Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng xúc tiến đầu tư để phát triển các khu công nghiệp của Việt Nam

Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng xúc tiến đầu tư để phát triển các khu công nghiệp của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng XTĐT để phát triển các KCN của Việt Nam CHƯƠNG I Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các KCN I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN Khái niệm KCN : Từ cuối thế kỉ XIX các KCN đã bắt đầu hình thành và phát triển. Năm1896 KCN đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trafford Park thành phố Manchester nước Anh. Tiếp theo Anh, các nước khác lần lượt thành lập các khu công nghiệp như Hoa Kỳ (1899), Italia (1904)và sau những năm 50 của thế kỉ XX thì sự tăng trưởng của các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Hiện nay theo số liệu nghiên cứu của hội đồng nghiên cứu phát triển quốc tế (IDRC) hiện tại có khoảng 12600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia trên thế giới. Với châu Á, KCN đầu tiên được thành lập đầu tiên ở Singapore (1951) ở Malaysia (1954), Ấn Độ (1955). Khu vực châu Á có khoảng hơn 1000 KCN đang hoạt động ( Malaysia có 166, Hàn Quốc 197 KCN, Nhật Bản 95 KCN) Hiện nay quan niệm về KCN rất khác nhau. KCN thường được hiều...

doc64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng xúc tiến đầu tư để phát triển các khu công nghiệp của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng XTĐT để phát triển các KCN của Việt Nam CHƯƠNG I Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các KCN I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN Khái niệm KCN : Từ cuối thế kỉ XIX các KCN đã bắt đầu hình thành và phát triển. Năm1896 KCN đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trafford Park thành phố Manchester nước Anh. Tiếp theo Anh, các nước khác lần lượt thành lập các khu công nghiệp như Hoa Kỳ (1899), Italia (1904)và sau những năm 50 của thế kỉ XX thì sự tăng trưởng của các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Hiện nay theo số liệu nghiên cứu của hội đồng nghiên cứu phát triển quốc tế (IDRC) hiện tại có khoảng 12600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia trên thế giới. Với châu Á, KCN đầu tiên được thành lập đầu tiên ở Singapore (1951) ở Malaysia (1954), Ấn Độ (1955). Khu vực châu Á có khoảng hơn 1000 KCN đang hoạt động ( Malaysia có 166, Hàn Quốc 197 KCN, Nhật Bản 95 KCN) Hiện nay quan niệm về KCN rất khác nhau. KCN thường được hiều là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ thống theo một quy hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa diểm cho các ngành công nghiệp với hạ tầng cơ sở, tiện ích công cộng và các dịch vụ hỗ trợ phát triển khác. Các nước như Thái Lan , Philipin lại quan niệm KCN như một thành phố công nghiệp vì ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí cho công nhân. Theo nghị định 36/1997/NĐ-CP quy định: “ khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính Phủ hoặc Thủ Tướng Chính Phủ quyết định thành lập. Theo luật đầu tư năm 2005_quy định tại khoản 20_ Điều 3 thì KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Phân loại KCN : Để hiểu rõ hơn khái niệm KCN, cần xem xét cách tiếp cận hình thành loại hình KCN. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân nhóm các loại hình KCN. Căn cứ vào tính chất nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: người ta chia ra các loại hình như: KCN tổng hợp, KCX, KCNC. Đây là cách phân chia tương đối phổ biến ở trên thế giới cũng như ở nước ta. Trong KCN tổng hợp (hay KCN ) như cách hiểu ở trên là khu để bố trí các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất chỉ dành cho xuất khẩu. Khu công nghệ cao là khu bố trí cho các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành công nghệ kĩ thuật cao là loại hình KCN đặc biệt, ngoài hưởng quy chế KCN còn được hưởng quy chế riêng đối với các loại hình này. Căn cứ vào phương thức hình thành KCN: có KCN xây dựng mới hoàn toàn ( khá phổ biến ở nước ta); KCN hình thành dựa trên cơ sở xây dựng lại, đồng bộ hiện đại hóa các doanh nghiệp đã có. Căn cứ vào quy mô: KCN quy mô lớn, vừa và nhỏ. Việc hình thành các loại hình quy mô này tùy thuộc vào khả năng đất đai, vị trí thuận lợi , sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì các tiêu thức xác định quy mô KCN mỗi thời điểm, mỗi quốc gia có khác nhau. Thông thường: KCN quy mô nhỏ: có diện tích dưới 150 ha. KCN quy mô nhỏ: từ 150 dến 300 ha. KCN quy mô lớn : có diện tích trên 300 ha. Căn cứ vào quan hệ liên đới như di dời các nhà máy phân bố trong các đô thị hoặc xen kẽ với khu vực dân cư sinh sống tập trung. Di chuyển các nhà máy là nhu cầu cấp bách để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường khu dân cư sinh sống và phát triển đô thị. Phát triển các KCN chủ yếu dành cho đối tượng các nhà máy di chuyển trên. Căn cứ vào mối quan hệ liên đới giữa sản xuất chế biến của các nhà máy công nghiệp với nguồn cung cấp nguyên liệu nông lâm thủy sản để hình thành KCN . Vai trò của các KCN với phát triển nền kinh tế: Phát triển các KCN nhằm thúc đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quán triệt chủ trương này, khu chế xuất Tân Thuận đã được thành lập. trải qua 16 năm xây dựng hiện nay trên địa bàn cả nước đã có khỏang 150.000 KCN phân bố rộng khắp. Các KCN từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong tiến trình CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên bên cạnh đó việc phát triển các KCN cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững ảnh hưởng tới phát triển nền kinh tế Việt Nam trong tương lai 3.1 Vai trò của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam: KCN –địa chỉ thu hút vốn mạnh mẽ với nhiều chính sách ưu đãi dặc biệt, cùng với một cơ chế quản lý đặc thù, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản thuận tiện hơn so với bên ngoài, và hệ thống kêt cấu hạ tầng khá thuận lợi, các KCN đang thực sự là địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có rất nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, và doanh nghiệp ngoài quốc doanh…đã đầu tư vào KCN . 3.2 KCN góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tuy thời gian phát triển không lâu, song các KCN đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra nhiều giá trị sản xuất công nghiệp; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; từng bước đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa; khai thác tốt hơn mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xóa đói giảm nghèo theo số liệu thống kê dên năm 2005 các doanh nghiệp trong KCN đã tạo ra khoảng 750 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao dộng gián tiếp. Nếu so với khả năng tạo việc là thì con số này chưa phải là tương xướng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng là lao động hầu hết là lao động trẻ họ có cơ hội tiếp thu với công nghệ sản xuất hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến, có bài bản. Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao dộng mới có kỷ luật, có kỹ thuật và có năng suất cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 3.3 Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia Cùng với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động sản xuất tập trung trong một địa bàn tương đối thuận lợi với nhiều cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù, các doanh nghiệp đã tiếp nhận nhiều công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới để tiến hành sản xuất kinh doanh nghiệp.Theo thống kê các KCN có các thiết bị, trình độ công nghệ ở mức tiên tiến hiện đại hốn với mặt bằng chung của cả nước. Nhiều công nghệ được nâng cấp về mặt kỹ thuật và trang bị trước khi đưa vào sản xuất sản phẩm; nhiều ngành công nghiệp hiện đại như công nghiệp chế tạo sản phẩm cơ khí và cơ khí chính xác dã được chuyển giao và sử dụng ở các doanh nghiệp trong KCN. 3.4 Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa Trong thời gian, các KCN đã có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đại phương. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh như: tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp công nghiệp mới trên địa bàn ở địa phương; tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư, góp phần mở rộng quy mô sản xuất ở địa phương; tạo công ăn việc là mới, đặc biệt là việc làm gián tiếp cho người lao động tại địa phương cũng như các tỉnh lân cận trong vùng Ngoài việc phát triển các KCN trong thời gian qua đã hình thành nhiều khu đô thị mới, mang lại văn minh đô thị, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hóa. II, Vấn đề lý luận cơ bản về XTĐT phát triển các KCN Khái niệm XTĐT : Trong tiếng Việt từ “xúc tiến”dược định nghĩa là làm cho tiến triển mạnh hơn , nhanh hơn”. Còn theo từ điển tiếng Anh thì từ “promotion” được dịch sang tiếng Việt là xúc tiến, khuyến khích nhưng đó không phải là nghĩa duy nhất. “Promotion” còn có nghĩa là sự khuyếch trương, thúc đẩy hay thăng tiến. Hiện nay ở Việt Nam chưa có khía niệm nào thống nhất về XTĐT và những công trình XTĐT thật sự cũng không nhiều. Tị Việt Nam văn bản phấp luật có liên quan như Luật Đầu tư cũng chưa giải thích khái niệm XTĐT rõ ràng và cúng không có giáo trình nào phân tích cụ thể khái niệm này. Trong một vài nghiên cứu của một số tổ chức hay một số cuộc hội thảo về đầu tư thì XTĐT được hiểu “theo nghĩa hẹp, XTĐT có thể hiểu là tổng thể các biện pháp mà đơn vị xúc tiến cần áp dụng nhằm thu hút đầu tư cho mục tiêu phát triển KT-XH nhất định”. Theo khái niệm này XTĐT là biện pháp thu hút vốn đầu tư song mục tiêu của XTĐT không chỉ là thu hút nhiều hơn lượng vốn mà phải thu hút phù hợp với mục tiêu phát triển của đơn vị mình. Việc thu hút nhiều hay ít, vào lĩnh vực nào, vào địa bàn nào cũng cần được căn cứ trên cơ sở phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH mỗi quốc gia. Vậy có thể tóm lại rằng XTĐT là tổng thể các biện pháp, các hoạt động nhằm định hướng tới nhà đầu tư đến với các cơ hội đầu tư tại một quốc gia hay một KCN cụ thể nào đó.Các biện pháp XTĐT do chính phủ của các quốc gia xúc tiến phải định hướng tới các nhà đầu tư để kích thích, khuyến khích nhu cầu đầu tư của họ thông qua việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước tới các nhà đầu tư, tổ chức các cuộc hội thảo, các phái đoàn vận động đầu tư , các hoạt động tiếp thị từ xa hay các hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho các nhà đầu tư trước trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư. Có thể nói rằng, hoạt động xúc tiến thương mại và hoạt động xúc tiến đầu tư có yêu cầu chuyên môn chung trong một số lĩnh vực như marketingvaf kiến thức về thị trường nước ngoài, tuy nhiên, chúng thực hiện hai chức năng khác nhau. Nếu như xúc tiến thương mại giúp cho các công ty trong nước tìm được thị trường ở nước ngoài, thì xúc tiến đầu tư nhằm thu hút các công ty nước ngoài tham nhập vào thị trường trong nước.XTĐT chính là việc thuyết phục những người lãnh đạo cao nhất của một công ty chuyển các nguồn lực ra một nước khác trung và dài hạn. Quyết định này yêu cầu phải xuất phát từ những người quản lý cấp cao và sự phê duyệt từ người đứng đầu và ban giám đốc và chúng ta cũng cần lưu ý rằng một quyết định đầu tư có thể mất nhiều thời gian hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm. Vai trò của cơ quan XTĐT đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư Ngày nay hầu hết các quốc gia đều chuyển từ giai đoạn đầu của XTĐT chủ yếu liên quan tới mở cửa thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài sang giai đoạn hai là tích cực thu hút ngồn vốn chảy vào trong nước và vào KCN .Xu hướng này biểu hiện rõ thông qua các quyết định thành lập cơ quan XTĐT (Investment Promotion Acency- IPA). Có thể nói IPA là nền tảng nỗ lực của đất nước để thu hút vốn đầu tư. Chức năng của IPA có thể tóm gọn như sau: Tăng cường sự đóng góp cảu vốn đầu tư đối với nền kinh tế bằng việc thông tin cho các nhà đầu tư mới về các lợi thế của đất nước như một địa điểm đầu tư. Hỗ trợ đầu tư bằng việc cung cấp dich vụ chuyên môn giúp cho các nhà đầu tư đáp ứng được nhu cầu dự án cụ thể của mình trong tất cả các lĩnh vực được xác định. Ngoài ra, giúp đỡ công ty có vốn đầu tư khắc phục trở ngại để mở rộng đầu tư hiện có của họ. Hướng sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài vào các ưu đãi do quốc gia thu hút đầu tư đưa ra. Đề xuất với chính phủ bất kỳ biện pháp nào có thể thực hiện nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thuận lợi cho các nhà đầu tư. Vai trò của hoạt động XTĐT Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận với, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động XTĐT như chiếc cầu nối lôi cuốn cac công ty nước ngoài đến Việt Nam như “bà mối” giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian “tìm hiểu” tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi tới làm ăn với nhau. Khi mà hoạt động đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hòa thì khi đó vai trò của XTĐT sẽ giảm dần bởi vì khi đó môi trường đầu tư quá quen biết đối với các chủ đầu tư. Hoạt động XTĐT chuyển sang một trạng thái khác. Có thể nói XTĐT đầu tư tác động trức tiếp tới FDI là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm năng ở nước ngoài. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội dịch vụ mới trên thế giới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lợi và rủi ro cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực XTĐT , vận động đầu tư. Ngoài ra bộ phận XTĐT có nhiệm vụ nghiên cứu đối tác đầu tư; xu hướng vận động của các luồng vốn ĐTNN; hỗ trợ; cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư vào KCN , làm đầu mối hỡ trợ hoạt động XTĐT ở nước ngoài của các cơ quan Trung ương, địa phương và doanh nghiệp trong nước, tham gia đàm phán đầu tư đối với các dự án quan trọng; đồng thời phối hợp thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến vận động vốn ODA và các chương trình hợp tác kinh tế song phương và đa phương. Nhưng vậy bộ phận XTĐT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút , kêu gọi ĐTNN vào Việt Nam, và vào KCN nói riêng , đặc biệt trong bối cảnh và tình hình mới cần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác XTĐT theo tinh thần chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp nhằm tạo chuyển biến trong công tác thu hút đầu tư tại các KCN. Nước ta có vị thế tốt với tên tuổi của mình trên thề giới. Nhưng đối với một số nhà đầu tư, nền kinh tế của đất nước vẫn còn gắn liền với kế hoạch hóa tập trung và đói nghèo, lạc hậu. Vậy xúc tiến đầu tư sẽ là biện pháp tốt để xóa bỏ hình ảnh một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh hay cung cách quản lý kén và lạc hậu. Để xây dựng một hình ảnh đất nước mới mở của và luôn sẵn sàng cung cấp những cơ hội đầu tư hấp dẫn cho nhầ đâu tư muốn tìm kiếm lợi nhuận cao. Xúc tiến đầu tư cũng là cơ hội để cộng đồng quốc tế có được sự hiểu biết đầy đủ về đất nước ta tạo niềm tin cho các nhà đầu tư về một môi trường đầu tư tiềm năng hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận Các cơ quan tham gia XTĐT Sơ đồ 1: Sự phối hợp giữa các cơ quan tham gia XTĐT - các bộ ban ngành trực thuộc Chính Phủ; - Các tổ chức ngoại giao, các tổ chức kinh tế của Việt Nam đóng trong và ngoài nước - UBND các tỉnh thành phố; - BQL KCN tại các tỉnh, thành phố có KCN - Các Sở ban ngành thuộc tỉnh thành phố có KCN - Các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội… - Tổng cục Du lịch, các công ty du lịch - các đơn vị chủ quản và các DNHT - các DN vệ tinh cung cấp bán thành phẩm hoặc linh kiện cho các DN trong KCN - Các DN tham gia xây dựng, cung cấp nguyên vật liệu cho các DN trong KCN tương lai - Các công ty tư vấn đầu tư cảu Việt Nam và Nhà nước đóng trong và ngoài nước - Các ngân hàng… CÁC CƠ QUAN THAM GIA XTĐT KHỐI DOANH NGHIỆP CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Thông thường các cơ quan XTĐT sẽ bao gồm các bộ phận sau: Bộ phận XTĐT, Bộ phận cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư, Bộ phận pháp lý, Bộ phận hành chính quản trị, Ban lãnh đạo; trong đó bộ phận XTĐT có vai trò quan trọng nhất: tổ chức phái đoàn xúc tiến, hội thảo, tiến hành quảng bá, marketing và các chiến dịch quan hệ công chúng và xuất bản tài liệu XTĐT. Riêng cơ cấu tổ chức của cơ quan XTĐT cấp doanh nghiệp hiện nay chưa rõ vì hầu hết các đơn vị này chỉ có được Phòng kinh doanh và tiếp thị, chức năng và nhiệm vụ của họ rất mờ nhạt Vì thế ở đề án này sẽ tập trung nghiên cứu về hoạt dộng của cơ quan XTĐT cấp quốc gia và của các địa phương nhằm thu hút vốn đầu tư vào các KCN 5. Nội dung và công cụ của hoạt dộng XTĐT 5.1 Công tác XTĐT của cơ quan trung ương và tổ chức tham gia XTĐT Thông thường, để thực hiện tốt công tác XTĐT việc đặt ra những chương trình cho những hoạt động này cũng rất quan trọng. Nội dung của công tác XTĐT bao gồm 6 loại hình hoạt động NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XTĐT XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG HÌNH ẢNH XÂY DỰNG QUAN HỆ CUNG CẤP DỊCH VỤ VÀ HỖ TRỢ CHO NHÀ ĐẦU TƯ LỰA CHỌN MỤC TIÊU VÀ TẠO CƠ HỘỊ ĐẦU TƯ ĐÁNH GIÁ VÀ GIÁM SÁT CÔNG TÁC XTĐT 5.1.1 Xây dựng chiến lược về XTĐT Mục tiêu của việc xây dựng một chiến lược về XTĐT là để xác định các ngành, lĩnh vực cụ thể tại các khu vực địa lý được lựa chọn mà cơ quan XTĐT có nhiều khả năng thu hút nhất . Có 3 bước để xây dựng một chiến lược XTĐT Bước I: Đánh giá nhu cầu của cơ quan XTĐT và tiềm năng đầu tư - Xác định các mục tiêu của cơ quan và mục tiêu phát triển của quốc gia, của địa phương và của doanh nghiệp để tối đa lợi ích của những nỗ lực xúc tiến của cơ quan XTĐT . - Khảo sát các xu hướng XTĐT và những ảnh hưởng bên ngoài : các xu hướng cơ quan XTĐT quốc tế và khu vực sẽ cho thấy ai đang đầu tư,ở đâu và tại sao, đồng thời sẽ giúp cơ quan XTĐT xác định các ngành, lĩnh vực tiềm năng để hướng tới. - Tiến hành phân tích SWOT: phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức sẽ cho cơ quan XTĐT một bức tranh năng động về điểm mạnh, điểm yếu, hiện tại và tương lai của đất nước dưới góc độ là một địa điểm đầu tư. Phân tích các đối thủ cạnh tranh: cơ quan XTĐT có thể dùng các điểm tìm được từ quá trình phân tích SWOT để đặt tiêu chuẩn về khả năng cạnh tranh của đất nước, của địa phương hay của doanh nghiệp mình với tư cách là một địa điểm đầu tư với cách đối thủ cạnh tranh. Bước II: hướng tới các ngành và các khu vực địa lý có nguồn đầu tư Để hướng tới các ngành và các khu vực địa lý có nguồn đầu tư phù hợp với các đặc tính của đất nước, cần hoàn thiện các nhiệm vụ sau: Lập một danh sách các ngành: Danh sách sơ bộ các ngành có khả năng để hướng tới có thể bao gồm các ngành đã hoạt động tại đất nước , tại địa phương, các ngành hoạt động tại các nước cạnh tranh. Phân tích các ngành: phân tích cơ cấu, các công ty quan trọng và xu hướng để đánh giá khả năng ĐTNN trong tương lai và để tìm hiểu ngành này tìm kiếm gì từ một địa điểm ở nước ngoài. Bước III: xây dựng chiến lược XTĐT Cách xây dựng một tài liệu chiến lược xách định: các ngành được hướng tới trong thời gian ngắn hạn và trung hạn; các khu vực địa lý cần chú trọng của chiến lược; các phương pháp XTĐT được sử dụng; những thay đổi cần thiết trong cơ cấu tổ chức và nhân viên trong ciow quan; những thay đổi cần thiết về quan hệ đối tác và ngân sách, các nguồn tài trợ cho các giai đoạn. 5.1.2 Xây dựng hình ảnh Bước I: Xác định mục đích của nhà đầu tư và mục tiêu của việc xây dựng hình ảnh. Bước II Xây dựng các chủ đề marketing. Bước III: Lựa chọn và xây dựng ccs công cụ XTĐT và tham gia vào chương trình phối hợp marketing. 5.1.3 Xây dựng quan hệ Bước I : một cơ quan XTĐT tham gia vào các quan hệ đôi tác để đem lại kết quả tốt hơn cho các nhà đầu tư Bước II: Xây dựng một đối tác thành công phụ thuộc nhiều vào việc chuẩn bị và nghiên cứu của cơ quan XTĐT và các cuộc hội thảo chi tiết giữa các đối tác khi bắt đầu công việc. Bước III: các quan hệ đối tác nên được xem xét laị định kì ít nhất 6 tháng/lần để đảm bảo tính hiệu quả. Lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư Bước I: thực hiện chuyển từ giai đoạn xây dựng hình ảnh sang vận động đầu tư có sự chồng chéo. Tuy nhiên, vận động đầu tư có những đặc thù riêng bởi tính tập trung vào từng công ty riêng lẻ: bởi phải chuyển từ liên hệ chung thành liên hệ cá nhân và bởi sự mô tả rõ ràng hơn về những lợi ích cụ thể dành cho các cơ quan XTĐT đang muốn vận động Bước II : Xây dựng một cơ sở dữ liệu theo định hướng XTĐT và được cập nhật Cơ sở dữ liệu vận động đầu tư nên được xây dựng ngay trong nội bộ. Nó cho phép các cơ quan XTĐT thu thập và XTĐT xử lý các số liệu mà nhờ đó cơ quan XTĐT có thể đưa ra những thông tin XTĐT tập trung cao để hướng vào công ty mà mình muốn vận động. Bước III: Lập Kế hoạch và lập chiến dịch vận động đầu tư Vận động đầu tư có ba việc chính phải làm là: xây dựng Kế hoạch marketing; chuẩn bị thư để marketing trực tiếp và thuyết trình tại công ty. Xây dựng Kế hoạch marketing: ở quan XTĐT phải quyết định những vấn đề trọng tâm của cuộc vận động như địa bàn và lĩnh vực; xác định mục tiêu của cuộc vận động và đặt mục tiêu thật xác thực con số các công ty sẽ liên hệ Bước IV: các hoạt động tiếp theo chuyến tham quan công ty Các báo cáo về chuyến thăm quan công ty phải được chuẩn bị ngay lập tức sau mỗi lần tới công ty. Những thông tin trong báo cáo này đặt nền móng cho các hoạt động hỗ trợ đầu tư triển khai dự án thành công, trong đó gồm có cả chuyến thăm quan thực địa. 5.1.5. Cung cấp dịch vụ và hỡ trợ cho các nhà đầu từ sau khi cơ quan XTĐT có bài thuyết trình trước một nhà đầu tư tiềm năng cơ quan XTĐT cần chuẩn bị một bản báo cáo về chuyến thăm doanh nghiệp để tạo cơ sở hỗ trợ cho các nhà đầu tư thành công Hỗ trợ nhà đầu tư bao gồm ba giai đoạn: chuẩn bị cho việc đi thực địa, chuẩn bị và thu Xếp cho chuyến đi đó và các công việc sau chuyến thăm. 5.1.6 Đánh giá và giám sát công tác XTĐT -Giám sát là hoạt động kiểm tra một cách đều đặn các tiến bộ trong hoạt động của cơ quan XTĐT để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Đánh gía là quá trình kiểm tra xem các mục tiêu của cơ quan XTĐT đã được chưa và nếu đã đạt được thì về mặt chi phí có tiết kiệm không. Thông qua những hoạt dộng này một cơ quan XTĐT có thể đánh giá được hoạt động của mình. - Đánh giá kêt quả hoạt động tạo điều kiện cho cơ quan XTĐT so sánh các kêt quả và tiến bộ đã đạt được với các mục tiêu nội bộ và mục tiêu quốc gia. Điều này cũng có một số các lợi ích liên quan quan trọng: thu thập dữ liệu và các thông tin khác được sử dụng trong các chiến dịch xúc tiến; tạo điều kiện cho cơ quan XTĐT học hỏi từ những sai sót của mình và chứng minh khả năng hoạt động của cơ quan XTĐT . - Để tạo điều kiện giám sát và đánh giá thường xuyên tất cả các dự án và hoạt động của cơ quan đều phải xây dựng hệ thống mục tiêu trung gian và kế hoạch thời gian để hoàn thành các mục tiêu đó. Các mục tiêu và lịch biểu thực hiện là nền móng của việc thực hiện thành công công tác giám sát và đánh giá Giám sát và đánh giá không thể coi là những nhiệm vụ đứng riêng lẻ. Hơn thế các hệ thống theo dõi hoặc đo lường tốt nhất là những hệ thống phải được triển khai thường nhật như một phần trong công việc thường xuyên của các cán bộ cơ quan XTĐT . Thực hiện hiệu quả hoạt động giám sát và đánh giá trong cơ quan XTĐT , cơ quan XTĐT có thể tiến hành theo 4 bước sau: Bước I: Giám sát tình hình môi trường đầu tư tại đại điểm của cơ quan XTĐT . Bước II: Giám sát và đánh giá các hoạt động chính của cơ quan XTĐT Bước III: Giám sát và đo lường tình hình đầu tư thực tế. Bước IV: Xây dựng tiêu chuẩn và so sánh các kết quả đầu tư 5.2 Hoạt động của doanh nghiệp 5.2.1 Đối với doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng A1. Doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng –chủ đầu tư là đơn vị có vốn nhà nước Trách nhiệm phần nào thuộc về đơn vị chủ quản. Đối với những chủ đầu tư này mục tiêu của họ là lấp đầy các KCN hiện có. Đôi khi họ không quan tâm đến chất lượng đầu tư như quy hoạch ngành nghề, quy mô đầu tư… mà chỉ quan tâm đến việc nhanh chóng lấp đầy KCN mà thôi. Các doanh nghiệp chủ yếu đầu tư là doanh nghiệp trong nước quy mô đầu tư nhỏ nhưng sử dụng nhiều đất. Chủ đầu tư ở những KCN này hoạt động không linh hoạt và công tác XTĐT rất kém ,chủ yếu trông chờ vào đơn vị chủ quản. Thực tế cho thấy, chủ đầu tư của loại hình này được lựa chọn một cách hình thức, gượng ép, thiếu năng lực chuyên môn. Nhiều công ty chỉ hoạt động tay trái chờ đợi sự hỗ trợ của ngân sách. Công tác XTĐT ở những đơn vị này hoạt động mang tính tự phát và hầu như họ không hoạt động theo các nội dung trên chủ yếu chỉ dựa vao các doanh nghiệp tự tìm tới họ. A2. Doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng là cơ sở có vốn đầu tư trong nước & đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân: Trách nhiệm của những đơn vị này cũng khá nặng nề. Khi đồng vốn bỏ ra họ mong muốn nhanh chóng được thu hồi và sử dụng có hiệu quả. Để làm được điều đó công tác XTĐT lấp đầy các KCN mà chính họ bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng là rất quan trọng. Ngoài những hoạt động phối hợp với các tổ chức Trung ương nhằm tuyên truyền, vận động đầu tư thì việc nâng cao chất lượng hạ tầng trong hàng rào KCN và nâng cao chất lượng quản lý KCN là không thể thiếu được. Bản thân doanh nghiệp xây dựng hạ tầng phải tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư khi họ có ý định đầu tư vào KCN. Nhà đầu tư chỉ có nhiệm vụ bỏ vốn và xây dựng nhà máy tránh tình trạng đưa nhà đầu tư vào việc làm thủ tục đầu tư. KCN dã thu hút các nhà đầu tư bằng cách này và họ đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Doanh nghiệp xây dựng hạ tầng một số KCN lớn đã nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin trong việc tuyên truyền quảng bá cho mình trên các phương tiện thông tin. Tự xây dựng trang web riêng, tự đưa thông tin trên trang Web của các đối tác có uy tín… Đối với doanh nghiệp vệ tinh Doanh nghiệp vệ tinh là những đơn vị chuyên cung cấp nguyên liệu, bán thành phẩm hoặc sản phẩm dở dang choa các doang nghiệp trongk . Ví dụ: Một đơn vị sản xuất thịt gà đóng hộp xuất khẩu thì các đơn vị vệ tinh là những đơn vị chăn nuôi và cung cấp thịt gà… Ngoài việc tham gia vào những hoạt động XTĐT của cơ quan Chính phủ, như các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất các tỉnh nếu có thể thì bản thân những doanh nghiệp này cần phải tự khuyêch trương và quảng cáo cho chính doanh nghiệp của mình. Nhà đầu sẽ yên tâm hơn khi ở gần KCN nơi mà họ xây dựng nhà máy có những đơn vị vệ tinh giúp họ giảm được chi phí và thời gian trong một số công đoạn. 5.3 Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT : Gửi thư trực tiếp à Gọi điện à Bài thuyết trình à thăm thực địa àNhững hoạt động tiếp sau chuyến thăm quan và các cuộc đàm phán à Quyết định đầu tư àHỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án. NHỮNG CÔNG CỤ CHÍNH ĐỂ XTĐT KỸ THUẬT XTĐT : QUẢNG CÁO Thường sử dụng trong Ưu điểm Xây dựng hình ảnh Thể hiện được bạn thích cai gì chỗ nào và lúc nào Có thể làm nhiều người quan tâm Có tác động mạnh tới những người có nhìn nhận không tích cực Cũng thích hợp cho giai đoạn vận động đầu tư. Trong điều kiện tài chính hạn hẹp, một quảng cáo có thể sử dụng hai mục đích: xây dựng hình ảnh và vận động đầu tư Nhược điểm Lỗi thường gặp Thiếu độ tin cậy Tiêu tốn nhiều tiền Sẽ không có hiệu quả nếu như số lần quảng cáo không vượt quá mức tối thiểu để tạo nên nhận thức hoặc được ghi nhớkhó nhận ra giữa hàng đống các quảng cáo Khi đặt một quảng cáo IPA nhận được rất nhiều điện thoại của người làm dịch vụ quảng cáo hơn là từ các nhà đầu tư Hình ảnh quảng cáo đơn điệu không thường xuyên thay đổi là một sự lãng phí. Hay nội dung gần giống nhau… Tham gia triển lãm Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Hoạt động này có thể vừa để xây dụng hình ảnh và vận động đầu tư Khiến IPA thất vọng nếu quá kỳ vọng vào việc tạo ra cơ hội vận động đầu tư .Hoạt động này chỉ là việc khởi đầu tốt cho việc xây dựng hình ảnh Và tạo cơ hội thu được thêm hiểu biết thị rường về các nhà đầu tư tiềm năng Ưu điểm Nhược điểm Giúp giới thiệu thông tin đầy dủ về đất nước và IPA Dễ dàng phan tích các đối thủ cạnh tranh Tạo nên các hướng kinh doanh Củng cố kiến thức về khách hàng và thị trường Khó tìm được nhũng người ra quyết định và có ảnh hưởng tới việc ra quyết định tại gian triển lãm của công ty. Đòi hỏi thời gian tương đối nhiều để lên kế hoạch và tham gia triển lãm của công ty Quan hệ công chúng Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Xây dựng hinhfanhr và nâng cao uy tín của IPA Một vài nhà báo dù chỉ là số ít, có thể có thành kiến đối với đất nước của bạn,và mặc cho lãnh đạo IPA có cố gắng tới đâu, nhưng bài báo của họ về nước bạn vẫn tiêu cực Ưu điẻm Nhược điểm Có thể là công cụ rất mạnh uốn nắn lại những nhận thức tiêu cực và củng cố lại hình ảnh đất nước bạn là một địa điểm đầu tư lý tưởng Độ tin cậy cao Chi phí vừa phải Phụ thuộc vào phương tiện truyền thông, có thể ảnh hưởng tới số đông La công cụ đặc biệt hữu dụng để thông báo cho thính giẩ trong nước về như cầu FDI và thành tích của IPA Bài viết tiêu cực trên thông tin đại chúng sẽ đưa tới những nhận thức tiêu cực,một lỗi dẫn sai có thể làm phản tác dụng Thiếu sự kiểm soát mang tính chính xác, nội dung và những kết luận do nhà báo viết ra Các đoàn vận động đầu tư từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư hoặc ngược lại Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Phụ thuộc vào cách thức tổ chức các đoàn. Đoàn vận động chung chắc chắn là xây dựng hìn ảnh. Ngược lại một đoàn về một lĩnh vực cụ thể có thể là đoàn vận động đầu tư Các doanh nghiệp trong nước tham gia đoàn từ nước tiếp nhận đầu tư sang nước đầu tư thường có những kỳ vọng quá cao phi thực tế. Điều nay có thể dẫn tới sự thất vọng với IPA khi kỳ vọng của họ không đạt được Ưu điểm Nhược điểm - Các đoàn vận động có thể thỏa mãn nhu cầu cảu cả nhà đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp địa phương. Đoàn từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư thường gồm các công ty có tiềm năng thực sự bởi vì họ chỉ có thể tham gia đoàn khi họ thực sự có sự quan tâm tới việc kinh doanh trong khu vực họ tới tham quan. - Một đoàn vận động chung chung không có trọng tâm dẽ làm phan tán các tác động XTĐT - Đoàn vận động từ nước nhận đầu tư sang nước đầu tư mà không tập trung vào đầu tư, chỉ tập trung vào phát triển thương mại/xuất khẩu sẽ làm hỏng cơ hội vận động đầu tư Các hội thảo về cơ hội đầu tư Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Một cuộc hội thảo với trọng tâm chuyên sâu về một ngành tổ chức tại thị trường trọng điểm chắc chắn là vận động đầu tư. Trọng tâm của cuộc hội thảo mang tính chung chung thì có khả năng đó là xây dựng hình ảnh Các cuộc hội thảo thành công đòi hỏi phải lên kế hoạch kỹ càng từ trước. Một Hội thảo được tổ chức kém sẽ làm giảm hình ảnh chuyên môn của IPA Ưu điểm Nhược điểm Tạo ra cơ hội tốt để thiết lập các quan hệ cá nhân với một công ty triển vọng và để chuyển trọng tâm các hoạt động của bạn đôi với công ty từ giai đoạn xây dựng hình ảnh sang giai đoạn vận động đầu tư Nếu chỉ cố gắng mời bằng được những người lãnh đạo cấp cao của công ty tham dự có thể làm tăng số lượng các công ty không nhận lời mời. Sử dụng thư trực tiếp và hoặc telemarrketing Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Vận động đầu tư Khi thất bại mới nhận ra rằng marketing trực tiếp phải là một chuỗi các cuộc giao tiếp giữa IPA với nhà đầu tư chứ không chỉ là một bức thư gửi đi rồi bị lãng quên. Ưu điểm Nhược điểm - Rất tốt cho việc thiết lập và duy trì các cuộc đối thoại giữa IPA và các nhà đầu tư tiềm năng. - Có thể vận động một cách có lựa chọn các đối tượng cụ thể. - Cách tiếp cận mang tính cá nhân cao - Rất tiết kiệm - Cho phép bạn từng bước đánh giá tính hiệu quả của chiến dịch vận động - Việc tập trung gửi thu vận động nhà đầu tư chỉ có kết quả tốt khi có một cơ sở dữ liệu tốt. - Thông tin trong cơ sở dữ liệu nhanh chóng bị lạc hậu - Một chiến dịch marketing trực tiếp phụ thuộc nhiều vào telemarrketing thì kết quả càng kém. Dùng internet và thư điện tử Thường sử dụng trong Lỗi thường gặp Trải suốt từ giai đoạn xây dựng hình ảnh tới vận động đầu tư Không nên liên hệ với khách hàng bằng email trước khi thiết lập được quan hệ với họ bằng một lá thư trực tiếp hoặc gặp mặt tại triển lãm hoặc hội thảo. Ưu điểm Nhược điểm - Internet ngày càng trở thành cách hiệu quả nhấtđể phổ biến thông tin thứ hàng hóa quý giá nhất của IPA - Một website được thiết kế sáng taojvaf theo sát các yêu cầu của khách hàng có thể tạo ra hình ảnh khác biệt của IPA với các đối thủ cạnh tranh khác - Email là công cụ mạnh và tiết kiệm Để xây dựng và duy trì quan hệ với khách hàng - Các IPA thường thất bại khi giữ cho website được cập nhật. - Nhiều website thất bại trong việc tạo ra kết nối nguồn thông tin với cac website có liên quan(ví dụ các bộ chủ yếu, các nguồn số liệu như ngân hàng quốc gia và các cơ quan phát triển kinh tế) Gửi thư trực tiếp à Gọi điện à Bài thuyết trình à thăm thực địa àNhững hoạt động tiếp sau chuyến thăm quan và các cuộc đàm phán à Quyết định đầu tư àHỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án. Phần 1. Mục tiêu thu hút đầu tư 1. Mục tiêu định tính Mong muỗn về hình ảnh đầu tư Mong muốn về mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước 2. Mục tiêu định lượng Số lượng doanh nghiệp thu hút; Số lượng vốn đầu tư thu hút; số lượng doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp xúc với nhau. Phần 2.Các biện pháp thực hiện kế hoạch 3. Nhóm các biện pháp xây dựng hình ảnh về môi trường đầu tư Gồm các biện pháp : 3.1Quang cáo trên các phương tiện truyền thông chung 3.2 Tham gia các cuộc triển lãm, hội thảo đầu tư. 3.3 Quảng cáo trên các phương tiện tuyên truyền riêng của ngành hoặc khu vực. 3.4 các doàn khảo sát tới các nước có nguồn đầu tư và từ các nước đầu tư tới nước sở tại 3.5 Hội thảo thông tin chung về cơ hội đầu tư Ngân sách phân bổ, cơ quan thực hiện , cơ quan phối hợp , thời gian thực hiện, mẫu đánh giá Kết quả 4. Nhóm các biện pháp tạo nguồn đầu tư Các biện pháp : 4.1 Tham gia các chiến dịch qua điện thoại hoặc thư tín trực tiếp 4.2 Phái đoàn tham quan riêng về ngành hoặc khu vực từ nước đầu tuwsang nước sở tại và ngược lại 4.3 Hội thảo thông tin về ngành hay một khu vực cụ thể. 4.4 Tham gia nghiên cứu những công ty cụ thể. Ngân sách phân bổ, cơ quan phối hợp , thời gian thực hiện, mẫu đánh giá kết quả . 5.Nhóm các biện pháp dịch vụ đầu tư Các biện pháp : 5.1 Cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư . 5.2 Xem xét và giải quyết các dơn xin đầu tư và giấy phép đầu tư. 5.3 Cung cấp các dịch vụ sau đầu tư. Đặc biệt chú trọng các nhà đầu tư dã có mặt tại Việt Nam: tọa đàm chính sách , trao đổi thông tin hai chiều giữa các nhà quản lý và doanh nghiệp. Phần 3. Phối hợp và hợp tác 6. Các cơ quan thường trú nước ngoài Tên cơ quan, chức năng, trưởng đại diện, người trực tiếp làm việc với thành phố, ban quản lý KCN , phối hợp hiện tại, đề xuất phối hợp 7. Các cơ quan Việt Nam tại nước ngoài Tên cơ quan, chức năng, trưởng đại diện, người trực tiếp làm việc với trhanhf phố, ban quản lý KCN , phối hợp hiện tại, đề xuất phối hợp Phần 4. Đánh giá định kỳ việc thực hiện Kế hoạch XTĐT 8. Đánh giá theo nhóm biện pháp thực hiện Nhóm biện pháp ở trên. Tiêu chí đánh giá, Kết quả thực hiện, nguyên nhân thành công và thất bại, tiếp tục hay không tiêp tục hợp tác, các yếu tố mới xuất hiện, các điều kiện và hỗ trợ trong thời gian tiếp theo 9. Đánh giá theo cơ quan thực hiện biện pháp Các cơ trực thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư, UBND tỉnh, thành phố và Sở KH&ĐT; đơn vị bên ngoài được giao thực hiện một số biện pháp; cơ quan phối hợp bên ngoài: Tiêu chí đánh giá, Kết quả thực hiện, nguyên nhân thành công và thất bại, tiếp tục hay không tiêp tục hợp tác, các yếu tố mới xuất hiện, hình thức giao việc trong thời gian tới, điều kiện thực hiện. Nguồn : giáo trình “ Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” Bảng 1. NỘi dung của chương trình hành động XTĐT CHƯƠNG II Thực trạng XTĐT vào các KCN ở Việt Nam I, Tình hình phát triển KCN trong thời gian qua 1. Tình hình thành lập KCN, KKT Trong 7 tháng đầu năm 2007, cả nước có 6 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập các KCN Thạnh Đức, tỉnh Long An (256 ha); KCN Minh Hưng, tỉnh Bình Phước (194 ha); KCN Việt Hoà - Kenmark (46 ha); KCN Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (54 ha) và mở rộng KCN Việt Hương II, tỉnh Bình Dương (140 ha); KCN Mỹ Xuân B1 - Đại Dương, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (146 ha). Tổng diện tích KCN thành lập mới và mở rộng đạt 836 ha. Tính đến cuối tháng 7/2007, cả nước đã có 148 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.120 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 21.224 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 90 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 19.790 ha và 58 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Các KCN phân bố ở 49 tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung ở 3 Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, miền Trung, miền Bắc với tổng số 110 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên trên 25.900 ha, chiếm trên 80% tổng diện tích các KCN cả nước. Trong 7 tháng đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận bổ sung một số KCN vào Quy hoạch, trong đó có một số KCN, dịch vụ, đô thị (ở Bắc Ninh, Tiền Giang). Ngoại trừ một số KCN có trong Quyết định số 1107/QĐ-TTg đã được thành lập, từ nay đến năm 2015, dự kiến có 113 KCN được thành lập mới với tổng diện tích quy hoạch 29.257 ha và 27 KCN mở rộng với tổng diện tích mở rộng 6.014 ha. 2. Tình hình thu hút đầu tư Trong 7 tháng đầu năm 2007, các KCN đã thu hút được 253 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 2.022 triệu USD, chiếm trên 30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và tăng hơn 2,7 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Bà Rịa – Vũng Tàu hiện đang là tỉnh dẫn đầu cả nước về vốn đầu tư nước ngoài thu hút được với tổng vốn đầu tư trên 626 triệu USD, trong đó có dự án nhà máy thép cán nóng công suất 2 triệu tấn/năm (Công ty CP thép ESSAR Việt Nam) với tổng vốn đầu tư 527,3 triệu USD; tiếp theo là Bình Dương (trên 414 triệu USD); Đồng Nai (gần 158 triệu USD). Về tình hình tăng vốn, trong 7 tháng đầu năm 2007 có 197 lượt dự án đầu tư tăng vốn. Tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 888 triệu USD, chiếm khoảng 45% số vốn tăng thêm của cả nước và tăng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, trong 7 tháng đầu năm 2007, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KCX đạt 2.891 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước, tăng hơn 2 lần so với 7 tháng đầu năm ngoái. Tính đến nay, các KCN cả nước đã thu hút được gần 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 24,2 tỷ USD và trên 2.700 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 136 nghìn tỷ đồng (chưa kể các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 976 triệu USD và trên 41 nghìn tỷ đồng). Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt 53,5%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 70%. 3 Tình hình sản xuất kinh doanh Hiện nay, có trên 3.500 dự án trong các KCN cả nước đã đi vào sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt gần 12 tỷ USD và 80 nghìn tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN 7 tháng đầu năm ước đạt khoảng 10 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái; giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 4,5 tỷ USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm ngoài; nộp Ngân sách đạt gần 750 triệu USD. Các doanh nghiệp KCN hiện giải quyết việc làm cho trên 900 nghìn lao động trực tiếp. 4. KCN nam châm thu hút FDI Phần lớn số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 đã chảy vào vùng trũng là các khu công nghiệp trên cả nước. Dự báo, với Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các khu công nghiệp sẽ là tâm điểm hút nguồn vốn FDI, dự kiến đạt khoảng 6 tỷ USD/năm. Con số cuối cùng về thu hút FDI trong năm 2006, theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vào khoảng 10 tỷ USD, trong đó vốn cấp mới là 7,5 tỷ USD, còn lại là vốn đăng ký bổ sung. Và trong tổng vốn đăng ký cấp mới cho 797 dự án, riêng các khu công nghiệp và khu chế xuất trong cả nước đã chiếm tới 48,6% tổng vốn đăng ký. Trong 10 dự án có quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006 phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD. Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này. Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4triệuUSD,… Như vậy, tính từ trước đến nay, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút gần 2.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 20 tỷ USD. Đối với các chuyên gia, kết quả nổi bật về thu hút FDI của các khu công nghiệp trong năm 2006 không phải là điều gì quá ngạc nhiên. Theo họ, đó chính là sự nối tiếp thành quả của những năm trước, và điều này càng thêm khẳng định một dự báo trước đó rằng các khu công nghiệp sẽ là viên nam châm "hút" nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam. Cộng với quyết định của Thủ tướng phê quyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, với mục tiêu hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt công nghiệp quốc gia, viên nam châm này sẽ được tiếp thêm một năng lượng lớn. Nhiều ý kiến cũng cho rằng với việc Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sẽ có nhiều cơ hội hơn được tạo ra cho nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó các khu công nghiệp càng trở nên hấp dẫn hơn, làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng mạnh cả về nguồn vốn, công nghệ, và kinh nghiệm quảnlý. Không chỉ thu hút vốn trực tiếp, sắp tới, với việc lên sàn giao dịch chứng khoán, các khu công nghiệp còn có thế mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp phía Nam của các địa phương: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tp.HCM, và Đồng Nai vẫn là những đơn vị thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất của cả nước, với 205 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,9 tỷ USD, chiếm 73% số dự án và 76% số vốn thu hút mới trong các khu công nghiệp trên cả nước (tính trong 11 tháng đầu năm). Những tỉnh, thành phố này cũng thuộc diện danh sách các địa phương thu hút trên 100 triệu USD trong năm 2006 II, Thực trạng công tác XTĐT vào các KCN Những thành tựu đạt được trong XTĐT  Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lý KCN các địa phương đã xây dựng được mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan “một cửa, một đầu mối” nhằm hỗ trợ nhà đầu tư toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai dự án, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở trong và ngoài nước. Ở cấp Trung ương, thời gian qua công tác XTĐT trực tiếp nước ngoài, quảng bá hình ảnh Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn đã có những bước chuyển bến mạnh mẽ, đặc biệt là từ năm 2001 trở lại đây. Việc vận động XTĐT được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức đa dạng. Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã thành lập ba trung tâm XTĐT ở khu vực Bắc, Trung , Nam để cung cấp các thông tin mới nhất liên quan đến đầu tư và tổ chức các hoạt động quảng cáo, vận động, XTĐT. Việt Nam đang đẩy mạnh các hoạt động vận động, XTĐT tập trung vào các nước có tiềm lực tài chính mạnh và có trình độ công nghệ cao như Mỹ, Nhật Bản và một số nước ở châu Âu. Các cược hội thảo XTĐT trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng như các cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với cơ quan trong và ngoài nước tổ chức đã góp phần quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với Việt Nam nói chung và bộ phận các KCN riêng. Kết quả đã thu hút được một số lượng lượng lớn tập đoàn, doanh nghiệp có danh tiếng từ nhiều nước và vừng lãnh thổ trên thế giới.(Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…) vào Việt Nam tìm cơ hội đầu tư; và số lượng các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã gia tăng mạnh mẽ ở một số địa bàn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng( Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh,…) và các tỉnh Đông Nam Bộ ( Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu) Ở cấp địa phương, các sở Kế hoạch & Đầu tư và ban quản lý KCN các tỉnh cũng dã tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động XTĐT nhằm xây dựng và quảng bá hình ảnh của một số địa phương. Một số Sở KH & ĐT các tỉnh đã tích cực tham gia vào các chuyến làm việc và các hội thảo XTĐT .Người quảng bá hình ảnh cho địa phương hiệu quả nhất đáng tin cậy nhất không ai khác chính là những nhà đầu tư hiện đang đầu tư kinh doanh thành công tại KCN đó. Đây cũng là hiện tượng đồng thanh tương ứng trong đầu tư, nghĩa là các nhà đầu tư tiềm năng khi nghiên cứu các cơ hội đầu tư và quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư thường quan tâm tới các doanh nghiệp và các nhà đầu tư đã đầu tư thành công tại KCN này Tất cả các cơ quan XTĐT ở Trung Ương và địa phương đề công nhận tầm quan trọng của dịch vụ đầu tư và đồng ý với quan điểm cho rằng “làm hài lòng các nhà đầu tư chính là công cụ XTĐT tốt nhất”. Nhiều tiến bộ đã được ghi nhận trong việc cung cấp các dịch vụ trước khi cấp giấy phép đầu tư. Chẳng hạn như việc cung cấp một đầu mối liên hệ cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ có ý định đầu tư vào KCN hoặc rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư cho các dự án ĐTNN thông thường xuống còn từ 2 đến 3 ngày, những dự án phức tạp thì được xem xét giải quyết trong vòng 7 ngày, hay việc công bố rõ ràng, minh bạch công khai cho tất cả các nhà đầu tư biết về các quy hoạch công nghiệp, dịch vụ ở KCN, tạo quỹ đất thuận lợi, kết cấu hạ tầng trọng yếu như đường giao thông, điện nước… được đáp ứng tốt, thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư được tinh giản tới mức tối đa. Cụ thể có thể thấy hoạt động XTĐT đang diễn ra với xu hướng tốt: Năm Chương trình XTĐT 2005 Những ngày việt nam tại Mỹ , Đức và Singapore 2006 Những ngày Việt Nam tại Bỉ-Luxemboug và Anh 2007( tháng 10) Những ngày Việt Nam tại Hàn Quốc và Pháp Một số kết quả của hoạt động xúc tiến đầu tư: thời gian qua chúng ta quan tâm và chú trọng công tác xúc tiến đầu tư để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Giai đoạn 2001 - 2006,chúng ta đã tận dụng nhiều cơ hội để tiếp xúc, làm việc với các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế như trong dịp các lễ hội văn hoá - du lịch, các hội nghị quốc tế, các hội thảo đầu tư trong và ngoài nước và đặc biệt là việc quảng bá thành công hình ảnh của Việt Nam thông qua hội nghị APEC Các nhà Lãnh đạo APEC và bạn bè quốc tế đánh giá rất cao về vai trò chủ nhà, chủ tịch Hội nghị của Việt Nam. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nhấn mạnh, các nhà lãnh đạo cho biết họ khâm phục sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng của Việt Nam trong thời gian gần đây, ấn tượng sâu sắc với vẻ đẹp của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, với lòng mến khách và nụ cười thân thiện của mỗi người dân Việt Nam, với tà áo dài quyến rũ, với các món ăn truyền thống và với bản sắc văn hóa đặc sắc của đất nước Việt Nam... ‘’Ngay cả đến Tổng thống Mỹ Bush có nói rằng trước khi đến Việt Nam ông còn nhiều băn khoăn không biết sẽ nhận được sự đối xử như thế nào. Nhưng khi đặt chân tới Việt Nam, ông đã thực sự bất ngờ vì sự thân thiện của người Việt Nam. Ông còn nói khi về Mỹ sẽ kể lại điều này, để người dân Mỹ hiểu hơn về Việt Nam, để bớt đi những mặc cảm hay ấn tượng sai về Việt Nam’’, thông qua việc tổ chức thành công APEC 2006, nhờ tạo được hình ảnh mới thân thiệt và hài lòng các nhà lãnh đạo cấp cao cũng như các du khách mà Việt Nam đã thuyết phục được giới đầu tư rằng, đất nước này chính là điểm đến, điểm chọn lựa an toàn và hiệu quả của các nhà đầu tư Nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các hoạt động như: giới thiệu tiềm năng và cơ hội đầu tư các tỉnh, (ii) thu hút đầu tư ; (iii) hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư. Các đơn vị chức năng xúc tiến đầu tư của các tỉnh đã tập trung thu thập thông tin, biên soạn, ấn hành các tờ gấp, brochure, đĩa CD và thông qua một số lễ hội văn hoá - du lịch, Hội nghị SOM III và Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC; đặc biệt là qua một số hội thảo đầu tư trong và ngoài nước, …để giới thiệu Việt Nam là 1 điểm đến an toàn và tiềm năng. Với nguồn tài nguyên phong phú, tiềm năng phát triển thuỷ điện, nhiều sản vật quý hiếm và nhiều khu kinh tế, khu chế xuất như Khu kinh tế mở Chu Lai,khu công nghệ cao Tp HCM, Láng Hoà Lạc.. đặc biệt là sự thân thiện,năng động của các tỉnh đã chiếm được cảm tình, tin tưởng, yên tâm của các nhà đầu tư. Trong thời gian qua,chúng ta đã tiến hành tổ chức được nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư nhiều nước và lãnh thổ như Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,Mỹ… bằng kinh phí xúc tiến đầu tư của các tỉnh và theo lời mời của nhà đầu tư. Cùng với việc giới thiệu, mời gọi nhà đầu tư, các cơ quan chức năng của các tỉnh thường xuyên giữ liên lạc, trao đổi và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, xác định nhà đầu tư tiềm năng theo từng lĩnh vực, ngành nghề, dự án cụ thể để tập trung hỗ trợ và hướng dẫn cho nhà đầu tư nghiên cứu, thực hiện dự án đầu tư. Các cơ quan chức năng luôn nhận thức rằng, xúc tiến đầu tư là một hoạt động xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu, hình thành và thực hiện dự án đầu tư, nên đã tích cực hỗ trợ cho nhà đầu tư như tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án đầu tư; các vấn đề về đất đai, thành lập doanh nghiệp, thủ tục đầu tư, xây dựng và hoạt động của dự án đầu tư… Nhờ các hoạt động xúc tiến đầu tư tích cực trong thời gian qua mà chỉ trong 10 tháng đầu năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 6,48 tỷ USD vốn đăng ký mới, tăng gần 41% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao nhất kể từ sau năm 1997 đến nay. Như vậy, sau 10 tháng, về cơ bản chúng ta đã đạt được mục tiêu về thu hút ĐTNN đề ra cho cả năm 2006 (6,5 tỷ USD), đưa tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại nước ta lên 57,3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 36 tỷ USD. Điểm mới đáng chú ý là trong 10 tháng qua đã xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư, như dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư đăng ký 605 triệu USD (nay đã tăng lên 1 tỷ USD); dự án sản xuất thép của Tập đoàn Tycoons với tổng số vốn đăng ký 556 triệu USD; dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD; Cảng container tại Thành phố Hồ Chí Minh có vốn đầu tư 249 triệu USD; Công ty Panasonic Communication vốn đầu tư 76,36 triệu USD. Phù hợp với xu hướng nói trên, cơ cấu ĐTNN xét về đối tác cũng đã có sự thay đổi tích cực theo hướng gia tăng nguồn vốn đầu tư từ các trung tâm kinh tế lớn của thế giới nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Riêng Hoa Kỳ, nếu tính cả đầu tư qua nước thứ ba, trong đó có dự án Intel, đã trở thành nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2006. Dự án lắp ráp ô tô của Công ty TNHH sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải, Dự án sản xuất gạch men của Công ty gạch Đồng Tâm, Dự án khu du lịch The Nam Hải của Tập đoàn Indochina Capital (Hoa Kỳ), Dự án khu du lịch Palm Garden, Khu du lịch Golden Sand, Dự án giày da của Công ty Rieker (Đức), vv…; các dự án hoạt động có hiệu quả và đang xin tăng vốn đầu tư, mở rộng đầu tư để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các tỉnh phía Nam, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh có hoạt động XTĐT rất mạnh, một phần vì đây là một trong những địa phương đầu tiên có trung tâm XTĐT, lại được hỗ trợ kinh phí rất mạnh từ UBND thành phố. Một số tỉnh khác như Bình Dương, Đồng Nai hoạt động xúc tiến cũng khá sôi nổi. Gần đây, mấy tỉnh phía Bắc làm khá mạnh, như Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Giang… Miền Trung cũng đang khởi sắc với hàng loạt hoạt động XTĐT của Đà Nẵng, Quảng Bình. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất đang là đơn vị tiên phong đi đầu trong việc tự mình kêu gọi đầu tư. Những địa phương chưa có điều kiện “mang chuông đi đánh xứ người” như Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long cũng đều có các hoạt động xúc tiến trong nước. Điển hình là Hội nghị xúc tiến của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng thời gian trước. Những hạn chế cần khắc phục: Tuy đã đạt được các bước tiến đáng kể nhưng hoạt động XTĐT trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế. 2.1 Về hoạt động XTĐT nhằm xây dựng hình ảnh Tuy đã đạt được những thành công nhất định, song các hoạt động nhằm xây dựng hình ảnh của các cơ quan XTĐT Việt Nam thời gian qua nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động, quảng bá hình ảnh còn quá đơn giản. Tài liệu tuyên truyền giới thiệu về cơ hội đầu tư, các ấn phẩm hướng dẫn đầu tư,các bản tin XTĐT v.v..chưa đầy đủ, hoặc thiết kê chưa hợp lý, nội dung không cập nhật, hình thức thiếu hấp dẫn. Các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư, xây dựng hình ảnh. Phần lớn các cơ quan XTĐT của Việt Nam chưa tận dụng được ưu thế của hình thức vận động đầu tư gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Sự hợp tác của cơ quan xúc tiến đầu tư với các cơ quan, các hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước còn thiếu chặt chẽ nên tần suất đưa tin quảng cáo về môi trường và cơ hội đầu tư không nhiều, hiệu quả thấp. Kết quả của các hội thảo và hội nghị về XTĐT ở trong và ngoài nước, cũng như tính hiệu quả của các chuyến tham gia triển lãm đầu tư ở nước ngoài và các chuyến công tác của phái đoàn đầu tư thường chưa cao. Hầu hết cơ quan XTĐT của Việt Nam đều thiếu các kỹ năng cần thiết để tổ chức các cuộc hội thảo vận động và XTĐT có chất lượng cao. 2.2 Hoạt đông XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư Mặc dù một số tỉnh đã quan tâm tới việc xây dựng website riêng để quảng bá về tiềm năng và lợi thế của địa phương mình, tuy nhiên vẫn càn nhiều tỉnh chưa có sự quan tâm đúng mức tới hoạt động XTĐT . Các website nhằm quảng bá vận động XTĐT thường không cập nhật và chưa thuận tiện cho người sử dụng. Do thiếu đầu mối quản lý chung nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó lồng ghép thêm nội dung giới thiệu và vận động hình thành đầu tư do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, còn lại thì phần lớn các hoạt động XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư được tiến hành gần như tự phát ở từng địa phương.. Công tác xây dựng quy hoạch và danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã bước đầu được quan tâm, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm và chất lượng thấp.một số quy hoạch và dự án trong danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của nhà đầu tư, đồng thời không dự báo diễn biến tình hình nên chưa trở thành công cụ định hướng vận động hình thành đầu tư có hiệu quả (quy hoạch KCN ). Quy hoạch các KCN còn thiếu cơ sở khoa học, chưa tính đến những những điều kiện cần thiết những căn cứ làm cơ sở dể quy hoạch nên không thể tránh khỏi sai lầm rất khó khắc phục. Quy hoạch các KCN còn không dựa trên định hướng phát triển ngành công nghiệp nhằm mục tiêu CNH_HĐH cả những năm trước mắt đến năm 2010 và lâu dài tới năm 2020. hơn nữa quy hoạch các KCN chưa giải quyết các vấn dề cụ thể: Vị trí xây dựng KCN , bảo vệ môi trường, ngành nghề, quy mô…Giải quyết các mối quan hệ kinh tế -xã hội . Tình trạng hiện nay một số KCN phải điều chỉnh lại quy hoạch, đặc biệt là thiếu các dịch vụ cần thiết cho người lao động. Ngoài ra là tình trạng các tỉnh thi nhau xây dựng các KCN để “lót ổ”, “trải chiếu” cho các nhà đầu tư. Nhưng hiệu quả quá kém gây lãng phí lớn. Quan hệ giữa quy hoạch - Kế hoạch và thị trường, dẫn tới không cân đối được khả năng cung cầu, có trường hợp chạy theo thị trường theo kiểu “mỳ ăn liền” hoặc lại theo cơ chế Kế hoạch hóa tập trung… .(danh mục kêu gọi đầu tư) Có thể nói công việc cập nhật danh mục kêu gọi dự đầu tư là tốn rất nhiều công sức và thời gian của các bộ phận vận động đầu tư. Thông tin này được cung cấp bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật trên tờ rơi và đĩa CD. Các tài liệu này thường được thiết kế tương đối đẹp mắt và được cung cấp cho các nhà đầu tư tiềm năng. Chẳng hạn, 170 dự án đã được liệt kê trong “danh mục các dự án đã kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Hà Nội” (Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Hà Nội cũng bày tỏ mong muốn thu hút đầu tư từ Hoa Kỳ. Thành phố cung cấp danh mục đầu tư này cho một công ty tư vấn để công ty này sử dụng tại các buổi hội thảo XTĐT . Nhà đầu tu mục tiêu là các công ty Hoa Kỳ . Như dã bàn ở trên , cấc nhà đầu tư nước ngoài quyết định địa điểm đầu tư vài những lợi ích thực tế mà họ nhận được từ môi trường đầu tư của quốc gia sở tại. Cách hiểu này chưa thực sự đưa vào thực tiễn xây dựng chính sách.. Các tài liệu XTĐT cần được xây dựng trên cơ sỏ đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư chứ không chỉ dựa trên mong muốn của người làm chính sách . Trong trường hợp của Hà Nội, danh mục dự án đầu tư không thực sự hữu ích cho kêu gọi đầu tư và các dự án trong danh mục không đáp ứng nhu cầu thông tin từ các công ty Hoa Kỳ . Nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động XTĐT còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền về luật pháp, chính sách chưa tập trung vào chương trình vận động thu hút đầu tư theo từng đối tác, từng lĩnh vực hoặc dự án cụ thể. Hơn nữa, do thiếu thông tin về nhà đầu tư, các phái đoàn Việt Nam thường có xu hướng trình bày nhiều thông tin không hữu ích và cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho các nhà đầu tư . Chẳng hạn một trình bày kêu gọi đầu tư diển hình thường bao gồm các số liệu về kinh tế, các thống kê về FDI, ODA, thương mại và du lịch. Thông tin về quan hệ song phương giữa Việt Nam với quốc gia đang ghé thăm cũng được trình bày như hình thức đầu tư (100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh), số lượng dự án đầu tư, số lượng việc làm tạo ra từ các dự án đầu tư,…Các thông tin này cũng cần thiết cho các nhà đầu tư theo cách này hay cách khác songcacs nhà đầu tư cần các thông tin đặc thù hơn như họ có thể bắt đầu công việc kinh doanh như thế nào, khuyến khích cụ thể nào mà họ có thể nhận được, Chính phủ sẽ giáp đỡ họ như thế nào để giải quyết các khó khăn phát sinh,…Các thông tin cụ thể này lại không được đề cập đầy đủ trong các tài liệu vận động đầu tư. Bên cạnh đó, Việc so sánh giữa Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan như điểm đến của nhà đầu tư nước ngoài cũng ít khi được thực hiện . Đây thực sự là một trong những thông tin mà nhà đầu tư thực sự muốn tìm hiểu. Nếu Việt Nam chỉ trình bày về đất nước, chính sachsv và tiềm năng của mình, “ điều này vừa quá nhiều vừa quá ít”. Hoạt động XTĐT tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại, của Việt Nam ở nước ngoài còn rất hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và thiếu kinh phí tổ chức. 2.3 Về hoạt động XTĐT nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư Một trong những biện pháp xúc tiến vận động đầu tư hiệu quả nhất đối với nhà ĐTNN là việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh, trước hết trong những vấn đề về thủ tục hành chính, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, lao động, xây dựng...vv. Vừa qua, việc xử lý đối với một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành chưa được tốt, đặc biệt cuối năm 2005 đã xảy ra các cuộc bãi công tự phát ở một số KCN thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ, thêm vào đó việc phản ánh về hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã gây không ít hoài nghi về chính sách nhất quán và thiện chí của Nhà nước ta, tác động không tốt tới việc vận động, thu hút vốn ĐTNN trong bối cảnh hiện nay.Tóm lại, các dịch vụ sau khi cấp giấy phép ( giải quyết, tháo gỡ kip thời, nhanh chóng những vướng mắc phát sinh cho các nhà ĐT trong quá trình thực hiện dự án của họ; và cung cấp các dịch vụ GTGT) vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu và vấn đề này hiện đang là điểm trở ngại trong thu hút đầu tư FDI của Việt Nam các nhà đầu tư vẫn còn gặp khó khăn trong việc triển khai dự án sau khi cấp phép đầu tư, đặc biệt là thủ tục cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng v.v..lối quản lý nặng về xin cho, thủ tục qua nhiều cửa, kéo dài thời gian chờ đợi của các nhà đầu tư…Ở một số địa phương là những rào cản về hành chính có tác động rất lớn tới đến hoạt động vận động, XTĐT thu hút vốn đầu tư nhất là đối với vốn FDI.Về mối liên hệ với các cơ quan của Trung ương và địa phương Thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước đồng thời chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này. Xúc tiến đầu tư trước hết thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, mà trực tiếp là của các ban quản lý KCN. Nhưng do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có lồng nội dung giới thiệu và vận động đầu tư vào các KCN đã được thành lập do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng KCN, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng KCN, trước hết là của chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành từ trưng ương tới địa phương trong việc tổ chức và triển khai các hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút vốn vẫn còn nhiều hạn chế.. Các nhà đầu tư tiềm năng đang được nghe những thông điệp không thống nhất từ các phái đoàn vận động đầu tư của Bộ Kê hoạch & Đầu tư cũng như các địa phương. Vấn đề tồn tại khi thiết lập một phái đoàn quốc gia đó là đại diện của tỉnh ít có cơ hội phát biểu. Thậm chí chia nhỏ nhóm làm việc cũng không hoàn toàn giải quyết được hạn chế này. Thành phần của đoàn cũng là một vấn đề. Thành phần của các đoàn địa phương thường bao gồm Chủ tịch hay Phó chủ tịch tỉnh và đại diện từ Văn phòng Ủy ban, SỞ Kế hoạch & Đầu tư, Sở tài chính , … Một số thành viên không thực sự hiểu rõ vai trò của mình trong công tác XTĐT . Khi hội nghị, hội thảo Kết thúc, một trong những công việc cần thiết phải thực hiện là các hoạt động sau hội thảo nhằm tiếp tục tìm hiểu và kích thích nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng. Trên thực tế các phái đoàn Việt Nma thường cung cấp danh thiếp và địa chỉ liên lạc sau mỗi Kỳ gặp mặt song ai là người trực tiếp chủ động liên lạc lại và trợ giúp các nhà đầu tư thì chưa rõ ràng. Hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư” trong cuộc chạy đua thu hút vốn đầu tư XTĐTảy ra tương đố phổ biến ở các tỉnh, thành, ngành trong cả nước thời gian qua là một thực trạng đáng báo động về sự phối hợp kém chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong việc thực hiện vận động , XTĐT thu hút vốn đầu tư FDI ở nước ta. Nhiều địa phương trong cả nước đã chạy theo lợi ích cục bộ , bỏ qua lợi ích tổng thể của đất nước khi ban hành nhiều chính sách ưu đãi về hỗ trợ tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, hỗ trợ đầu tư,v.v..Vượt khung quy định của chính phủ. Mặc dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy rằng hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư”, “mạnh ai nấy làm”chính là hệ quả tất yếu và trực tiếp của việc thiếu chiến lược XTĐT tổng thế ở cả cấp quốc gia và thiếu sự kêt hợp chặt chẽ giữa các cơ quan XTĐT ở Trung ương và địa phương. Do chưa xây dựng được chương trình kê hoạch vận động XTĐT thống nhất, lại thiếu sự phối hợp chỉ đạo của cơ quan đầu mối ở cấp trưng ương nên các hoạt động vận động XTĐT ở các địa phương và KCN còn manh mún, tự phát và phần nào tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động XTĐT ở nước ta. Mặt khác, mức độ phân quyền sâu mà không có một sự liên thông giữa các đầu mối, thông tin, quảng bá xây dựng hình ảnh vận động XTĐT và vô tình tạo nên một hàng rào chắn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thâm nhập và tiếp cận với các cơ hội đầu tư taị Vịêt Nam. Sự phối hợp giữa những ban ngành chức năng chưa chặt chẽ và đồng bộ. Các địa phương vì mục tiêu và lợi ích cục bộ đã cố gắng kêu gọi , thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi cách mà không xem xét , đánh giá một cách khoa học tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư dẫn đến tình trạng số dự án đầu tu nước ngoài được thực hiện còn thấp, trong khi số dự án phải giải thể, phá sản lại tăng lên. 2.4 Về nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam Những khó khăn về tài chính là một vấn đề trọng yếu đặt ra cho tất cả các cơ quan XTĐT ở cả cấp trung ương và đại phương. Chính phủ không có ngân sách riêng dành cho XTĐT nhằm thu hút vốn đầu tư. Hoạt động XTĐT được tài trợ từ ngân sách nhà nước hoạt dộng hàng năm của Bộ Kế hoạch & Đầu tư và các sở Kế hoạch & Đầu tư các tỉnh. Các hoạt động XTĐT được tiến hành với số lượng quá ít ỏi, cùng với việc duy trì các trang thông tin về XTĐT với nội dung quá sơ sài, đơn giản đã cho thấy nguồn tài liệu cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam còn rất hạn hẹp Ở cấp độ địa phương, toàn bộ nguồn tài chính dành cho hoạt động cở các cấp cơ sở đều được rót từ nguồn vốn ngân sách tỉnh. Do đó, việc phân bổ ngân sách cho XTĐT nhiều hay ít hoàn toàn tùy thuộc vào sự nhận thức của các ủy ban nhân dân cấp tỉnh về tầm quan trọng và vai trò của hoataj động XTĐT với địa phương mình. Nhiều cơ quan XTĐT cho biết , chỉ từ năm 2000, chi phí cho các hoạt động XTĐT chỉ mới được chấp nhận là một “chi phí hợp lệ”. Hơn nữa do khái niệm XTĐT không rõ ràng, nên việc xác định chi phí nào là chi phí liên quan tới XTĐT để được hưởng nguồn kinh phí từ ngân sách cũng gặp rất nhiều khó khăn và phần nhiều còn mang tính chủ quan định tính của người xét duyệt Nguồn kinh phí hoạt động eo hẹp đã hạn chế khả năng của các cơ quan XTĐT ở cấp cơ sở trong quá trình tổ chức , triển khai và thực hiện các hoạt động XTĐT có hiệu quả. Ngoài ra hiện nay các cơ quan XTĐT ở cấp cơ sở cũng không thể xây dựng được một kế hoạch về ngân quỹ dành cho hoạt động XTĐT dài hạn, bởi lẽ ngân sách chỉ được xét duyệt từng năm. Đây cũng là một khó khăn rất lớn cho các cơ quan XTĐT ở địa phương khi các cơ quan này muốn xây dựng một kế hoạch XTĐT lâu dài cho địa phương mình. Điều này lý giải tại sao các chương trình hoạt động XTĐT ở nước ta phần lớn chỉ được tiến hành theo từng vụ việc riêng lẻ. Một số cơ quan XTĐT ở địa phương nhận được nguồn tài trợ từ khu vực tu nhân để xây dựng trang thông tin diện tử nhằm quảng bá và xây dựng hình ảnh đầu tư của địa phương hoặc sản xuất các CD-ROM, băng video ấn phẩm, tài liệu vận động, XTĐT . Tuy nhiên do tính chất của nguồn tài trợ từ khi vực tư nhân là không bề vững và lâu dài nên khi khu vực tư nhân không tài trợ nữa thì các hoạt động vận động và XTĐT kể trên cũng không còn được duy trì và cập nhật nữa . CHƯƠNG III Giải pháp tăng cường XTĐT vào các KCN và định hướng trong thời gian tới I, Giải pháp cho công tác XTĐT vào KCN Việt Nam Xúc tiến, vận động đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước đối với KCN, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN. Với những chính sách ưu đãi và thủ tục đầu tư đơn giản hơn so với bên ngoài, KCN đã thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tính đến hết năm 2005, các KCN của cả nước đã thu hút được 2.202 dự án có vốn ĐTNN với tổng vốn đăng ký là 17,5 tỷ USD và 2.314 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 100 ngàn tỷ đồng (chưa tính 1.059 triệu USD và 31,3 ngàn tỷ đồng đầu tư phát triển hạ tầng các KCN, trong đó gần 2400 dự án đi vào sản xuất kinh doanh và 900 dự án đang triển khai xây dựng nhà xưởng. 1. Một số giải pháp nhằm đẩy thu hút đầu tư vào các KCN 1.1. Đối với thu hút đầu tư nước ngoài: Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam. Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư. Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận. Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam. Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. 1.2.Đối với thu hút đầu tư trong nước Một là, Nhà nước phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện tốt cơ chế một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN. Hai là, KCN phải ban hành Danh mục dự án gọi vốn đầu tư vào KCN để mọi thành phần kinh tế trong nước có cơ hội đầu tư. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, cá nhân trong nước đầu tư vào KCN. Ba là, Nhà nước cần có chính sách thoả đáng để di dời các doanh nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn vào KCN. Bốn là, ở những KCN thuộc khu vực khó khăn, hoặc KCN gắn với quốc phòng, cần có chính sách định hướng, vận động các tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành mình đầu tư vào KCN . Đối với KCN vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn, Nhà nước phải có biện pháp, chính sách di chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy..vv.), chế biến nông, lâm sản ở các thành phố và đô thị về các KCN này; đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào KCN loại này. Năm là, khi thành lập KCN trên địa bàn, đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN cấp tỉnh, doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN trong việc vận động định hướng đầu tư vào KCN tránh tình trạng đầu tư phân tán, không tuân thủ quy hoạch, gây khó khăn cho việc kiểm soát môi trường. 2. Giải pháp cụ thể tăng cường hoạt động XTĐT 2.1. Xây dụng thông điệp XTĐT và quảng bá hình ảnh của Việt Nam Tập trung tốt chiến lược xây dựng hình ảnh nhằm nâng cao hiểu biết về VIệt Namvà cải thiên cách nhìn nhận của nhà đầu tư nước ngoài về Việt Nam.Để thực hiện các hoạt động XTĐT có hiệu quả, phải xây dựng một chủ điễm trung tâm về Việt Nam như là một dịa điểm đầu tư hấp dẫn. Chủ điểm tiếp thị trung tâm sẽ dược sử dụng để nâng cao hình ảnh Việt Nam trong cộng đồng các nhà ĐTNN . Chủ điểm XTĐT trung tâm phải bao gồm các nội dung sau: Phản ánh những gì nhà đầu tư đang tìm kiếm: những nhu cầu của nhà đầu tư nhìn chung là muốn nâng cao hiệu qủa và khả năng sinh lời. Bởi vậy các hoạt dộng vận đọng XTĐT nên phản ánh việc Việt Nam có thể giúp các nhà đầutư nước ngoài đáp ứng tốt những nhu cầu này như thế nào. Chẳng hạn, có thể nhấn mạnh về lực lượng lao động hùng hậu, giá rẻ và có học thức. Phản ánh những điểm nổi trội , độc đáo nhất của Việt Nam: để làm nổi bật Việt Nam trong mắt cảu những nhà đầu tư nước ngoài, chủ điểm tiếp thị pahir xác định rõ điểm nổi trội, độc đáo nhất của Việt Nam. Chẳng hạn, vị ttris dịa lý có tính chiến lược ở Đông Dương và Đông Nam Á, có một chính phủ mạnh và sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của người dân dối với việc cải cách kinh tế. Thông điệp đến với nhà đầu tư nước ngoài phải đúng đắn và trung thực. Đừng giao bán những gì mà mình không có. Quảng cáo sai lệch gây ra nhận thức tría ngược và tahis độ bực tức rất khó giải quyết. Một khi nhà đầu tư có nhận thức không tốt, tiêu cực về hình ảnh một quốc gia hay địa bàn đầu tư nào đó thì mọi nỗ lực vạn động, XTĐT nhằm cải thiện, khôi phục lại hình ảnh và thu hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sẽ rất khó khăn. Thông điệp đến với các nhà đầu tư phải nhất quán:một điều rất quan trọng là mọi hoạt động XTĐT do chính quyền địa phương và trrung ương thực hiện cần đưa ra một thông điệp như nhau và nhất quán. Nếu không các nhà đầu tư sẽ hiểu theo nhiều cacshvaf dẫn tới tâm lý e ngại và hoài nghi về tính minh bạch , rõ ràng cũng như tính xác thực của những thông điệp này. Phát triển các công cụ XTĐT có chất lượng cao cung cấp các tài liệu giới thiệu, ấn phẩm hướng dẫn đầu tư, trang thông tin và bản tin XTĐT có chất lượng cao đến các nhà ĐTNN trang thông tin là những trang tài liệu cung cấp vắn tắt các thông tin chính về một địa bàn đầu tư cho các nhà ĐTNN tiềm năng. Trang thông tin có chất lượng thường bao gồm cacs nội dung: chính sach công nghiệp và kinh tế các ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh chính vốn FDI và luồng FDI hàng năm trong các ngành; số liệu thống kê thương mại( gồm xuất khẩu và nhập khẩu) thông tin về môi trường đầu tư như: GDP, mức tăng truwongrGDP, thu nhập trên đầu người, lãi suất ,tỉ giá hối đoái, chỉ số độ tin cậy tín dụng của quốc gia theo hệ thống đánh giá của cơ quan quốc tế như Moody, Standard&Poor, cơ chế ưu đãi cảu chính phủ và của bản thân KCN chính sách và hệ thống tiền tệ việc làm và pháp luật về lao dộng(chi phí lao động, chính sách tiền lương, công đoàn) quy chế hải quan và thuế cơ sở hạ tầng chi phí và khả năng cung cấp các tiện ích vai trò và dịch vụ cúa các cơ quan XTĐT . trang thông tin điện tử website là một trong những công cụ XTĐT rẻ và hiệu quả nhất, bởi vậy phải ưu tiên cho việc thiết kế và duy trì các trang thông tin điện tử có chất lượng cao. Trang thông tin điện tử cần có : giao diện hấp dẫn, cung cấp những thông tin có chất lượng tốt nhất về:dữ liệu kinh tế vĩ mô cơ bản, phương thức khởi sự và tiến hành kinh doanh, những vấn đề pháp luật cơ bản, cơ cấu thuế, các chế độ ưu đãi đâu tuwvaf các quy chế đầu tư, danh mục các nhà cung cấp dịch vụ( như các công ty tư vấn, nhà thầu xây dựng, luật sư ,chuyên gia tư vấn tài chính, nhà tư vấn kinh doanh, nhà nghiên cứu thị trường, nhà tư vấn về công nghệ thông tinv.v..) các hoạt động đầu tư cụ thể theo từng ngành nghề, chi phí kinh doanh, lao động và đất đai, ccs đầu mối liên lạc của cơ quan và chính phủ, đầu mối liên lạc tại các hiệp hội kinh doanh, hiệp hội ngành nghề, những ví dụ đầu tư thành công điển hình, và phải được duy trì cập nhật thường xuyên.Trang thông tin điện tử nhằm mục đích quảng bá XTĐT nước ngoài nên sử dụng các ngôn ngữ phổ biến như : Anh, Pháp, Nhật,…và có thể liên kết với trang thông tin của mạng lưới XTĐT ( Phải thực hiện tốt các chiến dịch quảng cáo và quan hệ công chúng để nâng cao mức độ nhận thức vaf caiar thiện hình ảnh của Việt Nam. Đây là một công cụ XTĐT có ý nghĩa quan trọng và hiệu quả khi mà các nhà đầu tư tiềm năng nhận thức quá ít hoặc có hiểu biết sai lầm về hình ảnh của Việt Nam. stt Công cụ Lời khuyên 1 Quảng cáo Tập trung đưa QC ngắn gọn,cô đọng một thông điệp mời gọi và phản ánh được chiến lược mình muốn vận động Phải chuẩn bị đủ kinh phí cho hoạt động này vì nếu không có tiền, QC của bạn sẽ không đạt được mức tối thiểu để được chú ý tới Tránh đưa quảng cáo lên các báo tầm thường. Tập trung QC trên những báo mà chắc chắn rằng sẽ tới tay độc giả mà bạn muốn vận dộng. Thuê một công ty QC có kinh nghiệm, khôn khéo làm trưng gian giữa người làm kế hoạch, của tờ báo và khách hàng. 2 Tham gia triển lãm Đừng đứng ỳ tại gian hàng triển lãm của IPA để đợi khách tham quan. Hãy tranh thủ thời gian triển lãm đi thăm các công ty đang hoạt động trong lĩnh vực mà IPA muốn vận động. Làm tăng giá trị của triển lãm bằng cách viết thư cho những người tham gia triển lãm trước triển lãm. Sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu của cơ quan XTĐT và gửi thư trước cho cả những công ty mà mình muốn vận động mà không có gian hàng tham gia triển lãm, nhưng nhân viên của công ty nhất định sẽ tới thăm triển lãm.. 3 Quan hệ công chúng Luôn luôn coi nhà báo/ người tường thuật thời sự là khách quya của cơ quan XTĐT . Nếu cơ quan XTĐT có nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư hạn hẹp và bỏ tập trung kêu gọi các nhà báo giỏi tại các phương tiện thông tin đại chúng mà cơ quan XTĐT muốn đăng tin tới thăm đất nước cơ quan XTĐT để đưa tin cải thiện hình ảnh của đất nước. 4 Cá đoàn vận động đầu tư tận dụng tối đa các tác động của đoàn vận động đầu tư bằng cách xác định một mục tiêu về ngành nghề hoặc tốt hơn là tiểu ngành một cách rõ ràng 5 Các hội thảo về cơ hội đầu tư xác định một (hoặc một vài) đói tác chiến lược mạnh và bắt tay vào việc xây dựng KCNế hoạch ít nhất 6 tháng trước khi tổ chức . đặc biệt quan tâm tới việc bảo đảm đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Có sự tham dự của Lãnh đạo cấp cao. 6 Sử dụng thư trực tiếp Đầu tư vào một cơ sở dữ liệu marketing chất lượng cao và được cập nhật. Đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở bộ phận marketing phải viết thư cho một số lượng doanh nghiệp. Thư marketing trực tiếp nên báo cho khách hàng chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo. 7 Internet và email đầu tư vào một cơ sở dữ liệu marketing chất lượng cao và được cập nhật đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở một bộ phận marketing phải viết thư cho một số doanh nghiệp thư marketing trực tiếp nên báo cho khách hàng chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo Tích cực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam có thể nói XTĐT là “chào bán cơ hội đầu tư” cho các nhà đầ tư tiềm năng. Một chương trình XTĐT không thể thành công cho dù nó tốt đến mức độ nào nếu như có một sản pẩm tồi. Thiết lập nên “một môi trường đầu tư tốt “ tức là làm ra một sản phẩm tốt. Do vậy cải thiện môi trường đầu tư chính là phương tiện để xúc tiến có hiệu quả . mặc dù Việt Nam đã đạt được những cải thiện nhất định, tuy nhiên môi trường vẫn kém cạnh tranh hơn so với Trung quốc và một vài nước ASEAN khác Nếu chúng ta muốn thu hút thêm nhiều dự án thì phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư. Trong ngắn hạn mục đích chính của cơ quan XTĐT là láy lại niềm tin cho các nhà đầu tư.để đạt được điều đó thì một số biện pháp sau được đề suất: Tránh những thay đổi bất lợi không lường trước trong các chính sách và quy định; đẩy nhanh cải cách hành chính; Giảm chi phí kinh doanh bằng cách xóa bỏ hệ thống hai giá và chi phí không chính thức; Xây dựng chiến lược tổng thể thao lĩnh vực Nâng cao tính minh bạch Để đạt được những thành công lớn trong XTĐT trong những năm tới chúng ta cần thực hiện những nội dung sau: Xây dựng một khung pháp lý đồng bộ; Xây dựng khung thể chế mạnh để thực hiện các chính sách này; Cải tiến chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm như giao thông ngân hàng, tài chính, giáo dục và đào tạo; Khuyến khích sự phất triển cuarm ột khu vực kinh tế tư nhân mạnh; Giảm sự can thiệp của nhà nước… Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, tập trung trước hết một số lĩnh vực và địa bàn có KCN mà việc thu hút đầu tư trong thời gian còn ở mức thấp. Chính phủ cần có những giải phấp ổn định hơn nữa để cải thiện tốt môi trường đầu tư. Đó là: Kịp thời tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp ĐTNN.Trường hợp doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh thì động viên khen thưởng; doanh nghiệp đang gặp khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ tháo gỡ, đặc biệt là liên quan tới vấn đề hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và nghĩa vụ thuế với nhà nước Thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về ĐTNN , trong đó phan cấp quản lý hoạt động sau giấy phép cho UBND cấp tỉnh Nhà nước chỉ đạo rà soát lại văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước do các Bộ , ngành, địa phuwowngban hành không phù hợp với sự chỉ đạo của Chính Phủ. Nhà nước chỉ đạo phải có biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương với địa phương, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc giữa cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra nhà nước cần bổ sung các chính sách về khuyến khích đầu tư thông thoáng hơn nữa nhằm tạo môi trường kinh doanh và thu hút ĐTNN cũng như đầu tư trong nước vào các KCN. v.v.. II, Định hướng phát triển KCN trong thời gian tới Căn cứ và chủ trương của Đảng và nhà nước về CNH_HĐH cần tiếp tục phất triển KCN với mục tiêu tổng quát là tập trung xây dựng KCN trở thànhlượng lượng công nghiệp mạnh có hiệu quả và sức cạnh ttranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường , phát huy hơn nữa việc liên kết giữa KCN và thị trường ngoài KCN đi tiên phong trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN , phát triển có hiệu quả ngay,có tính đến nhu cầu của cac địa phương và khả năng của cả nền kinh tế, theo kịp tiến trình CNH_HĐH đất nước. Phát triển KCN theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của nó theo hướng : lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và cuối cùng là phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin,cơ điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới. Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyen liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt khi hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực. Chấm dứt việc phát triển coa sở công nghiệp độc lập xen kẽ với các khu dân cư. Kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào các KCN, trừ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích chiếm đất lớn vài trăm ha, các dự án đầu tư chiều sâukhông thuộc diện di dowifvaf vẫn phù hợp với quy hoạch. Cải tạo các làng nghề truyền thống và các cơ sở sản xuất tiể thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất.Hình thành phát triển KCN nhỏ tại các vùng nông thôn có quy mô vài chục ha và thực hiện theo quy chế KCN một cách linh hoạt hơn Trưng ương hỗ trợ các KCN này thông qua các giải pháp :quy hoạch đất mở dường giao thông, xây dựng các công trình Xử lý chất thải, bảo lãnh tín dụng, công nghệ áp dụng, tìm kiếm thị trường. MỤC LỤC CHƯƠNG I Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các khu công nghiệp I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN 1. Khái niệm KCN : 2. Phân loại KCN : 3. Vai trò của các KCN với phát triển nền kinh tế: 3.1 Vai trò của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam: 3.2 KCN góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 3.3 Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia 3.4 Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa II, Vấn đề lý luận cơ bản về XTĐT phát triển các KCN Khái niệm XTĐT : 2. Vai trò của hoạt động XTĐT 3. Vai trò của cơ quan XTĐT đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư 4. Các cơ quan tham gia XTĐT 5. Nội dung và công cụ của hoạt dộng XTĐT 5.1Công tác XTĐT của cơ quan trung ương và tổ chức tham gia XTĐT 5.1.1 Xây dựng chiến lược về XTĐT 5.1.2 Xây dựng hình ảnh 5.1.3 Xây dựng quan hệ 5.1.4 Lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư 5.1.5Cung cấp dịch vụ và hỡ trợ cho các nhà đầu 5.1.6 Đánh giá và giám sát công tác XTĐT 5.2 Hoạt động của doanh nghiệp 5.2.1 Đối với doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng A1. Doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng –chủ đầu tư là đơn vị có vốn nhà nước A2. Doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng là cơ sở có vốn đầu tư trong nước & đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân: 5.2.2 Đối với doanh nghiệp vệ tinh 5.3 Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT : NHỮNG CÔNG CỤ CHÍNH ĐỂ XTĐT CHƯƠNG II Thực trạng XTĐT vào các KCN ở Việt Nam I, Tình hình phát triển KCN trong thời gian qua 1. Tình hình thành lập KCN, KKT 2. Tình hình thu hút đầu tư 3 Tình hình sản xuất kinh doanh 4. KCN nam châm thu hút FDI II, Thực trạng công tác XTĐT vào các KCN 1. Những thành tựu đạt được trong XTĐT 2. Những hạn chế cần khắc phục 2.1 Về hoạt động XTĐT nhằm xây dựng hình ảnh 2.2 Hoạt đông XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư 2.3 Về hoạt động XTĐT nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư 2.4 Về nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam CHƯƠNG III Giải pháp tăng cường XTĐT vào các KCN và định hướng trong thời gian tới I, Giải pháp cho công tác XTĐT vào KCN Việt Nam 1. Một số giải pháp nhằm đẩy thu hút đầu tư vào các KCN 1.1 Đối với thu hút đầu tư nước ngoài: 1.2 Đối với thu hút đầu tư trong nước 2. Giải pháp cụ thể tăng cường hoạt động XTĐT 2.1 Xây dụng thông điệp XTĐT và quảng bá hình ảnh của Việt Nam 2.2 Phát triển các công cụ XTĐT có chất lượng cao 2.3 Tích cực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam II, Định hướng phát triển KCN trong thời gian tới Tài liệu tham khảo Kỹ năng xúc tiến đầu tư_Bộ kế hoạch đầu tư(dự án XTĐT của Hoa Kỳ vào Việt Nam) Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam_ĐH KTQD và JICA Hoàn thiện chiến lược XTĐT nhằm phát triển KCN ở Việt Nam_LATS.731 (ĐH KTQD) Tạp chí: nghiên cứu kinh tế; kinh tế và chính trị thế giới; …. Website:…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25808.DOC