt động nhằm tạo cho sản phẩm và thương hiệu sản phẩm một vị trí xác định trên thị trường” (P. Kotler)    Các doanh nghiệp định vị và quảng cáo thương hiệu bằng nhiều phương pháp: thông qua quảng cáo, PR, giá cả hoặc bằng chính sản phẩm, với mục tiêu chung là làm sao đưa thương hiệu vào tâm trí khách hàng. Trong đó, có thể nói hoạt động PR có tác động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu với các chương trình hành động được thiết kế và hoạch định tỉ mỉ, cẩn thận nhằm gặt hái được sự thừa nhận của công chúng và thông tin đến họ những họat động và mục tiêu của doanh nghiệp.    PR là một công cụ giao tiếp rất linh hoạt trong lĩnh vực giao tiếp marketing: bán hàng trực tiếp hoặc qua điện thoại, các họat động tài trợ, triển lãm. PR hiện đang được ứng dụng rộng rãi bởi các tổ chức từ hoạt động phi lợi nhuận đến hoạt động kinh doanh thương mại: hội từ thiện, các tổ chức, đảng phái chính trị, các doanh nghiệp, khu vui chơi giải trí, y tế…    Vai trò chính của PR là giúp doanh nghiệp truyền tải các thông điệp đến khách hàng và những nhóm công chúng quan trọng của họ. Khi truyền đi các thông điệp này, PR giúp sản phẩm dễ đi vào nhận thức của khách hàng, hay cụ thể hơn là giúp khách hàng dễ dàng liên tưởng tới mỗi khi đối diện với một thương hiệu. Ví dụ như công ty FAHASA thành phố HCM đã tổ chức những đợt PR như mang sách đến các khu công nghiệp để tặng cho những người công nhân ở đấy, hoặc là mang sách đến những vùng cao cho trẻ em nghèo. Tất cả những hoạt động đấy đã tạo được hình ảnh rất tốt trong mắt khách hàng, gây được thiện cảm của công chúng.  Chi phí cho hoạt động PR thấp hơn các loại hình khuyến mãi khác. Khi so sánh chi phí cho chiến dịch tiếp thị trực tiếp hoặc đăng một mẫu quảng cáo với chi phí cho một thông cáo báo chí đương nhiên mẫu thông cáo báo chí sẽ có một lượng công chúng rộng rãi hơn. Điều này rất phù hợp với nguồn ngân sách eo hẹp của các doanh nghiệp XBP hiện nay.   Doanh nghiệp XBP thường là các DN vừa và nhỏ nên họ có một số bất lợi trong việc quảng bá thương hiệu. Họ không có ngân sách để quảng cáo, họ cũng không có một bộ phận Marketing riêng. Chỉ có mỗi cách hữu hiệu là quảng cáo truyền miệng (word of mouth).  Trong thực tế ấy, hoạt động PR có thể nói là giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp vì nó tạo ảnh hưởng tốt, hữu hình, với chi phí thấp, tạo được tiếng vang khi chuyển tải hình ảnh doanh nghiệp đến công chúng.   Hơn nữa, làm PR sẽ giúp cho doanh nghiệp vượt qua những sóng gió và bão táp. Khi có khủng hoảng, doanh nghiệp đó sẽ tìm được sự ủng hộ, bênh vực, hỗ trợ từ phía cộng đồng (đây là điều kì diệu không thể bỏ tiền ra mua như đăng quảng cáo) trong việc cứu vãn uy tín và giữ gìn nguyên vẹn hình ảnh của doanh nghiệp. Chương 2 : Tình hình phát triển của hoạt động PR trong các doanh nghiệp PH XBP 2.1: Sự cần thiết của việc vận dụng PR trong các DN PH XBP Trên thế giới, PR chuyên nghiệp xuất hiện từ đầu thế kỷ XX cùng với sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường. Các chuyên gia PR là người chịu trách nhiệm quản lý mối quan hệ giữa tổ chức, doanh nghiệp và công chúng của tổ chức đó, tạo dựng, duy trì sự tín nhiệm và hiểu biết lẫn nhau, bảo vệ uy tín, phát triển thương hiệu cho cơ quan, tổ chức. Trải qua gần một thế kỉ phát triển, ngành PR ngày nay ngày càng khẳng định vai trò của nó trong xã hội và nền kinh tế hiện đại. PR hiện nay được coi là công cụ quan trọng để bảo vệ , duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của các cơ quan, tổ chức. Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng năng động và nỗ lực không ngừng để phát triển cùng kinh tế thế giới. Bằng chứng có thể kể ra như hàng loạt công ty ra đời, thị trường chứng khoán hoạt động, giao dịch ngoại thương mở rộng… Và đấy cũng chính là động lực thúc đẩy nhu cầu giao tiếp, thông tin của các cá nhân cũng như của các doanh nghiệp, tổ chức. Phải khẳng định rằng PR đã tồn tại và luôn luôn có mặt trong hoạt động của con người nói chung nhưng nó chỉ thực sự được quan tâm và chú ý phát triển trong những năm gần đây. Tại Việt Nam, việc công tác PR bị lơ là có thể lý giải là do ngành kinh tế của chúng ta phát triển chậm hơn so với các nước trên thế giới. Do chiến tranh nên chúng ta sử dụng cơ chế bao cấp, mọi sản phẩm hàng hóa đều được phân phát theo dạng tem phiếu, khẩu phần chứ không phải được tự do mua bán. XBP- mặt hàng kinh doanh của chúng ta cũng chịu sự chỉ hu như vậy. Trước đây, các NXB và các đơn vị phát hành thường xuất bản và phân phối sách theo quyết định của Uỷ ban kế hoạch của Nhà nước. Vì vậy những người làm công tác xuất bản và phát hành trong lịch sử thường chỉ quan tâm đến làm sao để thực hiện được đúng mục tiêu đã được giao cho (những mục tiêu này là mục tiêu xã hội) mà ít khi phải quan tâm đến lợi ích kinh tế mà hoạt động của mình phải mang lại. Và sự thật ngày nay thì không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh XBP mà các doanh nghiệp nói chung đều phải chịu sự tác động sâu sắc của các quy luật kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp XBP cũng phải hoạt động sao cho có “lãi” cả về mục tiêu kinh doanh lẫn mục tiêu xã hội. Điều này đã thúc đẩy họ phải sử dụng các công cụ thúc đẩy kinh doanh như PR. Có một thực tế rằng : ngày nay hầu hết người ta chỉ “ biết” những gì họ đọc, nghe, hay nhìn thấy trên các phương tiện truyền thông hoặc là những gì họ biết được từ những người mà họ tin tưởng.Cuộc sống phát triền ngày càng phức tạp và nhịp độ phát triển của nó ngày càng nhanh nên hình như ngày nay mọi người đều được dẫn dắt bởi các phương tiện truyền thông đại chúng. Thường người ta xác định cái gì tốt nhất bằng cách tìm xem người khác cho cái gì là tốt nhất. Và hai nguồn chính để xác định điều này là truyền thông đại chúng và truyền miệng. Trong thế giới hiện đại, các phương tiện truyền thông đại chúng là những cầu nối cực kỳ quan trọng làm tăng ý nghĩa cho cuộc sống. Nếu thiếu vắng thông tin từ các phương tiện truyền thông, mỗi người chúng ta không thể tham gia vào đời sống chính trị và kinh tế của xã hội này. Mỗi chúng ta đều không tin vào tất cả mọi thứ chúng ta đọc từ báo chí nhưng chắc chắn chúng ta đều ảnh hưởng rất lớn bởi chúng. Đấy là trên bình diện của một cá nhân, nếu xét rộng ra thì mỗi công ty, mỗi doanh nghiệp thì mức độ tác động của truyền thông đại chúng lại còn lớn hơn nhiều lần. Chính vì vậy mà hơn ai hết các doanh nghiệp đang tham gia vào hoạt động kinh doanh hiện nay hiểu được họ phải nắm được “sức mạnh của bên thứ 3” – sức mạnh của PR. Có thể lấy một ví dụ để minh chứng cho hiệu quả của PR trong ngành XBP. Đó là cuốn sách Harry Potter. Chưa từng có cuốn sách nào được nói đến nhiều như bộ truyện Harry Potter và doanh thu của Harry Potter thì cũng làm nên lịch sử trong ngành xuất bản thế giới. Chỉ riêng lượng phát hành ở Mỹ cho bốn tập đầu của bộ truyện này đã lên tới 65 triệu bản. Điều này không thể có được nếu như các nhà sản xuất không sử dụng công cụ PR một cách hoàn hảo như thế. Hiện tại tất cả những cuốn sách bán chạy nhất “ best sellers” như “Who moved my cheese?” ( Ai đã lấy mất miếng pho mát của tôi? ) của Spencer Johnson Jack đều nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của thông tin đại chúng. Hay nhà xuất bản cuốn sách The Corrections của Johnathan Franzen đã in thêm nửa triệu bản tác phẩm này sau khi nó được người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ Opral Winfrey chọn cho câu lạc bộ sách của bà. Vậy thì liệu bao nhiêu chương trình quảng cáo trên truyền hình vào giờ cao điểm có thể sánh ngang hàng với cái gật đầu chấp thuận đưa một quyển sách vào danh sách của Opral. Cứ cuốn sách nào nằm trong câu lạc bộ sách hàng tháng của Opral thì đều đi vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của tờ báo New York Times. Trong những năm gần đây, 42 trong số 100 cuốn sách hàng đầu hoặc là được nhắc đến trong chương trình truyền hình của bà hoặc là các tác giả của chúng được bà phỏng vấn. Phillip C.McGraw, tiến sĩ , chuyên gia về hành vi con người là khách mời thường xuyên trong chương trình của Opral và có 3 cuốn sách đều đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất trên tờ New York Times trong đó cuốn gần đây là Self Matters ( Những vấn đề của bản thân). Spencer Johnson, đồng tác giả của cuốn The one minute manager ( Thử làm giám đốc trong 1 phút) là một thiên tài PR. Trước khi phát hành cuốn sách gần đây của ông, ông đã bỏ ra nhiều năm liền gửi bản thảo cuốn sách của công cho các tổng giám đốc của 500 công ty hàng đầu thế giới theo xep hạng của tạp chí Fortune và các nhân vật có ảnh hưởng khác. Và kết quả là nhiều công ty lớn đã nhanh chóng hồi đáp sự tiếp xúc trực tiếp này, ngân hàng Hawaii đã đặt 4000 cuốn cho nhân viên , Mercedes-Benz đặt 7000 cuốn, Southwest Airlines đặt 27000 cuốn. Đây chỉ là một ví dụ điển hình về kỹ thuật xây dựng chậm rãi, rất quyết định trong một chương trình PR ngày nay. Còn một ví dụ khác là khi Tony Soprano nói với bác sĩ tâm thần của ông trong bộ phim Nhà Soprano được phát trên kênh phim truyện HBO rằng ông thích cuốn “ Nghệ thuật binh pháp Tôn Tử” thì lập tức cuốn sách này nhảy vọt lên đứng hàng thức 6 trong dánh sách những cuốn sách bán chạy nhất của tờ USA Today. Và nhà xuất bản này đã phải in thêm 25000 bản của cuốn sách 2400 năm tuổi này. Trên đây là một vài ví dụ từ bên ngoài, nếu nhìn vào công tác phát hánh sách trong nước thì chúng ta sẽ thấy nổi lên rõ ràng qua ví dụ là “hiện tượng” Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi 20. Tất cả chúng ta đều hiểu rằng nếu không có chương trình truyền hình có nói về anh Nguyền Văn Thạc và mối tình của anh với người yêu thì chắc chắn không thể có thành công của Mãi mãi tuổi 20. Và số lượng bán ra của Nhật ký Đặng Thùy Trâm cũng không thể tăng vọt lên nếu không có sự tác động của chương trình truyền hình. Đây cũng là một ví dụ tương tự như việc các cuốn sách được giới thiệu trên chương trình truyền hình của Opral tại Mỹ. Hơn nữa ở các ngành khác, hiệu ứng “ vết dầu loang” là không ít nhưng thực sự trong việc mua các sản phẩm liên quan đến tri thức như sách và xuất bản phẩm của ngành chúng ta thì hiệu ứng này có tác động rất nhiều. Như vậy chúng ta có thể thấy sức mạnh tuyệt vời của PR đối với hoạt động KD của mình như thế nào. Có một vấn đề mà chúng ta cần phải nói tới nữa là tại sao nên sử dụng PR cho doanh nghiệp XBP chứ không phải là quảng cáo. Tất cả chúng ta đều biết, doanh nghiệp XBP của Việt Nam hiện nay đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, áp lực cho họ không chỉ về mặt kinh tế mà còn về xã hội. Các doanh nghiệp của chúng ta nói chung không có khả năng chi cho ngân sách cho hoạt động quảng cáo như các doanh nghiệp làm kinh doanh đơn thuần khác. Để có thể làm một quảng cáo và đưa quảng cáo đấy đến với công chúng qua các phương tiện báo chí, truyền hình là rất đắt đỏ. Trong khi công chúng hiện nay rất nhạy cảm, họ có xu hướng không tin vào lời quảng cáo. Những quảng cáo đến với họ được xem như là một tác phẩm nghệ thuật, họ đánh giá nó với tiêu chuẩn hay hoặc không hay. Quảng cáo hay, họ ấn tượng vì cái hay của nó nhưng rồi cũng nhanh chóng quên ngay sản phẩm, dịch vụ được quảng cáo là gì. Thậm chí, có những quảng cáo tiêu tốn rất nhiều tiền nhưng không để lại trong tâm trí khán giả về sản phẩm mà nó quảng cáo. Như vậy điều cốt lõi của quảng cáo đang dần dần bị thay thế. Hoạt động PR được công chúng đón nhận bởi nó cung cấp thông tin về kiến thức cho họ. “Bất cứ nơi nào mà quảng cáo được xem như là một sự tuyên truyền về sản phẩm thì một bài viết của một phóng viên hay một nhà biên tập thì độc giả sẽ cho rằng thật hơn và hữu ích với họ hơn. Chúng ta vốn dĩ đã nghi ngờ về các mẫu quảng cáo và chúng ta cũng thường có khuynh hướng không quan tâm đến chúng. Tuy nhiên chúng ta vẫn thường cắt những mẫu tin hữu ích và được trình bày kỹ lưỡng và gửi cho người thân. Hơn thế nữa,tâm lý khi đọc mục phê bình,đánh giá về sản phẩm hay dịch vụ ở trên báo hoàn toàn khác. Và chúng ta cũng biết rằng khi những nhà phê bình đã tìm ra được những vấn đề thực tế thì các bài báo mới đăng tin. Khi đọc một mẫu quảng cáo, chúng ta luôn nghi ngờ rằng chúng ta chỉ biết được một phần của câu chuyện mà quảng cáo đã đăng mà thôi. 2.2 : Tình hình hoạt động PR trong các doanh nghiệp XBP Để làm rõ hơn về tình hình hoạt động PR trong các doanh nghiệp XBP hiện nay, chúng ta sẽ đi sâu vào hoạt động của Công ty Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam- Một doanh nghiệp khá mạnh dạn trong việc áp dụng PR nhằm mang lại thành công trong kinh doanh của mình. 2.2.1: Vài nét về Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, thường gọi tắt là Nhã Nam, là một trong những công ty cổ phần làm về xuất bản trong phạm vi sách văn học, văn hóa, triết học. Công ty được thành lập vào cuối năm 2005 và có trụ sở chính tại 1B IF1 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội. Nhã Nam hiện đang tập trung chính vào mảng văn học dịch và thường chọn dịch những tác phẩm mới thành công trên thế giới nhưng chưa được dịch sang tiếng Việt, trong đó có những tác giả được giải Nobel như: Elfriede Jelinek, Orhan Pamuk; giải Booker như: Yann Martel, John Banville; Goncourt như: Laurent Gaudé và các tác giả ăn khách trên thế giới như Murakami Haruki, Marc Levy... Những cuốn sách mà công ty Nhã Nam đã xuất bản nổi bật nhất có thể kể đến: * Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Ấn phẩm tạo nên "hiện tượng" xuất bản của công ty) * Cuộc đời của Pi (Life of Pi) * Thiếu nữ đánh cờ vây (La joueuse de go) * Búp bê Bắc Kinh (北京娃娃, Bắc Kinh oa oa) * Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa (Balzac et la petite tailleuse chinoise) * Rừng Na Uy (ノルウェイの森, Noruwei no mori) * Nếu em không phải một giấc mơ (Et si c'était vrai...) * Chuyện dài bất tận * Nhóc Nicolas, những chuyện chưa kể 2.2.2 : Phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Về chính trị, luật pháp : - Luật Xuất bản 2004 cho phép các doanh nghiệp tư nhân có thể liên kết với các đơn vị nhà nước để xuất bản sách. Điều này đã tạo một làn sóng mới trong đời sống xuất bản của Việt Nam. Các nhà làm sách tư nhân tham gia vào thị trường với tư cách là người làm sách chứ không đơn thuần là người trung gian, chỉ tham gia vào khâu lưu thông sách. Thị trường sách đã đa dạng còn đa dạng hơn. Cũng chính với thuận lợi này nên những đơn vị tư nhân như Nhã Nam đã có điều kiện tham gia trong việc tạo ra những đầu sách hay, hấp dẫn đến cho bạn đọc. Cho đến thời điểm hiện nay, khi thị trường đã trải qua 4 năm từ khi luật Xuất bản 2004 có hiệu lực thì những điều đạt được cũng như hạn chế của luật đã bộc lộ và chúng ta thấy được việc cho phép các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào thị trường xuất bản là rất đúng đắn, nó không chỉ mở rộng đối tượng tham gia thị trường mà còn tạo ra tính cạnh tranh hơn cho thị trường. - Ngày 26/10/2004, Công ước Bern có hiệu lực tại Việt Nam cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường xuất bản của chúng ta. Các tác phẩm văn hoá nghệ thuật trong đó có sách và xuất bản phẩm của chúng ta nói riêng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quyền sở hữu trí tuệ và tác quyền. Trước đây việc một nhà xuất bản muốn xuất bản một quyển sách nước ngoài thật không mấy khó khăn, chỉ cần có bản tiếng nước ngoài là chúng ta sẽ mang về dịch sau đó cho xuất bản rộng rãi. Xuất bản không xin phép các tác phẩm nước ngoài đã tồn tại nhiều năm qua và nếu không kể đến những sách quá thời hạn sử dụng quyền tác giả thì hầu hết lượng sách có mặt trên thị trường đều là những sách không có bản quyền tác giả. Nhưng khi công ước Bern có hiệu lực thì việc xuất bản những quyển sách nước ngoài như vậy không thể tiếp tục được nữa. Điều này buộc rất nhiều đơn vị làm xuất bản phải có những bước chuyển mình mới. Họ phải liên lạc với đơn vị giữ tác quyền của tác phẩm hoặc chính tác giả của cuốn sách để mua bản quyền nếu muốn nó được xuất bản tại Việt Nam dưới danh nghĩa của mình. Việc các nhà xuất bản Việt Nam mua bản quyển sách chính thống để xuất bản đồng nghĩa với những việc như cùng một đầu sách có nhiều nơi xuất bản hay những cuốn sách được xuất bản mà không có bản quyền bị chấm dứt. Những thuận lợi của Nhã Nam : - Ưu thế đầu tiên của Nhã Nam là Nhã Nam được khai sinh và điều hành bởi một nhóm 6 thanh niên xuất thân là nhà báo. Đây có thể nói là thuận lợi lớn nhất của Nhã Nam trong hoạt động PR cho doanh nghiệp. Trong khi bộ phận PR của các doanh nghiệp khác sẽ phải tốn nhiều công sức hơn để tạo dựng các mối quan hệ với các báo thì với gốc là những nhà báo, những thành viên sáng lập của Nhã Nam đã có sẵn trong tay các mối quan hệ với giới báo chí, điều này giúp các thông tin về Nhã Nam được truyền tải nhanh hơn và dễ dàng hơn trên các phương tiện truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. - Các thành viên trong nhóm thành lập công ty đều là những người yêu sách, đặc biệt là sách văn học và rất nhiệt tình trong công việc. Chính vì vậy mảng sách Nhã Nam chọn để khai thác và tập trung vào là sách văn học, đặc biệt là văn học nước ngoài. Sở dĩ Nhã Nam chọn mảng sách này vì những người thành lập Nhã Nam có hai lý do: Đội ngũ những người sáng lập Nhã Nam đều có sở thích với loại sách này. Lý do thứ hai là đội ngũ biên tập viên của Nhã Nam có lợi thế ở mảng văn học nước ngoài do họ có khả năng ngoại ngữ tốt. Cũng chính vì xuất phát là những người yêu sách “khó tính” nên đối tượng mà Nhã Nam hướng tới là những độc giả yêu sách một cách “khó tính”. Nói về sách văn học thì chúng ta đều biết, đây là mảng sách chiếm thị phần rất lớn trong thị trường sách hiện nay, có thể nói nó chiếm đa số trong thị phần sách trên thị trường ( không kể sách giáo khoa học sinh). Nó là mảnh đất rất màu mỡ cho các doanh nghiệp khai thác, tuy nhiên không đi theo hướng như các đơn vị khác mà Nhã Nam đi sâu vào chọn những sách văn học nước ngoài có chất lượng cao như những sách đoạt giải quốc tế hay những sách ăn khách ở nước ngoài và điều quan trọng là chúng chưa có mặt tại Việt Nam. Điều này đã giúp Nhã Nam chiếm được tình cảm của công chúng yêu sách trẻ tuổi. Họ ham muốn được đọc những quyển sách đương đại có giá trị bên cạnh những cuốn sách thuộc hạng kinh điển đã xuất hiện rất lâu trên tủ sách của họ. - Hơn thế nữa trong khi các Nhà xuất bản bị bó hẹp trong phạm vi nội dung sách được xuất bản dẫn đến hạn chế trong khâu lựa chọn bản thảo thì Nhã Nam lại được tự do tìm kiếm bản thảo với bất cứ chủ đề nào miễn nó có chất lượng. Nhã Nam thoải mái trong khâu chọn bản thảo và họ được tự do trong việc lựa chọn đơn vị liên kết xuất bản. Như vậy chúng ta thấy được một lợi thế của doanh nghiệp tư nhân trong khâu xuất bản. - Ưu thế của Nhã Nam còn nằm ở chính mảng đề tài mà họ chủ yếu khái thác đó là mảng sách văn học dịch. Chúng ta đều biết những quyển sách nổi tiếng thế giới được yêu thích thì rất phong phú và đa dạng nên đây chính là là một nguồn bản thảo rất dồi dào cho khai thác và có thể nói là nguồn bản thảo vô tận. Trong cái kho bản thảo kể như là bất tận đấy, Nhã Nam có thể dễ dàng hơn trong việc chọn lọc những bản thảo hay, phù hợp với thị hiếu của thị trường sách Việt Nam cũng như phù hợp với những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước từ đó có những đầu sách hấp dẫn mang đến cho bạn đọc. - Một thuận lợi của Nhã Nam cũng như những doanh nghiệp tư nhân nói chung đó là sự gọn nhẹ trong bộ máy tổ chức. Khi tìm hiểu về Nhã Nam chúng ta còn thấy được họ là những người trẻ, rất năng động. Điều này được thể hiện trong việc họ sử dụng rất khéo léo nguồn cộng tác viên trẻ tuổi trong khâu biên dịch sách. Những khó khăn của Nhã Nam : Bên cạnh nhiều thuận lợi thì Nhã Nam cũng gặp phải không ít khó khăn trên con đường hướng tới các độc giả của mình. -Khó khăn đầu tiên đối với doanh nghiệp là khi Nhã Nam ra đời, trên thị trường đã có rất đông các công ty và doanh nghiệp làm về sách. Họ là những công ty lâu năm, có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất bản. Sự cạnh tranh giữa các đơn vị là rất lớn. Một doanh nghiệp mới ra đời và nhất là doanh nghiệp tư nhân như Nhã Nam thì áp lực cạnh tranh là không hề nhỏ chút nào. Không những thế những người khởi tạo Nhã Nam đã phải rất vất vả trong thời gian đầu như theo lời kể của anh Vũ Hoàng Giang – một trong những thành viên sáng lập ra Nhã Nam là “Vất vả lắm! Phải học đủ thứ. Thuê đánh máy, đọc morasse và biên tập, thuê hoạ sĩ vẽ bìa, tự viết text các bìa sách, các mép gấp”. - Khi chọn mảng sách văn học nước ngoài làm đối tượng khai thác chính, Nhã Nam đã tự biết phải đứng trước một thực trạng của ngành xuất bản Việt Nam – đó là việc bảo vệ tác quyền. Để thương thuyết, mua được một bản thảo hay đã là khó. Doanh nghiệp phải liên lạc với các đơn vị giữ tác quyền bên nước ngoài, hoặc với tác giả. Áp lực cạnh tranh đã lớn là thế nhưng để có được những bản thảo hay và có bản quyền, Nhã Nam phải mua, điều này dẫn tới chi phí để cho ra đời một cuốn sách của họ sẽ bị đội lên so với các đơn vị khác. Chưa hết, trong tình trạng sách lậu tràn lan ở thị trường sách Việt Nam, các tác giả cũng như các đơn vị giữ bản quyền của cuốn sách thường rất ngại và họ không muốn bán cho các doanh nghiệp Việt Nam vì họ không thể kiểm soát được số lượng sách sẽ được xuất hiện trên thị trường của chúng ta. Đây là điều khó nghĩ cho rất nhiều doanh nghiệp trong ngành xuất bản của chúng ta tại thời điểm này. -Khó khăn tiếp theo của Nhã Nam là việc sách của Nhã Nam là sách dịch từ tiếng nước ngoài. Để có được bản thảo hay đã không đơn giản, việc làm sao chuyển ngữ, dịch thành công tác phẩm đó để người đọc có thể cảm nhận được hết cái hay, cái tài tình trong nguyên tác lại là một việc đòi hỏi sự đầu tư lớn. Từ trước, hoạt động dịch sách của chúng ta thường có cung cách làm việc tự phát, nhỏ lẻ và không tập trung. Chất lượng sách dịch có xu hướng giảm sút, có rất nhiều sách dịch trên thị trường nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc. Đã có trường hợp như quyển sách Mật mã Da Vinci, một dịch giả nổi tiếng đứng tên nhận dịch nhưng bên trong lại thuê nhiều người khác dịch và hậu quả là chất lượng của cuốn sách bị giảm rất nhiều và dư luận đã kêu ca khi lần xuất bản tiếng Việt đầu tiên của cuốn sách đến tay bạn đọc. Chính vì lý do này, Nhã Nam đã phải đầu tư trong khâu dịch các bản thảo của mình một cách rất cẩn thận. Tuy có tăng thêm phần chi phí cho khâu đầu vào của cuốn sách nhưng thời gian đã chứng minh được công sức và chi phí của họ bỏ ra là không bị phí hoài. Thuận lợi có, khó khăn có nhưng sau một thời gian hoạt động tất cả điều đấy đều đã chứng minh được con đường của những người sáng lập ra Nhã Nam đúng đắn. Bằng chứng là Nhã Nam đã có được lòng tin nơi độc giả và dần dần khẳng định ví trị của mình với những tác phẩm có giá trị, được biên dịch chính xác và chu đáo trong khâu biên tập cũng như trình bày. : Công tác PR trong hoạt động của Nhã Nam Vị trí của PR trong tổ chức của công ty Nhã Nam Để đánh giá tầm quan trọng của PR trong hoạt động của Nhã Nam chúng ta có thể xem xét vai trò và chức năng của PR trong tổ chức bộ máy vận hành của công ty. GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC TRUYỀN THÔNG PHÓ GIÁM ĐỐC KINH DOANH PHÓ GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH Chuyên viên PR Chuyên viên PR Nơi đảm nhiệm thực hiện chức năng PR cho Nhã Nam là phòng PR nội bộ của công ty (Nhã Nam không sử dụng dịch vụ PR của các công ty cung cấp dịch vụ khác). Bộ phận PR nội bộ của Nhã Nam bao gồm 1 lãnh đạo truyền thông và 2 chuyên viên PR. Phòng PR nội bộ trong công ty làm nhiệm vụ đại diện cho công ty nên bộ phận này nắm bắt các vấn đề và liên hệ chặt chẽ với các bộ phận khác trong nội bộ. Bên cạnh đó, họ có chức năng truyền đạt thông tin, cố vấn và hoạch định chiến dịch cũng như phải xây dựng mối quan hệ với độc giả, những tác giả, những nhà xuất bản cũng như những đại lý, cửa hàng cũng như các mối quan hệ khác. -Các hoạt động của phòng PR nội bộ của Nhã Nam có thể liệt kê như sau: + Viết và phân bố các thông cáo báo chí, hình ảnh và bài điểm tin cho giới báo chí, thu thập và lưu trữ danh sách báo chí. + Tổ chức các buổi họp báo, các sự kiện giới thiệu sách + Duy trì bộ phận chuyên cung cấp thông tin cho các phương tiện truyền thông. + Sắp xếp, tổ chức và thực hiện các buổi phỏng vấn với đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí cho ban lãnh đạo. Điểm đặc biệt ở Nhã Nam là trưởng bộ phận PR- truyền thông cũng chính là phó giám đốc của công ty nên đa phần tất cả các bài trả lời phỏng vấn báo chí, truyền hình đều do chính phó giám đốc phụ trách. + Viết và cập nhật blog của công ty Với việc sử dụng phòng PR nội bộ đảm nhiệm hoạt động PR của công ty nên dẫn tới một số đặc điểm sau: Thu nhập được những thông tin một cách nhanh chóng, và nắm rõ tình hình của công ty mình Xử lý ngay các trường hợp khẩn cấp ( như các thông tin về thu hồi sách, bị đình chỉ, cấm xuất bản …) Có thể nhận xét là tuy quy mô của bộ phận PR của Nhã Nam không lớn nhưng xét với quy mô của doanh nghiệp thì nó hoàn toàn phù hợp và điều quan trọng là qua việc có bộ phận PR trong cơ cấu của Nhã Nam, chúng ta thấy được ban lãnh đạo của Nhã Nam đã xác định được tầm quan trọng của hoạt động này trong toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty. Hơn nữa, qua sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty Nhã Nam thì chúng ta thấy rằng người quản lý truyền thông, đối ngoại cũng là một trong những thành viên có quyền quyết định trong công ty. Điều này có nghĩa là PR đóng vai trò chiến lược trong hoạt động của Nhã Nam. Công tác PR trong công ty được thực hiện nghiêm túc và chủ động bởi nhà quản trị truyền thông cấp cao trong công ty có vị thế lớn trong bộ máy điều hành. Nhiệm vụ của người lãnh đạo truyền thông này là tư vấn cho những lãnh đạo quản trị cấp cao khác, và có trách nhiệm toàn diện đối với chiến lược truyền thông của tổ chức ( bao gồm chiến lược tiếp thị, quảng cáo và quảng bá toàn diện). Từ đó chúng ta thấy rằng thành công trong hoạt động truyền thông của Nhã Nam không chỉ đơn thuần là đóng góp của riêng lẻ bộ phận truyền thông mà nó còn có sự phối hợp chặt chẽ trong với các lĩnh vực chuyên môn có liên quan. 2.2.3.2: Các công cụ thực hiện hoạt động PR ở Nhã Nam Để thực hiện những chức năng như đã trình bày ở trên, bộ phận PR của Nhã Nam đã sử dụng những công cụ : Thông cáo báo chí Blog ( trang web nhật ký trên mạng) Tổ chức sự kiện Làm rõ hơn về hoạt động PR của Nhã Nam,chúng ta cần đi sâu vào mỗi công cụ mà họ đã sử dụng để thấy được hiệu quả và tác dụng mà nó mang lại . Thông cáo báo chí Như đã nói tới ở chương một của bài, chúng ta được biết rằng Thông cáo báo chí là một cách hiệu quả để đưa doanh nghiệp, công ty đến với giới truyền thông cũng như các doanh nghiệp khác. Nó giúp cho các thông tin từ doanh nghiệp đến với giới truyền thông nhanh hơn và từ đó tới bạn đọc, khách hàng và những nhà đầu tư khác một cách chính xác và tốc độ. Một đặc điểm của Nhã Nam mà chúng ta cần phải đặc biệt chú ý đó là những người sáng lập ra Nhã Nam có xuất phát là những nhà báo. Đây là một thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp trong việc quan hệ với giới truyền thông. Thông thường, thông cáo báo chí được Nhã Nam gửi cho các tờ báo, họ sẽ dựa trên thông cáo báo chí để viết tin, bài về Nhã Nam. Khi chuẩn bị có một đầu sách mới đưa ra thị trường thì bộ phận PR của Nhã Nam thường tập trung vào khai thác các tin về mua thành công bản quyền của cuốn sách, đưa thông tin về tác giả và hé lộ từ từ về quyển sách sắp ra mắt bạn đọc. Dưới đây là một mẫu thông cáo báo chí của Nhã Nam được gửi đi khi cuốn sách “ Đo thế giới” ra mắt bạn đọc Thông cáo báo chí Đo thế giới A. TÁC GIẢ Daniel Kehlmann sinh ngày 13.1.1975 tại Munich (Đức) và mang hai quốc tịch Đức, Áo. Kehlmann chuyển sang quê cha tại Vienna (Áo) khi còn nhỏ, đây cũng là nơi anh theo học hai ngành triết học và văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Kehlmann viết luận án tiến sỹ về Khái niệm Cao Thượng của Immanuel Kant, nhưng "tôi bỏ cuộc vì việc viết văn quá trôi chảy". Sau tác phẩm đầu tay Màn diễn của Beerholms năm 1997, Kehlm viết phê bình và tiểu luận văn học cho nhiều tờ báo lớn, từ năm 2001 dạy Nghệ thuật thi ca tại Đại học Mainz, Đại học Wiesbaden và Đại học Gottingen. Với năm tiểu thuyết, một tập truyện ngắn, một tập tiểu luận và nhiều giải thưởng văn học quan trọng, Kehlmann được đánh giá là một trong những tác giả trẻ tài năng của văn học Đức đương đại. Kehlmann hiện cũng là Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học và Văn học Đức. B. TÁC PHẨM 1. Tóm tắt Đo thế giới là câu chuyện kể về hai nhà khoa học lỗi lạc của Đức đầu thế kỷ mười chín Carl Friedrich Gauss và Alexander von Humboldt. Một người là nhà toán học vĩ đại, tác giả của Luận về số học ở tuổi hai mươi, còn người kia đã dành cả cuộc đời để thám hiểm thế giới. Họ gặp nhau tại một hội nghị khoa học tại Berlin và câu chuyện được mở ra. Kehlmann đã dành trọn hơn hai trăm trang sách để giúp người đọc có cái nhìn hài hước, độc đáo về hai nhân vật có thật này, từ khi còn là những cậu bé thần đồng cho đến khi những đầu óc thiên tài bị giam hãm trong cơ thể già yếu. Nếu như Gauss không thể rời xa quê nhà, người mẹ và những bà vợ thì Humboldt cùng người đồng hành Bonpland từng trôi trên con sông Amazon đầy muỗi vắt lẫn xác người, trèo lên đỉnh núi cao nhất Nam Mỹ hay len lỏi vào những khu rừng chỉ có thú dữ và thổ dân. Gauss là mẫu nhà khoa học của những suy luận còn Humboldt chỉ tin vào những kết luận có được từ thực nghiệm. Gauss tự do và không chối từ lạc thú, trong khi Humboldt khắc kỷ như một thầy tu. Gauss thờ ơ với những bước tiến xã hội, Humboldt ngược lại, tin tưởng và hy vọng. Gauss dị ứng với những lời tôn xưng trong khi đó Humboldt đôi lúc tự hỏi tại sao thế giới vẫn chưa biết đến mình.... Kehlmann đã xây dựng hình ảnh của hai nhà khoa học trong tương quan đối lập ở những chương kế tiếp nhau giúp người đọc có những hình dung độc đáo, sắc nét không chỉ về những con người vĩ đại mà còn về hành trình khám phá, đo đạc thế giới rộng lớn của chúng ta. Không giống như những cuốn sách viết về chân dung các nhà khoa học thường thấy, Đo thế giới là một tiểu thuyết có sức lôi cuốn thực sự với mọi đối tượng độc giả bởi cách kể chuyện hài hước, thông thái của Daniel Kehlmann. Một mặt, bằng cách diễn đạt ngắn gọn và sáng rõ những công thức toán học, những định luật vật lý của Gauss và những kết luận của Humblodt về địa chất, sinh vật, Daniel Kehlmann đã giúp người đọc, ngay cả những người đọc không mấy hứng thú với khoa học tự nhiên, trả lời được câu hỏi: thế giới của chúng ta đã được đo đạc như thế nào?. Mặt khác, những chi tiết hài hước không ngớt gây cười về cuộc sống của Gauss và Humblodt đem lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn khác về những nhà khoa học khả kính của thế kỷ trước, cái nhìn gần gũi hơn, đời thường hơn. Tuy nhiên, tác phẩm không chỉ là câu chuyện về công cuộc đo thế giới và những người đã giúp ta biết đến thế giới của chính mình mà hơn thế Đo thế giới còn là cuốn tiểu thuyết về tính cách Đức, văn hoá Đức, tâm hồn Đức, từ tuyên ngôn trong những bữa ăn "một người Đức là một người không bao giờ ngồi còng lưng" của bố Gauss cho tới lời phàn nàn của mẹ Humboldt trước lúc hấp hối trước tư thế ngả ngớn vì ngủ gật của con trai mình, từ những cấm đoán cứng nhắc của Humboldt với Bonpland cho đến sự im lặng khoan dung và cần thiết của ông trước lời thú tội của Bonpland... Đo thế giới, có thể không diễn đạt hết được tầm vóc và tâm huyết của hai tài năng lớn Humblodt và Gauss như họ đã từng là, nhưng mặt khác, Đo thế giới đem lại cho người đọc nhiều điều, câu chuyện về những người đã vẽ bản đồ thế giới, về cá tính Đức, về bi kịch tuổi già, về sự hữu hạn của tồn tại và ấn tượng đậm nét về một tác giả trẻ tuổi, tài năng và quá đỗi thông thái. 2. Một số thông tin về Đo thế giới - Đã hơn hai mươi năm, kể từ khi Mùi hương của Patrick Suskind xuất bản năm 1985, văn học Đức mới có một tác phẩm thu hút được nhiều sự quan tâm của độc giả Đức đến vậy. Với 600.000 bản được bán ra tại Đức, Đo thế giới đã đánh bật Dan Brown và J.K.Rowling khỏi vị trí đầu tiên của danh sách bestseller tại Đức và trong suốt 72 tuần liên tiếp kể từ khi xuất bản, Đo thế giới vẫn giữ vững được vị trí này. - Đo thế giới đã được bán bản quyền dịch và xuất bản tại 37 quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới. - Tác phẩm của Kehlmann được khơi nguồn từ những giai thoại về Gauss và Humboldt và đặc biệt từ một sự kiện có thật năm 1828, khi Gauss tới Berlin dự một hội nghị khoa học và đã lưu lại nhà của Humboldt. Gauss tên đầy đủ là Johann Carl Friedrich Gauss (1777-1855), nhà khoa học, nhà toán học thiên tài người Đức đã có những đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực như số học, hình học, trắc địa, từ tính, thiên văn học, quang học. Gauss là một trong những người có ảnh hưởng quan trọng trên nhiều lĩnh vực toán học và khoa học, đồng thời được coi là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng nhất trong lịch sử với những tên gọi như "Hoàng tử toán học", "Nhà toán học vĩ đại nhất từ khởi thuỷ" Friedrich Wilhelm Heinrich Alexander Freiherr von Humboldt (1769-1859), nhà tự nhiên học, nhà thám hiểm người Phổ. Từ năm 1799 tới 1804, Humboldt đã chu du khắp Nam và trung Mỹ, lần đầu khám phá và diễn tả vùng đất ký bí này dưới con mắt của một nhà khoa học, chuyến phiêu lưu này được kể lại trong một bột sách đồ sộ được viết trong vòng 21 năm. Cuối đời, trong tác phẩm gồn năm tập có tên Kosmos của mình, ông đã tập hợp nhiều kiến thức quan trọng về thế giới. 3. Một số nét về dịch giả Đo thế giới là tác phẩm thứ ba của dịch giả Lê Quang, sau Người đọc và Tình ơi là tình. Nếu ở Tình ơi là tình, Lê Quang đã chuyển tải được cái xóc nảy trong văn phong của Jelinek thì ở Đo thế giới là sự hài hước, thông thái và hết sức linh hoạt trong lối viết của Daniel Kehlmann. Và kết quả sau khi Thông cáo báo chí của Nhã Nam được gửi đi : Trên báo mạng Vietnamnet Báo mạng Việt báo Báo Lao động Báo mạng Sức trẻ Việt Nam Báo Hoa học trò online Blog Blog là từ viết tắt của thuật ngữ Weblog. Có thể hiểu nôm na Blog là những ghi chép trực tuyến, một dạng Website cá nhân. Blog cho phép người viết có cơ hội nói lên những suy nghĩ của họ hay đơn giản là chia sẻ những thông tin bổ ích. Mọi người có thể truy cập vào Blog của nhau để thảo luận, tiếp nhận thông tin và giải trí. Theo thống kê hiện nay, có đến 8.5 triệu người hiện đang sử dụng blog và cứ 7 giây có một blog mới được viết. Điều đáng nói là Blog đang được xem như là một công cụ PR mới hiện nay. Các Doanh nghiệp nhìn thấy từ Blog – mảnh đất màu mỡ để quảng bá thương hiệu và sản phẩm của mình một cách nhanh nhất trong cộng đồng Blog đang ngày một phát triển rỗng rãi. Một vài dòng cảm nhận chân thực nhất đi kèm với hình ảnh, thông tin về sản phẩm hay Doanh nghiệp sẽ được các Bloggers khác để mắt tới và phát tán bằng những "friend connecting" (kết nối bạn bè). Nếu những mẩu quảng cáo đó ấn tượng, sẽ nhận được "feedback" (phản hồi) nhanh hơn email rất nhiều lần. Hơn thế, họ sẽ đồng ý tiếp nhân thông tin về sản phẩm hoặc Doanh nghiệp một cách liên tục qua hệ thống truyền tin RSS (nếu có). Giao diện trang blog của Nhã Nam trên 360.yahoo.com Giao diện blog của Nhã Nam tại địa chỉ blogspot.com Blog của Nhã Nam được ra đời vào tháng 12 năm 2006 và cho tới nay- tức là khoảng hơn 1 năm sau khi thành lập thì số lượng lượt truy cập của nó là 318 602 lượt . Blog được Nhã Nam lực chọn để cung cấp thông tin tới bạn đọc bởi : blog là 1 sản phẩm có tính mở rất lớn, dễ sử dụng, nó không quá phức tạp, không đòi hỏi người quản trị phải có nhiều kiến thức chuyên sâu về lập trình mạng. Thứ hai, ở thời gian hiện tại blog là thứ được những người trẻ rất thích, nó giúp họ liên kết với nhau một cách dễ dàng hơn. Hướng tới đối tượng độc giả trẻ nên việc sử dụng blog- 1 thứ mà họ thích là điều tất yếu. Điểm đặc biệt mà blog thu hút người trẻ là nó giúp cho họ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxMar2.docx
Tài liệu liên quan