Đề tài Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN BỘ MÔN MẠNG MÁY TÍNH ĐỀ TÀI Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến Information LỜI MỞ ĐẦU Trải qua rất nhiều năm nay, phương thức quản lý đào tạo theo kiểu truyền thống cho thấy sự đóng góp không thể chối cãi trong việc cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thống, chính phương thức đó cũng bộc lộ một số yếu kém ảnh hưởng đến việc truyền đạt và tiếp thu nội dung kiến thức, trong đó có thể kể đến việc quản lý hồ sơ không đạt hiệu quả cao, nội dung các giáo trình, sách giáo khoa thường khó có thể cập nhật kịp thời, hình thức bài giảng không tạo nên được sự hứng thú học tập cho học viên, việc tra cứu tại chỗ các tài liệu tham khảo rất hạn chế và mất nhiều thời gian, … Điều đó mang lại hiệu quả học tập không cao mà chi phí cho đào tạo và học tập lại lớn, dẫn đến sự lãng phí không nhỏ cả về thời gian, tiền bạc. Nhận thức được những vấn đề ...

doc77 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN BỘ MÔN MẠNG MÁY TÍNH ĐỀ TÀI Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến Information LỜI MỞ ĐẦU Trải qua rất nhiều năm nay, phương thức quản lý đào tạo theo kiểu truyền thống cho thấy sự đóng góp không thể chối cãi trong việc cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thống, chính phương thức đó cũng bộc lộ một số yếu kém ảnh hưởng đến việc truyền đạt và tiếp thu nội dung kiến thức, trong đó có thể kể đến việc quản lý hồ sơ không đạt hiệu quả cao, nội dung các giáo trình, sách giáo khoa thường khó có thể cập nhật kịp thời, hình thức bài giảng không tạo nên được sự hứng thú học tập cho học viên, việc tra cứu tại chỗ các tài liệu tham khảo rất hạn chế và mất nhiều thời gian, … Điều đó mang lại hiệu quả học tập không cao mà chi phí cho đào tạo và học tập lại lớn, dẫn đến sự lãng phí không nhỏ cả về thời gian, tiền bạc. Nhận thức được những vấn đề trên, công tác giáo dục đào tạo đã có nhiều thay đổi, cải tiến với các hình thức học tập mới khắc phục những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning, được hiểu là học tập điện tử, đào tạo trực tuyến, với sự trợ giúp của các công nghệ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin, là hình thức học tập hứa hẹn sẽ khắc phục tốt những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning đã được thử nghiệm và bước đầu hoàn chỉnh ở nhiều nơi trên thế giới. Đề tài “Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến” sẽ nêu rõ những khái niệm và cấu trúc về hệ thống đào tạo từ xa cũng như ứng dụng các công cụ cho việc soạn bài giảng trực tuyến .  Đề tài bao gồm các nội dung chính sau:  Chương 1. Tổng quan: Đặt vấn đề, tình hình phát triển eLearning trên thế giới và ở Việt Nam. Mục tiêu của đề tài. Chương 2. eLearning: Chương này sẽ giới thiệu về những kiến thức, thông tin cơ bản của hệ thống eLearning bằng cách trình bày định nghĩa về eLearning, các thành phần cơ bản của eLearning và một số vấn đề quan trọng liên quan đến các thành phần của hệ thống eLearning. Chương 3. Learning Object (LO): Chương này sẽ trình bày về LO, chuẩn SCORM, cách đóng gói LOs thành các SCOs. Ví dụ thực nghiệm cách đóng gói này với công cụ đóng gói Reload Editor. Chương 4. Chuẩn SCORM: Chương này sẽ giới thiệu tổng quan về chuẩn, các khái niệm liên quan và cấu trúc của chuẩn SCORM.  Chương 5. LMS và Moodle: Trình bày về hệ thống Quản lý đào tạo và ví dụ thực nghiệm trên hệ thống quản lý học tập Moodle. Chương 6. Ứng dụng :Tạo gói SCORM và tích hợp gói SCORM trên hệ thống eLearning Moodle Chương 7. Tổng kết : những chức năng đã làm được và hướng phát triển của đề tài.  LỜI MỞ ĐẦU Trải qua rất nhiều năm nay, phương thức quản lý đào tạo theo kiểu truyền thống cho thấy sự đóng góp không thể chối cãi trong việc cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thống, chính phương thức đó cũng bộc lộ một số yếu kém ảnh hưởng đến việc truyền đạt và tiếp thu nội dung kiến thức, trong đó có thể kể đến việc quản lý hồ sơ không đạt hiệu quả cao, nội dung các giáo trình, sách giáo khoa thường khó có thể cập nhật kịp thời, hình thức bài giảng không tạo nên được sự hứng thú học tập cho học viên, việc tra cứu tại chỗ các tài liệu tham khảo rất hạn chế và mất nhiều thời gian, … Điều đó mang lại hiệu quả học tập không cao mà chi phí cho đào tạo và học tập lại lớn, dẫn đến sự lãng phí không nhỏ cả về thời gian, tiền bạc. Nhận thức được những vấn đề trên, công tác giáo dục đào tạo đã có nhiều thay đổi, cải tiến với các hình thức học tập mới khắc phục những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning, được hiểu là học tập điện tử, đào tạo trực tuyến, với sự trợ giúp của các công nghệ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin, là hình thức học tập hứa hẹn sẽ khắc phục tốt những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning đã được thử nghiệm và bước đầu hoàn chỉnh ở nhiều nơi trên thế giới. Đề tài “Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến” sẽ nêu rõ những khái niệm và cấu trúc về hệ thống đào tạo từ xa cũng như ứng dụng các công cụ cho việc soạn bài giảng trực tuyến . Đề tài bao gồm các nội dung chính sau: Chương 1. Tổng quan: Đặt vấn đề, tình hình phát triển eLearning trên thế giới và ở Việt Nam. Mục tiêu của đề tài. Chương 2. eLearning: Chương này sẽ giới thiệu về những kiến thức, thông tin cơ bản của hệ thống eLearning bằng cách trình bày định nghĩa về eLearning, các thành phần cơ bản của eLearning và một số vấn đề quan trọng liên quan đến các thành phần của hệ thống eLearning. Chương 3. Learning Object (LO): Chương này sẽ trình bày về LO, chuẩn SCORM, cách đóng gói LOs thành các SCOs. Ví dụ thực nghiệm cách đóng gói này với công cụ đóng gói Reload Editor. Chương 4. Chuẩn SCORM: Chương này sẽ giới thiệu tổng quan về chuẩn, các khái niệm liên quan và cấu trúc của chuẩn SCORM. Chương 5. LMS và Moodle: Trình bày về hệ thống Quản lý đào tạo và ví dụ thực nghiệm trên hệ thống quản lý học tập Moodle. Chương 6. Ứng dụng :Tạo gói SCORM và tích hợp gói SCORM trên hệ thống eLearning Moodle Chương 7. Tổng kết : những chức năng đã làm được và hướng phát triển của đề tài. Mục lục Lời mở đầu Mục lục Danh sách các hình Danh sách các bảng PHẦN 1. NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 1.1. Đặt vấn đề 1.2. Tình hình phát triển eLearning: 1.2.1. Trên thế giới 1.2.2. Ở Châu Á 1.2.3. Ở Việt Nam CHƯƠNG 2. ELEARNING 2.1. Định nghĩa eLearning 2.2. Kiến trúc hệ thống eLearning: 2.3. Đánh giá ưu điểm – khuyết điểm của eLearning 2.3.1. Ưu điểm: 2.3.2. Khuyết điểm: 2.4. So sánh các phương pháp học tập truyền thống và phương pháp eLearning 2.4.1. Các phương pháp học tập truyền thống 2.4.2. Phương pháp eLearning: CHƯƠNG 3. LEARNING OBJECTs, IMS, METADATA. 3.1. Learning Objects (LOs): 3.1.1. Giới thiệu 3.1.2. Learning Objects: 3.1.2.1. Thuộc tính của LO: 3.1.2.2. Đặc điểm của LOs: 3.1.2.3. Một số yêu cầu chức năng: 3.2. Khái quát về IMS: 3.2.1. Giới thiệu 3.2.2. Các đặc tả của IMS: 3.3. Metadata 3.4. Chuẩn SCORM (Sharable Content Object Reference Model): 3.4.1. Khái quát về SCORM: 3.4.2. Chuẩn đóng gói nội dung trong SCORM 3.4.3. Dạng đóng gói SCOs: 3.5. Công cụ đóng gói RELOAD EDITOR 3.5.1. Cách đóng gói một bài học, môn học 3.5.2. Mô hình của một LO được đóng gói bởi RELOAD CHƯƠNG 4. CHUẨN SCORM 4.1. Tổng quan về SCORM Giới thiệu SCORM Tại sao lại cần một quy trình chuyển đổi Quá trình phát triển của SCORM Các khái niệm cơ bản liên quan đến SCORM Asset SCO Cấu trúc của SCORM SCORM 1.2 CAM RTE 4.3.2. SCORM 1.3 CHƯƠNG 5. LMS VÀ MOODLE 5.1. Giới thiệu về các hệ LMS: Định nghĩa: Đặc điểm Chức năng LMS Moodle CHƯƠNG 6. ỨNG DỤNG CHƯƠNG 7. TỔNG KẾT PHẦN 1. NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, cụm từ đào tạo từ xa đã và đang trở nên gần gũi với tất cả mọi người. Đào tạo từ xa là một phương thức học tập phân tán, thông qua các phương tiện truyền thông như radio,truyền hình và internet,…Phương pháp học tập này đáp ứng cho nhu cầu học tập tích lũy kiến thức của tất cả mọi người, đồng thời sẽ đem lại những lợi ích to lớn, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc, đồng thời cũng nâng cao chất lượng truyền đạt và tiếp thu kiến thức cho các học viên. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, phương thức đào tạo theo phương pháp eLearning có rất nhiều ưu thế để phát triển. Đó là nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và các loại truyềt thông đa phương tiện. Phương pháp học tập eLearning trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin cùng các loại truyền thông đa phương tiện vào việc dạy học và học sẽ là một xu hướng tất yếu trong giáo dục và đào tạo của thế kỉ XXI. eLearning làm giảm chi phí,thời gian và công sức học tập, giúp nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức cho các học viên trên cơ sở sử dụng nền web và các đa phương tiện truyền thông như hình ảnh, âm thanh,video… Yếu tố chính góp phần làm nên hiệu quả to lớn của phương pháp học tập eLearning là bài giảng giáo trình trực tuyến. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải có một công cụ biên soạn bài giảng để giúp cho các giáo viên có thể soạn thảo bài giảng, giáo trình trực tuyến của mình theo đúng một cấu trúc bài giảng đã đề ra sao cho bài giảng sau khi biên soạn xong có thể đóng gói lại thành các nội dung (SCOs) dựa trên chuẩn SCORM (sharable Content Object Reference Model), có khả năng tái sử dụng và tích hợp trên các hệ thống quản lý học tập trên Moodle. Tình hình phát triển eLearning: Ở các nước châu Âu. eLearning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. eLearning phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ, ở châu Âu eLearning cũng rất có triển vọng, trái lại ở châu Á là khu vực chậm tiến đối với công nghệ này. Để có cái nhìn tổng quan về eLearning trên thế giới, chương này lần lượt điểm qua sự phát triển và ứng dụng eLearning ở các châu lục chính như Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á với các dẫn chứng minh hoạ về sự quan tâm hỗ trợ, các biện pháp, chính sách của nhà nước và chính quyền tại các khu vực trên đối với eLearning, sự ứng dụng eLearning trong các cơ sở giáo dục, các công ty, giới thiệu một số đại học ảo … Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning ở Bắc Mỹ Các nỗ lực từ phía chính phủ: Tháng 10/1999 Quốc hội Mỹ đã thành lập Uỷ ban Giáo dục dựa trên Web (Web-based Education Commission). Một trong những nhiệm vụ của Uỷ ban này là đề xuất ra cho Tổng Thống và Quốc Hội những chính sách trợ giúp cho các nhà lãnh đạo giáo dục về các vấn đề liên quan đến việc ứng dụng mô hình đào tạo dựa trên Web để cải tiến và nâng cao nền giáo dục Mỹ. Tháng 12/2000 Uỷ ban này đã thảo ra bản báo cáo mang tên “Sức mạnh của Internet đối với việc học: chuyển từ triển vọng sang thực tiễn” (“The Power of the Internet for Learning: Moving from Promise to Practice”) nhấn mạnh sự cần thiết của việc ứng dụng eLearning vào thực tế. Tháng 9/2001 Ban Cố vấn về CNTT của Tổng Thống Mỹ (President’s Information Technology Advisory Commitee) cũng đưa ra một bản báo cáo với Tổng thống có tiêu đề “Sử dụng CNTT để thay đổi cách chúng ta học”(“ Using Information Technology to Transform the Way We Learn”). Bản báo cáo đã kết luận việc sử dụng CNTT nói chung trong công tác giáo dục, sử dụng mô hình dạy học dựa trên Web nói riêng là câu trả lời cho nhu cầu bức bách của xã hội về việc chuyển đổi cách học. Các bang ở Mỹ đang áp dụng nhiều sách lược để phát triển các năng lực tiềm tàng của eLearning trong giáo dục sau trung học (postsecondary education), tập trung vào các đối tượng học tại chức (học trong khi đang đi làm). Các bang đang xây dựng các hệ thống phân phối eLearning (delivery system) đến người học thông qua mô hình các Đại học ảo (Virtual University), đồng thời đang thiết lập các mô hình thư viện số (Digital Library) để hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin của người học. Gần 2/3 số bang trong tổng số 39 bang được hỏi nói rằng họ đều có các trường Đại học ảo và các thư viện số. Một ví dụ về Đại học ảo đó là Đại học ảo Michigan (www.mivu.org/index.asp). Thành lập vào năm 1998 bởi Hiệp hội Phát triển Kinh tế Michigan (Michigan Economic Development Corporation) cộng tác với một vài ngành công nghiệp chủ yếu của bang, sử dụng nguồn vốn 30 triệu USD. MVU (Michigan Virtual University) nhằm cung cấp các chương trình đào tạo thuận tiện, giá rẻ, chẩt lượng cao cho người lao động. MVU không trực tiếp xây dựng các khóa học cũng như cấp bằng. Nó môi giới công việc này cho các trường đại học hoặc các cơ sở đào tạo tư nhân của bang để đưa ra các khoá học tốt nhất về kỹ thuật và hàn lâm từ xa, sử dụng Internet, CDROM, Tivi như các phương tiện phân phối. Cho đến mùa thu 1999, 16 Đại học thành viên đã đưa ra được 124 khoá học cho gần 2000 sinh viên của MVU. Toàn bộ 28 Đại học Cộng đồng của bang Michigan đều tham dự như các “Đại học chủ nhà” (“home colleges”), để cung cấp sự hỗ trợ cho các sinh viên của MVU trong lĩnh vực của họ. Thêm vào đó, một chi nhánh của MVU là Đại học Michigan Virtual Automotive và Manufacturing College (MVAMC), đã ký hợp đồng với các công ty sản xuất để đào nhân viên cho các công ty này. Năm 1998 MVAMC đã chiêu nạp được 3863 sinh viên trong chương trình đào tạo với hãng ô tô Ford. MVU đã nhận được giải thưởng 750000 USD của tổ chức AmeriTech vì đã đưa ra được trường Đại học CNTT ảo Michigan (Michigan Information Technology College) góp phần nâng cao kỹ năng CNTT cho lực lượng lao động của bang này. Các bang cũng đang đầu tư vào nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên để giáo viên có thể khai thác được các công nghệ mới của eLearning một cách hiệu quả hơn. Chẳng hạn như bang South Dakota đã lập một trung tâm gọi là Center for Statewide eLearning để nâng cao kỹ năng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên. Trung tâm này dựa trên cơ sở trường Đại học Northen State University (NSU). Trung tâm này nhận huấn luyện cho các giáo viên về công nghệ giáo dục từ xa và cung cấp các khoá học cho các trường thông qua phương tiện cầu truyền hình (video conferencing). Tất cả các sinh viên của NSU sẽ học về các kỹ năng của công nghệ dạy học từ xa để sau này sử dụng công nghệ này trong công việc của họ. Để biết thêm chi tiết xem www.state.sd.us/news/ issues/17.pdf. Các bang khuyến khích việc sử dụng eLearning bằng việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hỗ trợ về mặt tài chính. Gần ¾ số bang được hỏi đều nói là họ có tài trợ cho các cơ sở đào tạo sau trung học để nâng cấp cơ sở hạ tầng. Cụ thể là: Xây dựng các đường truyền cao tốc ảo phục eLearning. Ví dụ mạng truyền thông bang Iowa (Iowa Communications Network - ICN) là một mạng thuộc sở hữu và điều hành của bang. Mạng này dùng cáp quang, dài 3400 dặm kết nối hơn 750 lớp học hỗ trợ Internet và truyền thông các dữ liệu đa phương tiện như âm thanh, hình ảnh, các đoạn phim video. ICN được dùng để truyền hơn 176000 giờ học của nội dung giáo dục nâng cao trong năm tài chính 2001, và quân đội Mỹ sẽ đầu tư hơn 80 triệu USD trong việc đào tạo và một trung tâm mô phỏng sẽ ra nhập mạng này. Để biết thêm chi tiết xem www.icn.state.ia.us/text/txtindex.html. Hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng đào tạo sau trung học (postsecondary institution). Chẳng hạn như Quỹ Tài trợ Cơ sở Hạ tầng Truyền thông bang Texas (Texas’ Telecommunications Infrastructure Fund - TIF). TIF tài trợ cho các dự án liên quan đến Giáo dục từ xa, bao gồm các trường các viện nghiên cứu y học để phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc học từ xa và y học từ xa (distance learning and telemedicine). TIF đã tài trợ 28 triệu USD cho các trường đại học tổng hợp và các thư viện, 14,8 triệu USD cho các đại học cộng đồng và đại học kỹ thuật, 9,7 triệu USD cho các trường y khoa. Để biết thêm chi tiết xem www.tifb.state.tx.us/grantloan/timeline.html. Hợp tác với các công ty để thúc đẩy và mở rộng nguồn tài nguyên cho việc xây dựng eLearning. Chẳng hạn như sự hợp tác với công ty Cisco và 3Com tại bang Pennsylvania để đưa ra các khoá đào tạo trực tuyến có cấp chứng chỉ. Một vài bang miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp cũng như cá nhân tham gia vào eLearning. Nhiều bang đang nỗ lực lấp đầy các khoảng cách số để xoá bỏ các rào cản đối với eLearning. Những sự khuyến khích hỗ trợ thông thường không đủ để đưa đến các cơ hội về eLearning cho những người còn quá ít hiểu biết về CNTT mà cần phải có những biện pháp đặc biệt. Những biện pháp đang được áp dung hiện nay tại các bang ở Mỹ bao gồm: hoàn thiện các mạng nội bộ của các bang, chẳng hạn Hệ thống Truyền thông Giáo dục Đại học của bang Indiana (Indiana’s Higher Education Telecommunications System) đưa ra các khoá học trực tuyến miễn phí; hay khởi xướng đào tạo CNTT của bang Michigan (Michigan’s IT Training Initiative) cung cấp việc truy cập Internet miễn phí thông qua các thiết bị đầu cuối trong các thư viện của các trường hoặc thư viện công; cho vay tiền để mua máy tính; tổ chức đào tạo cho những người có quá ít hiểu biết về CNTT thông qua các tổ chức phi lợi nhuận như bang Maryland; đưa ra các giải thưởng cho việc tái chế các trang thiết bị máy tính; cổ vũ các cơ sở giáo dục truyền thống mở rộng sự hỗ trợ. Những đề xướng cổ vũ việc sử dụng Internet và eLearning là rất quan trọng bởi vì những nghiên cứu về “khoảng cách số” (“digital divide”) cho thấy trình độ hiểu biết về CNTT và Internet là rất thấp trong một số bộ phận nhân dân như những cán bộ cao cấp, những người có thu nhập thấp hay những người ở vùng nông thôn. Những khởi xướng thành công trong lĩnh vực này của các bang như California hay Mariland đã có tác dụng mở rộng lực lượng lao động có trình độ cao, giảm được khoảng cách về thu nhập gây ra bởi cơ hội đào tạo không không đồng đều. Các bang đang khảo sát để tìm cách đảm bảo chất lượng của các chương trình eLearning và thu hút được người học. Các nguyên tắc vận dụng để đảm bảo chất lượng của eLearning đã được các bang mang vào sử dụng. Để đảm bảo chất lượng các bang công bố danh sách các nguyên tắc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của các ngành công nghiệp bên ngoài cũng như tôn trọng nguyên tắc đề ra bởi các đơn vị đào tạo tham gia các hệ thống ảo. Ban Điều phối Giáo dục Đại học Texas (Texas’ Higher Education Coordinator Board) đã đề ra các nguyên tắc cho các khoá học điện tử. Nguyên tắc liên quan đến chương trình dạy, quá trình dạy cũng như việc đánh giá kết quả học. Để biết thêm chi tiết xem www.thecb.state.tx.us. Một số bang sử dụng các tín chỉ dựa theo năng lực (competency-based credentials) trong các chương trình eLearning. Ví dụ một số bang là thành viên của trường đại học tổng hợp Western Governor’s University (WGU). Trường này là tiền thân của hiệp hội Western Governor’s Association bắt đầu cấp bằng và chứng chỉ vào năm 1998. Sinh viên tham dự học được dạy thông qua một số các kỹ thuật dạy học từ xa như Tivi, vệ tinh, Internet. Việc kiểm tra nhập học và kết quả tốt nghiệp hoàn toàn dựa theo năng lực (competencies). Để biết thêm chi tiết tham khảo www.wgu.edu/wgu/academics/understan-ding.html. Một số bang khác thành lập các uỷ ban chuẩn hoá kỹ năng để cổ vũ việc việc “học dựa trên hiệu quả” (performance-based learning), “học dựa trên đánh giá thẩm định” (assessment-based learning). Chẳng hạn Ban Chuẩn hoá Kỹ năng Texax (Texas Skill Standard Board) www.tssb.org/ hay Hội đồng Cấp Tín chỉ và Chuẩn hóa Kỹ năng Nghề nghiệp Illinois (Illinois Occupational Skill Standard và Credentialing Council) www.standards.siu.edu. Các bang cũng đang xem xét các vấn đề liên quan đến điều hành khi họ đưa các hoạt động eLearning vào một hệ thống có tổ chức. Họ đang tìm cách đảm bảo tính riêng tư, tính an toàn cũng như cách bảo vệ bản quyền tài sản trí tuệ trong môi trường eLearning. Về tính riêng tư (privacy): bang Connecticut đã có các chuẩn cấp bang về việc truyền thông điện tử (xem www.state.ct.us/cmac/policies). Về tính an toàn (security): Đại học Tổng hợp Hawai (University of Hawaii) đã đề ra các nguyên lý chỉ đạo cho việc sử dụng các tài nguyên CNTT của trường để vạch rõ sự bảo vệ có hiệu quả, sự truy cập công bằng và những nguyên lý về quản trị. Những nguyên lý chỉ đạo này đã bổ sung thêm cho các luật hiện hành và nhấn mạnh vào việc bảo vệ mật khẩu và sự an toàn trực tuyến. Để biết thêm chi tiết xem www.hawaii.edu/infotech/policies.itpolicy.html. Về sự bảo vệ bản quyền trí tuệ, Đại học Tổng hợp Minnesota (University of Minnesota) đã có bộ luật về tư cách đạo đức, đưa ra các điều khoản cho việc sử dụng đúng đắn các tài nguyên công nghệ. Bộ luật chỉ ra rằng: người sử dụng hệ thống phải không được dính líu hay cho phép các hành vi quấy rối hay phân biệt đối xử bất hợp pháp. Bộ luật cũng gợi ý rằng những người soạn giáo trình trong hệ thống các trường đại học phải bảo đảm tính nguyên bản (originality) của công việc họ làm và phải thừa nhận vào những người tham gia đóng góp vào công việc của họ. Để biết thêm chi tiết xem www.umn.edu, www.umn.edu/regents/policies/academic/Conduct.pdf. Trong tình hình eLearning tại Mỹ hiện nay hầu hết các biện pháp trên đây đang được tiến hành trên hầu hết các bang. Các bang bắt đầu lợi dụng thế mạnh của vô số các tuỳ chọn được mang lại nhờ các công nghệ học mới khi họ mở rộng khả năng nâng cao trình độ cho lực lượng lao động để chuẩn bị cho nền kinh tế tri thức. Mặc dù các bang đang bận rộn với việc phát triển các cơ hội của eLearning, họ cũng nhận thấy những khó khăn của việc đưa ra những chuyển đổi lớn của rất nhiều hệ thống học trong một thời gian ngắn như vậy. Các khó khăn đó là: chi phí cho việc xây dựng nội dung học và đào tạo giáo viên, sự mở rộng cần thiết cơ sở hạ tầng, chất lượng của các khoá học, sự hưởng ứng của các cơ sở đào tạo truyền thống, các vấn đề liên quan đến bản quyền sở hữu trí tuệ … Các bang đều coi chất lượng là vấn đề hàng đầu. Khó khăn dường như tăng lên khi các bang đề cập đến các vấn đề bên trong eLearning. Chẳng hạn như vấn đề vươn tới được những người còn ít hiểu biết về CNTT một cách có hiệu quả, hay vấn đề xây dựng lại các hệ thống đào tạo sau trung học công cộng để loại trừ các sự trùng lặp, sao cho những rào cản về các khoảng cách vật lý giữa các cơ sở thành viên của một đơn vị đào tạo không còn nữa, vấn đề đảm bảo quyền lợi của người học và chất lượng của bài học trong một môi trường đầy biến động mà không gây ra những xáo trộn. Những sự kiện nói trên cho thấy Chính phủ Liên bang cũng như các bang tại Mỹ đã nhận biết được tầm quan trọng, ảnh hưởng cũng như tiềm năng của eLearning đối với nền giáo dục Mỹ nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung. Elearning đã giành được sự ủng hộ và khuyến khích từ phía chính phủ liên bang cũng như chính phủ các bang góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của nó. Tại Canada, ông Alan Rock, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nói: “Chính phủ Cacada tự hào đã giúp đỡ các cơ sở đào tạo Canada và các công ty xây dựng các mô hình dạy học mới dựa trên Internet”. Các quan chức chính phủ Canada cho rằng tiền đầu tư cho các dự án eLearning là cần thiết vì chính phủ muốn cổ vũ sự đổi mới trong dạy học trực tuyến. Sự phát triển, ứng dụng eLearning trong các trường học ở Mỹ: Elearning đã bùng nổ thành một trong những ứng dụng hữu ích nhất của Internet. Các trường đại học và cao đẳng đang tranh giành nhau để ra nhập vào thị trường eLearning. Các con số thống kê: Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển và Đào tạo Mỹ (American Society for Training and Development - ASTD) gần 47% các trường đại học và cao đẳng Mỹ đã đưa ra các dạng khác nhau của mô hình học từ xa (distance learning) tại thời điểm năm 2000, tạo nên 54000 khoá học trực tuyến. Theo các chuyên gia phân tích của Công ty Dữ liệu Quốc tế (International Data Corporation - IDC), vào cuối năm 2004 gần 90% các trường đại học và cao đẳng Mỹ sẽ đưa ra mô hình eLearning, số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong khoảng từ năm 1999 đến 2004. IDC dự đoán rằng, chi phí của các trường đại học và cao đẳng cho công nghệ học từ xa (distance learning technology) sẽ tăng 20% mỗi năm, cụ thể là từ gần 300 triệu USD năm 1999 sẽ tăng lên đến 744 triệu USD năm 2004. Thêm vào đó, vốn đầu tư vào việc đào tạo từ xa sẽ đạt đến con số khổng lồ 2,2 tỷ USD vào năm 2004 (trong khi con số này vào năm 1999 là 900 triệu USD). Một sự tìm kiếm nhanh trên Internet sẽ cho thấy hàng trăm trường đại học và cao đẳng đề xướng mô hình dạy học eLearning, trải từ trường Alcorn State đến trường Zion University. Hình như cứ mỗi ngày lại có một chương trình học trực tuyến mới được thông báo. Rất nhiều chương trình nhắm tới những mảng thú vị nhất của thị trường mới – đó là các phòng đào tạo của các công ty hay những người học đang khao khát nâng cao trình độ kiến thức. Mỗi trường đều đang tìm cách để giành cho mình một phần thị trường vốn đã đầy rẫy các trường đại học ảo (virtual university) và đủ các loại dự án kinh doanh eLearning. Các trường đại học đang bị quyến rũ vào thị trường này với nguồn vốn trí tuệ muốn được khai thác dưới danh tiếng của trường đó. Nhờ có Internet, các trường không còn bị chói buộc vào các vị trí địa lý, ngược lại họ có thể coi toàn cầu như là toàn bộ thị trường của mình. Tại trường Đại học Standford chẳng hạn, eLearning được xem như là “một sự nỗ lực để mở rộng kinh nghiệm của Standford tới mọi người từng ngày” – theo lời ông Andy DiPaolo, Giám đốc Điều hành Trung tâm Phát triển Nghề nghiệp Đại học Standford. Bốn đại học danh tiếng là Standford, Oxford, Yale và Princeton đã cùng hợp tác trong một dự án dạy học từ xa trị giá 12 triệu USD, cung cấp các khoá học về khoa học, nghệ thuật trực tuyến. Dự án mang tên “liên minh các trường đại học cho việc đào tạo suốt đời ” (University Alliance for Life-Long Learning), nhắm tới các cựu sinh viên của trường. Trong năm 2001, Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Bussiness School) và Đại học Tổng hợp Standford (Standford University) đã liên kết để mở các khoá đào tạo kinh doanh trực tuyến tập trung vào đối tượng học là các nhà lãnh đạo điều hành của các công ty cũng như của chính phủ trên toàn thế giới. Hai trường nói là, họ hy vọng chương trình của họ trở thành tư liệu hàng đầu thế giới về giáo dục quản lý trực tuyến. Trước đó Trường Công nghệ Standford (Standford School of Engineering) – đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực dạy học từ xa – đã đào tạo ra 25% số thạc sỹ thuộc ngành này qua đào tào từ xa. Sau Harvard và Standford, hai trường đại học nổi tiếng khác là New York và Columbia cũng mở các khoá học tương tự. Việc các trường đại học hàng đầu này mở chương trình eLearning cho thấy xu hướng phát triển của mô hình này sẽ rất mạnh mẽ. Đầu năm 2001, Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã tạo ra một điểm sáng khi nó hoàn thành bản kế hoạch đưa gần như toàn bộ giáo trình học của trường lên mạng Internet hoàn toàn miễn phí. MIT nói rằng, trong vòng 10 năm tới sẽ cung cấp trên mạng các tài liệu của hơn 2000 khoá học bao gồm các bài giảng, bài đọc, bài kiểm tra, mô phỏng và các bài giảng video. Về phương diện nào đó, đề xuất của trường MIT làm tăng thêm quyết tâm của các trường đại học khác đang xem Internet như là một nguồn lợi quyến rũ. Đại học Tổng hợp Canada (Canadian University) cũng đưa ra khoá học trực tuyến về đất trồng và phân bón mang tên The Land. Với số vốn đầu tư 1 triệu đô la Canada, khoá học hướng tới đối tượng học là các nhà chuyên môn nông nghiệp. Hiện đang có một cuộc chạy đua giữa các trường lớn và nhỏ trong thị trường eLearning nhằm thu lợi từ thị trường khổng lồ này. Một ví dụ là Đại học Trực tuyến Phoenix – đơn vị đang dẫn đầu với hơn 18000 sinh viên. Trong 6 tháng từ 9/2000 đến 2/2001, trường này đã thu về 70,2 triệu USD, tăng 65% trong đó tiền lãi là 11,6 triệu USD tăng 72%. Với 23000 USD, sinh viên có thể đạt được trình độ MBA tại Phoenix, một món khá hời nếu so sánh với gần 80000 USD phải trả tại Trường Kinh doanh Fuqua - Đại học Tổng hợp Duke (Duke University’s Fuqua School of Business) – nơi mà một chương trình học trực tuyến cũng được đưa ra. Số người đăng ký học tại Phoenix nhiều gấp hai lần của trường Đại học Quốc tế Jones (Jones International University) – là trường đại học hoàn toàn trực tuyến đầu tiên ở Mỹ - đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Phoenix. Với một mảng rất lớn các khoá học được công nhận giành cho đối tượng vừa học vừa làm, Phoenix đang xông xáo nhắm tới thị trường đại học giành cho các công ty với các chương trình học giá vừa phải, và các tuỳ chọn học mềm dẻo. Trường cũng làm việc với các công ty khách hàng để tuỳ biến các khoá học cho phù hợp với nhu cầu khách hàng. Phoenix đã xác nhận là gần một nửa số sinh viên của trường được cơ quan trả học phí. Sau đây là một số đại học trực tuyến: Đại học Tổng hợp Maryland www.umuc.edu Đây là đại học công lập lớn nhất tại Mỹ có các khoá đào tạo trực tuyến. Bắt đầu cung cấp dịch vụ từ 1990. Năm 2001 số người đăng ký học trực tuyến lên đến 63000 người, tăng gấp đôi so với năm trước đó. Học viên có thể được cấp 70 văn bằng các loại qua mạng. Học phí: tương tự như các khoá học trên lớp của trường – 197$ cho một giờ học với sinh viên đại học, 301$ với sinh viên sau đại học. Sinh viên nước ngoài phải trả gấp đôi. Đại học Trực tuyến Phoenix online.uophx.edu Đại học trực tuyến lớn nhất nước Mỹ. Các lĩnh vực đào tạo bao gồm: cử nhân tài chính kế toán, quản trị và marketing, thạc sỹ quản trị kinh doanh (MBA), tiến sỹ về quản lý. Việc học và thi cử hoàn toàn qua mạng. Học phí: 400$ đến 500$ cho mỗi môn học. Để lấy được văn bằng MBA học phí khoảng 23000$. Đại học Quân sự Trực tuyến eArmyU www.earmyu.com Từ 1/2001, eArmyU cho phép các binh lính Mỹ đăng ký học và lấy văn bằng của 24 trường đại học trên khắp nước Mỹ. Mỗi người học được cấp một máy tính xách tay, một máy in và quyền truy cập Internet. Cho tới 12/2001 có 10400 người học, dự tính đến 2003 sẽ áp dụng cho toàn bộ quân đội Mỹ. Học phí: miễn phí cho quân đội, dân thường không được phép đăng ký học. Đại học Western Governors www.wgu.edu Đây là đại học trực tuyến được thành lập năm 1997 bởi 19 bang miền Tây nước Mỹ. Các khoá học được thiết kế theo trình độ từng học viên dựa theo kết quả kiểm tra nhập học. Nội dung học cho mỗi cá nhân dựa trên mức độ thiếu hụt kiến thức cần bù đắp của cá nhân đó. Trường được tài trợ bởi các công ty như IBM, AOL, Microsoft. Học viên phải trả 4500$ cho việc kiểm tra đầu vào và tiền giáo viên hướng dẫn, ngoài tuỳ thuộc vào nội dung học còn phải trả thêm các khoản thêm nữa. Đại học Mở Harvard www.extension.harvard.edu Có 35 khóa học lấy các văn bằng trực tuyến về các nội dung: khoa học máy tính, thuật toán máy tính, xây dựng Website. Dự kiến sẽ mở rộng hơn nữa trong tương lai. Học phí từ 275$ không có tín chỉ cho tới 1750$. Đại học Cardean www.cardean.edu Được thành lập bởi công ty phát triển các ứng dụng eLearning có tên Unext kết hợp với các đại học Standford, Chicago, Columbia. Trường đã cung cấp dịch vụ học trực tuyến cho nhân viên công ty General Motors trong khi nhanh tróng quảng cáo dịch vụ tới đông đảo khách hàng. Học phí khoảng 25000$ cho văn bằng MBA. Đại học Quốc tế Jones www.jonesinternational.edu Thành lập 1993 bởi Công ty Truyền hình Cáp, trước đó từng cung cấp dịch vụ đào tạo từ xa qua TV cáp. Trường có hơn 40 chương trình đào tạo cấp đại học và thạc sỹ. Văn bằng MBA học phí khoảng 12000$. Đại học Capella www.capella.edu Cung cấp hơn 500 khoá học trong mỗi quý. Sinh viên có thể được cấp 15 văn bằng khác nhau từ 80 chuyên ngành. Hầu hết trong số 4000 sinh viên đang theo học về kinh doanh, giáo dục hoặc CNTT. Tiền học từ 1150$ đến 1600$ cho một khoá học. Để lấy bằng thạc sỹ, học phí là 20000$, bằng tiến sỹ khoảng 34000$. Các trường đại học đi theo nhiều hướng khác nhau trong lĩnh vực eLearning. Trường Đại học Tổng hợp New York và Trường Đại học Tổng hợp Mariland nằm trong số các trường thiết lập các bộ phận chuyên trách để kinh doanh eLearning. Trong khi đó, các trường như Williams, Amherst, Brown và Cornell thì tham dự vào Nghiệp đoàn Mạng Giáo dục Toàn thể (General Education Network consortium). Những hội liên hiệp học từ xa khác cũng đang được thiết lập giữa các trường đại học với các ràng buộc về địa lý, tôn giáo … Rất nhiều trường khám phá ra rằng bằng cách hợp tác với các công ty tư nhân họ có thể bước vào thị trường eLearning với độ rủi ro thấp hơn nhiều nếu họ tự làm một mình. Sau đây là một vài sự phát triển gần đây của các trường thực hiện eLearning. Phối hợp với nhau: bốn trường đại học là những thành viên rất tích cực trong lĩnh vực học từ xa đã nhóm họp thành một đội đặt tên là Alliance of Four để cung cấp các khóa học eLearning cho các khách hàng công ty. Đại học The University of California at Berkeley, đại học Penn State University, đại học University of Washington và đại học University of Wisconsin đã đưa ra bản kế hoạch vào 1/2001 để cùng nhau xây dựng các chuẩn nội dung nhằm thúc đẩy sự chấp nhận eLearning trong giáo dục thường xuyên của người học và các khách hàng công ty. Tiến tới toàn cầu hoá: đại học Lansbridge University, một trường đại học trực tuyến tư nhân đặt tại Brunswick, Canada đã hợp tác với Công ty Tư vấn Phát triển Nguồn Nhân lực đặt tại Đài Loan có tên Chain-E, để tiếp thị các chương trình học trực tuyến và cấp bằng của trường cho các sinh viên Đài Loan và Trung Quốc. Lansbridge được thành lập vào 12/1999 bởi công ty LearnSoft Corporation với tư cách là một trường đại học phân phối các khoá đào tạo quản lý mềm dẻo, đủ khả năng và hướng thị trường (market-driven) tập trung vào các nền kinh tế phát triển nhanh. Chương trình của Lansbridge đưa ra ba mô hình về e-MBA (e - Master of Bussiness Administrator) với 92 sinh viên. Chain-E cũng ra nhập mạng tuyển dụng bao gồm các trường như ArthurD. Little School of Management tại Mỹ, Synphonix tại Anh và châu Âu, karROX Technologies tại Ấn độ và Stamford College tại Malaysia. Hợp tác với các ngành công nghiệp: EduPoint (đặt tại San Diego, Mỹ) được coi như một bạn hàng công nghiệp đầu tiên của tổ chức Alfred P. Sloan Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận điều hành một hiệp hội các cơ sở đào tạo đại học có uy tín để đưa ra các chương trình học trực tuyến cấp các văn bằng đại học, sau đại học. EduPoint sẽ đưa vào chương trình có tên Corporate Learning Marketplace 2.0 các khoá học của hơn 80 cơ sở đào tạo uy tín là thành viên của hiệp hội Sloan’s Asynchronous Learning Network Consortium viết tắt là Sloan-C. Chợ bán hàng trực tuyến này cho phép những người học cá nhân và người học là nhân viên các công ty có thể tìm kiếm, so sánh, đánh giá và đăng ký học một cách hiệu quả. Nó thu thập, tổ chức, cập nhật thông tin khoá học từ các trường có uy tín, cũng như các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo. Chất lượng của các khoá học tại các đại học trực tuyến là rất khác nhau. Đó chính là lý do tại sao các trường đại học như Phoenix và các công ty tư nhân như UNext lấy làm kiêu hãnh về việc phân phối ra các sản phẩm học chất lượng cao. Cả hai đều đang xông xáo tìm cách thu hút các khách hàng công ty. Chẳng hạn Deerfield, chi nhánh của UNext tại Illinois đã đầu tư rất mạnh để cung cấp các chương trình học hàng đầu cho đối tượng là các nhà chuyên môn đang đi làm. Nó đã mở ra trường đại học ảo mang tên Cardean University, một đại học ảo có uy tín đào tạo không cấp tín chỉ cho các khoá học MBA. Các khoá học ở đây được xaay dựng bởi các bạn hàng là các trường đại học như Standford University, Columbia University, Carnegie Mellon University, the Universisty of Chicago, London School of Economics. Chương trình học được modun hoá – theo lời ông Andrew M. Rosenfield, một cựu giáo sư, uỷ viên hội đồng quản trị trường đại học University of Chicago, người sáng lập và hiện là chủ tịch công ty. Mọi người có thể học chỉ những kỹ năng cũng như chủ đề mà họ cần, không nhất thiết phải theo toàn bộ khoá học. Sinh viên có thể học vào lúc thuận tiện nhất với họ, với tốc độ học nhanh chậm tuỳ theo khả năng từng người. Ông xác nhận, giáo trình của khoá học ở đây không bao giờ bao là các bài giảng đơn điệu, thay vào đó chúng tôi thử thách sinh viên bằng các bài tập tương tác, các vấn đề, các sự mô phỏng và các thí nghiệm. Khối liên minh gây ấn tượng cùng với các khoá học tương tác của UNext làm cho công ty thu hút được các khách hàng công ty lớn như General Motors (GM). Trong vòng 4 năm 88000 nhân viên của GM bao gồm các nhân viên kỹ thuật, các nhà lãnh đạo điều hành, các nhà chuyên môn sẽ truy cập vào đại học ảo Cardean thông qua trường đại học của công ty mang tên General Motor University. Sự phát triển, ứng dụng eLearning trong tổ chức doanh nghiệp ở Mỹ: Việc ứng dụng eLearning trong các tổ chức và doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ nhất tại khu vực Bắc Mỹ. Không còn nghi ngờ gì nữa, nguyên nhân chính là do sự nhận thức được những lợi ích mà eLearning mang lại cho tổ chức, đó là: tiết kiệm được thời gian và chi phí đào tạo, tăng năng suất lao động, khả năng sinh lợi và nâng cao lòng trung thành của đội ngũ nhân viên. Theo ước tính của công ty IDC, thị trường đào tạo trực tuyến cho các công ty năm 2000 tại Mỹ trị giá 2,3 tỷ USD, con số này sẽ tăng lên 18 tỷ USD vào năm 2005. Công ty Maisie Center - một công ty chuyên nghiên cứu về công nghệ đào tạo – đã ước tính có tới 92% các công ty lớn đã triển khai một vài ứng dụng của eLearning trong năm 2001 và cho rằng nhiều trong số này sẽ triển khai eLearning lên toàn tổ chức trong hai năm tới. Tại Canada, có những nghiên cứu cho rằng trong tương việc đào tạo nhân viên theo lối truyền thống sẽ được thay thế bởi eLearning. Theo IDC Canada, hơn 60% các công ty lớn của Canada đã triển khai eLearning vào cuối năm 2001. Dưới đây là một vài ví dụ về sự triển khai ứng dụng eLearning tại một số công ty. Tháng 5/2001, công ty IBM ký hợp đồng với Đại học Quản lý Boston để cung cấp dịch vụ eLearning về đào tạo bán hàng trực tuyến tới 30000 nhân viên IBM trên toàn cầu. Dự kiến mỗi nhân viên sẽ theo học một khoá học 3 tuần trong 1 năm. 75% các khoá đào tạo cán bộ quản lý mới ra nhập công ty là trực tuyến. Nỗ lực này đã tiết kiệm cho IBM 350 triệu USD trong ngân sách đào tạo nhờ giảm được chi phí đi lại, chi phí làm thêm ngoài giờ và các chi phí khác phát sinh nếu dùng lối đào tạo truyền thống. Cisco System – công ty thiết bị viễn thông hàng đầu nhận định: eLearning đang thay đổi cách mà mọi người cung cấp cũng như nhận các thông tin về đào tạo. Bằng cách vượt qua các hạn chế về thời gian và khoảng cách, eLearning đưa tới nhiều cơ hội cho tất cả mọi người trên thế giới. Tại công ty này, eLearning được coi là yếu tố sống còn, 80% các khóa đào tạo nhân viên ở đây đã chuyển thành trực tuyến, hoạt động 24/24. Nó đã tiết kiệm 60% chi phí cho Cisco – theo lời tom Kelly – phó giám đốc Cisco phụ trách lĩnh vực các giải pháp Internet. Từ giữa năm 1997, hãng hàng không Air Canada đã đầu tư 1.5 triệu USD vào eLearning, nhưng không trông đợi sẽ đem lại hiệu quả tiết kiệm nhanh tróng. Mục đích quan trọng nhất của hãng là giảm chấn thương cho người lao động, giảm hỏng hóc máy bay, thiết bị …. Chi phí này chiếm 5% tổng chi phí hoạt động. Elearning được coi là chiến lược lâu dài của Air Canada. Hãng ô tô Ford chọn giải pháp kết hợp cho đào tạo nhân viên. Năm 1997, hãng đặt mục tiêu đào tạo 160 giờ cho 20000 nhân viên về các lĩnh vực thiết kế, lắp đặt và bảo trì xe hơi trong thời gian 4 năm. Nhưng Ford nhanh tróng nhận ra rằng mục tiêu này không thể đạt được nếu chỉ sử dụng cách đào tạo truyền thống. Do đó hãng đã triển khai 7 khóa đào tạo trong số đó dựa trên Web, 7 khoá dùng CDRom, chỉ có 5 khóa là theo lối đào tạo truyền thống. Sau mỗi khoá học dựa trên Web hay dùng CDRom, học viên phải dự lớp hai giờ để gặp gỡ và thảo luận với giáo viên. Giải pháp này đã rút ngắn 30% thời gian đào tạo. Motorola cũng là công ty sớm nhận ra lợi ích của eLearning và đang có những mục tiêu đầy tham vọng. Hãng lên kế hoạch 30% các khoá đào tạo nhân viên trong 2001 và 50% các khoá đào tạo trong 2002 là trực tuyến. Ông Alex Pass, phụ trách dự án đào tạo của hãng nói: eLearning không còn là tiềm năng mang lại lợi ích nữa, mà đã trở thành bắt buộc, nó không chỉ phù hợp với hoàn cảnh của nhân viên đi học, mà còn thích hợp về khả năng theo học – đó là điểm mấu chốt. Hãng phần mềm Oracle cũng nhận ra mối liên kết giữa việc đào tạo khách hàng và sự thoả mãn của khách hàng. Đó là lý do tại sao hãng đã triển khai một chương trình eLearning để làm tăng tối đa việc đào tạo khách hàng và bạn hàng. Với việc đưa ra hơn 50 khoá học trực tuyến, hãng hy vọng tháo gỡ được rào cản trong việc đào tạo khách hàng. Các lớp đào tạo truyền thống trước đây cho khách hàng, tiền học phí vào khoảng 300$ đến 400$ một ngày bao gồm cả chi phí khách sạn. Trong khi đó tiền học cho tất cả các khoá học trực tuyến chỉ còn 1195$. Thị trường sáng sủa của eLearning cũng đã tạo ra hàng loạt các công ty chuyên nghiên cứu và xây dựng các giải pháp eLearning. Có thể điểm tên một số các công ty dẫn đầu như: Click2learn, DigitalThink, GlobalLearning Systems, Knowledge Planet, Saba, SmartFord, ThinQ… Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning ở châu Âu Công ty IDC ước đoán rằng thị trường eLearning của châu Âu sẽ tăng tới 4 tỷ USD trong năm 2004 với tốc độ tăng 96% hàng năm. Vào cuối năm 2004, 50% tổng số trên đạt được từ mảng đào tạo trực tuyến với nội dung đào tạo liên quan tới CNTT, số còn lại sẽ là các mảng đào tạo liên quan đến các nội dung như bán hàng, tiếp thị kỹ năng của người lãnh đạo … Trong những năm gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc phát triển CNTT cũng như ứng dụng nó trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội đặc biệt là ứng dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng Châu Âu đều nhận thức được tìêm năng to lớn mà CNTT mang lại trong việc mở rộng phạm vi, làm phong phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo dục. Tháng 3/2001, một kế hoạch trị giá 13,3 tỷ USD mang tên “Kế hoạch Hành động eLearning” (eLearning Action Plan) đưa ra bởi Uỷ ban Châu Âu (European Commision) được trông đợi sẽ thúc đẩy sự phát triển của đào tạo trực tuyến trong các trường đại học ở Châu Âu. Bản kế hoạch 3 năm này có mục tiêu mở rộng tiềm năng số hoá ở châu Âu và giảm sự thiếu hụt nhân lực CNTT. Chính phủ các quốc gia châu Âu sẽ cùng nhau cộng tác để thực hiện kế hoạch này. Khoản đầu tư trải rộng trong lĩnh vực giáo dục tất cả các cấp, tập trung vào ngôn ngữ; nghệ thuật - văn hoá - nghĩa vụ công dân; khoa học - công nghệ - xã hội. Trong 2 năm tới, Uỷ ban Châu Âu đang đặt ra một mục đích lâu dài liên quan đến việc sử dụng công nghệ giáo dục mới, chẳng hạn như việc xây dựng và phát triển các “đại học, lớp học ảo”. Để đạt được các mục đích này, Uỷ ban Châu Âu sẽ sử dụng tối đa các chính sách và các công cụ mà nó điều khiển, ví dụ như các chương trình hỗ trợ đào tạo và giáo dục mới nhất (như các chương trình có tên Socrates, Leonardo, Youth), hay các chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển lần thứ 5 (còn gọi là IST programme), các chương trình eEurope (như các chương trình mang tên eContent, Go Digital & Ten Telecom), các quỹ tài trợ như Structural Funds, đặc biệt sẽ đầu tư cho các khu vực ít được ưu đãi. Một nhóm 15 công ty châu Âu đã thành lập Hội Công Nghiệp eLearning (eLearning Industry Group). Hội này sẽ làm việc với Uỷ ban Châu Âu và các chính phủ các quốc gia châu Âu để khuyến khích việc ứng dụng eLearning trong các trường học, cơ quan, doanh nghiệp tại châu Âu. Hiệp hội này bao gồm các công ty như: 3Com, Accenture, Apple, BT, Cisco, Digitalbrain, IBM, Intel, Communications, NIIT, Nokia, Online Courseware Factory, Sanom WSOY, Sun Microsystems, Vivendi Universal Publishing. Hội đề ra 4 đề xướng then chốt để thực hiện đó là: xoá bỏ các rào cản đối với mọi người trong xã hội đối với eLearning, tham dự và tuân theo trong việc xây dựng các chuẩn mở về eLearning, tạo điều kiện để duy trì thị trường thương mại cho các nội dung và sự phát triển eLearning, tăng các nguồn đầu tư trong việc nâng cao trình độ liên tục cho các giáo viên để họ có thể hiểu được và phát triển các nguyên lý của eLearning. Những nước châu Âu có lượng người nói tiếng Anh đông và tỷ lệ thâm nhập Internet cao như Hà Lan, Thụy Điển, Anh là những nước eLearning sẽ trở nên phổ cập nhanh hơn. Phần phía Nam châu Âu có xu hướng đi chậm hơn trong lĩnh vực này. Chính phủ Anh đã tài trợ 84 triệu Pound để thành lập Đại học Dịch vụ Đào tạoTrực tuyến Công nghiệp (University for Industry’s Online Training Services - UFI). Đại học này cung cấp các khoá đào tạo dựa trên sự hợp tác giữa một số trường đại học, các doanh nghiệp và các tổ chức. Theo khảo sát gần đây của công ty SkillSoft Europe (một công ty về eLearning) khoảng 45% các tổ chức tại Anh sử dụng eLearning thường xuyên. Trong các tổ chức này không thể không kể đến hai công ty lớn của Anh đó là hãng hàng không British Airway và hãng tin Anh Reuter. Hãng tin Reuter hy vọng sẽ tiết kiệm được 1 triệu Pound mỗi năm trong chi phí đào tạo sau khi thay thế đào tạo truyền thống bằng eLearning. Anh cũng là nước có nhiều dự án eLearning trong môi trường đại học so với các nước ở châu Âu. Trường Đại học Tổng hợp Manchester (Manchester Metropolitan University) đã có dự án xây dựng hệ thống eLearning cung cấp các nội dung học về CNTT, còn trường Đại học Tổng hợp Liverpool (Liverpool University) có các khoá học trực tuyến trình độ Master về CNTT cho những người học đã có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Có thể tìm thấy rất nhiều Website hỗ trợ học trực tuyến của các trường đại học tại Anh như: www.hvmba.edu của đại học Heriot-Watt University, www.nottingham.ac.uk của đại học University of Nottingham, www.lon.ac.uk của đại học University of London External Programme…. Nước Anh còn trở thành bãi đổ bộ cho các nhà bán sản phẩm eLearning của Mỹ trong một tham vọng hướng tới thị trường châu Âu. Ví dụ công ty eLearning của Mỹ, SkillShoft đã xây dựng cơ sở của công ty tại Anh, hợp tác với các nhà thiết kế bài học châu Âu để đưa ra các sản phẩm học phù hợp cho châu Âu. Thuỵ Sỹ cũng đang đứng trước các thử thách của một xã hội thông tin. Nước này đóng vai trò rất tích cực trong lĩnh vực xúc tiến eLearning nhất là trong việc nghiên cứu và chuẩn hoá. Hơn nữa Thuỵ Sỹ cũng đầu tư rất nhiều để phát triển eLearning trong các trường đại học. Ví dụ như chương trình dạy học trực tuyến Swiss Virtual Campus ( với các môn học hấp dẫn nhiều sinh viên. Hay chương trình Eduswiss ( là một đại học ảo với hơn 100 khoá học về các nội dung như khoa học máy tính, truyền thông và đa phương tiện, quản lý môi trường , tự động hóa với sự tham gia của hơn 40 trường đại học và tổ chức doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của Trường Quản lý, Đại học Tổng hợp Muynich - Đức (University of Munich’s School of Management), khoảng 1/3 các công ty tham gia thị trường chứng khoán C-Dax (Đức) đào tạo nhân viên theo mô hình eLearning. Khoảng một nửa các công ty ở Đức hiện chưa dùng eLearning đang có kế hoạch sử dụng công nghệ này trong tương lai. Tại Pháp, chính phủ sẽ kết nối mạng tất cả các trường đại học trong nước và tạo ra một khu trường sở số hoá (digital campus), khu digital campus này sẽ được kết nối với tất cả các trường đại học ở Pháp. Hiện nay phần lớn nội dung đào tạo về CNTT đều được các trường sử dụng mô hình đào tạo trực tuyến. Một số các Website đào tạo trực tuyến của các trường ở Pháp như: www.univ-reims.fr/ctu của trường University of Reims, telesup.univ-mrs.fr của trường University de Rouen, www.univ-lille3.fr của trường University Charkes de Gaulle II… Chính phủ Nauy đã tạo ra mạng quốc gia dựa trên Internet (national internet-based learning network) phục vụ cho mục đích đào tạo và giáo dục cho dân chúng nước này. Mạng này mang tên Competence Network, là kết quả của sự hợp tác giữa hai tổ chức Liên hiệp Thương Mại Liên Bang Nauy (Norwegian Federation of Trade Unions) và Liên hiệp Doanh nghiệp và Công nghiệp Nauy (Confederation of Norwegian Bussiness and Industry). Đứng đằng sau là chính phủ và các trường đại học, mạng này có thể vươn tới 4 triệu người Nauy. Hơn 40 nhà cung cấp nội dung học sẽ đưa ra các chương trình học phù hợp cho sinh viên truy cập tại các công sở, hiệp hội thương mại, các trường học và các công ty tư nhân. Tại Hy Lạp, công ty phần mềm eLearning mang tên European Dynamics đã giới thiệu một phần mềm eLearning sẽ được dùng bởi các khoa tự nhiên của trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Athen. Phần mềm này dựa trên Internet và hỗ trợ giáo dục đào tạo điện tử, người dùng có thể trao đổi các tài liệu học cũng như các vấn đề liên quan đến nội dung học trực tuyến cũng như tham gia các hội nghị từ xa qua video conference. Tại Cộng hoà Belarus, Đại học Tổng hợp Belarut về Thông tin và Điện tử (The Belarus State University of Informatics and Radio eletronics) cũng là đơn vị đào tạo đầu tiên tại nước này được cho phép đào tạo từ xa từ Bộ Giáo dục và Đào tạo Belarus. Học phí cho một năm học từ xa của trường là 377$. Các khóa học từ xa ở đây dự định cho 70 sinh viên, sẽ học 13 môn học. Trường sử dụng công nghệ học từ xa của 1 công ty của Nga có tên là Prometheus để phân phối các chương trình học. Các nước châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực eLearning. Điển hình là dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu EuroPACE. Đây là mạng eLearning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ty eLearning của Mỹ Docent nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, con người phù hợp với nhu cầu học của các sinh viên đại học, sau đại học, các nhà chuyên môn ở châu Âu. Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning ở châu Á Tại châu Á, eLearning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều thành công vì một số lý do như: các quy tắc luật lệ bảo thủ, tệ quan liêu, sự ưa chuộng đào tạo truyền thống của văn hoá châu Á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, cơ sở hạ tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu Á… Tuy vậy đó chỉ là những rào cản tạm thời, do nhu cầu đào tạo ở châu lục này cũng đang trở nên ngày càng không thể đáp ứng được bởi các cơ sở giáo dục truyền thống buộc các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận tiềm năng không thể chối cãi được mà eLearning mang lại. Một số các quốc gia đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển hơn tại châu Á cũng đang có những nỗ lực thể hiện sự nhận thức đối với eLearning. Theo nghiên cứu của công ty IDP Education Australia, số sinh viên đại học ở các nước châu Á sẽ đạt 45 triệu vào 2010. Các công ty châu Á cũng nhận ra rằng để có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các nhân viên của họ phải có các kỹ năng và tri thức đầy đủ, được cập nhật thường xuyên. Nhu cầu học tập tăng nhanh ở châu Á đã được các nhà bán sản phẩm eLearning và các đại học phương Tây chú ý đến. Châu Á rõ ràng đang là thị trường đào tạo rất lớn chưa được khai phá đối với các cơ sở đào tạo phương Tây. Quốc gia được các nhà cung cấp sản phẩm eLearning phương Tây quan tâm hàng đầu tại châu Á là Trung Quốc - nước rất thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng truyền thông với lượng người truy cập Internet tính đến cuối năm 2000 là 6,7 triệu người. Các công ty eLearning hàng đầu phương Tây như SmartForce, Saba, Skillsoft, IBM Mindspan, NETg đã mở các văn phòng đại diện tại Trung Quốc hoặc Hồng Kông. Tháng 7/2001 công ty SmartForce đã ký được 1 hợp đồng hàng triệu đô la với công ty Neusoft - một công ty phát triển phần mềm lớn nhất của Trung Quốc để cung cấp sản phẩm eLearning cho các nhân viên của công ty này với nội dung đào tạo là CNTT và kinh doanh. Tuy vậy các công ty phương Tây cũng đang vấp phải sự cạnh tranh ngày càng tăng của một nhóm nhỏ các công ty châu Á. Được thành lập bởi các nhà điều hành giày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, các công ty eLearning châu Á không có vốn tài chính và danh tiếng bằng các công ty phương Tây. Tuy vậy, các công ty eLearning châu Á vẫn thu hút được khách hàng nội địa bởi những sản phẩm phù hợp thị hiếu. Dẫn đầu trong số này phải kể đến NetDimension và Go4It Technologies. Thành lập vào năm 1999, với sản phẩm là Hệ thống Quản trị Học (Learning Management System - LMS) mang tên Enterprise Knowledge Platform, NetDimension đã thu hút được một số các khách hàng lớn như hãng hàng không Cathay Pacific Airways, The Hongkong and Shangai Banking Corporation - một tổ chức tài chính hàng đầu thế giới, ING - tổ chức tài chính hàng đầu châu Âu có nhiều hoạt động kinh doanh ở châu Á. Công nghệ giáo dục còn là điều mới mẻ với nhiều người ở châu Á, nhưng chừng nào họ nhìn thấy và trải qua họ sẽ thấy cực kỳ thích thú – ông Andrew Silvers – phụ trách phát triển eLearning cho khu vực châu Á, Thái Bình Dương thuộc công ty Hewlett-Packard - một công ty đã có các sản phẩm eLearning hướng tới các nước như Malaysia, China, Hong Kong, Singapore và Đài Loan – đã nói như vậy. Trong thời gian gần đây đã có một luồng gió mạnh trong các hoạt động hợp tác giữa phương Đông và phương Tây trong lĩnh vực eLearning. Hãy xem xét các sự kiện sau: 12/2000, OnlineLearning.net, nhà phân phối các khoá học trực tuyến của trường Đại học mở California - UCLA, đã hợp tác với 1to80.com, một chi nhánh của hãng sản xuất máy tính Acer đặt tại Singapore để tạo ra sản phẩm gọi là “cổng tri thức trực tuyến”(online knowledge portal), cung cấp các khoá học trực tuyến bằng các ngôn ngữ khác nhau cho các vùng địa lý khác nhau. KnowledgeWindow.com, nhà cung cấp dịch vụ eLearning của Đại học Princeton (Mỹ) đã đặt chân đến Thailand. Công ty gần đây đã đạt được một thoả thuận với nhà cung cấp dịch vụ Internet Thailand có tên Loxley Information Services để cung cấp sản phẩm mang tên Vlearn. Công ty tập trung vào lĩnh vực đào tạo Anh ngữ trực tuyến cho các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp châu Á trong đó có công ty Merica Chain- một công ty chuyên đào tạo về ngôn ngữ của Đài Loan. Merica đã sử dụng Vlearn để dạy tiếng Anh qua Internet cho các sinh viên Đài Loan, Trung quốc, và các nước khác vùng viễn Đông. 20/3/2001, công ty Hewlett-Packard cũng đưa ra đưa ra đề xướng về việc học tích hợp (integrated learning initiative) cho các nước châu Á – Thái Bình Dương. Công ty con mang tên HP Education có văn phòng tại nhiều nơi của châu Á sẽ đưa ra các khoá học trực tuyến về các nội dung liên quan đến CNTT như: Unix, Java, Networking và Microsoft Application. Chính phủ một số nước châu Á cũng đang có các nỗ lực nhất định. Tháng 3/2001 chính phủ Thái Lan đã tán thành một văn bằng nước ngoài đầu tiên được cấp qua đào tạo từ xa. Điều này xảy ra sau khi đại học mang tên Chiang Mai University ở phía Bắc Thái Lan muốn thuê một giáo viên có tên là Taweechai. Ông này đã lấy bằng Master về Công nghệ Truyền thông sau khi tham dự khoá học từ xa qua vệ tinh của trường đại học National Technological University tại Fort Collins Mỹ. Pakistan cũng thông báo sẽ mở đại học trực tuyến quốc gia. Tại Nhật Bản, mức độ ứng dụng và phát triển eLearning còn quá ít so với tầm vóc kinh tế của đất nước này. Một số chuyên gia vẫn tin tưởng vào tiềm năng của eLearning tại Nhật Bản với lý do: hệ thống giáo dục hiện nay rất chặt chẽ và nghiêm ngặt với những kì thi quốc gia để lấy chứng chỉ, để vượt qua những kỳ thi này người học phải tham dự các khoá huấn luyện rất đắt tiền và đó chính là mảng thị trường lớn cho eLearning nhằm đưa đến cho người dự thi các nội dung đào tạo tập huấn với giá rẻ hơn. Một số công ty eLearning của Mỹ đã bước đầu thâm nhập vào thị trường này. Năm 2000, công ty eLearning hàng đầu của Mỹ click2learn đã hợp tác với tổ chức Tokyo’s Softbank Corp. - một tổ chức có quan hệ với hơn 300 công ty Internet tại Nhật Bản để cung cấp sản phẩm đào tạo dựa trên Web của nó. Với vốn đầu tư gần 5 triệu USD, dự án này cung cấp các sách bằng tiếng Nhật và các phần mềm đào tạo trực tuyến. Việc ứng dụng eLearning trong các trường đại học Nhật Bản phần lớn dùng công nghệ truyền thông qua vệ tinh và videoconferencing. Ví dụ hệ thống trao đổi giáo dục, truyền thông qua vệ tinh Space Collaboration System - SCS bao gồm 150 trạm mặt đất được cài đặt trên tổng số 123 trường đại học và cơ sở đào tạo ở Nhật. Số các trường đưa ra các khoá học từ xa theo đường Internet cũng ngày càng tăng lên. Trung tâm Nghiên cứu Thông tin và Đa Phương tiện thuộc Đại học Tổng hợp Kyoto (Center for Information and Multimedia Studies of Kyoto University) hợp tác với Đại học Tổng hợp California (UCLA) đưa ra khoá học về phương tiện lưu giữ tin mang tên “information media study” hay về vật lý như “Astrophysics” và “Introduction to physics” sử dụng đường truyền thuê bao ATM. Tháng 3/2001, Hàn Quốc đã triển khai 9 đại học trực tuyến, cấp các văn bằng khoa học qua Internet. Chính phủ Hàn Quốc hứa sẽ hỗ trợ mạnh mẽ để năm 2001 trở thành năm đầu tiên của “kỷ nguyên đại học trực tuyến”. Ba trường lớn trong 9 đại học kể trên là: Kyung Hee Cyber, Seoul Digital University và Seoul Cyber thu hút tổng số 6670 sinh viên. Các nội dung học chủ yếu là Quản lý Vốn Kinh doanh, CNTT. Số người theo học không phân biệt tuổi tác phần đông là các nhà quản lý, luật gia, giới doanh nghiệp. Việc học lấy chứng chỉ MBA qua các đại học trực tuyến ngày càng trở nên thông dụng với những người không có nhiều thời gian rảnh rỗi ở Hàn Quốc. Trường Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Tổng hợp Ajou trở thành trường đầu tiên ở Hàn Quốc cấp chứng chỉ này qua Internet vào năm 2000. Trường Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Quốc gia Seoul đã kết hợp với nhà cung cấp dịch vụ Internet Credu.com để giới thiệu các khoá học MBA trên Internet. Tại Đài Loan, một quan chức trong ngành giáo dục đã nói rằng: mô hình dạy học dựa trên Web đang được áp dụng bởi một số ngày càng lớn các trường đại học ở nước này với 124 khoá học có cấp chứng chỉ. Bộ Giáo dục Đài Loan đang trợ cấp cho các cơ quan giáo dục đại học để đưa ra các chương trình học từ xa. Đại học Quốc gia Sun Yat-sen ở Kaohsiung cũng có những khoá học kết hợp giữa mô hình truyền thống và mô hình trực tuyến. Hơn 2000 sinh viên đã được cấp chứng chỉ sau khi tham dự các khoá học như vậy. Tại Singapore, ngày 22/10/2001, Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore (NUS) đang mở rộng phạm vi toàn cầu của nó bằng việc tham gia đại học trực tuyến hàng đầu thế giới có tên U21global. Đây là một dự án liên doanh giữa hãng Thomson Learning và 15 trường đại học trên thế giới, trị giá 90 triệu đô la Singapore. Đại học ảo này sẽ cung cấp các khoá học cho khoảng 32 triệu sinh viên trên toàn thế giới, tập trung vào nhu cầu học chưa được thoả mãn của sinh viên khu vực châu Á. Giám đốc NUS, giáo sư Shih Choon Fong nói rằng: U21global cho phép NUS đẩy mạnh các chương trình đào tạo của nó cũng như chiêu sinh hiệu quả hơn trong kỷ nguyên của công nghệ và toàn cầu hoá. Ông này cũng thấy rằng U21global là một nền tảng để kết nối giữa sinh viên ở các đại học nước ngoài với các sinh viên và giáo sư tại Singapore. 1.2.3. Ở Việt Nam Hiện nay tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về eLearning ở Việt Nam không nhiều. Rải rác đây đó có một vài bài viết ngắn xuất hiện trên các báo chuyên ngành như Tạp chí Tin học và đời sống (Trong một số báo ra nămg 2001), Tạp chí Bưu chính Viễn Thông (số tháng 7/2001 – bài “Xây dựng hệ thống đào tạo từ xa trên Web” - với nội dung nhằm giới thiệu và nhấn mạnh tầm quan trọng của WBT song song với các hình thức đào tạo khác), Tạp chí Công tác khoa giáo (số tháng 11/2001) – bài Internet và giáo dục đào tạo từ xa - với nội dung giới thiệu về khả năng đào tạo sử dụng Internet như một môi trường tự học và học từ xa. Gần đây một số hội nghị, hội thảo như Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo Đại học Quốc gia Hà nội năm 2000, Hội nghị giáo dục đại học năm 2001 và gần đây là Hội thảo khoa học Quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông ICT.rda 2/2003 đã có đề cập đến eLearning và các ứng dụng của nó, cho thấy đã có một ý thức về việc áp dụng loại hình đào tạo này. Trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí gần đây cũng có những chuyên mục đề cập và cổ vũ cho việc phát triển ứng dụng elearning. Sau đây là một số trường học/đơn vị đã bước đầu ứng dụng eLearning. Đại học Đà Nẵng: Ứng dụng thư viện điện tử (e-library) với công nghệ của Cisco vào giảng dạy và nghiên cứu. Kết nối Internet với đường truyền 128Kbps (thông tin tháng 03-2001). Đại học Quốc gia TPHCM: Đã triển khai chương trình đào tạo từ xa cử nhân CNTT bằng 1 và bằng 2. Học viên đăng ký học sẽ được nhận giáo trình (giấy), đĩa CD tài liệu (phần mềm do Trung tâm CNTT của ĐHQGHCM phát triển), được cấp một tài khoản (username/password) để trao đổi nội dung học tập với giáo viên qua mạng. Học viên có thể được bố trí một số thời gian nhất định để gặp gỡ, trao đổi với giáo viên. Thời gian học cho bằng 1 là 4 năm, chia làm 3 học kỳ, theo giáo trình chính quy của ĐHQGHCM. Thời gian học cho bằng 2 là 2.5 năm. Học phí học cho cử nhân bằng 1 là 700.000VND/học kỳ, bằng 2 tính theo học phần với giá 650.000VND/học phần (bao gồm 8 học phần). Hình thức thi hết môn: tương tự như hệ thi chính quy (tức là thi tập trung tại địa điểm do trường quy định, không phải là thi qua mạng) (Theo website www.triduc.com.vn). Trung tâm phát triển CNTT Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng mở một Website đào tạo trực tuyến tại địa chỉ với một số môn học về Tin học có một số minh họa video. Đại học Bách khoa Hà Nội: gấn đây đang tích cực triển khai một số đề tài về eLearning. Trong đó nổi bật là hệ thống đào tạo từ xa BKview trong khuôn khổ của đề tài cấp nhà nước KC.01.09. Hiện nay đề tài vẫn đang ở giai đoạn thực hiện. Khác với phần lớn các hệ thống eLearning khác ở Việt Nam, BKview là một hệ thống eLearning hoàn chỉnh với đầy đủ các chức năng nhờ vào việc BKview dựa trên hệ thống nền nhập ngoại đó là hệ Virtual-U của Virtual Learning Environment. ( Đại học Cần Thơ: Chương trình đào tạo từ xa về CNTT với sự hợp tác của Đại học Cần Thơ và các trường đại học Vương quốc Bỉ (địa chỉ Cung cấp một số giáo trình như: “Tin học căn bản”, “Tiếng Anh dành cho nông nghiệp”, “Thuỷ sản”. Một số tài liệu thể hiện dưới dạng sách điện tử tham khảo (dạng trang Web, đểu là tài liệu tiếng Anh), một số tài liệu nâng cao có các bài tự kiểm tra kiến thức đã học (như Tin học căn bản, Tiếng Anh chuyên nghành nông nghiệp) Sau khi kiểm tra có đánh giá kết quả và hướng dẫn người học bổ sung kiến thức còn khiếm khuyết (các giáo trình Tin học căn bản). Công ty Phát triển Phần mềm – VASC (Bộ Bưu chính Viễn thông) đã mở một Website cho dịch vụ luyện thi trực tuyến tại địa chỉ www.truongthi.com.vn. Tại Website này người dùng có thể tham gia các chuyên mục như: Lớp luyện thi trực tuyến, với nội dung bài học dưới dạng văn bản và dưới dạng âm thanh; Thư viện kiến thức, phục vụ việc tra cứu kiến thức liên quan đến việc luyện thi như các bộ đề thi; Tư vấn hướng nghiệp, cung cấp các thông tin tư vấn của các chuyên gia về các vấn đề như phương pháp học tập, hướng nghiệp, thông tin về các suất học bổng, các trường đại học trên thế giới; Thông tin – Tin tức cung cấp các thông tin mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tuyển sinh, các trường đại học, quy chế tuyển sinh của các trường… Ngoài ra học sinh có thể tham gia mục Câu lạc bộ để trao đổi thảo luận với những người dùng khác dưới hai hình thức là Diễn đàn (forum) và Trao đổi trực tuyến (chat). Các ý kiến góp ý hoặc thắc mắc được gửi tới người chịu trách nhiệm thông qua chức năng Hỗ trợ trực tuyến – Góp ý. Đây không phải là dịch vụ hoàn toàn miễn phí, để sử dụng các chức năng nâng cao như bài giảng trực tuyến, thư viện kiến thức … người dùng phải mua thẻ truy cập dịch vụ của công ty. Trung tâm công nghệ thông tin - Học viện Bưu chính Viễn thông (CDIT) cũng có một Web site tương tự www.truongthi.com.vn đặt tại địa chỉ Trung tâm Công nghệ Kỹ nghệ Sài gòn (SaigonCTT): Kết hợp với công ty Cisco thực hiện các khoá đào tạo dài hạn (8 học kỳ tương đương 560 giờ học) về các công nghệ mạng của Cisco. Học viên được học về cách thiết kế, xây dựng và bảo trì hệ thống mạng máy tính và sẽ được cấp chứng chỉ quốc tế (CCNA) sau khi tốt nghiệp. Nội dung bài học được chuyển tải qua Web sử dụng công nghệ eLearning của Cisco. Mô hình này gồm sách và tài liệu điện tử; giả lập và phòng thí nghiệm ảo; giao tiếp đa phương tiện; hợp tác và cộng đồng; quản lý chất lượng học viên và hệ thống quản lý trên web. Trung tâm Thông tin Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Information Center – VDIC, Trung tâm có một phòng học chuyên dụng phục vụ cho mục đích học từ xa qua hệ thống cầu truyền hình (videoconferencing). Phòng học tương tác hiện đại, được trang bị một hệ thống cầu truyền hình hội thảo 2 chiều, các máy tính kết nối Internet, các nguồn đào tạo trực tuyến, hệ thống phiên dịch đồng thời và các thiết bị hỗ trợ khác. Học viên có thể đưa ra câu hỏi, nhận xét hoặc thảo luận với giáo viên và học viên ở các trung tâm đào tạo từ xa khác trên thế giới. Các khoá đào tạo từ xa tại Trung tâm hiện do Mạng Đào tạo Phát triển toàn cầu (Global Development Learning Network - GLDN) cung cấp. Đây là một mạng lưới đang phát triển mạnh mẽ, gồm các tổ chức học thuật và phát triển, cung cấp các khoá đào tạo từ xa về các vấn đề liên quan tới các quốc gia đang phát triển. Mỗi khoá học như vậy với thời lượng khoảng 40 giờ được ấn định vào những khoảng thời gian được nhất định. Người học cần phải có mặt tại phòng học vào thời gian ấn định của lớp học, do giới hạn của phòng học nên mỗi buổi học tối đa chỉ được 40 học viên tham dự. Ngoài những khoá học từ xa có giáo trình cụ thể, thiết bị cũng cho phép tổ chức trao đổi kiểu hội nghị với các cơ sở có thiết bị tương tự ở các nước khác. Trường “Anh ngữ và Kỷ nguyên mới” (TPHCM) kết hợp với công ty IIS (Mỹ) giới thiệu chương trình học tập qua mạng (eLearning and E-training) dành cho các doanh nghiệp (tin tháng 12/2001, website www.thegioigiaoduc.saigonnet.vn). Trung tâm eLearning Việt - Nhật: Đây là một dự án CNTT kết hợp giữa chính phủ Nhật và Việt nam nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các kỹ sư CNTT Việt Nam. Học viên được tổ chức thi sát hạch và đào tạo theo tiểu chuẩn Nhật Bản, có sự tham gia của phía Nhật Bản. Dự án này có mục đích là đào tạo ra những kỹ sư CNTT theo một tiêu chuẩn chất lượng chung của thế giới. Tuy nhiên, dù mang tên là eLearning nhưng đây không phải là một hình thức đào tạo trực tuyến như là tên gọi đã gợi tới. Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về quản lý (CFVG- TPHCM): Theo báo cáo đã có các triển khai thử về đào tạo trực tuyến theo như một báo cáo (“eLearning dưới góc độ người đào tạo”) trong “Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo năm 2001”, mặc dù không đề cấp cụ thể đến kết quả đạt được. Công ty Xi măng Sao mai: Qua website (www.saomai.com) Cty cho biết đang triển khai việc huấn nghiệp qua mạng cho các nhân viên với mục đích nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. (Sao mai là một công ty xi măng liên doanh với Thụy Sĩ, chủ yếu cung cấp xi măng cho các thị trường phía Nam). Trung tâm tin học và ngoại ngữ Trí Đức (www.triduc.com.vn) : Cung cấp các khoá học qua mạng. Người học đăng ký học qua mạng sẽ được nhận một account để kết nối vào mạng của công ty (hoặc nếu không có điều kiện thì có thể đến tận công ty để học). Giáo trình bao gồm các tài liệu học, có thực hiện việc tự kiểm tra trong quá trình học, có giáo viên hướng dẫn nếu học tại công ty. Trợ giúp cho người học được thực hiện qua hệ thống diễn đàn, email hoặc trợ giúp qua điện thoại. Hiện nay các khoá học của Tri Đức chủ yếu là về CNTT. Sau khoá học, công ty sẽ giúp người học có nhu cầu có thể đăng ký thi trực tiếp trên Internet để lấy chứng chỉ từ những công ty như Sun hay Microsoft. Công ty dự định triển khai WBT trong tháng 3/2002. Địa chỉ: 1 Yết Kiêu, Hà Nội. Công viên IT: Website của VDC (www.itpark.com.vn/dtao_ttuyen.php) giới thiệu một số các tài liệu và các website liên quan đến WBT và eLearning tại Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên nội dung thông tin rất nghèo nàn và lạc hậu, không có gì đáng chú ý. Dự án Edunet của bộ Giáo dục và đào tạo: Bộ Giáo dục và đào tạo đã bắt đầu triển khai dự án mạng VnuNet kết nối toàn bộ các thông tin về giáo dục đào tạo trong cả nước. Theo dự định mạng sẽ triển khai mô hình đào tạo trực tuyến (Theo báo Tuổi trẻ, tháng 12/2000). Địa chỉ website: www.moet.edu.vn. Ở Việt Nam, eLearning đang ở giai đoạn sơ khai, nhận thức về eLearning còn rất thấp. Một số ít đơn vị triển khai elearning ở mức độ nhất định, thử nghiệm là chính, chưa mang tính chất phổ biến, nội dung nghèo nàn, chất lượng thấp. Một số công ty đã bắt đầu giới thiệu eLearning như một sản phẩm thương mại (VASC, CDIT, Công ty Trí Đức), mới là bước khởi đầu, chưa thể đánh giá kết quả một cách chính xác. Một vài nơi ở TPHCM có những sản phẩm được quảng cáo là “đào tạo từ xa” thực chất chỉ là những ứng dụng dạng CBT (computer-based training) với tài liệu học được trình bày dưới dạng Web, có hỗ trợ Video – tuy nhiên một trong những tính năng quan trọng của eLearning là tương tác giữa người học - người dạy thì rất hạn chế. Hầu hết các sản phẩm eLearning ở Việt Nam còn thiếu các chức năng hỗ trợ cho hoạt động dạy học ví dụ như các chức năng cho phép giáo viên cập nhật sửa đổi tài liệu dạy học một cách tự động, cho phép dùng lại tài liệu của những giáo viên khác. Tài liệu giảng dạy (phần chính trong một hệ thống eLearning) có nội dung nghèo nàn thiếu sinh động, không được cập nhật thường xuyên do đó không có sức lôi cuốn người học. CHƯƠNG 2. ELEARNING eLearning là một khái niệm mới mẻ, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một số định nghĩa cũng như làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan đến eLearning, đồng thời cũng phân tích các ảnh hưởng của eLearning đối với việc dạy và học eLearning là gì Từ thủa sơ khai, con người đã có các hoạt động học và đào tạo. Hình thức đào tạo phổ biến nhất từ trước tới nay (hay gọi là đào tạo truyền thống) là hình thức mà giáo viên và học sinh cùng tập hợp tại lớp học, giáo viên truyền đạt kiến thức còn học sinh tiếp thu. Theo thời gian, các cách học và đào tạo cũng dần thay đổi. Sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của cuộc sống con người trong đó có cả lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Khoa học công nghệ đã trợ giúp rất hiệu quả cho hoạt động giáo dục đào tạo, giúp tháo gỡ các ràng buộc về không gian, thời gian học, tuổi tác cũng như trình độ của người học trong đào tạo truyền thống, làm thay đổi rất nhiều đến hình thức đào tạo truyền thống. eLearning (viết tắt của Electronic Learning) là một thuật ngữ mới. Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về eLearning là gì, dựa theo các quan điểm và dưới các hình thức khác nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, eLearning là việc ứng dụng công nghệ (đặc biệt là CNTT) trong đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và thỏa mãn nhu cầu đào tạo. eLearning có thể bao gồm các mức độ từ thấp đến cao như: Việc sử dụng các thiết bị trợ giảng điện tử (máy chiếu), các phần mềm máy tính (MS Power Point) để minh họa, trình diễn bài giảng. Việc đổi mới thi cử bằng các bài thi trên máy tính độc lập hoặc nối mạng được chấm điểm tự động. Việc nâng cao chất lượng quản lý đào tạo bằng các chương trình máy tính. Việc tăng cường và đa dạng hóa tài liệu đào tạo bằng các thư viện điện tử, các nguồn tài liệu tra cứu trên đĩa CD, trên các máy chủ nội bộ của tổ chức hoặc trên các Website. Việc làm phong phú thêm các hình thức trao đổi, thông tin liên lạc trong đào tạo giữa giáo viên với học viên, học viên với học viên sử dụng các công cụ liên lạc từ xa như: email, đàm thoại trên mạng (chat), diễn đàn qua mạng, trao đổi trực tuyến sử dụng Video-Audio conferencing (bao gồm cả satelline TV conferencing lẫn realtime computer conferencing). Các phần mềm dạy học hoàn chỉnh trên máy tính cục bộ hoặc trên đĩa CD (Computer Based Training - CBT) hoặc trên các Website (Web-Based Training - WBT) cho phép học ở mọi nơi, mọi lúc. Theo quan điểm hiện đại, eLearning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Interner, Intranet, … trong đó nội dung học có thể thu được từ các Website, đĩa CD, băng video, audio… thông qua một máy tính hay TV, người dạy và người học giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như: email, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video (video conferencing) ….Việc giao tiếp ở đây có hai hình thức là giao tiếp đồng bộ (synchronous) và giao tiếp không đồng bộ (asynchronous). Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó những người sử dụng truy cập mạng tại cùng một thời điểm và giao tiếp với nhau, ví dụ như thảo luận trực tuyến, hội thảo video là các hình thức giao tiếp đồng bộ. Ngược lại giao tiếp không đồng bộ là hình thức mà những người giao tiếp không nhất thiết truy cập mạng tại cùng một thời điểm, ví dụ email, diễn đàn là các hình thức giao tiếp không đồng bộ. Một số hình thức eLearning: TBT - Technology-Based Training (đào tạo dựa trên công nghệ): là hình thức đào tạo có sự áp dụng công nghệ đặc biệt là dựa trên CNTT. Thuật ngữ này có thể hiểu một cách tương đương như thuật ngữ eLearning. CBT - Computer-Based Training (đào tạo dựa trên máy tính): Hiểu theo nghĩa rộng, thuật ngữ này nói đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc lập, không nối mạng, không có giao tiếp với thế giới bên ngoài. Thuật ngữ này thường được hiểu đồng nhất với thuật ngữ CD-ROM Based Training. Web-Based Training (đào tạo dựa trên Web): là hình thức đào tạo sử dụng công nghệ Web. Nội dung học, các thông tin quản lý khóa học, thông tin về người học được để trên các Website và người dùng có thể dễ dàng truy nhập qua trình duyệt. Người học có thể giao tiếp với nhau và với giáo viên, sử dụng các chức năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, email…, thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình. Online Learning/Training (đào tạo trực tuyến): Hình thức đào tạo có sử dụng kết nối mạng để thực hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học với nhau và với giáo viên… Distance Learning (đào tạo từ xa): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo trong đó người dạy và người học không ở cùng một chỗ, thậm chí không cùng một thời điểm. Ví dụ như việc đào tạo sử dụng công nghệ hội thảo cầu truyền hình, hoặc công nghệ Web. Cấu trúc và thành phần của một hệ thống E-Learning Mô hình cấu trúc điển hình cho hệ thống E-Learning sử dụng cho các trường đại học, cao đẳng hoặc trung tâm đào tạo (hình 1) bao gồm các thành phần sau: - Giảng viên (A): Giảng viên các khoa, giáo viên thỉnh giảng chịu trách nhiệm cung cấp nội dung của khóa học cho phòng xây dựng nội dung (C) dựa trên những kết quả học tập dự kiến nhận từ phòng quản lý đào tạo (D). Ngoài ra họ sẽ tham gia tương tác với học viên (B) qua hệ thống quản lý học tập LMS (2). - Học viên (B): Sinh viên và các đối tượng có nhu cầu học tập. Họ sẽ sử dụng cổng thông tin người dùng để học tập, trao đổi với giảng viên (qua hệ thống LMS – 2), sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập (3). Phòng xây dựng chương trình (C): Các chuyên viên đảm nhận trách nhiệm xây dựng, thiết kế bài giảng điện tử (thiết kế kịch bản, soạn thảo nội dung, kỹ thuật multimedia, lập trình bài giảng ...). Sử dụng hệ thống quản lý nội dung LCMS (1), họ lấy nội dung khóa học từ các giảng viên (A) và chuyển những nội dung đó thành bài giảng điện tử. Trong quá trình xây dựng, họ có thể sử dụng những đơn vị kiến thức sẵn có trong ngân hàng kiến thức (I) hoặc dùng các công cụ thiết kế (4) để thiết kế những đơn vị kiến thức mới.Sản phẩm cuối cùng là các bài giảng điện tử được đưa vào ngân hàng bài giảng điện tử (II). - Phòng quản lý đào tạo (D): Các chuyên viên đảm trách nhiệm vụ quản lý việc đào tạo (qua hệ thống LMS – 2). Ngoài ra thông qua hệ thống này, họ cần phải tập hợp được các nhu cầu, nguyện vọng của học viên về chương trình, nội dung học tập để lập nên những yêu cầu cho đội ngũ giảng viên, tạo nên một chu trình kín góp phần liên tục cập nhật, nâng cao chất lượng giảng dạy. - Cổng thông tin người dùng hay còn gọi là user’s portal: Giao diện chính cho học viên (B), giảng viên (A) cũng như các phòng (C) (D) truy cập vào hệ thống đào tạo. Giao diện này hỗ trợ truy cập qua Internet từ máy tính cá nhân hoặc thậm chí các thiết bị di động thế hệ mới (mobil). - Hệ thống quản lý nội dung LCMS – Learning Content Managerment System (1): là một môi trường đa người dùng cho phép giảng viên (A) và phòng xây dựng chương trình (C) cùng hợp tác để xây dựng nội dung bài giảng điện tử. LCMS được kết nối với các ngân hàng kiến thức (I) và ngân hàng bài giảng điện tử (II). - Hệ thống quản lý học tập LMS – Learning Managerment System (2): Khác với LCMS chỉ tập trung vào xây dựng và phát triển nội dung, LMS được dùng để hỗ trợ cho việc học tập cũng như quản lý học tập của học viên. Các dịch vụ như đăng ký, giúp đỡ, kiểm tra ...cũng được tích hợp vào đây. Vì vây LMS là giao diện chính cho học viên học tập cũng như phòng quản lý đào tạo quản lý việc học tập của học viên. - Các công cụ khác hỗ trợ học tập (3): Bao gồm các công cụ hỗ trợ cho việc học tập của học viên như thư viện điện tử, phòng thực hành ảo, trò chơi v.v... Trên thực tế chúng có thể được tích hợp vào hệ thống LMS. - Các công cụ thiết kế bài giảng điện tử (4): Dùng để hỗ trợ việc xây dựng và thiết kế bài giảng điện tử bao gồm các thiết bị dùng cho studio (máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm...) cho đến các phần mềm chuyên dụng để xử lý multimedia cũng như để thiết kế xây dựng bài giảng điện tử và lập trình. Đây chính là những công cụ chính hỗ trợ cho phòng xây dựng chương trình (C). - Ngân hàng kiến thức (I): Là cơ sở dữ liệu lưu trữ các đơn vị kiến thức cơ bản, có thể được tái sử dụng trong nhiều bài giảng điện tử khác nhau. Phòng xây dựng chương trình (C)sẽ thông qua hệ thống LCMS (1) để tìm kiếm, chỉnh sửa, cập nhật cũng như quản lý ngân hàng dữ liệu này. - Ngân hàng bài giảng điện tử (II): Là cơ sở dữ liệu lưu trữ các bài giảng điện tử. Các học viên sẽ truy cập đến cơ sở dữ liệu này thông qua hệ thống LMS (2). 2.3. Đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của eLearning. 2.3.1. Ưu điểm eLearning có một số ưu điểm vượt trội so với loại hình đào tạo truyền thống . eLearning kết hợp cả ưu điểm tương tác giữa học viên, giáo viên của hình thức học tập trên lớp lẫn sự sinh hoạt trong việc xác định thời gian, khả năng tiếp thu kiến thức của học viên. Đối với nội dung học tập : Hỗ trợ các “đối tượng học” theo yêu cầu, cá nhân hóa việc học. Nội dung học tập đã được phân chia thành các đối tượng tri thức riêng biệt theo từng lĩnh vực, ngành nghề rõ ràng. Điều này tạo ra tính mềm dẻo Nội dung môn học được cập nhật, phân phối dễ dàng,nhanh chóng. Với nhịp độ phát triển nhanh chóng của trình độ công nghệ, các chương trình đào tạo cần được thay đổi, cập nhật thường xuyên để phù hợp với thông tin, kiến thức của từng giai đoạn phát triển của thời đại.Với phương thức đào tạo truyền thống và những phương thức đào tạo khác, muốn thay đổi nội dung bài học thì các tài liệu phải được sao chép lại và phân bố lại cho tất cả học viên. Đối với hệ thống eLearning, việc đó hoàn hoàn đơn giản vì để cập nhật nội dung môn học chỉ cần sao chép các tập tin được cập nhật từ một máy tính địa phương (hoặc các phương tiện khác) tới một máy chủ. Tất cả các học viên sẽ có được phiên bản mới nhất trong máy tính trong lần truy cập sau. Hiệu quả tiếp thu bài học của học viên được nâng lên vượt bậc vì học viên có thể học với những giáo viên tốt nhất, tài liệu mới nhất cùng với giao diện web học tập đẹp mắt với các hình ảnh động, vui nhộn… Đối với học viên: Hệ thống eLearning hỗ trợ học theo khả năng cá nhân,theo thời gian biểu tự lập nên học viên có thể chọn phương pháp học thích hợp cho riêng mình. Học viên có thể chủ dộng thay đổi tốc độ học cho phù hợp với bản thân, giảm căng thẳng và tăng hiệu quả học tập. Bên cạnh đó, khả năng tương tác, trao đổi với nhiều người khác cũng giúp cho việc học tập có hiệu quả hơn. Đối với giáo viên: Giáo viên có thể theo dõi học viên dễ dàng. eLearning cho phép dữ liệu được tự động lưu lại trên máy chủ, thông tin này có thể được thay đổi về phía người truy cập vào khóa học. Giáo viên có thể đánh giá các học viên thông qua cách trả lời các câu hỏi kiểm tra và thời gian trả lời những câu hỏi đó. Điều này cung giúp giáo viên đánh giá một cách công bằng học lực của mỗi học viên. Đối với việc đào tạo nói chung: eLearning giúp giảm chi phí học tập. Bằng việc sử dụng các giải pháp học tập qua mạng , các tổ chức (bao gồm cả trường học) có thể giảm các chi phí học tâp như tiền lương phải trả cho giáo viên, tiền thuê phòng học, chi phí đi lại và ăn ở của học viên. Đối với những người thuộc các tổ chức này, học tập qua mạng giúp họ không mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc trong khi di chuyển, đi lại , tổ chức lớp học…,góp phần tăng hiệu quả công việc. Thêm vào đó, giá cả các thiết bị công nghệ thông tin hiện nay cũng tương đối thấp, việc trang bị cho mình những chiếc máy vi tính có thể truy cập vào internet với các phần mềm trình duyệt miễn phí để thực hiện việc học tập qua mạng là điều hết sức dễ dàng. eLearning còn giúp làm giảm tổng thời gian cần thiết cho việc học. Theo thống kê trung bình , lượng thời gian cần thiết cho việc học giảm từ 40 đến 60%. Hỗ trợ triển khai đào tạo từ xa. Giáo viên và học viên có thể truy cập vào khóa học ở bất cứ chỗ nào, trong bất cứ thời điểm nào mà không nhất thiết phải trùng nhau chỉ cần có máy tính có thể kết nối internet. 2.3.2. Khuyết điểm: eLearning là một xu hướng phát triển ở rất nhiều nơi trên thế giới. Việc triển khai hệ thống eLearning cần có những nỗ lực và chi phí lớn, mặt khác nó cũng có những rủi ro nhất định. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, eLearning còn có một số khuyết điểm mà ta không thể bỏ qua cần phải khắc phục sau đây: Do đã quen với những phương pháp học tập truyền thống nên học viên và giáo viên sẽ gặp một số khó khăn về cách học tập và giảng dạy. Ngoài ra họ còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ mới. Bởi vì đào tạo từ xa là môi trường học tập phân tán nên mối liên hệ gặp gỡ giữa giáo viên và học viên bị hạn chết cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của học viên. Do đó, học viên cần phải tập trung, cố gắng nỗ lực hết mình khi tham gia khóa học để kết quả học tập tốt. Mặt khác, do eLearning được tổ chức cho đông đảo học viên tham gia, có thể thuộc nhiều vùng quốc gia, khu vực trên thế giới nên mỗi học viên có thể gặp nhiều khó khăn về các vấn đề yếu tố tâm lý, văn hóa. Giáo viên phải mất nhiều thời gian và công sức để soạn bài giảng, tài liệu giảng dạy, tham khảo cho phù hợp với phương thức học tập eLearning. Chi phí xây dựng eLearning. Các vấn đề khác về mặt công nghệ cần phải xem xét các công nghệ hiện thời có đáp ứng được các mục đích của đào tạo hay không, chi phí đầu tư cho các công nghệ đó có hợp lý không.Ngoài ra, khả năng làm việc tương thích giữa các hệ thống phần cứng và phần mềm cũng được xem xét. So sánh giữa phương pháp học tập truyền thống và phương pháp eLearning: Các phương pháp học tập truyền thống Với phương pháp học tập truyền thống, công việc dạy và học hoàn hoàn phụ thuộc vào việc giảng dạy trực tiếp từ thầy tới trò. Với hình thức học tập này, nội dung giảng dạy là những kiến thức cơ sở hoặc có trong sách vở hoặc do giáo viên truyền đạt từ kinh nghiệm bản thân. Phương pháp dạy học ở đây tập trung vào giáo viên, người thầy trở thành trung tâm trực tiếp truyền đạt kiến thức cho học sinh. Như vậy, để kiểm tra mức độ hiểu biết của học trò thì thầy phải trực tiếp hỏi và trao đổi với học trò một cách trực tiếp. Việc quản lý lớp học cũng là do người thầy đảm nhiệm trực tiếp, tất cả mọi hoạt động có liên quan đến lớp học đều do thầy chủ trì. Do vậy phương pháp học tập của học sinh cũng hết sức thụ động, học sinh nghe giảng bài và làm bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhìn chung các chức năng của giáo viên trong mô hình giảng dạy và học tập truyền thống như sau: Về sau việc học tập có nhiều thay đổi. Người giáo viên tìm tòi, nghiên cứu ra nhiều phương pháp dạy học tích cực. Với phương pháp này, người thầy không đơn thuần chỉ truyền đạt kiến thức theo kiểu truyền thống mà còn thay đổi phương pháo giảng dạy, theo hướng gợi mở, đặt các câu hỏi gợi ý các vấn đề trong bài giảng, để học sinh trả lời các câu hỏi gợi mở này. Từ đó sẽ lôi cuốn học sinh tham gia học tập một cách chủ động để làm cho lớp học sinh sinh động, hoạt náo hơn. Như vậy sẽ tạo cho học sinh tâm lý thoải mái, có thể hiểu bài ngay tại lớp học. Một phương pháp tiên tiến khác là, người thầy sẽ chia lớp học ra từ nhóm, số thành viên tối đa trong nhóm không cao lắm, khoảng 10 học viên trở lại.Làm như vậy sẽ có thể phân hóa học sinh: nhóm giỏi,khá,trung bình,yếu,…Từ đây sẽ có cách giảng dạy và độ khó của bài học và bài tập phù hợp với trình độ lĩnh hội của từng nhóm. Thêm vào đó,việc học tập bao gồm những buổi thảo luận mà người thầy chỉ ở vai trò là giám sát để tự học sinh thảo luận các vấn đề với nhau. Người thầy sẽ cho ý kiến ai đúng ai sai, và sẽ nhắc nhở khi các học viên của mình thảo luận lạc hướng vấn đề đang được đặt ra. Hiện nay ở Việt Nam, dạy và học vẫn còn theo phương pháp truyền thống: việc dạy theo quy định chính thức, việc học bị lệ thuộc vào việc dạy khi người thầy là đối tượng duy nhất truyền đạt tri thức. Học sinh học một cách thụ động, thầy bảo gì làm nấy, thường là có ít sự sáng tạo. Phương pháp học tập theo một lối mòn, giáo trình học cũ kỹ, xuất bản từ rất lâu, không theo kịp với sự phát triển của xã hội. Mặc dù có sự nâng cao kiến thức xã hội từ việc học hướng ngoại nhưng phần lớn các học viên đều phải đào tạo thêm thậm chí là đào tạo lại kiến thức thu được đầu như chỉ là kiến thức trong sách vở và thiếu thực tế. Trong quá trình học tập, học viên ít được đưa ra ý kiến của mình về việc giảng dạy của thầy giáo, điều đó làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và học tập, thầy giáo thì không biết học sinh của mình muốn học theo hình thức nào còn học viên thì không hài lòng với phương pháp giảng dạy của thầy. Phương pháp eLearning: Sự ra đời của eLearning đã khắc phục được những hạn chế trên: Mô hình hệ thống eLearning trong việc giảng dạy và học tập như sau , ở đây eLearning đóng vai trò là thầy giáo: Hình 2: Các chức năng của hệ thống eLearning Với phương pháp học tập eLearning, học viên chỉ cần ngồi trước máy tính tự thao tác học tập, thực hành và làm bài tập theo ý muốn. Các chức năng như tổ chức biểu diễn tri thức, sau đó thể hiện tri thức đó trên máy tính và việc tổ chức quản lý học tập đều do học viên tự điều chỉnh và thao tác. Với các chức năng ưu việt, eLearning càng ngày càng được biết đến và được sử dụng như là một công cụ trợ giảng đắc lực nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, hệ thống eLearning chưa được triển khai nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập qua hình thức đào tạo từ xa. Muốn mở rộng hệ thống eLearning, cần phải có sự thay đổi dần quan niệm học tập theo phương pháp dạy và học truyền thống và cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức của các doanh nghiệp tổ chức và chính phủ. Nếu làm được như vậy, trong tương lai chắc chắn eLearning sẽ được sử dụng trong việc giảng dạy và học tập theo đúng nghĩa của nó. CHƯƠNG 3. LEARNING OBJECTs, IMS, METADATA Learning Objects (LOs): Phần này sẽ • Giới thiệu tóm tắt Learning Objects (LOs) trong ngữ cảnh của DLNET. • Phác thảo các xử lý mà những tài nguyên bài giảng được sửa đổi thành những LOs bởi DLNET. • Định nghĩa chức năng tốt như là quan điểm có cấu trúc của DLNET LO đưa ra. • Nhiều khái niệm tiên tiến như các LOs lồng nhau (nested LOs) và những cách thức cho việc tái sử dụng LO sẽ được hướng dẫn chi tiết sau đây. Giới thiệu: DLNET là từ viết tắt của Digital Library Network for Engineering and Technology: Mạng thư viện số hóa khoa học kỹ thuật. [3] DLNET đang được phát triển như là một phần của sáng kiến NSDL để thành lập một thư viện số quốc gia mà sẽ thiết lập một mạng trực tuyến của những môi trường học tập và tài nguyên cho ngành giáo dục về khoa học (science), toán học (mathematic), kỹ thuật công trình (engineering), khoa học kỹ thuật (technology), viết tắt là SMETE, ở tất cả các mức độ khác nhau. DLNET sẽ đưa ra một cơ sở dữ liệu về khoa học kỹ thuật liên quan đến những nội dung nhằm vào việc rèn luyện kỹ sư và các kỹ sư công nghệ với mục tiêu của việc “học tập lâu dài” thuận tiện dễ dàng, giáo dục vượt ra ngoài phạm vi lớp học bằng cách sử dụng những thư viện số hóa (digital libraries). Như là một thư viện số hóa, DLNET cung cấp những dịch vụ cho người dùng tìm kiếm thông tin, nâng cấp cũng như duy trì cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh. 3.1.2. Learning Objects: Learning Object trong DLNET được định nghĩa như là một tài nguyên độc lập và có cấu trúc, tóm lược thông tin chất lượng cao trong ngữ cảnh làm cho việc dạy và học dễ dàng hơn. [3] Định nghĩa nhấn mạnh hai khía cạnh của LOs, cụ thể là “learning” và “object” với chủ đề ưu tiên là chất lượng “quanlity”. Chất lượng là thuộc tính cần thiết mà DLNET cố gắng duy trì khi nó đạt được learning objects. Chất lượng liên quan đến những khía cạnh sau: • Tính xác thực và độ chính xác của chủ đề môn học. • Hiệu quả sư phạm và giá trị giáo dục. • Mối liên quan của thông tin trong tài nguyên liên hệ đến mục đích. • Đặc trưng nổi bật của LO là cho phép những học viên và giáo viên sử dụng và tái sử dụng tài nguyên. Thuộc tính của LO: LOs tương tự như mục tiêu sử dụng trong mô hình hướng đối tượng (OOM: object oriented modeling). Những khái niệm chung của OOM như là cách tóm lược, phân loại, hiện tượng nhiều dạng (polymorphism), tính kế thừa và khả năng tái sử dụng có thể được “vay mượn” để miêu tả cách vận hành trên LOs trong DLNET. Ví dụ: • Mỗi LO trong DLNET là sự tóm lược, gói gọn metadata của chính nó và nội dung học tập khi nó được xử lý bởi lược đồ đóng gói nội dung (CP: contentpackaging). Việc tóm lược này cũng có khả năng làm cho LO phân tán thông qua DLNET mà vẫn giữ như cũ và không làm thay đổi như việc duy trì bảo vệ bản quyền tác giả. • LOs trong DLNET có thể được phân loại theo chủ đề môn học, cách định dạng, kích thước, hoặc theo bất kỳ thành phần metadata khác. Điều quan trọng hơn nữa là LOs có thể được phân loại theo thứ bậc dựa trên hướng phân loại (taxonomic path), từ cái tổng quát đến các đặc tả về chủ đề môn học. • LOs trong DLNET sẽ được đóng gói và phân loại để làm cho việc tìm kiếm, khám phá và tái sử dụng được dễ dàng, thuận tiện hơn bởi những người xây dựng các môn học và tài liệu học tập. Đặc điểm của LOs: • Mục tiêu (Objectives): đặc tả những kết quả đạt được sau khi học viên tham gia học tập với chương trình đào tạo từ xa kết thúc bài học, chương, phần, khóa học,… Vì vậy các tác giả nên sử dụng mục này để nói rõ mục đích của module dạy học của mình. Mỗi sự nổ lực, cố gắng học tập nên có một bảng đánh giá để ghi nhận kết quả đạt được của mổi học viên. • Kiến thức yêu cầu cần chuẩn bị trước khi tham gia khóa học (Prerequisites): gợi ý các kiến thức nền tảng yêu cầu của mổi cá nhân học viên phải có khi tham gia khóa học để có thể tiếp thu và hiểu được LO. Những kiến thức yêu cầu là những kiến thức nền tảng có liên quan đến những kiến thức mới của LO. Từ viễn cảnh của việc giáo dục không ngừng, kiến thức liên tiếp và học tập lâu dài, nó đưa ra một cách đo lường trình độ kiến thức mà học viên nên có trước khi tham gia học tập với LO. • Độ khó và thời lượng học tập tối thiểu (Difficulty and Learning Time): Mỗi LO đều có một độ khó tương ứng với sự mong đợi của người dùng. LO cũng xác đinh rõ thời lượng tối thiểu cần thiết để hoàn thành bài tập, bài học, môn học, khóa học. Mức độ khó, thời lượng học tập tối thiểu này là khách quan và do người biên soạn đề ra. Một số yêu cầu chức năng: • Tất cả LOs phải có một file đính kèm chứa metadata (như cấu trúc, quyền sở hữu, quyền sử dụng, kết quả nhắm tới của khán giả,…) • LOs được truy cập thông qua một trang giới thiệu (HTML), trang này cũng sẽ hiển thị những metadata được chọn và điều hướng giúp đỡ (navigation aids). • LOs có một vị trí bắt đầu, vị trí này cho phép những modules học tập khác kết nối tới hoặc phân nhánh. • LOs luôn giữ nguyên hiện trạng và không bị thay đổi bởi thư viện số hay bất kỳ hệ thống quản học tập nào mà nó dược đưa vào hoặc người sử dụng. • LOs được đóng gói theo một phương thức mà chúng có thể được sử dụng một cách độc lập. 3.2. Khái quát về IMS 3.2.1. Giới thiệu: IMS (Instructional Management System) Global Learning Consortium phát triển và xúc tiến các đặc tả mở (không phải chuẩn) để hỗ trợ các hoạt động học tập phân tán trên mạng như định vị và sử dụng nội dung giáo dục, theo dõi quá trình học tập, thông báo kết quả học tập, và trao đổi các thông tin về học viên giữa các hệ thống quản lý. IMS có hai mục tiêu chính: • Xác định các đặc tả kĩ thuật phục vụ cho việc khả chuyển giữa các ứng dụng và các dịch vụ trong học tập phân tán • Hỗ trợ việc đưa các đặc tả của IMS vào các sản phẩm và các dịch vụ trên toàn thế giới. IMS xúc tiến việc thực thi các đặc tả sao cho các môi trường học tập phân tán và nội dung từ nhiều nguồn khác nhau có thể hiểu nhau Bản thân SCORM đưa nhiều nhiều đặc tả của IMS vào bên trong mô hình. 3.2.2. Các đặc tả của IMS: [4]IMS đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các đặc tả trong eLearning. Các đặc tả sau đó được các tổ chức ở cấp cao hơn như ADL, IEEE, ISO sử dụng, chứng nhận thành chuẩn eLearning dùng ở quy mô rộng rãi. 3.3. Metadata. Các thành phần cơ bản của metadata: Các chuẩn metadata xác định nhiều thành phần yêu cầu và tuỳ chọn: • Title: tên môn học • Language: xác định ngôn ngữ được sử dụng bên trong môn học và có thể có thông tin thêm (như là tiếng Anh thì có thêm thông tin là Anh-Anh hoặc là Anh-Mĩ). • Description: bao gồm mô tả về môn học. • Keyword: gồm các từ khoá hỗ trợ cho việc tìm kiếm. • Structure: mô tả cấu trúc bên trong của môn học: tuần tự, phân cấp, và nhiều hơn nữa. • Aggregation Level: xác định kích thước của đơn vị. 4 tức là môn học, 3 là bài, 2 là chủ đề. • Version: xác định phiên bản của môn học. • Format: quy định các định dạng file được dùng trong môn học. Chúng là các định dạng MIME. • Size: là kích thước tổng của toàn bộ các file có trong môn học. • Location: ghi địa chỉ Web mà học viên có thể truy cập môn học. • Requirement: liệt kê các thứ như trình duyệt và hệ điều hành cần thiết để có thể chạy được môn học. • Duration: quy định cần bao nhiêu thời gian để tham gia môn học. • Cost: ghi xem môn học có miễn phí hoặc có phí Để đảm bảo tính khả chuyển, metadata phải được thu thập và định dạng là XML. CHƯƠNG 4: CHUẨN SCORM 4.1. Tổng quan về SCORM. 4.1.1. Giới thiệu SCORM SCORM là chữ viết tắt của ngữ tiếng Anh “Sharable Content Object Reference Model”- Mô hình tham chiếu Đối tượng nội dung chia xẻ được. Theo định nghĩa, SCORM là một tập hợp các đặc tả và chuẩn được hợp thành một chuỗi “tài liệu kỹ thuật” (Hình). Tất cả các tài liệu này có thể được xem như những tài liệu riêng rẽ tạo thành một thư viện đang phát triển mạnh mẽ. Gần như tất cả các hướng chỉ đạo và các đặc tả đều được lấy từ các tổ chức khác nhau. Các tài liệu kỹ thuật này được nhóm theo 3 chủ đề chính : “mô hình nhóm nội dung” (CAM – Content Aggregation Model), “môi trường thực thi” (RTE – Run time Environment) và “mô hình nối chuỗi và lái nội dung” (SN- Sequencing and Navigation). Mô hình SCORM tích hợp công nghệ giảng dạy từ xa đã được các tác nhân có uy tín trong lĩnh vực này xây dựng từ nhiều năm qua như IMS, AICC, ARIADNE và LTSC của IEEE trong một qui chiếu duy nhất mô tả một cách thức xây dựng nhất quán hệ thống dạy học từ xa cho cả cộng đồng. Mô hình SCORM là một tập hợp các chuẩn và đặc tả được xây dựng nhằm cung cấp những quy tắc điều phối chuẩn hóa cho việc triển khai việc dạy và học tập qua mạng, trong đó yếu tố chia xẻ và sử dụng lại nội dung được đặt lên hàng đầu. Một gói nội dung tôn trọng chuẩn SCORM có thể triển khai trên mọi hệ quản lý dạy và học từ xa (Learning Management System – LMS ) có hỗ trợ chuẩn này. SCORM đang ngày càng chiếm được niềm tin của cộng đồng dạy và học từ xa sử dụng công nghệ Internet trên thế giới và ở Việt Nam. Ngày càng nhiều hệ LMS trên thế giới tuyên bố hỗ trợ SCORM Hình 3 : Thư viện SCORM SCORM giúp định nghĩa các cơ sở kỹ thuật cho một môi trường học tập trên mạng. Dưới dạng đơn giản nhất, đây là một mô hình qui chiếu đến một tập hợp chuẩn, các qui định và các đặc tả kỹ thuật độc lập, được xây dựng nhằm đáp ứng những đòi hỏi bậc cao của việc đào tạo từ xa về mặt nội dung và hệ thống độc lập.””Mô hình nhóm nội dung”và “Mô hình thực thi” cho các đối tượng học tập của SCORM nhằm giúp tạo ra một lỗi giảng tùy biến dựa trên mục tiêu, sở thích và hiệu quả và những yếu tố khác gắn với người học. Tóm lại, SCORM tìm ra cách liên kết lợi ích của các nhóm không thuần nhất trong cộng đồng học tập từ xa. Nó được xây dựng theo cách phối hợp công nghệ và những khả năng nảy sinh với những ứng dụng thương mại và công cộng. 4.1.2. Tại sao lại cần một quy trình chuyển đổi Lợi ích của mô hình SCORM đã được đông đảo công j đồng e-learning thừa nhận. Bằng chứng là càng ngày càng nhiều flatform e-learning tuyên bố hỗ trợ SCORM. Mặt khác, chúng ta nhận thấy Internet thực sự đã và đang là một kho nội dung vô tận. Rất dễ tìm được các nội dung cho việc học từ xa trên Internet. Ngày càng nhiều đại học và các giáo sư công bố các bài giảng của mình lên Internet cho cộng đống tự do truy nhập và tham khảo. Tuy nhiên phần lớn các bài giảng này đều chi là những trang HTML hoặc slide, hoàn toàn không theo một chuẩn nào dạy học từ xa. Việc tích hợp chúng trên một hệ LMS do đó rất khó khăn. 4.1.3. Quá trình phát triển của SCORM Quá trình phát triển của các phiên bản SCORM có thể tóm tắt như sau: ADL SCORM 0.7.3 – năm 1999 SCORM 1.0 – năm 2000 SCORM 1.1 – năm 2001 SCORM 1.2 – năm 2001 SCORM 1.3 – năm 2004 Trong các phiên bản của SCORM thì SCORM 1.2 và SCORM 1.3 đang được hỗ trợ bởi nhiều hệ thống e-leanrning trên thế giới. 4.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến SCORM 4.2.1. Asset Khuôn dạng cơ bản nhất của một tài nguyên học tập được gọi là Asset. Asset là biểu diễn điện tử cỷa media, chăngr hạn tẽt, âm thanh, đối tượng đánh giá hay bất kỳ một mẩu dữ liệu nào có thể hiện thị được bởi trình duyệt Web và đưa tới phía học viên. Nhiều asset có thể được tập hợp lại để xây dựng một asset khác nhau như hình ảnh, audio, video..vv (hình) Hình 4 : Asset 4.2.2. SCO SCO (sharable Content Object) là tập hợp của một hay nhiều Asset, là một tài nguyên học tập có thể được khởi chạy nhờ sử dụng RTE (môi trường thực thi) để có thể giao tiếp được với LMS (Learning Management System – Hệ thống quản lý đào tạo). Trong SCORM, SCO là tài nguyên học tập ở mức thấp nhất được quản lý bới LMSS nhờ sử dụng mô hình dữ liệu (Data model). Chính vì lý do đó mà một tài nguyên học tập đã trở thành một đối tượng, có thể giao tiếp được với LMSS, và qua đó LMS có thể quản lý được tiến trình học tập của học viên đối với từng SCO. Sự khác biệt duy nhất giữa SCO và Asset là ở chỗ SCO giao tiếp với LMS nhờ sử dụng giao diện lập trình ứng dụng (API). Hình 3 mô tả một SCO gồm nhiều asset, mỗi SCO phải chứa tối thiểu hai lời goi hàm là LMSInitialize() và LMSFinish(). Để thiết lập và kết thúc một phiên làm việc, nếu trong quá trình làm việc có sự trao đổi dữ liệu giữa LMS và SCO thì các hàm LMSSetValue() và LMSGetValue() sẽ được gọi Hình 5: SCO Một SCO yêu cầu bắt buộc phải tuân theo những điều kiện được định nghĩa trong SCORM RTE sẽ thỏa mãn những tính chất sau: Bất kỳ một LMS nào hỗ trợ SCORM RTE đều có thể khởi chạy và theo dõi các SCO mà không cần quan tâm đến ai đã tạo ra nó. Bất kỳ LMS nào hỗ trợ SCORM RTE có thể theo dỗi bất kỳ SCO nào và biết khi nào nó bắt đầu và khi nào nó kết thúc. Mọi LMS hỗ trợ SCORM RTE đều có thể khởi chạy bất kỳ SCO nào theo một cách thống nhất. Cấu trúc của SCORM Cấu trúc một gói SCORM phải tuân thủ theo cácđặc trưng sau : Accessibility: Tính chất có thể truy xuất được. Nội dung có thể được xác định và định vị khi cần Interoperability: Tính chất có thể thao tác giữa các phần. Nội dung sẽ hoạt động tốt trong nhiều ứng dụng, môi trường và cấu hình phần cứng mà không quan tâm đến công cụ nào tạo ra nó. Reusability: Tính chất có thể sử dụng lại. Nội dung sẽ độc lập với ngữ cảnh học và có thể sử dụng cho nhiều người học khác nhau. Durability: Tính chất bền vững. Nội dung sẽ không cần sửa đổi để thao tác khi hệ thống LMS thay đổi hay nâng cấp lên phiên bản mới. Cấu trúc của SCORM gồmn 2 thành phần chính sau: CAM (Content Aggregation Model) và RTE (Run time Environment). 4.3.1. SCORM 1.2 4.3.1.1. CAM CAM(Content Aggregation Model)- mô hình tích hợp nội dung. CAM có 2 chức năng chính sau: Cung cấp phương tiện chung cho việc gửi nội dung học cho các tài nguyên có thể phối hợp thao tác, có thể chia xẻ, có thể sử dụng lại và có thể khám phá ra được. Định nghĩa cách mà nọi dung học có thể được xác định và môt tả, tích hợp vào khóa học hoặc một phần của khóa học và đượ di chuyển giữa các hệ thống mà có thể bao gồm LMS và kho dữ liệu. Cấu trúc của CAM bao gồm Content Model, Meta-data, Content Package. Content Model- Mô hình nội dung. Định nghĩa các thành phần nộii dung của quá trình học. Meta-data- Siêu dữ liệu. Một cơ chế mô tả các thành phần của mô hình nội dung. Content Package- Gói nội dung. Định nghĩa cách để biểu diễn hoạt động của một quá trình họ. Định nghĩa cách đóng gói các tài nguyên học cho việc di chuyển giữa các môi trường khác nhau. Content Model bao gồm các thành phần sau: Asset SCO Content Aggregation Tích hợp nội dung. Một bản đồ có thể được dùng để tích hợp các tài nguyên học và các bài học liên quan nhau của việc dạy, bao gồm: Course (khóa học),chapter (chương) và Module. Áp dụng cấu trúc và kết hợp các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctim hieu hthong dtao truc tuyen.doc