Đề tài Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ

Tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ: Mục lục lời mở đầu Chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta đã có sự thay đổi to lớn. Xuất khẩu trở thành một hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp chuyên về hoạt động xuất khẩu trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh trên thị trường ngày càng tăng lên nhanh chóng và kéo theo khối lượng, danh mục hàng hoá sản phẩm đưa vào tiêu thụ trên thị trường cũng tăng lên gấp bội. Do đó tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên khốc liệt hơn. trong điều kiện đó, ngành sản xuất và chế biến thực phẩm nói chung, Tổng công ty XNK rau quả Việt nam nói riêng hoạt động xuất khẩu sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Sau thời gian thực tập tại Tổng công ty XNK rau qu Việt nam, xuất phát từ tình hình thực...

doc82 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục lời mở đầu Chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta đã có sự thay đổi to lớn. Xuất khẩu trở thành một hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp chuyên về hoạt động xuất khẩu trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh trên thị trường ngày càng tăng lên nhanh chóng và kéo theo khối lượng, danh mục hàng hoá sản phẩm đưa vào tiêu thụ trên thị trường cũng tăng lên gấp bội. Do đó tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên khốc liệt hơn. trong điều kiện đó, ngành sản xuất và chế biến thực phẩm nói chung, Tổng công ty XNK rau quả Việt nam nói riêng hoạt động xuất khẩu sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Sau thời gian thực tập tại Tổng công ty XNK rau qu Việt nam, xuất phát từ tình hình thực tế hoạt động xuất khẩu của công ty, em lựa chọn đề tài “Một số giải pháp tăng cường xuất khẩu các mặt hàng rau quả Việt nam sang thị trường Mỹ của Tổng công ty XNK rau quả Việt nam “ làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Mục tiêu ngiên cứu của đề tài nhằm phân tích, so sánh giữa lý thuyết về hoạt động xuất khẩu em đã được học với thực tế hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty XNK rau quả Việt nam để rút ra những kinh nghiệm và đưa ra một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty để nghiên cứu và ứng dụng trong thực tế. Tổng công ty XNK rau quả Việt nam là một công ty lớn kinh doanh trên lĩnh vực rau quả. Do vậy phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu của công ty trên thị trường Mỹ Phương pháp nghiên cứu với đề tài này là phương pháp lí luận học kết hợp với nghiên cứu thực tế. Lí luận mang tính khái quát hệ thống và lô gích, còn thực tế thì phong phú đa dạng, phức tạp và có tính cụ thể về thời gian, địa điểm. Vì vậy phân tích thực tế để thấy được sự khái quát sâu sắc và củng cố lí luận đã học và từ đó ứng dụng lí luận vào trường hợp tình huống cụ thể. Hoạt động xuất khẩu tuy là một đề tài truyền thống và đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu song nó có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Nội dung chính của đề tài em trình bày gồm ba chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu Chương II: Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ. Chương III: phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ Để hoàn thành đề tài này em đã nỗ lực cố gắng học hỏi kinh nghiệm trong thực tế cùng với việc sử dụng kiến thức đã học. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho em trên giảng đường, sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của cô giao TS Nguyễn Thị Xuân Hương và các bác, các cô, các chú đang công tác tại Tổng công ty xuất nhập khẩu rau quả Việt nam. Chương I: lý luận chung về hoạt động xuất khẩu I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu. Bước vào thế kỷ 20, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật có những bước nhảy vọt làm thay đổi bộ mặt toàn thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy để có thể phát triển được trên lĩnh vực kinh tế khi mà trên thế giới xu thế hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ thì phải thực hiện chính sách kinh tế mở hay còn có thể nói là phải có ngoại thương. Việt Nam đang trên con đường phát triển và còn chậm hơn so với thế giới trong nhiều lĩnh vực. Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương là vô cùng cần thiết, vì khi thực hiện hoạt động ngoại thương thì cũng đồng thời đẩy mạnh hay góp phần đẩy mạnh các hoạt động khác, lĩnh vực khác. Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Nếu xét trên góc độ kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm của nước mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là: Thứ nhất: sử dụng khả năng vượt trội của công ty hay lợi thế của công ty với các đối thủ cạnh tranh khác. Thứ hai: giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. Thứ ba: nâng cao được lợi nhuận công ty. Thứ tư: giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. Khi một thị chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường còn ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực kinh doanh quốc tế chưa đủ để thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu thường được lựa chọn. Bởi vì, so với đầu tư thì xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn và đặc biệt thu được hiệu quả trong một thời gian ngắn. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam. Đối với mọi quốc gia trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng và không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hoạt động xuất khẩu không chỉ phản ánh một hình thức của mối quan hệ xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau mà nó là một mắt xích trong tổng thể các mối quan hệ xã hội tức là nó có mối quan hệ biện chứng với rất nhiều mối quan hệ khác. Tuy nhiên vai trò của hoạt động xuất khẩu là không thể phủ nhận được nó biểu hiện qua những điểm sau. 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và cậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ, thu từ hoạt động dịch vụ, du lịch thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động... Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu CNH- HĐH đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ của nhập khẩu. 2.2-Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Một là: xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Theo cách này nếu một nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự “thừa ra’’ của sản xuất thì xuất khẩu sẽ cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là: coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Ta sẽ tập trung đi sâu vào quan điểm này. Theo quan điểm này, xuất khẩu có tác động tích cực tới dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nhiên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu sẽ có thể kéo theo phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. 2.3-Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sốngvà đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của người dân. 2.4 -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại nêu trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá bao gồm nhiều công đoạn khác nhau từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường đến các khâu như lập phương án kinh doanh, lựa chọn đối tác giao dịch, tổ chức tạo nguồn, đàm phán ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, giải quyết những vấn đề còn tồn tại và thực hiện đánh giá. Mỗi nghiệp vụlà một nội dung cần phải nghiên cứu đầy đủ kỹ lưỡng. 1. Điều tra nghiên cứu thị trường. Đây là quá trình tìm kiếm, thu thập, xử lý các thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu nhằm đưa ra các quyết định của doanh nghiệp cho phù hợp với thị trường đó. Quá trình này bao gồm các bước sau: Nhận biết sản phẩm xuất khẩu. Việc nhận biết mặt hàng kinh doanh trước tiên phải dựa voà nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về các khía cạnh như chủng loại, kích cỡ, thời vụ, giá cả, thị hiếu cũng như tập quántiêu dùng của từng vùng, từng địa phương, từng lĩng vực sản xuất. Từ đó, xem xét các khía cạnh hàng hoá trên thị trường thế giới. Về khía cạnh thương phẩm cần hiểu rõ giá trị, công dụng, các đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Nắm bắt đầy đủ các mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ cho hàng hoá. Ngoài ra còn phải xác định nắm rõ vị trí của ản phẩm trong chu kỳ sống của nó. Cuối cùng phải chú ý đến tỷ giá ngoại tệ của mặt hàng xuất khẩu. Nắm vững thị trường nước ngoài. Mỗi quốc gia đều có những nét riêng biệt đặc thù về văn hoá, chính trị, kinh tế, vì thế cần phải tìm hiểu kỹ về thị trường xuất khẩu của sản phẩm. Những nội dung cần nắm vững về thị trường nước ngoài đó là: Những điều kiện về chính trị, kinh tế, pháp luật, chính sách thương mại và đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu, điều kiện tiền tệ, điều kiện vận tải, giá cước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp doanh nghiệp còn phải tìm hiểu những đặc điểm về thị trường có liên quan tới sản phẩm xuất khẩu như: dung lượng thị trường, tập quán tiêu dùng, giá cả, các sản phẩm cạnh tranh cùng loại và kênh tiêu thụ... 2. Lập phương án kinh doanh. Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trìnhnghiên cứu tiếp cận thị trường kết hợp với khả năng của doanh nghiệp, nguồn vốn của doanh nghiệp mà từ đó doanh nghiệp lập phương án kinh doanh. Nội dung của phương án kinh doanh phải thể hiện được như sau: Đánh giá tổng quát tình hình thị trường và đối tác, phân tích những khó khăn, thuận lợi trong kinh doanh. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh trên cơ sở phân tích tình hình thực tế Đề ra những mục tiêu cụ thể: khối lượng bán hàng, giá cả, xâm nhập thị trường nào... Đề ra những biện pháp nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra như: Đầu tư vào sản xuất, kí kết hợp đồng kinh tế, đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới tiêu thụ... Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua việc tính toán các chỉ tiêu như tỷ xuất ngoại tệ, thời gian hoà vốn, điểm hoà vốn... 3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu Có nhiều cách tạo nguồn hàng xuất khẩu và do vậy có nhiều cách để phân loại nguồn hàng, có thể phân loại nguồn hàng như sau: 3.1 Phân loại theo đơn vị giao hàng Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu có thể mua, huy động từ: Các xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương Các xí nghiệp nông, lâm nghiệp trung ương và địa phương Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp Các công ty hợp doanh Các hợp tác xã, tư nhân, hộ gia đình Các xí nghiệp bán buôn Các xí nghiệp sản xuất của xí nghịêp thương nghiệp Các xí nghiệp trực thuộc cơ quan mình quản lý 3.2. Phân loại nguồn hàng theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu Nguồn hàng trong trong địa phương là nguồn hàng nằm trong khu vực hoạt động kinh doanh của đơn vị. Ví dụ: Đối với một công ty liên hiệp ngoại thương tỉnh, nguồn hàng trong tỉnh là nguồn hàng trong địa phương Nguồn hàng ngoài địa phương là nguồn hàng không thuộc phạm vi phân công cho đơn vị ngoại thương đó thu mua nhưng đơn vị đã tranh thủ lâpj được quan hệ cung cấp hàng xuất khẩu Trong mối quan hệ giữa hai nguồn hàng trên đây, phương châm giải quyết là: Cố gắng tận thu mua đối với nguồn hàng trong địa phương, tranh thủ điều kiện thuận lợi khai thác nguồn hàng ngoài địa phương, hết sức tránh việc tranh mua với tổ chức ngoại thương ở địa phương sở tại. 3.3. phân loại nguồn hàng theo phương thức thu mua Trong thu mua tạo nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương thường sử dụng nhiềo phương thức khác nhau. Các phương thức thu mua chủ yếu bao gồm: Bao tiêu (thu mua toàn bộ ) Đặt hàng Gia công Đổi hàng Bán nguyên liệu ra, mua thành phẩm vào Ký kết hợp đồng sản xuất, khai thác, đánh bắt, khai thác Thu mua tự do từ những ngưòi sản xuất nhỏ Thu mua từ các đơn vị thành viên của doanh nghiệp (với các doanh nghiệp là các Tổng công ty) Sử dụng hệ thống đại lý, các doanh nghiệp khác và tư nhân để thu mua 4. Lựa chọn đối tác giao dịch Trong hoạt động xuất khẩu, việc lựa chọn đối tác giao dịch phù hợp sẽ tránh cho doanh nghiệp phiền toái hoặc thiệt hại có thể gặp trong quá trình kinh doanh trên thị trường, đồng thời có điều kiện thực hiện thành công kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn đối tác giao dịch phải dựa trên những tiêu chuẩn sau: Tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng tiêu thụ thường xuyên. Có khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật. Thái độ và quan điểm kinh doanh cụ thể như: Có thiện chí trong quan hệ làm ăn với doanh nghiệp, có độ tin cậy cao. Có uy tín trên thị trường Khi lựa chọn đối tác kinh doanh, các doanh nghiệp phải thận trọng tìm hiểu đối tác về tất cả các mặt mạnh yếu của họ. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn đối tác trên cơ sở bạn hàng sẵn có hoặc có thể thông qua các công ty môi giới, tư vấn, cơ sở giao dịch hoặc phòng thương mại và công nghiệp các nước có quan hệ. Tuy có nhiều cách lựa chọn đối tác giao dịch nhưng tốt nhất khi lựa chọn đối tác giao dịch nên chọn đối tác trực tiếp, tránh lựa chọn những đối tác gián tiếp, trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm hay chưa thực sự hiểu biết nhiều về thị trường đó. Việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, chọn được đối tác làm ăn thích hợp, ổn định và sẽ là bạn hàng trung thành, quan hệ làm ăn lâu dài. 5. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Trong giao dịch ngoại thương, các bên tham gia thường có sự khác biệt nhau về chính kiến, về pháp luật, tập quán, ngôn ngữ, tư duy truyền thống và về quyền lợi. Những khác biệt đó làm cho các bên khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu phải thoả thuận với nhau để cùng thống nhất ý kiến chung, sự thoả thuận này trong quan hệ mua bán quốc tế gọi là đàm phán thương mại. Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi đến thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất cách sử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ mua bán giữa hai hay nhiều bên. Có ba hình thức giao dịch đàm phán trong thương mại như sau: Đàm phán giao dịch qua thư tín Ngày nay với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, việc giao tiếp với nhau qua thư tín rất rễ ràng, thông dụng, và được các nhà xuất nhập khẩu tận dụng triệt để. Thông thường những cuộc tiếp xúc ban đầu của những người xuất nhập khẩu cũng thường qua đường thư từ sau đó mới đến gặp gỡ trực tiếp và có thể sau khi gặp vẫn duy trì quan hệ qua đường thư tín. Giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí. Hơn nữa, trong cùng một thời điểm có thể giao dịch được với nhiều khách hàng khác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhièu ngưòi, khéo léo giấu kín ý đồ của mình. Nhược điểm của giao dịch qua thư tín là đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, có thể cơ hội tốt nhất sẽ trôi qua. Việc sử dụng điện tín khắc phục được phần nào nhược điiểm này. Khi sử dụng phương pháp đàm phán qua thư tín, nhà kinh doanh phải nhận thức rõ rằng đối tác sẽ đánh giá mình qua thư từ mình gửi đến. Bởi vậy cần phải hết sức lưu ý trong việc viết thư. Những nhà kinh doanh lâu năm bằng thư tín thấy rằng: giao dịch bằng thư tín phải đảm bảo những yêu cầu: lịch sự, chính xác, khẩn trương và kiên nhẫn. 5.2. Giao dịch, đàm phán qua điện thoại Việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch nhanh chóng khẩn trương trong việc tiến hành giao dịchvào đúng thời cơ cần thiết. Nhưng chi phí cho tiền cước điện thoại giữa các nước khá cao do vậy các cuộc trao đổi bằng điện thoại thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên tham gia không thể trình bày chi tiết các vấn đề qua điện thoại, mặt khác trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng do vậy không có cơ sở pháp lý cho việc xác định vấn đề trao đổi nên no chỉ được dùng trong trường hợp cần thiết, khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc trong điều kiện mọi thoả thuận cần thiết đã xong rồi, chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết... Khi sử dụng điện thoại, cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu một cách trính xác. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán thoả thuận. 5.3. giao dịch, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp Việc gặp gỡ trực tiếp gữa hai bên trao đổi về mọi điều kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán, là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và đôi khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tínhay điện thoại quá lâu mà không có hiệu quả. Nhiều khi đàm phán qua thư từ kéo dài nhiều thánh mới đi đến ký kết hợp đồng. Trong khi đó, đàm phán tực tiếp chỉ có 2, 3 ngày là đã có kết quả. Hiềnh htức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều điều kiện phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng lơn, những hợp đồng có tính chất phức tạp... Việc hai bên mau bán trực tiếp gặp nhau tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì quan hệ tốt lâu dài với nhau. Tuy nhiên đây là hình thức khó khăn nhất trong các hình thức đàm phá. Đàm phá trực tiếp đòi hỏi người đàm phán phải chắc chán về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy... để có thể tỉnh táo bình tĩnh nhận xét nắm được ý đồ, sách lược của đối phương, nhanh chóng có biện pháp đối phó trong những trường hợp cần thiét hay có thể quyết định ngay khi thấy thời cơ ký kết đã chín mồi. Để hợp đồng được ký đết thì những nội dung trong hợp đồng phải đươcj chấp nhận, đó chính là nhứng điều khonả về hợp đồng ma khi donah nghiệp tham gia vào kinh doanh quốc tế phải nhận biết được. Về điều khoản hợp đồng có những điều khoản cơ bản sau: Điều khoản tên hàng: tên hàng phải chính xác để các bên tham gia không hiểu nhầm. Do ngoài tên chung, tên thương mại phải gắn với ký mã hiệu địa danh sản xuất, tên khoa học, tên hãng sản xuất... Điều khoản phẩm chất: phẩm chất hàng hoá là tổng hợp các chỉ tiêu về tính năng (cơ, lý, hoá) quy cách, công suất, hiệu suất, thẩm mỹ... để phân biệt giữa hàng hoá này với hàng hoá khác. Khi đánh giá phẩm chất hàng hoá thì cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn quốc tế, tập quán các nước hay quy định của các bên, đồng thời thống nhất cách giải thích và ghi rõ cáhc xác định trong hợp đồng. Điều khoản số lượng: trên thị trường thế giới tồn tại niều cách tính số lượng khác nhau. Khi giao dịch thống nhất cách tính số lượng theo nội dung: kích thước, dung tích, trọng lượng, chiều dài, đơn vị và đơn vị đóng kiện. Điều khoản giá cả: thông thường hai bên phải xác định đồng tiền giá có thể dùng đồng tiền nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc bên thứ ba nhưng phải là đồng tiền ấn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá nêu ra phải là giá quốc tế. Tuỳ thuộc từng điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp thảo luận phương pháp định giá, có thể là giá cố định, có thể là giá điều chỉnh lại, giá cả thường liên quan đến điều kiện cơ sở giao hàng và các chi phí có liên quan đến trách nhiệm của các bên mua bán vì vậy cần ghi rõ trong hợp đồng giá cả và điều kiện kèm theo. Trong điều khoản giá cả cần ghi rõ mức giá và tổng số tiền lô hàng trong hợp đồng đó. Điều khoản về bao bì: các bên thoả thuận với nhau về các vấn đề như chất liệu, chất lượng, phương thức cung cấp và giá bao bì. Điều kiện cơ sở giao hàng: điều khoản này có ảnh hưởng giá cả. Điều kiện giao hàng phải ánh mối quan hệ giữa giá hàng hoá và địa điểm giao hàng. Cơ sở của điều kiện giao hàng là sự phân trách nhiệm giữa hai bên mua và bán về giao nhận hàng như thuê phương tiện vận tải bốc dỡ hàng, bẩo hiểm, hải quan, nộp thuế xuất nhập khẩu. Điều khoản về giao hàng: đó là việc quy định thời hạn, địa điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng. Điều khoản về thanh toán: quy định rõ đồng tiền thanh toán, thời hạn và phương thức trả tiền. Điều khoản về khiếu nại: quy cách thời hạn, thể thức khiếu nại. Điều khảo bảo hành: hợp đồng quy định phạm vi bảo đảm, trách nhiệm của người bán trong thời gian bảo hành. Điều khoản bất khả kháng. Điều khoản giải quyết tranh chấp. .... 6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã ký kết, đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải thực hiện hợp đồng đó. Đây là công việc rất là phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân theo luật quốc giá và quốc tế, đồng thời đảm bảo quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu, trên thực tế không có trình tự mẫu chuẩn nào cả, bởi vì cách tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu phụ thuộc voà những yếu tố như: + Điều kiện thương mại lựa chọn: FOB, FCA, CIF... + Hình thức kinh doanh xuất khẩu: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu uỷ thác, tạm nhập tái xuất... + Sự quản lý nhà nước đối với mặt hàng được xuất khẩu. + Phương thức thanh toán lựa chọn... Tuy nhiên việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu có thể được tiến hành theo những công việc sau: 6.1. Chuẩn bị hàng hoá để giao Để thực hiện cam kết trong các hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu với ba khâu chủ yếu sau: Thu gom tập trung thành từng lô hàng xuất khẩu: ở khâu này chủ hàng xuất khẩu phải chủ động tìm kiếm và thu gom các nguồn hàng để được những lô hàng cần thiết phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng đã ký. Nguồn hàng mà chủ hàng xuất khẩu có thể thu gom ttập trung gồm nhiều loại: có thể do đơn vị tự sản xuất, hàng thu mua trong dân, hàng đơn vị tự sản xuất, hàng của đơn vị thu mua... Nhìn chung, trong điều kiện hàng xuất khẩu ở nước ta về cơ bản là một nền sản xuất nhỏ, phân tán, điều đó đòi hỏi phải thu mua tập trung làm thành từng lô từ nhiều nguồn hàng ( chân hàng ). Cơ sở pháp lý để tiến hành công việc đó là kí kết hợp đồng kinh tế giữa chủ hàng xuất khẩu với các chân hàng. Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Chủ hàng xuất khẩu phải lựa chọn bao bì đóng gói phù hợp với các quy định trong hợp đồng. Lựa chọn bao bì cho hàng hoá vật tư phải tính đến các nhân tố như: điều kiện khí hậu, điều kiện vận tải, điều kiện về pháp luật, thuế quan và điều kiện chi phí vận chuyển. Bao vì đóng gói vật tư hàng hoá phải đáp ứng được các nhu cầu đặt ra là an toàn,tẻ tiền, thẩm mỹ. Kẻ ký mã hiệu hàng hoá: Ký mã hiệu quả hàng hoá có vai trò rất quan trọng cho việc đảm bảo thuận lợi cho công tác giao nhận và hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá. Chính vì vậy việc kẻ ký mã hiệu cho hàng hoá phải rõ ràng, viết bằng mực không phai màu, ghi đúng địa chỉ, ghi đủ và cả ký hiệu cần thiết (hàng tránh ẩm, hàng tránh lạnh, dễ vỡ...) tóm lại theo 4 nguyên tắc: dễ viết, dễ làm, dễ thấy, dễ kiểm tra. Ký mã hiệu phải làm bằng sơn hoặc mực không phai nhạt, không làm ảnh hưỏng đến chất lượng mùi vị hàng hoá vật tư. 6.2. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu. + Đối với hàng xuất khẩu: Trước khi giao hàng người giao hàng có nghĩa vụ phải kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì tức là kiểm nghiệm hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan bệnh tật. Kiểm nghiệm ở cấp cơ sở: do tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) tiến hành. Tuy nhiên thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách nhiệm chính về phẩm chất hàng hoá. Đối với động thực vật phải qua kiểm dịch ở cấp cơ sở, phòng bảo vệ thực vật, (huyện, quận, nông trường) tiến hành kiểm dịch động thực vật. Kiểm tra ở cấp cửa khẩu: bước này do chi nhánh hoặc các trung tâm thuộc các cơ quan trung ương tiến hành, thông thường chậm nhất là 7 ngày trước khi bốc hàng xuống tàu, chủ hàng xuất khẩu phải khai báo cho các cơ quan liên quan tiến hành, sắp xếp hàng hoá thuận tiện để kiểm tra. + Đối với chủ hàng xuất khẩu: Khi thấy có tổn thất hàng hoá hoặc nghi ngờ có tổn thất phải nhờ các cơ quan hữu quan lập biên bản xác nhận. 6.3. Thuê tầu lưu cuớc Việc thuê tầu chở hàng được tiến hành dựa vào các căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm của hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải. Trong điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc C and F (cảng đến ) thì chủ hàng xuất phải thuê tàu biển đến chở hàng. + Đối với hàng hoá có khối lượng ít, không cồng kềnh thì thường thuê tàu chợ để chở, gồm các bước sau: Chủ hàng điện đẻ đăng ký thuê tàu Hãng tàu xác nhận đồng ý Khi bốc hàng lên tàu lấy vận đơn Thanh toán cước phí + Đối với hàng có khối lượng lớn và để trần... thì thue tàu chuyến ( như chở than< quặng, ngũ cốc...) gồm các bước sau: Chủ hàng phải nghiên cứu thị trường để thuê tàu Chủ tàu phát giá cước Hai bên hoàn giá Sau khi tàu đến đúng thời gian thì bốc hàng lên tàu và lấy vận đơn Thanh toán tiền cước (tiền thưởng, phạt bốc dỡ nếu có ) Trong trường hợp điều kiện cơ cở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CPT (cảng đến ) hoặc CIP (cảng đi ) thì chủ hàng xuất khẩu phải thuê container. Chủ hàng chịu các chi phí chở container rỗng về, đóng hàng rồi chuyển đến cho người vận tải. Nếu hàng không đủ một container chủ hàng phải giao cho người gom hàng hoặc người kinh doanh vận tải đa phương thức ( MTO ) tại ga container. Cơ sở pháp lý để điều tiết mối quan hệ giữa chủ hàng xuất khẩu với hãng tàu là hợp đồng vạn tải ký kết giữa các bên. Nếu chủ hàng xuất khẩu uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải ( công ty đại lý biển VOSA...) thì cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu, nhận uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. 6.4. Mua bảo hiểm Nhà kinh doanh xuất khẩu buộc phải mua bảo hiểm cho hàng hoá trong các trường hợp sau: Khi hợp đồng mua bán ngoại thương quy định người bán hoặc người mua bảo hiểm. Khi nhà xuất khẩu xuất thoa điều kiện CIF, CIP Để ký các hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Hiện nay trên thế giới người ta áp dụng rộng rãi điều khoản bảo hiểm Luân Đôn ( áp dụng từ ngày 1/1/1982 ), bao gồm điều khoản: + Điều kiện A + Điều kiện B + Điều kiện C + Điều kiện boả hiểm trong chiến tranh + Điều kiện bảo hiểm đình công Lựa chọn điều kiện bảo hiểm thường dựa trên các căn cứ sau: Tính chất hàng hoá Điều khoản của hợp đồng Tình trạng của bao bì và phương thức xếp hàng Loại tàu chuyên chở Tình hình chính trị xã hội 6.5. Làm thủ tục hải quan + Làm thủ tục xuất khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan địa phương Chủ hàng xuất khẩu làm giấy khai hải quan bao gồm: Bản sao hợp đồng hoặc L/C Hoá đơn tính thuế Bản kke chi tiết hàng hoá + Bước kê khai tại kho hàng, chủ hàng phải xắp xếp hàng hoá thuận tiện cho kiểm tra, cung cấp nhân công và dụng cụ đóng mở hàng hoá. Hải quan phải đối chiếu hàng hoá trong giáy tờ thực tế. + Quyết định xử lý của hải quan: Sau khi kiểm tra đối chiếu, cán bộ hải quan quyết định xử lý theo các phương án sau: Cho hàng hoá đi, xác nhận đã làm thủ tục hải quan Cho đi nhưng phải nộp thuế (nếu hàng thuộc loại phải nộp thuế ) Cho đi nhưng phải bổ xung giấy tờ, thủ tục. Không cho đi 6.6. Giao nhận hàng hoá với tàu Giao nhận hàng hoá xuất khẩu phải nắm vững những chi tiết hàng hoá và nộp bản đăng ký chuyên chở gồm: Tên hàng, mã ký hiệu, số lượng, trọng lượng, kích thước, bao bì, tên địa chỉ người nhận, trao bản đăng ký này cho hãng tàu để đổi lấy sơ đồ xếp hàng. Theo dõi điều độ để biết được ngày giờ đến lượt tàu mình Xem xét và đưa hàng vào cảng Bốc hàng lên tàu dưới sự giám sát của hải quan Đổi lấy vận đơn hoàn hảo ( B/L ) 6.7. Làm thủ tục thanh toán Nếu hợp đồng thanh toán bằng L/C thì người xuất khẩu, phải đôn đốc người nhập khẩu mở L/C đúng hạn. Sau khi nhận được L/C thì phải tiến hành kiểm tra: Ngân hàng mở L/C là ngân hàng nào Số tiền L/C có đủ không Thời hạn hiệu lực của L/C Những yêu cầu về chứng từ của L/C Việc kiểm tra này để xem xét khả năng thuận tiện và an toàn trong việc thu tiền hang xuất khẩu bằng L/C đó Nếu L/C đó không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra thì cần yêu cầu nhà nhập khẩu sửa đổi lại rồi mới giao hàng. 6.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường. Cần có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng. Việc giải quyết phải khẩn trương kịp thời và có tình lý. Khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, chủ hàng xuất khẩu có thể giải quyết bằng một trong những phương pháp như: Giao hàng thiếu Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời gian sau đó. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau taqị hội đồng trọng tài ( nếu có thoả thuận trọng tài ) hoặc tại toà án. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Trong điều kiện kinh tế thị trường nó đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố của môi trường xuất khẩu, xu hướng vận động và tác động của nó đến toàn bộ quá trình của hoạt động xuất khẩu. Các nhân tố này đã trở nên thật sự quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. 1. Yếu tố kinh tế quốc tế Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu. Rất nhiều yếu tố riêng biệt của môi trường kinh tế quốc tế tác động vào doanh nghiệp. Chúng ảnh hưởng tới doanh nghiệp xuất khẩu qua tác động của chúng về tiềm năng thị trường ở mọi thời điểm với định hướng hiện thực hoá thị trường. Thu nhập và của cải của dân tộc là hai điều thực sự quan trọng vì chúng quyết định sức mua. Thu nhập là yếu tố quyết định chính quyền sở hữu hàng tiêu dùng lâu bền. 2. Điều kiện sản xuất trong nước Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan, không nằm trong sự kiểm soát của con người. Đó là cái mà thiên nhiên ban tặng cho mỗi nước. Điều kiện tự nhiên có thể kể đến là khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Và sự ảnh hưởng của nó không nhỏ đối với hoạt động sản xuất và hoạt động xuất khẩu. Chúng ta đều biết đất đai và tài nguyên thiên nhiên là hai trong số năm yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất. Vì thế khi chúng ta có được hai yếu tố này hoạt động sản xuất sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, góp phần tăng sản lượng sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó khí hậu cũng là nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và kế hoạch của xuất khẩu. Chẳng hạn khi chúng ta đã ký hợp đồng xuất khẩu rau quả sang Mỹ nhưng khi sắp được thu hoạch thì bão ập đến và vụ này thất thu chúng ta không thể có đủ hàng để xuất sang Mỹ. Đây là một điều khó có thể lường trước được. Không phải quốc gia nào cũng có được điều kiện tự nhiên thuận lợi cho hoạt động sản xuất nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Với những quốc gia điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn đó sẽ là động lực không nhỏ cho sản xuất phát triển. Đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển, nó sẽ là bàn đạp cho phát triển kinh tế đất nước. Năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực. Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ xuất khẩu. Vốn, công nghệ và nguồn nhân lực là cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát triển sản xuất và phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trường đa dạng hoá các thành phần kinh t tế và mở cửa ra bên ngoài tự do buôn bán, xuất khẩu trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu sẽ phải đương đầu với các doanh nghiệp nước ngoài với những sản phẩm chất lượng cao mà giá thành hạ. Chính điều này đã buộc các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu phải nhạy bén, linh hoạt hơn, chú trọng đầu tư vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lành nghề cho hoạt động xuất khẩu. Vốn quyết định đến quá trình xuất khẩu và kết quả của hoạt động xuất khẩu. Có vốn hoạt động xuất khẩu được mở rộng, các nguồn hàng cho xuất khẩu phong phú hơn với chất lượng cao hơn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng sang các nước và khối nước có nhu cầu cao về hàng xuất khẩu của chúng ta mà trước kia chúng ta không vào được. Cuộc cách mạng khoa hoc công nghệ đã tác động tích cực đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Yếu tố công nghệ có tác động đến năng suất và chất lượng của hàng xuất khẩu. Chính nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua điện thoại, telex, fax... giảm bớt được chi phí đi lại. Nguồn nhân lực là yếu tố trọng tâm để hoạt động xuất khẩu được thực hiện. Cụ thể đó là những con người đang dẫn dắt, thực hiện hoạt động xuất khẩu. Con người chính là chủ thể hoạt động xuất khẩu, điều khiển mọi bước đi của nó. Vì vậy, có được một nguồn nhân lực dồi dào giàu kinh nghiệm, có trình độ cao là mục tiêu của các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đưa xuất khẩu sớm đi đến đích của nó. 3. Yếu tố chính trị luật pháp Những nhân tố thuộc về môi trường này là những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế có tác động mạnh mẽ đến mở rộng hay kìm hãm sự phát triển cũng như khai thác các cơ hội kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoại thương. Nước ta có môi trường chính trị ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tác yên tâm buôn bán với ta. Với chính sách đối ngoại “ đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 120 nước thuộc các châu lục khác nhau trên thế giới. Trên cơ sở các mối quan hệ ngoại giao tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh giữa Việt Nam và các nước, mở ra cho các doanh nghiệp ngoại thương nước ta nhiều cơ hội kinh doanh đầy triển vọng. Đặc biệt sự kiện Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam mà cụ thể là 3/2/1994 Tổng thống Mỹ B.Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Tháng 7/1995, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã mở đường cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần của mình tại Mỹ. Hoạt động xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia và luật quốc tế. Hiện nay, luật pháp nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh, cụ thể: luật thương mại vẫn chưa có gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, các chínhh sách, các quy định... đối với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục thay đổi, và thêm vào đó vẫn còn các thủ tục hành chính rườm rà, mất nhiều thời gian có thể làm mất đi nhiều cơ hội xuất khẩu. Nhà nước cần điều chỉnh chính sách xuất khẩu theo hướng có lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt sớm ban hành các văn bản hướng dẫn rõ ràng, cụ thể đồng nhất và thống nhất với các nghị định có liên quan. Tuy nhiên, Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu, như: cho phép một số doanh nghiệp được xuất khẩu trực tiếp, giảm thuế xuất khẩu gạo xuống 0%. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu. 4. Yếu tố văn hoá xã hội Môi trường văn hoá xã hội được cọi là:” một tổ hợp phức tạp bao gồm nhiều yếu tố, tín ngưỡng, luật pháp, nghệ thuật, luân lý và tất cả những thói quen khác mà con người đã thu nhận được”. Vùng ảnh hưởng của nền văn hoá có thể trải qua nhiều nước hoặc nhiều vùng. Đây là điều mà các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần phải chú ý. Chẳng hạn, những người dân ấn độ không bao giờ ăn thịt bò, những người theo đạo Hồi không được ăn mặc hở hang.... các doanh nghiệp cần phải biết những nét đặc trưng của từng dân tốc để có chiến lược xuất khẩu phù hợp. Bên cạnh đó, dân số, xu hướng vận động của dân số, thu nhập của khách hàng là các yếu tố quyết định đến chất lượng và cơ cấu hàng xuất khẩu. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường trước hết phải nghiên cứu các tham số của môi trường này bao gồm: dân số, xu hướng biến động của dân số, thu nhập, chủng tộc, tôn giáo, nền văn hoá... Chương II: Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ. I. Giới thiệu chung về tổng công ty rau quả Việt Nam. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Từ năm 1988 trở về trước, việc sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả đã được hình thành và phát triển theo 3 khối: Sản xuất rau quả ( do Công ty rau quả trung ương thuộc bộ nông nghiệp quản lý ); Khối chế biến rau quả ( do Liên Hiệp các xí nghiệp Đồ hộp I và II thuộc Bộ Công nghiệp Thực phẩm quản lý ); Khối kinh doanh xuất nhập khẩu rau ( do Tổng công ty xuất nhập khẩu rau quả thuộc Bộ Ngoại thương quản lý ). Song song với việc chia cắt đó, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật của nghành rau quả cũng bị phân tán, không có một tổ chức chịu trách nhiệm chung như nghiên cứu tạo giống mới, áp dụng ciing nghệ tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ... Trước tình hình đó, tháng 2/1988, Nhà nước đã quyết định hợp nhất 3 khối trên về một đầu mối, thành lập Tổng công ty Rau quả Việt Nam, do Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm quản lý. Từ đó Tổng công ty Rau quả Việt Nam trở thành một đơn vị kinh tế chuên nghành rau quả lớn nhất với hơn 37.000 cán bộ công nhân viên, 72 đầu mối trực thuộc, trải khắp trên 17 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước. Tổng công ty có trụ sở chính đặt tại số 2 đường Phạm Ngọc Thạch, quận Đống Đa, Hà Nội, với tên giao dịch Vegetexco. Thời kì 1988 – 1990. Sau khi Tổng công ty được thành lập và tổ chức lại, hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu rau quả đã có bước chuyển biến thực sự về chất, đạt đỉnh cao về 4 mặt: Sản xuất Nông nghịêp, chế biến công nghiệp, kinh doanh xuất nhập khẩu nghiên cứu khoa học chuyên ngành, so với bình quân năm của hai thời kỳ 1981 –1985 và 1986 – 1987, thì bình quân năm của thời kỳ 1988 – 1990 đạt như sau: Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 51,6 triệu rúp + USD/ năm, tăng 116% và 17%. Sản xuất nông nghiệp đạt 28.700 tấn/ năm, tăng 33% và 22%. - Sản xuất công nghiệp: Sản phẩm chủ yếu đạt 29000 tấn/ năm, tăng 33% và 22%. Thời kỳ 1991 – 1995. Đây là thời đầu cả nước bước vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hàng loạt chính sách mới của nhà nước ra đời và tiếp tục được hoàn thiện. Nền kinh tế của đất nước bắt đầu tăng trưởng từ Nông nghiệp, Công nghiệp đến kinh xuất nhập khẩu và đầu tư phát triển. Những thành tựu về kinh tế xã hội của đất nước đạt được đã tạo cơ hội cho Tổng công ty thêm môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ Tổng công ty phải chịu nhiều khó khăn do chương trình hợp tác rau quả Việt –Xô không còn nữa, tình hình biến động về trính trị, kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu nên thị trường bị thu hẹp, nền kinh tế chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị trường. Thời kỳ 1996 đến nay. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng những năm qua tổng công ty vẫn liên tục hoạt động có hiệu quả. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng, nếu năm 1996 đạt trên 36 triệu USD thì năm 2000 đạt trên 43 triệu USD. Tổng doanh thu cũng không ngừng gia tăng, 1996 đạt trên 510 tỷ VND thì 2000 đạt 719 tỷ VND. Lãi ròng năm 1996 mới có 2,4 tỷ VND thì đến năm 2000 đã là 10,7 tỷ. 2. Chức năng và nhiệm vụ của tỏng công ty rau quả Việt Nam. 2.1. Chức năng. Quản lý sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên, các nguồn khác. Đầu tư, liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần, chuyển nhượng thay thế, cho thuê, thế chấp cầm cố tài sản. Tổ chức quản lý kinh doanh: + Tổ chức bộ máy kinh doanh phù hợp, đổi mới trang thiết bị, đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của Tổng công ty trong và ngoài nước. + Mở rộng kinh doanh, lựa chọn thị trường, thống nhất thị trường giữa các đơn vị thành viên được xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của nhà nước. + Quyết định khung giá, xây dựng và áp dụng các định mức lao động mới và các đối tác kinh doanh nước ngoài. Tổng công ty quản lý 23 đơn vị thành viên và 4 đơn vị liên doanh do đó nó có chức năng kinh doanh trong các ngành nghề và lĩnh vực sau: Sản xuất giống rau quả và nông lâm sản khác. Dịch vụ chăn nuôi, trồng trọt và trồng rừng. Chế bién rau quả, thịt, thuỷ sản đường kính, đồ uống (nước giải khát các loại, nước nóng có cồn và không cồn...) Bán buôn bán lẻ, bán đại lý giống rau quả, rau thực phẩm, đồ hộp, máy móc thiết bị, đồ dùng chuyên dùng, nguyên vật liệu hàng tiêu dùng... Kinh doanh du lịch và khách sạn, nhà hàng. Dịch vụ tư vấn hoa, quả, rau. Sản xuất chế tạo sản phẩm cơ khí, thiết bị phụ tùng, máy móc phục vụ chuyên môn rau quả và gia dụng. Xuất nhập rau quả giống rau hoa quả, thực phẩm, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu, hoá chất và hàng tiêu dùng... Thực hiện nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Tham gia đào tạo công nhân kỹ thuật. Liên doanh liên kết với các đơn vị trong nước và ngoài nước để phát triển sản xuất và kinh doanh rau quả cao cấp. Nhiệm vụ. Tương ứng với chức năng kinh doanh, Tổng công ty có nhiệm vụ phải đăng ký và hoạt động đúng ngành nghề kinh doanh đã đăng ký trong điều lệ của tổng công ty, các quy định và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời VEGETEXCO là doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước, có đủ tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập, có tài sản riêng, do đó phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp luật về hoạt động kinh doanh của mình. Để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh doanh của mình, tổng công ty rau quả Việt Nam phải có các nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động kinh doanh như sau: + Bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước giao. + Nộp ngân sách nhà nước và địa phương. + Thực hiện chế độ thu chi, hoá đơn, chứng từ theo chế độ hạch toán của Nhà nước. + Chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước trong quá trình hoạt động kinh doanh. Thực hiện đúng đường lối chính sách của Nhà nước. Kinh doanh trong phạm vi ngành nghề đăng ký. Nghiêm chỉnh thực hiện chế độ về bảo vệ lao động, môi trường... của Nhà nước. 3. Hệ thống tổ chức và điều hành của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Bộ máy quản lý điều hành Tổng công ty gồm có: Hội đồng quản trị. Bộ máy điều hành. Hội đồng quản trị ( HĐQT). HĐQT Tổng công ty thực hiện chức năng quản lý hoạt động của công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty TTổng theo nhiệm vụ Nhà nước giao. HĐQT Tổng công ty có 5 thành viên, bao gồm: Chủ tịch HĐQT Một thành viên kiêm Tổng giám đốc. Một thành viên kiêm Trưởng ban kiểm soát và hai chuyên gia giỏi về lĩnh vực hoạt động của công ty. Chủ tịch và các thành viên của HĐQT do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và CNTP quyết định. Tổng giám đốc tổng công ty khônglàm Chủ tịch HĐQT. Nhiệm vụ quyền hạn của HĐQT do điều lệ Tổng công ty quyết định như sau: - Xem xét, phê duyệt phương án do Tổng công ty đề nghị về việc giao vốn và các nguồnlực khác cho các đơn vị thành viên và phương án diều hoà vốn kiểm tra, giám sát việc thực hiện các phương án đó. Kiểm tra giám sát mọi hoạt động trong Tổng công ty, thực hiện các nghị quyết và quyết định của H ĐQT, các quy định của pháp luật; việc thực hiện các nghiẽa vụ đối với nhà nước. Tổ chức thẩm định à trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch đầu tư dự án đầu tư mới dự án hợp tác đầu tư với bên nước ngoài bằng vốn do Tổng công ty quản lý. Ban hành nội quy bảo mật trong kinh doanh, các thông tin kinh tế nội bộ bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật do Tổng giám đốc trình để áp dụng thống nhất trong toàn Tổng công ty. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT là 5 năm. Thành viên của HĐQT có thể được bổ nhiệm lại. HĐQT làm việc theo chế độ, họp thường kỳ hàng quý để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. HĐQT có thể họp bất thường để giải quyết những vấn đề cấp bách của Tổng công ty, do chủ tịch HĐQT, hoặc Tổng giám đốc, hoặc trưởng ban kiểm soát, hoặc trên 50% số thành viên của HĐQT đề nghị. Các cuộc họp của HĐQT được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số thành viên có mặt. Nghị quyết và quyết định của HĐQT có tính bắt buộc đối với toàn Tổng công ty. HĐQT cử ra Ban kiểm soát để kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động của Tổng công ty. Ban kiểm soát có năm thành viên trong đó một thành viên HĐQT làm trưởng ban và 4 thành viên khác do HĐQT bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của thành viên ban kiểm soát là 5 năm. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do HĐQT giao, báo cáo theo định kỳ hàng quý, hàng năm và theo vụ việc về kết quả kiểm tra giám sát... Bộ máy điều hành. Bộ máy điều hành tổng công ty gồm có: Tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc gồm có: + Từ hai đến ba phó Tổng giám đốc. + Kế toán trưởng. + Văn phòng Tổng công ty, trong đó có một số phòng ban quản lý, kinh doanh. Tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và CNTP bổ nhiệm là đại diện pháp nhân của Tổng công ty, thay mặt và chịu trách nhiệm trước HĐQT điều hành toàn bộ hoạt động của Tổng công ty. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc do điều lệ Tổng công ty quy định như sau: Phòng Tổ chức cán bộ: có chức năng tổ chức quảng lý lao động và tiền lương. Phòng kế toán tài chính: thực hiện các nghiệp vụ hạch toán quản lý vốn, các khoản thanh toán với ngân hàng, cấp phát vốn cho yêu cầu kinh doanh. Phòng quản lý sản xuất kinh doanh: lập kế hoạch điều hành sản xuất kinh doanh, quản lý máy móc thiết bị, quản lý xuất nhập khẩu chung của các đơn vị trực thuộc Tổng công ty. Phòng xuất nhập khẩu I: tiến hành công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, thực hiện nghiệp vụ xuất nhập ở khu vực châu á. Phòng xuất nhập khẩu II: thực hiện nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh và thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu ở khu vực châu Âu. Phòng xuất nhập khẩu III: tiến hành khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường, đáp ứng yêu cầu khách hàng và thực hiện nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu ở khu vực châu Mỹ. Phòng kinh doanh tổng hợp IV, V: hoạt động kinh doanh tổng hợp nội địa. Phòng kinh doanh và dịch vụ VI, VII: thực hiện kinh doanh và các khâu về dịch vụ như: xây lắp, sửa chữa các thiết bị cơ điện phục vụ cho ngành rau quả... Văn phòng: có chức năng phục vụ cho các hoạt động sinh hoạt của Tổng công ty như: điều động phương tiện, văn thư, tiếp khách... Phòng Tư vấn và đầu tư: tư vấn cho các đơn vị trực thuộc về các dự án kinh doanh, tham gia xây dựng các dự án sản xuất, chế biến, kinh doanh rau quả của Tổng công ty. Trung tâm KCS: tiến hành nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá của cả tổng công ty trước khi đưa ra thị trường. Xưởng gia công chế biến xuất khẩu rau quả Tam Hiệp: trực tiếp gia công chế biến xuất khẩu. Chi nhánh tại Lạng Sơn: tiến hành các công việc được uỷ quyền, tổ chức tìm kiếm bạn hàng, thực hiện ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng giám đốc Các phòng quản lý Phòng tổ chức cán bộ Văn phòng Phòng quản lý sản xuất Phòng kế toán, tài chính Phòng xúc tiến thương mại Phòng tư vấn đầu tư Phòng KCS Các phòng kinh doanh Phòng xuất nhập khẩu I Phòng xuất nhập khẩu II Phòng xuất nhập khẩu III Phòng kinh doanh tổng hợp IV Phòng kinh doanh tổng hợp V Phòng kinh doanh và dịch vụ ciư điện VI Phòng kinh doanh và dịch vụ cơ điện VII Xưởng gia công chế biến xuất nhập khẩu Tam Hiệp Các đơn vị thành viên và các công ty liên doanh Chú giải: Quan hệ chỉ đạo: Quan hệ phối hợp: Chức năng kiểm tra: ii. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu rau quả ở tổng công ty trong những năm qua. 1. Đặc điểm kinh doanh xuất khẩu rau quả ở tổng công ty. 1.1. Đặc điểm về sản phẩm rau quả của công ty. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty rau quả Việt nam được mô tả theo sơ đồ dưới đây: Bảng 1: Sản phẩm nông nghiệp STT Sản phẩm ĐV tính 10 năm 1996 1997 1 Dứa quả Tấn 132638 3800 4705 2 Cam quả Tấn 41702 120 40 3 Chè búp khô Tấn 3775 55 50 4 Vải quả Tấn 535 200 300 5 Mía cây Tấn 157710 5000 53000 6 Hạt điều Tấn 331 119 110 7 cà phê nhân Tấn 1639 57 21 8 Lương thực quy thóc Tấn 73090 4600 7000 9 Giống rau quả Tấn 1398 3578 2800 Các sản phẩm nông nghiệp có các đặc điểm - Là sản phẩm mang tính thời vụ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thời tiết, kỹ thuật trồng trọt. - Là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sống của con người, chu kỳ sống sản phẩm dài. - Là sản phẩm sử dụng một lần - Là hàng hoá mau hỏng, cồng kềnh, giá trị trung bình không cao, việc vận chuyển từ người sản xuất cho đến người tiêu dùng khá phức tạp. - Có thể làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến Do sản phẩm nông nghiệp có đặc điểm như vậy nên chúng có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. Thu nhập sản phẩm theo mỗi năm không đồng đều do điều kiện tự nhiên của mỗi vùng khác nhau. Việc thu gom sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn. Giá thành sản phẩm thấp nhưng chi phí vận chuyển lại cao vì vậy khi xuẩu không đem lại hiệu quả kinh tế. Bảng 2. Một số sản phẩm công nghiệp chính STT Sản phẩm ĐV tính 10 năm 1996 1997 1 Đồ hộp dứa Tấn 86230 3114 4448 2 Đồ hộp dưa chuột Tấn 28349 1859 1214 3 Đồ hộp khác Tấn 18332 1879 1112 4 Nước quả hộp Tấn 6086 2314 2940 5 Sản phẩm khác Tấn 28298 1523 1607 Phải nhận thấy rằng qua 10 năm trưởng thành và phát triển Tổng công ty đã có nhiều biến động trong cơ cấu sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, Tổng công ty có ít sự chủ động trong việc thay đổi cơ cấu sản phẩm chủ yếu mà chủ yếu là do khách hàng tác động. Sản phẩm hiện nay của Tổng công ty chủ yếu là dứa đóng hộp, một vài năm gần đây có thêm nước quả đóng hộp, tuy vậy mặt hàng này gặp phải sự cạnh trang gay gắt trên thị trường và các hãng giải khát như pepsi, coca cola. Tổng công ty đang thực hiện đưa vào sản xuất ( dây truyền) sản phẩm cà chua cô đặc chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu. Ngoài ra, Tổng công ty còn liên doanh sản xuất bao bì, hộp sắt nhằm cung cấp cho các đơn vị trong Tổng công ty và bán cho các doanh nghiệp khác. Sản phẩm này đã được thị trường chấp nhận và đem lại một khoản doanh thu lớn cho Tổng công ty. 2. Đặc điểm về thị trường 2.1 Thị trường xuất khẩu Trong 10 năm qua, Tổng công ty cố gắng lớn trong việc phát triển thị trường. Từ năm 1988 - 1989, Tổng công ty có quan hệ với 18 nước trên thế giới, năm 1990 là 21 nước, 1992 là 29 nước, 1996 là 37nước, năm 1997 là 36 nước. Thị trường chưa ổn định có năm thêm được thị trường này thì lại mất thị trường kia, kim ngạch ở mỗi thị trường cũng luôn thay đổi. Tổng công ty đưa ra quan điểm "khi xuất khẩu có khó khăn thì đẩy mạnh nhập khẩu, lấy nhập bù xuất để kim ngạch XNK cao" chính quan điểm này đã làm hạn chế phát triển thị trường xuất khẩu đồng thời hạn chế sản xuất cuả các nhà máy khiến tổng công ty vẫn "luẩn quẩn" không tìm ra lối thoát. Bảng 3: Một số thị trường lớn của Tổng công ty STT Thị trường Đơn vị ồ Kim ngạch Xuất khẩu Tỷ trọng XK(%) 1 Nga Nghìn RCN 7272 7272 100 2 Nhật Nghìn RCN 5815 1742 30 3 Singapore Nghìn RCN 4491 2826 63 4 Hàn Quốc -------- 3977 202 5 5 Mỹ -------- 2157 1334 62 6 Đài Loan -------- 2093 1161 55 7 Hà Lan -------- 1618 83 5 8 Mông Cổ -------- 1343 1343 100 9 Thuỵ Sĩ -------- 834 368 44 10 Trung Quốc -------- 834 494 59 11 Italia -------- 705 244 35 12 Thái Lan -------- 636 17 3 13 Pháp -------- 570 218 38 14 Hồng Kông -------- 541 445 82 15 Đức -------- 522 291 54 3.2 Thị trường trong nước Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 80 triệu người và khoảng 2 triệu người nước ngoài có mặt tại Việt Nam vì vậy nhu cầu tiêu thụ rau quả là rất lớn. Do đó nó làm cho: - Nhu cầu tiêu thụ rau quả tươi tăng nhanh, các loại quả cần trao đổi giữa miền Nam ( xoài, nho, chôm chôm...) và miền bắc (khoai tây, nhãn, vải...) có khối lượng khá lớn. Các loại nước giải khát từ thiên nhiên sẽ được tiêu thụ ngày càng mạnh do tác dụng bổ dưỡng. Chính vì vậy cần phải sản xuất nhiều với giá phải chăng, chất lượng đảm bảo để thay thế đồ uống pha chế công nghiệp. - Trong những năm tới, các sản phẩm về rau quả chế biến, đóng hộp, đóng lọ và các loại rau quả tươi thái sẵn sẽ được tiêu thụ ngày càng nhiều do nhịp độ cuộc sống thay đổi theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian hiện nay, thị trường trong nước chưa phát triển mạnh mà chỉ trông chờ vào xuất khẩu vì trong nước ngoài dân chưa quen với vấn đề mua rau quả sạch trong cửa hàng, siêu thị. Đồng thời Tổng công ty không có khả năng cạnh tranh với lực lượng tư nhân, họ hoạt động dưới hai hình thức là mua bán buôn và các cửa hàng nhỏ, tuy quy mô nhỏ nhưng với khối lượng lớn, thường lấy công làm lãi, phục vụ tận nơi đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. 3. Đặc điểm về lao động Tổng công ty Từ khi thành lập, tổng số lao động của Tổng công ty là 37463 người, đến năm 1997 chỉ còn 5855 người, như vậy đã giảm đi 31608 người (khoảng 84,37%) do nhiều nguyên nhân: - Giảm do thực hiện quyết định 176:111 : 7985 - Do chuyển 30 đơn vị về địa phương: 11232 người - Do hưu trí thôi việc và do nguyên nhân khác: 12391 người Bảng 4 Tình hình cơ cấu lực lượng lao động hiện nay STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1997 Năm 1998 I Tổng lao động - Nông nghiệp - Công nghiệp - Khối công nghiệp - Khối thương mại - Khối liên doanh - Văn phòng Tổng công ty Người % --- --- --- --- --- 5855 31 37 8 16 6 2 6865 22 51 7 13 5,2 1,8 II Chia theo giới tính - Lao động nam - Lao động nữ --- --- --- 41,5 58,5 42 58 III Chia theo độ tuổi - Dưới 30 tuổi - Từ 31 tuổi đến 45 tuổi - Trên 45 tuổi --- --- --- --- 12 58 30 14 57,5 28,5 IV Chia theo trình độ - Trên đại học - Đại học - Trung học - Cao đẳng - Lao động phổ thông --- --- --- --- --- 0,4 14 7,6 78 0,4 14,6 10 75 4. Đặc điểm về tình hình tài chính của Công ty Năm 1988 tổng số vốn là 49,043 tỷ VNĐ Năm 1991 tổng số vốn là 109,6 tỷ VNĐ Năm 1997 tổng số vốn là 163,6 tỷ VNĐ Năm 1997, tình hình tài chính của công ty như sau Đơn vị tính: 1 tỷ VNĐ Tài sản Nguồn vốn Vốn lưu động Vốn cố định Tài sản cố định Vốn XDCB Vốn liên doanh 27,2 136,2 93,6 13,3 29,3 Ngân sách Vốn tự bổ sung Vốn vay 71,4 48,6 43,6 Tổng tài sản 163,6 Tổng nguồn vốn 163,6 Vốn kinh doanh: 163,6 Doanh thu: 532,2 Lợi nhuận: 2,72 Bảng 5: Tỷ số tài chính của Tổng công ty STT Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị 1 Khả năng thanh toán - Khả năng thanh toán hiện hành % 63 2 Tỷ số về vốn - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Lần 5,7 - Vòng quay toàn bộ vốn Vòng 3,3 3 Tỷ số về khả năng thanh toán - Nợ phải trả trên tổng tài sản % 27 - Tỷ trọng vốn bổ sung % 30 - Tỷ trọng vốn lưu động % 17 4 Tỷ số về khả năng sinh lời % - Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm % 0.5 - Doanh lợi vốn tự có % 5.7 - Tỷ suất thu hồi vốn đầu tư % 1.7 - Tổng tài sản tương đối thấp (163,6 tỷ VNĐ, trung bình mỗi đơn vị thành viên chỉ có 5,5 tỷ) chủ yếu là tài sản cố định ( chiếm 83%), trong khi đó phần lớn tài sản cố định (máy móc thiết bị) đã lạc hậu rất khó phát huy tính chủ động sản xuất kinh doanh của tổng công ty. - Khả năng thanh toán hiện hành của Tổng công ty là rất thấp (63%) trong khi tỷ số nợ trên tổng tài sản nhỏ (27%) thể hiện tình trạng vốn lưu động là rất nhỏ. Đây là khó khăn rất lớn đối với Tổng công ty. Do hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ, cần vốn lưu động rất lớn để mua nguyên liệu tập trung trong thời gian ngắn ( vì mua của nông dân không được mua chịu). - Tỷ trọng nguồn vốn của Tổng công ty chưa hợp lý, không tập trung phát triển mạnh vào khâu tiêu thụ sản phẩm nên công ty chưa tận dụng hết vốn có thể huy động được. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định và vòng quay toàn bộ vốn của Tổng công ty tương đối cao, nhưng chỉ tập trung vào một vài nhà máy và các đơn vị thương mại. các công ty XNK đã chủ động mở rộng kinh doanh ra ngoài sản phẩm của Tổng công ty (năm 96-97 sản phẩm của Tổng công ty chỉ còn chiếm 52,2% kim ngạch XNK) đây là dấu hiệu đáng lo ngại cho sản phẩm Tổng công ty. Hiện nay tỷ số về khả năng sinh lời thấp, trong khi tỷ số về hoạt động khá cao thể hiện tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Trong thực tế năm 1997 Tổng công ty có 7 doanh nghiệp thua lỗ (chiếm 28%), một số doanh nghiệp có doanh số cao nhưng chỉ bù đắp cho chi phí, các doanh nghiệp có lãi cao chủ yếu là các liên doanh nhưng phần hùn vốn của ta thường nhỏ (30%). Do tình hình như vậy nên việc đầu tư phát triển hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, không chủ động được trong kinh doanh. Nhập khẩu trực tiếp rau, hoa quả, giống rau quả, thực phẩm, máy móc, vận tư, thiết bi phương tiện vận tải nguyên vật liệu phục vụ cho các đơn vi trong và ngoài ngành. Các đơn vị thành viên của Tổng công ty: Thực hiện chức năng nghiên cứu, sản xuất chế biến các sản phẩm Nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Các nhà máy sản xuất liên doanh: Chủ yếu chế biến các loại rau qảu. hoa quả tươi, nước giải khát, đồ hộp, các loại bao bì đóng gói..liên doanh liên kết trong các lĩnh vực khoa học, trồng trọt chế biến và xuất khẩu. Các nông trường chủ yếu là trồng cây lương thực thực phẩm phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu và cung cấp nguồn nguyên liệu cho các nhà máy gia công chế biến. Viện nghiên cứu thực hiện chức năng nghiên cứu giống rau quả hoa màu, nghiên cứu các loại thuốc trừ sâu, xây dựng quy trình sản xuất rau sạch, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Nghiên cứu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp và chế biến một cách có hiệu quả. Các công ty thương mại thực hiện các chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu: Mô hình 90 được áp dụng cho nền kinh tế thị trường góp phần nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các cơ sở và các phòng ban trực thuộc Tổng công ty. Mô hình này phát huy được tinh thần trách nhiệm và tính sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty. Hình 6: Số lượng các đơn vị thành viên qua các thời kỳ: STT Đơn vị 88-90 91-95 96-97 1 Khối sản xuất nông nghiệp 31 4 3 2 Khối sản xuất công nghiệp 15 11 12 3 Khối kinh doanh thương mại 9 9 8 4 Khối nghiên cứu 4 1 1 5 Bệnh viện điềudưỡng 5 6 Khối liên doanh 2 5 7 Phòng ban Tổng công ty 12 5 12 5. Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu rau quả . Nhu cầu tiêu thụ rau quả của thế giới Rau và quả là những thức ăn thiết yếu của con người. Rau quả cung cấp cho con người nhiều vitamin và chất khoáng. Gần đây khoa học dinh dưỡng đã kết luận rằng rau quả còn cung cấp cho con người nhiều chất xơ, có tác dụng giải các độc tố phát sinh trong quá trình tiêu hoá thức ăn và giúp cho hệ tiêu hoá hoạt động tốt. Do vậy trong chế độ dinh dưỡng của con người, rau quả là thức ăn không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng. Tại các nước phát triển, mức sống của người dân được nâng cao thì trong khẩu phần ăn, tỷ trọng rau quả ngày càng tăng. Rau quả được gieo trồng ở khắp nơi trên thế giới. Sản lượng các loại trái cây nhiệt đới của thế giới hàng năm ước tính đạt 60 triệu tấn, phần lớn sản lượng này được sử dụng trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng ở các nước sản xuất dưới cả dạng tươi và chế biến. Chính vì vậy mà kim ngạch ngoại thương quốc tế về các loại trái cây tươi ước tính chỉ chiếm khoảng 5% sản lượng sản xuất. Trong các loại trái cây nhiệt đới thu hoạch được thì có 40% là xoài, 23% là dứa, 9%là đu đủ, 4% là lê và 24% còn lại là măng cụt, vải, chôm chôm, sầu riêng... Khả năng tiêu thụ rau quả cũng rất lớn. Mức tiêu dùng dứa của thế giới tăng trung bình khoảng 3%/ năm. Tuy nhiên, số liệu báo cáo cho thấy có sụ giảm sút nhẹ trong những năm vừa qua. Nguyên nhân là do thời tiết xấu đã làm giảm sản lượng và khả năng cung cấp dứa của Thái Lan. Đối với xoài, trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng xoài chế biến đặc biệt là thị trường Châu Âu đã gia tăng đáng kể. Bên cạnh đó nhu cầu tiêu dùng xoài tươi vẫn ở mức cao khối lượng lê và đu đủ dùng cho chế biến vẫn ở mức thấp, do vậy hình thức sử dụng chủ yếu là dưới dạng tươi. Mức tiêu dùng đã gia tăng đều đặn khoảng 5%/năm, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng xoài lại giảm khoảng 2% trong vòng 2 năm trở lại đây. Kim ngạch thương mại thế giới về các loại trái cây nhiệt đới tươi hàng năm đạt khoảng 1,8 - 2,0 triệu tấn, tăng khoảng 10% - 14%/năm. Trong khi đó khối lượng xuất nhập khẩu của các sản phẩm chế biến khá ổn định khoảng 1,4 - 1,5 triệu tấn/năm. giá trị xuất nhập khẩu thế giới các loại trái cây nhiệt đới (tươi và chế biến) hiện nay đạt trên 2,2 tỷ USD). Dứa là một trong những loại trái cây nhiệt đới có giá trị thương mại cao, chủ yếu dưới dạng chế biến (dứa đóng hộp và nước dứa). Khối lượng xuất khẩu dứa chế biến trên toàn thế giới đạt 1,3 triệu tấn, chiếm 75% tổng kim ngạch thương mại về dứa. Thương mại thế giới về dứa tươi mặc dù chỉ đạt 25% tổng kim ngạch về dứa nhưng đã chiếm tới 31% về giá trị thương mại thế giới các loại trái cây nhiệt đới tươi. Tổng giá trị ngoại thương của thế giới về dứa (tươi và chế biến) đạt khoảng 136 tỷ USD. Xoài cũng là loại trái cây nhiệt đới có giá trị kinh tế cao. Kim ngạch xuất khẩu xoài (tươi và chế biến) của thế giới đạt khoảng 400 triệu USD. Khối lượng xoài tươi xuất khẩu hàng năm đã vượt mức 400.000 tấn, tương ứng chiếm 24% tổng khối lượng thương mại toàn cầu về các loại trái cây nhiệt đới tươi. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu xoài tươi của thế giới đạt khoảng 8%/năm. Thị trường và nhu cầu tiêu dùng xoài chế biến (Puree và nước xoài) ngày đang mở rộng. Tuy nhiên, xoài chế biến phần lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ. Trong số 807.000 tấn puree xoài và 136.980 tấn nước dứa được sản xuất thì khối lượng xuất khẩu tương ứng chỉ đạt 45.900 tấn và 6.750 tấn. Xuất khẩu lê và đu đủ trong vòng 5 năm trở lại đây đều tăng với tốc độ trung bình 10%/năm. Năm 1996, khối lượng xuất khẩu lê mới chỉ chiếm khoảng 12% sản lượng thu hoạch, đạt trị giá 248,6 triệu USD. Thị trường nhập khẩu lớn nhất là EC, trong đó riêng Pháp chiếm khoảng 40% tổng lượng nhập khẩu vào khu vực thị trường này. Tiếp theo là thì trường Mỹ. Thương mại thế giới về đu đủ tươi năm 1996 đạt khoảng 120.000 tấn, trị giá 77,5 triệu USD, tăng khoảng 16% so với năm trước. Thị trường nhập khẩu lớn nhất hiện đang là Mỹ. Điều kiện sản xuất rau quả ở Việt Nam và sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu rau quả. Mức tiêu thụ và tình hình xuất khẩu rau quả của thế giới lớn như vậy, trong khi đó nước ta lại có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc sản xuất rau quả. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa với địa hình cả núi cao và đồng bằng, đã tạo nên những lợi thế về địa lý- sinh thái so với nhiều nước khác trong khu vực trồng trọt. Rau quả nước ta được trồng rất sớm từ mấy ngàn năm trong quá trình phát triển nông nghiệp. Chính nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi nên có thể trồng được nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới và một số rau quả gốc ôn đới, mùa vụ thu hoạch kế tiếp nhau trong năm. Việt Nam còn là một trong các vùng phát sinh của những cây ăn quả như cam, quýt, vải, chuối... và có nguồn gen di truyền thực vật phong phú, đa dạng về cây ăn quả, rau, gia vị và hoa kể cả những loài phong lan quý, hiếm. Rau quả nước ta có mặt ở hầu khắp các tỉnh, thành phố với quy mô, chủng loại khác nhau. Trải qua quá trình sản xuất lâu dài đã hình thành những vùng sản xuất rau quả có tập quán sản xuất và kinh nghiệm truyền thống trong các điều kiện sinh thái riêng. Từ sau giải phóng, sự chỉ đạo của nhà nước đã thúc đẩy nhiều vành đai rau xanh cung cấp cho các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh ..., nhiều nông trường trồng cây ăn quả được thành lập từ những năm 1960 và gần đây, các cây ăn quả đang được phát triển mạnh như cam, quýt (đồng bằng sông Cửu Long, Hà Giang, Tuyên Quang....), vải, nhãn (nhiều tỉnh Bắc Bộ), xoài (Nam Bộ)... Mặt khác, sự ra đời của hệ thống nhà máy chế biến rau quả (từ 1960) và sự phát triển xuất khẩu rau quả những năm 1980-1990 trong chương trình hợp tác rau quả Việt - Xô, đã thúc đẩy sản xuất ở nhiều vùng trong nước như: rau vụ Đông - Xuân ở đồng bằng sông Hồng, ớt, tỏi, hạt tiêu, cam, dứa, chuối, dưa hấu... ở cả phía Bắc và phía Nam. Với tiềm năng sản xuất rau quả như hiện nay, ngành rau quả Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ rau quả của người dân trong nước, ngoài ra còn có thể xuất khẩu sang các nước khác. Nhu cầu tiêu thụ rau quả của thế giới là rất lớn vì vậy tăng cường xuất khẩu là vô cùng cần thiết. Nó vừa thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển vừa tăng nguồn ngoại tệ, lại vừa mở rộng mối quan hệ thương mại giữa Việt nam với các quốc gia trên thế giới. Trong thời kỳ trước kia khi tham gia vào khối SEV, các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong đó có mặt hàng rau quả đã góp phần không nhỏ vào việc đổi lấy máy móc và một số mặt hàng nhu yếu phẩm khác phục vụ cho quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam. Trong khoảng thời gian đầu khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, việc xuất khẩu rau quả đã đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Và trong giai đoạn hiện nay, tuy rau quả xuất khẩu không phải là một hoạt động kinh tế mũi nhọn, mang lại sự phát triển vượt bậc cho đất nước nhưng nó vẫn đang và sẽ là một hoạt động kinh tế có hiệu quả, phù hợp với nguồn lực hiện có của đất nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao uy tín về chất lượng sản phẩm hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu rau quả chỉ là một thường hợp riêng của hoạt động xuất khẩu , vì vậy, nó cũng mang đầy đủ tính chất, ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả nói chung. Do đó, mỗi doanh nghiệp này nếu muồn tăng cường xuất khẩu rau quả sang bất kỳ thị trường nào cũng đều phải nghiên cứu và nắm vững lý luận về hoạt động xuất khẩu để từ đó áp dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, khoa học và có hiệu quả đối với từng mặt hàng, trên từng thị trường khác nhau. Hoạt động của Tổng công ty Rau quả Việt Nam - một đơn vị mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây- cũng không nắm ngoài trường hợp đó. Việc kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn đã giúp Tổng công ty phát huy được thế mạnh về xuất khẩu rau quả như hiện nay, mở rộng và tăng cường xuất khẩu rau quả sang các thị trường thế giới, nhất là sang thị trường Mỹ- một thị trường tiêu thụ rau quả lớn và đầy triển vọng. iii.thực trạng xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Mỹ. 1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ. Mỹ là một thị trường khổng lồ với sức mua lớn, nhu cầu đa dạng. Với dân số trên 265 triệu người, GDP gần 8 nghìn tỷ USD chiếm 22% GDP thế giới, mỹ được coi là cường quốc số một của thế giới. Đây là một thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hàng hoá tiêu thụ tại trị trường Mỹ rất đa dạng về chủng loại, phù hợp với các tầng lớp người tiều dùng theo kiểu “tiền nào của ấy” với những hệ thống cửa hàng phục vụ người giàu, trung lưu và người nghèo. Theo Bộ thương mại Việt Nam, mức tiêu dùng của người Mỹ cao gấp 2 lần người Nhật và bằng 1.6 lần người châu Âu. do đó, Mỹ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn và có yêu cầu về chất lượng đa dạng hơn thị trường châu Âu và Nhật. Mỹ có nhiều quy định pháp luật chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán, các quy định về chất lwongj, kỹ thuật... Vì thế, khi các nhà xuất khẩu chưa nắm rõ hêh thống các quy định về luật lệ ở Mỹ thường cảm thấy khó khăn làm ăn tại thị trường này. Luật pháp Mỹ quy định, các nhã hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty mỹ hay một công ty nước ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục Hải quan Mỹ và được lưu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công. Theo “Copyright Revision Act” của Mỹ, hàng hoá nhập khẩu của Mỹ theo các bản sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép cuả người có bản quyền là vi phạm luật bản quyền, sẽ vị bắt giữ và tịch thu, các bản sao các thương hiệu đó sẽ bị huỷ. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cục Hải quan Mỹ bảo vệ quyền lợi cần đăng kỹ khiếu nại bản quyền tại văn phòng bản quyền theo các thủ tục hiện hành. Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn áp dụng hạn nghạch đẻ kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do cục Hải quan quản lý và chia làm 2 loại: hạn ngạch thuế quan và hạn ngach tuyệt đối. Hạn ngạch thuế quan qui định số lượng đối với loại hàng nào đó được nhập khẩu vào Mỹ đựơc hưởng mức thuế giảm trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ không đựơc phép xuất khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn cầu, nhưng có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp dụng đối với từng nước riêng biệt. Từ năm 1994, Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán và năm 1995 tuyên bố bình thường hoá quan hệ với việt nam. Sự việc không đơn thuần chỉ là việc giải toả mối quan hệ căng thẳng bấy lâu nay mà còn thực sự đem lại những lợi ích kinh tế lớn lao cho cả hai bên. Quan hệ thương mại việt mỹ kể từ đây mới thực sự hình thành và phát triển. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng dần qua các năm, góp phần đáng kể voà kim ngach xuất khẩu của cả nước. Nếu như năm1994, kim ngach xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ là 50,15 triệu USD, thì đến năm 1995 tăng lên đến 198,9 triệu USD, năm 1996 là 319,2 triệu USD, năm 1999 là 334,75 triệu USD và năm 2000 con số này đạt trên 5000 triệu USD. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Mỹ từ Việt nam chủ yếu là cà phê, dầu thô, hải sản, dệt may, gạo và rau quả. Mặc dù có nền nông nghiệp lớn trên thế giới và có nhiều loại rau quả với sản lowngj lơn nhưng Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu rau quả lứon nhất trên thế giới. Hàng năm, thị trường Mỹ có nhu cầu nhập khẩu trên 2 tỷ USD rau quả tươi, bảo quản lạnh và chế biến. Đây là một thị trường tiềm năng lớn đối với ngành rau quả Việt Nam. Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Mỹ Năm 95 96 97 98 99 2000 Ước 2001 Kim ngạch(USD) 1,5 7,6 11,6 2,6 3,2 5,0 Tỷ lệ tăng, giảm(%) - +406,7 +52,6 +77,6 +23 +56 Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt nam sang Mỹ có sự biến đổi thất thường. Nừu như năm 1995, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 1,5 trieeuj tấn thì đến năm 1996 tăng thêm 406,7%, đạt 7,6 triệu tấn. Năm 1997, kim ngạch vẫn tiếp tục tăng lên đến 11,6 triệu tấn. Nhưng đến năm 1998, kim ngạch xuất khẩu rau quả giảm xuống chỉ còn 2,6 triệu tấn, bằng 22,4% so với năm 1997. Những năm tiếp theo, sản lượng có xu hướng tăng lên và việc xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Mỹ ngày càng nhiều. Cũng theo đà này, Tổng công ty rau quả Việt Nam là đơn vị chiếm vị trí quan trọng trong ngành sản xuất và xuất khẩu rau qảu của Việt Nam. Nhận biết Mỹ là thị trường tiêu thụ rau quả lớn trên thế giới cúng như nhiều doanh nghiệp xuất khẩu khác trong nước Tổng công ty rau quả Việt Nam đang tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ. Và qua hơn 6 năm tiếp cận thâm nhập thị trường này, Tổng công ty rau quả cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Bảng 7: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Năm 95 96 97 98 99 2000 Kim ngạch XK(USD) 317.000 1.253.000 1.620.130 1.476.300 2.288.000 1.906.87 Tỷ lệ tăng, giảm(%) +259,3 +29,3 -8,9 +55,0 -16,7 Sản lượng(tấn) 440 2054 2650 2382 3645 3069 Tỷ lệ tăng giảm(%) 366,8 +29,0 -10,1 +53,0 -15,8 Nhìn vào kết quả trên ta có thể thấy rằng tình hình xuất khẩu rau quả sang Mỹ của Tổng công ty chưa ổn định. Kim ngạch và sản lượng biến đổi quả các năm. Nếu như năm 1995, khi Tổng công ty bắt đầu nghiên cứu thị trường giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng ở Mỹ, kim ngạch xuất khẩu là 317.000 nghìn USD tương ứng với sản lượng 440 tấn thì đến năm 1996, thị trường Mỹ đã dần quen với sự có mặt của hàng rau quả Việt nam. Sản lượng xuất khẩu năm 1996 đạt 2054 tấn, tăng 366,8% so với năm 1995 và kim ngạch xuất khẩu là 1.253.000 USD, tăng 295,3% so với năm 1995. Có thể nói năm 1996, Tổng công ty rau quả Việt Nam đã được một bước tiến nhảy vọt trong việc xuất khẩu rau quả và tìm kiếm bạn hàng ở thị trường Mỹ bởi dù sao trong thời kỳ này, thị trường Mỹ vẫn còn mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm tiếp theo từ năm 1997 đến năm 1999, dim ngạch và sản lợng thay đổi lớn. Năm 1997 xuất khẩu được 2650 tấn, tăng 29% so với năm 1996 và đạt kim ngạch xuất khẩu 1.620.130 USD tăng 29,3%. Như vậy anưm này, tốc độ sản lượng và kim ngạch tương đương nhau chứng tỏ rau quả vẫn giữ được giá và tìm được chỗ đứng trong thị trường Mỹ. Tuy nhiên năm 1998 đồng tiền Việt Nam mất giá so với đồng đô la Mỹ, giá cả có xu hướng biến động, giá cả và sản lượng có xu hướng giảm xuống thấp hơn mức xuất khẩu 1997 là 8,9% và 10,1%. Năm 1999, kim ngạch và sản lượng đạt cao nhất trong giai đoạn 1995 – 2000, đạt 2.288.000 USD và 3645 tấn. Riêng năm 2000, tỷ lệ xuất khẩu rau quả giảm, chỉ đạt 1.906.870 USD, giảm 16,7% so với năm 1999 và sản lượng là 3069 tấn, giảm 15,8%. Những con số đạt được có thể là không nhỏ đối với Tổng công ty nhưng nếu so với nhu cầu rau quả hiện nay của người dân Mỹ thì nó lại cực kỳ nhỏ bé. 2. Mặt hàng và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Nhu cầu rau quả của thị trường Mỹ là rất lớn, do đó Mỹ nhập khẩu hầu hết các loại hàng rau quả. Tuy nhiên, các mặt hàng rau quả xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang Mỹ chủ yếu chỉ là dứa và moọt số mặt hàng khác như gia vị, long nhãn, dừa đông lạnh, Puree đu đủ... Dứa được người Mỹ coi là loại trái cây đặc sản và họ rất ưa thích sử dụng dưá. Trong những năm qua, kể từ năm 1990 đến năm 2000, mức tiêu dùng dứa trung bình hàng năm của người dân Mỹ đạt 1.568.430 tấn ( qui ra dứa tươi ). Mức tiêu dùng này tương đối ổn định. Năm 1992, tổng mức tiêu dùng dứa của người dân Mỹ đạt giá trị cao nhất là 1.768.607 tấn và mức tiêu dùng thấp nhất trong vòng 10 năm qua là 1.496.620 tấn ( năm1995 ). Trong các dạng sản phẩm tươi, đóng hộp và nước dứa thì nước dứa được ưa chuộng nhất và cũng có mức tiêu dùng cao nhất, tiếp theo là dứa đóng hộp. Tuy nhiên xu hướng tiêu dùng dứa tươi đang gia tăng , xu hướng tiêu dùng dứa đóng họp và dứa nước bình quân đầu người giảm. Bảng 8: mức tiêu dùng dứa bình quân đầu người của người dân Mỹ Năm Tổng số dân Mỹ (triệu người) Dứa tươi Dứa đóng hộp Nước dứa Tổng cộng 1990 249,948 0,93 2,36 3,38 6,68 1991 252,639 0,87 2,41 3,42 6,70 1992 255,374 0,91 2,78 3,24 6,93 1993 258,083 0,93 2,54 2,83 6,31 1994 260,599 0,93 2,46 2,40 5,78 1995 263,044 0,88 2,17 2,63 5,68 1996 264,463 0,87 2,18 2,63 5,68 1997 268,008 1,08 2,14 2,39 5,61 1998 270,561 1,27 1,80 1,99 5,06 1999 273,057 1,27 2,00 2,38 5,65 2000 275,600 1.29 1,98 2,37 5,67 (Quy ra đơn vị kg dứa tươi/người) Mức tiêu dùng dứa tươi bình quân đầu người đặc biệt gia tăng kể từ năm 1997. Năm 1997 trung bình mỗi người dân Mỹ tiêu dùng 1,08kg dứa/năm, tăng lên từ 0,88kg các năm 1995 – 1996 và tăng lên từ 0,90kg – 0,93kg trong các năm từ năm 1990 đến năm 1994. Năm 1998 và 1999, mức tiêu dùng dứa tươi bình quân tăng lên là1.27kg/người/năm. Năm 2000 con số này đạt tới 1,32kg/người/năm. Mức tiêu dùng dứa đóng hộp khá cao và ổn định ở đầu những năm 90. Kể từ năm 1995, xu hướng tiêu dùng giảm xuống. Trong 5 năm 1990 đến 1994, mức tiêu dùng dứa đóng hộp quy ra dứa tươi của Mỹ bình quân đạt 2,51kg/người/năm, kể từ năm 1995 đến năm 1997, mức tiêu dùng bình quân giảm xuống còn 2,16kg/người/năm và đặc biệt giảm sút ở năm 1998 xuống còn 1,8/kg/mgười/năm. Năm 1999 mức tiêu dùng dứa đóng hộp quy ra dứa tươi có xu hướng tăng lên đạt 2,00kg/người/năm. Năm 2000, mức tiêu dùng dứa đóng hộp quy ra dứa tươi giảm nhẹ xuống còn 1,98kg/người/năm. Tiêu dùng nước dứa bình quân đầu người của người dân Mỹ cũng có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Năm 1991, mức tiêu dùng nước dứa quy ra dứa tươi đạt giá trị lớn nhất là 3,42kg/người/năm. Xu hướng tiêu dùng giảm xuống mức thấp nhất năm 1998, còn 1,99kg/người/năm. Mức tiêu dùng năm 1999 có sự gia tăng trở lạivà đạt 2,38kg/người/năm; năm 2000giảm nhẹ còn 2,37kg/người/năm. Mặc dù nhu cầu tiêu dùng dứa của thị trường Mỹ là rất lớn nhưng kim ngạch và sản lượng xuất khẩu dứa sang Mỹ của tổng công ty Rau quả Việt Nam còn rất hạn chế. Bảng 10: Cơ cấu các mặt hàng XK sang Mỹ theo kim ngạch và sản lượng Đơn vị: % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Trung bình Dứa Sản lượng 100 96,5 95,0 94,0 92,0 89,0 94,4 Kim ngạch 100 95,4 93,5 92,2 90,2 86,4 93,0 Rau quả khác Sản lượng 0 3,8 5,0 6,0 8,0 11,0 5,6 Kim ngạch 0 4,6 6,5 7,8 9,8 13,6 7,0 Bảng 9: Các mặt hàng XK sang Mỹ của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Dứa Sản lượng(tấn) 440 1.976 2.517 2.239 3.355 2.731 Tỷ lệ tăng, giảm(%) - +349,0 +27,0 -11.0 +49,0 -18,6 Kim ngạch(USD) 317.000 1.195.360 1.514.820 1.362.600 2.064000 1.647.000 Tỷ lệ tăng giảm(%) - +277,0 +26,7 -10,0 +51,5 -20,2 Rau quả khác Sản lượng(tấn) 0 78 133 143 290 338 Tỷ lệ tăng giảm(%) - - +70,5 +7,5 +102,8 +16,5 Kim ngạch(USD) 0 57.640 105.310 113.700 224.000 259.870 Tỷ lệ tăng giảm(%) - - +82,7 +8,0 +97 +16,0 Nguồn: Tổng công ty rau quả Việt Nam Trong các mặt hàng rau quả xuất khẩu sang Mỹ, rõ ràng sản phẩm dứa chiếm ưu thế hơn hẳn các mặt hàng khác. Từ khi bắt đầu có quan hệ bạn hàng với người Mỹ, dứa là sản phẩm đầu tiên và cũng là sản phẩm duy nhất tiêu thụ trên thị trường này. Trong suốt thời kỳ 1995 – 2000, sản phẩm dứa vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu của tổng công ty sang Mỹ còn các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể, trung bình chỉ bằng 5,6% của tổng sản lượng xuất khẩu và 7% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu dứa sang thị trường Mỹ nhìn chung là không ổn định và có sự thay đổi lớn qua các năm. Nếu như năm 1995, sản lượng xuất khẩu chỉ đạt 440 tấn so với kim ngạch 317.000 USD thì đến năm 1996, sản lượng tăng 349% đạt 1976 tấn và kim ngạch tăng 277%, đạt 1.195.360 tấn. Năm 1997 kim ngạch và sản lượng tăng nhưng tốc độ chậm lại. Riêng năm 1998, do nhu cầu của thị trường Mỹ giảm, giá nguyên liệu đầu vào lại tăng và do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu dứa đều giảm, sản lượng xuất khẩu là 2239 tấn, giảm 11%so với năm 1998 và kim ngạch là 1.362.600 giảm 10% so với năm 1998. Đến năm 1999, sản lượng đã được phục hồi và đạt mức lớn nhất từ trước tới nay với sản lượng 3355 tấn và kim ngạch 2.064.000 USD. Tuy nhiên năm 2000, sản lượng xuất khẩu chỉ đạt 2731 tấn, bằng 81,4 % so với năm trước và kim ngạch là 1.647.000, bằng 79,8% năm 1999. Có sự giảm sút này, một phần là do một số nhà nhập khẩu Mỹ chờ đợi giá dứa nhập khẩu từ Việt Nam giảm sau khi hiệp địng thương mại Việt – Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000. Mặc dù không thể phủ nhận được vị trí chủ đạo của mặt hàng dứa trong cơ cấu mặt hàng rau quả xuất sang thị trường Mỹ, nhưng rõ ràng tỷ trọng mặ hàng này đang giảm xuống. Các mặt hàng rau quả khác như: long nhãn, Purree, đu đủ, chuối sấy... tuy chiếm tỷ trọng nhỏ cả về kim ngạch và sản lượng nhưng đang có xu hướng tăng lên. Năm 1990, các mặt hàng này chưa xuất khẩu được sang Mỹ thì năm 1996 đã xuất khẩu được 78 tấn trị giá 57.640 USD. Tuy năm 1998, sản lượng và kim ngạch dứa xuất khẩu giảm hơn so với năm trước nhưng sản lượng và kim ngạch các rau quả khác vẫn tăng mặc dù tốc độ tăng có thấp hơn. Như vậy các mặt hàng rau quả của Tổng công ty Rau quả Việt Nam ngoài mặt hàng dứa đang dần dần được chấp nhận trên thị trường Mỹ tuy số lượng vẫn còn quá ít ỏi. Trong các mặt hàng này, long nhãn là có triển vọng nhất bởi thị trường Mỹ là thị trường tiềm năng về long nhãn , trong khi đó tiềm năng về nhãn của Việt Nam là khá mạnh với những vùng trồng nhãn nổi tiếng. Nếu có thể khai thác được điểm mạnh này để thay đổi tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu snag Mỹ thì Tổng công ty Rau quả Việt Nam sẽ thu được lợi nhuận lớn. Trong mặt hàng dứa, các dạng sản phẩm tươi, đóng hộp, nước dứa xuất sang Mỹ theo số lượng rất khác nhau. Đặc biệt tổng công ty vẫn chưa xuất khẩu được dứa tươi sang Mỹ. Không phải do chế độ bảo quản các sản phẩm tươi của tổng công ty chưa tốt mà muốn xuất khẩu rau quả tươi sang Mỹ phải được sự cho phép của cơ quan giám định động thực vật Hoa Kỳ APHIS. Hiện nay, cơ quan này vẫn chưa chính thức cho phép nhập khẩu các loại rau rau quả tươi từ Việt Nam. Các thông tin về sâu bệnh phải do bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn của Việt Nam cung cấp, trên cơ sở đó APHIS sẽ tiến hành xem xét và quyêt định cho phép nhập khẩu. Vì vậy, dứa tươi của Tổng công ty Rau quả Việt Nam vẫn chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Dứa Sản lượng (tấn) 286,0 1363 1762 1679 2382 1994 Kim ngạch (USD) 215.560 848.700 1.120.960 953.820 1.548.000 1.185.840 Rau quả khác Sản lượng (tấn) 154 613 755 560 973 737 Kim ngạch (USD) 101.440 346.660 393.860 408.780 516.000 461.160 Bảng 11: Các sản phẩm dứa xuất khẩu sang Mỹ của tổng công ty Rau quả Việt Nam ( nước dứa quy ra dứa tươi) Nguồn: Tổng công ty Rau quả Việt Nam Bảng 12: Cơ cấu các sản phẩm dứa xuất khẩu Đơn vị: % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Trung bình Dứa đóng hộp Sản lượng 65 69 70 75 71 73 70,5 Kim ngạch 68 71 74 70 75 72 71,7 Nước dứa Sản lượng 35 31 30 25 29 27 29,5 Kim ngạch 32 29 26 30 25 28 28,3 Nguồn: Tổng công ty rau quả Việt Nam Mặc dù nhu cầu của người dân Mỹ về nước dứa cao hơn dứa đóng hộp nhưng tỷ trọng về sản của sản phẩm nước dứa xuất sang Mỹ chỉ là 29,5%; bằng 0,4 lần sản phẩm dứa đóng hộp. Kim ngạch xuất khẩu dứa đóng hộp cũng cao hơn rất nhiều so với kim ngạch của nước dứa vì giá bán của dứa đóng hộp cao hơn giá bán của nước dứa. 3. Quy cách phẩm chất và các hình thức xuất khẩu rau quả sang Mỹ của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Nước dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam tuy chưa ngon và hợp khẩu vị của khách hàng bằng sản phẩm của các nước khác nhưng cũng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Mỹ với độ khô (Brix) 10,12%; Axit: 0,22 – 0,25% và được đóng trong hộp sắt không gỉ dung tích 240ml, khi xuất khẩu thường được đóng trong thùng gỗ hoặc thùng cacton, mỗi thùng 35 hộp. Các sản phẩm này đều như nhau và không phân loại. Dứa đóng hộp được sản xuất làm nhiều loại với hìng dáng, kích cỡ miếng dứa khác nhau như: dứa khoanh, dứa nghiền, dứa dẻ quạt, dứa tẩm đường (dứa chế biến ) có độ khô(Brix) 14 – 16%; Axit 0,3 – 0,5%; độ đặc (Drained) thấp nhất là 52%. Dứa nguyên chất không chế biến (không tẩm đường ) có độ đặc (brix) 9 –11%; Axit 0,4 – 0,6% và độ đặc (drained) thấp nhất 52%. Các loại dứa này được đóng trong các hộp sắt không gỉ cỡ 15-0z, 20-0z,30-0z, 24 hộp được chứa trong một thùng cacton hoặc 6 hộp cỡ 180-0z trong 1 thùng cacton. Tổng công ty Rau quả Việt Nam chủ yếu xuất hàng sang các bang phía đông nước Mỹ và dưới hình thức xuất khẩu trực tiếp, nhân danh trính mình để thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu với các nhà nhập khẩu bên Mỹ. Các hình thức xuất khẩu khác chưa được sử dụng do tổng công ty trực tiếp tìm kiếm bạn hàng và chủ yếu chỉ hợp tác với các hãng kinh doanh nhỏ trên thị trường bằng những hợp đồng giá trị nhỏ, không có nhiều hợp đồng xuất khẩu lớn. 4. Đánh giá tình hình xuất khẩu rau quả của tổng công ty rau quả việt nam. 4.1. Những ưu điểm mà Tổng công ty đạt được khi xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ. Khối lượng xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Mỹ ngày càng đa dạng và có triển vọng tốt đẹp. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp Mỹ muốn đặt quan hệ làm ăn lâu dài với Tổng công ty. Ban đầu, khi mới thâm nhập vào thị trường này, Tổng công ty chỉ giới thiệu sản phẩm mà chưa chủ động tìm kiếm bạn hàng, ai có nhu cầu thì tự phải tìm đến giao dịch và kí hợp đồng với tổng công ty nhưng sau đó, Tổng công ty đã nghiên cứu và chủ động tìm kiếm khách hàng, thuyết phục họ đặt quan hệ bạn hàng với mình. Và qua các hợp đồng xuất khẩu được thực hiện một cách suôn sẻ, uy tín của Tổng công ty đang tăng lên rõ rệt. Sau 6 năm xuất khẩu rau quả sang Mỹ, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã xác định được mặt hàng chủ liực chính là sản phẩm dứa. Ban đầu, đồ hộp dứa, nước dứa được sản xuất từ dứa Queen Vicoria chưa phù hợp với khẩu vị người tiêu dùng, hiệu quả kinh tế lại thấp. Nhưng hiện nay, Tổng công ty đã lai tạo được giống dứa Cayenne cho năng suất cao và hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Dứa Queen Victoria đang dần dần thay thế bởi dứa Cayenne nên chất lượng sản phẩm được tăng lên đáng kể so với trước kia. Mặc dù chưa thể ngang bằng với chất lượng của các đối thủ cạnh tranh mạnh nhưng đây là nỗ lực cố gắng của Tổng công ty cần được ghi nhận. Bên cạnh đó, nhu cầu của người Mỹ đối với mặt hàng rau quả khác như long nhãn, Puree đu đủ đang tăng lên. Nếu khai thác tốt tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng này thì Tổng công ty Rau quả Việt Nam sẽ thu được những kết quả cao và thị trường Mỹ sẽ trở thành thị trường trọng điểm tiêu thụ các mặt hàng rau quả của Tổng công ty. Hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam thuận lưọi hơn sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000, Tổng công ty rau quả Việt Nam có nhiều khả năng xuất khẩu hơn. Nếu Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ thì thuế đánh vào các mặt hàng trong đó có mặt hàng rau quả nhập khẩu vào Mỹ sẽ được giảm. như vậy, giá bán sản phẩm xuất khẩu có xu hướng giảm, làm tăng khả năng cạnh tranh về giá của tổng công ty so với các đối thủ cạnh tranh khác. Và như vậy, một số khách hàng trước đây là khách hàng không tiêu dùng tương đối do giá tiêu dùng sản phẩm cao bây giờ sẽ tiêu dùng sản phẩm của tổng công ty. Ngoài ra, Tổng công ty còn có thể lôi kéo được một số khách hàng của đối thủ cạnh tranh tiêu dùng sản phẩm mình. Như vậy, khách hàng của tổng công ty sẽ tăng lên đáng kể. Có thể nhận thấy rằng những thuận lợi, ưu điểm mà Tổng công ty rau quả Việt Nam có được khi xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ là rất ít mà khó khăn tồn tại lại quá nhiều. 4.2. Những tồn tại, vướng mắc trong việc thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ của tổng công ty rau quả Việt Nam. Khi thực hiện mục tiêu tăng cường thúc đẩy thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ của tổng công ty rau quả Việt Nam, một số tồn tại vướng mắc sau cần giải quyết: Một là: Hàng rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chưa nhiều và chưa ổn định. Hai là: Các mặt hàng xuất khẩu chưa phong phú đa dạng. Ba là: Hàng rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam chưa tạo được uy tín cao đối với cả nhà nhập khẩu và người tiêu dùng Mỹ. Bốn là: Hàng rau của Tổng công ty rau quả Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế cao trên thị trường này. Năm là: Chiến lược quảng cáo nhằm thu hút khách hàng của Tổng công ty rau quả Việt Nam cũng còn rất nhiều hạn chế. Nhìn chung, có rất nhiều khó khăn, vướng mắc mà Tổng công ty Rau quả Việt Nam đang phải đối mặt và tìm cách tháo gỡ. Những khó khăn vướng mắc này có thể hiểu được từ một số nguyên nhân sau. 4.3. Nguyên nhân gây ra những tồn tại, vướng mắc trong việc thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ mà Tổng công ty Rau quả Việt Nam đang gặp phải Muốn thâm nhập và mở rộng thị phần trên thị trường rộng lớn như thị trường Mỹ thì cần phải hiểu biết một cách đầy đủ về luật pháp và các tiêu chuẩn chất lượng qui định hiện hành để có thể tìm kiếm được bạn hàng và thực hiện hoạt động xuất khẩu một cách nhanh nhất, có lợi nhất cho cả 2 bên. Thêm vào đó phải nắm vững nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng để sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm phù hợp với sở thích của họ. Tuy nhiên trong công tác này, Tổng công ty Rau quả Việt Nam chưa đặc biệt coi trọng và thực hiện chưa có hiệu quả. Việc thu thập, nghiên cứu, phân tích thông tin thị trường còn hạn chế, chưa nắm bắt được những thông tin về thị hiếu, thói quen tiêu dùng ở từng thị trường, thiếu thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Lực lượng cán bộ kinh doanh chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác, kiến thức nghiệp vụ không được bồi dưỡng thường xuyên. Hiện nay, Tổng công ty chưa có một hệ thống sản xuất giống rau quả có chất lượng tốt để cung cấp cho các cơ sở sản xuất. Chi phí nhập khẩu giống còn khá cao, công tác nghiên cứu khách hàng đôi khi còn chưa gắn liền với sản xuất. Năng suất, sản lượng dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam còn chưa cao, chưa tận dụng được lợi thế về khí hậu, đất đai, nguồn nhân lực sẵn có của các đơn vị, khâu thu gom dứa xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn, công tác trồng trọt còn thụ động, chịu chi phối bởi nhiều yếu tố thời tiết. Các cơ sở chế biến thiếu một kế hoạch sản xuất khả thi cho từng thời kỳ. Thêm vào đó, chi phí vận chuyển nội địa còn cao do thiếu một hệ thống kho tàng, đại lý thu mua hoàn chỉnh để có thể giảm thiểu những chi phí không cần thiết trong quá trình thu gom hàng khi xuất khẩu lại chưa được hưởng qui chế tối huệ quốc. Tất cả những điều này là nguyên nhân gây ra giá trị nguyên liệu thu mua cao và giá bán sản phẩm cao. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, trình độ quản lý, trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân... Chất lượng sản phẩm chưa cao bởi khâu kiểm tra chất lượng dứa nguyên liệu cho chế biến còn chưa được chú trọng. Có thời kỳ do dứa nguyên liệu khan hiếm, một số đơn vị còn thu mua cả dứa xanh để chế biến hoặc dứa không đủ tiêu chuẩn chất lượng, khâu bảo quản sau thu hoạch kém. Bên cạnh đó, hệ thống máy móc, thiết bị, dây chuyền chế biến ở hầu hết các đơn vị đã cũ kỹ lạc hậu, được trang bị từ những năm 1970 - 1980. Đội ngũ cán bộ, công nhân trong khối chế biến còn thiếu những người có kỹ thuật chuyên môn, tay nghề cao, tư tưởng sản xuất nhỏ còn ăn sâu trong cách nghĩ, cách làm của họ. Đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu chưa thực sự nhạy bén với tình hình thị trường và thiếu kinh nghiệm trong làm ăn buôn bán với người Mỹ. Do tình hình tài chính eo hẹp nên Tổng công ty không có khả năng chi trả cho vấn đề quảng cáo sản phẩm trên thị trường Mỹ và không mở được văn phòng đại diện cũng như chưa có các dịch vụ sau bán hàng để phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. Những nguyên nhân trên cần được khắc phục một cách triệt để thì hàng rau quả của Tổng công ty mới có thể đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường này. Chương III: phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường mỹ I. tìm hiểu về thị trường mỹ 1. Đặc điểm trong chính sách thương mại của Mỹ Đặc điểm chính sách thương mại Mỹ thể hiện qua các hoạt động thương mại với các nước khác như các quy định ưu đãi thương mại (MFN, GSP), các hiệp định thương mại ưu đãi, các hoạt động đơn phương và quy chế giải quyết tranh chấp. 1.1. Các quy định ưu đãi ( MNF và GSF ) Mỹ luôn sử dụng quy chế tối huệ quốc (MFN) và chế độ thuế quan phổ cập (GSP) là quyền ưu đãi chung như những công cụ chính sách thương mại trong quan hệ với các nước ràng buộc họ phải có những cải cách thích hợp về kinh tế và thương mại. MFN: trên thực tế, thuế quan có MFN và thuế quan không có MFN có sự khác biệt lớn. Ví dụ như hàng rau quả Việt Nam khi xuất sang Mỹ phải chịu mức thuế 24% nếu chưa được hưởng MFN và 2% nếu đã được hưởng MFN. Hầu hết các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Mỹ đều được hưởng quy chế Tối huệ quốc. Quy chế này quy định mức thuế suất thấp đánh vào hàng nhập khẩu đã đạt được trong các vòng đàm phán về tự do thương mại. Nếu Việt Nam không được hưởng quy chế Tối huệ quốc thì hàng Việt Nam bán trên thị trường Mỹ kém hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng sản xuất tại Mỹ và hàng hoá sản xuất tại các nước được hưởng quy chế Tối huệ quốc khi nhập khẩu vào Mỹ. Ngoài hàng rào thuế còn có hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch giấy quy chế xứ..., khi hiệp ước thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực, hàng Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi này. GSP: Chế độ thuế quan phổ cập GSP mà 18 nước công nghiệp phát triển trong đó có Mỹ dành cho các nước đang phát triển là một chế độ ưu đãi mà nếu đạt được sẽ còn có lợi hơn cả quy chế Tối huệ quốc. Bởi vì nếu được hưởng GSP, hàng của các nước đang phát triển xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển sẽ chỉ bị đánh thuế suất 0% hoặc rất thấp. Chế độ GSP không nhất thiết phải đi liền với chế độ MFN. Luật thương mại của Mỹ cho phép tổng thống Mỹ toàn quyền dành cho các nước chậm phát triển ưu đãi thuế quan bằng 0% đối với một sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ và cũng có quyền rút bỏ. Đây là ưu đãi đơn pưhơng giành cho các nước mà Mỹ quan tâm, không đòi hỏi phải có đi có lại. Nhằm mở rộng đường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ, Việt Nam cần kiên trì đàm phán và thuyết phục Mỹ để hưởng chế độ ưu đãi về thuế suất này. 1.2. Các hiệp định thương mại ưu đãi (FTAs): Đây là một công cụ quan trọng của chính sách thương mại Mỹ. Mỹ đã có các hiệp định thương mại song phương (Canada, Israel) và đa phương (như AFTA). Mỹ tích cực tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) và diễn đàn hợp tác kinh tế của các nước châu mỹ nhằm đạt được những cơ sở thuận lợi để ăng cường ảnh hưởng của mình ở các khu vực này. 1.3. Hoạt động đơn phương và tranh chấp thương mại Đây là một trong những vấn đề tranh cãi đặc biệt, cả ở Mỹ cũng như các diễn đàn thương mại quốc tế, nhất là việc cắt giảm các quy định của MFN và GSP, cho phép trả đũa bằng các hạn chế nhập khẩu từ những nước mà đàm phán thương mại không đi đến kết quả nào. 2. Các công cụ thông thường của chính sách thương mại Mỹ: 2.1. Các biểu thuế Nhìn chung, mức thuế trong các biểu thuế của Mỹ đều thấp, trung bình khoảng 7% cho tất cả các loại sản phẩm (trừ dầu mỏ), tuy nhiên có một số biểu thuế tương đối cao đối với một số ngành hàng nhất định (ví dụ như thuốc lá trung bình 96%, đường và bánh kẹo 19%) 2.2. Các biện pháp phi thuế: Hạn ngạnh nhập khẩu (Import Quota): Đây là hình thức giới hạn số lượng hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vượt mức số lượng quy định, nếu vượt quá mức quy định phải chịu thuế cao hơn gọi là biểu thuế tỷ giá quota. Hiện nay, quota nhập khẩu vẫn được duy trì đối với một số sản phẩm nông nghiệp; biểu thuế quota vẫn còn được áp dụng cho cá ngừ, chổi phất trần... Mỹ cũng duy trì một hệ thống quota phức tạp về nhập khẩu nguyên liệu dệt (vải vóc các loại). Nhìn chung, quota được cấp với một số lượng nhất định và cho một thời gian cụ thể. Đồng thời có những loại quota được áp dụng trên toàn cầu, có loại áp dụng ở một số nhóm nước cụ thể. Các Hiệp định hạn chế tự nguyện (VRAs): Mỹ ký kết nhiều hiệp định tự nguyện nhập khẩu của Mỹ với các nước, đối với nhiều sản phẩm mà họ xuất khẩu vào Mỹ, mục đích là nhằm hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành sản xuất tương tự trong nước Mỹ. Đây thực chất là một hình thức bảo hộ mậu dịch. Các nước bắt buộc tự nguyện đều vấp phải khó khăn lớn trong quan hệ thương mại với Mỹ. Tuy nhiên, Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ vẫn tích cực xem xét ngành hàng này hay mặt hàng nào của Mỹ bị tổn thương( do nhập khẩu quá nhiều với giá rẻ), cần áp dụng các hình thức bảo vệ như quota hoặc tăng thuế quan (rất khó), hoặc bắt buộc các nước phải tự nguyện hạn chế xuất khẩu vào Mỹ. Các đạo luật của Mỹ: Mỹ cũng thường xuyên áp dụng các đạo luật của các bộ luật không liên quan đến hoạt động thương mại, nhưng lại có khả năng hạn chế nhập khẩu vào Mỹ. Chẳng hạn luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ động thực vật, luật về y tế vệ sinh... Các quy định chống bán phá giá (AD) và thuế bù trừ (CVD): Mỹ là nước ngày càng tận dụng. Luật Thương mại để có được sự bảo hộ cho các nhà sản xuất, chuẩn bị những hoạt động nhập khẩu mà phía Mỹ cho là không được định giá đúng, đó là những sản phẩm được trợ giá. Những điều luật thường được dùng mà các nhà kinh doanh nước ngoài cần phải biết là Điều luật chống phá giá (the US anti- dumping statutes) và Điều luật thuế bù trừ (The US countenaling duty). Các quy định về nguồn gốc xuất xứ: Đây là các quy luật quy định về việc thi hành các quy định về tỷ lệ chế biến sản phẩm của các nước sản xuất hàng hoá nhập khẩu (hàng hoá được dán nhãn nước gốc vào Mỹ). Người ta quy định rằng một sản phẩm cuối cùng sau khi đi qua quá trình chế biến ở hai hay nhiều nước sẽ được gọi là sản phẩm của nước ở đó nó đã bị “ biến đổi căn bản”, nghĩa là khi sản phẩm trải qua một quá trình sản xuất nào đó với tên gọi cụ thể, mà tính chất hay việc sử dụng sản phẩm đó khác với nguyên liệu gốc dùng để chế tạo ra nó. 2.3. Các chính sách cạnh tranh Các đạo luật chống độc quyền của Mỹ được quy định các nguyên tắc và luật lệ tương đối khắt khe nhằm ngăn cấm các hoạt động chống cạnh tranh gồm ấn định giá, đặt giá và những liên kết nhất định. 3. Những nét khác biệt của thị trường Mỹ mà doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý Hầu hết các nước khi thiết lập quan hệ buôn bán với Mỹ đều ý thức được rằng đây là một thị trường lớn cả về quy mô và nhu cầu tiêu dùng, đồng thời đây cũng là một trong số ít các thị trường lớn trên thế giới chấp nhận với khối lượng lớn các mặt hàng từ cao cấp đến bình dân. Do vậy, hầu hết các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đều lấy thị trường Mỹ làm mục tiêu chính cho chiến lượng hướng về xuất khẩu của mình. Việt Nam cũng là một trong số các nước đó. Tuy nhiên, để thu được những thành công tại thị trường Mỹ thì không phải bất cứ một quốc gia nào cũng có thể thực hiện được. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và TCTRQVN nói riêng phải hết sức chú ý khi thâm nhập và mửo rộng hoạt động xuất khẩu trên thị trường này. Theo kinh nghiệm làm ăn lâu năm của những người đi trước, các doanh nghiệp Việt nam cần chú ý những điểm sau: Mỹ là một thị trường khổng lồ, rất chú trọng các hình thức tiếp thị bằng quảng cáo. Mặt khác, đây không chỉ là một thị trường tiêu thụ lớn mà còn là một thị trường trung gian rất phát triển, có thể đáp ứng cho việc tiêu thụ hàng rau quả của Việt Nam khi mà Việt Nam chưa thiếp lập được các mạng lưới tiêu thụ trực tiếp đến người tiêu dùng ở các nước. Thị trường này mang tính chất vùng rõ rệt. Bên cạnh một số nguyên tắc chung cho toàn liên bang, luật pháp Mỹ cho phép các bang có quyền đưa ra những luật lệ riêng của mình trong giao dịch với các đối tác làm ăn. Một mặt hàng có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100218.doc
Tài liệu liên quan