Đề tài Thực trạng trình độ tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - Công ty cơ khí chế tạo Hải phòng

Tài liệu Đề tài Thực trạng trình độ tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - Công ty cơ khí chế tạo Hải phòng: Lời mở đầu Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người luôn tham gia vào các hoạt động của xã hội trong đó bao gồm cả hoạt động kinh tế. Ta có thể hiểu hoạt động kinh tế là hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động này giúp cho con người tồn tại và ngày càng phát triển. Khi nói đến một công ty hay một tổ chức kinh tế ta không thể không nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi công ty, mỗi tổ chức con người đóng vai trò là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Con người tham gia vào quá trình lao động. Tuy nhiên để kết quả lao động đạt hiệu quả cao thì một việc không thể thiếu đó là tổ chức lao động một cách có khoa học, có cơ sở. Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng là công ty Nhà nước về cơ khí, sản xuất các máy công cụ đáp ứng nhu cầu trong nước. Công ty cũng đã từng bước thực hiện việc tổ chức lao động một cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu kinh doanh và sự trông đợi của cán bộ công nhân trong...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng trình độ tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - Công ty cơ khí chế tạo Hải phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người luôn tham gia vào các hoạt động của xã hội trong đó bao gồm cả hoạt động kinh tế. Ta có thể hiểu hoạt động kinh tế là hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động này giúp cho con người tồn tại và ngày càng phát triển. Khi nói đến một công ty hay một tổ chức kinh tế ta không thể không nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi công ty, mỗi tổ chức con người đóng vai trò là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Con người tham gia vào quá trình lao động. Tuy nhiên để kết quả lao động đạt hiệu quả cao thì một việc không thể thiếu đó là tổ chức lao động một cách có khoa học, có cơ sở. Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng là công ty Nhà nước về cơ khí, sản xuất các máy công cụ đáp ứng nhu cầu trong nước. Công ty cũng đã từng bước thực hiện việc tổ chức lao động một cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu kinh doanh và sự trông đợi của cán bộ công nhân trong công ty. Tuy nhiên, sau một thời gian thực tập tại Công ty tôi nhận thấy việc tổ chức lao động tại công ty nói chung, phân xưởng cơ khí nói riêng đang có một số vấn đề đang tồn tại. Việc chuyên môn hoá lao động còn chưa sâu, đa số là sản xuất nhỏ hàng loạt. Cơ sở, trang thiết bị còn nghèo nàn, lạc hậu. Điều kiện lao động chưa thực sự đảm bảo cho người lao động. Vấn đề kỷ luật đối với người lao động và các vấn đề khác như: phương pháp lao động, công tác định mức lao động. Do vậy chuyên đề thực tập này sẽ tập trung nghiên cứu một số nội dung chủ yếu của công tác tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng nhằm tìm hiểu, đánh giá những vấn đề nêu trên. Từ đó đề xuất các giải pháp cho công ty nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động, tăng năng suất lao động, đạt được kết quả kinh doanh tốt hơn Cơ sở để đánh giá ở đây là việc khảo sát thời gian làm việc của công nhân bằng chụp ảnh nơi làm việc của cá nhân và nhóm lao động. Đồng thời còn áp dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu và các phương pháp nghiên cứu khác như: sử dụng tiêu chuẩn, quy định của Nhà nước, các phương pháp xã hội học, quan sát… Kết cấu chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng trình độ tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - công ty cơ khí chế tạo Hải phòng. Chương III: Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí - công ty cơ khí chế tạo Hải phòng. Với sự hướng dẫn trực tiếp của Th.s Nguyễn Vân Thuỳ Anh cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, chú phòng Tổ chức, phân xưởng cơ khí và các cán bộ, công nhân khác trong công ty cơ khí chế tạo Hải phòng đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này. Tôi rất mong sự đóng góp chân thành của mọi người. Tôi xin chân thành cảm ơn. Lý luận chung về tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học. Tổ chức lao động: Lao động: là hoạt động có mục đích của con người, nhằm thoả mãn những nhu cầu về đời sống của mình, là điều kiện tất yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó diễn ra theo một quá trình và nhằm hoàn thành một nhiệm vụ sản xuất nhất định. Quá trình lao động: là quá trình tác động của con người lên đối tượng lao động, là tổng thể những hoạt động của con người, nhằm hoàn thành một số nhiệm vụ sản xuất nhất định, được thể hiện tại nơi làm việc. Quá trình sản xuất: là khái niệm rộng hơn quá trình lao động. Quá trình sản xuất bao gồm một tổng thể nhất định các quá trình lao động và các quá trình tự nhiên. Nhiệm vụ của tổ chức sản xuất không chỉ sử dụng hợp lý nhất lao động sống mà còn nghiên cứu sử dụng hợp lý các yếu tố vật chất của sản xuất. Do đó tổ chức sản xuất được hiểu là quá trình đảm bảo sự kết hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất nhằm đạt một mục đích của sản xuất. Tổ chức lao động: là tổ chức quá trình hoạt động của con người, trong sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động và các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động và sử dụng đầy đủ nhất các tư liệu sản xuất. Tổ chức lao động khác với tổ chức sản xuất ở chỗ: tổ chức lao động đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của lao động sống còn tổ chức sản xuất là tổng thể các biện pháp nhằm sử dụng nguồn lao động, các điều kiện vật chất kỹ thuật đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, ổn định, nhịp nhàng, kinh tế. Tổ chức lao động khoa học Khái niệm: Tổ chức lao động khoa học được hiểu là tổ chức lao động dựa trên cơ sở phân tích khoa học các quá trình lao động và điều kiện thực hiện chúng thông qua việc áp dụng vào thực tiễn những biện pháp được thiết kế dựa trên những thành tựu của khoa học và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Sự khác nhau giữa tổ chức lao động và tổ chức lao động khoa học: Tổ chức lao động khoa học khác với tổ chức lao động nói chung không phải ở nội dung mà là ở phương pháp, cách giải quyết và mức độ phân tích khoa học các vấn đề. Tổ chức lao động khoa học chính là tổ chức lao động ở trình độ cao hơn so với tổ chức lao động hiện hành. Tổ chức lao động khoa học cần phải được áp dụng ở mọi nơi mà có hoạt động lao động của con người như: quá trình lao động sản xuất, lĩnh vực lãnh đạo và quản lỹ sản xuất, trong thiết kế, vận chuyển, sửa chữa… Mục đích, ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học: Mục đích của tổ chức lao động khoa học là nhằm đạt kết quả lao động cao đồng thời đảm bảo sức khoẻ, an toàn cho người lao động và phát triển toàn diện con người lao động, góp phần củng cố các mối quan hệ giữa những người lao động và phát triển các tập thể lao động. Việc áp dụng các biện pháp tổ chức lao động khoa học trong sản xuất có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và xã hội. Nó cho phép nâng cao năng suất lao động và tăng cường hiệu quả nhờ tiết kiệm lao động sống và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất hiện có. Tổ chức lao động khoa học còn có tác dụng giảm nhẹ lao động và an toàn lao động, đảm bảo sức khẻo cho người lao động và phát triển toàn diện con người, thu hút con người tự giác tham gia vào lao động. Các nguyên tắc áp dụng tổ chức lao động khoa học: Tính khoa học: đòi hỏi các biện pháp tổ chức lao động khoa học trước hết phải được thiết kế và áp dụng trên cơ sở vận dụng các kiến thức khoa học, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Tính tổng hợp: đòi hỏi các sự việc và vấn đề phải được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau, trong quan hệ giữa bộ phận với toàn bộ và xem xét trên nhiều mặt, không tách rời, không kết luận phiến diện. Tính đồng bộ: đòi hỏi khi thực hiện biện pháp, phải triển khai giải quyết một cách có đồng bộ các vấn đề có liên quan. Tính kế hoạch: đòi hỏi các biện pháp tổ chức lao động khoa học phải được kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tắc và phương pháp khoa học và có tác dụng trực tiếp nâng cao chất lượng các chỉ tiêu trong kế hoạch của doanh nghiệp. Tính quần chúng: khi xây dựng và áp dụng biện pháp tổ chức lao động khoa học phải thu hút được sự tự giác tham gia của quần chúng, phát triển và tận dụng được các sáng kiến sáng tạo của quần chúng. Cơ sở của phương pháp tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp. Sự phân chia quá trình sản xuất. Phân loại quá trình sản xuất: Cách phân loại theo trình độ kỹ thuật hoá có ý nghĩa quan trọng đến tổ chức lao động. Trình độ kỹ thuật hoá của sản xuất có tác dụng quyết định tính chất, nội dung của công việc, phương pháp thực hiện công việc cũng như hao phí thời gian lao động để thực hiện công việc đó. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, quá trình sản xuất được phân chia thành nhiều loại khác nhau. (Bảng dưới) Tiêu thức Các quá trình Theo ý nghĩa và tính chất của sản phẩm chế tạo. Chính Phụ Theo loại hình sản xuất. Đơn chiếc Hàng loạt nhỏ Hàng loạt vừa Hàng loạt lớn Hàng khối Theo tính chất nguyên vật liệu được dùng. Gia công kim loại Chế biến gỗ Chế biến lương thực v.v… Theo tính liên tục của quá trình. Gián đoạn Liên tục Theo đặc điểm và nội dung của quá trình. Khai thác Chế biến Lý hoá Nhiệt năng v.v… Theo trình độ kỹ thuật hoá Tay (thủ công) Tay máy Máy Tự động hoá Tổ hợp Theo sự tổ chức các quá trình Cá nhân Tập thể Phân chia quá trình sản xuất thành các quá trình bộ phận: Quá trình sản xuất trước hết được phân chia thành các quá trình bộ phận. Quá trình bộ phận được hiểu là bộ phận đồng nhất và kết thực về phương diện công nghệ của quá trình sản xuất. Quá trình bộ phận có thể là quá trình công nghệ để chế tạo sản phẩm hoặc cũng có thể là các quá trình phục vụ sản xuất. (Sơ đồ) Mặt công nghệ Mặt lao động Quá trình sản xuất Quá trình bộ phận Bước công việc Thao tác lao động Động tác lao động Cử động lao động Giai đoạn chuyển tiếp Bước chuyển tiếp Về mặt công nghệ, quá trình bộ phận được phân chia thành các bước công việc. Bước công việc: là một phần của quá trình sản xuất bao gồm các công việc kế tiếp nhau được thực hiện bởi một hay nhóm công nhân trên một đối tượng lao động nhất định tại một nơi làm việc nhất định. Giai đoạn chuyển tiếp: là bộ phận đồng nhất về công nghệ của bước công việc. Nó được biểu thị bằng sự cố định của bề mặt gia công, dụng cụ và chế độ gia công. Bước chuyển tiếp: là phần việc như nhau lặp đi lặp lại trong giai đoạn chuyển tiếp Phân chia về mặt lao động: bước công việc được phân chia thành các thao tác. Thao tác: là tổ hợp hoạt động của các công nhân nhằm thực hiện một mục đích nhất định về công nghệ, thao tác là bộ phận của bước công việc được đặc trưng bởi tính mục đích. Động tác: là bộ phận nhỏ của thao tác biểu thị bằng những cử động tay chân và thân thể của công nhân nhằm lấy đi hay di chuyển một vật nào đó. Cử động: là hành động nhỏ nhất của con người, không thể phân chia được nữa và được diễn ra một cách không gián đoạn, không có sự đổi hướng. Vậy phân chia quá trình sản xuất thành các bộ phận cho phép phân tích khoa học trong quá trình sản xuất về cả mặt công nghệ và về mặt lao động. Trên cơ sở đó có thể đề ra các biện pháp rút ngắn độ dài của chu kỳ sản phẩm, cho phép dự kiến kết cấu và trình tự hợp lý các hoạt động lao động để thực hiện bước công việc, nghiên cứu các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức lao động và xây dựng các mức lao động có căn cứ khoa học. Thời gian làm việc và các phương pháp khảo sát thời gian làm việc. Khái niệm và phân loại thời gian làm việc: Một trong những cơ sở của tổ chức lao động khoa học là nghiên cứu một cách có hệ thống việc sử dụng thời gian lao động nhằm xác định hao phí thời gian có ích, thời gian lãng phí. Do vậy phải phân loại hao phí thời gian làm việc. Thời gian làm việc là độ dài thời gian được quy định trong đó người lao động phải bảo đảm để thực hiện công việc được giao. Thời gian làm việc được phân chia thành các loại hao phí sau: Thời gian chuẩn kết (CK): là thời gian người công nhân dùng vào việc chuẩn bị phương tiện sản xuất để thực hiện công việc được giao và mọi hoạt động có liên quan đến việc hoàn thành công việc đó. Thời gian tác nghiệp (TN): là thời gian trực tiếp hoàn thành bước công việc, làm thay đổi đối tượng lao động. Nó được lặp đi lặp lại qua từng đơn vị sản phẩm. Thời gian tác nghiệp có thể bao gồm thời gian chính (thời gian máy) và thời gian phụ (thời gian tay). Thời gian phục vụ (PV): là thời gian hao phí để trong coi và đảm bảo cho nơi làm việc hoạt động liên tục trong suốt ca làm việc. Thời gian phục vụ được chia thành thời gian phục vụ tổ chức (PVTC) và thời gian phục vụ kỹ thuật (PVKT). Thời gian phục vụ cũng có thể trùng với thời gian chính. Thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết (NCNN): là thời gian cần thiết để duy trì khả năng làm việc bình thường của người lao động trong suốt ca làm việc và thời gian ngừng việc để giải quyết các nhu cầu sinh lý tự nhiên như uống nước, đại, tiểu tiện… Để khảo sát thời gian làm việc người ta dùng phương pháp chụp ảnh thời gian làm việc và bấm giờ bước công việc. Chụp ảnh thời gian làm việc: Chụp ảnh thời gian làm việc là phương pháp nghiên cứu tất cả các loại hao phí thời gian làm việc của công nhân trong thời gian nhất định, có thể là trong ca làm việc hoặc thời gian công nhân hoàn thành một công việc. Chụp ảnh thời gian làm việc thường nhằm các mục đích sau : - Phân tích sử dụng thời gian làm việc hiện hành, phát hiện các thời gian lãng phí, tìm ra nguyên nhân và biện pháp nhằm loại trừ chúng - Lấy tài liệu để xây dựng mức, xây dựng tiêu chuẩn thời gian chuẩn kết, phục vụ, nghỉ ngơi, nhu cầu cần thiết. - Nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng thời gian của những người lao động tiên tiến và phổ biến rộng rãi trong công nhân. Lấy tài liệu để tổ chức lao động, tổ chức sản xuất. Chụp ảnh thời gian làm việc có những hình thức cụ thể khác nhau phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu, loại hình sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất, tổ chức lao động để áp dụng như : chụp ảnh cá nhân ngày làm việc, chụp ảnh tổ, nhóm ngày làm việc, tự chụp ảnh… Chụp ảnh ca làm việc cá nhân: là hình thức ghi lại toàn bộ các hoạt động và hao phí thời gian của một công nhân hay một thiết bị trong ngày ( ca ) làm việc. Ưu điểm: Hình thức khảo sát này cho phép ghi đầy đủ tỷ mỉ các hoạt động của người công nhân hoặc thiết bị cho phép phát hiện các lãng phí thời gian trông thấy và không trông thấy, đề ra các biện pháp tổ chức kinh tế, kỹ thuật hợp lý, đánh giá đúng đắn tình hình thực hiện mức nâng cao chất lượng, mức hiện có và xây dựng các mức có căn cứ khoa học. Nhược điểm: Phương pháp này tốn rất nhiều thời gian Chụp ảnh tổ, nhóm ngày làm việc: là hình thức khảo sát nhằm nghiên cứu những thời gian làm việc đồng thời của nhóm, tổ, người làm việc hoặc nhóm máy. Do đối tượng khảo sát không phải là một, mà là một số người nên không thể theo dõi, ghi liên tục, tỉ mỉ, các thời gian hao phí như chụp ảnh cá nhân, mà phải theo dõi qua khoảng cách thời gian. Khoảng cách dài hay ngắn phụ thuộc số lượng, đối tượng khảo sát. Ưu điểm: Trong cùng một lúc theo dõi, quan sát được nhiều người, máy. Việc ghi chép, phân tích đơn giản. Nhược điểm: Phương pháp khảo sát này do không ghi chép được liên tục mà phải qua khoảng thời gian. Nên không ghi hết hao phí, do đó không đề ra được biện pháp cụ thể của từng lãng phí. Tự chụp ảnh: là hình thức khảo sát trong đó công nhân tự ghi lai việc sử dụng thời gian làm việc của chính mình, nêu nguyên nhân của những lãng phí và đề nghị những biện pháp để khắc phục chúng. Các bước tiến hành chụp ảnh ca làm việc: - Bước chuẩn bị : tuỳ theo mỗi hình thức khảo sát tiến hành một trong những nội dung chuẩn bị sau : + Chọn đối tượng quan sát và giải thích cho đối tượng biết rõ mục đích chụp ảnh. (Tuỳ thuộc vào mục đích khảo sát mà chọn đối tượng là một công nhân, nhóm công nhân hay bộ phận lớn hoặc cả doanh nghiệp hay toàn bộ thiết bị). + Chuẩn bị chọn điều kiện tổ chức kỹ thuật sản xuất bộ phận tiến hành khảo sát. + Chuẩn bị mẫu khảo sát + Chuẩn bị phương tiện ghi chép + Chọn nơi đứng để quan sát, hành trình để quan sát, số lần quan sát, thời giam của một lần quan sát, thời điểm bắt đầu của một lần khảo sát. - Bước tiến hành khảo sát : người quan sát bắt đầu theo dõi và ghi vào phiếu quan sát những hiện tượng hao phí cần nghiên cưú. Tuỳ theo mỗi hình thức khảo sát mà cách ghi, thời gian ghi, số lần ghi, hao phí cần ghi có cách khác nhau. - Bước phân tích : từ kết quả của bước trên ta xác định độ dài thời gian của hao phí sau đó tiến hành phân loại rồi tổng hợp hao phí theo từng loại. - Bước kết luận : Qua kết quả của các bước trên đi đều đánh giá tình hình sử dụng thời gian làm việc ( tỷ trọng thời gian làm việc có ích, thời gian tác nghiệp, thời gian may ) trong ngày. Thời gian lãng phí trông thấy và không trông thấy. Nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục. So sánh thời gian hao phí thực tế và thời gian định mức dự tính thời gian hợp lý mức, tính khả năng tiết kiệm thời gian, khả năng tăng năng suất lao động do sử dụng hợp lý thời gian lao động. Bấm giờ bước công việc: Bấm giờ bước công việc là phương pháp khảo sát nghiên cứu thời gian hao phí để thực hiện các bộ phận bước công việc thường lặp đi lặp lại trong ngày làm việc, với số lần khảo sát nhất định tuỳ thuộc mức độ chính xác của tài liệu khảo sát, yêu cầu từng loại hình sản xuất cụ thể. Bấm giờ không nghiên cứu toàn bộ các hoạt động của công nhân trong ca làm việc mà chỉ nghiên cứu đi sâu một bước công việc hay nhóm thao tác thường lặp lại trong các ca làm việc. Mục đích của bấm giờ thời gian làm việc - Xác định chính xác thời gian hao phí khi thực hiện các yếu tố hoàn thành phần của bước công nghệ ( thao tác, động tác, cử động ) - Nghiên cứu loại bỏ các lãng phí, nghiên cứu các phương pháp làm việc tiên tiến để phổ biến rộng rãi trong công nhân. - Cung cấp tài liệu cơ sở để xây dựng mức hoặc tiêu chuẩn để định mức kỹ thuật lao động. Thông qua bấm giờ ta có thể nghiên cứu tình hình sử dụng máy móc, thiết bị, tổ chức phục vụ nơi làm việc, nhằm khai thác khả năng tiềm tàng để tăng năng suất lao động. Có hai hình thức bấm giờ là bấm giờ liên tục theo thời gian hiện tại và bấm giờ liên tục theo thời gian chọn lọc. + Bấm giờ liên tục theo thời gian hiện tại : là hình thức khảo sát trong đó bước công việc nghiên cứu được diễn ra liên tục ( tức là được lặp lại liên tục theo thời gian hiện tại ) + Bấm giờ theo thời gian chọn lọc : là phương pháp nghiên cứu một thao tác hay một nhóm thao tác của bước công việc tức là nghiên cứu sự lặp đi lặp lại qua khoảng thời gian Phương pháp bấm giờ theo thời gian hiện tại có độ chính xác cao hơn bấm giờ theo thời gian chọn lọc vì việc khảo sát tiến hành liên tục không bị gián đoạn Bấm thời gian làm việc bao gồm các bước sau : + Bước chuẩn bị : trước khi tiến hành khảo sát cần phải lựa chọn đối tượng khảo sát, nghiên cứu bước công việc chia bước công việc hay các bộ phận hợp thành, các thao tác. Người khảo sát phải nắm được đặc điểm tình hình công nhân, tình hình máy móc thiết bị, dụng cụ, vật liệu, tình hình tổ chức phục vụ nơi làm việc, tiến hành cải tiến cần thiết tùy theo mục đích của bấm giờ. Cần thiết phải xác định số lần bấm giờ sao cho đảm bảo độ chính xác tài liệu. + Bước tiến hành : sau khi đã chuẩn bị được các điều kiện cần thiết, dụng cụ, thiết bị ta tiến hành khảo sát. Ghi thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi bộ phận bước công việc hay thao tác. Nếu bấm giờ liên tục thì thời gian kết thúc của bộ phận trước cũng là thời gian bắt đầu của bộ phận tiếp theo. + Bước phân tích kết quả khảo sát. Một số nội dung của tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp: Phân công lao động và hiệp tác lao động. Phân công lao động: Phân công lao động là sự chia nhỏ toàn bộ công việc của xí nghiệp để giao cho từng người hoặc nhóm người lao động thực hiện. Đó chính là quá trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ. Phân công lao động hợp lý có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất, tăng năng suất lao động. Do phân công lao động mà có thể chuyên môn hoá được công nhân, chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra những công cụ chuyên dùng có năng suất lao động cao, người công nhân có thể làm một loạt bước công việc, không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị, thay dụng cụ để làm những công việc khác nhau. Nhờ chuyên môn hoá giới hạn được phạm vi hoạt động, người lao động sẽ nhanh chóng quen với công việc… Trong nội bộ xí nghiệp, phân công lao động được thực hiện trên cả 3 mặt: theo vai trò, vị trí của từng loại công việc đối với quá trình sản xuất sản phẩm, theo tính chất công nghệ của sự thực hiện công việc và theo mức độ phức tạp của công việc. Do vậy phân công lao động gồm các hình thức: Phân công lao động theo chức năng: là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các công việc khác nhau thành những chức năng lao động nhất định, căn cứ vào chức năng chính của xí nghiệp. Phân công lao động theo chức năng tạo nên cơ cấu lao động chung trong toàn xí nghiệp. Toàn bộ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: Công nhân chính: là những người trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc đứng máy. Công nhân phụ: là những người thực hiện các chức năng phụ trong sản xuất chính, sản xuất phụ và phụ trợ. Đó là những người không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, nhưng bằng lao động của mình đảm bảo cho hoạt động sản xuất được bình thường. Nhân viên quản lý sản xuất bao gồm: nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý kỹ thuật, nhân viên quản lý hành chính. Học viên học nghề: là những người học tập sản xuất, tham gia sản xuất dưới sự hướng dẫn của công nhân hành nghề. Phân công lao động theo công nghệ: là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất công nghệ của công nghẹe thực hiện chúng. Tuỳ theo mức độ chuyên môn hoá lao động mà phân công lao động lại được chia thành những hình thức khác nhau: Phân công lao động theo đối tượng: đó là hình thức phân công trong đó một công nhân hay một nhóm công nhân thực hiện một tổ hợp các công việc tương đối trọn vẹn, chuyên chế tạo một sản phẩm hoặc một chi tiết nhất định của sản phẩm. Phân công lao động theo bước công việc: là hình thức phân công trong đó mỗi công nhân chỉ thực hiện một hay vài bước công việc trong chế tạo ra sản phẩm hoặc chi tiết. Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các công việc khác nhau tuỳ theo tính chất phức tạp của nó. Hình thức này nhằm sử dụng trình độ lành nghề của công nhân phù hợp với mức độ phức tạp của công việc. Hiệp tác lao động. C.Mác định nghĩa hiệp tác lao động: "hình thức lao động mà trong đó nhiều người làm việc cạnh nhau một cách có kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong một quá trình sản xuất nào đó hoặc là trong những quá trình khác nhau nhưng lại liên hệ với nhau gọi là hiệp tác lao động". Trong xí nghiệp công nghiệp có sự hiệp tác về không gian và thời gian. Về không gian có các hình thức: hiệp tác giữa các phân xưởng chuyên môn hoá, hiệp tác giữa các bộ phận chuyên môn hoá trong phân xưởng, hiệp tác giữa những người lao động với nhau trong tổ sản xuất. Hình thức tổ sản xuất thể hiện rõ nét sự hiệp tác lao động trong xí nghiệp. Tổ sản xuất thường chia thành 2 loại: tổ sản xuất chuyên môn hoá và tổ sản xuất tổng hợp. Tổ sản xuất chuyên môn hoá gồm những công nhân cùng nghề hoàn thành những công việc có quy trình công nghệ giống nhau. Tổ sản xuất tổng hợp bao gồm những công nhân có các nghề khác nhau, nhưng cùng hoàn thành tất cả các bước công việc của quá trình sản xuất. Về mặt thời gian hiệp tác lao động là sự tổ chức giữa các ca làm việc trong một ngày đêm. Hợp lý hoá phương pháp và thao tác lao động: Trong sản xuất, để hoàn thành những công việc giống nhau trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật như nhau, các công việc khác nhau thường cho kết quả lao động khác nhau. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy là sự khác nhau về phương pháp và thao tác lao động cá nhân. Để nâng cao năng suất lao động, cần thiết phải nghiên cứu hợp lý hoá phương pháp và thao tác lao động và phổ biến rộng rãi cho công nhân. Phương pháp lao động và ý nghĩa của việc áp dụng các phương pháp lao động. Việc nghiên cứu phương pháp lao động hợp lý có thể được thực hiện dựa trên phân tích, họp lý hoá phương pháp lao động của một công nhân tiên tiến. Tổ chức và phục vụ nơi làm việc Nơi làm việc là một phần diện tích và không gian sản xuất được trang bị thiết bị các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất đã xác định. Nơi làm việc được phân loại theo các tiêu thức sau: Theo trình độ cơ khí hoá, nơi làm việc được chia thành nơi làm việc thủ công, nơi làm việc cơ khí hoá và nơi làm việc tự động. Theo số lượng người làm việc, nơi làm việc được chia thành nơi làm việc cá nhân và nơi làm việc tập thể. Theo số lượng máy móc thiết bị nơi làm việc được chia thành nơi làm việc tổng hợp, nơi làm việc chuyên môn hoá. Theo tính chất ổn định của vị trí: nơi làm việc được chia thành nơi làm việc cố định, nơi làm việc di động hoặc nơi làm việc trong nhà, nơi làm việc ngoài trời, nơi làm việc dưới đất, nơi làm việc trên cao. Nơi làm việc có một vai trò quan trọng trong xí nghiệp. Nó là nơi diễn ra quá trình lao động. Tại đây cũng diễn ra sự biến đổi về lý học hay sinh học của đối tượng lao động để trở thành sản phẩm theo yêu cầu của sản xuất. Nơi làm việc còn là nơi thể hiện kết quả cuối cùng của mọi hoạt động về tổ chức sản xuất và tổ chức lao động trong xí nghiệp. Muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc. Nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc là: Tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất với năng suất cao. Bảo đảm cho quá trình sản xuất được liên tục và nhịp nhàng. Bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình lao động và tạo hứng thú tích cực cho người lao động. Bảo đảm khả năng thực hiện các động tác lao động trong tư thế thoải mái, cho phép áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến. Tổ chức nơi làm việc: Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế cho nơi làm việc, trang bị cho nơi làm việc những trang thiết bị, dụng cụ cần thiết và sắp xếp bố trí chúng theo một trật tự nhất định. Tổ chức nơi làm việc gồm 3 nội dung chủ yếu là: thiết kế nơi làm việc, trang bị và bố trí nơi làm việc. Việc thiết kế nơi làm việc được tiến hành theo các trình tự sau: Chọn các thiết bị phụ, các loại dụng cụ đồ gia công nghệ, các trang bị tổ chức phù hợp. Chọn phương án bố trí nơi làm việc tối ưu cho tưng nơi làm việc cụ thể. Thiết kế các phương pháp và thao tác lao động hợp lý, tạo các tư thế lao động thuận lợi. Xây dựng hệ thống phục vụ theo từng chức năng. Tính các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của nơi làm việc như: số lượng công nhân tại nơi làm việc, lượng sản phẩm được sản xuất… Dự kiến các yếu tố của điều kiện lao động tại các nơi làm việc. Trang bị nơi làm việc. Trang bị nơi làm việc là đảm bảo đầy đủ các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ… cho nơi làm việc theo yêu cầu của sản xuất và chức năng lao động. Trang bị nơi làm việc chỉ có hiệu quả khi nó phù hợp với nội dung của quá trình sản xuất cả về số lượng và chất lượng. Nơi làm việc cần được cần được trang bị các loại sau: Các thiết bị chính: là những thiết bị mà người công nhân dùng để trực tiếp tác động vào đối tượng lao động. Các thiết bị phụ: là các thiết bị giúp cho người công nhân thực hiện quá trình lao động với hiệu quả cao hơn. các thiết bị phụ có thể là các thiết bị bốc xếp, thiết bị vận chuyển như cầu trục, palăng, xe đẩy, xe nâng hạ, băng truyền… Các trang bị công nghệ gồm các loại dụng cụ kẹp đồ gá, dụng cụ đo kiểm tra, dụng cụ cắt Các trang bị tổ chức bao gồm bàn, ghế, tủ, giá đỡ, bục đứng… Các thiết bị thông tin liên lạc. Các thiết bị an toàn, vệ sinh công nghiệp phục vụ sinh hoạt gồm: các loại lưới, tấm chắn bảo vệ; các thiết bị thông gió, chiếu sáng; các phương tiện phục vụ sinh hoạt… Bố trí nơi làm việc. Bố trí nơi làm việc là sắp xếp một cách hợp lý trong không gian tất cả các phương tiện vật chất cần thiết của sản xuất tại nơi làm việc. Có 3 dạng bố trí như sau: Bố trí chung là sắp xếp về mặt không gian các nơi làm việc. Bố trí bộ phận là sắp xếp các yếu tố trang bị trong quá trình lao động ở từng nơi làm việc. Bố trí riêng biệt là sự sắp xếp các loại dụng cụ, phụ tùng, đồ gá trong từng yếu tố trang bị. Bố trí nơi làm việc phải đảm bảo các yêu cầu sau: Xác định đúng diện tích sản xuất và tạo ra chu kỳ sản xuất ngắn nhất. Phải phù hợp với thị lực của con người Tạo được tư thế làm việc hợp lý. Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm động tác của công nhân. Đảm bảo an toàn lao động và thẩm mỹ trong sản xuất. Tổ chức phục vụ nơi làm việc. Trong quá trình sản xuất, các phương tiện vật chất chuyển từng phần hoặc toàn phần giá trị của nó vào giá trị sản phẩm. Nhằm duy trì sự liên tục không ngừng quá trình đó, phục vụ nơi làm việc có vai trò rất quan trọng. Phục vụ nơi làm việc được khái quát thành các chức năng chính sau: Phục vụ chuẩn bị sản xuất bao gồm việc giao nhiệm vụ cho sản xuất cho từng nơi làm việc, chuẩn bị các tài liệu, bản vẽ kỹ thuật, chuẩn bị các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, chi tiết… Phục vụ dụng cụ bao gồm cung cấp cho nơi làm việc các loại dụng cụ đồng thời thực hiện cả việc bảo quản, theo dõi tình hình, kiểm tra chất lượng, sửa chữa dụng cụ khi cần thiết. Phục vụ vận chuyển và bốc dỡ gồm chuyển đến nơi làm việc tất cả các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất như: nguyên vật liệu, bán thành phẩm, dụng cụ, phế liệu, phế phẩm… Phục vụ năng lượng: đảm bảo cung cấp cho nơi làm việc các yêu cầu về năng lượng như điện, hơi khí nén, xăng dầu, hơi nước, nước… Phục vụ và điều chỉnh, sửa chữa nhằm khôi phục khả năng hoạt động của thiết bị. Phục vụ kiểm tra gồm kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và kiểm tra nghiệm thu chất lượng sản phẩm, kiểm tra việc thực hiện các quy trình công nghệ… Phục vụ xây dựng và sửa chữa nơi làm việc. Phục vụ sinh hoạt, văn hoá tại nơi làm việc. Tổ chức phục vụ nơi làm việc cũng có vai trò rất quan trọng trong sản xuất. Nó cung cấp cho nơi làm việc các loại phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và tạo các điều kiện thuận lợi để tiến hành lao động. Do vậy tổ chức phục vụ nơi làm việc không thể thiếu được của bất kỳ quá trình sản xuất nào. Tuỳ theo đặc điểm của loại hình sản xuất, theo số lượng các nhu cầu phục vụ và tính ổn định của nó mà xí nghiệp có thể áp dụng một trong các hình thức tổ chức phục vụ: Phục vụ tập trung là hình thức trong đó tất cả các nhu cầu phục vụ theo chức năng đều do các trung tâm phục vụ đáp ứng. Phục vụ phân tán là hình thức phục vụ trong đó các chức năng phục vụ không tập trung thành các trung tâm mà các phân xưởng, bộ phận sản xuất, tổ sản xuất tự đảm nhiệm lấy việc phục vụ của mình. Phục vụ hỗn hợp là hình thức phục vụ trong đó có chức năng thì phục vụ tập trung, có chức năng thì phục vụ phân tán. Tổ chức phục vu nơi làm việc được xem xét đánh giá bằng 2 cách: Dựa vào kết quả phục vụ: tổn thất thời gian do chờ đợi phục vụ, tổng công suất của máy móc thiết bị không được sử dụng do phục vụ không tốt. Dựa vào nguyên nhân: căn cứ vào tình hình thực tế của công tác phục vụ như tổ chức lao động phục vụ, hình thức phục vụ, chế độ phục vụ để xem xét. Điều kiện lao động và chế độ làm việc nghỉ ngơi. Điều kiện lao động là tổng hợp các nhân tố của môi trường sản xuất có ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng làm việc của người lao động. Điều kiện lao động thực tế rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên điều kiện lao động được phân thành 5 nhóm: nhóm điều kiện tâm lý lao động, nhóm điều kiện vệ sinh phòng bệnh của môi trường, nhóm điều kiện thẩm mỹ của lao động, nhóm điều kiện tâm lý xã hội, nhóm điều kiện chế độ làm việc nghỉ ngơi. Điều kiện lao động, các nhóm nhân tố của điều kiện lao động và chế độ làm việc nghỉ ngơi. Kỷ luật lao động và tổ chức các phong trào thi đua. Kỷ luật lao động: Khái niệm kỷ luật lao động là một khái niệm rộng bao hàm kỷ luật về lao động, kỷ luật về quy trình công nghệ, kỷ luật về sản xuất. Về mặt lao động: kỷ luật lao động là sự chấp hành và thực hiện một cách tự nguyện, tự giác các chế độ ngày làm việc của công nhân viên. Về mặt công nghệ: kỷ luật lao động là sự chấp hành một cách chính xác các quy trình công nghệ, các chế độ làm việc của máy móc thiết bị, các quy trình vận hành… Về mặt sản xuất: kỷ luật lao động là sự thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ sản xuất được giao có ý thức bảo quản, giữ gìn máy móc thiết bị, dụng cụ, vật tư…; là sự chấp hành một cách vô điều kiện các chỉ thị, mệnh lệnh về sản xuất, chế độ bảo hộ lao động, vệ sinh sản xuất… Kỷ luật lao động có vai trò rất to lớn trong sản xuất. Bất kỳ một nền sản xuất nào cũng không thể thiếu được kỷ luật lao động. Để đạt được mục đích cuối cùng thì phải thống nhất mọi cố gắng của công nhân, phải tạo ra một trật tự cần thiết và phối hợp hành động của mọi người tham gia vào quá trình. Trong xí nghiệp xã hội chủ nghĩa có hai loại biện pháp tác động nhằm duy trì kỷ luật lao động: Thứ nhất là các biện pháp tác động đến người công nhân vi phạm kỷ luật lao động. Biện pháp này bao gồm giáo dục thuyết phục người vi phạm kỷ luật, phê bình, cảnh cáo, chuyển công tác, buộc thôi việc…tuỳ vào mức độ nặng nhẹ và mức độ tái phạm mà áp dụng các hình thức kỷ luật hợp lý. Thứ hai là công tác tổ chức lao động khoa học. Kỷ luật lao động được duy trì nghiêm túc là cơ sở để thực hiện các biện pháp tổ chức lao động khoa học khác. Đồng thời tổ chức lao động khoa học là điều kiện, là phương tiện để củng cố kỷ luật lao động. Tổ chức thi đua: Trong xã hội chủ nghĩa thi đua được sử dụng rất nhiều trong sản xuất. Thi đua là động lực mạnh mẽ và có hiệu quả để xây dựng xã hội chủ nghĩa, là phương tiện để củng cố kỷ luật lao động và là phương tiện có hiệu lực nhất để phát huy sáng kiến, kích thích sáng tạo của nhân dân lao động. Thi đua góp phần nâng cao năng suất lao động, giáo dục đào tạo con người và tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện. Thi dua có các hình thức như: thi đua cá nhân, thi đua tập thể Định mức lao động Mức lao động Trong thực tế tổ chức lao động được coi là khoa học khi “Tổ chức được dựa trên cơ sở những thành tựu đạt được của khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm sản xuất ” tiến bộ được áp dụng một cách có hệ thống cho phép kết hợp một cách tốt nhất kỹ thuật với con người trong quá trình sản xuất thống nhất. Đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vật tư, lao động, tăng năng suất lao động không ngừng và giữ gìn sức khẻo con người cũng như thúc đẩy sự chuyển hoá dần dần lao động thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống. ở mỗi công ty, mỗi tổ chức kinh tế nhất định có thể có nhiều loại mức khác nhau cho quá trình sản xuất như : Mức tiêu hao vật tư, nguyên nhiên liệu, mức lao động.. Các loại mức này là cơ sở cho hạch toán kinh tế, tổ chức lao động và tổ chức lao động trong công ty. Mức lao động là những đại lượng hao phí lao động để hoàn thành một công việc nào đó quy định cho một người hoặc một nhóm người có trình độ thành thạo tương ứng với mức độ phức tạp của công việc được giao trong điều kiện kỹ thuật nhất định. Mức lao động là thước đo hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm. Nó thay đổi cùng với sự phát triển của trình độ áp dụng kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức lao động, mức lao động hợp lý hay không hợp lý ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các dạng mức thường sử dụng như : mức thời gian, mức sản lượng, mức thời gian phục vụ, mức phục vụ.... Các dạng mức lao động Mức thời gian : là số lượng thời gian cần thiết được quy định để hoặc một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định hoàn thành công việc này hay công việc khác trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định. Mức sản lượng : là số lượng sản phẩm được quy định để công nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định phải hoàn thành trong đơn vị thời gian với những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định. Mức thời gian phục vụ : là một trong những biểu hiện biến dạng của mức thời gian. Đó là số lượng thời gian được quy định để một hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định phục vụ trong đơn vị thiết bị, đơn vị diện tích sản xuất trong những điều kiện và tổ chức kỹ thuật nhất định. Mức phục vụ : là số lưọng đơn vị thiết bị được quy định để một hay một nhóm công nhân phải phục vụ trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định. Các phương pháp định mức lao động. Phương pháp tổng hợp: Là phương pháp xây dựng mức không dựa trên cơ sở nghiên cứu phân tích các bộ phận của bước công việc và điều kiện tổ chức kỹ thuật hoàn thành nó, thời gian hao phí chỉ được quy định cho toàn bộ bước công việc. Nhóm này gồm 4 phương pháp : Thống kê, kinh nghiệm, dân chủ bình nghị và so sánh điển hình. Phương pháp thống kê : là phương pháp xây dựng mức dựa vào tài liệu thống kê đạt được của thời kỳ đã qua và thời gian hao phí để thực hiện bước công việc hoặc sản lượng. Phương pháp kinh nghiệm : Là phương pháp xây dựng mức dựa vào kinh nghiệm chủ quan đã tích luỹ được của cán bộ định mức, quản đốc phân xưởng hoặc những công nhân trong sản xuất. Phương pháp dân chủ bình nghị : Là phương pháp xây dựng mức hao phí trên mức điển hình. Mức điển hình là mức xây dựng có căn cứ khoa học (bằng phương pháp phân tích) đại diện cho nhóm công việc có những đặc trưng công nghệ hay nội dung kết cấu trình tự thực hiện giống nhau, nhưng khác nhau về kích cỡ… Nội dung của phương pháp này gồm : Phân các bước công việc phải hoàn thành ra từng nhóm theo những đặc trưng nhất định về kết cấu và quy trình công nghệ. Trong mỗi nhóm chọn 1 hay một số bước công việc tiêu biểu cho cả nhóm gọi là bước công việc điển hình. Xây dựng quy trình công nghệ hợp lý cho bước công việc điển hình quy trình công nghệ này là quy trình công nghệ điển hình cho cả nhóm. Xây dựng mức kỹ thuật lao động cho bước điển hình Mức kỹ thuật lao động của mỗi bước công việc cùng nhóm được xác định bằng cách so sánh với mức của bước công việc điển hình theo hệ số số hiệu chỉnh đã được định sẵn. Phương pháp này thường được áp dụng trong hàng loạt sản xuất nhỏ, đơn chiếc. Mức độ chính xác của mức đựơc xác định bằng phương pháp này phụ thuộc vào việc phân nhóm công việc cần định mức, đại diện cho nhóm và xác định hệ số điều chỉnh chính xác. Xây dựng mức bằng phương pháp này ít tốn công sức nhưng mức độ chính xác lại không cao. Phương pháp phân tích: Là phương pháp xây dựng mức bằng cách phân chia và nghiên cứu tỷ mỷ quá trình sản xuất, quá trình lao động, các bước công việc được định mức và các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian hao phí. Trên cơ sở đó áp dụng các biện pháp hoàn thiện qúa trình lao động như : quy định chế độ làm việc có hiệu quả hơn của máy móc thiết bị, sử dụng vào các phương pháp và thao tác hợp lý... đồng thời loại trừ những nhược điểm trong tổ chức nơi làm việc và điều kiện lao động... Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và dự tính khoa học đó xác định hao phí thời gian cần thiết cho mỗi yếu tố, và mức thời gian cho cả bước công việc nói chung. Khi sử dụng phương pháp phân tích cần phải có các điều kiện. Tổ chức kỹ thuật phải ổn định cán bộ định mức phải biết nhiệm vụ và am hiểu về kỹ thuật. Phương pháp phân tích tính toán : Chủ yếu dựa vào các tài liệu tiêu chuẩn hoặc các công thức thực nghiệm biểu hiện sự phụ thuộc của thời gian hao phí với các yếu tố ảnh hưởng. Phương pháp này gồm có nội dung sau : Phân tích và nghiên cứu kết cấu bước công việc, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới thời gian hoàn thành bộ phận bước công việc. + Dựa vào các tài liệu tiêu chuẩn xác định thời hạn từng bộ phận của bước công việc và các loại thời gian trong ca (chuẩn kết, tác nghiệp, phục vụ, nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết). +Xác định mức thời gian, mức sản lượng Phương pháp này đòi hỏi phải có hệ thống tài liệu, chứng từ kỹ thuật, tiêu chuẩn để xác định các loại thời gian hao phí. Cán bộ định mức phải nắm vững nhiệm vụ thành thạo về kỹ thuật. Phương pháp này chủ yếu được tiến hành trong phòng làm việc của cán bộ định mức. Nên áp dụng thích hợp vào sản xuất hàng loạt vì nó cho phép xây dựng mức nhanh, tốn ít công sức đảm bảo chính xác và đồng nhất của mức. Phương pháp phân tích khảo sát : Là phương pháp xây dựng mức dựa vào các tài liệu nghiên cứu, khảo sát tại nơi làm việc. Các phương pháp khảo sát cơ bản để nghiên cứu hao phí thời gian làm việc và chụp ảnh, bấm giờ hoặc kết hợp cả chụp ảnh và bấm giờ. Qua chụp ảnh hoặc bấm giờ trực tiếp ở nơi làm việc thu được những tài liệu phản ánh toàn bộ thời gian hoạt động của công nhân hay thiết bị trong ca làm việc, trong đó công việc lớn nhất thường lặp đi lặp lại trong ngày (tác nghiệp) được nghiên cứu tỷ mỉ từng bộ phận cấu thành (thao tác, động tác, phương pháp thực hiện chúng) và những yếu tố ảnh hưởng đến thời gian hao phí để thực hiện chúng. Qua khảo sát phát hiện ra những thời gian hao phí trông thấy và không trông thấy, những nguyên nhân gây ra, trên cơ sở đó mà đề ra những biện pháp khắc phục. Đặc điểm của phương pháp này là dựa vào các tài liệu khảo sát trực tiếp tại nơi làm việc. Nó cho phép không chỉ xây dựng những mức lao động có căn cứ khoa học mà góp phần hoàn thiện tổ chức sản xuất và quản lý để phổ biến rộng rãi trong công nhân.Mức xây dựng theo phương pháp này có độ chính xác cao, tuy nhiên tốn thời gian, công sức và đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ nhất định. Thích hợp với điều kiện sản xuất hàng loạt lớn. Trong sản xuất hàng loạt vừa và nhỏ chỉ áp dụng cho những khâu sản xuất có tính chất hàng loạt. Hoặc để nghiên cứu tình hình sử dụng thời gian làm việc nghiên cứu phương pháp và thao tác làm việc tiên tiến. Phương pháp nghiên cứu. Để đánh giá công tác tổ chức lao động khoa học, sử dụng các phương pháp như sử dụng các tiêu chuẩn, quy định của nhà nước, các thiết kế mẫu, phân tích thời gian làm việc của người lao động, phương pháp xã hội học, phương pháp toán học và thống kê. Tuy nhiên trong chuyên để này em sẽ chủ yếu phân tích thời gian làm việc của người lao động thông qua việc khảo sát thời gian làm việc của họ. Sau khi có được các phiếu chụp ảnh nơi làm việc sẽ tổng hợp thời gian làm việc của họ theo các loại hao phí khác nhau. Qua đó xác định các hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích, tỷ lệ thời gian tác nghiệp và hệ số sử dụng thời gian lãng phí của người công nhân. Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích của công nhân: Hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí của công nhân: Tỷ lệ thời gian tác nghiệp trong ca làm việc: Thời gian lãng phí xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy cần tìm hiều các nguyên nhân sâu xa của nó và có những giải pháp để hoàn thiện nhằm giảm bớt thời gian lãng phí. Thực hiện cân đối lại thời gian làm việc của người lao động cho hợp lý. Khi hợp lý hoá thời gian lao động này sẽ làm tăng thời gian tác nghiệp. Vì vậy năng suất lao động sẽ được nâng cao hơn. Khả năng tăng năng suất lao động sẽ được tính như sau: Các giải pháp về tổ chức lao động khoa học sẽ nhằm làm cho tỷ lệ thời gian tác nghiệp đặc biệt là thời gian máy tăng cao nhất và hạn chế sử dụng thời gian làm việc vào những công việc lãng phí. Qua đó sẽ năng suất lao động sẽ được tăng lên. Thực trạng trình độ tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí công ty cổ phần cơ khí chế tạo hải phòng Tổng quan về công ty cơ khí chế tạo hải phòng. Sự hình thành và phát triển Tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng Tên quốc tế: Hai phong Machinery Manufacturing j.s.c Địa chỉ: 150 Tô Hiệu - Quận Lê Chân - TP. Hải Phòng Giai đoạn 1959 - 1970: Ngày 10/9/1959 UBHC Thành phố Hải Phòng ra quyết định thành lập Xí nghiệp Cơ khí kiến thiết thuộc ngành công nghiệp địa phương. Xí nghiệp ra đời từ 4 công ty tư nhân nhỏ và yếu: Công ty đúc kiến thiết, xưởng Trần Khắc Tiên, Công ty Túc Thành, Công ty Hoàng Chu An. Từ một xí nghiệp công tư hợp danh nhanh chóng trở thành xí nghiệp quốc doanh vào cuối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965. 1965 - 1970 Xí nghiệp được Nhà nước đầu tư lớn nhờ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy trong thời gian này Nhà máy đã trở thành một trong những Nhà máy cơ khí phát triển nhất ở Hải phòng. Giai đoạn từ năm 1970 - 1973: Từ năm 1970 một bộ phận lớn của xí nghiệp cơ khí 19/8 giải thể và nhập vào xí nghiệp cơ khí kiến thiết. Do đó năng lực của Xí nghiệp đã được tăng cường cả về lao động (gần 1000 lao động), tài sản cố định. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự lớn mạnh của Xí nghiệp. Đây là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc (1964 - 1972) Xí nghiệp không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất đã được Thành phố giao cho mà trong cả chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhờ những thành tích xuất sắc đó, 12/8/1968 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đến thăm và động viên tinh thần toàn Xí nghiệp. Kỷ niệm 10 năm thành lập, ngày10/9/1969, Xí nghiệp đã đón nhận huân chương lao động hạng ba và huân chương chiến công hạng ba do Nhà nước trao tặng. Giai đoạn 1973 - 1985: Giai đoạn này Xí nghiệp tiếp tục phát triển trong hòa bình theo cơ chế tập trung bao cấp. Các mặt hoạt động, phong trào công nhân lao động tiếp tục giữ vững và được đẩy mạnh. Xí nghiệp liên tục trong nhiều năm là lá cờ đầu về mọi mặt ở Hải phòng. Tuy nhiên trong giai đoạn này, lao động của Xí nghiệp đã giảm dần chỉ còn hơn 580 lao động. Ngày 10/9/1974, Xí nghiệp đón nhận huân chương lao động hạng ba lần thứ 2. Ngày10/9/1978, Xí nghiệp vinh dự đón nhận huân chương lao động hạng nhì. Tháng 11/1983, Xí nghiệp cơ khí kiến thiết đổi thành Nhà máy cơ khí chế tạo Hải phòng, trực thuộc ngành công nghiệp Hải phòng. Ngày 10/9/1985, Nhà máy đón nhận huân chương lao động hạng nhất. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối mới của Đảng và Nhà nước, Nhà máy đã từng bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá: sản phẩm ngày càng đa dạng, đa phương hoá thị trường. Nhà máy có sự đổi mới về mọi mặt: phương án sản phẩm, thị trường, thiết kế, công nghệ, chất lượng sản phẩm, sự đầu tư, tổ chức sản xuất. Nói đến sản xuất hàng hoá là nói đến thị trường tiêu thụ, và thị trường có quan hệ mật thiết với quan hệ sản xuất, phương hướng sản xuất, đầu tư tài chính chính sách giá cả, quảng cáo bán hàng, uy tín sản phẩm.Từ khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm , Công ty Cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng cho đến nay cũng đã và đang sản xuất nhiều loại sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu trên thị trường, nhìn chung công ty đã có 3 nhóm khách hàng chính trên thị trường đó là : Các doanh nghiệp quốc doanh mua sản phẩm máy công cụ nhằm mục đích sản xuất nên đòi hỏi rất cao về chất lượng và độ chính xác lớn, lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường này chiếm một tỷ trọng rất lớn. Nhóm khách hàng thuộc khu vực tư nhân và cá nhân người tiêu dùng, đây là thị trường nhỏ của công ty nhưng lại có xu hướng tiến triển tốt trong tương lai. Công ty có thể thu hồi vốn nhanh chóng , đẩy nhanh tốc độ sản xuất, nâng cao tỷ lệ tiêu thụ, giá cả ổn định. Công ty sản xuất theo đơn đặt hàng các loại phụ tùng của hàng tiêu dùng. Từ năm 2002, Nhà máy sản xuất phụ tùng xe máy cho công ty Honda Việt Nam. Đây là một hợp đồng có ý nghĩa cho việc giải quyết việc làm, tạo thu nhập cao cho người lao động. Công ty còn mở rộng thị trường ra nước ngoài như Đài loan, Thái lan... Từ năm 1989 Nhà máy xuất khẩu được nhiều máy công cụ cỡ nhỏ sang Liên Xô cũ, Thái Lan, Đài Loan. Trong năm 2001, do kinh tế thế giới suy giảm, giá cả máy công cụ xuất khẩu luôn giảm (giảm tới 25%) nên cạnh tranh tiêu thụ máy công cụ rất gay gắt, khả năng xuất khẩu máy công cụ sang Đài loan và Thái lan giảm nhiều. Trong năm 2003 Nhà máy đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn, xuất phát từ nhiều hướng như: giá cả nguyên vật liệu, thị trường, nội bộ Nhà máy khi chuẩn bị bước vào cổ phần hoá. Theo Quyết định số 188/2003/QĐ - BCN ngày 14/11/2003 của Bộ công nghiệp chuyển Nhà máy thành Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải Phòng. Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất đã họp ngày 30/12/2003. Sản phẩm chủ yếu của Nhà máy hiện nay bao gồm: Máy công cụ cỡ nhỏ và vừa như: Máy tiện các loại T12L, T14B, T370x800 Máy tiện cao tốc SS25, SD45. Máy khoan phay KF70, KF120. Cối trộn CT1500B Phụ tùng các máy công cụ như: Hộp số cối trộn CT1500B, Bộ bàn dao máy tiện cao tốc. Phụ tùng xe máy các loại Honda, Wave, Dream. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Công ty được tổ chức theo cơ cấu của một công ty cổ phần. Hội đồng quản trị đóng chức năng quan trọng lãnh đạo công ty. Thành phần của hội đồng quản trị gồm: 1 chủ tịch hội đồng quản trị và các uỷ viên. Giám sát hoạt động của hội đồng quản trị là Ban kiểm soát gồm trưởng ban và các uỷ viên. Đứng đầu bộ máy điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh là Giám đốc công ty. Giám đốc là người chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhà nước về kết quả sản xuất hoạt động kinh doanh của công ty. Giúp việc cho giám đốc là 3 phó giám đốc. Phó giám đốc thường trực có chức năng trực tiếp tham mưu, chỉ đạo cho giám đốc những công việc có tính cần thiết đặc biệt cần giải quyết đối với công ty. Phó giám đốc kỹ thuật có chức năng giúp giám đốc quản lí các lĩnh vực kĩ thuật khoa học công nghệ và môi trường , bào hộ lao động , vệ sinh công nghiệp và quản lí chất lượng sản phẩm. Do đó phó giám đốc kỹ thuật đề ra các giải pháp kĩ thuật và xử lí các hiện tượng phát sinh gây ách tắc trong sản xuất và phục vụ sản xuất. Có quyền đình chỉ và báo cáo với giám đốc xử lý đối với các hoạt động vi phạm nghiêm trọng trong quy định, quy trình gây mất an toàn lao động. Phó giám đốc sản xuất sẽ tham gia điều hành quá trình sản xuất tại công ty, việc thực hiện các kế hoạch sản xuất tại các phân xưởng, giúp cho guồng máy sản xuất hoạt động liên tục, đạt hiệu quả cao. Bộ máy quản lý và cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ bao gồm 8 phòng ban: tài vụ, phòng tổ chức lao động tiền lương, phòng hành chính, phòng kỹ thuật sản xuất, phòng cung tiêu, phòng sản phẩm mới, phòng KCS, phòng tổng hợp. Giám đốc Hội đồng quản trị Ban kiểm sát PGĐ thường trực Chuyên gia đánh giá nội bộ Đại diện lãnh đạo (QMR) PGĐ kỹ thuật PGĐ sản xuất Tổ tiện sd Tổ tiện 1,2 Tổ phay Tổ phục vụ Tổ doa mài Tổ khoan doa Tổ tiện CNC Tổ mài Tổ cơ Tổ phục vụ Tổ nhiệt luyện Tổ điện Kho p.xưởng Tổ hàn Tổ đ.dập 1,2,3 Tổ cơ khí 1,2,3 Tổ vận chuyển Tổ phục vụ Tổ sắt 1,2,3 Tổ lắp ráp 1,2 Tổ tạo phôi Tổ phục vụ Tổ sơn PX. Cơ khí PX. Lắp ráp PX. đột dập PX. Dụng cụ PX. Cơ điện P. tài vụ P. tổ chức P. sản phẩm mới P. Hành chính P. Cung tiêu P. kỹ thuật sản xuất P. KCS P. tổng hợp Phòng tài vụ có chức năng giúp đỡ cho giám đốc công ty tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê, thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp theo cơ chế của Nhà nước ban hành Phòng tổ chức có chức năng giúp đỡ giám đốc ra các quyết định quy định, nội quy, quy chế về lao động tiền lương, tổ chức nhân sự và giải quyết các vấn đề chính sách xã hội theo quyết định của giám đốc. Phòng kỹ thuật sản xuất nghiên cứu các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào công tác thiết kế công nghệ của công ty ,và đưa công tác quản lí khoa học kĩ thuật của công ty vào nề nếp. Phòng sản phẩm mới có chức năng nghiên cứu thiết kế các loại sản phẩm mà công ty mới nhận hợp đồng, chịu trách nhiệm về mẫu mã sản phẩm. Phòng KCS có chức năng thực hiện kiểm tra giám sát, theo dõi tiến độ chất lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ trong phạm vi hoạt động sản xuất của công ty. Đồng thời báo cáo kịp thời các hoạt động liên quan. Phòng tổng hợp thực hiện việc cân đối khả năng thực tế về vật tư, thiết bị lao động, dụng cụ, lập kế hoạch và điều độ sản xuất. Bộ phận trực tiếp sản xuất bao gồm 5 phân xưởng: phân xưởng cơ khí, phân xưởng dụng cụ, phân xưởng đột dập, phân xưởng lắp ráp, phân xưởng cơ điện. Lãnh đạo các phân xưởng là các quản đốc và phó quản đốc giúp việc cho quản đốc. Đặc điểm về lao động Trong những năm trở lại đây với xu hướng cổ phần hoá, giảm thiểu số người lao động nên lao động tại công ty từ năm 2002 đến nay giảm nhiều. Từ con số 580 người còn 419 người hiện nay. Và cơ cấu lao động cũng có những thay đổi nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu sản xuất thực tế hiện nay. Bảng: cơ cấu lao động tại công ty cổ phần cơ khí chế tạo hải phòng theo độ tuổi lao động, theo giới tính và theo loại hợp đồng lao động. Đơn vị: người Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Số người Tỷ trọng (%) Số người Tỷ trọng (%) II. Về độ tuổi lao động 18 – 29 231 48.94 221 52.74 30 – 44 144 30.51 123 29.36 45 – 60 97 20.55 74 17.66 Trên 60 0 0 1 0.24 III. Về giới tính Nam 358 75.85 313 74.70 Nữ 114 24.15 106 25.30 IV. Theo loại hợp đồng Không xác định thời hạn 338 71.61 259 61.81 Thời hạn từ 1 đến 3 năm 134 28.39 127 30.31 Thời vụ 0 0 33 7.88 Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương. Nhìn vào cơ cấu lao động theo độ tuổi ta có thể nhận thấy lực lượng lao động tại công ty là đội ngũ trẻ. Năm 2003 số người từ 18 - 29 tuổi là 231 người (chiếm 48,94%) thì đến năm 2004 con số này là 221 người (chiếm52,74%). Tuổi bình quân lao động trong công ty đã giảm xuống (từ 30 tuổi còn 29 tuổi). Như vậy lao động hiện nay đang có xu hướng trẻ hoá. Điều này hoàn toàn thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng về sự phát triển khoa học công nghệ ứng dụng. Về giới tính, số lao động cả nam và nữ có giảm đi nhưng về cơ cấu không có sự thay đổi đáng kể. Điều này là do đặc điểm về sản xuất trong công ty không thay đổi. Năm 2004 công ty đã ký nhiều hợp đồng lao động thời vụ hơn (33 chiếm 7,88 số hợp đồng lao động toàn công ty) và hợp đồng lao động không xác định thời hạn đã giảm nhiều từ 71,61% năm 2003 xuống 61,81% năm 2004. Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng là công ty được thành lập từ rất lâu. Do vậy về cơ cấu lao động ở công ty cũng có nhiều điểm hạn chế. Trình độ chuyên môn ở công ty không cao đặc biệt lao động gián tiếp. Điều này thể hiện ở số người lao động có trình độ từ cao đẳng đại học trở lên ở công ty. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ lao động gián tiếp. Năm 2004 lao động có trình độ cao đẳng đại học trở lên là 25 người chiểm 5,96% số lao động toàn công ty thì số lao động gián tiếp là 97 người chiếm 23,15%. Còn đối với công nhân sản xuất, số lao động có trình độ từ bậc 1 đến bậc 4 chiếm tỷ lệ lớn 69,68% năm 2004. Bảng: cơ cấu lao động tại công ty cơ khí chế tạo hải phòng theo trình độ chuyên môn. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Số người Tỷ trọng (%) Số người Tỷ trọng (%) Tổng lao động 472 100 419 100 1. Lao động phổ thông 11 2.33 11 2.63 2. Bậc 1 đến 4 323 68.44 292 69.68 3. Bậc 5 đến 7 101 21.40 86 20.53 3. Trung cấp 10 2.12 5 1.20 4. Cao đẳng - đại học 27 5.71 25 5.96 5. Trên đại học 0 0 0 0 Nguồn: phòng tổ chức lao động tiền lương. Do đặc trưng của một công ty cơ khí nên công nhân ở công ty thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như thợ tiện, thợ phay, thợ doa mài, thợ hàn, thợ nguội, thợ bào, thợ khoan…tuy nhiên nghề tiện ở công ty vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (80 người chiếm 19,09% số lao động toàn công ty năm 2004). Bảng cơ cấu lao động theo nghề nghiệp: Stt Chỉ tiêu Năm 2004 Số người Tỷ trọng (%) 1 Lao động gián tiếp 97 23.15 2 Thợ tiện 80 19.09 3 Thợ phay 39 9.31 4 Thợ doa 6 1.43 5 Thợ mài 49 11.69 6 Thợ khoan 42 10.02 7 Thợ cắt, đột 45 10.74 8 Thợ bào 5 1.19 9 Thợ hàn 35 8.35 10 Nhiệt luyện 8 1.91 11 Các loại khác 13 3.10 Nguồn: phòng tổ chức lao động tiền lương. Trang thiết bị: Máy móc kỹ thuật là điều kiện vật chất không thể thiếu trong các cơ sở sản xuất và đặc biệt phải thường xuyên cải tiến, trang bị những loại máy móc mới hiện đại hơn nhằm đạt được năng suất cao trong sản xuất. Hiện tại số máy móc trong công ty vừa nhiều vừa đa dạng về chủng loại. Trong đó phân xưởng cơ khí là phân xưởng sản xuất chính do vậy số máy móc tại phân xưởng cơ khí cũng chiếm tỷ lệ lớn (131 máy chiếm 34% tổng số máy). Máy móc thiết bị sản xuất là bộ phận quan trọng của cả doanh nghiệp .Nó phản ảnh năng lực sản xuất hiện có ,trình độ kỹ thuật của doanh nghiệp. Công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải Phòng ra đời có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô (cũ), do đó máy móc thiết bị của công ty chủ yếu là của Liên xô (cũ) để lại Ngoài ra còn các loại máy móc thiết bị của Đức, Balan, Trung quốc và một số loại máy mới của Nhật, Mỹ và máy do công ty sản xuất chế tạo. Máy móc thiết bị của công ty khá lớn nhưng hầu hết đã già cỗi, cũ kỹ, chính xác kém mất đồng bộ. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt tài tình của Giám đốc, ban lãnh đạo công ty đã nhận định đúng đắn tầm quan trọng của hệ thống máy móc thiết bị , đây là nhân tố tăng thêm sức cạnh tranh của doanh nghiệp .Công ty đã lập ra những dự án đầu tư cải tạo từng bước hệ thống máy móc thiết bị để đáp ứng nhu cầu sản xuất ngày càng hiện đại hơn. Từ năm 1995 Công ty đã tiến hành đầu tư cải tạo nhà xưởng, thiết bị tăng gấp 5,2 lần so với năm 1994. Trong đó làm mới vầ cải tạo thiết bị chiếm 80% tổng chi phí đầu tư. Bảng: Số lượng các loại máy móc thiết bị tại công ty tính đến 31/3/2005 Các loại máy móc, thiết bị Cơ khí Đột dập Dụng cụ Lắp ráp Cơ điện KCS & kho Tổng Máy tiện 27 1 16 3 3 0 50 Máy phay 24 3 4 2 1 0 34 Máy bào 7 0 0 0 0 0 7 Máy doa 5 0 1 0 0 0 6 Máy cán ren 1 0 1 0 0 0 2 Máy cà răng 2 0 0 0 0 0 2 Máy mài 12 0 12 0 1 0 25 Máy hàn 0 21 9 3 2 0 35 Máy khoan 1 1 2 8 1 0 13 Máy đột dập 0 39 0 7 0 0 46 Máy ép 0 5 0 2 0 0 7 Lò tôi 0 0 0 0 5 0 5 Máy cắt đột 0 0 0 1 0 0 1 Máy cắt tôn lốc 0 1 0 3 0 0 4 Máy tiện T12 và T14 4 1 7 3 0 0 15 Máy tiện SD 31 0 1 0 0 0 32 Máy KF 0 6 3 0 0 0 9 Máy khoan K612 1 8 3 6 2 0 20 Máy nén khí 1 2 2 2 1 0 8 Palăng điện 4 1 1 6 1 1 14 Máy đo 0 0 6 0 0 4 10 Máy búa 0 0 0 2 0 0 2 Máy cưa sắt 0 0 0 6 0 0 6 Máy mài 2 đá 10 3 2 7 2 0 24 Khác 1 1 11 1 1 0 15 Tổng 131 94 80 62 20 5 392 Nguồn: Phân xưởng cơ điện. Năm 2000 Công ty đã tổ chức đại tu thuần tuý được 37 thiết bị, chế tạo 5 thiết bị dây chuyền và lắp đặt 350 tấn thiết bị phục vụ chương trình đầu tư, sắp sếp lại theo yêu cầu sản xuất. Theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh càng tăng cường khả năng cạnh tranh với cơ khí trong và ngoài nước, Công ty đã chú trọng cải tạo, đầu tư mới, mua sắm một số thiết bị quan trọng, tập trung cho khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm, đặt máy vi tính cho các phòng nghiệp vụ. Kết quả sản xuất kinh doanh và phương hướng phát triển trong thời gian tới. Sau cổ phần hoá, Công ty đã đạt được nhiều kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2004 doanh thu của Công ty đã đạt ở mức 66,5 tỷ đồng bằng 175% kế hoạch và tăng 67% so với năm 2003. Đây là mức tăng trưởng bước đầu rất thành công sau cổ phần hoá của Công ty. Qua đó khẳng định việc cổ phần hoá đã đem lại kết quả và là một bước đi. Bảng: kết quả một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh của công ty năm 2003 và năm 2004. Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 2004/2003 (%) Kh Th Kh Th Tổng sản lượng 20 27,5 27,5 43,7 159 Doanh thu 35 38 38 66,5 167 Nộp ngân sách 2,434 2,739 2,76 6,68 240 Lãi trước thuế 1,1 1,2 1,8 2,2 202 Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2003 và năm 2004. Là một trong những trung tâm cơ khí chế tạo lớn nhất thành phố, công ty có dây chuyền thiết bị cơ khí nhỏ chuyên sản xuất máy công cụ và một dây chuyền thiết bị lớn để sản xuất máy công nghiệp và thiết bị công nghiệp cộng với 40 năm kinh nghiệm chế tạo máy công cụ. Có một hệ thống khép kín từ khâu tạo phôi đến khâu gia công tinh và lắp ráp. Có một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề trong lĩnh vực chế tạo máy đặc biệt là chế tạo máy công cụ. Với những thế mạnh trên công ty đã nâng cao được tiềm năng, năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của mình góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp . Trong thời gian tới, lãnh đạo công ty quyết tâm đưa công ty phát triển vững mạnh hơn, tạo nhiều việc làm, sự ổn định hơn cho người lao động, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường. Đặc điểm tổ chức lao động tại công ty cổ phần cơ khí chế tạo Hải phòng. Nhận xét đánh giá chung về tình hình tổ chức lao động khoa học tại công ty. Từ đó đi đến thực trạng tổ chức lao động tại phân xưởng cơ khí. Đặc điểm quá trình sản xuất của công ty. Trong công ty quá trình sản xuất là quá trình tổng hợp các hoạt động có ích để biến nguyên liệu, bán thành phẩm thành sản phẩm của công ty. Có thể kể đến các quá trình chính như: chế tạo phôi; gia công cắt gọt; gia công nhiệt, hoá; kiểm tra; lắp ráp và hàng loạt các quá trình phụ như: vận chuyển; chế tạo dụng cụ; sửa chữa máy; bảo quản trong kho; chạy thử; điều chỉnh; sơn lót; bao bì, đóng gói… Đối với các loại sản phẩm máy công cụ hiện nay là quá trình sản xuất đơn chiếc. Với các loại phụ tùng xe máy lượng sản xuất của công ty là rất lớn, mỗi tháng công ty sản xuất đến hàng chục ngàn phụ tùng xe máy và lượng đặt hàng hàng năm cũng tương đối ổn định . Đây là quá trình sản xuất hàng khối mà công ty đã thực hiện trong nhiều năm qua Sơ đồ quy trình sản xuất sản phẩm tại công ty. Quá trình sản xuất sản phẩm các loại máy móc công cụ bao gồm các quá trình bộ phận sau: quá trình tạo phôi, quá trình gia công cơ khí, quá trình lắp ráp và các quá trình phục vụ. Đặc điểm quá trình lao động của công ty. Quá trình lao động được thực hiện ở 5 phân xưởng. Mỗi phân xưởng thực hiện các chức năng đã được phân công. Phân xưởng lắp ráp thực hiện các công việc tạo phôi và lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm. Phân xưởng cơ khí thực hiện việc gia công để tạo ra bán thành phẩm. Còn phân xưởng cơ điện là phân xưởng có chức năng phục vụ bảo dưỡng, sửa chữa các máy móc thiết bị điện cơ theo kế hoạch, khi có nhu cầu tại các bộ phận và tham gia sản xuất các thiết bị điện. Quá trình lao động được thực hiện theo trình tự về công nghệ. Các hoạt động chính của công tác tổ chức lao động khoa học. Tại Công ty hiện nay đã và đang áp dụng các biện pháp tổ chức lao động khoa học vào quá trình sản xuất. Do vậy năng suất lao động ở Công ty cũng đang dần được nâng cao hơn. Công tác tổ chức lao động khoa học ở Công ty bao gồm các nội dung: Phân công và hiệp tác lao động: Theo chức năng Công ty được phân chia thành các bộ phận gián tiếp và trực tiếp sản xuất. Bộ phận gián tiếp gồm các cấp lãnh đạo và các bộ phận chuyên môn thực hiện các chức năng quyền hạn riêng. Lãnh đạo công ty gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực khác nhau. Bộ phận trực tiếp được phân thành các phân xưởng. Trong các phân xưởng gồm nhiều tổ sản xuất. Các bộ phận đó có liên hệ gắn bó với nhau. Do vậy việc quản lý sản xuất, quản lý lao động rất thuận lợi và được tổ chức tốt. Về tổ chức, phục vụ nơi làm việc: Việc thiết kế, trang bị và bố trí nơi làm việc hợp lý cũng được các cán bộ lãnh đạo trong công ty đặc biệt quan tâm. Hiện nay, vị trí các phân xưởng mặc dù đã được sắp xếp từ lâu nhưng lãnh đạo công ty luôn tìm ra những giải pháp hợp lý nhất trong điều kiện nhất định. Cũng do nhiều nguyên nhân nên một số vị trí ở công ty cũng chưa thật hợp lý chẳng hạn: kho nguyên liệu, bán thành phẩm ở xa các phân xưởng sẽ phải chi phí nhiều lao động hơn, do đó hiệu quả sẽ kém hơn. Trong năm 2004 Công ty đã dành 2,3 tỷ đồng cho việc đầu tư các loại máy móc thiết bị mới, hiện đại. Và trong năm 2005 Công ty cũng sẽ nhập thêm các thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu sản xuất. Ngoài ra việc tổ chức phục vụ nơi làm việc còn được thực hiện thông qua các biện pháp sắp xếp tổ chức tại nơi làm việc nhằm giúp cho việc hoạt động sản xuất được diễn ra một cách liên tục đạt hiệu quả cao. Trong năm này công ty đã trang bị thêm cho nơi làm việc một số dụng cụ như: Giá để nguyên vật liệu, bán thành phẩm, dụng cụ. 4triệu đồng. Bảng chắn phoi: 1,5 triệu. Xe vận chuyển hàng: 6 triệu. Quạt, hệ thống hút bụi: 7 triệu Và hàng loạt các hoạt động nhằm tổ chức lại nơi làm việc như thiết kế lại nơi làm việc cho hợp lý, bổ sung trang thiết bị và bố trí nơi làm việc theo thiết kế. Về chế độ phục vụ tại công ty phân chia thành các chức năng phục vụ khác nhau: trong công ty có các nhân viên phụ trách về công tác vệ sinh, nhân viên vận chuyển, phân xưởng cơ điện thực hiện các chức năng phục vụ về sửa chữa máy móc và tại các phân xưởng cũng có các nhân viên phục vụ Về điều kiện làm việc: Bảng các biện pháp cải thiện điều kiện lao động. Nội dung Năm 2004 Số việc Số tiền 1. Các biện pháp về kỹ thuật an toàn và phòng cháy chữa cháy. 9 32,5 triệu 2. Các biện pháp về kỹ thuật vslđ, pcđh và cải thiện điều kiện làm việc. 3 27 triệu 3. Mua sắm trang thiết bị bảo vệ cá nhân. 14 60 triệu 4. Chăm sóc sức khoẻ người lao động 1 10 triệu 5. Tuyên truyền giáo dục, huấn luyện về BHLĐ 2 11 triệu Tổng 140,5 triệu Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương. Nhìn chung Công ty cùng với Công đoàn đã thường xuyên, rất cố gắng, tích cực tìm tòi mọi biện pháp cải thiện điều kiện làm việc như trang bị thêm, sửa chữa phục hồi, cải tạo lại các điều kiện làm việc: palăng, cầu trục, quạt, thông gió, hút bụi, chống dột, chống nắng, ánh sáng, chống ồn, nhà vệ sinh, đường đi, nước uống. Hàng năm chi khoảng 30 đến 50 triệu đồng để cải thiện điều kiện làm việc. Do vậy đã đảm bảo tại nơi làm việc luôn luôn vệ sinh, sạch sẽ, ngăn nắp và khá an toàn tuy nhà xưởng vốn rất chật hẹp, thấp bé, lâu năm. Kỷ luật lao động và các phong trào thi đua: Công ty luôn duy trì các biện pháp kỷ luật chặt chẽ đối với người lao động. Trong nội quy lao động của Công ty cũng đã quy định các hình thức kỷ luật cụ thể đối với các trường hợp vi phạm về kỷ luật lao động, công nghệ như khiển trách, kéo dài thời hạn nâng lương, sa thải. Công ty kịp thời, liên tục phát động các đợt thu đua ngắn trong năm, hướng vào các ngày lễ lớn và sự kiện chính trị quan trọng, có nội dung rất cụ thể và đã thu hút được đông đảo công nhân lao động tích cực hưởng ứng. Bảng: Kết quả một số chỉ tiêu về phong trào thi đua năm 2004. Stt Chỉ tiêu Đơn vị Số lượng Ghi chú 1 Sáng kiến Đăng ký. Đã hoàn thành. Giá trị làm lợi. Tiền thưởng. Tiết kiệm. Cái Cái 1000 đồng 1000 đồng 1000 đồng 62 47 524.000 28.630 450.000 2 Công trình sản phẩm cấp Công ty. Cái 3 3 Danh hiệu lao động giỏi Cá nhân. Tập thể. Người 205 8 4 Danh hiệu CSTĐ Người 40 = 7% CNLĐ Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương. Tuy mức độ có khác nhau trong mỗi đợt thi đua nhưng cơ bản vẫn là lao động giỏi, sáng kiến tiết kiệm, chất lượng, năng suất, ngày giờ công, hiệu quả kinh tế, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh. Trong đó sáng kiến tiết kiệm là mũi nhọn, chất lượng công việc là sống còn, khối lượng công việc là thước đo sự phấn đấu. Do đó Công ty đã hoàn thành vượt mức, xuất sắc các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh trong từng đợt thi đua, hàng năm với tốc độ rất cao. Công tác định mức lao động Hiện nay công tác định mức lao động luôn được duy trì, phát triển trong Công ty. Công ty cũng có những phương pháp xây dựng mức lao động phù hợp. Đối với các công việc gián tiếp sử dụng mức thời gian để đánh giá kết quả làm việc và được sử dụng để trả lương cho người lao động. Mức sản lượng được áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Công ty dùng phương pháp định mức lao động theo định biên. Số lao động toàn công ty được xác định cho từng bộ phận trực tiếp sản xuất, phục vụ, KCS, chuyên dùng và quản lý. Định biên lao động của từng bộ phận được xác định trên cơ sở kế hoạch SXKD, các hợp đồng ký kết, khối lượng công việc, tổ chức lao động theo yêu cầu để hoàn thành quá trình vận hành SXKD. ở mỗi đoạn sản xuất ngưởi tổ chức thuộc phòng kỹ thuật và phòng Tổ chức lao động tiến hành phân loại công việc. Xác định những loại công việc có thể kiểm nghiệm để tính ra số công việc từ đó ấn định số lao động cho từng công việc. Như vậy, nhìn chung việc tổ chức lao động khoa học cũng đã được áp dụng và hiện nay vẫn đang có những đề án mới nhằm nâng cao hiệu quả của người lao động, tăng năng suất lao động chung của Công ty. Tổng quan về tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng Đặc điểm quá trình công nghệ sản xuất và quá trình lao động của phân xưởng. Về công nghệ phân xưởng cơ khí là phân xưởng đóng vai trò sản xuất chính trong công ty. Nguyên liệu sau khi được tạo thành phôi được đưa đến gia công cơ tại phân xưởng. Quá trình gia công cơ trải qua nhiều bước công việc khác nhau để tạo thành chi tiết hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu kỹ thuật như thiết kế. Đây là các quá trình máy, đối tượng lao động biến đổi do sự cắt gọt của các loại máy móc. Tuỳ theo hình dáng, kích thước, đặc điểm đối tượng lao động để sử dụng loại máy móc thích hợp nhất. Với các loại máy công cụ thì được sản xuất hàng loạt nhỏ. Phụ tùng xe máy Honda được sản xuất hàng khối. Đặc điểm chung của các phương pháp gia công tại phân xưởng cơ khí là dùng những lưỡi cắt tác dụng vào phôi liệu một lực cần thiết để tách phoi ra khỏi nó và tạo thành hình dạng kích thước cần thiết. Gia công và cắt gọt có nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp có khả năng đạt chất lượng và năng suất nhất định và được sử dụng trong phạm vi thích ứng. Do vậy cần phải nắm được các phương pháp đó. Các nguyên công cắt gọt chủ yếu trong phân xưởng là: tiện, phay, bào, khoan, doa mài, taro… Tiện là một phương pháp gia công cắt gọt thông dụng nhất, nó tạo nên hình dạng mặt gia công bằng hai chuyển động: chuyển động quay tròn của chi tiết là chuyển động chính và chuyển động tịnh tiến của dao. Khi thực hiện bước công việc tiện, việc chọn máy, dao không thể tuỳ tiện mà phải căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật và năng suất cần đạt. Tiện có thể tạo được nhiều dạng bề mặt khác nhau như các mặt trụ, mặt côn, các mặt đầu, mặt định hình tròn xoay, ren trong, ren ngoài… Khối lượng công việc tiện trong phân xưởng chiếm khoảng 30 - 40% toàn bộ khối lượng gia công cơ khí. Khi tiện có thể cắt theo lớp, cắt từng đoạn và cắt phối hợp. Tiện thường được sử dụng trên máy tiện có thể là máy rơvônve hoặc máy tiện vạn năng hoặc máy tiện tự động. Phay là phương pháp gia công cũng khá phổ biến ở phân xưởng. Phay không những gia công được mặt phẳng mà còn có thể gia công được nhiều mặt định hình khác nhau. Dao phay có nhiều lưỡi cắt cùng làm việc nên tốc độ phay nhanh. Máy phay gồm nhiều loại như máy phay vạn năng nằm ngang hoặc đứng, máy phay nhiều trục, máy phay có bàn quay, máy phay chuyên dùng. Khi gia công các chi tiết lớn như thân máy, các chi tiết máy dạng hộp sử dụng máy phay giường. Bào và xọc là những phương pháp gia công có tính vạn năng cao. Bào chuyển động tịnh tiến theo phương nằm ngang còn xọc chuyển động tịnh tiến theo phương thẳng đứng. Tuy vậy năng suất của chúng đều thấp do tốn hành trình máy chạy không, vận tốc cắt chậm. Do vậy bào và xọc được sử dụng để gia công một số chi tiết sản xuất đơn chiếc và hàng loạt nhỏ. Khoan, khoét, doa là những phương pháp gia công lỗ có thể đạt chất lượng gia công khác nhau. Tuỳ theo hình dạng kích thước, tính chất vật liệu, loại phôi và chất lượng yêu cầu mà việc ứng dụng có khác nhau như: có thể chỉ cần khoan; hoặc khoan rồi doa; hoặc khoan rồi khoét rồi doa; hoặc khoét rồi doa. Gia công ren bằng taro chủ yếu dùng để gia công ren trong tiêu chuẩn, nhất là lỗ ren có đường kính trung bình và nhỏ. Bằng phương pháp này có thể gia công được ren trụ, ren côn thông hoặc không thông. Trong một số trường hợp đặc biệt taro còn có thể gia công được ren tiết diện hình thang hoặc vuông. Mài là một nguyên công tinh có thể gia công được nhiều hình dạng bề mặt khác nhau như một trụ ngoài, mặt trụ trong, mặt phẳng, mặt định hình. Mài có thể gia công được vật liệu rất cứng nhưng không gia công được vật liệu quá mềm. Khi mài ngoài vấn đề gá đặt chi tiết, việc chọn đá mài, chế độ mài đóng vài trò quyết định tới chất lượng sản phẩm. Việc áp dụng các biện pháp gia công hợp lý có vai trò quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sơ đồ công nghệ sản xuất tại phân xưởng cơ khí: Đặc điểm máy móc thiết bị, công cụ lao động. Không nằm ngoài những đặc điểm về máy móc, thiết bị của công ty, máy móc tại phân xưởng cơ khí chủ yếu là các loại máy móc của Liên Xô cũ mà hiện nay vẫn được sử dụng tại phân xưởng. Số máy móc thiết bị của phân xưởng là 131 máy chiếm 34% tổng số máy móc của Công ty. Qua đó cũng thể hiện phân xưởng cơ khí được là xưởng sản xuất chính trong công ty. Tuy nhiên số máy móc tại phân xưởng chủ yếu là các máy móc từ lâu, lạc hậu, đa số là các máy bán tự động, vạn năng thích hợp với sản xuất đơn chiếc và hàng loạt nhỏ. Đặc điểm về lao động tại phân xưởng cơ khí. Phân xưởng cơ khí hiện nay bao gồm 92 lao động chiếm tỷ lệ cao nhất trong công ty chiếm 22,68% tổng số lao động tại công ty. Trong đó có 23 nữ chiếm 25% số lao động trong phân xưởng, chủ yếu tập trung ở các tổ tiện vì tiện là công việc mà không đòi hỏi mức độ nặng nhọc cao do đó lao động nữ có thể thực hiện được. Bảng: cơ cấu lao động phân xưởng cơ khí năm 2004. Bậc Tổ 2 3 4 5 6 7 Tổng Tỉ trọng (%) Phục vụ 3 3 0 1 0 0 7 7.61 Tiện 1 1 5 2 1 2 1 12 13.04 Tiện 2 0 6 1 3 0 1 11 11.96 Phay 1 0 3 2 1 1 4 11 11.96 Phay 2 4 2 0 0 0 0 6 6.52 Doa mài 0 3 5 1 0 1 10 10.87 Ss1 18 5 1 0 0 0 24 26.08 Ss2 5 2 0 0 0 0 11 11.96 Tổng 31 29 15 7 3 7 92 100 Tỉ trọng (%) 33.70 31.52 16.30 7.61 3.26 7.61 100 Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương. Theo bảng cơ cấu lao động trên ta thấy số lao động có trình độ bậc 2 có tỷ trọng cao nhất trong phân xưởng 33,7% còn lao động bậc 6 chiếm tỷ trọng thấp nhất 3,26% và cấp bậc công nhân bình quân của phân xưởng là 3,38. Tổ phay 2 và tổ SS là những bộ phận sản xuất mới do đó lao động ở đây đa số là những công nhân trẻ mới vào làm nên trình độ bậc thợ còn thấp. Khảo sát thời gian làm việc. Quá trình khảo sát là quá trình ghi chép những hao phí thời gian thực hiện từng bước công việc, thao tác làm việc trong quá trình lao động của công nhân. Sau khi khảo sát tôi tiến hành kiểm tra số liệu ghi chép, xác định độ dài, ghi ký hiệu hao phí thời gian của phiếu chụp ảnh quá trình làm việc phiếu bấm giờ bước công việc rồi tổng hợp thời gian hao phí cùng loại, khắc phục thời gian lãng phí, cân đối các loại hao phí thời gian làm việc. Chuẩn bị khảo sát. Chụp ảnh nơi làm việc cá nhân. Phân xưởng cơ khí có số công nhân trực tiếp sản xuất là 85 người trong tổng số 95 người. Nên để chụp ảnh thời gian làm việc, dựa vào mục đích của việc nghiên cứu, quan sát thực tế và tham khảo ý kiến của quản đốc phân xưởng. Tôi lựa chọn đối tượng khảo sát là công nhân trong phân xưởng theo từng công việc và trình độ lành nghề khác nhau đang đảm nhận các bước công việc tại phân xưởng. Trong đó gồm 4 ca chụp ảnh người công nhân chính và 1 ca của công nhân phụ. 4 ca của công nhân chính bao gồm 2 thợ phay, 2 thợ tiện. ca của công nhân phụ bao gồm công nhân vận chuyển Chụp ảnh nơi làm việc nhóm. Tiến hành chụp ảnh nơi làm việc của một nhóm công nhân cà răng cho chi tiết bánh răng máy tiện T14B. Nhóm công nhân bao gồm 6 lao động nam thực hiện các bước công việc: 1 công nhân phay hai mặt phẳng bánh răng trên máy phay, 1 công nhân tiện mặt trụ bánh răng và 4 công nhân thực hiện cà răng và làm sạch dầu trên bánh răng. Với phương pháp chụp ảnh nhóm thì cứ sau 2 phút sẽ ghi lại loại thời gian hao phí của từng công nhân vào trong phiếu. Sau khi lựa chọn đối tượng để quan sát cần thiết tiến hành gửi hình cho người công nhân được chụp ảnh biết mục đích của khảo sát là nghiên cứu hao phí thời gian làm việc của họ nhằm mục đích hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học nhằm tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của Công ty, tăng mức sống của người lao động. Kết cấu thời gian làm việc của công nhân. Để quá trình tiến hành khảo sát diễn ra là thuận lợi. Trong quá trình chuẩn bị ta phải nắm vững tình hình tổ chức sản xuất xác định nội dung, tính chất đặc điểm, phân loại các công việc cần khảo sát. Kết cấu thời gian hao phí của công nhân chính ở phân xưởng cơ khí gồm các loại thời gian sau đây. - Thời gian chuẩn kết (CK) bao gồm thời gian : thử máy, lấy dụng cụ, thay đồ bảo hộ, nhận nhiệm vụ, bản vẽ chi tiết, giao nộp sản phẩm…. - Thời gian tác nghiệp (TN) bao gồm thời gian máy tác động làm biến đổi chi tiết. - Thời gian phục vụ (PV) bao gồm : + Thời gian phục vụ kỹ thuật(PVTK): kiểm tra máy, đo chi tiết sản phẩm, dọn phoi, chuyển phôi, điều chỉnh máy móc. + Thời gian phục vụ tổ chức (TC): bao gồm thời gian nhận nguyên vật liệu chi tiết sản phẩm, thu dọn đồ, vệ sinh công nghiệp. + Thời gian nghỉ ngơi nhu cầu cần thiết (NCNN): bao gồm thời gian cho con bú, uống nước, vệ sinh… + Thời gian lãng phí tổ chức (LPTC): Bao gồm chờ nguyên vật liệu, chờ chi tiết sản phẩm… + Thời gian lãng phí kỹ thuật (LPKT) bao gồm: thời gian mất điện, máy hỏng. + Thời gian lãng phí cá nhân (LPCN) bao gồm: thời gian công nhân nói chuyện, làm việc riêng, đến muộn, về sớm. Kết cấu thời gian hao phí của công nhân phục vụ vận chuyển ở phân xưởng cơ khí gồm các loại thời gian sau đây. - Thời gian chuẩn kết (CK) bao gồm thời gian: lấy dụng cụ bao gồm bản vẽ chi tiết, xe đẩy, thay đồ bảo hộ, nhận nhiệm vụ, giao nộp dụng cụ… - Thời gian tác nghiệp (TN) bao gồm thời gian thực hiện các công việc có chức năng vận chuyển: đi lấy nguyên vật liệu, giao bản vẽ chi tiết, phục vụ nhu cầu dụng cụ cho công nhân chính, đưa bán thành phẩm về kho, di chuyển máy móc thiết bị. - Thời gian phục vụ bao gồm : + Thời gian phục vụ kỹ thuật (PVKT): kiểm tra dụng cụ vận chuyển. + Thời gian phục vụ tổ chức (PVTC): bao gồm thời gian nhận nguyên vật liệu chi tiết sản phẩm, thu dọn đồ, vệ sinh công nghiệp. + Thời gian nghỉ ngơi nhu cầu cần thiết (NCNN): bao gồm thời gian cho uống nước, vệ sinh cá nhân, nghỉ tại chỗ… + Thời gian lãng phí tổ chức (LPTC): Bao gồm chờ nguyên vật liệu, chờ chi tiết sản phẩm… + Thời gian lãng phí kỹ thuật (LPKT) bao gồm: thời gian dừng làm việc do mất điện, xe hỏng. + Thời gian lãng phí cá nhân (LPCN) bao gồm: thời gian công nhân nói chuyện, làm việc riêng, đến muộn, về sớm. Do quá trình khảo sát diễn ra liên tục nên cần phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, dụng cụ sau : - Phiếu chụp ảnh bước công việc cần ghi rõ về thời gian, đối tượng chụp ảnh, mô tă đặc điểm về tình hình tổ chức phục vụ nơi làm việc. - Đồng hồ đo thời gian. - Chuẩn bị bút, thước kẻ… - Chọn địa điểm quan sát sao cho có thể quan sát được tất cả các hoạt động lao động của người công nhân mà không làm ảnh hưởng đến họ Kết quả khảo sát thời gian làm việc. Quá trình khảo sát là quá trình ghi chép những hao phí thời gian thực hiện từng bước công việc, thao tác làm việc trong quá trình lao động của công nhân. Sau khi khảo sát tôi tiến hành kiểm tra số liệu ghi chép, xác định độ dài, ghi ký hiệu hao phí thời gian của phiếu chụp ảnh quá trình làm việc rồi tổng hợp thời gian hao phí cùng loại, khắc phục thời gian lãng phí, cân đối các loại hao phí thời gian làm việc được kết quả như sau: Bảng: tổng hợp khảo sát hao phí thời gian làm việc cá nhân của công nhân phay. STT Tên loại hao phí Độ dài hao phí Tỷ trọng hao phí (%) 1 Ck 30 6.25 2 tn 355 73.96 3 Pv 57 11.87 4 Lptc 10 2.08 5 Lpcn 13 2.71 6 Ncnn 20 4.17 Tổng số 485 101.04 Tỷ lệ thời gian tác nghiệp trong ca này là 73,33%. Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là: Kci = 90% và hệ số sử dụng thời gian lãng phí là 10%. Thời gian lãng phí ở đây là sự lãng phí tổ chức (2,08%) và lãng phí công nhân rất lớn (38 phút chiếm 7,92% thời gian ca). Bảng: tổng hợp thời gian làm việc của công nhân phay. STT Tên loại hao phí Độ dài hao phí Tỷ trọng hao phí (%) 1 Ck 33 6.88 2 tn 352 73.33 3 Pv 32 6.67 4 Lptc 10 2.08 5 Lpcn 38 7.92 6 Ncnn 15 3.12 Tổng số 480 100 Với công nhân tiện thời gian tác nghiệp là 383 phút chiếm 79.58% thời gian ca làm việc. Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là Kci = 94,79% và hệ số thời gian lãng phí là Klp = 5,21%. Trong đó thời gian lãng phí là do công nhân vi phạm kỷ luật (20 phút chiếm 4,17%) và do sự lãng phí về mặt kỹ thuật (5 phút chiếm 1,04%). Bảng: tổng hợp thời gian làm việc của công nhân tiện 1. STT Tên loại hao phí Độ dài hao phí Tỷ trọng hao phí (%) 1 Ck 31 6.46 2 tn 383 79.58 3 Pv 27 5.63 4 LpCN 20 4.17 5 LpKT 5 1.04 6 Ncnn 15 3.12 Tổng số 480 100 Công nhân tiện có thời gian tác nghiệp là 356 phút chiếm 74,17% thời gian ca làm việc. Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là Kci = và hệ số sử dụng thời gian lãng phí là 12,92%. Trong đó thời gian lãng phí chủ yếu là do sự vi phạm kỷ luật (35 phút chiếm 7,29%), lãng phí do tổ chức là 13 phút chiếm 2,71% và lãng phí do kỹ thuật là 14 phút chiếm 2,92%. Bảng: tổng hợp thời gian làm việc của công nhân tiện 2. STT Tên loại hao phí Độ dài hao phí Tỷ trọng hao phí (%) 1 Ck 34 7.08 2 tn 356 74.17 3 Pv 15 3.12 4 Lptc 13 2.71 5 LpCN 35 7.29 6 LpKT 14 2.92 7 Ncnn 13 2.71 Tổng số 480 100 Với công nhân phục vụ vận chuyển thì thời gian tác nghiệp là 369 phút chiếm 76,88%. Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là Kci = và hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí là 9,79%. Lãng phí này là do sự vi phạm về kỷ luật về thời gian làm việc. Bảng tổng hợp hao phí thời gian của công nhân vận chuyển: STT Tên loại hao phí Độ dài hao phí Tỷ trọng hao phí (%) 1 Ck 25 5.21 2 tn 369 76.88 3 Pv 17 3.54 4 LpCN 47 9.79 5 Ncnn 22 4.58 Tổng số 480 100 Chụp ảnh nhóm thời gian làm việc của nhóm công nhân tổ phay 2 cho ta kết quả như sau: Công nhân 1 có số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 175 lần (350 phút chiếm 72,92%. Hệ số sử dụng thời gian có ích là 88,75%. Hệ số sử dụng thời gian lãng phí là 11,25%. Trong đó thời gian lãng phí do công nhân là 16 lần (32 phút chiếm 6,67%), thời gian lãng phí tổ chức là 11 lần chiếm 4,58%. Công nhân 2 có số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 185 lần (370 phút chiếm 77,08%). Hệ số sử dụng thời gian có ích là . Hệ số sử dụng thời gian lãng phí là 7,08%. Trong đó lãng phí do công nhân 12 lần (24 phút chiếm 5%), lãng phí tổ chức 5 lần (10 phút chiếm 2,08%). Công nhân 3 có số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 181 lần (362 phút chiếm 75,42%). Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là . Hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí là 5,84%. Trong đó lãng phí công nhân là 10 lần (20 phút chiếm 4,17%), lãng phí kỹ thuật là 4 lần (8 phút chiếm 1,67%). Công nhân 4 có số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 190 (380 phút chiếm 79,17%). Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là . Hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí là 3,75%. Đây là sự lãng phí do công nhân vi phạm kỷ luật 9 lần (18 phút). Công nhân 5 số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 174 lần (348 phú chiếm 72,5%). Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là. Hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí là 12,5%. Trong đó thời gian lãng phí công nhân là 19 lần (38 phút chiếm 7,92%) và thời gian lãng phí kỹ thuật là 11 lần (22 phút chiếm 4,58%). Công nhân 6 có số lần hao phí thời gian tác nghiệp là 183 lần (366 phút chiếm 76,25%). Hệ số sử dụng thời gian làm việc có ích là. Hệ số sử dụng thời gian làm việc lãng phí là 5,24%. Trong đó lãng phí là do công nhân vi phạm kỷ luật 13 lần (26 phút). STT Tên loại hao phí Công nhân 1 Công nhân 2 Công nhân 3 Công nhân 4 Công nhân 5 Công nhân 6 Số lần hao phí Tỷ trọng Số lần hao phí Tỷ trọng Số lần hao phí Tỷ trọng Số lần hao phí Tỷ trọng Số lần hao phí Tỷ trọng Số lần hao phí Tỷ trọng 1 Ck 12 5 17 7.083 20 8.33 17 7.08 11 4.58 17 7.08 2 tn 175 72.92 185 77.08 181 75.42 190 79.17 174 72.5 183 76.25 3 Pv 13 5.42 14 5.83 17 7.08 14 5.83 15 6.25 20 8.33 4 LpCN 16 6.67 12 5 10 4.17 9 3.75 19 7.92 13 5.42 5 Lpkt 0 0 0 0 4 1.67 0 0 0 0 0 0 6 LPTC 11 4.58 5 2.08 0 0 0 0 11 4.58 0 0 7 Ncnn 13 5.42 7 2.92 8 3.33 10 4.17 10 4.17 7 2.92 Tổng số 240 100 240 100 240 100 240 100 240 100 240 100 Như vậy qua khảo sát 11 công nhân tại phân xưởng ta tổng hợp được hao phí thời gian trung bình các loại của công nhân như bảng dưới đây. STT Tên loại hao phí Thời gian hao phí Cân đối Phút % 1 CK 31 6.46 20 2 tn 363 75.59 410 3 Pv 30 6.33 30 4 Lpcn 28 5.83 0 5 LpKT 2 0.51 0 6 LpTC 8 1.65 0 7 Ncnn 17 3.69 20 Tổng số 480 100 480 Qua bảng trên ta thấy thời gian tác nghiệp trung bình là 363 phút chiếm tỉ trọng 75,59% tổng số thời gian ca. Thời gian lãng phí trung bình là 38 phút chiếm tỷ trọng 7,99%. Thời gian chuẩn kết trung bình là 31 phút cũng là một con số cao. Để tăng thời gian tác nghiệp ta cần phải điều chỉnh lại những loại hao phí không có ích, đồng thời cũng cần cân đối lại thời gian chuẩn kết, phục vụ và thời gian dành cho nhu cầu và nghỉ ngơi của người lao động. Cân đối lại thời gian lao động như sau: thời gian chuẩn kết 20 phút, thời gian phục vụ là 30 phút, thời gian dành cho nhu cầu nghỉ ngơi là 20 phút và thời gian tác nghiệp sẽ là 410 phút. Như vậy tỉ lệ thời gian lãng phí thời gian lao dộng khắc phục được là 7,99%. Khi đó tỷ lệ tăng năng suất lao động sẽ là 8,69%. Công tác tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí. Đánh giá chung: Qua khảo sát thời gian làm việc thực tế của công nhân cơ khí ta nhận thấy thời gian lao động dành cho tác nghiệp không cao (bình quân chỉ chiếm 75,59% tổng số thời gian lao động trong ca làm việc). Điều này là do sự lãng phí thời gian của người công nhân như ngưòi công nhân làm việc riêng trong giờ làm việc, không tuân thủ nội quy lao động trong phân xưởng, sự tổ chức về lao động trong phân xưởng và một lượng nhỏ lãng phí do yếu tố kỹ thuật gây ra. Để nâng cao năng suất lao động của phân xưởng cũng như thì rất cần thiết các biện pháp nhằm tăng thời gian tác nghiệp, giảm thời gian lãng phí, không cần thiết. Phân công và hiệp tác lao động Trong phân xưởng, sự phân công lao động: xác định các yêu cầu kỹ thuật công việc và con người phải đáp ứng, danh mục những nghề nghiệp, thực hiện tuyên truyền hướng nghiệp tuyển chọn cán bộ công nhân. Các hình thức phân công lao động tại phân xưởng hiện nay: Phân công theo chức năng (cơ cấu về lao động): số nhân viên quản lý 3 chiếm 3,16%; số công nhân chính 85 chiếm 89,48%; số công nhân phụ 7 chiếm 7,36%. Nhân viên quản lý gồm quản đốc và phó quản đốc thực hiện các chức năng điều hành, chỉ đạo hoạt động sản xuất trong phân xưởng của mình theo đúng các chỉ tiêu đã được giao. Công nhân chính thực hiện chức năng chế tạo ra sản phẩm. Công nhân phụ thực hiện chức năng thực hiện các công việc phục vụ cho công nhân chính, các công việc văn phòng, công tác vệ sinh tại phân xưởng. Ta nhận thấy mức độ chuyên môn hoá ở đây là chưa cao do vậy thời gian tác nghiệp vẫn còn chưa cao. Phân công lao động theo công nghệ: lao động trong phân xưởng được phân loại thành các nghề khác nhau tương ứng với đặc điểm về công nghệ sản xuất. Công nhân chính bao gồm các ngành nghề thợ tiện, thợ phay, thợ bào, thợ khoan, thợ mài…công nhân phụ bao gồm công nhân vận chuyển, công nhân sửa chữa, công nhân lấy dấu. Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: công việc trong phân xưởng được chia thành các mức độ phức tạp khác nhau. Trong đó số công việc đòi hỏi bậc cao (từ bậc 5 trở lên) chiếm 24%. Tuy nhiên sự phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc tại phân xưởng cũng chưa thực sự rõ ràng, chưa có sự quy định cụ thể về cấp bậc công việc. Điều này gây khó khăn trong việc phân công lao động. Các hình thức hiệp tác lao động trong phân xưởng: hiệp tác giữa những người lao động với nhau trong tổ sản xuất phay 2 bao gồm 6 công nhân. Tổ này đảm nhận việc phay các chi tiết có bánh răng. Đây là sự hiệp tác giữa các công nhân trong 1 tổ sản xuất. Sự hợp tác theo hình thức tổ sản xuất chuyên môn này cũng chưa thực sự chưa cao nên hiệu quả về lao động cũng chưa thực sự tốt. Trong phân xưởng cũng có sự hiệp tác giữa các tổ chuyên môn hoá. Tuy nhiên sự hiệp tác lao động theo hình thức tổ sản xuất chưa được sử dụng phổ biến. Điều này cũng có phần do công ty chưa có điều kiện để sắp xếp lại quá trình sản xuất. Đặc điểm tổ chức và phục vụ nơi làm việc Về tổ chức nơi làm việc gồm các nội dung:thiết kế nơi làm việc, trang bị nơi làm việc, bố trí nơi làm việc. Trang bị nơi làm việc Tổng số máy móc thiết bị: 131 máy tiện: 27 trong đó có 8 máy Liên xô cũ, 2 máy Ba lan,2 máy Trung quốc, 5 máy Nhật và 10 máy Việt nam. Máy phay:24 trong đó có 11 máy Liên xô cũ, 9 máy Nhật, 2 máy Mỹ, 1 máy Đức và 1 máy Trung Quốc. Máy bào: 7 Máy doa: 5 Máy cán ren Đức:1 Máy cà răng: 2 trong đó 1 máy của Nhật và 1 máy Mỹ Máy mài:12 trong đó có 7 máy Liên xô cũ, 3 máy Balan và 2 máy Trung quốc. Máy tiện T12 và T14: 4 do công ty sản xuất. Máy SD: 31 Máy mài 2 đá:10 Các loại khác: 8 bao gồm khoan, palăng, cầu trục. Như vậy hiện nay máy móc ở phân xưởng bao gồm nhiều chủng loại và do nhiều nơi sản xuất nên không đồng bộ. Điều này sẽ gây khó khăn khi chuyển lao động từ máy này sang máy khác. Họ sẽ phải mất nhiều thời gian để làm quen với máy. Tại nơi làm việc đã được trang bị các thiết bị nhằm tạo thuận tiện trong lao động và các thiết bị bảo vệ cho người lao động như giá để dụng cụ, thành phẩm, bục đứng, đèn làm việc, đèn không gian, tấm chắn phoi, quạt, máy hút bụi… Bố trí nơi làm việc: Phục vụ nơi làm việc: Phục vụ nơi làm việc tại phân xưởng có các chức năng: phục vụ chuẩn bị sản xuất, phục vụ dụng cụ, phục vụ vận chuyển, phục vụ năng lượng, phục vụ điều chỉnh và sửa chữa thiết bị, phục vụ kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, bán thành phẩm trước khi nhập kho, phục vụ kho tàng, phục vụ xây dựng và sửa chữa nơi làm việc. Hiện nay tại phân xưởng áp dụng hình thức phục vụ tập trung và chế độ phục vụ theo kế hoạch dự phòng, tức việc phục vụ được tiến hành theo một kế hoạch đã vạch ra từ trước phù hợp với kế hoạch sản xuất. Các công việc phục vụ được giao cho từng người công nhân. Mỗi người sẽ thực hiện các chức năng của mình đã được giao cho. Tuy nhiên công tác phục vụ có nhiều điểm còn chưa tốt, chẳng hạn giữa các công nhân vận chuyển nhiều khi chưa có sự phối hợp nhịp nhàng. Có lúc thì không có việc làm lãng phí, có lúc lại không thực hiện chức năng của mình gây sự lãng phí cho công nhân chính (phải chờ phôi). Phương pháp và thao tác lao động Việc xây dựng các phương pháp, thao tác lao động hợp lý tại phân xưởng cũng được tích cực nghiên cứu và phổ biến đến mọi người lao động. Tuy nhiên hiện nay, phương pháp cắt chủ yếu của phân xưởng vẫn là gia công 1 chi tiết và sử dụng ít dao cắt. Điều này làm cho thời gian phục vụ cao. Để nâng cao thời gian tác nghiệp cần nghiên cứu các phương pháp lao động tiên tiến hơn. Điều kiện lao động. Trong thời gian qua phân xưởng cũng đã được cải thiện nhiều về điều kiện lao động. Tại nơi làm việc đã được trang bị nhiều hơn các thiết bị để tạo môi trường lao động thuận lợi bảo vệ sức khỏe cho người lao động, nâng cao năng suất lao động. Thực trạng điều kiện lao động tại phân xưởng theo các nhóm điều kiện: Nhóm tâm sinh lý lao động: công việc gia công ở phân xưởng là các công việc đòi hỏi nhiều sự hao phí về sức lực và thần kinh, tư thế lao động thường xuyên thay đổi từ đứng thẳng đến khom người, và nhip độ về lao động cũng cao theo nhịp độ của máy móc. Nhóm điều kiện vệ sinh phòng bệnh: âm thanh trong phân xưởng có độ ồn cao, rất nhiều các loại âm thanh của nhiều loại máy móc và của các phân xưởng khác. Tại vị trí làm việc của công nhân lượng bụi nhiều cũng gây ảnh hưởng nhiều đến người công nhân. Nhóm điều kiện thẩm mỹ: về không gian, cảnh quan chưa có nhiều sự bố trí về màu sắc, âm nhạc tại nơi làm việc. Nhóm điều kiện tâm lý xã hội: bầu không khí, tác phong lãnh đạo, điều kiện để phát huy sáng kiến. Giữa ca công nhân được nghỉ từ 11h30 đến 1h30 Kỷ luật lao động và tổ chức phong trào thi đua Các biện pháp tiến hành kỷ luật lao động và thi đua. Tác dụng của các biện pháp đó nhằm tạo động lực lao động và bảo vệ sức khoẻ người lao động trong sản xuất. Công tác kỷ luật lao động được thực hiện một cách nghiêm túc và theo đúng quy chế, nội quy của công ty. Việc đánh giá người lao động bằng việc đánh giá thực hiện nội quy lao động, kết quả lao động và thường xuyên phát động các phong trào thi đua, khuyến khích những người có sáng kiến đã tạo cho người lao động tích cực trong lao động. Tuy nhiên công tác kỷ luật lao động tại phân xưởng vẫn còn thiếu chặt chẽ. Trường hợp vi phạm kỷ luật lao động của công nhân xảy ra rất nhiều ở phân xưởng. Có nhiều công nhân không tuân thủ việc mặc đồ bảo hộ khi làm việc. Trong giờ làm việc có nhiều công nhân vẫn nô đùa, hút thuốc lá. Công tác định mức lao động. Các loại mức và phương pháp, trình tự định mức lao động đang được sử dụng. Tại phân xưởng bao gồm các mức sản lượng, mức thời gian, mức phục vụ. Công tác định mức được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp định mức tổng hợp, tức dựa theo kinh nghiệm của cán bộ định mức gồm cán bộ định mức phòng tổ chức và quản đốc phân xưởng. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí. Tổ chức lao động khoa học là một công tác nghiên cứu đòi hỏi rất nhiều về thời gian cũng như về vật chất và lực lượng lao động. Và khi có được những biện pháp tổ chức lao động một cách khoa học nhất tuỳ theo đặc điểm từng cơ sở sản xuất thì nó sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao được năng suất lao động. với kiến thức và những thông tin tư liệu tôi có được, tôi xin đưa ra một số giải pháp. Công ty có thể tham khảo để hoàn thiện hơn công tác tổ chức lao động trong công ty của mình nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Để thực hiện được các biện pháp về tổ chức lao động khoa học, trước tiên cần có sự thống nhất giữa các bộ phận chuyên môn trong công ty và các cấp lãnh đạo. Trước tiên tôi xin đưa ra một số giải pháp chung để có thể đưa các biện pháp tổ chức lao động khoa học vào trong thực tế sản xuất của công ty. Các giải pháp chung đối với công ty. Để có thể nghiên cứu được công tác tổ chức lao động khoa học một cách hoàn chỉnh, lâu dài cần có một bộ phận chức năng chuyên trách về tổ chức lao động khoa học. Bộ phận này sẽ phối hợp với các bộ phận sản xuất trong công ty để nghiên cứu và áp dụng. Cần có sự đầu tư nhiều hơn về vật chất cũng như về tinh thần cho công tác này. Nghiên cứu áp dụng công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất. Cải tiến trang thiết bị máy móc cho các bộ phận sản xuất. Hợp lý hoá thời gian làm việc của công nhân. Công việc trước tiên cần phải giải quyết là sử dụng thời gian lao động của người công nhân một cách hợp lý nhất. Cân đối và quy định các mức hao phí thời gian cho mỗi loại. Mức thời gian chuẩn kết là 20 phút. Mức thời gian phục vụ là 30 phút. Tăng thời gian giải quyết nhu cầu nghỉ ngơi cho người lao động 20 phút. Giảm toàn bộ các loại thời gian lãng phí do công nhân, do tổ chức lao động cũng như do yếu tố kỹ thuật Để thực hiện được các mức thời gian hao phí như trên cần thực hiện các biện pháp sau: Hoàn thiện công tác phân công và hiệp tác lao động. Với đặc điểm về công nghệ sản xuất và điều kiện máy móc thiết bị máy móc như hiện nay việc phân công và hiệp tác lao động được hoàn thiện theo hướng sau: Với các sản phẩm sản xuất hàng khối như các loại phụ tùng, thành lập thêm 1 tổ sản xuất tổng hợp có phân công lao động theo một dây chuyền công nghệ. Tuỳ theo đặc điểm sản phẩm sẽ lựa chọn mức độ phân công lao động trong tổ. Với các một số sản phẩm có hao phí thời gian tác nghiệp sản phẩm dài có thể bố trí cho kiêm nhiệm một số công việc phụ khác như: mài dao cùn, dọn phoi, dọn nơi làm việc, làm các sản phẩm đơn giản mà vẫn đảm bảo thời gian lao động chính của mình. Khi đó sẽ tận dụng được thời gian tác nghiệp máy. Bố trí sắp xếp người lao động làm các sản phẩm có cấp bậc công việc phù hợp với cấp bậc công nhân hay cấp bậc công việc lớn hơn một bậc so với cấp bậc công nhân. Quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, công việc phải làm của mỗi tổ, mỗi bộ phận sản xuất. Tránh tình trạng để chồng chéo công việc mà không có bộ phận nào có trách nhiệm giải quyết. Cần có các bản mô tả chi tiết các phương pháp, thao tác lao động hợp lý nhằm mục đích giảm bớt các sản phẩm sai hỏng. Cần chú ý hiệp tác lao động giữa các cá nhân, các tổ sản xuất trong phân xưởng Hợp lý hoá phương pháp và thao tác lao động. Hoàn thiện công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc Với những sản phẩm sản xuất thường xuyên cung cấp cho thị trường trong nước thì dựa vào kế hoạch sản xuất đưa ra mức sản lượng sản xuất mỗi tháng. còn đối với sản phẩm đặt hàng trong thời gian ngắn thì phải xác định thời gian giao hàng phù hợp với điều kiện sản xuất của Công ty. Tránh tình trạng thời gian ngắn dẫn đến phải bố trí kéo dài thời gian sản xuất và phải bố trí làm thêm giờ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng làm việc của công nhân từ đó mà không hoàn thành mức đề ra. Phải có biện pháp cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu nhằm ổn định sản xuất. Bộ phận sửa chữa luôn phải đi kiểm tra máy và có mặt kịp thời để sửa chữa khi có sự cố xảy ra. Bố trí, sắp xếp nơi làm việc ngăn nắp, an toàn, khoa học. Làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, thực hiện đúng điều lệ, chế độ làm việc và quy trình kỹ thuật. Có bộ phận phục vụ đảm nhận các công việc như dọn vệ sinh nơi làm việc sau ngày làm việc. Bộ phận sửa chữa luôn có mặt kịp thời sửa chữa nhanh chóng những sự cố để công nhân không phải chờ lâu. Cải thiện điều kiện lao động. Điều kiện lao động ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ người lao động, do vậy cũng gián tiếp tác động đến năng suất lao động. Do vậy cải thiện môi trường làm việc của người lao động là hết sức cần thiết và cấp bách. Cần tăng cường hơn nữa các biện pháp làm giảm tiếng ồn, giảm bụi và các chất độc hại tác động đến người lao động: có thể trang bị các thiết bị bảo hộ cho người lao động, các trang thiết bị giúp cho người lao động thuận tiện hơn trong lao động để tránh các mệt mỏi xảy ra. Trong phân xưởng vì mật độ công nhân đông, máy móc tỏa ra nhiệt lớn, nhà xưởng chật hẹp nên nhiệt độ trong phân xưởng luôn cao hơn nhiệt độ bên ngoài từ 3 đến 5 oC. Công việc sản xuất thì nặng nhọc nên nhiệt độ cao làm cho công nhân rất nhanh bị mệt mỏi. Cần phải lắp đặt thêm các loại quạt thông gió để giảm bớt sự nóng bức và giảm độ bụi trong phân xưởng, tránh các ảnh hưởng đến mắt, hô hấp có thể sử dụng các loại máy hút bụi hoặc thường xuyên tổ chức đảm bảo nơi làm việc luôn sạch sẽ. về chế độ làm việc lượng thời gian nghỉ trưa cũng tương đối hợp lý tuy nhiên cũng cần tăng lượng thời gian nghỉ ngơi khác bằng các quy định cụ thể để giảm sự mệt mỏi và sự đơn điệu trong lao động. Sắp xếp để một tuần người công nhân được nghỉ một ngày, tránh tình trạng như hiện nay công nhân làm việc phải làm việc cả ngày nghỉ và ngày lễ, không có thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe. Quan tâm đến nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh thần cho công nhân. Nâng cao kỷ luật lao động và phát động các phong trào thi đua. Qua nghiên cứu thời gian làm việc của một số công nhân ta thấy việc vi phạm kỷ luật về lao động trong quá trình làm việc là khá phổ biến của công nhân. Mặc dù công ty và phân xưởng cũng đã phổ biến nội quy lao động công ty, và nội quy lao động trong phân xưởng cơ khí nhưng thời gian làm các công việc ngoài nhiệm vụ của người công nhân vẫn cao. Do vậy phải tăng cường kỷ luật lao đến từng người lao động, thường xuyên nhắc nhở họ thực hiện tốt thời gian lao động của mình. Ngoài các đợt thi đua nhân các ngày lễ lớn, phân xưởng cũng nên áp dụng đa dạng hoá các hình thức thi đua hơn nữa, như vậy sẽ tránh được cảm giác "dị ứng" với các phong trào thi đua. Hoàn thiện công tác định mức lao động. Căn cứ vào thực trạng trên đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các hoạt động tổ chức lao động khoa học. Kết luận Tổ chức lao động khoa học là một công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và phải nghiên cứu tỷ mỉ và phải có sự hiểu biết sâu sắc về tổ chức lao động khoa học. Được sự hướng dẫn đầy nhiệt huyết của cô giáo. Sự tận tình giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi của các cô, chú trong công ty. Sự đóng góp ý kiến chân thành của bạn bè giúp cho tôi thực hiện tốt Chuyên đề thực tập tốt nghiệp : "Hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học tại phân xưởng cơ khí công ty cơ khí chế tạo Hải phòng nâng cao năng suất lao động". Trong thời gian ngắn thực tập, với vốn hiểu biết, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi. Tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số công việc được thực hiện tại phân xưởng cơ khí. Qua đó, phân tích các hoạt động của công tác tổ chức lao động ở phân xưởng. Vì đây là một trong những lĩnh vực đang được quan tâm hiện nay nó có vai trò rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh lao động tiền lương của công ty. Hệ thống này có thể còn phải điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế. Mong rằng công ty xem xét nghiên cứu để có thể áp dụng vào sản xuất nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, tăng tiền lương đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo ThS. Nguyễn Vân Thuỳ Anh, sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú trong công ty. Sự đóng góp ý kiến chân thành của bạn bè giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Tổ chức lao động khoa học - Tập I, II Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Hà nội 2. Giáo trình Kinh tế Lao động Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Hà nội 3. Bộ luật Lao động sửa đổi bổ sung năm 2002 4. Cơ sở tổ chức lao động trong các xí nghiệp 5. Định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24060.DOC
Tài liệu liên quan