Đề tài Thực trạng toàn cầu hoá

Tài liệu Đề tài Thực trạng toàn cầu hoá: Toàn cầu hóa. PHẦN MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng cá nhân. Tuy nhiên, cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức khác nhau. Trong khi một số nước tiếp cận toàn cầu hoá một cách hồ hởi thì ở nhiều nước khác phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn diễn ra như một xu thế tất yếu và ngày càng được mở rộng. Đây là một vấn đề vô cùng rộng lớn và phức tạp chính vì vậy mà chúng ta phải tiếp cận vấn đề toàn cầu hoá duới nhiều lăng kính, góc độ khác nhau như: Triết học, chính trị học, văn hoá học… Nhưng dù dưới góc độ hay tầm nhìn nào thì nhất thiết phải chỉ ra được: Bản chất, động lực, xu hướng, và những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá nói chung, cũng như mối quan hệ giữa toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu ...

doc46 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng toàn cầu hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Toàn cầu hóa. PHẦN MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng cá nhân. Tuy nhiên, cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức khác nhau. Trong khi một số nước tiếp cận toàn cầu hoá một cách hồ hởi thì ở nhiều nước khác phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn diễn ra như một xu thế tất yếu và ngày càng được mở rộng. Đây là một vấn đề vô cùng rộng lớn và phức tạp chính vì vậy mà chúng ta phải tiếp cận vấn đề toàn cầu hoá duới nhiều lăng kính, góc độ khác nhau như: Triết học, chính trị học, văn hoá học… Nhưng dù dưới góc độ hay tầm nhìn nào thì nhất thiết phải chỉ ra được: Bản chất, động lực, xu hướng, và những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá nói chung, cũng như mối quan hệ giữa toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu hoá chính trị nói riêng trong bối cảnh hiện nay. Toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là yếu tố quan trọng nhất, như hạt nhân của toàn cầu hoá, nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị, cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Song trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa toàn cầu hoá kinh tế với toàn cầu hoá chính trị dưới góc độ tiếp cận của triết học chính trị. Như thế có thể hiểu chúng ta sẽ tiếp cận mối quan hệ này dưới góc độ của sự tác động toàn cầu hoá kinh tế đến vấn đề về bản chất nhà nước và quyền lực, ý nghĩa, mục đích của chúng, quan hệ của chúng với bản chất con người và những thay đổi này sẽ tác động ngược trở lại vấn đề kinh tế như thế nào? PHẦN NỘI DUNG I. Lý luận chung về Toàn cầu hoá. 1. Toàn cầu hoá. Trong những thập kỉ gần đây, sau sự ra đi của trật tự thế giới hai cực, toàn cầu hoá trở thành một trong những cụm từ được sử dụng nhiều và có mức độ chi phối cao trong đời sống xã hội thế giới. Rõ ràng, toàn cầu hoá là một vấn đề rộng lớn đang tác động trực tiếp đến lợi ích của các quốc gia, dân tộc không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, biên giới quốc gia. Vậy toàn cầu hoá là gì, diễn ra từ khi nào, có bản chất và biểu hiện thế nào, nguyên nhân nào dẫn đến toàn cầu hoá và nó tác động ra sao đối với sự phát triển của từng nước cũng như mối quan hệ quốc tế. Đó là vấn đề lý luận và thực tiễn đáng quan tâm. Toàn cầu hoá chính là một hiện tượng nằm trong quá trình phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng theo nguyên lý phát triển có lặp lại về hình thức nhưng ở một trình độ cao hơn. Sự phát triển của lịch sử loài người tất nhiên không nằm ngoài quy luật đó.chỉ có điều, loài người do đạt đến trình độ cao trong nhận thức và hành động nên có thể đẩy nhanh hay làm chậm quá trình phát triển mà thôi. Trước kia khi trình độ phát triển còn thấp, nhu cầu còn đơn giản, những mối quan hệ trong nội bộ địa phương, trong cộng đồng tộc người cũng hoàn toàn thoả mãn cho nhu cầu của cộng đồng nên người ta ít, thậm chí không quan tâm, quan hệ, hoặc không thể, không biết để mà quan hệ với nhau. Địa phương trở thành mối quan tâm duy nhất của cộng đồng và người ta tìm mọi cách để bảo vệ địa phương, duy trì quyền lực tại địa phương. Thực tế tồn tại của xã hội loài người từ công xã nguyên thuỷ đến thời phong kiến cát cứ đã chứng minh điều đó. Khi đạt tới trình độ phát triển cao hơn, thì những mối quan hệ trong cộng đồng, trong địa phương không thể đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, người ta buộc phải phá bỏ cái vỏ bọc chật hẹp để vươn tơi những mối quan hệ rộng lớn hơn. Vì vậy chế độ phong kiến tập quyền đã thay thế cho phong kiến phân quyền, những mối quan hệ mang tầm quốc gia có vai trò càng lớn song hành với những quan hệ mang tầm địa phương, cộng đồng. Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, với những tiến bộ mọi mặt của nhân loại, không gian quốc gia trở nên nhỏ bé, chật hẹp và một lần nữa, con người lại tìm mọi cách để mở rộng các mối quan hệ, mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Những cuộc phát kiến địa lý, những cuộc chiến tranh xâm lược rõ ràng có mục đích mở rộng không gian lãnh thổ phục vụ cho các đế quốc, mở rộng tầm hoạt động cho con người. Khi tầm hoạt động đã vươn ra khỏi quốc gia dân tộc truyền thống thì tất yếu giữa các quốc gia dân tộc sẽ có sự tranh giành quyền lợi. Đó là sự tranh chấp giữa kẻ đi tước đoạt và quốc gia bị tước đoạt, giữa những kẻ đi tước đoạt với nhau. Như thế, các mâu thuẫn quốc tế đã xuất hiện và đóng một vai trò tất yếu trong sự phát triển của nhân loại. Những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của quốc gia không chỉ trở thành vấn đề riêng của họ mà còn trở thành vấn đề mang tính quốc tế. Toàn cầu hoá hiện nay, về hình thức có thể nói là thời kì mà nhân loại quay trở về với nguồn cội, nhưng với trình độ cao hơn.Tiền thân của toàn cầu hoá xuất hiện từ khi xuất hiện “con đường tơ lụa”. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự trao đổi hàng hoá và mở rộng thị trường, các mối quan hệ dần dần vượt ra khỏi ranh giới các quốc gia và hình thành mối quan hệ quốc tế Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá). "Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của Châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20. Lịch sử đã chứng minh, mỗi cộng đồng người muốn phát triển thì không thể chỉ dựa vào việc áp chế mà còn phải dựa vào sự phối hợp với các cộng đồng khác. Vì vậy, khi nhu cầu cho sự phát triển vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì bên cạnh việc đấu tranh với nhau, các cộng đồng người phải phối hợp, cộng tác với nhau và đòi hỏi này càng trở nên cấp thiết nên toàn cầu hoá hoá là một hiện tượng tất yếu và một quá trình phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Vấn đề ở đây chúng ta cần phải hiểu được toàn cầu hoá là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá chứ chưa hề có một khái niệm hay một định nghĩa cụ thể về toàn cầu hoá. Chủ tịch quỹ Ford đã đưa ra quan điểm: Toàn cầu hoá phản ánh một mức độ ảnh hưởng lẫn nhau toàn diện hơn so với quá khứ. Nó ngụ ý tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường biên giới quốc gia và sự tăng cường những đắc tính lan toả ra ngoài biên giới, bắt nguồn từ một nước hoặc một khu vực nhất định. Theo T.Phridmen, toàn cầu hoá là một hệ thống mới, thay thế cho hệ thống chiến tranh lạnh không phải bất kỳ nước nào cũng tự có thể coi mình là một bộ phận của hệ thống này, nhưng tất cả mọi quốc gia đều thực sự chịu áp lực, chúng cần phải thích nghi với lời thách thức của toàn cầu hoá. Nhưng sự lựa chọn kinh tế của đa số chính phủ lại bị hạn chế đáng kể vì trên thế giới có một siêu cường quốc tế và chủ nghĩa tư bản đang cai trị thế giới. Nhà lý luận người Mĩ R.Pholk cho rằng “một điều hiển nhiên là mối liên hệ kinh tế qua lại cùng với ảnh hưởng của internet và các phương tiện toàn cầu sẽ làm thay đổi quan niệm của chúng ta về trật tự thế giới một cách căn bản. Nhà nước không còn là một lực lượng thống trị trên diễn đàn thế giới. Các lực lượng thị trường toàn cầu dưới hình thức các công ty và các ngân hàng đa dân tộc sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ và độc lập. Chúng hành động trên diễn đàn quốc tế với những sự hạn chế tối thiểu.” Toàn cầu hoá là quá trình không phải do các lực lượng nhà nước mà do các lực lượng thi trường qui định để thu hút tư bản mong muốn và đặt hy vọng vào của cải, vào thành quả của công nghiệp hiện đại và công nghiệp tương lai. Các quốc gia cần phải đưa đầu vào cái vòng kim cô của ngân sách cân bằng, của quá trình tư hữu hoá kinh tế, của chính sách mở cửa cho đầu tư và các hệ thống thị trường của đồng tiền ổn định. Từ những quan điểm trên có thể thấy rõ toàn cầu hoá là một quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn thế giới, đó là quá trình ảnh hưởng tác động xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới, trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Tức toàn cầu hoá có thể được hiểu theo một số quan điểm sau: Thứ nhất, toàn cầu hoá là một quá trình dẫn tới sự thống nhất hội tụ chứ không phải là một qúa trình đồng nhất đơn thuần. Trong đó các bộ phận của thế giới hoà nhập vào nhau vì lợi ích của mình cũng như lợi ích chung của nhân loại. Thứ hai, đó là một qúa trình tự nhiên của xã hội, của lịch sử. Đó là quá trình phát triển của nhân loại hướng tới sự thống nhất trong tính đa dạng. Thứ ba, toàn cầu hoá là một qúa trình có điều khiển, có sự tác động của con người thông qua những thiết chế được tạo ra trong những thời kì nhất định. " Thứ tư, đó là sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu, Thứ năm, Toàn cầu hoá có hạt nhân là toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế. Thứ sáu, đó là những tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Vậy nguyên nhân và động lực nào dẫn tới xu thế toàn cầu hoá? Nguyên nhân trực tiếp và là động lực của toàn cầu hoá đó là vì lợi ích của giai cấp, lợi ích của dân tộc. Từ lợi ích kinh tế đến phi kinh tế, từ những lợi ích bằng vật thể đến lợi ích phi vật thể. Trong đó lợi ích về kinh tế quốc phòng hay nói cách khác đó là lợi ích liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của một quốc gia là điều phổ biến và thường xuyên nhất…xét đến cùng động lực của toàn cầu hoá là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sự phát triển của lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế các nước và đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá…thành tựu của khoa học kỹ thuật đã khiến người luôn muốn vươn ra khỏi ranh giới của mình .Ví như sự ra đời của xe lửa đã nối liền các vùng đất xa xôi. Dần phát triển là máy bay làm sự đi lại giữa các nước diễn ra nhanh chóng , các máy móc ra đời khiến xã hội ngập trong một khối lượng hang hoá khổng lồ. Sự ra đời của điện thoại, Intenet làm con người từng ngày, từng giờ có thể kết nối với nhau, đã thực sự biến thế giới thành một ngôi nhà chung. Đây là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Sự lớn mạnh đó không chỉ theo cấp số cộng mà theo cấp số nhân. Cái cấp số này lớn đến mức nào không chỉ tuỳ thuộc vào sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn tuỳ thuộc vào cách tổ choc quan hệ sản xuất, nhưng càng về sau cấp số này sẽ càng lớn. Bên cạnh đó là các tổ chức mang tính quốc tế …đã làm cho hoạt động kinh tế xã hội của các quốc gia được điều chỉnh theo một hướng thống nhất thế giới, tạo cơ hội cho sự xâm nhập lẫn nhau của các cộng đồng đó chính là việc tạo cơ hội cho quốc tế hoá toàn cầu. Toàn cầu hoá có những biểu hiện sau: Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết tác động, phụ thuộc lẫn nhau; là quá trình mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động, phát triển.Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới .Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay những luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại. Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo. Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo. Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá. Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC. Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế, di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép. Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu, phát triển các hệ thống tài chính quốc tế. Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia, vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao dịch quốc tế, số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; vận dụng luật bản quyền. Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm: Thúc đẩy thương mại tự do. Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có . Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản. Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương. Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ. Bằng cách hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia. Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước. Chính vì vậy, toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trong đó toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung. Thực tế toàn cầu hoá kinh tế là xu thế trội bậc nhất. Quá trình phát triển đi lên của các nước đã chứng minh rằng mỗi một cộng đồng, một đất nước muốn phát triển thì không thể đứng độc lập ngoài các mối quan hệ quốc tế. Những mối quan hệ đa chiều, phức tạp đan xen giữa loại bỏ và nâng đỡ, đấu tranh và thoả hiệp,… Bao trùm lên mọi lĩnh vực từ kinh tế chính trị đến văn hoá xã hội, lối sống của từng quốc gia, các tổ chức liên quốc gia như: WTO, EU, AS EAN, Thị trường chung Nam Mỹ,… Các hội nghị quốc tế: diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn hợp tác Á- ÂU (ASEM)…, việc đi thăm viếng, ngoại giao giữa các nước diễn ra không những đã và đang thể hiện nhu cầu toàn cầu hoá ngày càng cấp thiết. Những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của các nước không chỉ là vấn đề của riêng họ nữa mà trở thành vấn đề mang tính quốc tế. Những thuộc tính cơ bản của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại. Lịch sử của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế rất lâu dài, và phải thấy rằng, cơ cấu của toàn cầu hoá bắt đầu từ sự hình thành nhà nước, quốc gia dân tộc và tư nhân hoá - những cỗ xe đi đến hiện đại. Kết quả tất yếu là sự mở rộng thị trường thế giới. Mở rộng thị trường thế giới gắn với việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản và cả quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Sự hiện đại hoá lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản dẫn tới toàn cầu hoá. Nó đi trước và quyết định quá trình toàn cầu hoá. Song, cho đến nay, toàn cầu hoá lại là một trong những điều kiện để hiện đại hoá thế giới, bất chấp ý muốn của ai. Sự phát triển của Phương Tây thúc đẩy hiện đại hoá, toàn cầu hoá. Bởi vậy, việc hiện đại hoá của thế giới, trong đó có các nước đang phát triển ở Phương Đông không thể bỏ qua một thực tế là phải hiện đại hoá theo những kinh nghiệm của Phương Tây trên nền văn hóa của Phương Đông. Tiếp thu văn hóa, văn minh Phương Tây, Việt Nam có cách tiếp cận và phương pháp luận của chúng ta. 2.Toàn cầu hóa kinh tế(TCHKT): 2.1 Định nghĩa: Ủy ban Châu Âu định nghĩa: TCHKT có thể được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhaudo có sự năng động của việc buôn bán hàng hóavà dịch vụ, cũng như có sự lưu thông vốn và công nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới, mà là sự tiếp tục của một quá trình được khởi mào từ khá lâu. Tiến sĩ Vũ Văn Hà cho rằng: TCHKT chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế, các mối liên hệ kinh tế vượt qua mội biên giới, khu vực vươn tới qui mô toàn cầu, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động, phát triển. sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch quốc tế, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. TCHKT chính là quá trình chuyển từ một nền kinh tế khép kín, riêng rẽ từng quốc gia.thành một nền kinh tế toàn cầu, trong đó kinh tế của mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành chỉnh thể của nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và công tác trên phạm vi toàn cầu. 2.1.1 Thực chất của TCHKT: TCHKT là phương thức sản xuất mà sức sản xuất vượt ra ngoài biên giới quốc gia thúc đẩy thị trường trong nước hướng ra thị trường toàn cầu, hình thành cơ chế vận hành kinh tế toàn cầu, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Là quá trình thị trường hóa kinh tế toàn cầu, do vậy cơ sở kinh tế phải là nền kinh tế thị trường. TCHTK là quá trình phân phối lại lợi ích của các nước trên thế giới, nhưng trong sự phát triển cảu mình chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có sự chia đều lợi ích cho các bên. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nước nước đang xích lại gần nhau nhưng đồng thời nó làm cho các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa có nhiều thay đổi, xung đột mới, đặc biệt là vấn đề kinh tế. Bản chất của TCHKT là thế giới hóa nền kinh tế thị trường nghĩa là cơ chế vận hành của kinh tế thị trường ngày càng đột phá giới hạn giữa dân tộc và cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, để trở thành cơ chế vận hành chung cho nền kinh tế toàn cầu, cơ chế vận hành này làm cho hành vi kinh tế của một dân tộc hay quốc gia bất kì ngày càng mất đi cá tính văn hóa và đặc trưng mang tính khu vực do lịch sử tạo nên, từ đó làm xuất hiện vấn đề quốc tế hóa về tư bản, toàn cầu hóa về bố trí sắp xếp nguồn nguyên liệu thiên nhiên và thế giới hóa về sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. TCHKT về bản chất nó không hoàn toàn thuộc về Chủ Nghĩa Tư Bản, cũng không hoàn toàn thuộc về số ít các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển Phương Tây mà là yêu cầu nội tại để Lực lượng sản xuất Xã hội loài người phát triển, là sự mở rộng hơn nữa trong thời gian và không gian của thực tiễn giao lưu của loài người là con đường tất yếu để xã hội tiến bộ và giải phóng nhân loại. 2.1.2 Quá trình phát triển của TCHKT: TCHKT bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, tứ tính chất xã hội hóa của sản xuất trên phạm vi quốc tế. Khi đã xuất hiện TCHKT tác đọng trở lại thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế cao. Với quá trình TCHKT, thị trường được mở rộng, sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi thếu quan giảm nhờ đó sự trao đổi hàng hóa tăng mạnh cá lợi cho sự phát triển đát nước. TCHKT là xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, lực lượng sản xuất phát triển tất yếu đòi hỏi một quan hệ sản xuất tương thích của nó nhưng quá trình TCHKT các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khởi xướng chỉ là mượn toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất để đẩy mạnh toàn cầu hóa quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa, đây cũng chính là quá trình TCHKT mà các nước đang phát triển tham gia lại là quá trình mà mục đích là ra sức phát triển lực lượng sản suát chứ không phải là quá trình toàn cầu hóa quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Như vậy TCHKT là là quá trình phát triển bắt nguồn từ các nước tư bản, họ đem vốn, kĩ thuật đầu tư vào các nước kém phát triển để thu lợi nhuận một cách tối đa. Quá trình đầu tư đó thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó các nước chậm phát triển muốn đưa đất nước tiến nhanh nên họ thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sự gặp gỡ của hai nhu cầu này làm cho dòng chảy về vốn, công nghệ, dịch vụ từ các nước tư bản phát triển sang các nước chậm phát triển ngày càng tăng, góp phần điều hòa dòng vốn, giúp các nước tiếp cận được nguồn vốn từ bên ngoài, hình thành sự phân công lao động quốc tế. Có lợi cho cả bên tiếp cận đầu tư lẫn bên đầu tư. Quá trình phát triển này làm cho TCHKT được mở rộng ra phạm vi quốc tế. TCHKT có động lực xuất phát từ mâu thuẫn ra đời cùng với Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa xã hội hóa sản xuất với chiếm hữu tư nhân, nhưng TCHKT không hề tiêu tan mâu thuẫn cơ bản này mà chỉ làm cho nó từ phạm vi các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển chuyển ra toàn thế giới, chuyển thành mâu thuẫn quốc tế hóa phức tạp. Cùng với sự phát triển của TCHKT nguồn của cải của đất nước cũng ngày càng bị cuốn vào hệ thống kinh tế toàn cầu, những mâu thuẫn này sẽ ngày càng sâu sắc và gay gắt gây ra khủng hoảng. Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã làm xuất hiện nhiều tổ chức kinh tế như: Tổ chức thương mại quốc tế, Liên minh Châu Âu… góp phần phát triển kinh tế thế giới. 2.1.3 Toàn cầu hóa chính trị(TCHCT): TCHCT là quá trình mà thông qua đó nền chính chị các nước phụ thuộc lẫn nhau, cùng hợp tác thông qua các hiệp định, chính sách làm cho các nước xích lại gần nhau. Quá trình TCHKT đã làm tăng tính tùy thuộc lẫn nhau có lợi cho cuộc đấu tranh cho hòa bình, hợp tác và phát triển vì ngay sự phát triển của các nước công nghiêp tiên tiến cũng tùy thuộc đáng kể vào nước đang phát triển. Nền của các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau, thâm nhập vào nhau một cách sâu sắc – đó là tấm bình phong vật chất to lớn ngăn ngừa xung đột quốc tế, tăng thêm lòng tin vào hợp tác giữa các quốc gia. Các nước đang phát triển hợp tác với nhau để đối phó vố sự độc đoán áp đặt của các nước Tư bản phát triển. Do vậy hạn chế những mâu thuẫn, nguy cơ có thể xảy ra xung đột chiến tranh. 2.1.4 Toàn càu hóa thiết chế chính trị (TCHTCCT): Cơ sở của TCHTCCT là toàn cầu hóa các lĩnh vực hoạt động khác của con người. Đến cuối thế kỉ XX đã hình thành nền kinh tế thế giới trong đó kinh doanh các quyết định chính trị và các quá trình kinh tế ở các nước khác nhau phụ thuộc lẫn nhau trực tiếp và đáng kể. Đa số nguồn lực kinh tế và các nhóm có lợi ích có ảnh hưởng nhất đã có tác độngtrực tiếp trong nền kinh tế hiện nay. Môi trường thông tin – văn hóa thế giới đã được tạo ra. Để giải quyết những vấn đề sinh thái kinh tế và an ninh toàn cầu thì người ta dã hình thành hệ thống thông qua qui định chính trị toàn cầu, tức những qui định động chạm tới tất cả các nước đó có quan hệ với vấn đề. Nhiều người gọi hệ thống thông qua qui định chính trị như vậy là chính phủ thế giới. Loài người đã suy nghĩ hàng thế kỉ về từ Chính phủ thế giới. Chính phủ như vậy thể hiện dưới hai hình thức: Đó hoặc là chính phủ quan phương, được hình thành theo nguyên tắc đại diện (kiểu như Hội đồng bảo an Liên hợp quốc) hoặc là chính phủ bảo mật. Song hệ thống thông qua qui định như vậy trên thực tế được hình thành theo nguyên tắc kiểu như ma trận: Đây là môt mạng lưới trung tâm thông qua quyết định không phân cấp. Như vậy, có thể nói tới chính phủ kiểu mạng lưới. Mạng lưới này bao gồm những đầu mối như Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, Hội đồng chính trị NATO, Ban lãnh đạo Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới, các nước thuộc nhóm G7.. các đầy mối của chính phủ kiểu mạng lưới này phụ thuộc lẫn nhau. Các tín hiệu quản lí ở đây được trình đạt không phải ở dưới dạng chỉ thị mà ở dưới dạng dự án của mình.Thu hút mọi chủ thể khác của chính trị toàn cầu vào dự án của mình. Như vậy cuộc đấu tranh chính trị trong hệ thống chính chị kiểu mạng lưới toàn cầu thể hiện không giống như cuộc đấu tranh giữa các đảng phái mà thể hiện dưới 2 dạng: đấu tranh giữa các dự án và đấu tranh giữa các đầu mối vì các nguồn lực và tinh thần chủ động. Mỗi một dự án là một ma trận của hệ thông qua lại giữa các đầu mối với nhau trong hệ thống. Vấn đè quan trọng nhất khi hình thành hệ thống, thông qua qui định toàn cầu là sự thay đổi về chủ quyền. Chủ thể cơ bản trên diễn đàm thế giới, theo truyền thống là các chính phủ dân tộc độc chiếm chủ quyền sau khi hình thành hệ thống Vestrall ở thế kỉ XVII. Hiện nay, chủ quyền này của các dân tộc quốc gia, dân tộc đang suy giảm, một phần biến mất theo phương hướng. ủy thác cho các cơ quan đứng trên dân tộc, cho các công ty xuyên quốc gia, cho xã hội, công dân quốc tế, thể hiện như dư luận xã hội đã được thể chế hóa. Vì hệ thống kiểu mạng lưới là mở cửa theo nguyên tắc và được xây dựng không phải theo pháp luận mà theo sáng kiến nên một vấn đề quan trọng là việc hợp pháp hóa nó, một phần bắt nguồn từ luật quốc tế cùng với vai trò hàng đấu vẫn duy trì của chính phủ dân tộc. Tuuy nhiên cùng với việc làm suy giảm tính hợp pháp và chủ quyền của chính phủ dân tộc, trong điều kiện tính bất định ngày càng tăng của pháp luật thì việc hợp pháp hóa cùng với việc dựa vào dư luận xã hội ngày càng phát triển rộng hơn, Vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng là cái hình thành nên dư luận xã hội tăng lên đán kể trong điều kiện như vậy. Kết quả là, quyền lực được hình thành theo mô hình sau đây: Đầu tiên hình thành chủ thể quyết định đến việc thực hiện một dự án nào đó,sau đó chủ thể này tập trung các nguồn lực lớn. Sau nữa là đưa vào dư luận xã hội thế giới một lược đồ lí giải bao hàm trong mình việc thực hiện dự án đã nghĩ ra. Sau đó là tiến hành việc bày tỏ ý nguyện cảu nhân dân. Cuối cùng là thực hiện dự án cùng với việc dựa vào dư luận xã hội đã tạo ra. Như vậy trong hệ thông chính trị toàn cầu đang diễn ra quá trình hình thành một hình thức dân chủ mới – dân chủ gian dảo. Hiện nay quá trình TCHCT làm thay đổi diễn biến chính trị không chỉ ở mỗi quá gia mà trên phạm vi toàn thế giới. Chủ quyền của mỗi quốc gia ngày càng suy giảm, khi bước vào toàn cầu hóa giữa các nước không còn ranh giới như liên minh Châu Âu đã xóa bỏ ngăn cách có hiến pháp chung, đồng tiền chung. Về thực chất, TCHCT là tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các nước Tư bản phát triển. Họ lấy kinh tế làm chỗ dựa để thiết lập hệ thống chính trị trên phạm vi thế giới. Quá trình TCHCT cũng làm thay đổi cục diện chính trị, hiện nay không chỉ là sự thống trị đơn cực mà đã xhuyển sang đa cực, một loạy các tổ chức chính trị ra đời, nhiều quan hệ giữa các nước trước đây là kẻ thù đã chuyển sang hợp tác. Trung Quốc đã cải thiện quan hệ với Nga, ấn Độ, quan hệ Hàn Quốc và Triều Tiên, quan hệ Việt Nam và Mỹ. Sự hợp tác này đã thúc đẩy cho hòa bình và phát triển của con người trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hóa diễn ra hết sức mạnh mẽ, nó tác động tới mội mặt của đời sống xã hội. Nó không chỉ tạo ra cơ hội cho các nước mà nó còn tạo ra những thách thức mới đối với các quốc gia. II. Mối quan hệ giữa toàn cầu hóa kinh tế với toàn cầu hóa chính trị. 1. Sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế tới toàn cầu hoá chính trị và ngược lại. Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn. Thứ nhất: Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó và tuỳ thuộc vào nhau, dần dần hình thành một thể thống nhất, xoá dần đi những ngăn trở và khoảng cách về nhiều phương diện. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hoá sản phẩm mà đã là chuyên môn hóa các chi tiết sản phẩm. Với phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, các nước có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của nước khác, từ đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Thí dụ, một loại xe của hãng Toyota sản xuất tại Mỹ có 25% linh kiện được sản xuất ở ngoài nước Mỹ. Một loại xe ô tô của công ty Ford có 27% linh kiện do nước khác sản xuất. Các công ty xuyên quốc gia phát triển chưa từng có trong lịch sử và đóng vai trò hết sức quan trọng, nó thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá và khu vực hóa. Theo thống kê của Liên hợp quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công ty xuyên quốc gia, trong đó 28.000 công ty con có tổng giá trị sản xuất chiếm 40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị thương mại của thế giới. Tổng kim ngạch tài sản năm 1996 của các công ty xuyên quốc gia này lên tới 3.200 tỷ USD. Hàng năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng chiếm 90% đầu tư trực tiếp của thế giới. Năm 1998, các vụ sáp nhập đã lên đến 2.500 tỷ USD.Năm 1999, riêng 10 vụ sáp nhập các công ty lớn trên thế giới đã lên tới 1.500 tỷ USD. Vụ sáp nhập 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng 8/1999 với 1.200 tỷ USD, đã bằng tổng giá trị 7.700 vụ sáp nhập năm 1998. Năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập đoàn lớn lại diễn ra gay gắt, quyết liệt với quy mô lớn chưa từng thấy. Trong quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế, dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Đó là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh các nước Đông Nam á (ASEAN), Thị trường tự do Nam Mỹ Mercosur, Khối cộng đồng kinh tế Tây Phi, và hàng chục tổ chức kinh tế khác ở khắp các châu lục.Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế này, quy mô lưu thông vốn quốc tế lớn chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng phát triển. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế mà lớn nhất là Liên hợp quốc. Liên hợp quốc cùng với các tổ chức của nó như Chương trình phát triển LHQ (UNDP), Quỹ LHQ về các hoạt động dân số (UNFPA), Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ (UNESCO), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Hội nghị liên hợp quốc tế về phát triển (UNCTAD), Tổ chức lương thực và nông nghiệp của LHQ (FAO)… đang tác động mạnh đến tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự phát triển của các tổ chức này, luật pháp quốc tế cũng hình thành. Thí dụ: Công ước quốc tế về luật biển (1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em… Do vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện đại thúc đẩy sự thẩm thấu lẫn nhau chẳng những của các nền kinh tế mà còn lan toả ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và tất cả các quốc gia trên thế giới. Thứ hai: Nền kinh tế mới trong toàn cầu hoá là nền kinh tế công nghệ cao – nền kinh tế tri thức. Cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều phát minh khoa học, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong vật lý học: phát hiện ra tia Rơn-ghen (1895), hiện tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), radium (1898)..., rồi đến những phát minh mới trong thế giới vi mô (nguyên tử) và vĩ mô (vũ trụ). Khoa học đã thu thập được một khối lượng khổng lồ những tri thức về thế giới tự nhiên, tổng hợp lại ở các thuyết cơ bản như thuyết Lượng tử và thuyết Tương đối…, tạo nền móng cho khoa học hiện nay. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học, toàn bộ lượng thông tin, tri thức trong thế kỷ XX tăng gấp 1.000 lần so với hồi đầu thế kỷ, và vượt trội so với tổng tri thức mà loài người tích luỹ được trong suốt 19 thế kỷ đã qua. Khoa học hiện đại ngày càng phát triển, tiến vào lĩnh vực vi mô và vĩ mô, đòi hỏi sự phát triển trí tuệ ngày càng cao. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đầu thế kỷ XX là cái nguồn tất yếu của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mở đầu từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nền kinh tế toàn thế giới bắt đầu cơ cấu lại, trang bị lại và đòi hỏi phải cơ cấu lại, trang bị lại. Bên cạnh những ngành kinh tế gắn với nền đại công nghiệp, như các ngành luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi măng, sắt thép… còn có các ngành kinh tế mới phát triển cực nhanh (điện tử – bán dẫn, máy tính, viễn thông…), trong đó các dịch vụ liên quan đến thông tin (ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm…) phát triển mạnh, thậm chí ở một số nước, lĩnh vực này chiếm tới trên 70% thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi nhọn kinh tế của các quốc gia. Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin vì công nghệ thông tin đang là cốt lõi của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Trong cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, máy móc có thể thay thế một phần trí tuệ con người, làm cho tốc độ tư duy và năng lực tư duy phức tạp mở rộng. Công nghệ thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện tử, máy vi tính, mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng. Ngoài ra, phải kể đến các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu dùng, điện tử y tế, điện tử quốc phòng… Đó đều là những bộ phận quan trọng của công nghệ thông tin. Nền kinh tế mới sẽ được trang bị lại chủ yếu nhờ áp dụng công nghệ thông tin, tạo ra các bộ não – thần kinh để tích hợp ngày càng rộng trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ thông tin là yếu tố khoa học, là công nghệ cốt lõi tạo ra điều kiện kỹ thuật của toàn cầu hoá nhờ hệ thống thông tin toàn cầu, bao gồm hệ Internet. Phải kể đến công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống. Khoa học hiện đại đã khám phá ra gen dưới dạng các phân tử hình xoắn kép (ADN), hiểu rõ được mật mã của sự sống…, đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Sự phát triển của công nghệ sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một cách tối ưu đã mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng năng suất lao động, giải đáp những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây chưa từng biết đến. Nhiều công nghệ mới quan trọng khác như công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ… ra đời, mở ra những tiềm năng mới, triển vọng mới. Ngày nay, việc sử dụng nguồn điện nguyên tử, thuỷ điện và điện mặt trời ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang học… thay thế ngày càng nhiều những nguyên liệu truyền thống. Trong lĩnh vực sản xuất đã tiến hành tự động hoá. Tự động hoá trong sản xuất giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mở ra triển vọng mới trong sự phát triển. Nhờ có công nghệ cao và sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế thế giới, sự tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ làm đảo lộn những dự đoán thông thường của con người. Thứ ba: Nền kinh tế toàn cầu hiện nay chủ yếu là nền kinh tế của tư bản toàn cầu, do ba trung tâm kinh tế lớn trên thế giới và các công ty xuyên quốc gia chi phối. Điều này có thể được minh chứng qua các lý do sau đây: Một là, đứng về mặt gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ, dịch vụ, nhân công, v.v., thì hiện nay các trung tâm tư bản lớn như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn đóng vai trò chủ chốt. Hai là, xét về mặt hình thành và phát triển các thị trường trên phạm vi toàn cầu và các khu vực, đồng thời với việc hình thành và tăng cường các định chế (luật chơi) và cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động giao dịch quốc tế hiện nay, thì vai trò của các nước như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn là chủ chốt. Sự quản lý các quá trình này, chi phối quá trình này chủ yếu vẫn là các nước tư bản chủ nghĩa và các tổ chức, các công ty xuyên quốc gia do các nước ấy khống chế, chi phối. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây.Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khuvực. Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là "trò chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại và đầu tư quốc tế (2) Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập. Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển. Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là : sự ra đời của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế; sự xuất hiện liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt pháp lý... Ngày nay, bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành thắng lợi trên thị trường khu vực và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự  kinh tế thế giới mới bảo đảm phân phối lợi ích công bằng hơn, hợp lý hơn. Kết quả thế nào còn phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các nước, các nhóm nước. Chính vì vậy mà để có thể thành lập WTO, các nước tham gia Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) đã mất tám năm (từ 1986 đến 1994) với rất nhiều vòng đám phán. Và, khi tổ chức này phát động vòng đám phán mới tại Doha, thủ đô Qatar, về mở cửa thị trường sâu rộng hơn, với tên gọi "Vòng Doha vì sự phát triển" thì mục tiêu ban đầu đặt ra là sẽ kết thúc đàm phán trong vòng bốn năm (vào cuối năm 2004). Nhưng, đến nay, thời gian ấn định đã qua. Ba trong bốn "vấn đề Singapore" mà các nước công nghiệp phát triển áp đặt cho vòng đàm phán này hầu như đang bị gác lại, nhiều vấn đề khác, trong đó có vấn đề thương mại hàng nông sản còn đang tranh luận. Mặc dù, tại cuộc họp đại Hội đồng WTO tháng 7-2004 ở Geneva, các nước đã thỏa thuận được khuôn khổ đàm phán. Nhưng, từ khuôn khổ này đến khi thỏa thuận được các hiệp định mới còn phải mất thời gian. Những người lạc quan nhất cũng cho rằng để kết thúc được vòng Doha có lẽ phải vào năm 2006, dài hơn thời gian dự định ban đầu 1,5 lần. Đưa ra các dẫn chứng trên đây để khẳng định rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Khuynh hướng phát triển của toàn cầu hóa phụ thuộc vào sự hợp tác và đấu tranh này. Như vậy, cùng với việc gia nhập Liên hiệp quốc, trở thành thành viên của WTO, các nước mới có quyền có tiếng nói chính thức, thể hiện lập trường của mình về chương trình nghị sự kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, cần nhận rõ là việc tham gia tiến trình toàn cầu hóa, gia nhập WTO chỉ là điều kiện cần để có vị thế vững chắc trong hợp tác và đấu tranh trên diễn đàn của Tổ chức Thương mại thế giới còn cần nhiều yếu tố hội thành điều kiện đủ. Hội nhập kinh tế với các yêu cầu mở cửa thị trường nêu trên đặt ra một số hệ luận trong tư duy chính sách và trong chiến lược phát triển. Trong đó có những vấn đề phải được xem xét tường tận hơn, sâu hơn như: Thế nào là một nền kinh tế độc lập, tự chủ; mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ về kinh tế và sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên trong thời đại toàn cầu hóa; hội nhập kinh tế và sự hợp tác về an ninh, hợp tác về văn hóa... đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng về phương diện chính trị thực tiễn Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước - quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay. Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế". Các tổ chức tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới Nhưng, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia luôn là khát vọng mãnh liệt của con người, khát vọng đó được hun đúc từ các yếu tố lịch sử và chiều sâu văn hóa. Chủ nghĩa thực dân mới cũng không thể lừa mị được con người. Các biến thái theo kiểu "tân cổ điển" này của chủ nghĩa đế quốc rốt cuộc cũng bị vạch trần. Bản đồ chính trị thế giới từ nửa sau của thế kỷ 20 đã thay đổi sâu sắc. Trong khi đó, những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong những năm cuối của thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất, đưa loài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bước vào ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. Chính sự phát triển mạnh mẽ này, về khách quan, đặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầm mức mới, bằng những phương cách mới. Từ đó, xuất hiện cái mà chúng ta đang đề cập là "Toàn cầu hóa kinh tế". Có thể nói, Mác là người đầu tiên phát hiện ra quá trình có tính khách quan này khi ông viết "đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương, dân tộc vẫn tự cung  tự cấp, ta thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến của các dân tộc". Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan. Trong một thập kỷ gần đây, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ. Sự chấm dứt chiến tranh lạnh thế giới chuyển sang thời kỳ mới: hoà bình, hợp tác và phát triển. Sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số…sự ra tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế khu vực và thế giới . Trong xu thế đó thì toàn cầu hoá chính trị không thể đứng ngoài toàn cầu hoá kinh tế và ngược lại . Như trên đã nói toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nhưng nó đang chịu tác động lớn từ Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản lợi dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ .Và chính trong sự phát triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh gay gắt với nhau. Kết quả hình thành những liên minh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên pham vi quốc tế. Chúng câu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế, thậm chí can thiệp vào công việc nội bộ, kiểm soát nền chính trị các nước kém phát triển. Như vậy có thể thấy ngay từ đầu quá trình quốc tế hoá đang chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản. Với sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga va sự ra đời của các quốc gia xã hội chủ nghĩa đã thu hẹp phạm vi thống trị và chi phối chủ nghĩa tư bản. Vì lý do chính trị mà nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã sử dụng các biện pháp hạn chế quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Lênin: “có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới. Chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta ”. Quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa thực tế vẫn tồn tại, nó được thúc đẩy bởi nhu cầu hợp tác của mỗi quốc gia, chính sự phát triển lực lượng sản xuất đặt ra. Do những sai lầm trong cấu trúc mô hình phát triển, chủ nghĩa xã hội đã bị sụp đổ với tư cách là một hệ thống các quốc gia còn lại đang đẩy mạnh quá trình đổi mới cải cách nhằm tìm ra phương thức mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng phạm vi của chủ nghĩa tư bản được mở rộng. Các nước đế quốc mưu toan lợi dụng toàn cầu để xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng muốn “ buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng là xét về logic và lịch sử toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu ,là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, của kinh tế thị trường, xong cũng cần phải thấy rằng toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không phải không có tính chất chính trị do việc tham gia toàn cầu hoá xuất phát từ lợi ích khác nhau đôi khi đối địch nhau giữa các chủ thể của chính quá trình toàn cầu hoá. Xuất phát từ khía cạnh chính trị của toàn cầu hoá hiện nay là một hình thức mới của chủ nghĩa thực dân kinh tế và là kết quả của chủ nghĩa tư bản tham lam và trong đó Mỹ đóng vai trò là một chính quốc mới, còn các nước thuộc địa của nó là đa số các nước còn lại, cung cấp cho nước này không những nguyên liệu như đã từng làm trước kia mà còn cả thiết bị máy móc, nhân công lao động, vốn và những yếu tố cần thiết khác cho quá trình sản xuất, đồng thời cũng lại là bộ phận của thị trường tiêu thụ, trong đó phải kể đến vai trò to lớn của Mỹ trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế còn gián tiếp bắt nguồn từ sự chi phối về lĩnh vực an ninh, quân sự, Đối với các cường quốc tư bản Tây Âu và cả Nhật Bản. Liên minh Đại Tây Dương gọi tắt NATO chính do Mỹ khởi xướng và hiện đang là người thực sự điều khiển chiến lược của tổ chức này. Hiệp ước an ninh Mỹ–Nhật ra đời trong bối cảnh sau chiến tranh thế giới thứ hai thực sự là chiếc ô an ninh, là bia đỡ cho tiến trình phát triển kinh tế Nhật Bản vì vậy nó ràng buộc nền kinh tế Nhật– Mỹ, đường hướng chiến lược toàn cầu của Mỹ tác động lớn, đã trở thành một cơ sở của chính sách đối ngoại của Nhât . Nói tóm lại, sự tác động lớn đối với quá trình toàn cầu hoá của Mĩ cũng bắt nguồn từ sự chi phối của Mĩ đối với các lĩnh vực… cơ bản của thế giới ngày nay, đó là sức mạnh kinh tế, về khoa học công nghệ và quân sự. Những điều này khẳng định vai trò ảnh hưởng, chi phối phần quan trọng đối với quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, một điều cần phải thấy là sự thống trị chi phối đó chỉ là tạm thời, vai trò của Mĩ đang bị suy giảm tương đối do sự phát triển của EU nhất là của cả thế giới đang phát triển. Vì vậy trên thực tế trong không ít kĩnh vực, trong nhiều vụ việc Mĩ đã phải nhường bước vòng đàm phán thiên niên kỷ của WTO ….cho thấy tương quan thế lực trong quan hệ quốc tế đã và đang chuyển biến, thách thức vài trò của Mĩ. Liên minh Châu Âu EU là một tổ chức kinh tế khu vực được thành lập ngày 1/1/1985 theo hiệp ước Maastrichs với tên gọi ban đầu là Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC). EU ngày nay chính là dạng liên minh kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy kinh tế xã hộicủa các quốc gia thành viên cũng như thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Với kiểu khu vực hoá của EU toàn bộ các yếu tố sản xuất đều có thể tự do lưu thông giữa các quốc gia thành viên. Mục tiêu của EU là tạo ra trên thực tế một thương trường chung thống nhất với quy tắc vận hành các quốc gia thành viên, tạo ra một Châu Âu thực sự không còn bị chia cắt biên giới về kinh tế, tạo ra sự phồn thịnh chung. Vậy do sự liên kết kinh tế như vậy tất sẽ đảm bảo an ninh chính trị bền chặt, xây dựng chỉnh thể chính trị chung cho các nước thành viên tuân theo. Ngày nay EU được xem là tổ chức liên kết khu vực ở trình độ cao nhất. Với các biện pháp thúc đẩy tự do lưu thông hàng hoá, vốn, lao động và các yếu tố sản xuất nói chung được triển khai trên thực tế. Bên cạnh biểu hiện cụ thể là sự ra đời của đồng EURO. Với sự ra đời của đồng tiền này thực sự mở ra điều kiện cho sự gắn kết ngày càng chặt chẽ của cá quốc gia thành viên, đồng thời nó tác động tới quá trình toàn cầu hoá thị trường tài chính- tiền tệ thế giới. Như vậy kinh tế là động lực, là nội dung cơ bản của toàn cầu hoá. Kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của đa số các liên kết quốc tế. Nó là cơ sở là điều kiện tồn tại và phát triển mọi quốc gia nên người ta luôn cố gắng giành lấy hoặc bảo vệ nó. Mối quan hệ của quốc gia này với các quốc gia khác đối với bên ngoài bao giờ cũng gẵn với những ràng buộc kinh tế, nhất là trong điều kiện hiện tại khi mà nền kinh tế muốn tồn tại thì nhất thiết phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Vì vậy ngày nay các thiết chế kinh tế như WTO, WB, IMF có vai trò nổi trội hơn cả trong các thiết chế mang tính toàn cầu. Ngày nay, do sự phát triển kinh tế khoa học công nghệ mà trật tự thế giới có thay đổi, có nhiều biền độngvì vậy mà một tổ chức mang tính toàn cầu lớn nhất đã ra đời nhằm giải quyết tất cả các mặt của đời sống như an ninh, văn hoá, môi trường, đồng thời với đó là sự nổi lên của Nhật bản. Nhật Bản sau chiến tranh thế giới lần II là một trong những nước không có quyền thành lập quân đội, trong giai đoạn này Nhật đi theo xu hướng bế quan toà căng làm kìm hãm xu thế quốc tế hoá. Nhật là một trong những nước không giàu tài nguyên nhưng người dân Nhật biết vận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ. Nhật Bản hiện nay có một sức vươn lớn, nền kinh tế Nhật ngày càng giành được chỗ đứng cao trên thị trường kinh tế thế giới. Do vậy Nhật Bản ngày càng có tiếng nói hơn trên chính trường thế giới tham gia vào công việc hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, đòi quyền được thành lập quân đội. Nga sau quá trình sụp đổ của các nước CNXH Đông Âu thì vị thế Nga ngày càng giảm sút so với các nước phương Tây. Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá Nga ngày càng đi lên để giành lại là một trong những nước có quyền chi phối, tiếng nói chính trị riêng. Như vậy có thể nói toàn cầu hoá kinh tế có tác động mạnh mẽ đến chính trị. Theo một quy luật chung nhất ta thấy rằng những nước có nền kinh tế phát triển tất sẽ có nến chính trị ổn định. 2. Ý nghĩa của toàn cầu hoá. Như trên đã phân tích, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, có tác động tương hỗ đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, cả về chính trị, văn hóa và xã hội… Do đó, có thể nêu lên những hệ quả tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá như sau: 2.1 Hệ quả tích cực. Thứ nhất: Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá làm tăng nhanh tổng sản phẩm của thế giới, với giá trị hiện nay ước tính khoảng 30.000 tỷ USD, gấp 23 lần giá trị tổng sản phẩm thế giới vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX (1.300 tỷ USD). Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu có những thay đổi cơ bản. Nếu năm 1960, nông, lâm, thuỷ sản chiếm 10,4%; cây công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì đến năm 1990, cơ cấu GDP của thế giới tương ứng đã là 4,4%; 21,4% và 62,4%. Sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống ngày càng tăng, với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng sản xuất. Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng, kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệ thống, góp phần tác động có hiệu quả vào các quá trình kinh tế – chính trị – xã hội – quân sự – văn hóa toàn cầu… Thứ hai: Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại sẽ làm giảm hoặc huỷ bỏ các hàng rào ngăn cách, làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ rộng hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn. Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết quả như nhau đối với các nước. Nhìn chung, các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế của họ đã phát triển cao, khả năng cạnh tranh lớn, nắm giữ các công nghệ cao, tư bản, đội ngũ lao động có trình độ cao và công nhân lành nghề đông. Do đó, hàng hoá của họ có chất lượng cao, hoạt động thương mại nhạy bén, năng động hơn và có sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường lớn hơn. Các nước đang phát triển ở vào vị trí khó khăn hơn, vì nền kinh tế kém phát triển, khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ thấp, thiếu vốn, đội ngũ lao động có trình độ và công nhân lành nghề nhỏ bé. Song, các nước này nếu biết lợi dụng những ưu thế của mình, biết phát huy nội lực, tranh thủ kỹ thuật cao, đi tắt đón đầu thì vẫn đạt được những tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các nước NICs và những con rồng châu á là những thí dụ. Có thời kỳ dài, các nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 – 7%/năm, chủ yếu do tận dụng được tự do hoá thương mại và thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu. Thứ ba: Toàn cầu hoá làm gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ. Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, với những đặc điểm chính là nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể đầu tư và chủ thể thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho vay tăng rất nhanh; tự do hoá đầu tư trở thành mục tiêu, chính sách đầu tư quốc tế của tất cả các nước. Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, sản xuất cho các nước được đầu tư phát triển. Thứ tư: Toàn cầu hoá củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, các thể chế quốc tế ngày càng được tăng cường để đảm bảo điều tiết và quản lý các quan hệ quốc tế. Tính đến nay, đã có khoảng 120 thể chế khu vực và toàn cầu. Hàng trăm tổ chức quốc tế các loại, bao gồm các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ… đang hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những sản phẩm của toàn cầu hoá, đồng thời chúng có tác động làm cho quá trình toàn cầu hoá được tăng cường. Chính nhờ toàn cầu hoá liên kết các nước lại với nhau, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước về nhiều mặt, nên lợi ích của mỗi quốc gia gắn với lợi ích của nhiều quốc gia. Hơn nữa, các thể chế quốc tế cũng ràng buộc lợi ích và nghĩa vụ của các quốc gia. Tất cả những điều nói trên giúp hạn chế những hành vi dễ gây xung đột giữa các nước, góp phần duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Qua quá trình giao lưu quốc tế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc thuộc các châu lục, giữa con người với con người càng được tăng cường; thông tin cập nhật khắp vùng, góp phần tác động đến mọi sự kiện trên thế giới. 2.2. Hệ quả tiêu cực. Rõ ràng, toàn cầu hoá không chỉ có tác động thuận lợi mà còn có tác động tiêu cực đối với các nước đang phát triển. Do đó, các nước đang phát triển phải có chiến lược hội nhập phù hợp với thực tiễn nước mình, để tranh thủ được mặt thuận lợi, và khắc phục, hạn chế được các mặt tiêu cực. Thứ nhất, Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu – nghèo trong từng nước và giữa các nước. Các mối lợi từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đều và không công bằng. Các quốc gia phát triển thường thu lợi nhiều hơn trong kinh tế, thương mại… Theo các sách về kinh tế, nguồn vốn nên chảy từ các nước giàu sang các nước nghèo, những nước có ít vốn và có thể đem lại nguồn lợi cao hơn. Thay vào đó, nguồn vốn lại chảy ngược lại. Mức thu nhập trung bình trên đầu người của các nước với thặng dư tài khoản vãng lai hiện lại thấp hơn so với của các quốc gia có thâm hụt tài khoản vãng lai. Đáng chú ý nhất là mức thâm hụt của Mỹ lại chủ yếu được bù đắp bởi việc mua các trái phiếu kho bạc của các nước nghèo. Có phải sự thiếu hụt nguồn vốn từ nước ngoài đã ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển? Bằng việc vay tiền từ bên ngoài, một nước đang phát triển sẽ có thể thúc đẩy hoạt động đầu tư và từ đó làm tăng tỷ lệ tăng trưởng của quốc gia mình. Một lời giải thích là các quốc gia đang phát triển gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài, bởi hệ thống tài chính kém phát triển của họ, điều này khiến cho việc vay mượn của các hãng và hộ gia đình gặp nhiều khó khăn. Nếu hiệu suất tăng, các hộ gia đình sẽ tiết kiệm khoản tăng trong thu nhập nhiều hơn thay cho việc chi tiêu chúng, trong khi hoạt động đầu tư của các hãng lại gặp trở ngại bởi các quỹ nội bộ. Tất cả những thành tựu của toàn cầu hoá kinh tế trong mấy thập kỷ qua không những không thu hẹp mà còn làm doãng ra khoảng cách về mức sống và trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, làm trầm trọng thêm sự bất công trong xã hội; đào sâu hố ngăn cách giàu – nghèo trong từng nước. Về nhiều mặt, dân chúng ở 85 nước đang phát triển hiện có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Hiện nay, trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo. Chênh lệch giữa thu nhập của 20% dân số thuộc tầng lớp người giàu nhất và của 20% dân số thuộc tầng lớp nghèo nhất trên thế giới trong năm 1960 là 30 lần, đến năm 1990 lên tới 60 lần và năm 1997 là 74 lần. Các nước phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm tới 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư nước ngoài; trong khi đó, các nước nghèo nhất với 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP thế giới. Thứ hai, Toàn cầu hoá tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực của nhà nước dân tộc. Toàn cầu hoá làm thay đổi khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá làm suy yếu chức năng kinh tế của nhà nước dân tộc. Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị giảm dần; nhiều quyền lực của nhà nước bị xói mòn, các chính phủ không còn quyền độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính sách, vì có nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước (các luồng di chuyển vốn, các luồng thông tin, các tập đoàn xuyên quốc gia, môi trường sinh thái…) Thứ ba, Toàn cầu hoá làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính đến an toàn văn hóa, xã hội, môi trường. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á (1997 – 1998) đã ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Tính không an toàn trong đời sống kinh tế gia tăng: sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản hàng loạt xí nghiệp; lạm phát và thất nghiệp gia tăng; nền sản xuất phải cơ cấu lại, những thể chế bảo hộ xã hội bị phá bỏ; tệ nạn xã hội gia tăng. Đặc biệt là khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn ma tuý, mại dâm và HIV lan tràn. Toàn cầu hoá làm gia tăng giao lưu quốc tế trong đời sống văn hóa tinh thần, nhiều tinh hoa văn hóa của các dân tộc được truyền bá, sự thâm nhập lẫn nhau của các nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã hội. Song, do lợi thế của các nước có nền kinh tế mạnh nên ảnh hưởng của các nước này đối với các nước đang phát triển rất lớn. Vì vậy, nhiều giá trị riêng của các dân tộc, đặc biệt là của các nước đang phát triển bị xói mòn; nhiều truyền thống dân tộc bị huỷ hoại, các quan hệ gia đình bị phá vỡ… Khuynh hướng đồng nhất ở một góc độ nào đó, cả về văn hóa, đã và đang diễn ra ngày một rõ hơn… Bởi vậy, vấn đề đặt ra là hội nhập nhưng không để bị hoà tan, không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu đề cao văn hóa dân tộc một cách thái quá sẽ có nguy cơ đi đến bài ngoại, đóng cửa và sẽ bị tụt hậu. 2.3 ý nghĩa của toàn cầu hoá đối với Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 16 năm qua đã tạo thế và lực mới cho nước ta trong quá trình hội nhập, bảo đảm điều kiện để nước ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, trên thực tế phải thấy rằng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, sức cạnh tranh còn rất thấp; lực lượng lao động tuy dồi dào, song trình độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hệ thống tài chính, ngân hàng còn yếu kém nên khả năng đương đầu với xu hướng tự do hoá kinh tế, tài chính toàn cầu rất khó khăn; chưa đuổi kịp sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thông tin – viễn thông toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá, phát triển sự hợp tác đa phương và song phương với các nước tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá sang các nước. Tất nhiên, vấn đề này còn gắn với cuộc cạnh tranh, vừa hợp tác vừa đấu tranh rất phức tạp. Chúng ta cần tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ thuật cao, tranh thủ kinh nghiệm quản lý của thế giới, mở rộng thị trường để nhanh chóng đi tắt, đón đầu, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung và thực tiễn nền kinh tế Việt Nam. Những khó khăn, thách thức rất to lớn đang đặt ra trước chúng ta. Bởi vậy, chúng ta phải trên cơ sở kinh nghiệm của mình trong những năm đổi mới và kinh nghiệm của các nước đang phát triển mà thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nước ta. Chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta là chiến lược chủ động hội nhập, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, khai thác tốt nhất nội lực của ta để phát triển đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chiến lược chủ động hội nhập của nước ta xuất phát từ việc thừa nhận lợi ích to lớn của hội nhập; đồng thời ý thức rằng sự hội nhập đó cũng đưa lại những thách thức to lớn, những nguy cơ không thể xem thường. Thời cơ và nguy cơ thường đan xen với nhau, do đó phải hết sức tỉnh táo để bảo đảm hội nhập và giữ được bản sắc văn hóa dân tộc; hội nhập và giữ vững độc lập tự chủ; hội nhập và bảo vệ được lợi ích dân tộc; hội nhập và góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân loại. Chúng ta chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin được nêu lên một vài suy nghĩ về chủ quyền quốc gia Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có tính hai mặt vừa là kết quả tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người, vừa là sản phẩm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là lực lượng sản xuất của xã hội loài người phát triển đến giai đoạn hiện nay, nó có tính tiến bộ lịch sứ và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Với tư cách là quan hệ sán xuất chiếm vị trí chủ đạo trên thế giới hiện nay (quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang mở rộng trên toàn cầu), nó tất yếu có lợi cho quyền lực kinh tế, chính trị của các nước phát triển phương Tây. Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý. Nó tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta, cho phép chúng ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới, đồng thời cũng đặt ra rất nhiều thách thức đối với chúng ta về chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh... Xem xét từ góc độ chủ quyền quốc gia, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay vừa có nhưng tác động thuận lợi, vừa đặt ra những thách thức nhất định. Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, là một cơ hội để chúng ta phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra cơ sở vật chất cho CHXH và do đó mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, học hỏi những kinh nghiệm quản lý xã hội, tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh công nghiệp và sử dụng tất cả những cái đó đề tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm hơn là, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chủ quyền quốc gia đang phải đối đầu với nhiều thách thức. Những thách thức đó khó nhận biết hơn, mang sắc thái mới hơn trước đây (trong điều kiện có chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc). Đó là những thách thức được che dấu dưới những chiếc áo khoác nhiều màu sắc hấp dẫn của lợi ích kinh tế, của sự cám dỗ về vật chất, được nhìn nhận qua những lăng kính ảo của tham vọng cá nhân, của những chuẩn mực giá trị đạo đức, lối sống sai lệch. Báo chí phương Tây ra sức tuyên truyền rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chủ quyền dần dần mất đi, khái niệm chủ quyền đã lỗi thời… Sự thật hoàn toàn không phải như vậy! Đó chỉ là những luận điệu mở đường cho việc tiến hành xâm phạm chủ quyền, can thiệp chủ quyền đối với các nước đang phát triển. Cần thấy rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là một xu thế phát triển trong điều kiện thế giới vẫn ở vào thời đại quốc gia dân tộc, quan niệm "chủ quyền quốc gia" vẫn là chuẩn tắc hành động cao nhất của các bên tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Nước ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là một tất yêu khách quan, nhưng trong điều kiện bất lợi là nền kinh tế của chúng ta còn kém phát triển. Trong điều kiện đó, việc đảm bảo xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gặp rất nhiều khó khăn, chủ quyền về kinh tế luôn bị đe dọa bởi hàng trăm, hàng ngàn mánh khoé mưu mô hết sức tinh vi và xảo quyệt của các đối tác bên ngoài. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đồng thời tăng cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là một quyết sách chiến lược, phản ánh ý chí và lợi ích của nhân dân ta, dân tộc ta trong bảo đảm chủ quyền quốc gia về kinh tế. Để biến ý chí đó thành hiện thực, chúng ta phải luôn cảnh giác và phải có những biện pháp hữu hiệu, phải vượt qua nhiều thách thức, nhiều cạm bẫy không dễ nhận thấy. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta tất yếu phải hội nhập với các thông lệ quốc tế, nhưng điều đó không có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc gia để tuân theo chúng một cách vô điều kiện và bằng mọi giá. Các thông lệ, quy tắc và định chế quốc tế phổ biến hiện nay đều do các nước tư bản phát triển chi phối và áp đặt, đều xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của họ, có mặt bất công bằng, bất hợp lý. Tuy thế, hiện nay các nước đang phát triển đang tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì quyết liệt có hiệu quả để ngăn cản việc ban hành những quy tắc, định chế quốc tế bất bình đẳng, bất lợi. Vì vậy, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà cao hơn, lớn hơn là ý nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia. Để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây: Một là, cần có chiến lược tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế một cách chủ động tích cực với một “lộ trình" phù hợp. Không nên cho rằng vì toàn cầu hoá kinh tế mang dấu ấn "tư bản chủ nghĩa", có ảnh hưởng xấu nên không đám hoặc không tự nguyện tham gia. Để không bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần có thái độ tích cực, chủ động. Hiện nay, đối mặt với những vấn đề những ảnh hưởng xấu của toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần nghiên cứu hết sức nghiêm túc, hết sức cẩn thận và có đối sách hữu hiệu tương ứng. Nhưng đối với xu thế phát triển mang ý nghĩa tiến bộ, về tổng thể, chúng ta phải có thái độ khẳng định và tích cực, đồng thời phải lợi dụng triệt để nhưng cơ hội do nó đem lại để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Hai là, cần thực hiện tốt phương châm tranh chủ và lơi dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, trong quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là “con dao hai lưới", mặt tích cực và tiêu cực mà nó mang lại cho từng quốc gia sẽ không giống nhau. Do vậy, bước đi của chúng ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế cần phải hết sức thận trọng để có thể tranh thủ và lợi đụng triệt để mặt tích cực trên cơ sở phát huy thế mạnh của chính mình, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực do nó đem lại. Đó cũng chính là phương thức để chúng ta từng bước khẳng định chủ quyền quốc gia thực sự của mình, không để các nước khác chèn ép và áp đặt quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội của họ đối với chúng ta. Trên thực tế, những bất công, bất bình đẳng vẫn bị che đậy dưới những hình thức "công bằng" bên ngoài. Báo chí phương Tây thường hay rêu rao rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế "trong tôi có bạn, trong bạn có tôi", mức độ phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, các nước cùng ở trên một con thuyền, "vinh cùng vinh, nhục cùng nhục"... Điều đó hoàn toàn trái ngược với thực tế. Bởi vì, khi một số nền kinh tế nào đó gặp khó khăn (nhất là đối với những nước như nước ta thường rất dễ bị tổn thương) thì một nền kinh tế khác (thường là tư bản phương Tây) được hưởng lợi. Sự rủi ro của một hoặc một số quốc gia có thể thúc đẩy sự thành công của một quốc gia khác. Do vậy, trong tiến trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế, không thể coi nhẹ nhưng bất bình đẳng, không công bằng trên thực tế mà nguyên tắc tự do, bình đẳng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang che đậy, không thể chỉ có hô hào "hội nhập" mà không tính đến chủ quyền quốc gia. Vấn đề có tính nguyên tắc và đặt lên hàng đầu mà chúng ta phải luôn luôn quán triệt và thực toàn nhất quán khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ba là, cần phát huy và nghiên cứu năng lực nội sính, khả năng cạnh tranh và khả năng "tự miễn dịch " trước các tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế phát triển khách quan mà các nước tham gia phải tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế nhất định. Nếu chúng ta không tự "lớn lên", không tự "trưởng thành" thì sớm muộn cũng bị mất chủ quyền quốc gia một cách rất "êm dịu”. Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay còn là ý muốn chủ quan của thế giới phương Tây, của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là một “cuộc chiến" không cân sức đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta. Do đó, nếu chúng ta không tự tìm ra và phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, không tìm ra được những phương thức "tác chiến" phù hợp, có hiệu quả thì trước sau cũng bị các thế lực "cá lớn" nuốt trôi. Bốn là, việc hoạch định và thực thi mọi chủ trương, chính sách ở tất cả các cấp, các ngành trong quá trình tham gia toàn cầu hóa kinh tế cần được đặt trong mối tương quan giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Cần thấy rằng, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế không chỉ thuần tuý vì lợi ích kinh tế, vì lợi nhuận, bất chấp mọi lợi ích khác của quốc gia, của dân tộc. Thế giới ngày nay đang xuất hiện một quá trình "thực dân hoá" kiểu mới thông qua quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là sự bành trướng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đi liền với nó là các giá trị chính trị, tinh thần, đạo đức tư sản. Các công cụ tài chính, vốn, mậu dịch, thương mại đang được các nước tư bản phát triển sứ dụng như những "vũ khí" lợi hại nhất để "thôn tính", "quy phục" những quốc gia không cùng lợi ích, không cùng ý thức hệ với họ. Đó là một thực tế nghiệt ngã mà chúng ta không thể coi thường trong quá trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế. Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế đang đặt ra nhiều bài toán hết sức hóc búa cần có lời giải chính xác. Hiện nay, một hoạt động nào đó tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, trước mắt có thể đưa lại những lợi ích kinh tế lớn, tưởng chừng như vô hại về quốc phòng - an ninh, nhưng sẽ là một nấc thang cực kỳ nguy hiểm trong ý đồ chiến lược "thôn tính" của chủ nghĩa tư bản mà ta không dễ thấy ngay. Đó hoàn toàn không phải là sự "tự huyễn hoặc mình" như một số luận điệu đang rêu rao, mà là một thực tế đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng cho việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia là hai mặt, hai quá trình vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là chúng ta cần xác định đúng những quyết sách chiến lược, những bước đi cụ thể, phù hợp, hết sức tỉnh táo để đảm bảo cho cả hai quá trình đó đều phát triển theo chiều thuận. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy toàn cầu hóa dưới cách tiếp cận của triết học chính trị, đã diễn ra như một quá trình dẫn tới sự thống nhất hội tụ, chứ không phải là quá trình đồng nhất đơn thuần. Trong quá trình đó các bộ phận của thế giới hòa nhập vào nhau vì lợi ích của mình cũng như lợi ích chung của nhân loại. Toàn cầu hóa xảy ra theo xu hướng tất yếu, dù cho các quốc gia có hưởng ứng hay phản đối thì nó vẫn tự vận động, mang tính chất tự nhiên của lịch sử, nó hướng tới sự thống nhất trong đa dạng. Chính vì thế bất cứ quốc gia dân tộc nào cũng cố gắng điều khiển kiểm soát quá trình này thông qua những thiết chế hay các tổ chức để cho nó phát triển sao cho có lợi cho mình nhất. Từ đó đã nảy sinh ra chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa toàn cầu mà các cường quốc, các thế lực đã đề ra và áp dụng những luật lệ mang tầm quốc gia hay quốc tế bởi họ đều muốn quốc tế hóa hay toàn cầu hóa những ý tưởng, những luật lệ của mình buộc cả thế giới tuân theo, điển hình là chủ nghĩa toàn cầu kiểu Mỹ. Trong toàn cầu hóa, toàn cầu hóa kinh tế là động lực, là nội dung cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của đa số các liên kết quốc tế nên người ta luôn cố gắng giành lấy hoặc bảo vệ nó. Mọi mối quan hệ của quốc gia này hay khác đối với bên ngoài bao giờ cũng gắn với những ràng buộc về kinh tế, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà nền kinh tế muốn tồn tại nhất thiết phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng nói kinh tế là nội dung cơ bản của toàn cầu hóa không có nghĩa kinh tế là nội dung duy nhất của toàn cầu hóa. Những nội dung phi kinh tế như an ninh, văn hóa, môi trường, những nội dung nhân văn đặc biệt là vấn đề chính trị ngày càng thu hút được nhiều mối quan tâm của nhân loại. Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa toàn cầu hóa kinh tế với toàn cầu hóa chính trị trong thời đại hiện nay. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (104).doc
Tài liệu liên quan