Đề tài Tìm giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam: Mục lục Lời nói đầu 4 Chương I. Tổng quan về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công Ty Nhà nước ở Việt Nam 7 I. Hoạt động cho vay của NHTM 7 Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của NHTM 7 Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của NHTM 8 2.1. Tìm kiếm và thẩm định 8 2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ 12 2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng 13 Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM 13 II - Tổng Công ty và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt Nam 14 Khái niệm, hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta 14 Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty Nhà nước 15 Tình hình hoạt động của các TCTNN từ khi thành lập cho đến nay 19 4. Vốn và nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước 20 III. Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM 23 Các đặc điểm của khách hàng là Tổng Công ty Nhà nước 23 Xu hướng tác động của mối quan hệ giữa ngân hàng với TCTNN đến nền kinh ...

doc101 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu 4 Chương I. Tổng quan về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công Ty Nhà nước ở Việt Nam 7 I. Hoạt động cho vay của NHTM 7 Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của NHTM 7 Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của NHTM 8 2.1. Tìm kiếm và thẩm định 8 2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ 12 2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng 13 Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM 13 II - Tổng Công ty và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt Nam 14 Khái niệm, hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta 14 Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty Nhà nước 15 Tình hình hoạt động của các TCTNN từ khi thành lập cho đến nay 19 4. Vốn và nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước 20 III. Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM 23 Các đặc điểm của khách hàng là Tổng Công ty Nhà nước 23 Xu hướng tác động của mối quan hệ giữa ngân hàng với TCTNN đến nền kinh tế quốc dân 24 Vai trò hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của các ngân hàng 25 Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ vay vốn của Tổng Công ty và NHTM. 26 Chương II. Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam 35 I. Khái quát về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam 35 Sự ra đời và phát triển của Sở giao dịch 35 Sự ra đời của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam 35 Về cơ cấu tổ chức, điều hành và các hoạt động cơ bản của SGD 36 Các đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới hoạt động của Sở giao dịch nói chung, hoạt động cho vay nói riêng 38 2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I – NHCTVN những năm qua 39 2.1. Huy động vốn 39 Tình hình sử dụng vốn 42 II . Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I 46 1. Phân cấp quản lý tín dụng 46 2. Chính sách khách hàng của Sở giao dịch 47 3. Kết quả hoạt động cho vay các TCTNN tại Sở giao dịch trong thời gian qua 48 Kết quả thu được 48 Các biện pháp Sở giao dịch đã áp dụng nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước 52 4. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân 54 Chương III. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt nam 64 I. Định hướng hoạt động của Sở giao dịch trong thời gian tới với vấn đề mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước 64 1. Định hướng, mục tiêu của Sở giao dịch trong thời gian tới 64 2. Vấn đề mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước 65 II. Giải pháp mở rộng cho vay các Tổng công ty Nhà nước 68 1. Thực hiện chiến lược khách hàng hướng vào Tổng công ty 68 2. Chủ động tiếp cận các phương án, dự án của các Tổng Công ty để cho vay 75 3. Đảm bảo nguồn huy động đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các TCT 76 4. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Sở giao dịch với các cơ quan, tổ chức 77 5. Giải pháp về hoạt động nghiệp vụ 81 Giải pháp trong công tác tổ chức và đào tạo cán bộ tín dụng 84 Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng 86 Giải pháp phát triển sản phẩm và đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng 88 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ 89 III. Những kiến nghị 89 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam 89 Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 90 Kiến nghị với các Tổng Công ty Nhà nước 91 Về phía Chính phủ 92 Kết luận 94 Tài liệu tham khảo 96 Bảng các từ viết tắt 98 Lời nói đầu I. Tính cấp thiết của đề tài. Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên. Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình mới, các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thế căn bản với tư cách là khách hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế chung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mở rộng với nâng cao hiệu quả cho vay trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các Tổng Công ty Nhà nước được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng, do đó để mở rộng cho vay các Tổng Công ty cần phải có những giải pháp phù hợp. Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, em chọn đề tài “Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm đề tài Khoá luận Tốt nghiệp của mình. ii. Mục đích nghiên cứu khóa luận. Khoá luận đi từ những nội dung mang tính lý luận trong hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM, tới các vấn đề thực tiễn trong hoạt động này đối với Sở giao dịch I từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam. iii. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan tới hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các Tổng Công ty Nhà nước, những vấn đề trong việc thực hiện cơ chế chính sách đối với hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thời gian từ năm 1999 đến 2001 và 6 tháng đầu năm 2002. iv. Phương pháp nghiên cứu. Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sự, phương pháp hệ thống, so sánh - thống kê, phân tích kinh tế để nghiên cứu các vấn đề đã nêu ra. v. Kết cấu khóa luận. Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chương III: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chương I Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại với các Tổng Công Ty nhà nước I - Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại. 1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của các NHTM: 1. 1. Khái niệm: Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có giá trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói chung có 2 đặc điểm chính là: - Thứ nhất, trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền, tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó. - Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định theo sự thoả thuận giữa hai bên: người cho vay và người đi vay. Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào hay không cũng phụ thuộc vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao giờ người cho vay cũng lấy lãi. Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng nói chung thì cho vay là một nội dung nghiệp vụ. Đó là việc NHTM giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Với một khoản vay mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một khoản lãi nào, điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc người cho vay không phải là người kinh doanh tiền... Song đối với các NHTM, bao giờ họ cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người gửi tiền vào ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. ở Việt Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định 324/1998/ QĐ - NHNN1, thì Cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu cần được bổ sung vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, hoạt động cho vay của NHTM đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân khác lại thiếu vốn và có nhu cầu về vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn này thông qua hoạt động cho vay của mình. Ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có thể cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ... Cho vay chỉ là một hình thức cấp tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. 1.2. Đặc trưng: Hoạt động cho vay của các NHTM có các đặc trưng sau: - NHTM chuyển giao quyền sử dụng cho người đi vay một khoản tiền nhất định. - Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời, trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho NHTM. - Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức còn gọi là tiền lãi. Tóm lại, hoạt động cho vay của NHTM mang những đặc trưng cụ thể là: Tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi. 2. Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của các NHTM: 2.1. Tìm kiếm và thẩm định: Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới hoặc ngân hàng chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu vay vốn để đề nghị phục vụ. Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên cán bộ tín dụng (CBTD) phải làm là hướng dẫn khách hàng về thủ tục và điều kiện được xin vay vốn. Nếu khách hàng đã nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm định. Mục đích của thẩm định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng, nói cách khác là ước lượng rủi ro không hoàn trả. Từ đó đưa ra quyết định cho vay hay không, và nếu cho vay thì cho vay bao nhiêu? Với kỳ hạn, lãi suất và phương thức cho vay nào?… Khi tiến hành thẩm định, ngân hàng phải trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì (thẩm định các yếu tố nào) và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét cách trả lời với mỗi loại câu hỏi trên. Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về phương án, dự án xin vay vốn. a/ Các yếu tố về bản thân khách hàng: Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực pháp lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng, cá nhân họ phải là những công dân đến tuổi trưởng thành (theo luật Việt Nam là 18 tuổi trở lên), nếu không họ phải được cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng ký vào đơn xin vay tiền. Đối với các tổ chức kinh tế (TCKT), ngân hàng xét xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trong việc đưa ra các quyết định của các TCKT đó như thế nào? Ai là người có thẩm quyền đại diện cho công ty trong quan hệ vay mượn? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân hàng phải xem xét. Uy tín của khách hàng: Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ của khách hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như kinh tế với các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của khách hàng trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có giá trị khi đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng cũng nắm được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng trả nợ cũng như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng. Năng lực tài chính của khách hàng: ở đây, các NHTM sẽ xác định vốn kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp một món vay nào cho doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng tín dụng mà ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích các chỉ tiêu đặc trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán hiện hành, vốn lưu động thực tế chủ sở hữu, vòng quay vốn lưu động, hệ số tài trợ trong tổng tài sản… Bên cạnh đó, năng lực tài chính của doanh nghiệp, trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại của doanh nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý, khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh tranh. Đây cũng là những đối tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất nhiên họ sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường. Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc, những tài sản đem cầm cố, thế chấp phải thuộc quyền sở hữu của người vay, và người vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những tài liệu hợp pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị những tài sản ấy một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá trị thanh lý (thường thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) trong trường hợp người vay không trả nợ hoặc có sự biến động về giá cả của những tài sản đó. Bên cạnh đó, các điều kiện kinh tế tuy không phải là yếu tố thuộc về bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ, tới phương án, dự án sử dụng vốn vay của khách hàng với vai trò là môi trường hoạt động của cả các doanh nghiệp và ngân hàng. CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và phân tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân đối thanh toán và tỷ giá hối đoái và phân tích được các thông tin về lĩnh vực hoạt động của khách hàng. b/ Về thẩm đinh phương án, dự án xin vay: Trước hết, ngân hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù hợp với kế hoạch SXKD, với điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để thực hiện thành công phương án, các định mức kinh tế - kỹ thuật, các số liệu về thu nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này xuất phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường. Đối với những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu động, nguồn trả nợ trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình thành từ nguồn vốn vay. Ngân hàng thường thiết lập mối tương quan giữa khoản tiền xin vay với doanh thu theo kế hoạch và doanh thu thực hiện của phương án SXKD. Tại thời điểm xem xét, doanh thu thực hiện chưa xuất hiện, nhưng ngân hàng lại phải dự đoán được do nó phụ thuộc trực tiếp vào tiêu thụ, tức là nhu cầu thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp với các yếu tố đã phân tích về bản thân khách hàng, ngân hàng sẽ rút ra kết luận về số tiền có thể chấp nhận cho vay trong tổng doanh thu đó. Một vấn đề có tính nguyên tắc là chỉ những phương án với hiệu quả được tính trong khoảng thời gian một chu kỳ sản xuất hoặc năm dương lịch mới là đối tượng của cho vay vốn lưu động. Đối với các dự án xin vay vốn trung, dài hạn thì việc thẩm định sẽ phức tạp hơn, bởi các khoản cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Các ngân hàng thường thẩm định dự án từ nhiều phương diện: kỹ thuật, thị trường và tài chính của dự án, từ đó khẳng định tính khả thi kinh tế - kỹ thuật của dự án, xác định được thời điểm thực hiện dự án, lịch trình giải ngân, trả nợ được trù tính trong dự án, từ đó mà quyết định cho vay hay từ chối. Trước tiên, ngân hàng thẩm định về thị trường sản phẩm, dịch vụ và sản phẩm dịch vụ sẽ cung cấp như đối với cho vay ngắn hạn. Thẩm định kỹ thuật dự án cũng quan hệ chặt chẽ tới phương diện thị trường của dự án. ở đây, ngân hàng quan tâm tới qui mô của dự án, xem có phù hợp vói khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cung cấp nguyên vật liệu và năng lực quản lý của doanh nghiệp không? Tiếp đó ngân hàng xem xét tới công nghệ và trang thiết bị, đây cũng là căn cứ xác định chu kỳ sống của sản phẩm, một yếu tố có ý nghĩa khi xem xét đầu tư. Việc thẩm định kỹ thuật có thể được thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách hoặc do CBTD tự phụ trách. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do trình độ chuyên môn hoá của CBTD còn thấp hoặc tính phức tạp của dự án ngân hàng phải thuê các chuyên gia tư vấn. Về phương diện tài chính, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp khác nhau, sử dụng các loại chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như giá trị hiện tại (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn, tỷ suất lợi ích trên chi phí (B/C)… Khi thẩm định dự án đầu tư để cho vay trung, dài hạn, ngân hàng thường vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp trong đó coi mỗi chỉ tiêu là một con số thể hiện một mặt của dự án. Trả lời câu hỏi các nguồn thông tin lấy từ đâu? Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ các nguồn: + Thông qua phỏng vấn trực tiếp người xin vay, CBTD có thể đánh giá được phần nào năng lực, tư cách đạo đức của khách hàng, cũng như để giải thích những điều chưa rõ trong hồ sơ tín dụng. + Nguồn thứ hai là hệ thống sổ sách của ngân hàng để biết thêm về uy tín của khách hàng trong việc hoàn trả các món vay, số dư trên các tài khoản, tình hình thanh toán công nợ... + Các nguồn thông tin bên ngoài, như ngân hàng thuê các Công ty chuyên nghiệp điều tra thu thập thông tin về khách hàng, hay nhờ các ngân hàng bạn hay bạn hàng của khách hàng để xác định uy tín của anh ta. Một số nước còn có hệ thống thông tin tín dụng chung do ngân hàng Trung ương hay hiệp hội các ngân hàng điều hành (CIC ở Việt Nam là một ví dụ về hình thức này). + Thông qua các chuyến viếng thăm khách hàng, CBTD có thể thu thập những thông tin rất khách quan về tình hình hoạt động của họ. + Những thông tin do khách hàng cung cấp từ các hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán. Đây là nguồn thông tin chính thức mà khách hàng phải trình lên ngân hàng khi xin vay. ở một ngân hàng thường có sự phân cấp uỷ quyền trong việc quyết định cho vay. Điều này càng thấy rõ ở mức phán quyết mà chi nhánh của NHTM (ở ngân hàng có chi nhánh) có thể quyết định cho vay. Nhiều khi một hội đồng gồm nhiều thành viên được thành lập để thẩm định và quyết định cho vay đối với các dự án lớn, có tính phức tạp cao. 2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ: Mục đích của khâu này là phát tiền vay đúng tiến độ, đúng đối tượng, kiểm soát và quản lý chặt chẽ món vay để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện được kế hoạch trả nợ, đồng thời có thể phát hiện sớm nhất những khó khăn phát sinh để có biện pháp xử lý nhằm hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro đối với ngân hàng. Các công việc cụ thể là: Khi phát tiền vay, CBTD tuân thủ nguyên tắc phải có vật tư, tài sản tương đương là đối tượng ghi trong hợp đồng tín dụng kết hợp với các phương thức thanh toán, ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp với người cung cấp của khách hàng mà không qua trung gian. Sau khi phát tiền vay, CBTD vẫn thường xuyên quản lý kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngoài việc liên tục theo dõi sự vận động của vốn, ngân hàng còn chú ý cả tới tình hình kinh doanh chung của khách hàng và tình hình thị trường giá cả... Phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng có thể có biện pháp thích hợp. Ngân hàng có thể thu hồi khoản vay trước hạn, nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp, cầm cố khi giá trị thị trường của các tài sản này giảm ngoài dự kiến... Đối với những khó khăn mang tính khách quan, ngân hàng sẽ cùng khách hàng giải quyết, giúp doanh nghiệp thu hồi các hoá đơn chậm trả, thanh toán hàng tồn kho hay giảm bớt dự trữ quá mức; sắp xếp, cấu trúc lại các khoản vay bằng định lại kỳ hạn nợ hay rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian... Để việc thu nợ diễn ra thuận lợi, CBTD có các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc; định kỳ tổng kết việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng. 2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng: Sau khi thu nợ đầy đủ hoặc giải quyết các tồn tại về khoản vay, ngân hàng và khách hàng tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Ngân hàng tổng kết, đánh giá toàn bộ quá trình cho vay, rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết, đồng thời đưa ra các yêu cầu mới. Ngân hàng tiến hành lưu trữ hồ sơ khách hàng dù họ còn quan hệ với ngân hàng nữa hay không. Nhiều NHTM ở các nước tiên tiến có hẳn bộ phận chuyên trách, và công việc này được thực hiện bằng nhiều phương tiện hiện đại như máy tính, các phần mềm quản lý khách hàng. ở nước ta, công việc này do mỗi CBTD đảm nhận, đưa vào phòng quản lý khách hàng; các lưu trữ vẫn chủ yếu dưới dạng hồ sơ giấy tờ. 3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM: Khối lượng cho vay biểu hiện ở hai mặt: Mặt tuyệt đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục trong nghiệp vụ tài sản có ngân hàng và một phần dịch vụ ngoại bảng cân đối kế toán. Mặt tương đối biểu hiện ở tỷ trọng số dư của các khoản mục trên trong tổng số các khoản mục cho vay và đầu tư trong và ngoài bảng cân đối kế toán. Mở rộng hoạt động cho vay có 2 hình thức biểu hiện: Mở rộng tuyệt đối là tăng số dư của các khoản mục này trong và ngoài bảng tổng kết tài sản so với kỳ trước, tăng doanh số cho vay lớn hơn tăng doanh số thu nợ. Hình thức mở rộng tương đối hoạt động cho vay là tăng tỷ trọng số dư cho vay trong tổng số dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng. Việc tăng tỷ trọng cho vay làm thay đổi cơ cấu hoạt động kinh doanh ngân hàng theo hướng tăng hoạt động cho vay. II - Tổng Công ty và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở việt nam. 1. Khái niệm, hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta: 1.1. Khái niệm Tổng Công ty Nhà nước: Tổng Công ty Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có quy mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính do Nhà nước thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng Công ty đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng Công ty 91. Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại Quyết định số 90/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng công ty 90. Các đơn vi được lựa chọn theo Quyết định 91 là một số Tổng Công ty, Công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và vùng lãnh thổ không phân biệt doanh nghiệp do Trung ương hay do địa phương quản lý có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra nước ngoài, phải có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ đồng. Các Tổng Công ty được thành lập theo Quyết định 90 là các Liên hiệp Xí nghiệp, Tổng Công ty có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo. Toàn Tổng Công ty có vốn pháp định trên 500 tỷ đồng, trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng. 1.2. Hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty ở nước ta: Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật tích tụ và tập trung sản xuất... diễn ra một xu hướng cơ bản là sự tập trung sản xuất kinh doanh để hình thành các tập đoàn kinh doanh dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Hiện nay, các tập đoàn kinh doanh có vai trò chi phối nhiều nền kinh tế trên thế giới như các cheabol ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh doanh của Mỹ, Nhật. Các Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia cũng là những dạng tập đoàn kinh doanh. Ngay ở các nước láng giềng với Việt Nam ta, nhiều tập đoàn kinh doanh đã hình thành và phát triển, đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân (Thái Lan, Malaysia). Trong tình trạng nền kinh tế thế giới có nhiều biến động mạnh vừa qua, xu hướng sáp nhập, hợp nhất các Công ty đã diễn ra càng phổ biến và mạnh mẽ. ở Việt Nam, từ những năm 1960 ở miền Bắc đã hình thành và phát triển các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty trong hệ thống các DNNN, và đặc biệt bùng nổ vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 trên phạm vi toàn quốc. Cho đến năm 1991, đã tồn tại khoảng 150 Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp được tổ chức hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp kèm theo một số chức năng quản lý Nhà nước. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và chức năng hoạt động kinh doanh đã biến các mô hình này thành một cấp hành chính trung gian, khiến quá trình tích tụ và tập trung hoá không được thực hiện tốt. Tất nhiên các mô hình này đã có những đóng góp lớn trong thời kỳ chiến tranh, nhưng sau này, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường, các Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp theo mô hình ấy ngày càng tỏ ra không phù hợp, khó có thể trụ vững trong nền kinh tế thị trường. Quyết định 217 và Nghị định 388 ra đời đã tăng cường tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh của các DNNN, mang lại nhiều tác dụng tích cực, đồng thời làm giảm vai trò của các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty như trên. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động. Hệ thống DNNN lại bộc lộ những nhược điểm lớn. Đó là: sản xuất còn manh mún, phân tán, chồng chéo và trùng lặp về các chức năng kinh doanh; khả năng tái đầu tư qua tích tụ rất hạn chế do quy mô nhỏ; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất thấp. Hậu quả là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này thấp, đặc biệt là trong cạnh tranh quốc tế; mặt khác, nhiều DNNN cạnh tranh bừa bãi, gây tổn hại cho nền kinh tế nội địa hạn chế vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế quốc doanh. Để khắc phục các nhược điểm trên, ngày 07/3/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định 90/TTg và 91/TTg về sắp xếp lại các DNNN, đồng thời cho phép thành lập các Tổng Công ty Nhà nước. Mục đích của việc này là: Tạo ra điều kiện để thúc đẩy tích tụ, tập trung và tái đầu tư; nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống DNNN trên thị trường trong và ngoài nước; thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản, sự phân biệt giữa các doanh nghiệp Trung ương và địa phương. Việc thành lập các Tổng Công ty Nhà nước là một bộ phận của quá trình đổi mới, tổ chức và sắp xếp lại các DNNN, hình thành các tập đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước. Sau những năm đầu hoạt động, các Tổng Công ty đã phát huy nhiều tác dụng tích cực: Tập hợp được sức mạnh toàn Tổng Công ty trong tham gia đấu thầu, bảo lãnh vay vốn tín dụng thực hiện chiến lược đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ (rõ nhất là các TCT 91), xây dựng và mở rộng thị trường, giảm thiểu sự cạnh tranh hỗn loạn giữa các DNNN với nhau trên thị trường trong nước, bình ổn giá cả. Nhưng việc thành lập Tổng Công ty mang tính chủ quan lại bộc lộ một số nhược điểm một loạt Tổng Công ty được thành lập trên cơ sở gom các doanh nghiệp cùng chức năng lại thành một Tổng Công ty, vốn giao cho Tổng Công ty là tổng vốn các thành viên nắm giữ, dẫn tới tình trạng Tổng Công ty chỉ nắm vai trò quản lý hành chính; tình trạng độc quyền trong kinh doanh tăng lên đặc biệt đối với các Tổng Công ty 91; quan hệ giữa Tổng Công ty - đơn vị thành viên còn nhiều trục trặc. 2. Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty: 2.1. Địa vị pháp lý: Các Tổng Công ty ra đời trực tiếp từ các quyết định 90/TTg, 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài việc chịu chi phối bởi các văn bản pháp quy như đối với các DNNN, các Tổng Công ty còn có các văn bản quy định, hướng dẫn như Nghị định 39/CP ngày 27/6/1995 ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước; Quyết định 838 tài chính/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 ban hành quy chế tài chính mẫu Tổng Công ty Nhà nước; Quy chế Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước Chỉ thị 135/TTg ngày 4/3/1997 về xây dựng Quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát trong Tổng Công ty và một số văn bản khác. Với một Tổng Công ty cụ thể thì địa vị và tổ chức của Tổng Công ty được quy định cụ thể ở Điều lệ và quy chế tài chính của nó. Tổng Công ty Nhà nước là những DNNN có tư cách pháp nhân Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (đối với các Tổng Công ty quan trọng - Tổng Công ty 91); do Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật hoặc tương đương, UBND tỉnh hoặc tương đương thành lập (TCT 90) theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tổng Công ty có vốn và tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm với các khoản nợ trong phạm vi số vốn do Tổng Công ty quản lý. Tổng Công ty có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo quy định hiện hành, mối quan hệ giữa Tổng Công ty với các cơ quan (Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính, các bộ và UBND thành lập ... ) là rất phức tạp, nhiều quy định còn thiếu cụ thể. Điều này khiến nhiều cơ quan Nhà nước can thiệp vào hoạt động của các Tổng Công ty hay gây ảnh hưởng trong việc ra các quyết định. 2.2. Về tổ chức: Tổng Công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và điều hành bởi Tổng giám đốc (TGĐ). Hội đồng quản trị có 5 hoặc 7 thành viên do thủ trưởng cơ quan ra quyết định thành lập Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao; có quyền nhận vốn do Nhà nước giao cho Tổng Công ty; xem xét phê duyệt phương án do Tổng Giám đốc đề nghị về giao vốn cho các đơn vị thành viên và phương án điều hoà vốn và các nguồn lực giữa các thành viên đó. Hội đồng Quản trị thành lập Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra, giám sát Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc và các thành viên Tổng Công ty. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước người bổ nhiệm mình và pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Tổng Giám đốc cùng Chủ tịch Hội đồng quản trị ký nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước để quản lý sử dụng theo mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho Tổng Công ty; giao hoặc điều hoà vốn giữa các thành viên Tổng Công ty theo phương án đã được Hội đồng quản trị phê duyệt; điều hành Tổng Công ty theo các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị. Tổng Công ty gồm các đơn vị thành viên là những DNNN hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc hay đơn vị hành chính sự nghiệp. Các thành viên hạch toán độc lập có quyền tự chủ kinh doanh, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và cam kết của mình trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý, sử dụng. Các doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân hạn chế, bởi nó chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với Tổng Công ty theo quy định tại Điều lệ Tổng Công ty và của đơn vị. Các thành viên hạch toán phụ thuộc không có tư cách pháp nhân. Nó có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của TCT, Tổng Công ty chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ tài chính phát sinh do sự cam kết của các đơn vị này. Các thành viên là đơn vị hành chính sự nghiệp hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi, được TCT hỗ trợ nếu thiếu hụt ngân sách hoạt động. Về mặt sản xuất kinh doanh, các thành viên phụ thuộc chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng Công ty. Đối với thành viên độc lập, thực hiện kế hoạch của mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức kinh tế kỹ thuật chủ yếu phù hợp với kế hoạch chung của toàn Tổng Công ty, đồng thời mở rộng kinh doanh để khai thác tối ưu có nguồn lực mình có, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tổng Công ty lựa chọn thị trường thống nhất và phân công giữa các đơn vị thành viên. 3. Tình hình hoạt động của các Tổng Công ty Nhà nước từ khi thành lập đến nay: Đến nay trên toàn quốc có 17 Tổng Công ty 91 thành lập và hoạt động theo Quyết định 91/TTG, 74 Tổng Công ty 90 theo Quyết định 90/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, với 1750 đơn vị thành viên hạch toán độc lập đã, chiếm 24% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng chiếm 66% về vốn, 60% về lao động và đóng góp vào ngân sách Nhà nước tới 69%, tạo ra 50% tổng doanh thu và hơn 83% lợi nhuận của toàn hệ thống DNNN. Trong những năm qua, các TCT Nhà nước đã từng bước khẳng định được vai trò của mình; các cơ chế chính sách dần được hoàn thiện, mô hình hoạt động rõ nét hơn, xuất hiện một số hình mẫu sơ khai các công ty mẹ - con trong các TCT. Nhiều TCT thực hiện tốt việc đấu thầu các công trình qui mô lớn, phức tạp, cả trong nước và quốc tế; bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn theo cơ chế tín dụng nội bộ… Đặc biệt là các TCT 91, chiếm 9,2% số doanh nghiệp Nhà nước nhưng chiếm tới 54,9% về vốn, 64,2% lãi trước thuế và 54,9% nộp ngân sách.    Tuy nhiên, nhiều TCT cũng bộc lộ những yếu kém và tồn tại về tổ chức, phân cấp hoạt động, cơ chế và quan hệ tài chính vv... làm chậm quá trình tích tụ vốn, giảm tốc độ tăng trưởng và sức cạnh tranh. Đối với một số TCT như Than, Dệt - may, Thép, Bưu chính Viễn thông, bộ máy quản lý hành chính còn nặng nề, số lao động dư thừa lớn. Đa số các TCT có chỉ tiêu kinh tế tăng về giá trị tuyệt đối nhưng mức tăng đang giảm qua các năm. Về chiến lược đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ, hầu hết các TCT đã chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển của TCT đến năm 2010, trong đó sản xuất công nghiệp, đầu tư, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông và các ngành quan trọng khác theo hướng phát huy nội lực, phát triển các nguồn nguyên liệu trong nước, tăng năng lực sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu. Các chiến lược này là cơ sở để tiếp tục sắp xếp lại các TCT, bước đầu hạn chế tình trạng đầu tư tràn lan, manh mún kém hiệu quả trước đây. Về thị trường và xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch của các TCT tăng hàng năm. Trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị trường, căn cứ định hướng phát triển của ngành, nhiều TCT đã chủ động thực hiện kế hoạch kinh doanh, mở rộng thị phần, tiến tới chiếm lĩnh thị trường bằng các sản phẩm chủ lực. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, năm 2000 đạt 14,4 tỷ USD, 2001 đạt trên 15 tỷ USD, đến hết tháng 9/2002 đạt 11.907 tỷ USD có phần đóng góp quan trọng của các TCT Nhà nước. Tính đến hết tháng 9/2002, giá trị xuất khẩu của Tổng Công ty Dầu khí đạt 2.027 triệu USD, Tổng Công ty Dệt may đạt 732 triệu USD, Tổng Công ty Cà phê đạt 250 triệu USD… 4. Vốn và nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước: 4.1. Các nguồn vốn của một doanh nghiệp: Để tiến hành hoạt động SXKD, trước tiên mỗi doanh nghiệp cần có vốn: Vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng SXKD. Vốn SXKD được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh tế có thể chia thành hai nguồn cơ bản, đó là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay. a/ Nguồn vốn chủ sở hữu: Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiện quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có nhiều hoặc một chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được tạo từ các nguồn sau: - Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh. Ví dụ đối với DNNN nguồn vốn chủ sở hữu do Nhà nước cấp phát nên được gọi là vốn Nhà nước. - Lãi chưa phân phối: đây là kết quả của toàn bộ hoạt động SXKD. Số lãi này trong khi chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh và coi như vốn chủ sở hữu. - Vốn chủ sở hữu khác: Là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi nhuận để lại (các quỹ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, theo luật định…) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản, chênh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá chưa xử lý, vốn kinh phí cấp phát…) b/ Nguồn vốn vay: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ SXKD bằng nguồn vốn tự có mà đều phải hoạt động bằng nhiều nguồn vốn trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể, khoảng 70-90%. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau: - Tín dụng Ngân hàng. Bao gồm tín dụng ứng trước, tín dụng hạn mức, chiết khấu thương phiếu, bao thanh toán, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng chữ ký (tín dụng chấp nhận, tín dụng bảo lãnh, tín dụng chứng từ). - Phát hành trái phiếu. - Tín dụng Thương mại – là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. 4.2. Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước: Các Tổng Công ty đều có quy mô lớn xét trên cả phương diện về vốn doanh thu, lao động và số doanh nghiệp thành viên tham gia. Vào năm 1997, sau 3 năm hoạt động, vốn Nhà nước tại các Tổng Công ty Nhà nước mới chỉ là 73.831 tỷ đồng chiếm 71,9% vốn Nhà nước tại toàn bộ doanh nghiệp nhà nước (trong đó TCT 91 chiếm 54,5% và TCT 90 chiếm 16,1%) và cho tới ngày 30/6/2002 theo số liệu kiểm kê tài sản Nhà nước trên toàn quốc vừa công bố, các Tổng Công ty đã nắm giữ 70% trong 165.000 tỷ đồng vốn Nhà nước đã được đầu tư cho các doanh nghiệp. Điều này nói lên sự quan tâm của nhà nước tới việc phát triển các Tổng Công ty. Tuy nhiên, do các TCT đều giữ vị trí trọng yếu trong mỗi ngành và trong toàn bộ ngành kinh tế nên nguồn vốn Nhà nước không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu mở rộng SXKD của các TCT. Ví dụ như sản lượng thép của Tổng Công ty Thép Việt Nam chiếm 99,6% sản lượng thép của cả nước, sản lượng xi măng của Tổng Công ty Xi măng chiếm 97,9%, sản lượng điện của Tổng Công ty Điện lực chiếm 94%, sản lượng than của Tổng Công ty Than chiếm 97%... Các TCT Nhà nước đã đề ra các chiến lược đầu tư, phát triển và đổi mới công nghệ, thực hiện những dự án nhằm mục đích tăng nhanh về vốn và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từng bước thực hiện chính sách thị trường. Một thực tế đặt ra là nhu cầu vốn của các Tổng Công ty là rất lớn. Tình trạng thiếu vốn hiện nay đang là một lực cản hàng đầu ảnh hưởng đến sự phát triển của các TCT Nhà nước. Nguồn vốn tự có của các Tổng Công ty hầu như chưa thể đáp ứng được nhu cầu hoạt động nội bộ, chưa nói tới việc đầu tư phát triển lâu dài. Nguồn vốn tự có của TCT than mỗi năm chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu vốn thực tế. Còn TCT dầu khí thì tổng lượng vốn cần mỗi năm gấp 2 lần nguồn vốn tự có. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước mỗi năm là rất lớn nhưng so với việc phát triển và mở rộng các Tổng Công ty thì mới chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn. Các TCT cũng đã tiến hành vay bạn hàng và ngân hàng nước ngoài. Đây đều là những nguồn vốn vay có tính ổn định không cao do nguồn vốn vay từ bạn hàng không dồi dào, vay từ các ngân hàng nước ngoài đòi hỏi quy trình thẩm định khắt khe. Chính vì thế, các ngân hàng lớn trong nước đã trở thành nơi đáp ứng nhu cầu vay vốn cho các TCT. Trước hết, nếu nhìn từ phía khách hàng, vốn vay các ngân hàng này cho phép các TCT nhanh chóng đi vào ổn định sản xuất kinh doanh, đây là nguồn có khả năng đáp ứng không chỉ nguồn vốn vay trung dài hạn cho đầu tư tập trung của toàn TCT mà còn giải quyết được những bức xúc đối với vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên, nhất là đối với tổng công ty 90. Nhìn từ phía ngân hàng, cho vay các TCT là cho vay nhóm khách hàng lớn, thể hiện ở quy mô các món vay. Trong năm 2001, một số TCT có số vay tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam như sau: Tổng Công ty xi măng vay 501 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31% tổng vốn vay các ngân hàng, Tổng Công ty than vay 485 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn vay các ngân hàng, Tổng Công ty xây dựng số 1 vay 25 tỷ đồng chiếm 7,5 % tổng vốn vay ngân hàng, Tổng Công ty xây dựng cầu Thăng Long vay 103 tỷ đồng chiếm 28% tổng vốn vay các ngân hàng. Bước sang 6 tháng đầu năm 2002 1 với mục tiêu tăng nhanh tỷ trọng cho vay các Tổng Công ty, khối lượng vốn giải ngân đã chiếm 74% so với năm trước. Điều này phản ánh nhu cầu vốn ngày càng tăng của TCT và cũng phản ánh mục tiêu và định hướng mở rộng cho vay các TCT của ngân hàng. Những dự án sau khi được giải ngân đều nhanh chóng được đưa vào thực hiện, ví dụ như dự án Đuôi hơi Phú Mỹ hay dự án khí nam Côn Sơn thuộc TCT dầu khí đều đã đi vào hoạt động trong năm 2001. Như vậy nguồn vốn từ ngân hàng trong những năm gần đây đã phát huy tác dụng to lớn của nó đối với các TCT khi mà việc thiếu vốn đã có lúc tưởng như bế tắc. Các TCT Nhà nước luôn là những khách hàng tiềm năng của các NHTM trong hoạt động vay vốn và ngược lại các TCT cũng đã tìm thấy được nguồn cung cấp vốn ổn định, dồi dào phục vụ cho kế hoạch đầu tư phát triển và mở rộng SXKD của mình. III – hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM. 1. Các đặc điểm của khách hàng là Tổng Công ty Nhà nước: ở đây ta tập trung chỉ ra những đặc điểm có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay các Tổng Công ty của một NHTM. Thứ nhất, khách hàng ở đây là DNNN có quy mô lớn, số lượng ít, có nhu cầu vay vốn rất lớn, nhất là cho đầu tư tập trung, bao gồm cả của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Với số lượng 91 Tổng Công ty trên toàn quốc, ngân hàng có thể tìm kiếm quan hệ tương đối dễ dàng. 1 : Tài liệu Hội thảo đánh giá quan hệ tín dụng với TCT Nhà nước của NHCT Việt Nam tháng 9/2002 Thứ hai, nhiều TCT hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực độc quyền (chủ yếu là các TCT 91). Yếu tố này kết hợp với tính chất sở hữu Nhà nước khiến các ngân hàng “an tâm” trong mở rộng cho vay nhóm khách hàng này. Mặt khác, các Tổng Công ty được thực hiện nhiều dự án đầu tư theo chỉ định của Chính phủ nên dường như có một sự bảo lãnh chắc chắn từ phía Nhà nước, tạo một điều kiện thuận lợi căn bản cho ngân hàng. Thứ ba, theo cơ chế tài chính TCT, ngân hàng có thể cho vay với TCT hoặc cho vay với doanh nghiệp thành viên dưới hai hình thức có hoặc không có bảo lãnh của TCT, vì doanh nghiệp thành viên độc lập là những DNNN có tư cách pháp nhân, có thể vay vốn NHTM quốc doanh không cần thế chấp. Tuy vậy, việc vay nợ của nó phải trong mức phân cấp của TCT. Tổng Công ty có nhiều đơn vị thành viên, phân bố trên địa bàn rộng nên gây khó khăn cho quản lý khi ngân hàng cho vay TCT, rồi TCT lại giao vốn đó cho các thành viên này. Mặt khác, việc TCT có quyền điều chuyển vốn và tài sản giữa các thành viên đặt ngân hàng trước một rủi ro lớn khi cho vay các đơn vị thành viên này. Thứ tư, các Tổng Công ty nhất là TCT 91 có tiềm lực tài chính mạnh, có cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, san xẻ rủi ro, bởi vậy nguy cơ mất khả năng trả nợ của các doanh nghiệp thành viên giảm đi so với các DNNN độc lập khác. Tuy vậy khả năng tự chủ tài chính của họ bị giảm đi. Thứ năm, các TCT có nhiều mối quan hệ phức tạp với các cơ quan Nhà nước (nhất là các TCT 90), tính hành chính trong các mối quan hệ đó vẫn còn khá đậm, nên khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng với các TCT còn phụ thuộc nhiều vào quan hệ của ngân hàng với các cơ quan Nhà nước trên. Đây cũng là điểm các ngân hàng cần hết sức lưu ý trong hoạt động thực tiễn của mình. 2. Xu hướng tác động của mối quan hệ giữa NHTM với TCTNN đến nền KTQD: ở Việt Nam, thông qua việc cho vay và nhận tiền gửi với số tiền lớn của Tổng Công ty Nhà nước, lợi ích của các NHTM và các Tổng Công ty Nhà nước có sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau do tác động của cơ chế thị trường “bàn tay vô hình”. Sự liên kết giữa các TCT với ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những tập đoàn kinh doanh thực sự mạnh, đủ sức cạnh tranh và hợp tác đối với đối tác nước ngoài trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, cũng có thể dẫn đến độc quyền trong một số lĩnh vực quan trọng như điện lực, bưu chính viễn thông, dầu khí… Vấn đề đặt ra là các Tổng Công ty Việt Nam có làm lũng đoạn nền kinh tế hay không? Chúng ta đều biết rằng, hiện nay các TCT lớn đều thuộc sở hữu Nhà nước, nền kinh tế Nhà nước sẽ phát triển theo một mục tiêu thống nhất. Tuy nhiên, với xu hướng đa số NHTM đổ xô vào quan hệ tín dụng với TCT mạnh và sự thay đổi sở hữu khi cổ phần hóa các TCT cũng có thể dẫn tới độc quyền và lũng đoạn ở một mức độ nhất định. 3. Vai trò hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của NHTM: 3.1. Nhìn từ phía khách hàng: Vốn vay ngân hàng cho phép các TCT Nhà nước nhanh chóng đi vào ổn định sản xuất kinh doanh khi mới được thành lập. Ngân hàng cũng là nguồn có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay trung, dài hạn cho đầu tư tập trung của toàn TCT, vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên. Mặt khác, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với TCT góp phần tăng cường quan hệ nội bộ TCT, tạo sự kết dính giữa TCT và các thành viên và giữa các thành viên với nhau, nhất là về mặt tài chính. TCT thể hiện được vai trò của mình trong bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho các TCT, hoặc trực tiếp vay vốn giao cho doanh nghiệp thành viên sử dụng mà trước đây khi ở ngoài TCT các doanh nghiệp này khó được vay vốn ngân hàng. Vốn vay ngân hàng còn tạo điều kiện để các TCT hoàn thành các nhiệm vụ Nhà nước giao. 3.2. Nhìn từ phía ngân hàng: Cho vay các TCT là cho vay nhóm các khách hàng lớn, thể hiện ở quy mô các món vay. Các món vay đó thường lớn gấp nhiều lần so với các DNNN độc lập khác, góp phần tăng nhanh dư nợ, đóng góp lớn vào thu nhập của ngân hàng. Qua cho vay các TCT hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật nhất định, ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn hoá, tập trung trong quản lý; đồng thời qua đó các NHTM đã góp phần thực hiện nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, các Tổng Công ty ở nước ta vẫn chủ yếu kinh doanh trên một lĩnh vực. Kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực mới chỉ là định hướng phấn đấu mà trên thực tế chưa thực hiện được là bao. Do đó Tổng Công ty chỉ có thể san xẻ, trung hoà những rủi ro, khó khăn riêng biệt, không có tính hệ thống giữa các thành viên. Những rủi ro mang tính hệ thống, những khó khăn đối với toàn ngành (suy giảm cầu, cạnh tranh...) mà hầu như tất cả các thành viên đều phải đối mặt đặt ngân hàng chuyên cho vay các lĩnh vực đó trước rủi ro lớn. Mặt khác, việc tập trung số vốn lớn cho vay một nhóm khách hàng TCT là ngân hàng đang chấp nhận rủi ro “để nhiều trứng vào một giỏ” theo lý thuyết cho vay của NHTM. Đây là những điều ngân hàng cần cân nhắc với các lợi thế khi đầu tư vào các Tổng Công ty. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ vay vốn của Tổng Công ty Nhà nước và NHTM: 4.1. Về phía doanh nghiệp: a/ Năng lực thị trường của doanh nghiệp: Biểu hiện ở các mặt như: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ với chất lượng sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu khách hàng không, có đáp ứng được yêu cầu thị trường không? Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế như thế nào? Đối với thị trường trong nước và quốc tế ra sao? Quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển của doanh nghiệp cũng như ngành kinh tế đó? Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như thế nào? Mối quan hệ đối với các bạn hàng, đối tác? Năng lực thị trường của doanh nghiệp biểu hiện và được lượng hóa qua tiêu thức cơ bản là sự phát triển của doanh số tiêu thụ sản phẩm. Doanh số tiêu thụ biểu hiện khả năng phát triển thị trường của sản phẩm và nó cho biết khả năng phát triển của doanh nghiệp. Nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở rộng đầu tư, định hướng đầu tư của doanh nghiệp nhằm kiểm tra sự phù hợp của các phương án đầu tư với các khả năng sản xuất. Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ càng có điều kiện mở rộng hoạt động vay vốn. b/ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định, cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, các nhu cầu đầu tư trước đây đạt hiệu quả như thế nào? Năng lực sản xuất cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự thích ứng của quy mô ấy với thị trường, cho biết cơ cấu và khả năng làm chủ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Phối hợp nghiên cứu giá thành với năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho thấy tính cấp thiết và nhu cầu phải đầu tư mới. Năng lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Một trong những điều kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tình hình sản xuất ổn định, kinh doanh có lãi, có năng lực sản xuất và quản lý đáp ứng một trình độ nhất định theo yêu cầu của thị trường. c/ Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỷ lệ cụ thể tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đó là sự so sánh giữa số tiền có thể thanh toán và các khoản nợ phải thanh toán. Việc đáp ứng các yêu cầu thanh toán còn lệ thuộc khá lớn vào cơ cấu tài sản của doanh nghiệp xếp theo tính lỏng của tài sản. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng càng lớn, càng làm cho ngân hàng có điều kiện mở rộng hoạt động cho vay. d/ Năng lực quản lý của doanh nghiệp Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý phù hợp. Khi quyết định cho vay với một doanh nghiệp, ngân hàng đã quyết định gắn bó hoạt động của mình với doanh nghiệp và hi vọng vào sự gắn bó đó trong tương lai. Vì vậy, việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá được những người quản lý này có khả năng xoay sở trong mọi tình huống hay không là một điều cần thiết để quyết định cho vay. Sự thành bại của một doanh nghiệp lệ thuộc chủ yếu vào khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh của bộ máy quản lý. Một bộ máy quản lý tồi thì ngân hàng không thể bỏ vốn cho vay trung, dài hạn được, do vậy nghiên cứu từng người cụ thể trong bộ máy quản lý và các mối quan hệ xã hội, quan hệ nội bộ của bộ máy quản lý là một việc cần làm và làm chu đáo trước khi quyết định có nên cho vay hay không? e/ Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với quyền sở hữu một khối lượng tài sản nhất định, quyền sở hữu tài sản biểu hiện ở khả năng pháp lý doanh nghiệp được khai thác, thay đổi cơ cấu, đầu tư mới nói gọn là chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản đó. Giá trị tài sản, chất lượng, cơ cấu tài sản mà doanh nghiệp sở hữu quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đo lường giá trị doanh nghiệp và quyết định khối lượng tín dụng. Quyền sở hữu tài sản gắn liền với năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện biện pháp đảm bảo tín dụng. Tài sản làm đảm bảo càng có tính lỏng cao, sự biến động giá trị thấp, chu kỳ sống càng dài, giá trị càng cao so với khối lượng vốn vay càng làm cho việc đáp ứng điều kiện vay vốn của ngân hàng tạo khả năng mở rộng hoạt động cho vay. f/ Sự đáp ứng của dự án, phương án đối với tiêu chuẩn vay vốn Phương án, dự án đầu tư phải đáp ứng tiêu chuẩn vay vốn là: Phải thuyết minh được tính cần thiết, mục đích và kết quả của dự án, phương án, sự phù hợp của quá trình đầu tư với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tình hình quy hoạch; có vốn tự có tham gia vào tổng giá trị đầu tư, có khả năng hoàn trả vốn, có khả năng hoàn trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi từ dự án và từ các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp (chất lượng của phương án, dự án vay). Điều kiện vay vốn quyết định khả năng thiết lập quan hệ vay vốn, tiêu chuẩn vay vốn quyết định quy mô của quan hệ này. Tiêu chuẩn vay vốn càng cao, khả năng mở rộng càng hạn chế, khả năng thu hút khách hàng càng thấp nhưng tính an toàn cao, ngược lại tiêu chuẩn tín dụng càng thấp thì có thể mở rộng được hoạt động tín dụng nhưng mức an toàn thấp. Việc đưa ra tiêu chuẩn vay vốn gắn chặt với chiến lược cho vay vốn, chính sách khách hàng, cơ chế cho vay và nó ảnh hưởng rất lớn đến yêu cầu mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay. 4.2. Về phía ngân hàng: a/ Lãi suất: Việc áp dụng lãi suất khác nhau ở từng dự án là quan trọng nhằm khuyến khích cả ngân hàng, cả khách hàng vay vốn. Ví dụ: Doanh nghiệp có tài sản làm đảm bảo tiền vay, trong chi phí vay vốn ngoài lãi suất vay vốn, doanh nghiệp còn chịu thêm các khoản lệ phí làm thủ tục thế chấp, cầm cố... Vì vậy, ngân hàng khi cho vay có đảm bảo là làm giảm độ rủi ro nên việc áp dụng lãi suất thấp hơn cho vay không có đảm bảo là hợp lý. Khi dự án, phương án của doanh nghiệp có lợi nhuận cao nếu khả năng rủi ro có thể là cao nhưng chưa vượt giới hạn của mặt bằng rủi ro mà NHTM xác định. Lãi suất cao hơn có thể vẫn khuyến khích NHTM cho vay. Việc đưa ra mặt bằng rủi ro cho các dự án, phương án và việc cho phép áp dụng linh hoạt lãi suất tuỳ mức độ rủi ro, thời hạn và khối lượng vốn vay là một trong những điều kiện để mở rộng hoạt động cho vay. b/ Nguồn vốn cho vay: Tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu để cho vay, mỗi loại tiền gửi, tiền huy động có đặc điểm riêng về tính chất biến động. Mức độ biến động của các nguồn huy động quyết định kết cấu tài sản dự trữ, cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn. Vì vậy, việc mở rộng cho vay trước hết phải đảm bảo cân đối với nguồn vốn tương ứng. Hoạt động về vốn chứa đựng hai loại rủi ro là rủi ro thanh toán và rủi ro lãi suất, vì vậy trong nguyên tắc quản trị tài chính có nguyên tắc cân bằng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tức là vốn ngắn hạn dùng để cho vay ngắn hạn, vốn trung dài hạn dùng để cho vay trung dài hạn. Ngoài nguồn vốn trung, dài hạn ra các ngân hàng còn sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn theo một tỷ lệ quy định. c/ Vốn chủ sở hữu của ngân hàng: Đối với một NHTM, việc mở rộng cho vay còn phụ thuộc vào tương quan giữa vốn tự có ngân hàng với tổng khối lượng vốn huy động và phụ thuộc mức khống chế vốn vay đối với một khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng quy định tổng dư nợ cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó và giao cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có với tài sản có. Vì vậy, vốn chủ sở hữu của ngân hàng quyết định khối lượng tín dụng tối đa cho một doanh nghiệp, quyết định khả năng huy động vốn tối đa của ngân hàng. Vì vậy, mở rộng nguồn vốn và vốn chủ sở hữu của ngân hàng là tiền đề để mở rộng hoạt động cho vay. d/ Năng lực thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư. Năng lực thẩm định tín dụng trước khi cho vay là yếu tố quyết định đảm bảo chất lượng tín dụng do giảm trừ “Lựa chọn đối nghịch”. Trong thời gian vừa qua, trình độ thẩm định dự án về phương diện tài chính tại các NHTM Việt Nam đã được nâng cao nhưng trình độ thẩm định về phương diện kỹ thuật vẫn còn hạn chế, đặc biệt các dự án lớn, có công nghệ tiên tiến, phức tạp. Thẩm định kỹ thuật hiện nay chủ yếu dựa vào ý kiến của khách hàng và sự hiểu biết ít ỏi của cán bộ thẩm định, chưa có bộ phận chuyên trách. Nếu ngân hàng muốn có những ý kiến hoặc sự tư vấn từ những cơ quan trung gian chuyên sâu thì cũng chưa có công ty tư vấn đủ trình độ để cung cấp dịch vụ. Do hạn chế này nên đã ảnh hưởng đến quyết định vay vốn ngân hàng, nhất là đối với thẩm định các dự án lớn của các TCT . e/ Năng lực giám sát và xử lý tín dụng Trong điều kiện tiềm ẩn rủi ro tín dụng vẫn còn lớn, đặc biệt trong tín dụng đầu tư phát triển, chất lượng công tác thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp còn hạn chế thì công tác giám sát tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng như ban đầu dự toán. Theo dõi sát sao và quản lý chặt chẽ việc sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Thêm vào đó, ngân hàng sẽ sử dụng biện pháp đảm bảo tiền vay để hỗ trợ hạn chế tình trạng xảy ra rủi ro đạo đức trong quan hệ tín dụng. Cụ thể như việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản bên thứ ba. Đây là hình thức áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Khi phát hiện dấu hiệu khó khăn trong việc trả nợ, ngân hàng phải kịp thời đưa ra các giải pháp tháo gỡ để hai bên cùng bàn bạc, xử lý nhanh chóng, hạn chế việc kéo dài gây tổn thất cho cả ngân hàng và khách hàng. Nâng cao năng lực giám sát và xử lý tín dụng chính là biện pháp nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động cho vay. 4.3. Sự tác động của môi trường kinh tế – xã hội: a/ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào doanh nghiệp: Môi trường kinh tế xã hội - là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế xã hội - tác động lên hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế xã hội có tác động đến hoạt động đầu tư, khát vọng đầu tư, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của doanh nghiệp, tác động vào ngân hàng và tác động vào mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Việc mở rộng hoạt động cho vay còn lệ thuộc vào quan hệ giữa chi phí sử dụng vốn và chi phí tiền lương trong thực hiện sản xuất kinh doanh. Sự gia tăng trong tiền lương có thể làm cho doanh nghiệp thay thế người lao động bằng sử dụng máy móc, hoặc sự ra tăng chi phí sử dụng vốn có thể làm cho doanh nghiệp từ bỏ máy móc tinh vi để chuyển sang nhiều lao động hơn. Doanh nghiệp tìm thấy ở môi trường kinh tế xã hội các vấn đề sau: - Khả năng tìm kiếm bạn hàng và đối thủ cạnh tranh, các phương thức cạnh tranh, khả năng nâng cao sức cạnh tranh. - Khả năng đáp ứng nhu cầu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Khả năng tìm kiếm đầu ra của sản xuất kinh doanh và thu hồi vốn. - Khả năng tìm kiếm công nghệ mới, thay đổi công nghệ sản xuất. - Thông tin và thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp. b/ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào ngân hàng: - Thông tin phục vụ cho việc thẩm định tín dụng, trong đó có việc xác định giá trị doanh nghiệp, tài sản của doanh nghiệp và tài sản là đảm bảo tiền vay. Khả năng giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh. - Khả năng xử lý tài sản làm đảm bảo cho nợ vay và khả năng thu hồi vốn, khả năng rủi ro và khả năng thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro trong đầu tư tín dụng. Trong tín dụng, môi trường kinh tế xã hội tác động vào khát vọng đầu tư của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho doanh nghiệp trong đáp ứng nhu cầu của đầu tư, của vay vốn. Môi trường kinh tế xã hội tác động vào tính chất cân xứng của thông tin trong quan hệ tín dụng, tác động vào tính chất rủi ro của đầu tư. 4.4. Sự tác động của môi trường pháp lý. - Môi trường pháp lý tác động vào năng lực pháp luật của doanh nghiệp và của NHTM. Năng lực pháp luật kinh tế của doanh nghiệp là khả năng hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp trong mối quan hệ kinh tế. Năng lực pháp luật về kinh tế và dân sự của doanh nghiệp được Nhà nước quy định cho từng chủ thể kinh tế. - Năng lực pháp luật kinh tế được ghi trong các văn bản pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong kinh doanh, đầu tư như Luật Doanh nghiệp, điều lệ của doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, năng lực pháp luật thể hiện ở quyền vay vốn, nghĩa vụ trả nợ, quyền thế chấp tài sản… - Trong thực tế, năng lực pháp luật kinh tế, dân sự chịu tác động của nhiều yếu tố trong đó đặc biệt chịu tác động của các yếu tố quản lý hành chính để đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện thực hiện năng lực pháp luật kinh tế, dân sự. Trên thực tế, đó là hệ thống các thủ tục, giấy tờ và các quy trình làm việc của quản lý Nhà nước trong việc xác định quyền sở hữu tài sản, quyền mua bán, quyền được đem tài sản thế chấp, quyền xử lý tài sản để trả nợ khi vay vốn, các quyền gắn liền với các thủ tục hành chính, giấy tờ pháp lý. Các thủ tục giấy tờ pháp lý, quy trình làm việc phức tạp, không thuận lợi sẽ làm ngăn cản việc thực hiện năng lực pháp luật kinh tế, dân sự doanh nghiệp trên thực tế và điều đó làm giảm khả năng mở rộng hoạt động cho vay. - Môi trường pháp lý tác động vào quan hệ kinh tế và quan hệ vay vốn thông qua phương thức xử lý tranh chấp pháp luật. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, việc xảy ra các tranh chấp kinh tế là điều dễ hiểu, cơ chế xử lý Nhà nước không xác định rõ ràng phạm vi, đối tượng xử lý dễ làm cho việc áp dụng phương thức xử lý tranh chấp không phù hợp với bản chất của mối quan hệ pháp luật và làm nhụt ý chí kinh doanh, ý chí đầu tư của doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, việc môi trường pháp luật xác định đúng bản chất quan hệ vay vốn trong trường hợp cụ thể là quan hệ dân sự thông thường, quan hệ kinh tế, quan hệ thương mại, quy định rõ từng phương thức xử lý trong từng trường hợp cụ thể là những vấn đề có tác động rất lớn vào việc mở rộng hoạt động cho vay. 4.5. Tính cạnh tranh trong môi trường hoạt động của ngân hàng: Đối với hoạt động cho vay, cạnh tranh diễn ra trên hai giác độ, đó là giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với các nguồn thay thế đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Để tăng dư nợ trong điều kiện phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác là điều không đơn giản, ngược lại họ rất dễ bị mất khách hàng do các biện pháp lôi kéo của các đối thủ. Với chính ngân hàng để mở rộng cho vay, họ phải cung cấp các điều kiện vay vốn hấp dẫn để không những giữ vững khách hàng hiện có mà còn lôi kéo các khách hàng mới. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có thể vay từ ngân hàng, từ phát hành chứng khoán... Do vậy mà một nước có thị trường chứng khoán phát triển cao, vai trò đáp ứng vốn của ngân hàng với các khách hàng Công ty giảm đi. Tóm lại, hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của Ngân hàng thương mại với những nội dung cơ bản đã phần nào nói lên được tầm quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc gia, và qua việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay, ta thấy tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện pháp lý mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước. Vấn đề cần thiết là phải nắm vững những nhân tố ảnh hưởng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì sẽ nâng cao chất lượng và mở rộng được hoạt động cho vay vốn các Tổng Công ty Nhà nước của Ngân hàng thương mại. Chương II Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương việt nam I - Khái quát về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. 1. Sự ra đời và phát triển của Sở giao dịch (SGD): 1.1. Sự ra đời của Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương: Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập ngày 01/4/1995 theo Quyết định số 83/NHCT - QĐ từ bộ phận kinh doanh tại Hội sở chính Ngân hàng Công thương vốn được hoạt động theo Quyết định số 93/NHCT - TCCB ngày 24/3/1993. Sở giao dịch là một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của Ngân hàng Công thương, có trụ sở đóng tại số 10 - Lê Lai - Hà Nội. Sở giao dịch là đại diện uỷ quyền của Ngân hàng Công thương; có quyền tự chủ kinh doanh theo sự phân cấp của Ngân hàng Công thương, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Ngân hàng Công thương; có con dấu riêng và được mở tài khoản tại NHNN Việt Nam. Ra đời từ bộ phận kinh doanh tại Hội sở chính Ngân hàng Công thương, song trong thời kỳ 1995 - 1998, Sở giao dịch vẫn chưa thực sự là một chi nhánh, bởi ngoài việc thực hiện các chức năng kinh doanh, nó còn làm đầu mối thanh toán cho các chi nhánh Ngân hàng Công thương ở miền Bắc cũng như một số nhiệm vụ của một hội sở, như việc chỉ đạo và tổ chức hạch toán tổng hợp phản ánh toàn bộ các chi nhánh trên địa bàn Hà Nội và toàn hệ thống để ban lãnh đạo ngân hàng Công thương điều hành hoạt động của hệ thống. Nhưng bắt đầu từ ngày 01/1/1999, đầu mối thanh toán được chuyển về Hội sở Ngân hàng Công thương. Sở giao dịch bắt đầu từ lúc này hoạt động như một chi nhánh, song là một chi nhánh đặc biệt, bởi quy mô hoạt động cũng như vai trò của nó trên địa bàn: Sở giao dịch vẫn làm đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tệ theo uỷ quyền của Ngân hàng Công thương. 1.2. Về cơ cấu tổ chức, điều hành và các hoạt động cơ bản của Sở giao dịch. Sở giao dịch được điều hành bởi một Ban Giám đốc gồm có Giám đốc là Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương trực tiếp đảm nhiệm; giúp việc giám đốc là hai Phó giám đốc. Sở giao dịch gồm có 255 cán bộ nhân viên làm việc trong 9 phòng ban chuyên trách: Phòng nguồn vốn và cân đối tổng hợp: với 25 cán bộ trong đó có một trưởng phòng và hai phó phòng phụ trách hai mảng công việc là nguồn vốn và cân đối tổng hợp như trên của phòng. Phòng có chức năng làm tham mưu cho Ban giám đốc Sở giao dịch lập các kế hoạch kinh doanh, đồng thời trực tiếp thực hiện các hoạt động huy động vốn. Như vậy, phòng thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu: + Cân đối tổng hợp nguồn vốn kinh doanh, lập các báo cáo. + Huy động vốn dước các hình thức khác nhau: tiền gửi dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế bằng cả nội và ngoại tê. Phòng kinh doanh: với 35 cán bộ, trong đó có một trưởng phòng và hai phó phòng có chức năng tham mưu cho ban lãnh đạo Sở giao dịch về các hoạt động kinh doanh, đồng thời tiến hành các nghiệp vụ bên tài sản như cho vay các TCKT và dân cư, bảo lãnh... Đối với các khách hàng là các TCKT, phòng được chia ra thành các bộ phận phụ trách. Hai phòng này được tách riêng ra từ phòng kinh doanh trước đây (từ ngày 01/4/1999). Phòng kế toán: với 57 cán bộ trong đó có một trưởng phòng và ba phó phòng, trưởng phòng điều hành công việc của phòng thông qua các phó phòng. Phòng kế toán có chức năng theo dõi, hạch toán (bằng VNĐ) tất cả các hoạt động của Sở giao dịch. Phòng có 5 tổ công tác, mỗi tổ có từ 5 đến 15 cán bộ do một tổ trưởng phụ trách: Tổ thanh toán viên: tiếp nhận tất cả các chứng từ của khách hàng, xử lý theo yêu cầu của khách hàng như hạch toán, tính phí dịch vụ lãi... Sau khi thực hiện xong công việc của mình, các thanh toán viên sẽ giao toàn bộ chứng từ qua bộ phận kiểm soát để kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ. Tổ thanh toán liên hàng: có nhiệm vụ biến các chứng từ giấy thành chứng từ điện tử (nhập vào máy tính) sau đó các chứng từ này sẽ được kiểm tra phát hiện sai sót trước khi được truyền tới trung tâm thanh toán Ngân hàng Công thương. Đến 15h30’ hàng ngày, Sở giao dịch cũng như các chi nhánh khác trong hệ thống Ngân hàng Công thương không được truyền dữ liệu nữa và tại trung tâm thanh toán, việc đối chiếu cho tất cả 93 chi nhánh sẽ được thực hiện. Tổ thanh toán bù trừ: thực hiện thanh toán bù trừ với các chi nhánh khác cùng hệ thống. Việc thanh toán được thực hiện tại trung tâm thanh toán bù trừ thuộc NHNN Hà Nội. Tổ tiết kiệm: đảm nhiệm hơn 50% tiền gửi của khách hàng. Tổ này có trách nhiệm quản lý số lượng thẻ và tiền lớn. Tổ gồm hai nhóm, nhóm trực tiếp thu tiền gửi và trả lãi, một nhóm kiểm tra toàn bộ lại quỹ. Tổ kế toán nội bộ: theo dõi quản lý tất cả các tài sản của đơn vị chi lương cho nhân viên; hạch toán trích BHXH, nộp thuế; lập cân đối. Phòng kinh doanh đối ngoại: với 14 cán bộ, trong đó có một trưởng phòng và hai phó phòng, phòng thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yếu: + Kinh doanh ngoại tệ: mua - bán các ngoại tệ chủ yếu đáp ứng các nhu cầu hợp lý của khách hàng theo các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối. + Làm các dịch vụ trong thanh toán quốc tế như mở và tiếp nhận L/C, nhờ thu (đi và đến), thanh toán thẻ (visa card, mastercard). + Hạch toán bằng ngoại tệ. Ngoài ra phòng còn làm chức năng đầu mối thanh toán ngoại tệ (theo uỷ quyền của NHCT) cho các chi nhánh NHCT phía Bắc. Phòng ngân quỹ: thực hiện chức năng thu chi tiền mặt, ngân phiếu thanh toán; bảo quản tiền mặt và các ấn chỉ (như thẻ trắng), các chứng từ có giá; phân phối các ấn chỉ do các chi nhánh NHCT phía Bắc. Phòng kiểm soát: thực hiện các nhiệm vụ sau: + Kiểm soát lại tất cả các hồ sơ, chứng từ về tiết kiệm, tín dụng, kế toán và thanh toán quốc tế để đảm bảo tính chính xác đầy đủ tính hợp pháp của hoạt động ngân hàng. + Làm tham mưu cho ban lãnh đạo Sở giao dịch, giúp ban lãnh đạo kịp thời uốn nắn sai phạm của các phòng ban. + Làm đầu mối tiếp các đoàn thanh tra, kiểm tra của NHNN và Ngân hàng Công thương đến Sở giao dịch. Phòng điện toán: có nhiệm vụ quản lý chương trình mạng, in các bảng biểu về thu trả lãi... và các công việc liên quan. Phòng tổ chức cán bộ và tiền lương: thực hiện chức năng về quản lý con người, tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc đề bạt, phân công cán bộ phù hợp với năng lực sở trường từng người; quản lý tiền lương, thưởng, BHXH ... Phòng hành chính - quản trị: thực hiện các công việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của SGD như công tác an ninh, phục vụ, y tế... Ngoài ra, Sở giao dịch còn có một Cửa hàng kinh doanh vàng bạc đồng thời cũng thực hiện cho vay cầm cố, thu đổi ngoại tệ. 1.3. Các đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới hoạt động của Sở giao dịch nói chung, hoạt động cho vay nói riêng: Thủ đô Hà Nội, nơi SGD đóng trụ sở cũng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. ở đây dân cư có mức thu nhập, dân trí cao hơn hẳn các vùng lân cận, đồng thời người dân có một “lối sống thành thị”, có tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của SGD. Họ thường xuyên tới các ngân hàng để được phục vụ bằng nhiều loại dịch vụ, họ hay gửi tiền tiết kiệm, trong đó có phần đáng kể bằng ngoại tệ. Hoạt động kinh tế diễn ra tương đối sôi nổi tuy chưa mạnh mẽ bằng thành phố Hồ Chí Minh nhưng đã tạo ra nhu cầu vốn vay ngân hàng tương đối lớn. Tuy nhiên, SGD không chỉ phục vụ trên địa bàn, mà nó còn vươn ra nhiều địa phương khác. Nói riêng thì tất cả các TCT 91 và nhiều Tổng Công ty 90 có trụ sở tại Hà Nội, tạo thuận lợi lớn cho SGD trong quan hệ với các Tổng Công ty này. Tuy nhiên, với một địa bàn hẹp, sự có mặt của xấp xỉ 70 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lớn đối với SGD. Mặt khác, gần đây hoạt động sản xuất kinh doanh của các TCKT Hà Nội cũng như cả nước có phần chững lại, hiệu quả kinh doanh suy giảm gây khó khăn không ít tới hoạt động của SGD, nhất là hoạt động cho vay. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam những năm qua: ý thức được vai trò của mình, trong thời gian qua SGD đã tập trung vào cải thiện chất lượng các hoạt động nghiệp vụ, phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng với phương châm “ổn định, an toàn, hiệu quả, phát triển”, góp phần xứng đáng hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn hệ thống NHCT. Tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn đạt và vượt mức kế hoạch (10 - 20%), quy mô huy động và tín dụng không ngừng được mở rộng; các dịch vụ SGD cung cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời góp phần khẳng định vị trí của SGD trên địa bàn. Kết quả cụ thể được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: 2.1. Huy động vốn: Có thể khẳng định đây là mặt mạnh nhất của SGD cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối khi so sánh với các ngân hàng trên địa bàn. Với nhiều hình thức huy động, SGD đã triệt để khai thác các nguồn vốn khác nhau từ những khoản tiết kiệm nhỏ của dân cư cho tới những khoản tiền gửi thanh toán rất lớn của các TCT. Tỷ trọng nguồn vốn huy động của SGD thường chiếm từ 16 - 20% tổng nguồn huy động của hệ thống NHCT, và từ 25 - 30% tổng nguồn huy động của các NHTM trên địa bàn. Kết quả huy động vốn thể hiện trên Bảng 1: Bảng 1: Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch (1999 – 2001) Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Tăng giảm % Số tiền Tỷ trọng % Tăng giảm % Tổng nguồn vốn huy động Trong đó: 7.779.000 100 9.262.841 100 19,1 11.587.595 100 25,1 I. Phân loại theo đối tượng 1. Tiền gửi DN 4.979.311 64,0 6.256.381 67,5 25,6 8.113.431 70,0 29,7 3. Tiền gửi dân cư 2.563.646 33,0 2.976.769 32,1 16,1 3.409.334 29,4 14,5 4. Tiền gửi khác 236.043 3,0 29.691 0,3 -87,4 64.849 0,6 118,4 II. Phân loại theo tiền gửi a. VNĐ 6.001.264 77,1 6.943.299 75,0 15,7 8.940.561 77,2 28,8 b. Ngoại tệ (quy đổi) 1.777.736 22,9 2.319.542 25,0 30,5 2.646.944 22,8 14,1 III. Phân theo kỳ hạn 1. Không có kỳ hạn 4.165.478 53,5 5.236.811 56,5 25,7 6.902.827 59,6 31,8 2. Có kỳ hạn 3.613.522 46,5 4.026.030 43,5 11,4 4.684.768 40,4 16,4 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 1999 – 2001 Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nguồn vốn huy động của SGD tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động năm 2000 đạt 19,1% thì đến năm 2001 đạt tốc độ tăng trưởng đạt 25%, với tổng số vốn huy động được là 11.588 (về số tuyệt đối là tăng hơn 250 tỷ đồng so với năm 2000), trong đó nguồn vốn VNĐ có tốc độ tăng nhanh hơn nguồn vốn ngoại tệ. Lãi suất VNĐ tuy không biến động nhiều trong năm 2001 nhưng thị trường tiền tệ có những thời điểm rất căng thẳng vì sự thiếu hụt VNĐ như vào trung tuần tháng 7 và những ngày cuối năm 2001, do nhu cầu đầu tư tín dụng bằng VNĐ tăng và do một số nguyên nhân có tính vĩ mô khác. Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn bằng VND của SGD vẫn tăng với tốc độ cao (29% năm 2001), bảo đảm đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và thanh toán cho SGD. Một điểm nổi bật ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động huy động vốn bằng USD của SGD trong năm 2001 là cùng một thời điểm nhiều ngân hàng lớn trong nước đã 11 lần cắt giảm lãi suất đồng USD vốn là đồng tiền chủ yếu trong hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam. Lãi suất huy động tiết kiệm bình quân USD thời điểm cuối năm 2001 chỉ còn bằng 27% so với thời điểm đầu năm. Tỷ trọng nguồn vốn huy động bằng USD tại SGD giảm so với năm 2000, tuy vậy mức độ tăng trưởng huy động USD vẫn đạt được ở mức 14%. Tới 31/6/2002 vốn USD huy động được quy đổi ra VNĐ là 1.643 tỷ đồng 1. 1 : Báo cáo hoạt động kinh doanh Quý I, II/2002 của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam Trong tổng nguồn huy động, thì tiền gửi của các TCKT luôn là nguồn lớn nhất, chiếm khoảng từ 60 - 70% góp phần làm giảm lãi suất đầu ra cho SGD. Hơn nữa, tỷ trọng nguồn này đang có xu hướng tăng dần, lên tới 70% tính đến ngày 31/12/2001. Nguồn tiền tiết kiệm đứng thứ hai và đang có xu hướng giảm đi với các loại kỳ hạn 3, 6, 9 và 12 tháng, nguồn này có chi phí cao hơn tiền gửi các TCKT, song lại ổn định hơn nhiều. Các nguồn vốn trung, dài hạn hiện nay tại SGD chủ yếu là vốn tài trợ theo uỷ thác đầu tư, hoặc dưới dạng tiền phát hành kỳ phiếu. Nguồn từ phát hành kỳ phiếu cùng được để đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết tại chỗ. Nguồn huy động lớn, tăng trưởng ổn định là một điều kiện rất căn bản để SGD có thể kinh doanh chủ động, mở rộng cho vay tới các thành phần kinh tế, đồng thời điều chuyển một lượng vốn đáng kể về Hội sở NHCT để điều chuyển lại cho các chi nhánh thiếu vốn như Sở giao dịch II - Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm ngày 31/3/1999, Sở giao dịch đã điều chuyển về Hội sở 3.989 tỷ VNĐ (gồm cả ngoại tệ quy đổi). Bối cảnh thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay là: Sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam cùng với sự thành lập các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và các định chế tài chính phi tín dụng như quỹ bảo hiểm, công ty tài chính trực thuộc các TCT lớn đã làm cho các dòng tiền nhàn rỗi từ dân cư và doanh nghiệp không còn tập trung chảy vào các NHTM như những năm trước đây nữa. Do đó, việc giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định nguồn vốn huy động, đồng thời thu hút được lượng ngoại tệ dồi dào từ các nhà xuất khẩu trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường mua bán ngoại tệ đã minh chứng cho những nỗ lực của SGD trong thời gian qua. 2.2. Tình hình sử dụng vốn. Nguồn vốn huy động được ngoài sử dụng để lập quỹ bảo đảm thanh toán (khoảng 4,5%), điều chuyển về Trung ương (khoảng 75%), SGD tiến hành cho vay nền kinh tế. Tình hình cho vay được thể hiện ở Bảng 2. Một điều đáng chú ý là cho vay trung dài hạn từ chỗ chiếm vị trí thứ yếu với 21,5% vào 1997 thì tới cuối năm 1998 chiếm 57% và tiếp tục tăng nhanh, cao nhất là vào năm 2000 chiếm tới 71,5%. Đây là một con số rất cao so với các chi nhánh NHCT khác trên địa bàn tuy vào năm 2001 con số này giảm xuống còn 68,3%. Nói chung diễn biến cho vay như trên là đúng định hướng của SGD. Vì SGD là một chi nhánh hạch toán phụ thuộc của NHCT, nên vấn đề thanh toán của nó đặt ra chưa thực sự cấp thiết bằng một NHTM, một mặt với tỷ lệ cho phép sử dụng 20% nguồn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn của NHNN, SGD đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu vay trung, dài hạn hiện tại. Bảng 2 : Tình hình cho vay của Sở giao dịch (1999 – 2001) Đơn vị : Triệu VNĐ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Tăng giảm % Số tiền Tỷ trọng % Tăng giảm % Tổng dư nợ cho vay 1.107.607 100 1.246.561 100 12,5 1.497.004 100 20,1 1. Phân theo thời hạn: Ngắn hạn 347.966 31,4 355.207 28,5 2,1 475.010 31,7 33,7 Trung, dài hạn 759.641 68,6 891.354 71,5 17,3 1.021.994 68,3 14,7 2. Phân theo TPKT Quốc doanh 983.323 88,8 1.140.518 91,5 16 1.355.224 90,5 18,8 Ngoài quốc doanh 124.284 11,2 106.043 8,5 -14,7 141.780 9,5 33,7 3. Phân theo ngành SXKD Công nghiệp 83.065 7,5 69.769 5,6 -16 83.663 5,6 19,9 Xây dựng 3.834 0,3 6.637 0,5 73,1 7.540 0,5 13,6 GTVT - Bưu điện 737.591 66,6 812.634 65,2 10,2 952.076 63,6 17,2 Thương nghiệp vật tư 230.846 20,8 338.586 27,2 46,7 420.741 28,1 24,3 Ngành khác 52.508 4,7 18.698 1,5 -64,4 32.934 2,2 76,1 4. Chất lượng tín dụng * Dư nợ trong hạn 1.034.643 93,4 1.185.715 95,1 14,6 1.438.867 96,1 21,4 * Dư nợ quá hạn, trong đó 72.964 6,6 60.846 4,9 -16,6 58.137 3,9 -4,5 - Quốc doanh 59.406 5,4 47.637 3,8 -19,8 45.294 3 -4,9 - Ngoài quốc doanh 13.594 1,2 13.209 1,1 -2,8 12.843 0,9 -2,8 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 1999 – 2001 Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Năm 2001, thoát ra khỏi tình trạnh cầu tín dụng quá thấp như năm trước, quy mô tín dụng của SGD tăng trưởng khả quan, đồng thời được nâng cao về chất lượng đầu tư. Ngoài các khách hàng truyền thống trong các lĩnh vực sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ, SGD đã mở rộng đối tượng khách hàng và các loại hình cho vay như cho vay các chương trình phát triển nông thôn, cho vay tiêu dùng… Do đó tỷ trọng vốn vay của các DNNN có giảm nhẹ từ 91,5% năm 2000 xuống còn 90,5% năm 2001. Điều này cũng giải thích tại sao tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn năm 2001 giảm so với năm 2000. Nhóm khách hàng vay vốn lớn nhất của SGD thuộc hai ngành Giao thông vận tải và Bưu điện, hiện nay chiếm hơn 60% số vốn vay, trong số đó cần phải kể đến Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và một số đơn vị thành viên của nó. Tiếp đến là nhóm khách hàng thuộc ngành thương nghiệp vật tư. Đây là hai nhóm khách hàng truyền thống và đầy tiềm năng của SGD, có số vốn vay chiếm tỷ trọng hơn 90% vào năm 2001. Nhìn chung, dư nợ đối với khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên. Điều này đã thể hiện một sự tập trung nhất định, ngày 31/12/2001 chỉ 40% khách hàng là DNNN đã chiếm 90,5% tổng dư nợ. Mặt khác, trong đối tượng khách hàng này thì hiện nay các Tổng Công ty ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Về nợ quá hạn: Một dấu hiệu đáng mừng là trong những năm qua, nợ quá hạn của SGD giảm mạnh về cả số tuyệt đối lẫn tỷ trọng trên tổng dư nợ. Đặc biệt là năm 2001 nợ quá hạn giảm với tốc độ –16,6%. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 1999 là 6,6%, năm 2000 là 4,9% và đến năm 2001 tỷ lệ nợ quá hạn của SGD chỉ còn 3,9%. Thực hiện tiến trình cơ cấu lại nợ, SGD luôn tích cực chủ động trong công tác khai thác tài sản xiết nợ để giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn. Được sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc ra các văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý nợ, năm 2001 SGD đã thu hồi được số nợ tồn đọng gấp hơn 4 lần so với năm 2000. Đây là một thực tế đáng ghi nhận về hoạt động tín dụng của SGD trong năm 2001. Về hiệu quả của hoạt động cho vay, ta có bảng chỉ tiêu sau: Bảng 3 - Hiệu quả hoạt động cho vay của Sở giao dịch. Đơn vị: triệu VNĐ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1. Tổng doanh số cho vay 1.568.638 1.948.134 2.456.126 2. Tổng doanh số thu nợ 1.360.993 1.809.180 2.217.586 3. Dư nợ bình quân 1.016.256 1.253.561 1.323.924 4. Vòng quay vốn tín dụng 1,3 1,4 1.7 5. Lãi thu từ cho vay 54.085 67.184 95.245 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động cho vay Sở giao dịch Như vậy ta thấy có xu hướng vòng quay vốn tín dụng tăng lên qua các năm, tổng doanh số cho vay tăng nhanh. Vòng quay vốn tín dụng tăng do tỷ trọng cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ của SGD ngày càng tăng. Một cách tổng quát chúng ta thấy tổng dư nợ cho vay tăng trưởng đều đặn, đạt mức gần 1.497 tỷ đồng vào 31/12/2001, tới 31/6/2002 đã đạt 1.375 tỷ. Tóm lại, trong thời gian qua SGD đã đạt nhiều thành tích trong hoạt động kinh doanh, hàng năm thu hút được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế để SGD cũng như hệ thống Ngân hàng Công thương mở rộng cho vay lại tới nền kinh tế. Dư nợ tăng trưởng tương đối đều đặn, nhưng quy mô còn chưa tương xứng với tiềm năng của Sở giao dịch. Sở giao dịch cũng đang quá trình cơ cấu lại các món vay, trong đó tập trung cho vay các Tổng Công ty. Những mặt khó khăn, hạn chế đang đặt ra yêu cầu Sở giao dịch tiếp tục hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động cho cả khách hàng và Sở giao dịch. II - Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công ty nhà nước tại Sở giao dịch I – NHCTVN. 1. Phân cấp quản lý tín dụng: Việc quản lý tín dụng được tiến hành trên cơ sở hạn mức cho vay, lãi suất cho vay, vòng quay vốn tín dụng, phân loại khách hàng theo tiêu chuẩn A-B-C để có căn cứ xử lý dư nợ và giải quyết cho vay. Việc phân cấp quản lý tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam được thực hiện như sau: Căn cứ vào các điều kiện cụ thể về nguồn vốn, năng lực điều hành, mức độ an toàn trong kinh doanh của từng thời kỳ, Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh giải quyết cho vay tuỳ đặc điểm của từng chi nhánh mà mức độ khác nhau. Tiêu chuẩn phân loại chi nhánh để xác định mức uỷ quyền phụ thuộc vào 3 yếu tố: Năng lực, trình độ quản lý. Chất lượng, hiệu quả tín dụng. Quy mô hoạt động. Trường hợp vượt phạm vi của Tổng Giám đốc uỷ quyền, Giám đốc Sở giao dịch phải trình Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong nội dung Tổng Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc chi nhánh, mức phán quyết đối với Tổng Công ty Nhà nước và đơn vị thành viên của Tổng Công ty Nhà nước cao hơn những loại hình khách hàng khác. Như vậy, SGD sẽ chủ động, linh hoạt hơn trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với Tổng Công ty Nhà nước. 2. Chính sách khách hàng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đối với Tổng Công ty Nhà nước hiện nay. Nội dung cơ bản về chính sách khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng là: - Tiêu chuẩn khách hàng chiến lược: + Đối tượng khách hàng: Là các Tổng Công ty Nhà nước thành lập theo QĐ 90, 91, các doanh nghiệp Nhà nước của Bộ và tỉnh, thành phố quản lý; công ty, xí nghiệp liên doanh giữa doanh nghiệp Nhà nước với nước ngoài hoặc công ty 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh doanh có hiệu quả; các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước có đủ các điều kiện: đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng hiện hành có uy tín với NHCTVN trong quan hệ tín dụng, không có nợ quá hạn khó đòi, không có treo; thực trạng tài chính vững mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. + Đối tượng ngành hàng cho vay, đầu tư: Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, xuất khẩu, bưu chính viễn thông, xây lắp dân dụng, công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, dầu khí, điện lực, sản xuất, kinh doanh dịch vụ đô thị ít bị cạnh tranh hoặc ít có tính độc quyền; giao thông vận tải, hàng không, đường sắt, sản xuất kinh doanh dược phẩm trung ương, các dự án cho vay, đầu tư theo chỉ đạo của Chính phủ và dự án cho vay có nguồn trả nợ chắc chắn từ ngân sách. Như vậy, thực chất của chính sách khách hàng chủ yếu là áp dụng với Tổng Công ty Nhà nước. - Các biện pháp để thực hiện chính sách khách hàng có đủ các tiêu chuẩn trên: + Cung cấp sản phẩm: đảm bảo cân đối và chủ động và nguồn vốn VNĐ, ngoại tệ, có các hình thức tín dụng, đầu tư, dịch vụ thích hợp, đáp ứng được các nhu cầu khách hàng một cách tối đa và hiệu quả. + Chất lượng phục vụ: phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, đảm bảo thực hiện tốt dịch vụ gửi tiền, rút tiền, thanh toán, chuyển tiền trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận lợi, có uy tín cao hơn các ngân hàng thương mại khác trong địa bàn. + Ưu đãi về lãi suất cho vay, tiền gửi, phí dịch vụ: Lãi suất cho vay mức ưu đãi giảm so với lãi suất bình thường. Lãi suất tiền gửi: mức ưu đãi tăng so với mức lãi suất bình thường. Mức phí dịch vụ: áp dụng mức phí ngang với các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cùng địa bàn. + Ưu đãi về điều kiện vay vốn: Ưu đãi điều kiện tối thiểu về vốn tự có tham gia vào dự án vay vốn trung, dài hạn như sau: Đối với dự án đầu ưu mới: 25% (mức bình thường là 30%) Đối với dự án cải tiến kỹ thuật – mở rộng sản xuất: 10 Ưu đãi về kỹ quý đối với các dự án vay vốn trung dài hạn khi mở L/C at sight nhập máy móc thiết bị mà giá trị L/C bằng 100% vốn vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam đã được duyệt cho vay trung, dài hạn, được miễn ký quỹ 5% theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam. + Ưu đãi đầu tư khác: NHCTVN áp dụng các hình thức ưu đãi cho vay và đầu tư khác đối với các doanh nghiệp theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. + Phương thức cho vay: Được áp dụng với phương thức tạo sự chủ động cho khách hàng. 3. Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch trong thời gian qua: 3.1. Kết quả thu được: Bảng 5: Số dư cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Dư nọ Tỷ trọng % Dư nợ Tỷ trọng % Tăng giảm % Dư nợ Tỷ trọng % Tăng giảm % Dư nợ Tỷ trọng % Tăng giảm % Các TCT+thành viên 506.209 100 679.873 100 34,3 867.212 100 27,6 1.042.124 100 20,2 Trong đó: - Ngắn hạn 118.351 23,4 128.037 18,8 8,2 87.109 10 -31,97 134.592 12,9 54,5 - TDH 387.858 76,6 557.836 82,2 43,8 780.103 90 39,84 907.532 87,1 16,3 TCT 91+ thành viên 393.338 77,7 558.652 82,2 42 782.564 90,2 40,08 917.521 88 17,2 Trong đó: - Ngắn hạn 6.283 1,6 7.510 1,3 19,5 4.543 0,6 -39,51 11.180 1,2 146,1 - TDH 387.055 98,4 551.142 98,7 42,4 778.021 99,4 41,17 906.341 98,8 16,5 TCT 90 112.871 22,3 121.221 17,8 7,4 84.648 9,8 -30,17 124.603 12 47,2 Trong đó: - Ngắn hạn 112.068 99,3 120.527 99,4 7,5 82.566 97,5 -31,50 123.412 99 49,5 - TDH 803 0,7 694 0,6 -13,57 2.082 2,5 200 1.191 0,1 -42,8 Nguồn: Báo cáo cho vay và bảo lãnh các Tổng Công ty Nhà nước – Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam Các số liệu cụ thể về dư nợ, tỷ trọng các loại cho vay đối với các Tổng Công ty thể hiện trong Bảng 5. So với thời gian trước khi nhiều Tổng Công ty mới ra đời và còn đang trong giai đoạn hoàn thiện tổ chức cũng như chế độ vay vốn ngân hàng của Tổng Công ty, thì 3 năm trở lại đây số dư nợ các TCT đã tăng đáng kể và dần đi vào ổn định. Trong giai đoạn trước, nhiều Tổng Công ty được vay vốn ưu đãi tại Ngân hàng Đầu tư phát triển, nhất là cho Đầu tư xây dựng cơ bản nên SGD không thu hút được nhiều khách hàng là các TCT. Nhưng hiện nay nguồn vốn ưu đãi này đầu tư qua Ngân hàng Đầu tư phát triển có xu hướng giảm đi, phần lớn thông qua Cục đầu tư phát triển (Bộ Tài chính), Ngân hàng Đầu tư phát triển cũng dần phải hoạt động theo hướng chung của các NHTM. Mặt khác các biện pháp thu hút khách hàng của SGD đã góp phần mở rộng cho vay các TCT, đưa dư nợ với đối tượng này tăng nhanh cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, từ 680 tỷ chiếm 61,4% (31/12/1999) đến 867 tỷ chiếm 69,6% (31/12/2000) và tới 31/3/2001 là 1.042 tỷ tương đương 70% tổng dư nợ. Theo dự đoán trong thời gian tới tỷ trọng này sẽ vẫn chiếm tỷ trọng cao. Toàn bộ dư nợ với các Tổng Công ty thuộc về 9 Tổng Công ty là các TCT 91 gồm Bưu chính - viễn thông, Tổng Công ty than, Tổng Công ty dệt may, Tổng Công ty hoá chất; các TCT 90 là Liên hiệp đường sắt Việt Nam, Tổng Công ty cơ khí giao thông vận tải, Tổng Công ty máy nông nghiệp và động lực, Tổng Công ty muối. Cùng với quá trình mở rộng cho vay các Tổng Công ty, thì quy mô cho vay đối với các TCT đặc biệt là TCT 91 ngày càng tăng. Tốc độ tăng dư nợ TCT trong 2 năm 1999, 2000 đều trên 40%. Đáng chú ý là tỷ trọng dư nợ TCT 91 năm 2000 lên tới 90,2%. Năm 2001, dư nợ nhóm TCT 91 là 918 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 88%. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2002 đã lên tới 871 tỷ đồng trong khi dư nợ TCT 90 chỉ đạt 150 tỷ. Điều này là do nhu cầu vốn để đầu tư tập trung của các TCT 91 lớn hơn nhiều so với các TCT 90. Biểu đồ 2 -Dư nợ đối với các TCT trong tổng dư nợ và dư nợ các DNNN Một nguyên nhân nữa làm cho quy mô cho vay các TCT 91 tăng nhanh là nhóm này hay được thực hiện các dự án theo chỉ định của Chính phủ, và việc cho vay với các dự án này rất an toàn. Đồng thời, giữa hai quy mô Tổng Công ty này, sức mạnh tài chính cũng như hiệu quả kinh doanh của nhóm TCT 91 cao hơn hẳn. Trong cho vay các TCT 91, dư nợ trung dài hạn chiếm tỷ trọng lớn, cụ thể là 98,7% (1999), 99,4% (2000), 98,8% (2000). Trong khi đó, các TCT 90 lại chủ yếu có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ sung cho vốn lưu động của các thành viên với 99% dư nợ TCT 90. Do vậy cùng với xu hướng tăng quy mô cho vay các TCT 91, dư nợ trung dài hạn nhìn chung tăng cả về khối lượng cũng như tỷ trọng trong tổng dư nợ. Các món cho vay lớn nhất với các Tổng Công ty đều thuộc về các TCT 91, và đều là các món cho vay trung dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn có xu hướng tăng: 76,6% năm1998, 82,2% năm 1999, 90% năm 2000, năm 2001 tăng 127 tỷ so với năm 2000 nhưng tỷ trọng giảm xuống 87.1%.Và sau 6 tháng đầu năm 2002 dự báo thống kê ước tính năm nay tỷ trọng cho vay trung dài hạn sẽ tăng 95% đạt mức cao nhất trong 5 năm gân đây.Đây là một thực tế phán án rõ nét mỗi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và Tổng Công ty trong thời gian gần đây. Các Tổng Công ty là nhóm khách hàng rất có uy tín với Sở giao dịch, họ vay trả rất sòng phẳng, thậm chí khi kinh doanh vẫn còn gặp thua lỗ (như Liên hiệp vận tải đường sắt KVI - thuộc liên hiệp đường sắt). Cho tới nay chưa có nợ quá hạn hay nợ khó đòi phát sinh với đối tượng này. Các khoản cho vay trung dài hạn hoàn trả dần của các Tổng Công ty có triển vọng tốt, các món cho vay ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán đều tỏ ra có khả năng thu hồi cao. Một số TCT có số dư nợ lớn là: Tổng Công ty Bưu chính viễn thông, Tổng Công ty Than, Tổng Công ty Dệt may, Tổng Công ty Giấy, Tổng Công ty Hóa chất, Tổng Công ty Thép, Tổng Công ty Xi măng… Đồng thời, một điều dễ nhận thấy là với số dư rất lớn, các Tổng Công ty đã đem lại phần lớn thu nhập hoạt động cho vay cho Sở giao dịch. Đây là những dấu hiệu tốt khuyến khích Sở giao dịch tiếp tục mở rộng cho vay với nhóm khách hàng này. Tất nhiên việc tập trung cho vay các Tổng Công ty có thể dần tới các khó khăn, đó là rủi ro “đặt nhiều trứng vào một giỏ”, hoặc về khả năng thanh khoán. Nhưng Sở giao dịch là một chi nhánh của ngân hàng Công thương, do vậy những khó khăn trên có thể được hỗ trợ từ Hội sở. Mặt khác, các Tổng Công ty không chịu áp lực vỡ nợ trực tiếp, bởi đó là những DNNN. Như vậy có thể thấy là chỉ trong thời gian ngắn, Sở giao dịch đã nâng quy mô cho vay các Tổng Công ty nên chiếm tỷ trọng lớn nhất, góp phần vào quá trình sàng lọc khách hàng, cơ cấu lại các khoản vay để đưa dư nợ vào vùng an toàn, góp phần nâng cao thu nhập cho Sở giao dịch cũng như thực hiện các định hướng lớn của Nhà nước. Để đạt được kết quả ấy, Sở giao dịch đã biết tận dụng các điều kiện khách quan, sự giúp đỡ của Ngân hàng Công thương, áp dụng một số biện pháp phù hợp. Mục sau đây sẽ đưa ra các hoạt động trong lĩnh vực cho vay các Tổng Công ty cũng như các biện pháp mà Sở giao dịch đã áp dụng để đạt được kết quả như trên. 3.2. Các biện pháp Sở giao dịch đã áp dụng nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước: Việc xem xét toàn bộ hoạt động cho vay các Tổng Công ty cũng như những kết quả Sở giao dịch đã đạt được cũng đã phần nào nên được các biện pháp cụ thể mà Sở giao dịch đã áp dụng để mở rộng cho vay nhóm khách hàng này và hoàn toàn có thể nói rằng những biện pháp ấy đã góp phần xứng đáng vào kết quả đạt được, bao gồm: - Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế nhất là các Tổng Công ty Nhà nước có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời để phát triển kinh doanh đảm bảo an toàn và hiệu quả trong thời qua, Sở giao dịch I - NHCTVN đã rất chú trọng tăng cường quan hệ tín dụng với Tổng Công ty Nhà nước. Sở giao dịch đã thực hiện các ưu đãi về lãi suất cho vay cũng như tiền gửi đối với các khách hàng lớn. Vào đầu năm 2002, Sở giao dịch đã thực hiện đợt giảm lãi suất cho vay trung dài hạn từ 1,15% tháng còn 1,05%, tăng 10% lãi suất tiền gửi thanh toán của các Tổng Công ty có số dư lớn, phí dịch vụ ngang với các ngân hàng thương mại cùng địa bàn và những ưu đãi về điều kiện vay vốn đối với vốn tự có và đặc biệt là ưu đãi về việc miễn ký quỹ 5% đối với các dự án vay vốn trung dài hạn khi mở L/C nhập máy móc thiết bị mà giá trị L/C bằng 100% vốn vay của Sở giao dịch đã được duyệt cho vay. Các ưu đãi trên được cán bộ tín dụng phổ biến công khai cho khách hàng. Lãi suất vay ngoại tệ trung dài hạn nhiều thời điểm Sở giao dịch áp dụng thấp hơn lãi suất vay nước ngoài. Bên cạnh các giải pháp ưu đãi lãi suất nói trên được chủ trương từ Ngân hàng Công thương Việt Nam, Sở giao dịch đã cải tiến phương pháp kinh doanh, đã tiếp cận, tổ chức họp trao đổi và ký biên bản hợp tác kinh doanh với các Tổng Công ty Nhà nước nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn, tăng cường quan hệ tín dụng; thực thi chính sách ưu đãi lãi suất tiền vay, tiền gửi, phí, tỷ lệ ký quỹ, điều kiện vay vốn… - Sở giao dịch đã coi trọng chất lượng tín dụng bằng việc nâng cao chất lượng thẩm định, tăng cường kiểm tra, giám sát vốn vay. - Sở giao dịch đã tích cực tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền sở tại trong hoạt động cho vay chính UBND thành phố Hà Nội cũng là nơi ký quyết định thành lập một số TCT 90. - Duy trì quan hệ truyền thống, chặt chẽ với Hội sở. Sở giao dịch đã phát huy những lợi thế do lịch sử để lại (mà trước đây, Sở giao dịch chính là bộ phận kinh doanh trong Hội sở chính ngân hàng Công thương Việt Nam), luôn duy trì quan hệ chặt chẽ với Trung ương, điều này còn được hỗ trợ bởi vị trí lớn của Sở giao dịch trong toàn hệ thống và lãnh đạo Sở giao dịch do một phó Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam trực tiếp đảm nhiệm. Việc phối hợp với Hội sở khi xét duyệt cho vay trên mức quy định hay phối hợp với các Chi nhánh khác cùng cho vay các doanh nghiệp thành viên trong một Tổng Công ty chặt chẽ hơn, nhanh chóng hơn. - Để đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển và đẩy mạnh sản xuất của các Tổng Công ty Nhà nước và cho nền kinh tế, Sở giao dịch đã nỗ lực phấn đấu huy động mọi nguồn vốn cả VNĐ và ngoại tệ, giải ngân kịp thời và đúng tiến độ. Thành tích huy động vốn của Sở giao dịch trên cũng đã thể hiện rõ hướng này. - Ngân hàng Công thương Việt Nam đã nâng mức uỷ quyền quyết định cho vay của Giám đốc chi nhánh đối với các TCT Nhà nước từ 30 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng. Từ đó tạo sự chủ động cho Sở giao dịch đáp ứng nhanh, kịp thời vốn cho các TCT thực hiện các dự án, phương án kinh doanh. Trong thời gian tới Sở giao dịch cần tiếp tục củng cố các biện pháp này, đồng thời nghiên cứu, áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công ty đi đôi với nâng cao hiệu quả cho vay. Đây là nội dung cơ bản chúng ta sẽ xem xét ở chương III. 4. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh những cố gắng của Sở giao dịch trong việc mở rộng hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước còn có rất nhiều tồn tại, hạn chế. Tổng số dư nợ ở các TCT Nhà nước tại Sở giao dịch tăng qua các năm (1999: 680 tỷ, 2000: 867 tỷ, 2001: 1.042 tỷ, 6 tháng đầu năm 2002: 625 tỷ) nhưng tốc độ tăng lại giảm dần (1999 là 34,3%, 2000: 27,6%, 2001: 20,2%). Các tồn tại chủ yếu là mức độ thâm nhập, phát triển thị trường tín dụng Tổng Công ty Nhà nước còn hạn chế: Thị phần còn thấp, khối lượng vốn vay của Sở giao dịch đầu tư cho Tổng Công ty Nhà nước tuy luôn tăng nhưng còn thấp so với nhu cầu vốn của các Tổng Công ty như đã phân tích ở phần trước. Trong 3 năm gần đây, số lượng vốn SGD cung cấp mới chỉ đáp ứng được hơn 80% nhu cầu vốn các TCT xin vay vốn tại SGD. Dư nợ tăng trưởng nhưng còn thiếu cân đối, cho vay trung dài hạn và cho vay ngoại tệ còn hạn chế. Nhiều Tổng Công ty phải vay vốn nước ngoài hoặc các ngân hàng có tiềm lực về ngoại tệ như Ngân hàng Ngoại thương. Nguyên nhân: a/ Môi trường kinh doanh chưa ổn định Các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điểu chỉnh. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện kế hoạch kinh doanh đã không theo kịp nên bị động, dự báo nhu cầu không sát dẫn đến phát triển tràn lan như: xi măng, thép, mía, đường, gốm sứ. Việc ban hành một chủ trương, chính sách kinh tế của Chính phủ do không dự đoán trước được những khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện nên tạo ra những rủi ro không dự đoán được, ví dụ như chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng; quy định về quản lý sử dụng đất đai… đã khiến không ít doanh nghiệp bị thua lỗ do không theo kịp chính sách quản lý kinh tế mà hậu quả là ngân hàng cho vay gánh chịu. Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng ngân hàng Ngân hàng hoạt động trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa không ổn định, đôi khi lại không rõ ràng hoặc có luật rồi mà không thực hiện được. Ví dụ như vấn đề xiết nợ, gán nợ, phát mại, cầm cố thế chấp, quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, đất đai đều cần có những quy định cụ thể ro ràng để khi gặp phải những trường hợp đó, ngân hàng có đầy đủ cơ sở pháp lý để thi hành. Mỗi một pháp lệnh hay nghị định ngân hàng ban hành đều phải có các văn bản dưới luật ban hành kèm theo để điều chỉnh làm cho những hoạt động tín dụng gặp phải không ít những khó khăn. Như nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 12/12/1999 về bảo lãnh, thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, sau đó lại có những thông tư hướng dẫn như Thông tư hướng dẫn 06-NHNN1 ngày 15/2/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị định 178. Hơn thế nữa điều kiện cho vay là phải có tài sản thế chấp, cầm cố trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu nên không cơ quan nào chịu cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch tài sản. Còn đối với các doanh nghiệp theo Nghị định 178 của Chính phủ và Thông tư 06 của NHNN thì là vẫn phải thế chấp, nhưng hiện nay văn bản đã có hiệu lực nhưng cục quản lý vốn vẫn chưa chịu xác nhận tài sản và cơ quan công chứng thì chưa có chủ trương do vẫn còn ách tắc không có cơ quan nhận đăng ký tài sản thế chấp. Không chỉ có vậy, một số chủ trương, chính sách của ngành ngân hàng lại luôn bị thay đổi thậm chí chỉ trong thời gian ngắn. Nhiều vấn đề thực tế xảy ra nhưng lại chưa được quy định, bổ sung kịp thời những quy định của Nhà nước, của Chính phủ hoặc đã được quy định nhưng Ngân hàng Nhà nước chậm hướng dẫn để ngân hàng thương mại thực hiện. Chính sách về ngân hàng chưa đủ sức bảo vệ các ngân hàng chống đỡ được với sóng gió c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc92. Mo rong hd cho vay cac tong cty NN tai so gdich 1.doc
Tài liệu liên quan