Đề tài Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-Kinh nghiệm và giải pháp

Tài liệu Đề tài Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-Kinh nghiệm và giải pháp: MỞ ĐẦU 1.Sự cần thiết của đề tài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện về phương diện KT-XH, song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để thực hiện CNH, HĐH thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ . . . trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được coi là “chìa khoá” của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luận đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH và còn là điều kiện để phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững“. Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều vấn đề trong đó có vấn đề đào tạo và sử dụng NNL. Đây là nhiệm vụ chung của cả nước, và của mỗi địa phương. Trong thờ...

docx104 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 866 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-Kinh nghiệm và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1.Sự cần thiết của đề tài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện về phương diện KT-XH, song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để thực hiện CNH, HĐH thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ . . . trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được coi là “chìa khoá” của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luận đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH và còn là điều kiện để phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững“. Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều vấn đề trong đó có vấn đề đào tạo và sử dụng NNL. Đây là nhiệm vụ chung của cả nước, và của mỗi địa phương. Trong thời gian qua Bắc Ninh đã và đang có những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNL và đã thu được kết quả nhất định. Song cho đến nay, về cơ cấu, chất lượng NNL của tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Để đánh giá đúng thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL thời gian qua ở Bắc Ninh, Học viên chọn đề tài: “Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu. Từ đó góp phần định rõ phương hướng và có những giải pháp cụ thể cho hoạt động đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương có hiệu quả hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn. -Đánh giá thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH, thành tựu và hạn chế trong đào tạo và sử dụng NNL hiện nay ở Bắc Ninh; -Đề xuất một số giải pháp, chính sách đào tạo và sử dụng NNL có hiệu quả phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong thời gian tới ở Bắc Ninh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. -Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu. -Về giáo dục, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực từ 1997 (khi tái lập tỉnh) đến nay. -Trong luận văn này sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa hẹp. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. -Cơ sở lý luận: Lý luận Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL, về đào tạo và sử dụng NNL. -Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đồng thời có sự kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh v.v. ..trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn. -Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH. -Làm rõ thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL ở tỉnh Bắc Ninh trong quá trình CNH, HĐH (1997-nay). -Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đào tạo và sử dụng có hiệu quả NNL cho sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh . 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần: Mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung được chia làm ba chương như sau: Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương II. Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh (1997- nay). Chương III. Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh . Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ. 1.1. Một số khái niệm cơ bản về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 1.1.1. Nguồn nhân lực. -Khái niệm NNL có nhiều ý kiến, theo Begg, Fischer và Dornbusch: NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập cao trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, NNL là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Cách hiểu này còn hạn hẹp, chỉ giới hạn trong trình độ chuyên môn của con người và chưa đặt ra giới hạn về mặt phạm vi không gian của NNL . -Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: xét trên bình diện quốc gia hay địa phương NNL được xác định là “ tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH “ [15,tr:269]. Theo cách hiểu này, NNL là nguồn lao động sẵn sàng tham gia lao động trong phạm vi quốc gia, vùng hay địa phương. Một cách chung nhất, có thể hiểu NNL là bộ phận dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. NNL là tổng hợp những năng lực cả về thể lực và trí lực của nhóm người, một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia. Độ tuổi lao động được qui định cụ thể ở mỗi nước có khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, theo qui định của Bộ luật lao động, tuổi lao động của nam từ 15 đến 60 và của nữ từ 15 đến 55 tuổi. -Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện khoa học Lao động và các vấn đề xã hội, xem xét NNL dưới hai góc độ: năng lực xã hội và tính năng động xã hội [3,tr.1-3]. Ở góc độ thứ nhất, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét NNL dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển NNL để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của NNL thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét NNL dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó, phải chuyển NNL sang trạng thái động, thành vốn nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải pháp giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác, phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn. Vì vậy, NNL được hiểu là “tổng hoà trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội của con người(thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [3,tr:11]. -Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong chương trình cấp Nhà nước KX-07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [14, tr.28]. Như vậy, NNL đựơc biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng: Về số lượng: NNL phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có được của cá nhân và quy định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế đất nước. Về chất lượng, NNL đựơc biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL bởi nó có con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ" [18, tr.438]. -Từ những quan niệm của các tác giả nước ngoài và các tác giả trong nước, có thể hiểu NNL là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách)và tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển. Nói cách khác, NNL bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã hội theo Luật lao động quy định. NNL có nội hàm rộng bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và cả nền văn hoá. Do vậy, có thể cụ thể hoá các yếu tố cấu thành NNL theo các nhóm sau đây: +Qui mô dân số, lao động và sức trẻ; +Trình độ dân trí và chuyên môn kỹ thuật của NNL liên quan và phụ thuộc vào sự phát triển nền giáo dục-đào tạo và dạy nghề một quốc gia; +Tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người, yếu tố liên quan đến chính sách giải phóng sức lao động, tạo động lực phát triển, phát huy tài năng; +Truyền thống lịch sử và nền văn hoá hun đúc lên bản lĩnh, ý chí, tác phong của con người trong lao động. 1.1.2. Lực lượng lao động. Là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định, thực tế có tham gia lao động(đang có việc làm) và những người chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Như vậy, có một bộ phận dân số được tính vào NNL nhưng không nằm trong lực lượng lao động. Đó là những người không có việc làm nhưng không tìm kiếm việc làm, những người đang đi học và những người thuộc tình trạng khác, ví dụ người nghỉ hưu trước tuổi. 1.1.3. Vốn con người.. Là phạm trù chỉ các kỹ năng và năng lực con người khi được sử dụng vào lao động hay bằng cách nào đó đóng góp cho nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế coi vốn con người đơn giản là lao động, một trong ba nhân tố của sản xuất và xem nó như một loại hàng hoá có thể trao đổi được. Trong lý thuyết phát triển con người, các phân tích phân biệt niềm tin xã hội, kiến thức chia sẻ được và sự sáng tạo của cá nhân như là ba khả năng của con người áp dụng vào hoạt động kinh tế. Thuật ngữ vốn con người trong lý thuyết phát triển con người chỉ sự tổ hợp của cả ba yếu tố đó. Do vậy, vốn con người sẽ bằng không nếu không có lao động, không có việc làm hay không có hàng hoá sản xuất ra. Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng miền hay mỗi quốc gia thì NNL là tài nguyên cơ bản nhất. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX(năm 2001) của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: lấy con người và NNL là một trong ba khâu đột phá đi vào CNH, HĐH đất nước: ”Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH là điều kiện để phát huy NNL con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [8,tr:108-109]. 1.1.4. Phát triển nguồn nhân lực. Phát triển NNL được nhiều tác giả bàn đến và đã có nhiều cách hiểu mới được bổ sung theo thời gian. Cho đến nay, xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Nadler & Nadler(1990) cho rằng phát triển NNL và giáo dục, đào tạo(theo nghĩa rộng) là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Hai tác giả này định nghĩa: “ Phát triển NNL là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc “ [33, tr.1-3]. UNESCO sử dụng khái niệm phát triển NNL(theo nghĩa hẹp): là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Tổ chức lao động của thế giới (ILO) lại cho rằng phát triển NNL bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Liên hợp quốc sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH và nâng cao chất lượng cuộc sống. 1.1.5. Đào tạo NNL. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào tạo, là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển kinh tế xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật-công nghệ và văn hoá của đất nước. Có nhiều hình thức đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy của nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau: -Nhân lực trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, ngành nghề, kinh tế, kỹ thuật. -Nhân lực trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nhà nước. -Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp. Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành nghề theo sự phân công lao động xã hội. Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động, dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ của quá trình phát triển KT-XH. Đào tạo NNL tạo nên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo đựơc yêu cầu, mục tiêu sau: -Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. -Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng NNL và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị trường lao động. Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng. Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề, trường Đại học, Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường, lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới của nền sản xuất-xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề-lành nghề-trình độ cao; đào tạo trình độ sơ cấp-THCN-cao đẳng-đại học và sau Đại học. 1.1.6. Sử dụng NNL. Trong tiếng Việt khái niệm sử dụng NNL được dùng khá phổ biến, và về thực chất sử dụng NNL chỉ bao hàm một số thành tố của quá trình quản lý NNL như: tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đánh giá, trả công, trả lương và thăng thưởng. Trong các tài liệu truyền thống, dùng người đúng có nghĩa là sử dụng được thế mạnh của con người, dùng người vào đúng chỗ, đúng lúc, phát huy được động lực làm việc của con người. Nếu mở rộng khái niệm sử dụng NNL, nội hàm của sử dụng NNL sẽ trùng với nội hàm khái niệm quản lý NNL. NNL được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ thống các yếu tố cấu thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức lao động, như Mác đã nói: khả năng mà con người có thể thông qua lao động để biến thành hiện thực, từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH và sự phát triển KT-XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang trạng thái động tức là phải được đem phân bố, sử dụng nó một cách có hiệu quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành vốn nhân lực. Sử dụng NNL tức là quá trình tạo điều kiện cho người tham gia vào hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT-XH. Bởi vậy, sử dụng NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát triển KT-XH. Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào tạo (đặc biệt là đào tạo nghề). Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có thể được xem xét trên các khía cạnh sau: Một là, NNL được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao động trong sản xuất kinh doanh. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL. Hai là, con người khi tham gia vào quá trình phát triển KT-XH không chỉ sử dụng lao động giản đơn mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc cho xã hội ngày càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức, thì vai trò của lao động trí tuệ của con người thể hiện ngày càng rõ nét. Đúng như dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của NNL qua đào tạo. Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển từ sử dụng lao động theo chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta phải chú ý sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả số lượng và chất lượng. Như vậy, để khai thác phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT-XH trong từng thời kỳ của quốc gia. 1.2. Sự cần thiết khách quan của đào tạo và sử dụng NNL đối với quá trình CNH, HĐH. NNL và CNH, HĐH có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện: 1.2.1. Sự tác động của đào tạo và sử dụng NNL đối với quá trình CNH, HĐH. NNL, nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của nhận thức, lĩnh hội và sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc đẩy CNH, HĐH và phát triển KT-XH như Lênin nói: "Nếu không có các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất thì không thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN" [20, tr.362], đặc biệt là NNL chất lượng cao, một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH, HĐH được LêNin viết: "Việc điện khí hoá không phải do những người mù chữ thực hiện được mà chỉ biết chữ thôi thì không đủ... điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại mà nếu không có nền học vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi" [20, tr.364-365]. Theo LêNin cái quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới đối với xã hội cũ là năng suất lao động cao cho nên cần phải thực hiện sự phát triển NNL. Từ ý tưởng đó có thể thấy để nâng cao năng xuất lao động trước hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của nền giáo dục và văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân, tiếp đến phải nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động, nâng cao tài khéo léo và trình độ thành thạo của NNL. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH đất nước là nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất, tiềm lực khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước. Nhưng trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất". Nguồn lao động dồi dào, con ngươì Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng" [4. tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải pháp đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH. Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu thế hơn hẳn các nguồn lực khác là nó không bao giờ cạn: "Tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết" [32, tr.41]. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định: "Phương hướng chủ yếu phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa học công nghệ đào tạo để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" [7, tr.28]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII nhấn mạnh: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển Giáo dục đào tạo, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững" [6, tr.19]. Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hướng kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động giản đơn trong sản phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của quá trình phát triển. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế hiện nay, các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, khắc phục sự thiếu vốn qua con đường nhập khẩu hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân hàng, quỹ phát triển của thế giới, nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao động hay vay mượn khả năng sáng tạo của con người. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL qua đào tạo. Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt nam đã chỉ ra rằng: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" [8, tr.91]. Chúng ta cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; Giáo dục đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người kịp thời và phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. Xét một cách tổng thể việc đào tạo NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý về lao động đã đào tạo trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết phải đào tạo được những con người có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương vị công tác theo sự phân công lao động của xã hội. Đó là những con người vừa có tài vừa có đức. Theo tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo NNL phải làm thế nào để người học sau khi được đào tạo phải được trang bị kiến thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, có năng lực hợp tác trong mọi hoạt động, có năng lực nhận thức, vận dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách của Đảng, biết lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các hoạt động của mình... đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, biết đặt lợi ích của cộng đồng xã hội lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, ý thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc, ý chí vươn lên để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. 1.2.2. Sự tác động của CNH, HĐH đến đào tạo và sử dụng NNL. Thứ nhất, Đối với đào tạo NNL: Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời đòi hỏi rất nhiều ở giáo dục, đào tạo NNL Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt phải có NNL trình độ cao. -Trong tiến trình CNH, HĐH đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL. Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa" [20, tr.474]. -CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết cho việc định hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ: + CNH, HĐH là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất thiết phải tính đến. + Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH, HĐH sự biến đổi về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL và đòi hỏi NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất lượng cao. + CNH, HĐH còn là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Điều đó tác động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH, HĐH đất nước. Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nhanh chóng đổi mới đưa kỹ thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tỷ trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp và dịch vụ tăng. Đặc biệt CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đòi hỏi việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu về chất lượng mà ngày càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng, quy mô, cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao động và sức cạnh tranh của lao động nước ta. Vì vậy việc đào tạo NNL phải làm tốt công tác dự báo, phải điều chỉnh quy hoạch đào tạo; bồi dưỡng thường xuyên NNL bao gồm cả đào tạo cao đẳng, đại học, THCN và đào tạo nghề với các cấp trình độ bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao cho các ngành, các lĩnh vực KT-XH để khắc phục sự bất cập về trình độ, quy mô, cơ cấu của NNL hiện nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghiệp hiện đại mới. Vấn đề này đã đựơc nêu trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6, khoá IX: "Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và THCN. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao" [9, tr.129]. Như vậy, vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất lượng, vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng, quy mô, cơ cấu trình độ và thực tiễn phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau, trên địa bàn lãnh thổ khác nhau. Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực tiễn: nhu cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối "rất thiếu nhưng rất thừa nhân lực hiện nay" như định hướng của Hội nghị Trung ương 6, khoá IX: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục, phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT-XH, đào tạo sử dụng" [9, tr.126]. Thứ hai, Đối với sử dụng NNL: Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển. Khi xác định chiến lược phát triển đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Nhưng các nguồn lực đó tự nó không thể tham gia vào các quá trình KT-XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Để thực hiện được mục tiêu của CNH chúng ta không thể không khai thác, sử dụng phát huy tối đa nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con người mới có thể tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm năng thành hiện thực. Hơn nữa, nguồn lực con người không chỉ quyết định sử dụng hiệu quả việc khai thác các nguồn lực tự nhiên mà còn góp phần tạo ra các nguồn lực mới. Như Mác- Ănghen đã nói: "Những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng đựơc nhu cầu khai thác sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội..." [18, tr.474-475]. Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan trọng nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm năng của nó, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng hơn. Điều này đã được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong khu vực và thế giới. Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay là với một nguồn lực lao động dồi dào nhưng còn nhiều bất cập về trình độ, cơ cấu, sự phân bổ lao động trong các ngành, vùng chưa hợp lý nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu quá xa về kinh tế kỹ thuật; bởi vậy cần phải có chính sách phân công lao động hợp lý để có thể thu hút được tất cả lực lượng lao động xã hội, tạo điều kiện cho mọi người có việc làm, có cơ hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lực lượng lao động phải được xem như một tổng thể nằm trong một cơ cấu lao động thống nhất. Ở đó, mỗi cá nhân người lao động được sử dụng đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật, đúng công việc mà mình yêu thích theo hướng toàn dụng lao động. Mặt khác dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng, với ý nghĩa đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở thành yêu cầu cơ bản nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất, hiệu quả lao động cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ phân công và hợp tác lao động quốc tế ngày càng mở rộng, việc sử dụng NNL càng mang tính mở rộng, tính quốc tế hoá cao. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài ở mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại, cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn, do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động. Xuất khẩu lao động dư thừa trong nước, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước và mặt khác đây còn là con đường để đào tạo nguồn lao động cho đất nước. Do đó Nhà nước cần có chính sách khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế nguồn lao động dồi dào phục vụ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói chung và quá trình CNH, HĐH ở Bắc Ninh nói riêng hiện nay đòi hỏi phải đào tạo NNL chất lượng cao và sử dụng NNL một cách hiệu quả, mà CNH, HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở nước ta. 1.3. Nội dung của đào tạo và sử dụng NNL được đào tạo. 1.3.1. Nội dung của đào tạo NNL. Nước ta bắt đầu thực hiện CNH, HĐH với một xuất phát điểm thấp. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Mặt bằng dân trí thấp, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn đại học và sau đại học còn ít, phần đông số người lao động chưa qua đào tạo về nghề nghiệp. Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp thu khoa học công nghệ mới nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Mặt khác do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng kinh tế tri thức với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao động giản đơn đang giảm dần nhường chỗ cho lao động trí tuệ. Do đó nội dung giáo dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được xác định theo hướng "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý trí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc" [7, tr.114]. Thực tế, sự nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng, phong phú cả về mặt nội dung và phương thức đối với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện nay. Nội dung đào tạo NNL ở nước ta không chỉ là những kiến thức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức, truyền thống dân tộc. Nội dung các tri thức cấu thành chương trình đào tạo, cũng phải bao hàm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, tiếp cận các trí thức hiện đại và tính tới sự phát triển. Đào tạo chuyên môn, trình độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để tạo điều kiện cho họ có khả năng lao động, khả năng đảm nhận một công việc nào đó trong xã hội. Còn đào luyện "Đức" chính là tạo ra cái gốc, yếu tố cơ bản đem lại sức khoẻ về tinh thần để làm người có văn hoá, có tri thức. Đến lượt nó lại trở thành động lực thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu quả trong hoạt động của họ, giúp họ biết hợp tác với ai, biết làm cái gì, làm vì ai và sẽ làm như thế nào. Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp bậc học với các mức độ khác nhau. Nhưng luận văn tập trung nghiên cứu đào tạo THCN, dạy nghề, đào tạo đại học, cao đẳng có thể khái quát qua các cấp bậc sau đây: -Thứ nhất: Đối với các cấp bậc phổ thông đặc biệt là THPT: Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân- thiện-mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả năng của mình và yêu cầu của xã hội. -Thứ hai: Đối với các trường THCN-dạy nghề-cao đẳng-đại học: Đào tạo là quá trình kết hợp giữa đào tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các lĩnh vực hoạt động KT-XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau: +Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý tưởng cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ thống các môn học chung. +Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp tục tự hoàn thiện về nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học; khả năng thích hợp và khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động. +Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo điều kiện cho sinh viên trong việc giao lưu, học hỏi, tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại trên thế giới. +Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua các giờ thực hành, xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo, các cuộc gặp gỡ, trao đổi và học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực và nghề nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành nghiệp vụ được đào tạo. Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo mình được đảm nhận một cách có hiệu quả. Để chuẩn bị NNL chất lượng cao cho sự phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên cập nhật các kỹ năng mới, nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông, kỹ năng giải quyết, xử lý các vấn đề sự cố phát sinh, kỹ năng làm việc theo nhóm... +Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đạo đức lương tâm nghề nghiệp, văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà người lao động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ tìm hiểu về pháp luật, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán từng vùng của nước nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với nước họ và tập quán quan hệ quốc tế. Cần bồi dưỡng về ngoại ngữ ở một trình độ nhất định cho đối tượng này. -Thứ ba: Đối với bậc đào tạo nhân tài: Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối năm thứ nhất, hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại học sau đó tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành nghề quan trọng cho đất nước. Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này phải mang tính hiện đại, nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu, học tập và làm việc độc lập cũng như hợp tác, đồng thời hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc dự đoán, nhận định năng lực và khai thác được tài năng của đối tác. Ngoài ra còn phải chú ý rèn luyện đạo đức. Như Bác Hồ của chúng ta từng dạy "Có tài mà không có đức thì vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó" [16, tr.252-253]. Như vậy, nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát triển của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ đức, tài, năng động sáng tạo, thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 1.3.2. Nội dung sử dụng NNL được đào tạo. Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia con người được coi là trung tâm của quá trình sản xuất nên đã diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thức và giải pháp tối ưu sử dụng NNL. Nhưng do đặc điểm tình hình KT-XH khác nhau nên việc xác định nội dung, giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia, địa phương. Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm, phân bố sử dụng hợp lý lực lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích thích và động lực của lao động để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả. Để khơi dậy và phát huy tiềm năng con người nói chung việc sử dụng NNL phải được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và đựơc hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động đến vấn đề đào tạo NNL. Trong đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL là cơ sở, điều kiện để sử dụng NNL có hiệu quả. Sử dụng có hiệu quả NNL sẽ tạo điều kiện mở rộng, cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để nâng cao chất lượng NNL. Ở các nước khác nhau, NNL được biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội. Trong nguồn lao động đó có những người đã qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo; những người lao động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý, khoa học, những người làm công tác dịch vụ, văn phòng... Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng NNL, trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý, khai thác sử dụng hết lực lượng lao động, giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động; kết hợp khai thác sử dụng với đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng, nâng cao chất lượng việc làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng. Trên cơ sở đó làm tăng thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động. Sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta nói chung và từng địa phương nói riêng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc vào sử dụng hợp lý và hiệu quả; đặc biệt là khai thác hiệu quả NNL đã qua đào tạo. Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không chỉ phải dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều có việc làm mà cần phải chú ý phân bố, sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp về trình độ trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH; trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh (theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp ngày càng giảm xuống) và trong các vùng (thành thị - nông thôn, các vùng kinh tế trọng điểm) thuộc lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng cần phải tính đến tỷ lệ lao động trong tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu không có sự phân bố lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có đông đảo cũng không thể trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng của nền kinh tế. Ngoài những vấn đề trên, việc toàn dụng lao động còn phải tính tới khả năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động có thể làm việc. Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, Nhà nước cũng cần phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển các ngành nghề tạo nhiều việc làm, trong đó có nhiều việc làm có chất lượng để bảo đảm cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn chế tình trạng bỏ việc một cách tuỳ tiện. Trên cơ sở phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế, nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính đến việc tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động, các biện pháp kích thích tới người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình. Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người đã cho thấy: con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không bao giờ cạn. Bởi vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động, các cơ sở tuyển dụng lao động cần kết hợp một cách linh hoạt, mềm dẻo các hình thức và nguyên tắc phân phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo. Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo, bồi đắp NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai. Nhìn chung, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả các vấn đề: toàn dụng lao động, phân bố hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và bồi đắp NNL. 1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng NNL. 1.4.1. Chính sách và biện pháp về đào tạo NNL. -Chính sách phát triển NNL bao gồm hầu hết những giải pháp tác động đến quá trình tăng cường năng lực của từng con người và tổ chức, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn năng lực đó cho phát triển. Đó là những lĩnh vực và chính sách về điều tiết dân số, sức khoẻ và dinh dưỡng, giáo dục và đào tạo, việc làm và thu nhập, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân v.v . . .Do đó chính sách phát triển, đào tạo NNL cần hoàn thiện gồm những nhóm chính sách như sau: +Chính sách phát triển giáo dục cơ sở có ý nghĩa tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề cần thiết cho phát triển đào tạo NNL và là một nhân tố cơ bản của phát triển NNL. Vì vậy, trong việc đánh giá phát triển NNL của một quốc gia, trước hết người ta dựa vào trình độ phát triển giáo dục phổ thông(tỷ lệ biết chữ, trình độ phổ cập giáo dục-số năm giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đi học của trẻ em trong các nhóm tuổi của mỗi cấp học . . .), coi đó là nhân tố thuận lợi hay trở ngại cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh. Trong số các chính sách phát triển giáo dục thì chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành những chính sách phát triển NNL của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển KT-XH và điều kiện cụ thể, mỗi quốc gia đặt mục tiêu phổ cập giáo dục cho một thời kỳ nhất định, thông thường trước hết là phổ cập tiểu học, sau đó là các cấp học tiếp theo(căn cứ vào sự phân cấp hệ thống giáo dục phổ thông theo 2 hoặc 3 cấp) hoặc phổ cập về số năm đi học bắt buộc. +Chính sách về quy mô đào tạo: Mục tiêu là nhằm điều tiết quy mô đào tạo chung và của từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích mở rộng hoặc thu hẹp quy mô đào tạo ở một cấp nhất định nào đó. +Chính sách về cơ cấu đào tạo: Mục tiêu của chính sách này là nhằm điều tiết hai loại hình cơ cấu đào tạo là cơ cấu về trình độ đào tạo và cơ cấu ngành nghề đào tạo. +Chính sách tài chính trong phát triển đào tạo NNL có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quản lý phát triển NNL. Hiện nay ở nước ta chính sách tài chính trong phát triển đào tạo NNL có những nội dung chủ yếu sau: Đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động ngày càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo. Ưu tiên tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo NNL. -Một số biện pháp về đào tạo NNL: +Xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch cụ thể đào tạo NNL gắn với sử dụng NNL theo mục tiêu phát triển đất nước trong quá trình CNH, HĐH. +Xây dựng kế hoạch và các giải pháp khả thi để điều chuyển lực lượng lao động trong ngành giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của hệ thống. Việc điều chuyển không nên thực hiện trên cơ sở áp đặt mà kết hợp những ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi và chế độ ưu đãi với sự cam kết của cá nhân và tổ chức. Những sinh viên nghèo, có hoàn cảnh khó khăn có thể được đào tạo miễn phí để trở thành giáo viên đi công tác một thời gian nhất định tại các vùng sâu, vùng xa kết hợp với chế độ cử tuyển trên cơ sở hợp đồng với nơi nhận, cơ quan cấp kinh phí và sinh viên. Việc chuyển cán bộ phải đi kèm với chế độ đãi ngộ thoả đáng. -Cải cách chế độ tiền lương, làm cho mức lương của cán bộ làm việc trong khu vực giáo dục và đào tạo không thấp hơn khu vực khác; cán bộ nghiên cứu có năng lực sáng tạo cao phải có thu nhập cao hơn hẳn so với mức thu nhập chung. -Để có thể đổi mới tác phong làm việc, văn hoá trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy cần hình thành những đơn vị nghiên cứu, những trường đại học theo mô hình mới, hợp tác và mời những cộng tác viên người nước ngoài, từng bước thay đổi tác phong,văn hoá làm việc theo hướng hiện đại. -Phân cấp cho các cơ sở đào tạo những chức trách và quyền lực nhất định trong đãi ngộ, trả lương giáo viên; các trường đại học, cao đẳng, THCN và dạy nghề cần được tự chủ trong quản lý NNL và chịu trách nhiệm thông qua cơ chế công khai, cơ chế hội đồng; các cơ sở giáo dục phổ thông được tham gia vào nhiều khâu của quá trình quản lý, trong đó có trả công, trả lương để tăng cường hiệu quả quản lý. -Xã hội hoá huy động các nguồn lực tài chính cho giải quyết việc làm. Tăng hỗ trợ kinh phí Nhà nước cho các chương trình dự án giải quyết việc làm. khuyến khích các doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí cho người lao động tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm. 1.4.2. Nguồn và chất lượng đầu vào của NNL. Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng sẽ tạo ra nguyên liệu cho giáo dục đào tạo NNL, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp tạo ra NNL. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng đào tạo NNL. Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có nguyện vọng dự thi vào các trường nghề, THCN và cao đẳng, đại học quá ít hoặc quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây khó khăn cho việc tuyển lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự nghiên cứu để nắm bắt được tri thức mới, nâng cao trình độ tay nghề. 1.4.3 Trình độ cơ sở vật chất và khả năng tài chính ở các cơ sở đào tạo. Cơ sở đào tạo NNL đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNL, thực hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất. Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế đã chứng minh để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các thiết bị hiện đại cho sinh viên thực hành sẽ không đáp ứng khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức. 1.4.4. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý. Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng, trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của người thầy có tác dụng rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của họ. Muốn có trò giỏi (NNL có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được. Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả, ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy, hạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất... Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo NNL. Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách nhiệm cao. 1.4.5.Chất lượng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ trong sản xuất kinh doanh. -Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện quy hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương... đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo NNL. Chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2001-2010 của nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du lịch sớm trở thành mũi nhọn... Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp- công nghiệp-dịch vụ sang công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống 50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo theo ngành và trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức đối với NNL và do đó trực tiếp tác động tới đào tạo NNL cả về quy mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp lý NNL trong quá trình CNH, HĐH. -Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế, cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có NNL phù hợp để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chuyên môn, ngành nghề, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo NNL tốt hơn; đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi trình độ chuyên môn người lao động trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo NNL. Việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy "Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc" [16, tr.274-275]. 1.4.6. Thị trường lao động. Việc hình thành và quản lý tốt thị trường lao động hiện nay có vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng NNL. Nó cung cấp thông tin cho đào tạo NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng cho CNH, HĐH đồng thời thông qua thị trường lao động, các cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của mình. Thông qua thị trường lao động, người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; xác lập được quan hệ cung-cầu lao động, giảm dần sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục được tình trạng lãng phí trong đào tạo và sử dụng NNL. Cơ chế chính sách tuyển dụng NNL: đây là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng NNL. Trong cơ chế cũ Nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL, tuyển dụng, sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân lành nghề, triệt tiêu động không kích thích người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà không chú trọng đến hiệu quả. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở nên cồng kềnh, kém hiệu lực. Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc như nói trên đã không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo và dễ rơi vào tình trạng không đúng người đúng việc, hiệu quả lao động thấp. Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực, người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được nâng cao hơn nữa về chất. Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một nhân tố có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. 1.5. Những chỉ tiêu đánh giá về đào tạo và sử dụng NNL. Theo Từ điển Tiếng Việt(Trung tâm từ điển, 1998. tr. 424), hiệu quả là kết quả đạt được như yêu cầu công việc mạng lại. Hiệu quả là tính kết quả, là sự đạt được kết quả mong muốn. Để đạt hiệu quả cao phải tính đến những giải pháp giúp đạt mục tiêu đã đặt ra ở mức độ cao nhất. Hiệu quả đào tạo và sử dụng NNL là việc đào tạo và sử dụng NNL phải đạt được mục tiêu đặt ra. Việc chỉ ra tính hiệu quả của một hoạt động nào đó, phải chỉ ra kết quả mà hoạt động đó đạt được. Có thể chia ra hiệu quả đầu vào, hiệu quả quá trình và hiệu quả đầu ra. Những yếu tố tác động đến hiệu quả đầu vào có thể là các chính sách, cơ chế ở cấp vĩ mô và vi mô về NNL, sứ mệnh, mục tiêu của tổ chức cũng như các điều kiện sản xuất, kinh doanh(tài chính, công nghệ, NNL). Hiệu quả đầu ra có thể được đánh giá ở cấp cá nhân, cấp tổ chức, hay cấp quốc gia. Hiệu quả đầu ra có thể là sự hài lòng của cá nhân, năng suất lao động, thu nhập, sự phát triển cá nhân v.v. Ở cấp NNL một địa phương, một quốc gia là sự linh động, khả năng đáp ứng, di chuyển của NNL, đặc biệt sự đáp ứng nhiệm vụ phát triển KT-XH của NNL. Như vậy, có thể nhận biết hiệu quả đào tạo và sử dụng NNL theo các tiêu chí sau đây: -Hiệu quả kinh tế: thể hiện ở đóng góp của NNL vào đạt mục tiêu của tổ chức, thực hiện mục tiêu KT-XH của một vùng, một địa phương và một quốc gia; một cách cụ thể hiệu quả kinh tế thể hiện ở mức tăng năng suất lao động, tăng thời gian sử dụng lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, sự chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng phù hợp hơn với nhu cầu phát triển KT-XH; -Hiệu quả xã hội: thể hiện sự tăng trưởng mức sống, trình độ người lao động, sự tham gia vào các hoạt động KT-XH của người lao động; -Theo phạm vi: + Hiệu quả chung của đào tạo và sử dụng NNL thể hiện sự đóng góp chung vào phát triển của tổ chức, của địa phương, của quốc gia; mức độ linh hoạt của lực lượng lao động; +Hiệu quả từng bộ phận, từng khâu, từng nội dung của quá trình đào tạo, sử dụng NNL thể hiện việc đạt được mục tiêu của từng khâu, từng nội dung đào tạo và sử dụng NNL. -Theo đối tượng: + Hiệu quả cá nhân thể hiện ở: tăng khả năng, năng lực của người lao động như kỹ năng, trình độ, năng lực, sự hiểu biết; kết quả thực hiện công việc như tăng năng suất lao động, động cơ, thái độ tích cực hơn đối với công việc, mức độ hài lòng đối với công việc; mức sống và độ an toàn của cuộc sống. +Hiệu quả tổ chức: thể hiện ở năng suất lao động của tổ chức, chất lượng, lợi nhuận đạt được và mức độ đạt mục tiêu của tổ chức. +Hiệu quả khách hàng: mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng, thị phần, ảnh hưởng tới người sử dụng dịch vụ (xem phụ lục 1). 1.6. Vai trò của đào tạo và sử dụng NNL đối với thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, đội ngũ CNKT có đủ đức tài, có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong quá trình CNH, HĐH. Để khai thác tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, cần tiếp tục triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo, mà khâu then chốt là đào tạo NNL chất lượng cao và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Có thể nói đào tạo và sử dụng NNL qua đào tạo có vai trò to lớn về nhiều mặt. -Thứ nhất, ở nước ta đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề góp phần quan trọng tạo ra lực lượng lao động và chuyên gia giỏi về công nghệ, kỹ thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Với những kiến thức cơ bản, kỹ năng nghề nghiệp và phương pháp tư duy sáng tạo họ không chỉ là những người tổ chức thực hiện các hoạt động trong quá trình sản xuất mà trong quá trình đó họ còn là những người quản lý và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu tăng khả năng sức cạnh tranh của hàng hoá trong kinh tế thị trường. Mặt khác việc thu hút sử dụng hợp lý NNL với các biện pháp kích thích người lao động làm việc không chỉ năng suất, chất lượng, hiệu quả cao mà còn say mê nghiên cứu tìm tòi sáng tạo để tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ mới giúp sử dụng hợp lý NNL làm cho quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ không ngừng và lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển. -Thứ hai, Đào tạo NNL có chất lượng và sử dụng nó có hiệu quả sẽ tác động đến phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động từ đó đẩy mạnh chất lượng và nhịp độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch đó được thực hiện nhờ có sự đóng góp to lớn của đào tạo và sử dụng NNL. Nhờ đẩy mạnh hoạt động giáo duc, đào tạo NNL và khai thác sử dụng NNL trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng, mặc dù tốc độ còn chậm. Về cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp-công nghiệp dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP ngày càng tăng lên và tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống. (Xem bảng 1.1). Bảng 1.1. Cơ cấu GDP trong các ngành kinh tế nước ta thời kỳ 1995-2005. Đơn vị tính: % Thời gian Ngành kinh tế 1995 2000 2001 2003 2004 2005 Công nghiệp và xây dựng 28,76 36,73 38,12 39,46 40,21 41,03 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 27,18 24,53 23,25 22,54 21,81 20,89 Dịch vụ 44,06 39,74 38,63 38,00 37,98 38,08 Nguồn: Tổng cục thống kê [25, tr.21]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành: đòi hỏi đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH giải quyết việc làm cho người lao động. Đánh giá quá trình này, hiện nay có số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Bộ Lao động- Thương binh xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Kế hoạch - Đầu tư thời kỳ 1995-2005 tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra theo hướng tích cực phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế (xem bảng 1.2). Bảng 1.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế ở nước ta thời kỳ 1995 - 2005. Đơn vị tính: % Thời gian Ngành kinh tế 1995 2000 2001 2003 2004 2005 Công nghiệp và xây dựng 13,2 13,7 14,3 16,5 17,3 17,9 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 70,1 67,2 63,4 60,03 58,8 56,8 Dịch vụ 16,7 19,1 22,3 23,2 23,9 25,3 Nguồn: Tổng cục thống kê [25, tr.117-118]. Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong cơ cấu lao động cũng có sự đổi mới. Năm 1996 lao động qua đào tạo mới có 13%, năm 2000 đạt 20% và đến năm 2003 khoảng 21,5%. Về cơ cấu trình độ lao động: Từ năm 1996 đến 2000 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lực lượng lao động tăng từ 12,31% lên 15,53%. Cơ cấu trình độ cũng có sự thay đổi mặc dù còn chậm: năm 1996 CNKT 4,38%, cao đẳng, đại học 2,3%, sơ cấp 1,77%, trung cấp 3,84%. Đến năm 2000 tỷ lệ trong cơ cấu tương ứng là: 5,4/1,41/4,83 và 3,89. -Thứ ba, Đào tạo NNL và sử dụng hiệu quả NNL đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu như trong những năm 50-60 của thế kỷ XX tăng trưởng kinh tế chủ yếu do CNH, sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là khâu chủ yếu cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì vài thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây chỉ có một phần nhỏ thuộc về tăng trưởng kinh tế được giải thích bởi khía cạnh đầu vào là vốn; phần quan trọng gắn với chất lượng của lao động. Cho nên việc đầu tư cho con người sẽ là yếu tố góp phần rất quan trọng nâng cao năng suất lao động và được coi là đầu tư cho phát triển. Thực tế lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một quốc gia nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. Việt Nam tuy là một nước đang phát triển nhưng những kết quả về KT-XH trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Theo đánh giá của tổ chức ngân hàng thế giới Việt Nam đã duy trì và đạt được tỷ lệ tăng trưởng khá cao và ổn định. Điều đó có sự đóng góp tích cực của đào tạo và sử dụng NNL. Từ năm 1996 đến năm 2000 tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm 7,5%. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần so với năm 1990. Từ năm 2001 đến nay tỷ lệ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức độ bình quân hơn 7%. (Xem bảng 1.3). Bảng 1.3. Tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta thời kỳ 1996-2005. Đơn vị tính: % Thời gian 1996 - 2000 2001 2002 2003 2004 2005 GDP 6,7 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 Nguồn:Tổng cục thống kê [25, tr.25-26] Do sự tăng trưởng của nền kinh tế, bộ mặt xã hội không ngừng được cải thiện, chỉ số HDI được nâng lên đáng kể. Năm 1994 Việt Nam xếp thứ 116/173 nước với chỉ số 0,514; năm 1995 chỉ số tăng lên 0,649, năm 2000 tăng lên 0,671 xếp thứ 108 và đến năm 2002 Việt Nam vẫn xếp thứ 108 với chỉ số 0,69. Những kết quả đó tuy chưa cao nhưng đã phản ánh rất rõ ràng chiến lược phát triển NNL của Đảng ta là đúng đắn. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy rằng: trong quá trình phát triển KT-XH nói chung và CNH, HĐH nói riêng, đào tạo và sử dụng NNL có vai trò rất quan trọng, song điều đó không có nghĩa một quốc gia có lực lượng dân số đông thì sẽ có lợi thế và gặt hái được nhiều thắng lợi và ngược lại một quốc gia có lực lượng dân số ít thì không giành được thắng lợi mà vấn đề ở đây còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đã đào tạo NNL như thế nào và đã khai thác sử dụng nó ra sao. Bởi vậy để phát triển KT-XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH cần phải coi trọng vấn đề đào tạo và sử dụng NNL phù hợp với điều kiện đặc thù của mình. Chương 2 THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH BẮC NINH(1997-NAY). Như đã nói ở phần trước, môi trường đào tạo và sử dụng NNL của các địa phương có những nét riêng biệt. Cùng trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội như nhau, nhưng có địa phương thu hút được NNL nhiều, có địa phương thu hút được ít. Chính điều này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và việc chủ động vận dụng chủ trương, chính sách vào việc đào tạo và sử dụng NNL của một tỉnh. 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng NNL của tỉnh Bắc Ninh. -Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá IX, thông qua ngày 06/11/1996 và Chỉ thị số 857/CT-TTg ngày 15/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới, tỉnh Bắc Ninh được tái lập đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính từ 01/01/1997. -Vị trí địa lý: Tỉnh Bắc Ninh phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam và tây giáp thành phố Hà Nội và là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội(trung tâm giáo dục và đào tạo lớn), nằm trong tam giác phát triển kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, đó là lợi thế đồng thời cũng là thách thức, làm tăng sức cạnh tranh các mặt hàng sản xuất cũng như phát triển giáo dục đào tạo và sử dụng NNL của tỉnh . -Kết cấu hạ tầng KT-XH ở tỉnh Bắc Ninh đã và đang được nâng cấp, cải tạo, đầu tư tập trung trên hầu hết các lĩnh vực giao thông vận tải, viễn thông, bưu điện … tạo tiền đề cho công nghiệp hoá-hiện đại hoá. -Cơ cấu kinh tế của tỉnh thay đổi: Năm 2000, công nghiệp-xây dựng cơ bản 35,7%, nông nghiệp 38,0%, dịch vụ 26,3% thì năm 2005 cơ cấu kinh tế là: công nghiệp - xây dựng cơ bản 47,1%, nông nghiệp 25,7%, dịch vụ 27,2%, rõ ràng đang có sự chuyển dịch cơ cấu chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp mạnh mẽ có tác động tích cực đến đào tạo và sử dụng NNL. Tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh năm 2005 đạt 4.785 tỷ đồng (giá so sánh 1994), bình quân đầu người tương đương 525,7 USD. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm 14% trong giai đoạn 2000-2005(xem phụ lục 2). -Giá trị sản suất công nghiệp tăng bình quân 26,1%/năm. Nếu so sánh năm 2005 với năm 1996 (trước ngày tái lập tỉnh) thì gấp gần 11 lần. Tính đến nay trên địa bàn có 20.000 hộ cá thể và 1.369 doanh nghiệp tham gia sản xuất trong ngành công nghiệp. -Giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 5,8%/năm(theo giá năm 1994). -Dịch vụ có bước tiến bộ đáng kể: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 22,4%/năm; khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng 21,2%/năm, vận chuyển hành khách tăng 9,25%/năm. Bưu chính viễn thông phát triển cả về số lượng và chất lượng, số máy điện thoại tăng từ 2,5 máy/100 dân năm 2000 lên 17,2 máy/100 dân năm 2005, gấp 5,2 lần. -Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực: tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 14% năm 2000 lên 29,12% năm 2005, các ngành dịch vụ tăng từ 12,4% lên 22,59%, ngành nông, lâm, thuỷ sản đã giảm từ 73,6% xuống còn 48,29%. Đây là điểm nổi bật nhất và có tính khác biệt của Bắc Ninh so với các tỉnh trong vùng trong cả nước. -Thu chi ngân sách nhà nước đạt khá: Tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm 34,7%, năm 2005 đạt 1.067 tỷ đồng, gấp 4,4 lần so với năm 2000. Chi cho đầu tư phát triển tăng 31,6%/năm. Tập trung ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ như giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. -Đầu tư phát triển kinh tế xã hội được chú trọng, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được tăng cường, bộ mặt đô thị và nông thôn ngày cang đổi mới. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm qua đạt trên 12 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm trên 26%, chiếm hơn 40% GDP, trong đó 95% là vốn đầu tư trong nước. -Đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện một cách rõ rệt và đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, nâng cao chất lượng NNL. GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 triệu đồng, năm 2005 đạt 8,3 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,8% năm 2000 xuống còn 3,5% năm 2005. (Chuẩn nghèo-Quyết định 1143/QĐ-LĐ-TBXH, ngày 1/11/2000 của Bộ trưởng Bộ LĐ-TBXH). Các chương trình đào NNL, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo được thực hiện tốt. -Hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh đã hướng vào mục tiêu ‘nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’. Quy mô đào tạo ở các cấp, ngành học được mở rộng, đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS năm 2002, đây là nền tảng quan trọng cho việc nâng cao chất lượng NNL của tỉnh trong tương lai. Mạng lưới trường, lớp được mở rộng đáp ứng quy mô tăng lên của các cấp học; trường học được kiên cố hoá, đến nay tỷ lệ kiên cố hoá các trường phổ thông là 72,1%. Hệ thông trường chuẩn quốc gia được xây dựng và hướng tới hiện đại hoá. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có nhà trẻ, mẫu giáo, trường tiểu học và THCS. -Bắc Ninh là một vùng đất địa linh nhân kiệt, có lịch sử văn hoá lâu đời, giàu truyền thống văn hiến, khoa bảng, một trung tâm văn hoá của người Việt cổ. nơi sinh ra các anh hùng hào kiệt cho đất Việt nghìn năm lịch sử như: Lý Công Uẩn, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt... -Văn hoá-xã hội có nhiều tiến bộ: Sinh hoạt văn hoá quần chúng được tổ chức thường xuyên góp phần giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, từng bước phát triển nền văn hoá tiên tiến. Do nhịp độ tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức cao, các lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ nên chỉ số phát triển con người (HDI) ở tỉnh Bắc Ninh đều tăng lên mỗi năm. Nếu như năm 2000 chỉ số phát triển con người của Bắc Ninh ngang bằng với chỉ số HDI của cả nước và xếp thứ 13 trong 61 tỉnh, thành phố (thuộc nhóm có trình độ phát triển trung bình khá) thì đến năm 2005 đạt 0,724 và cao hơn bình quân chung cả nước. Đáng chú ý, chỉ số tuổi thọ, chỉ số tri thức đều cao hơn hẳn mức bình quân chung của cả nước và đứng ở hàng các tỉnh, thành phố phát triển. Đây chính là động lực để tỉnh Bắc Ninh cùng cả nước vững bước đi trên con đường CNH, HĐH. -Hoạt động y tế, chăm sóc sức khoẻ, dân số, gia đình và trẻ em được thực hiện tốt. Cán bộ y tế có bước phát triển cả về số lượng cũng như chất lượng, 100% trạm y tế có bác sỹ, trên 50% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Ngành y tế đã thực hiện đa dạng hoá hình thức khám, chữa bệnh theo Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân. Góp phần đa dạng hoá loại hình chăm sóc sức khoẻ các tầng lớp dân cư, tạo cơ hội bảo đảm sự công bằng trong công tác khám và chữa bệnh, nhằm nâng cao chất lượng NNL. Như vậy, KT-XH tỉnh Bắc Ninh phát triển sẽ tác động tích cực đến đào tạo và sử dụng NNL của tỉnh, thông qua các chính sách, chương trình cụ thể của địa phương về phát triển NNL. 2.2. Chủ trương chính sách của trung ương và địa phương về đào tạo và sử dụng NNL. 2.2.1. Về đào tạo NNL. Sự phát triển NNL phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và sự quản lý của Nhà nước cũng như của các cơ sở đào tạo. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy NNL to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH và HĐH “ [5, tr.124). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu của chiến lược phát triển KT-XH 10 năm (2001-2010) là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [8,tr.160]. Phát huy nguồn lực trí tuệ, sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về phát triển NNL được coi là một trong 3 lĩnh vực then chốt cần đột phá để làm chuyển động toàn bộ nền kinh tế. Nội dung chính sách giáo dục, đào tạo tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: -Vị trí của giáo dục-đào tạo trong tổng thể những vấn đề KT-XH trong sự phát triển của đất nước. Giáo dục-đào tạo là vấn đề quốc sách hàng đầu của sự phát triển KT-XH. -Mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo ở nước ta. Đó là nâng cao dân trí, đào tạo NNL, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra một lớp người có trí tuệ, sức khoẻ và đạo đức trong sáng. -Trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Trong đó nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong quản lý và đầu tư, sự cần thiết xã hội hoá sự nghiệp giáo dục-đào tạo. -Phương hướng mở rộng các hình thức giáo dục-đào tạo theo hướng đa dạng hoá (theo hình thức và theo tổ chức) tạo mọi điều kiện, cơ hội cho người dân tham gia giáo dục-đào tạo. Trên nền tảng những định hướng lớn trong chính sách giáo dục-đào tạo nói trên, Nhà nước đã hoạch định các chính sách cụ thể về giáo dục-đào tạo. Sau đây là một số chính sách quan trọng: Các chính sách nhằm nâng cao dân trí như: phổ cập giáo dục tiểu học, chính sách xoá nạn mù chữ và tái mù chữ, chính sách giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, cải cách giáo dục. . . Chính sách cơ cấu đào tạo: cơ cấu theo trình độ(CNKT, THCN, đại học và trên đại học) và cơ cấu theo nghề, chuyên môn được đào tạo. Chính sách ưu đãi đối với lực lượng làm công tác giáo dục-đào tạo, chính sách thu học phí, cấp học bổng. Chính sách thi tuyển vào các cơ sở giáo dục-đào tạo trong và ngoài nước. . . -Vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh Bắc Ninh đã cụ thể hoá một số chính sách, áp dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh, tăng cường cho đào tạo NNL như: +Quy hoạch phát triển NNL giai đoạn 2006-2010(Quyết định số 50/2005/QĐ-UB ngày 19/5/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh). +Quy hoạch phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2003-2010 (Quyết định số 130/2003/QĐ-UB ngày 17/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh). +Hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất và chế độ cho giáo viên các trường mầm non dân lập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Quyết định số 52/2005/QĐ-UB ngày 31/5/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh). 2.2.2. Về sử dụng NNL. Có thể nói đây là nhóm chính sách tác động trực tiếp nhất đến quá trình quản lý NNL ở nước ta hiện nay. Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách thu hút và sử dụng lao động đã được đổi mới từng bước nhằm đáp ứng và thích nghi với cơ chế thị trường. Sự đổi mới này được thể hiện vừa cả trong nội dung, phạm vi và phương pháp tác động của các chính sách, theo đó vừa tăng cường vai trò của Nhà nước, vừa sử dụng ngày càng rộng rãi các công cụ của thị trường trong quản lý NNL. Căn cứ vào tính chất và đối tượng tác động, những chính sách về thu hút và sử dụng lao động được phân tổ theo các nhóm sau: -Chính sách đa dạng hoá việc làm và theo đó là đa dạng hoá các nguồn vốn và chủ thể tạo việc làm: Nhà nước không phải là nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm, mà thực hiện chính sách khuyến khích và hỗ trợ (bằng khuôn khổ pháp lý, tài chính, kinh nghiệm) các thành phần kinh tế tạo việc làm cho người lao động. -Chính sách khuyến khích, hỗ trợ tạo việc làm: Nhà nước chủ động và tích cực trực tiếp tạo việc làm trong tất các ngành kinh tế quốc dân, trong đó ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan toả tác động đến các thành phần kinh tế khác tạo việc làm và chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế, mọi người dân tự tạo việc làm cho mình và cho mọi người. -Chính sách về cơ cấu lao động: Thông qua chính sách đầu tư, theo đó Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng, lãnh thổ .v .v . . để tạo việc làm sẽ có ý nghĩa quyết định và tác động liên ngành, liên vùng nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu lao động với ba hình thức cơ cấu chính là cơ cấu theo ngành(chuyển từ lao động nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp), cơ cấu lao động theo trình độ trang bị kỹ thuật(chuyển dịch từ lao động thủ công là chính sang lao động cơ giới hoá và tiến tới tự động hoá) và cơ cấu lao động theo khu vực lãnh thổ(chủ yếu là chuyển từ lao động nông thôn sang lao động thành thị với kiểu sống, lối sống thành thị và với kỹ năng, hiệu quả và năng suất cao hơn. -Chính sách của Nhà nước nhằm điều tiết quan hệ và điều kiện lao động (hình thức và phương pháp giao kết hợp đồng lao động, trả công lao động, quy định thời gian lao động, ban hành những chuẩn mực về vệ sinh-an toàn lao động và chính sách bảo hiểm xã hội v.v. . .). -Chính sách thị trường lao động nhằm khuyến khích, điều tiết phát triển thị trường lao động phục vụ lợi ích chung và lợi ích của người lao động, do ở nước ta loại thị trường này hiện nay mới chỉ trong giai đoạn đang hình thành nên có những đặc điểm là kém phát triển và còn nhiều khuyết tật(kém phát triển, bị chia cắt khá mạnh giữa các khu vực và theo lãnh thổ, thiếu khuôn khổ pháp lý . . .) Vì vậy, phải có chính sách riêng để quản lý và thúc đẩy sự phát triển của loại thị trường này. Sự hình thành và phát triển ngày càng rộng rãi thị trường lao động cùng với việc hội tụ khá đầy đủ những yếu tố thị trường sẽ tác động nhiều mặt và mạnh mẽ hơn đến quá trình phát triển NNL. -Chính sách ưu đãi và khuyến khích tài năng. Cùng với chính sách chung cho toàn bộ NNL, trong từng giai đoạn nhất định, căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà nhà nước có những chính sách riêng đối với từng nhóm người lao động. Nhìn chung, đó là những nhóm đối tượng có vai trò đặc biệt quan trọng và quyết định đến sự phát triển hưng thịnh của quốc gia hoặc những nhóm nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước sự tác động tiêu cực của thị trường, chúng ta cần hoàn thiện những chính sách sau: Chính sách phát triển NNL khu vực quản lý hành chính Nhà nước, đặc biệt là đối với những người ra quyết định và tham gia hoạch định chính sách. Chính sách phát triển NNL khoa học-công nghệ, trong đó tập trung vào những ngành khoa học-công nghệ mũi nhọn như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, tự động hoá và công nghệ vật liệu mới. Chính sách phát triển đội ngũ doanh nhân, trong ưu tiên đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính sách phát triển công nhân kỹ thuật trình độ cao, trước hết là phải đạt trình độ chuẩn trong khu vực Đông Nam Á và tiến tới quốc tế. Chính sách đối với một số nhóm lao động thuộc các ngành nghề, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đặc biệt. -Vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh Bắc Ninh đã cụ thể hoá một số chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của tỉnh: +Quy định chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng NNL tỉnh Bắc Ninh (Quyết định số 60/2005/QĐ-UB ngày 06/6/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh). +Quy định một số chế độ đố với huấn luyện viên, vận động viên cán bộ thể dục, thể thao ( Nghị quyết số 33/2005/NQ-HĐND16 ngày 27/4/2005 của hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh). +Quy định chế độ khuyến khích, ưu đãi bác sĩ công tác tại trạm y tế cơ sở (Quyết định số 98/2002/QĐ-UB ngày 29/8/2002 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh). 2.3. Thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL. NNL tỉnh Bắc Ninh khá dồi dào, tính đến ngày 31/12/2005 toàn tỉnh có 998.318 người (khu vực thành thị có 131.998 người chiếm 13,22%); trong đó NNL có 607.415 chiếm 60,84%. (Xem bảng 2.1). Bảng 2.1. Dân số Bắc Ninh thời kỳ 2000-2005. Đơn vị tính: người Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Số dân 951.122 960.919 969.587 976.766 987.456 998.318 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh[2, tr.22] Lực lượng lao động ở Bắc Ninh có cơ cấu trẻ. Năm 2005, nhóm lực lượng lao động trẻ (từ 15-34 tuổi) có 223.160 người, chiếm 42,33% so với tổng số; nhóm lực lượng lao động trung niên(từ 35-54 tuổi) có 258.790 người, chiếm 49,09% và nhóm lực lượng lao động cao tuổi(từ 55-59 tuổi) có 23.902 người, chiếm 4,54%. Nhóm lực lượng lao động trung niên chiếm tỷ lệ cao nhất 49,09%. Đây là thế mạnh của nguồn lao động Bắc Ninh (Xem bảng 2.2). Bảng 2.2. Cơ cấu lao động theo độ tuổi (tính đến1/7/2005) Nhóm tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 15-24 93.829 17,79 25-34 129.331 24,53 35-44 142.829 27,09 45-54 115.961 21,99 55-59 23.902 4,54 >, = 60 21.370 4,06 Tổng số: 527.222 100,00 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh năm 2005[17]. Hàng năm dân số Bắc Ninh tăng thêm khoảng 1 vạn người (tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,05% năm 2005), mật độ dân số cao: 1.236 người/km2, gấp hơn 2 lần so với mật độ dân cư cả nước. Ngoài ra, còn phải kể đến số người ngoài tuổi lao động nhưng thực tế vẫn có việc làm cũng tăng lên (trong đó ngày càng có nhiều trẻ em) đã tạo thành một nguồn cung về lao động khá dồi dào. Ngoài 2 yếu tố tăng tự nhiên của dân số và sự tham gia của những người ngoài tuổi lao động, nguồn lao động Bắc Ninh còn được bổ sung bằng một số nguồn có tính chất cơ học như: số bộ đội giải ngũ, số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường, số người dôi dư do sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước. Dân số Bắc Ninh chủ yếu là ở nông thôn, chiếm 88,78% so với tổng dân số của tỉnh. Năm 2005, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ 48,29%, trong khi đó lao động trong ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp 29,12%. Điều này chứng tỏ rằng, mức phát triển công nghiệp và mức đô thị hóa còn thấp. Đây thực sự là điều kiện khó khăn về chuyển đổi cơ cấu lao động của tỉnh Bắc Ninh khi chuyển sang giai đoạn CNH-HĐH (Xem phụ lục 3). Chất lượng nguồn lao động: Nhìn chung đã được nâng lên nhiều nhưng về chất lượng chưa đáp ứng được cầu về cả 2 mặt thể lực và trí lực nguồn lao động. Đó là tình trạng thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Lao động có tay nghề cao, CNKT thiếu do đầu tư cho giáo dục còn thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động của tỉnh. Về mặt trí lực: Trình độ văn hóa là cơ sở rất quan trọng để nâng cao năng lực và kỹ năng làm việc của người lao động. Số người biết đọc, biết viết tăng dần. Trong những năm qua, số người tốt nghiệp các cấp học phổ thông có xu hướng tăng dần qua từng năm: năm 1997: 80,52%, năm 1998: 80,88%, năm 1999: 82,93%, năm 2000: 83,58% và năm 2005 là: 92,73%. Tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I ngày càng giảm xuống tương ứng. Xu hướng trình độ học vấn của người lao động ngày càng cao cho thấy khả năng học nghề, đào tạo nghề và nâng cao tay nghề của lực lượng lao động ở Bắc Ninh vào loại khá. Đây là một tiền đề quan trọng của sự phát triển NNL của tỉnh. Tuy nhiên, chúng ta thấy tỷ lệ người tốt nghiệp THCS và THPT trong lực lượng lao động của tỉnh còn thấp chỉ khoảng 50% [23, tr 6]. 2.3.1. Thực trạng đào tạo NNL. Để tăng nhanh số lượng và tỷ lệ lao động có trình độ học vấn tốt nghiệp THCS thì khó có thể thực hiện được các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho người lao động trong những năm tới (Xem bảng 2. 3). Bảng số 2.3. Trình độ học vấn phổ thông ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005. Đơn vị tính: % Thời gian Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2005 Không biết chữ 4,46 4,12 3,08 3,10 1,07 Chưa tốt nghiệp tiểu học 15,02 15,00 14,07 13,32 6,20 Đã tốt nghiệp tiểu học 24,26 25,78 25,09 24,71 26,53 Đã tốt nghiệp THCS 44,51 44,03 44,92 44,46 45,59 Đã tốt nghiệp THPT 11,75 11,07 12,12 14,41 20,61 Tổng số 100 100 100 100 100 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh năm 2005 [17] . Kinh phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh tăng hàng năm, từ năm 1997 đến 2005: “Năm 1997: 101.833 triệu đồng, năm 1998: 133.552 triệu đồng, năm 1999: 143.843 triệu đồng, năm 2000: 183.671 triệu đồng, năm 2005: 387.511 triệu đồng” [21, tr. 296]. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Bắc Ninh nói riêng đã đòi hỏi đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh để nhanh chóng đưa trình độ kỹ thuật, công nghệ lên trình độ tiên tiến, hiện đại, khôi phục, phát triển và khai thác có hiệu quả các ngành, nghề trong nền kinh tế. Trong bối cảnh đó phát triển đào tạo sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu đa dạng về NNL cho nền sản xuất xã hội, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm và tự tạo việc làm của người lao động. Trong nhiều năm qua hoạt động đào tạo NNL ở tỉnh Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu đáng kể sau đây: 2.3.1.1. Giáo dục phổ thông, số lượng và chất lượng được nâng cao. Tính đến nay hệ thống trường, lớp được xây dựng rộng khắp trong toàn tỉnh, đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân với các loại hình công lập, ngoài công lập, phương thức chính qui và không chính qui. Bắc Ninh là tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ thông cơ sở. Trong toàn tỉnh có 312 trường phổ thông(trong đó có 30 trường THPT), với 223.535 học sinh, trong đó học sinh THPT là 47.238 học sinh. Tính bình quân cứ một vạn dân có 2.263 học sinh. Năm học 2004-2005 toàn tỉnh có 223.528 học sinh tốt nghiệp các cấp, riêng THPT có 47.231 học sinh. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 99%, chất lượng giáo dục được cải thiện, số học sinh giỏi của tỉnh hằng năm đều tăng, qua các khối.(Xem bảng 2.4). Bảng 2.4. Tỷ lệ học sinh giỏi trong giáo dục phổ thông ở Bắc Ninh. Đơn vị tính: % Năm học Khối Tỷ lệ học sinh giỏi 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 Khối tiểu học 16,6 22,43 33,47 33 Khối THCS 7,1 10,19 14,76 18,9 Khèi THPH 1,66 2,41 3,01 3,51 Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh năm 2005[22]. Số học sinh giỏi THPT 2001-2005 đạt giải quốc gia: Năm học 2001-2002 có 51 em; 2002-2003 có 50 em; 2003-2004 có 41 em, 2004-2005 có 38 em, trong đó có một học sinh đạt huy chương bạc quốc tế năm 2001. Số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng hằng năm ngày càng tăng: năm học 2001-2002 có 2.739 em, 2002-2003 có 2.913 em, 2003-2004 có 3.422 em, 2004-2005 có 3.917 em. Hầu hết các trường THCS và THPT đều tổ chức cho học sinh được học nghề (95%). Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục có nhiều chuyển biến, xoá bỏ hoàn toàn lớp học tranh tre và tình trạng học 3 ca. 2.3.1.2. Thực trạng đào tạo đại học, cao đẳng, THCN và dạy nghề. -Kết quả những năm gần đây điều tra cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động ở Bắc Ninh.(Xem bảng 2.5): Bảng 2.5.Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005. Đơn vị tính: % Thời gian Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2005 Không có chuyên môn kỹ thuật 92,96 90,40 90,40 88,23 67,11 Trình độ sơ cấp và CNKT không bằng 1,88 4,07 3,27 4,05 19,02 CNKT có bằng 1,13 1,59 1,78 2,40 4,14 Trung học chuyên nghiệp 2,64 2,43 2,50 2,71 5,54 Cao đẳng và đại học trở lên 1,39 1,51 2,05 2,61 4,19 Tổng số 100 100 100 100 100 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh năm 2005 [17] . Như vậy, số người chưa được đào tạo nghề còn rất cao chiếm 67,11% lực lượng lao động của tỉnh. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất thấp: 32,89% (năm 2005) và qua các năm tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyển biến rất chậm, năm 1997 là 7,04%, năm 1998: 9,60%, năm 1999: 9,60%, năm 2000: 11,77%, năm 2005 là:32,89% .. Chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật của tỉnh còn nhiều bất cập. Lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Chưa được đào tạo đủ trình độ quy định, năng lực thích ứng với việc làm trong nền kinh tế chuyển đổi còn yếu. Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật còn thấp, cơ cấu đào tạo mất cân đối với nhu cầu sử dụng. Xét trong tổng số lao động chuyên môn kỹ thuật năm 2005 của tỉnh, cơ cấu như sau: sơ cấp và CNKT không bằng: 19,03%; CNKT có bằng: 4,14%, cao đẳng và đại học trở lên: 4,19%. Tính gộp cả sơ cấp, CNKT không bằng và có bằng là một bậc để so sánh với bậc THCN và bậc cao đẳng, đại học (kể cả sau đại học), cơ cấu đào tạo CNKT/THCN/ cao đẳng, đại học là 2,4/1/1; nghĩa là ứng với 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học thì có 1 lao động trình độ THCN và 2,4 lao động trình độ sơ cấp, CNKT. So với các nước có mức GDP bình quân đầu người từ 200-300 USD là 7/2/1 thì thấy cơ cấu lao động chuyên môn kỹ thuật của tỉnh hiện nay là bất hợp lý. Sự bất hợp lý này có nguyên nhân bắt nguồn từ sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo của tỉnh trong thời gian vừa qua. Ngoài ra, nguyên nhân khách quan của tình trạng này là do 88,78% dân cư và 87% lực lượng lao động ở tỉnh đang làm việc trên địa bàn nông thôn, nơi mà công việc lao động sản xuất chưa đặt ra yêu cầu bức xúc về đào tạo nghề; chỉ có 29,69% người lao động ở nông thôn đã trải qua đào tạo nghề nghiệp, trong khi đó con số này ở thành thị là 52,88%. Trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, tỷ lệ CNKT còn thấp, chỉ có dưới 5% so với toàn bộ lực lượng lao động của tỉnh. Điều đáng lưu ý là trong đó hơn một nửa CNKT tuy đã được đào tạo nhưng không có bằng. Rõ ràng, đào tạo nghề đang là vấn đề bức xúc đối với lực lượng lao động không chỉ ở nông thôn mà ở cả thành thị. Hệ thống màng lưới các cơ sở đào tạo đã được hình thành và ngày càng mở rộng. Tính đến năm 2005, trên địa bàn tỉnh có 4 trường cao đẳng và đại học, 9 trường trung cấp của trung ương và của tỉnh, 3 trung tâm giới thiệu việc làm cùng với 103 cơ sở dạy nghề và truyền nghề của cá nhân và tập thể mỗi năm có thể dạy nghề cho khoảng 5.000 người. Trong 62 làng nghề, có 30 làng nghề truyền thống, 32 làng nghề mới. Làng nghề hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Kết quả điều tra lao động việc làm ở Bắc Ninh năm 2005 cho thấy: Người lao động được kèm cặp, truyền nghề là 121.430 người chiếm 23,25%. Số người lao động được đào tạo đang làm việc trong các ngành kinh tế là: trong công nghiệp-xây dựng: 152.086 người chiếm 29,12%; số lao động trong ngành, nông nghiệp: 252.262 người chiếm 48,29%; số lao động trong ngành dịch vụ: 118.020 người, chiếm 22,59%. - Tỷ lệ lao động được đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh gần bằng mức bình quân chung của cả nước. Số lao động chưa qua đào tạo đang hoạt động trong các ngành kinh tế là 67,37%. -Cơ sở dạy nghề do tỉnh quản lý: Trường công nhân kỹ thuật Bắc Ninh, ngành nghề đào tạo gồm: Nhóm nghề điện: điện lạnh, điện XN, vận hành bơm điện, quản lý thuỷ nông, máy nổ, xe máy, nhóm nghề cơ khí: Gò, hàn, tiện, nguội sơ chế, may công nghiệp: Năng lực đào tạo: 450 học sinh/năm, trung bình có 200 học sinh hệ dài hạn (bậc 3/7) và khoảng 100 học sinh hệ ngắn hạn (2/7). Đội ngũ giáo viên 32 người, trong đó Đại học 11, cao đẳng 8, trung cấp 4; công nhân 9. Tỉ lệ học sinh ra trường hàng năm ổn định ở mức 90%. Trung tâm giới thiệu việc làm có nhiệm vụ: Tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động, đào tạo nghề ngắn hạn cho các đơn vị sử dụng lao động. Năng lực đào tạo 200 người/năm. Ngành nghề đào tạo: May công nghiệp, tin học, ngoại ngữ, sửa chữa xe máy. Tỷ lệ học sinh qua đào tạo: 100%. Các cơ sở dạy nghề tư nhân: Toàn tỉnh có: 97 cơ sở. Ngành nghề đào tạo chủ yếu: May, điện tử, tin học, mộc dân dụng, mỹ nghệ, cắt tóc, làm đầu...vv. Năng lực đào tạo: từ 300 đến 350 người/năm. Các cơ sở dạy nghề của Trung ương, quân đội đóng trên địa bàn tỉnh: Trường công nhân xây dựng thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn có quy mô đào tạo: 600 học sinh/năm, trong đó học sinh Bắc Ninh là 200, nghề đào tạo: Nề, điều khiển máy cẩu, máy xúc, kỹ nghệ sắt xây dựng, điện dân dụng, cống thoát nước, mộc dân dụng. Trường trung học Thuỷ sản: Quy mô đào tạo 200 học sinh/năm (riêng Bắc Ninh 100 học sinh/năm), nghề đào tạo: Công nhân nuôi trồng thủy sản, hải sản. Trường quản lý kinh tế công nghiệp Từ Sơn: có quy mô đào tạo: 80 - 100 học sinh/năm, số học sinh Bắc Ninh: 80-100 học sinh. Trung tâm dịch vụ việc làm Quân khu I:có quy mô đào tạo 300 học sinh, số học sinh ở Bắc Ninh chiếm 80%, nghề đào tạo: Lái xe, sửa chữa ô tô. Như vậy, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, Bắc Ninh phấn đấu đến năm 2015 thành tỉnh công nghiệp, thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành kinh tế quốc dân đặt ra nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác dạy nghề. 2.3.2. Thực trạng sử dụng NNL. Tổng số lao động trong độ tuổi ở Bắc Ninh chiếm 60,84% dân số. Trong gần 607.417 người có 85,99% lao động tham gia hoạt động kinh tế. Phần lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn. Trong số lao động tham gia hoạt động kinh tế có 48,29% lao động làm nông nghiệp. Riêng khu vực nông thôn có 75,11% lao động làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. 2.3.2.1. Về tình hình thu hút và phân bố sử dụng lao động. Số lao động đang làm việc được phân theo các ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-2005. (Xem bảng 2.6): Bảng 2.6. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005. Đơn vị tính: Người Số TT Ngành Năm 1997 1998 1999 2005 Toàn tỉnh 50.1533 50.4041 51.6803 522.368 I Khu vực sản xuất 468.441 468.381 479.763 404.348 1 Nông-lâm nghiệp 431.420 431.796 431.251 247.279 2 Thuỷ sản 170 240 451 4.983 3 Công nghiệp khai mỏ 305 315 317 1.159 4 Công nghiệp chế biến 31.392 30.861 42.197 106.670 5 Sản xuất phân phối điện, nước 331 506 487 1.612 6 Xây dựng 4.823 4.663 5.060 42.645 II Khu vực dịch vụ 33.092 35.660 37.040 118.020 1 Thương nghiệp 7.629 8.434 8.731 56.473 2 Khách sạn, nhà hàng 1.857 1.996 2.111 8.007 3 Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 5.649 6.252 6.296 14.396 4 Tài chính, tín dụng 923 913 962 2.471 5 Hoạt động khoa học, công nghệ 9 10 22 30 6 Hoạt động liên quan kinh doanh tài sản 1.367 7 Quản lý nhà nước và an ninh, quốc phòng 3.103 3.150 3.446 7.302 8 Giáo dục-Đào tạo 9.617 10.357 10.758 17.247 9 Y tế và hoạt động cứu trợ 3.150 3.294 3.379 3.746 10 Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao 199 212 214 566 11 Hoạt động Đảng, đoàn thể 872 963 1.008 2.436 12 Hoạt động khác 84 79 113 3.979 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh[2, tr.28-29]. Qua bảng trên ta thấy năm 2005, lao động làm việc trong khu vực sản xuất chiếm 77%, trong khu vực dịch vụ chiếm 23 %. Trong đó cơ cấu lao động được sử dụng trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 48,29%, trong công nghiệp và xây dựng chiếm 29,12%, trong dịch vụ chiếm 22,59%. -Sử dụng lao động trong ngành công nghiệp: số lao động trong ngành công nghiệp tăng dần lên từ năm 1997 đến năm 2005. Năm 1997: 36.851 người; năm 2000: 59.201 người; năm 2005: 152.086 người. Trong tổng số lao động công nghiệp trên địa bàn số lao động thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm phần rất nhỏ năm 2005 có: 3.954 người. Nếu xem xét theo thành phần kinh tế, trong số lao động công nghiệp thuộc khu vực kinh tế trong nước năm 2005 thì lao động thuộc kinh tế nhà nước là:9.503 ngư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS02.docx
Tài liệu liên quan