Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam

Tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam: Mở đầu 1.Tính cần thiết của đề tài Đề tài nghiên cứu là cần thiết, bất cứ quốc gia nào muốn trở nên thịnh vượng thì đều phải dựa vào con người; vì con người là một yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Mặc dù ngày nay các phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại đã thay thế phần lớn sức lao động của con người nhưng chính con người đã sáng tạo và sử dụng chúng. Một đất nước giàu mạnh, công bằng và ổn định dựa trên cơ sở tự vững mạn của từng địa phương. Mỗi địa phương ở nước ta có những đặc điểm về địa lý, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau nhưng đều có chung một nguồn nhân lực dồi dào cần phải tạo việc làm và sử dụng hợp lý để khai thác có hiệu quả nguồn lực đó. Mặc dầu tiềm năng nguồn nhân lực ở mỗi địa phương là rất to lớn song nhưng năm qua mức độ khai thác, tạo việc làm sử dụng hợp lý còn bị hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi vậy mỗi địa phương cần phải xuất phát từ những đặc điểm, tình hình của địa phương mình, khai thác tiềm năng sẵn có tạo việ...

doc68 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 988 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1.Tính cần thiết của đề tài Đề tài nghiên cứu là cần thiết, bất cứ quốc gia nào muốn trở nên thịnh vượng thì đều phải dựa vào con người; vì con người là một yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Mặc dù ngày nay các phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại đã thay thế phần lớn sức lao động của con người nhưng chính con người đã sáng tạo và sử dụng chúng. Một đất nước giàu mạnh, công bằng và ổn định dựa trên cơ sở tự vững mạn của từng địa phương. Mỗi địa phương ở nước ta có những đặc điểm về địa lý, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau nhưng đều có chung một nguồn nhân lực dồi dào cần phải tạo việc làm và sử dụng hợp lý để khai thác có hiệu quả nguồn lực đó. Mặc dầu tiềm năng nguồn nhân lực ở mỗi địa phương là rất to lớn song nhưng năm qua mức độ khai thác, tạo việc làm sử dụng hợp lý còn bị hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi vậy mỗi địa phương cần phải xuất phát từ những đặc điểm, tình hình của địa phương mình, khai thác tiềm năng sẵn có tạo việc làm, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực để phát triển kinh tế-xã hội góp phần chung vào sự phát triển đất nước. Thanh Liêm là một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, có vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế-xã hội rất trọng yếu. Với tiềm năng lao động to lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-tỉnh Hà Nam ” hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc khai thác,sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương tôi và cả nước ta. 2.Mục đích nghiên cứu của đề tài - Góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm để phát triển kinh tế-xã hội nói chung và ở đơn vị hành chính cấp huyện nói riêng. - Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm. - Phân tích thực trạng và yêu cầu giải quyết việc làm ở huyện Thanh Liêm trong những năm qua và nhưng năm sắp tới. - Đưa ra quan điểm mới về tạo việc làm, kiến nghị một số giải pháp để tạo việc làm cho người lao động. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu vấn đề tạo việc làm ở huyện Thanh Liêm bao gồm cả các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế. - Đề tài không đi sâu vào từng việc là cụ thể nhưng chỉ ra các điều kiện cần thiết để tạo những việc làm cho từng ngành, từng địa phương trong huyện. Đồng thời lựa chọn những loại hình công việc cho toàn khu vực mang tính truyền thống và quan điểm, quan niệm đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường. - Việc nghiên cứu của đề tài sử dụng những tư liệu thực tế của những năm gần đây và đưa ra những phương hướng, giải pháp cho những năm tới. 4. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Dùng phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp. - Dùng phương pháp hệ thống và phương pháp chuyên gia. 5. Nguồn số liệu - Đề tài sử dụng các số liệu lấy từ các báo cáo tổng hợp về tình hình lao động và việc làm Phòng Tổ chức Lao động-Thương binh và xã hội Huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam. - Các tài liệu nghiên cứu thống kê lấy từ Phòng thống kê Huyện Thanh Liêm. - Các văn bản có liên quan lấy từ Văn phòng UBND Huyện. - Các điều tra lao động-việc làm của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và của Việt Nam những năn gần đây. 6. Những đóng góp của đề tài Đề tài xuất phát từ quan điểm: Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo, công bằng, bình đẳng, hoà hợp dân tộc để có một sự phát triển bền vững là xu thế của thời đại. Từ đó tạo việc làm cho người lao động là mối quan tâm của tất cả các quốc gia đặc biệt là với Việt Nam-là một trong những nước kinh tế chậm phát triển, dân số đông ra khỏi tình trạng tụt hậu. Qua phân tích, đánh giá tình hình thực trạng đề tài cho rằng phải xác định tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng ngành ở từng giai đoạn để khai thác có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất. Để có kết quả to lớn,toàn cục thì phải đi từ cái riêng lẻ từng vùng, từng ngành.... 7. Cấu trúc của đề tài - Tên đề tài : “ Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-tỉnh Hà nam ”. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương: Chương I : Sự cần thiết của tạo việc làm đối với người lao động. Chương II : Thực trạng giải quyết việc làm ở Thanh Liêm trong những năm qua. Chương III : Một số kiến nghị để tạo việc làm cho người lao động ở Thanh Liêm trong những năm tới. chương I Sự cần thiết của vấn đề tạo việc làm đối với người lao động I.Con người-mục tiêu và động lực của sự phát triển Những thành tựu của quá trình đổi mới đã đưa nước ta thoát ra khỏi khung kinh tế-xã hội kéo dài trong nhiều năm qua. Chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển, đó là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, dần thu hẹp khoảng cách về phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu cao cả là: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để đạt được điều đó chúng ta cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh, dựa trên những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và trong một tình hình chính trị ổn định. Nhận thức về sự phát triển kinh tế-xã hội trong thế giới hiện đại đã có những bước tiến đáng kể. Vấn đề trung tâm của thời đại chúng ta là vấn đề con người, là sự tham gia của con người vào sự phát triển, con người là yếu tố chủ thể quyết định sự phát triển bởi con người luôn là yếu tố cơ bản của bất cứ hình thái kinh tế-xã hội nào. Một trong những vấn đề cơ bản nhất là phát triển nguồn nhân lực,coi đây là đỉnh cao,là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát triển. Tư tưởng chỉ đạo này đã được Đại hội Đảng VIII khẳng định : " Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là vì con người và do con người. Để phát triển con người toàn diện và phát huy tối đa năng lực của họ. Từ quan điểm, mục tiêu trên được thể hiện tư tưởng cơ bản như sau: - Đặt con người vào mục tiêu phát triển hay gọi là chiến lược con người. - Khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc trong việc làm giầu cho mình và cho đất nước. - Coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, gắn bó lợi ích mỗi người với từng tập thể và toàn xã hội. - Mọi người được tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp. - Nguồn nhân lực Việt Nam là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội. Đây là một lợi thế và là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội vì: Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào và tăng lên rất nhanh, đây vừa là lợi thế ( nếu chúng ta biết khai thác những mặt tích cực ) đồng thời cũng là những lực cản về đời sống và việc làm ( nếu chúng ta không biết khai thác sử dụng có hiệu quả sẽ gây nên những hậu quả khó lường ). Về đặc điểm con người Việt Nam *Ưu điểm: - Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, có khả năng sáng tạo, nắm bắt nhanh khoa học tiến bộ và công nghệ mới. - Con người Việt Nam có nhiều năng khiếu, nhanh nhạy với cơ chế thị trường. - Con người Việt Nam chịu khó, chịu đựng gian khổ, ham học hỏi, có bản lĩnh, có lòng nhân ái vị tha, bao dung và sống tình cảm. * Nhược điểm: - Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam bị hạn chế, vì thế độ dẻo dai trong lao động, học tập...yếu kém do chất lượng cuộc sống thấp. - Kiến thức tay nghề còn mang nhiều thói quen lạc hậu ảnh hưởng của cơ chế cũ. - Sự phối hợp, tính tập thể, đồng đội, tính nguyên tắc, kỷ luật của con người Việt Nam trong lao động sản xuất còn kém. Phải phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm thì nguồn lực con người Việt Nam mới trở thành thế mạnh của đất nước. Đó cũng chính là mục tiêu, động lực trong quá trình phát triển đất nước ta. Muốn khai thác và phát huy đầy đủ khả năng to lớn nguồn nhân lực, tạo việc làm để phát triển kinh tế xã hội chúng ta cần làm rõ khái niệm liên quan đến lao động, việc làm. II Các khái niệm về lao động-việc làm 1. Khái niệm về lao động Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người vì nó tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động với năng xuất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Do vậy, điều 55 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi nhận: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân ”. Việc làm cho lao động xã hội là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Tạo thêm việc làm cho lao động xã hội là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010, đã được toàn thế giới cam kết trong tuyên bố và chương trình hành động toàn cầu tại thủ đô Co-pen-ha-ghen của Đan Mạch vào tháng 3/1995. Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên quan tâm thực hiện. Để có thể đề ra được một chính sách việc làm đúng đắn, trước hết phải làm rõ khái niệm về việc làm. Điều 13 Bộ luật lao động quy định: " Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”. Như vậy để có việc làm không chỉ vào cơ quan Nhà nước,trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà còn tại gia đình, do chính bản thân người lao động tạo ra để có thu nhập. Nói chung, bất cứ nghề nàoviệc gì cần thiết cho xã hội, mang lại thu nhập cho người lao động và không bị pháp luật ngăn cấm thì đó là việc làm. Tạo việc làm theo nghĩa rộng bao gồm những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động, đến việc tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động mà mình đã tạo ra. Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. 2. Khái niệm lao động, việc làm được vận dụng ở nước ta * Việc làm - Điều 13 Bộ luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm ”. Khái niệm về lao động và việc làm được vận dụng ở nước ta: - Người có việc làm là những người làm việc trong những ngành nghề đang hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Theo đó, nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho mọi người. + Theo khái niệm này thì thị trường việc làm được mở rộng rất lớn bao gồm tất cả các hoạt động lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. + Người lao động được tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê mướn sức lao động theo pháp luật và hướng dẫn của Nhà nước. Khái niệm này được thể chế theo các chỉ tiêu quản lý Nhà nước và thống nhất trong các cuộc điều tra trong phạm vi toàn quốc. - Việc làm là hoạt động được thể hiện ở một trong ba nội dung sau: + Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho công việc đó. + Làm công việc thu lợi nhuận cho bản thân. + Làm công việc cho gia đình mình. - Việc làm chính, việc làm phụ: + Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác. + Việc làm phụ là công việc của người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. * Dân số hoạt động kinh tế - Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. - Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 đến 60 tuổi , nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi ) đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. - Dân số có việc làm thường xuyên gồm những người thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua có tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng 183 ngày. * Dân số không hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế là vì các lý do: - Đang đi học; - Hiện đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình; - Già cả, ốm đau; - Tàn tật hoặc không có khả năng lao động; - Hoặc ở vào tình trạng khác. Tuỳ theo tình trạng việc làm, dân số hoạt động kinh tế được chia thành 2 loại: người có việc làm và người thất nghiệp. - Người có việc làm là những người từ dủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước đó tính đến thời điểm điều tra: + Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật. + Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình. + Đã có công việc trước đó song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ việc. - Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc: + Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động tìm việc trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi không được. + Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8h, muốn tìm thêm nhưng không tìm được việc. III. Sự cần thiết tạo việc làm Tạo việc làm cho người lao động là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm thu hút sử dụng người lao động vào những hoạt động hữu ích cho người lao động, cho xã hội. Trên cơ sở phân công lao động xã hội ngày càng hợp lý và hoàn thiện theo các mục tiêu đã định. Tạo việc làm, sử dụng tối đa có hiệu quả các nguồn lao động không thể đặt riêng rẽ tách rời việc lựa chọn mô hình tăng trưởng phát triển kinh tế. Một nền kinh tế " nhân bản " là nền kinh tế có tốc độ phát triển kinh tế cao, ổn định trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong đó có việc làm cho người lao động. Nền kinh tế " nhân bản " đó là nền kinh tế mà chúng ta đang hướng tới. 1.Việc làm là nhu cầu của cuộc sống Việc làm đó là những hoạt động có ích, tạo ra thu nhập cho người lao động và cho xã hội. * Nhu cầu khách quan của người lao động Về cơ bản nhu cầu của con người gồm hai loại : Đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. - Về mặt vật chất theo C.Mác : " Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, do đó cũng là của mọi lịch sử,tiền đề đó là người ta phải có thể sống đã mới có thể tạo ra " lịch sử ". Nhưng muốn sống trước hết phải có ăn, uống,mặc ,ở và một vài thứ khác nữa. Vậy thì hành động lịch sử đầu tiên là sự sản xuất ra những tư liệu thoả mãn những nhu cầu đó, sự sản xuất ra bản thân đời sống vật chất và đấy chính là một hành động lịch sử, một hành động lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử...". Từ thuở khai thiên lập địa con người đã ý thức được rằng: Để tồn tại con người phải đấu tranh với thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, tức là phải tham gia lao động. Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người tăng lên trong khi điều kiện thiên nhiên ngày càng khan hiếm, thì nhu cầu được lao động, tham gia sản xuất ngày càng lớn. - Về mặt tinh thần : Lao động đã sáng tạo ra con người, hoàn thiện con người, nhờ có lao động mà con được hoàn thiện như ngày nay. Bên cạnh nhu cầu vật chất thì nhu cầu về tinh thần (văn hoá, nghệ thuật , mong muốn được kính trọng...) cũng không kém phần quan trọng. Khi mà xã hội càng phát triển thì nhu cầu này ngày càng được chú trọng. Điều đó chỉ được đáp ứng khi con người tham gia vào lao động một cách tự nguyện và nhiệt tình để phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo của mình. * Nhu cầu chủ quan của xã hội Lao động đã sáng tạo ra con người và xã hội loài người, bất kỳ quốc gia nào cũng có nhu cầu sử dụng lao động để khai thác tài nguyên thiên nhiên phát triển kinh tế đất nước. Người lao động là nguồn lực quan trọng, là một trong các nhân tố cơ bản để sản xuất và phát triển. Sự phát triển chỉ có thể ổn định khi giải quyết tốt vấn đề xã hội trong đó có việc làm cho người lao động. Vì vậy có thể nói việc làm là vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của người lao động và toàn xã hội. 2. Việc làm có mối quan hệ mâu thuẫn với sự phát triển kinh tế -xã hội - Sự phát triển kinh tế được biểu hiện ở chỗ sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chỉ tiêu này được biểu hiện sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội, sự tăng lên này phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là thời gian lao động và hiệu quả của lao động. Ta có công thức sau đây : TSF = T.W Trong đó: TSF : Tổng sản phẩm xã hội. T : Thời gian lao động (người, ngày công, giờ công). W : Hiệu quả của lao động (NSLĐ). Như vậy muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi người đều có việc làm đầy đủ (đạt đến mức độ toàn dụng lao động); mặt khác phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Chính vì vậy, việc làm được coi là giải pháp có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. - Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện cho người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống, mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội càng văn minh hơn. - Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ, tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình và góp phần xây dựng đất nước. 3. Việc làm là một "gánh nặng" của xã hội Trong xã hội thì sự gia tăng dân số luôn gắn với sự gia tăng nguồn lao động. ở những nước chậm phát triển thì khả năng tạo thêm việc làm hiện nay bất cập với tốc độ gia tăng chưa từng thấy của nguồn lao động. Đây là một thách thức lớn đối với nhiều quốc gia. Dân số tăng nhanh, nguồn lao động tăng nhanh đang làm mất cân đối giữa lao động và việc làm gây nên các tệ nạn xã hội và tội phạm ngày một gia tăng. Điều này trở thành lực cản của sự phát triển ở các quốc gia, nó ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia, an ninh khu vực và thế giới. Con người sinh ra và lớn lên cùng với các hoạt động lao động của mình, là nguồn gốc của sự phát triển xã hội. Yếu tố chính, yếu tố chủ yếu quy định quá trình biến đổi và phát triển sản xuất chính là lao động sáng tạo của con người. Chính vì thế nếu không tạo điều kiện cũng như việc không đáp ứng nhu cầu lao động của con người thì đồng nghĩa với việc kìm hãm quá trình biến đổi và phát triển sản xuất. Có việc làm, có thu nhập thì nhu cầu tối thiểu ăn, ở, mặc, học hành... sẽ được đảm bảo. Ngược lại nếu không có việc làm thì các nhu cầu đó không được đáp ứng và vì nó mà con người có thể sẵn sàng tàn phá thiên nhiên, huỷ hoại môi trường bất chấp luật lệ, thuần phong mỹ tục mà chính họ tạo dựng nên. Tình trạng thất nghiệp, không có việc làm sinh ra trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút...và còn có thể dẫn tới hoạt động tội phạm có tổ chức với quy mô lớn rất nguy hiểm cho xã hội. Mặt khác thì thất nghiệp cũng là một nguyên nhân thúc đẩy di dân làm biến dạng sự phân bố dân cư giữa các khu vực khác nhau trong một quốc gia và cả giữa các quốc gia. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng từ nông thôn đổ ra thành thị, từ miền núi xuống miền xuôi, từ trong nước ra nước ngoài, từ các nước chậm phát triển sang các nước phát triển vượt quá sự kiểm soát của Chính phủ quốc gia. ở nông thôn sau mùa vụ, ở nhà máy công xưởng không có việc làm, mọi người tranh thủ nhàn rỗi tràn ra thị trường buôn bán kiếm lời bất chấp sự quản lý của Nhà nước, họ sẵn sàng mua tranh bán cướp của nhau. Các " chợ người " hàng quán mọc lên, rồi thì cạnh tranh giành giật nhau xảy ra làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn thị trường, ách tắc giao thông, mất mỹ quan đô thị... Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VIII trong mục phân tích khuyết điểm và yếu kém có nhận định: " Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hoá giầu nghèo giữa các vùng, giữa các đô thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một số bộ phận nhân dân nhất là một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn..." Điều đó có thể nói lên việc giải quyết các vấn đề xã hội của ta trong còn hạn chế, vấn đề việc làm thích hợp cho các tầng lớp dân cư chưa được giải quyết thoả đáng. Nếu không có chính sách thích hợp thì đây sẽ là một gánh nặng , một lực cản đất nước. 4. Việc làm với đổi mới cơ cấu kinh tế Quan điểm phát triển kinh tế thị trường cùng với việc thực hiện phân công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một cơ cấu kinh tế thật phù hợp. Muốn tạo dược nhiều việc làm theo quan điểm mới chúng ta phải nắm bắt được định hướng của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ( CNH-HĐH ) đất nước . Khi tiến hành CNH-HĐH đất nước thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế ( năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 34-35 % GDP ); thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân gắn với sự đổi mới căn bản về công nghệ tiến bộ, tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của nền kinh tế quốc dân. Chúng ta đều biết rằng tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng một phần còn do việc hình thành và phát triển thị trường lao động chưa phù hợp với cấu trúc mới của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Do đó tạo việc làm cho người lao động đáp ứng với những việc làm đa dạng, phù hợp với cơ cấu kinh tế mới ngay từ khâu đào tạo, bồi dưỡng hướng nghiệp đến tổ chức nơi làm việc...cần phải nắm bắt các cơ hội đi tắt, đón đầu hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới. Tạo việc làm tập trung vào những khâu cần thiết và có thể thực hiện có hiệu quả các công nghệ tiên tiến đồng thời vận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống, nhằm tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và ổn định. Lấy mục tiêu CNH-HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế , giữ được ổn định chính trị xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. IV. Những nguyên nhân gây sức ép và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác tạo việc làm 1. Những nguyên nhân gây sức ép với vấn đề tạo việc làm ở Việt Nam tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng tăng do một số đặc điểm : - Dân số nước ta đông ( ằ 80 triệu người ) và tăng nhanh ( ằ 2%/năm ) dẫn đến nguồn lao động tăng ở mức cao ( ằ 3,4-3,7 % / năm ) vì thế nhu cầu về việc làm cũng tăng lên một cách tương ứng. - Những năm trước đây do tác động của cơ chế quản lý " Tập trung quan liêu , bao cấp ", Nhà nước hầu như phải tự đứng ra bảo đảm việc làm cho người lao động. Vì thế việc làm chỉ bó hẹp trong khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, không tính toán đến nhu cầu và hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng lao động xã hội đã dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ( bị che khuất ) trong công nghiệp và trong nông nghiệp hiện nay. - Hiện nay chúng ta đang tiến hành đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, tinh giảm bộ máy quản lý... nên số lao động dôi ra là rất lớn. - Số lao động chưa có việc làm đại bộ phận là thanh niên và chưa được đào tạo kỹ thuật chuyên môn. ở nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và gần 72 % nguồn lao động của cả nước nhưng có cơ cấu kinh tế và lao động còn lạc hậu, kinh tế hàng hoá còn ở trình độ thấp chủ yếu là tự cung, tự cấp và thuần nông, do đó nạn thiếu việc làm rất phổ biến nhất là vào thời kỳ nông nhàn. - Tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm chưa được khai thác và phát triển, chưa gắn lao động với tiềm năng đất đai với tài nguyên thiên nhiên. - Nguồn vốn trong dân còn rất lớn nhưng chưa được huy động hợp lý, nếu biết huy động, khai thác khả năng tạo ra việc làm từ nguồn vốn này là rất đáng kể. 2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác tạo việc làm Phương hướng có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục giải phóng triệt để tiềm năng sức lao động phù hợp với hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật theo tinh thần đổi mới. Hình thành và phát triển thị trường lao động, đa dạng hoá các hình thức sản xuất kinh doanh tạo ra những khả năng to lớn để tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Vấn đề lớn, cơ bản trong đổi mới toàn bộ hệ thống quản lý lao động và giải quyết việc làm ở nước ta theo những đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động là phải tổ chức toàn bộ lao động xã hội, tạo một đội ngũ lao động có cơ cấu số lượng và chất lượng phù hợp với cấu trúc kinh tế mới. Tổ chức hoạt động của thị trường lao động, tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, phổ cập cho lao động xã hội trước hết là cho lao động trẻ những kiến thức cơ bản về công việc. Thực hiện phương châm dân tự lo việc làm trong các thành phần kinh tế là chính, khắc phục tâm lý ỷ lại trông chờ vào Nhà nước. Nhà nước có vai trò trong việc tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho người lao động ở mọi khu vực có việc làm và việc làm có hiệu quả. Nhà nước phải quan tâm đến toàn bộ lực lượng lao động xã hội, phải soạn thảo chế độ chính sách và cơ chế quản lý không chỉ trong khu vực kinh tế Nhà nước mà còn trong toàn xã hội. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho mọi người lao động, tạo điều kiện cho họ được bình đẳng trong việc tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, bình đẳng trong việc hưởng những thành quả lao động của mình. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức và khuyến khích mọi người lao động các cấp các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội tạo nhiều việc làm có hiệu quả. Tác động của Nhà nước thông qua các chính sách cụ thể như chính sách đầu tư qua tín dụng và dịch vụ sản xuất đa dạng có nhiều kênh. Nhà nước có vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nguồn vốn cho người lao động, chỉ đạo hệ thông ngân hàng kinh doanh tiền tệ hướng vào việc " tạo việc làm " để thực hiện cho vay. Kêu gọi và tranh thủ các tổ chức quốc tế đầu tư vào cho vay theo chương trình dự án kinh tế ở Việt Nam, khuyến khích mọi thành viên, mọi tổ chức xã hội trong cộng đồng góp vốn góp các nguồn lực khác vào công cuộc tạo việc làm. Nhà nước Trung ương cũng như chính quyền các cấp, các ngành kinh tế, kỹ thuật phải tổng kết các mô hình việc làm thích hợp, có hiệu quả để nhân ra diện rộng nhằm mục tiêu thay đổi cơ cấu lao động hiện nay đặc biệt là ở nông thôn. Nhà nước có vai trò chủ yếu trong việc tổ chức mạng lưới thông tin thị trường lao động, phổ biến mô hình, khuyến khích các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể phát huy mạnh mạng lưới môi giới và dịch vụ việc làm giúp cho người lao động có những thông tin cần thiết nhằm nhanh chóng tạo được công ăn việc làm. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo tay nghề cho người lao động, tổ chức mạng lưới dạy nghề rộng khắp để đào tạo mới, đào tạo lại nghề cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt Nhà nước cần quan tâm đến việc nâng cao năng lực quản lý cho những nhà doanh nghiệp về vốn, thiết bị, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều chỗ làm việc mới và ổn định. Đẩy mạnh " Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo việc làm " Trong những năm qua các nhà kinh tế Việt nam bằng nhiều giải pháp ( chiến lược, kế hoạch, chính sách , tổ chức ) để tạo ra nhiều công việc làm trong nền kinh tế, sử dụng tối đa và có hiệu quả các nguồn nhân lực. Tạo việc làm cho người lao động vẫn đang là nhiệm vụ kinh tế-chính trị-xã hội cấp bách ở nước ta hiện nay. chương ii thực trạng giải quyết việc làm ở huyện thanh liêm trong những năm qua i. về điều kiện tự nhiên Huyện Thanh Liêm được hình thành từ rất sớm trong lịch sử.Tên của Huyện đã có từ đời nhà Trần gọi là : " Thanh Liêm Huyện " đến năm Gia Long thứ 7 thì Nhà Nguyễn đặt : " Thanh Liêm phân phủ ". Về Nguyễn Triều vào đời Gia Long thuộc Hà Nội Trấn, đến đời Vua Minh Mạng thành Trấn Lâm Tỉnh, Huyện Thanh Liêm thuộc Phủ Lý Nhân-Tỉnh Hà Nội.Từ năm Thành Thái Nhi niên ( 1890 ) ngày 20-10-1890 thực dân Pháp cắt một phần đất thuộc hai Tỉnh Hà Nội và Nam Định lập ra Tỉnh Hà Nam trong đó có Huyện Thanh Liêm. Toàn Huyên lỵ Thanh Liêm suốt thời kỳ thực dân Pháp đặt trong khu vực thị xã Hà Nam cho đến nay. Huyện Thanh Liêm, bắc giáp Huyện Duy Tiên, Huyện Kim Bảng , nam giáp Huyện ý Yên - Tỉnh Nam Định và Huyện Gia Viễn - Tỉnh Ninh Bình, đông giáp Huyện Bình Lục, tây giáp Huyện Lạc Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình . Huyện thuộc Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đất đai được phân bổ thành 2 miền, miền đồng bằng Ô Trúng chiếm phần lớn và một phần nhỏ là nửa đồi núi. Dân số là 132198 người trong đó có 9500 người theo đạo Thiên Chúa giáo, chiếm 7,18% dân số phân bố rải rác trên các xã và thị trấn ở phía Bắc huyện . Giữa Huyện có dãy đồi đất dài 10,5 km , dãy núi đá 99 ngọn nằm ở phía Tây giữa Thanh Liêm và Huyện Lạc Thuỷ ( Hoà Bình ) trải dài 20 km. Đường quốc lộ 1A chạy qua Huyện từ bắt đầu Huyện cho đến cuối Huyện dài 19 km , đường 21A song song với đường xe lửa từ bắc Huyện xuống chéo đông nam Huyện dài 8km. Sông Đáy xuôi dòng từ bắc Huyện xuống nam Huyện 20 km bám gần đường 1A và có con sông Châu Giang gần như bao bọc quanh Huyện chạy dài 30 km. Phía Bắc Huyện là thị xã Phủ Lý là tỉnh lỵ của Tỉnh Hà Nam, là trung tâm văn hoá - kinh tế - chính trị là đầu mối giao thông thuận tiện cho giao lưu và phương tiện chuyển vận. Khí hậu : Thanh Liêm nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng rõ rệt của gió mùa châu á. Hình thành hai mùa : mùa khô ( từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) và mùa mưa ( từ tháng 5 đến tháng 10 ), nhiệt độ trung bình hàng năm 23,7°C, nhiệt độ thấp tuyệt đối trong năm 5,1°C, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối trong năm 39°C. Số giờ nắng trong năm trung bình là 1690 giờ, lượng mưa trung bình một năm là 1790 mm, độ ẩm tương đối trung bình một năm là 87%. Nhiệt độ nói chung rất thích hợp cho việc trồng cây nông nghiệp nhiệt đới. Đất đai : Tổng diện tích của Huyện là 15336,14 ha trong đó đất sử dụng vào nông nghiệp là 11684,10 ha ( 76,18% ) trong đó đất trồng cây hàng năm là 10064,9 ha, đất trồng cây lâu năm ( vườn ) 720,8 ha, đất trồng cỏ đang dùng cho chăn nuôi 11,2 ha; đất có mặt nước đang dùng vào sản xuất nông nghiệp là 887,20 ha. + Đất chuyên dùng là : 2145,56 ha ( 13,99% ). + Đất thổ cư : 802,35 ha ( 5,32 % ). + Đất chưa sản xuất : 704,13 ha ( 4,60 % ). Huyện Thanh Liêm bao gồm 20 xã và một thị trấn với dân số 132.198 người trong đó nam là 63926 người, chiếm 48,36 % so với tổng số, nữ là 68.272 người, chiếm 51,64 % .( Số liệu năm 2002 ). ii. thực trạng lao động - việc làm ở huyện thanh liêm qua các số liệu tổng hợp 1. Quy mô nhân khẩu và lao động hộ gia đình ở Huyện Thanh Liêm những năm qua 1.1 Quy mô nhân khẩu hộ gia đình Tính đến thời điểm điều tra 1-10-2002 thì số nhân khẩu thực tế thường trú của hộ gia đình ở Thanh Liêm là 132.198 người trong đó nữ chiếm 51,64% tương ứng với 68.272 người . ở khu vực thành thị có 8833 người chiếm 6,68 % so với cả Huyện; tỷ lệ nữ ở thành thị là 50,19 % (4434 người) . ở khu vực nông thôn có 123365 người chiếm 93,32 % so với cả Huyện; tỷ lệ nữ ở khu vực nông thôn là 51,74 %.Trong khi đó thì trên quy mô toàn quốc các số liệu cho thấy ở khu vực thành thị có 17918185 người chiếm 23,47 % và ở nông thôn có 58409700 người chiếm 76,53 % so với cả nước. Có sự chênh lệch lớn như thế này cho thấy một điều rằng Thanh Liêm là một vùng quê nông thôn thuần tuý với số nhân khẩu trong khu vực nông thôn chiếm đa số và nền kinh tế chủ yếu là dựa vào sản xuất nông nghiệp với cây lúa nước làm chủ đạo. Toàn Huyện có 32968 hộ dân, bình quân chung thì mỗi hộ có 4,01 người thấp hơn mức bình quân chung của cả nước ( 4,45 người/ hộ gia đình ) Chung trong toàn Huyện thì tổng số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên là 85928 người chiếm 65,60 % dân số ; số nhân khẩu trong độ tuổi lao động ( nam từ đủ 15-60 tuổi , nữ từ đủ 15-55 tuổi ) là 78269 người chiếm 59,21 % dân số . So với năm 2000 thì các tỷ lệ này đều ra tăng khoảng trên 1 % . ở khu vực thành thị, số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên chiếm 67,73% dân số ở khu vực này và số nhân khẩu trong độ tuổi lao động chiếm 61,78 % dân số . ở khu vực nông thôn, số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên chiếm 64,80% dân số . Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động chiếm 59,02% dân số nhỉnh hơn một chút so với cả nước ( 57,43% ). 1.2 Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên trong năm qua 1.2.1 Quy mô của lực lượng lao động Chung cả Huyện có 71706 người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên trong năm qua tính đến thời điểm điều tra (1-10-2002). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thường xuyên của dân số từ đủ 15 trở lên là 54,24 % . Tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động nói chung của cả Huyện là 53,39% ở khu vực thành thị là 53,32% và ở khu vực nông thôn là 53,40%. Nhìn chung ta thấy ở Thanh Liêm sự chênh lệch gữa tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn là không nhiều và sự cân đối giữa lao động nữ và lao động nam luôn có sự nhỉnh hơn về số lao động nữ . Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên ở khu vực thành thị là 61,37% (năm 1998 là 63,69% và năm 2000 là 62,46%); ở khu vực nông thôn là 64,45% (năm 1998 là 66,71% và năm 2000 là 65,66%). Chung cả Huyện cũng như ở mỗi khu vực thành thị, nông thôn tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên năm 2002 đều giảm so với năm 2000 và 1998). Nếu so sánh với tỷ lệ này trên cả nước ( ở thành thị là 62,38% và ở nông thôn là 74,20% - số liệu năm 1999) thì thấy một điều bất cập rất rõ là tỷ lệ này ở Thanh Liêm là rất thấp, biểu hiện bằng số người trong độ tuổi lao động có việc làm thường xuyên chiếm tỷ lệ chưa cao trong toàn bộ dân số . 1.2.2 Cơ cấu lực lượng lao động thường xuyên chia theo nhóm tuổi Tính đến ngày 1/10/2002, lực lượng lao động của toàn Huyện ở nhóm tuổi 15-24 có 24999 người chiếm 18,91% lực lượng lao động nói chung; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 25-34 có 16987 người, chiếm 12,85% ; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 35-44 có 22923 người, chiếm 17,34%; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 45-54 có 11792 người, chiếm 8,92 %; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 55-59 có 3520 người, chiếm 2,66 % và lực lượng lao động ở tuổi 60 trở lên có 5709 người, chiếm 4,32 %. Nếu chia theo ba nhóm: lực lượng lao động trẻ ( 15-34 tuổi ), lực lượng lao động trung niên ( 35-54 tuổi ) và lực lượng lao động cao tuổi ( 55 tuổi trở lên ) thì năm 2002- nhóm lực lượng lao động trẻ có 41986 người, chiếm 31,76 % so với tổng số; nhóm lực lượng lao động trung niên có 34715 người, chiếm 26,26 % và nhóm lực lượng cao tuổi có 9229 người, chiếm 6,98 % so với tổng số . Tính bình quân hàng năm giai đoạn 1998-2002 lực lượng lao động trẻ của cả Huyện giảm 1,39 % với mức giảm tuyệt đối là gần 600 người/năm; lực lượng lao động cao tuổi giảm 4,01 % với mức giảm tuyệt đối là 370,08 người và lực lượng lao động trung niên tăng 6,31% với mức tăng tuyệt đối là 2190,5 người . Kết quả điều tra lao động - việc làm thời gian gần đây cho thấy sự biến động về cơ cấu lực lượng lao động cả nước nói chung và Huyện Thanh Liêm nói riêng chia theo các nhóm tuổi đã diễn ra theo một xu hướng rõ rệt là: nhóm lực lượng lao động trung niên ngày một gia tăng nhanh cả về tương đối và tuyệt đối, nhóm lực lượng lao động trẻ và lao động cao tuổi ngày một giảm ; trong đó nhóm cao tuổi giảm nhanh hơn cả về quy mô và tốc độ. Do các nguyên nhân về kinh tế- xã hội các năm gần đây và các chính sách về dân số -kế hoạch hoá gia đình của Việt Nam và khả năng xu hướng này vẫn còn tiếp tục trong một vài năm sắp tới. 1.2.3 Trình độ học vấn của lực lượng lao động thường xuyên Nhìn chung trong cả nước thì trình độ học vấn của lực lượng lao động thường xuyên ngày càng được nâng cao. Biểu hiện rõ rệt là tỷ lệ số người chưa biết chữ và số chưa tốt nghiệp cấp I không ngừng giảm. ở Thanh Liêm năm 1996 tỷ lệ này là 13,35 %, năm 2000 là 9,01% và năm 2002 là 7,63%. Bình quân hàng năm giảm 3,52% với mức giảm tuyệt đối là 2524,05 người. Đồng thời thì số người đã tốt nghiệp cấp II và cấp III cũng không ngừng tăng trong đó tăng nhanh nhất cả về quy mô và tốc độ là số người tốt nghiệp cấp III. Hiện nay ở Thanh Liêm có 336 người trong 71706 người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên là chưa biết chữ, chiếm 0,47% so với tổng số; số người chưa tốt nghiệp cấp I là 5136 người, chiếm 7,16%; số người đã tốt nghiệp cấp I là 12336 người, chiếm 17,20%; số người đã tốt nghiệp cấp II là 46922, chiếm 65,44%; số người đã tốt nghiệp cấp III là 6976 người, chiếm 9,73% so với tổng số. Theo số liệu thống kê thì lớp học cao nhất đã qua tính bình quân 1 người trong số người trong lực lượng lao động là lớp 8/12, thấp hơn mức bình quân của vùng đồng bằng sông Hồng (8,7/12) và cao hơn mức bình quân chung của cả nước (7,4/12). Năm 1998 số người tốt nghiệp cấp III là 5019 người, chiếm 6,37%; năm 2000 là 6291 người, chiếm 7,98 % so tổng số . Bình quân hàng năm số người tốt nghiệp cấp III trong tổng lực lượng lao động tăng 4,9 % với mức tăng tuyệt đối là 342,5 người/năm . Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn như đã nêu trên sẽ tạo thêm không ít thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động trong những năm tới . Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn cũng diễn ra theo chiều hướng tương tự, nhưng vẫn còn đang ở điểm xuất phát thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Hiện nay tỷ lệ người chưa tốt nghiệp cấp I chiếm trong lực lượng lao động của khu vực nông thôn vẫn còn tới 7,11% ( ở thành thị của Thanh Liêm là 6,87% ); trong khi tỷ lệ người đã tốt nghiệp cấp III mới chỉ đạt 9,8 % 9 ở thành thị là 8,7 %) có sự khác biệt này ( tỷ lệ này ở thành thị không cao hơn thậm chí thấp hơn) là do Thanh Liêm thuộc vùng nông thôn đặc thù và sự phân biệt giữa nông thôn và thành thị là không đáng kể và tỷ lệ này vẫn còn rất thấp so với các khu vực khác cũng như trên phạm vi cả nước. Do vậy, nếu không có những chính sách và giải pháp hỗ trợ tích cực, đồng bộ và có hiệu quả để tăng nhanh số lượng và tỷ lệ lao động có trình độ học vấn tốt nghiệp cấp II/cấp III; kết hợp vừa đào tạo nghề vừa nâng cao trình độ học vấn cho lao động nông thôn thì khó có thể thực hiện được các mục tiêu gia tăng về số lượng và chất lượng lao động có trình độ chuyên môn để đáp ứng kịp nhu cầu về đội ngũ nhân lực phục vụ sự nghiệp tiếp tục đổi mới và phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá . 1.2.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động thường xuyên Huyện Thanh Liêm tính đến 1/10/2002 có 9393 người thuộc lực lượng lao động thường xuyên có trình độ chuyên môn kỹ thuật ( bao gồm công nhân, sơ cấp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và đại học trở lên ) chiếm 13,1 % so với tổng số; so với năm 1998 tăng bình quân hàng năm 5,1 % với mức tăng tuyệt đối 258,64 người. Cụ thể là: trong tổng số 71706 người thuộc lực lượng lao động thường xuyên có đến 62313 người không có chuyên môn kỹ thuật, chiếm tới 86,9 % tổng số; số lao động kỹ thuật đào tạo từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên là 5088 người, chiếm 7,09 %. Trong đó tăng mạnh nhất cả về quy mô và tốc độ là lao động có trình độ từ trung học chuyên nghiệp trở lên, bình quân hàng năm tăng thêm gần 1000 người, tiếp đến là công nhân kỹ thuật ( bao gồm cả có bằng và không có bằng ): 436 người, tuy nhiên trong 6 huyện/thị xã của Hà Nam thì Thanh Liêm là nơi có tỷ lệ lao động được ở trình độ công nhân kỹ thuật có bằng trơ lên thấp nhất ( 13,1% ) , cao nhất là thị xã Phủ Lý ( 28,26% ), các huyện khác trong tỉnh tỷ lệ này đều ở mức trên 14% . 2. Quy mô và cơ cấu lao động của lực lượng lao động có việc làm thường xuyên trong năm qua (2002) 2.1 Quy mô của lực lượng lao động có việc làm thường xuyên Chung toàn Huyện, số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên trong 12 tháng qua ( tính đến ngày 1/10/2002) là 69388 người, chiếm 96,76% dân số hoạt động kinh tế thường xuyên; trong độ tuổi lao động có 66162 người, chiếm 92,27 %; số người từ đủ 15 tuổi trở lên không có việc làm thường xuyên là 2318 người, chiếm 3,23%; số người trong tuổi lao động mà không có việc làm là 1365 người, chiếm 1,90 %. Nhìn chung qua các số liệu thống kê qua 12 tháng này thì tỷ lệ người thuộc lực lượng lao động có việc làm thường xuyên là khá cao ( cao hơn tỷ lệ chung của cả nước là 2% ) . 2.2 Cơ cấu lao động của lực lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành kinh tế Đánh giá cơ cấu lao động căn cứ vào hoạt động thường xuyên chia theo nhóm ngành: Nông nghiệp ( bao gồm nông, lâm và ngư nghiệp ) - công nghiệp và xây dựng - dịch vụ . Năm 2002 cả Huyện Thanh Liêm có 55746 người làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, chiếm 80,34 % so với tổng số; số người làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng là 6259 người, chiếm 9,02% và số người làm việc trong nhóm ngành dịch vụ là 7383 người, chiếm 10,64%. Hiện nay Thanh Liêm chính là huyện có số lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất trong số 5 huyện của tỉnh Hà Nam . Bảng 1 - Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế (Đơn vị %) Năm Nhóm ngành 1996 1998 2002 Nông , lâm , ngư nghiệp . 88,51 86,27 80,34 Công nghiệp và xây dựng . 7,03 7,84 9,02 Dịch vụ . 4,46 5,89 10,64 Tổng 100 100 100 ( Nguồn : Phòng Thống kê Thanh Liêm ) Qua bảng trên ta thấy trong giai đoạn 1998-2002 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm nhanh nhưng vẫn còn quá cao so với mức bình quân của cả nước, trong khi đó thì ở 2 nhóm ngành còn lại đã thấy một dấu hiệu tích cực hơn đó là mức tăng của tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Như vậy có thể thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ở Thanh Liêm giai đoạn 1998-2002 vẫn còn chậm, chỉ có tỷ trọng lao động trong nông nghiệp có sự chuyển biến đáng kể còn trong công nghiệp và dịch vụ thì sụ chuyển biến còn quá chậm. Đây là vấn đề cần phải khắc phục . 3. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên ở Thanh Liêm Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực nông thôn Thanh Liêm trong năm vừa qua đã tăng so với năm 2000. Tính chung ở cả huyện đã tăng từ 69,24 % năm 2000 lên 75,43 % năm 2002, mức tăng, giảm là tương đối đồng đều trên toàn địa bàn. Thanh Liêm là 1 trong 2 huyện/thị xã có tỷ lệ đạt cao hơn 75% ( là mức chỉ tiêu do Đại hội VIII của Đảng đề ra ).Tỷ lệ thời gian được sử dụng ở khu vực nông thôn đối với số lao động có hoạt động kinh tế chính trong năm qua là trồng trọt, Thanh Liêm đạt tỷ lệ 60,5 %, tăng thêm được gần 7% so với năm 2000 thể hiện khá rõ kết quả và hiệu quả của việc đầu tư nâng cấp hệ thống kênh mương đã được quan tâm thực hiện trong mấy năm gần đây. Với tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt động kinh tế chính là trồng trọt, Thanh Liêm là một trong các huyện / thị xã đứng đầu trong toàn tỉnh. Tuy nhiên tỷ lệ này của cả nước là 68,01 % và của Đồng bằng sông Hồng là 64,13%, còn cao hơn mức mà địa phương đã đạt khá nhiều, đòi hỏi phải có sự phấn đấu và nỗ lực trong các năm tiếp theo . Tiền lương/tiền công bình quân tháng trả cho 1 lao động ( không kể thu nhập từ bên ngoài ) của số lao động làm công ăn lương tính chung toàn huyện là 420.813 đồng. Nhóm ngành có mức tiền lương/tiền công cao nhất là ngành giáo dục và đào tạo (481.384 đồng); tiếp đến là tài chính - tín dụng (476040 đồng) và thấp nhất là nhóm ngành nông nghiệp và lâm nghiệp (285839 đồng). Chênh lệch giữa nhóm ngành có mức tiền lương, tiền công cao nhất so với nhóm ngành thấp nhất là 1,70 lần, so với mức tiền lương, tiền công bình quân chung của huyện là 1,14 lần . 4. Tình hình thất nghiệp của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế ở khu vực thành thị năm 2002 là 7,11% và 6,98% với dân số từ 15 tuổi trở lên . Tỷ lệ thất nghiệp cao bởi vì số người thất nghiệp hay thiếu việc làm là rất lớn và đây là một vấn đề cần sớm được quan tâm giải quyết . Thực tế được quan sát qua bảng sau : Bảng 2 - Số người từ đủ 15 tuổi trở lên HĐKT thường xuyên thiếu việc làm ở Thanh Liêm năm 2002 - (Chia theo nhóm tuổi) Nhóm tuổi 15-24 25-34 35-44 45-54 55-59 ³ 60 Số người 11726 9624 10605 6629 1682 668 Nguồn : Thực trạng lao động việc làm Hà Nam 2002 Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động hoạt động kinh tế trong 7 ngày qua ở khu vực thành thị chia theo tình trạng việc làm: Số người đủ việc làm là 62,78% ( trong đó nữ là 64,97% ); số người thiếu việc làm là 33,05% ( nữ là 32,46% ) và số người thất nghiệp là 4,17% ( nữ là 2,57% ). So với năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động toàn huyện đã giảm được 0,81 % cao hơn mức giảm của cả nước ( 0,3% ).Tuy vậy nhưng có thể thấy tình trạng thất nghiệp ở địa phương vẫn còn đang là vấn đề hết sức bức xúc, bởi tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động vẫn còn quá cao ( 7,11% ); trong tổng số lao động đang thất nghiệp có tới gần 60% là đối tượng đã thất nghiệp từ 12 tháng trở lên ( thất nghiệp dài hạn ); lao động ở nhóm 15-24 tuổi, tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức rất cao (17,56% ) đã, đang và sẽ tiếp tục làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp cần được quan tâm nghiên cứu, giải quyết đồng bộ có hiệu quả trong chiến lược giải quyết việc làm ở những năm tới . III . tình hình phát triển sản xuất và giải quyết việc làm , thu hút lao động ở Thanh liêm trong những năm gần đây (1996-2002) 1-Kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội 1.1. Về nông nghiệp Thắng lợi nổi bật là mục tiêu phát triển nông nghiệp, bình quân sản xuất lương thực 1999-2002 tăng 25% so với bình quân 1993-1998. Từ mức sản xuất lương thực đã nâng bình quân lương thực đầu người từ 440kg/người/năm 1993-1998 lên 550kg/người/năm tăng 110 kg, riêng năm 2002 là 581kg/người/năm tăng 21 kg so với năm 2001. Sản lượng lương thực đạt 78820 tấn trong đó thóc 78158 tấn; sản lượng ngô 652 tấn ; Đi đôi với sản xuất nông nghiệp thì chăn nuôi cũng đạt khá, năm 2002 bình quân một hộ nuôi 1,8 con lợn (56773,8 con) so với năm 1998 bình quân một hộ là 1,4 con ( tức là 51157,4 con ) tăng 5616,4 con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 4000 tấn; sản lượng thuỷ sản 599 tấn. Do liên tiếp được mùa trong những năm gần đây mà đàn gia cầm cũng phát triển mạnh. Đàn trâu, bò giữ vững và phát triển tăng hơn các năm trong kế hoạch. Từ đó cho bình quân một nhân khẩu trong năm đạt 41kg thịt, trong đó riêng thịt lợn là 27 kg tăng 5kg/người so với năm 1998. 1.2. Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Tổng giá trị sản lượng công nghiệp và xây dựng cơ bản 2002 đạt 71.000 triệu đồng (theo giá cố định 2000 ) so với năm 1998 đạt 49.000 triệu đồng là một thành công không nhỏ. Tuy nhiên giá trị sản lượng trong công nghiệp chủ yếu là của ngành xây dựng ( 67 % ). Bình quân một người sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 130.000 đ/người/tháng-một con số quá khiêm tốn so với bình quân của cả nước. 1.3. Về dân số và giáo dục Tỷ lệ dân số không giảm mà vẫn tăng 0,09 % so với bình quân 1993-1998 dẫn đến mật độ dân số trung bình hàng năm đều tăng. Hiện nay mật độ dân số của Huyện là 1126 người/km2 tăng 97 người so với năm 1998 dẫn đến bình quân ruộng đất nông nghiệp giảm từ 776 người/km2 xuống 743 người/km2. Giáo dục được phát triển, bình quân người đi học trên tổng dân số mỗi năm đều tăng, từ 280 học sinh/1000 dân năm 1993-1998 lên 318 học sinh/1000 dân năm 1999-2002 tăng 38 học sinh. Trong đó học sinh phổ thông chiếm 74,6 % năm 1998 lên 76,9 % năm 2002. Tỷ lệ huy động các cháu vào nhà trẻ hàng năm đạt trên 90% số cháu trong độ tuổi. Chất lượng thi lên lớp, thi tốt nghiệp năm học 2001-2002 là khá cao: Tốt nghiệp tiểu học đạt 99,5 %; trung học cơ sở 99,7 %; phổ thông trung học 89% và phổ thông dân lập 76% . 1.4. Về đời sống nhân dân Tỷ lệ người giàu ngày một gia tăng, tỷ lệ hộ đói nghèo từ 6% năm 1998 xuống còn 3,7 % năm 2002. Tỷ lệ hộ có nhà kiên cố từ 23 % năm 1998 lên tới 35% năm 2002. Tỷ lệ nhà tạm 13 % năm 1998 nay chỉ còn hơn 4%. Tỷ lệ hộ dùng nước sạch và các công trình vệ sinh từ 73% năm 1998 lên 89% năm 2002. Số người được khám chữa bệnh hàng năm đều tăng từ 200.000 lượt người năm 1998 nay lên trên 230.000 lượt người tăng 30.000 lượt người/năm và cứ bình quân 1000 người dân thì có 2,3 thày thuốc. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được đẩy mạnh: triển khai thực hiện chương trình quốc gia về y tế, phòng chống dịch bệnh. Đẩy mạnh việc thanh toán các bệnh xã hội như lao , sốt rét , phong rối loạn do thiếu I ốt ... Phòng chống HIV/AIDS , tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt 99,5% , uống vitamin A, hạ tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng từ 29,7% xuống còn 27,5%. Chú trọng y tế cơ sở, công suất giường bệnh tuyến huyện đạt 113 %. Mức sống của những người lao động được tăng từ 2161 ngàn đồng năm 1997 lên 2310 ngàn đồng năm 1998 và hiện nay là 2637 ngàn đồng. Tỷ lệ hưởng thụ văn hoá tuy lượt người xem chiếu bóng và văn hoá nghệ thuật tập trung tại các bãi, rạp có giảm song mức hưởng thụ các hình thức này tại gia đình ngày một nâng cao. Biểu hiện ở số hộ có ti vi và đài từ 26% bình quân năm 1993 lên 76% năm 1998 và nay đã là 91 %. Tóm lại : Trong những năm qua tuy kết quả nhiều mặt đạt khá song kinh tế vẫn còn nhiều mặt đạt thấp và hạn chế. Đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trong cao; trong nông nghiệp thì cơ cấu cây trồng và vật nuôi chưa được thay đổi, trình độ tiếp thu khoa học công nghệ vào nông nghiệp chưa đồng đều dẫn đến kết quả sản xuất và thu nhập có sự chênh lệch. Ngành nghề thủ công tuy có mức thu nhập cao song chưa có hướng dẫn và tổ chức của các cấp dẫn đến thu nhập không ổn định ( Ren , thêu...) tốc độ dân số còn phát triển ở mức cao. Song với đường lối đổi mới, sự tiếp thụ và năng động của Đảng và Chính quyền Huyện nhà với truyền thống cần cù sáng tạo, đoàn kết của quần chúng nhân dân Huyện Thanh Liêm quyết tâm thực hiện được mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 2 . Tình hình giải quyết việc làm trong các ngành kinh tế của Thanh Liêm trong những năm qua Với số dân 132198 người (2002); 32968 hộ gia đình; số lao động trong độ tuổi chiếm 54,24 % dân số tức là 71706 người. Cân đối lao động bình quân thời kỳ 1998-2003(mới tính được đến 2002) trên địa bàn huyện cho thấy hàng năm số lao động chưa có việc làm từ 7,2 nghìn đến 9,2 nghìn. Trong đó không kể số học sinh trong độ tuổi lao động đang đi học thì số lao động cần giải quyết việc làm từ 5,8 - 6,3 nghìn lao động . Về kinh tế, Thanh Liêm là một huyện nông nghiệp với 94,7 dân số sống ở nông thôn và 80,34 số lao động của cả huyện hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Từ khi mở cửa nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, cơ cấu GDP theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế tuy đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản và sản xuất dịch vụ song tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn còn rất cao . Bảng 3 - Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế của Thanh Liêm so với Hà Nam và cả nước năm 2000 ( Đơn vị : %) Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế Thanh Liêm Hà Nam Cả nước Nông nghiệp 63,3 55,2 41,4 Công nghiệp & Xây dựng 15,4 19,9 33,1 Dịch vụ 21,3 24,9 25,5 (Số liệu do Phòng Thống kê Thanh Liêm cung cấp) Từ số liệu của bảng trên, ta thấy GDP trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất cao (63,3%). Điều này chứng tỏ trong 20 ngành kinh tế trên địa bàn huyện mà sản lượng gần 2/3 giá trị thuộc về sản xuất nông nghiệp, điều đó chứng tỏ đây thực sự là một nền kinh tế nông nghiệp nông thôn, kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, chi phối và tác động nhiều mặt có liên quan đến việc giải quyết và tạo việc làm cho người lao động. Trong điều kiện "dư thừa" lao động tương đối, ruộng đất bình quân nhân khẩu thấp, công nghiệp nói chung chưa phát triển. Trong nông nghiệp tỷ trọng giữa trồng trọt và chăn nuôi ít thay đổi (75% là trồng trọt), trong trồng trọt chủ yếu là trồng lúa, chiếm tỷ trọng 91,93% trong tổng giá trị trồng trọt. Trong điều kiện và "hoàn cảnh" như vậy thì Thanh Liêm cũng đã và đang có những bước đi cho riêng mình, qua những gì mà ta đã thấy sơ lược thì có thể nói địa phương cũng đã đạt được những kết quả tương đối khả quan. Vậy vấn đề giải quyết việc làm của Thanh Liêm đã, đang và sẽ như thế nào để có thể thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế- chính trị-xã hội được giao? Kinh nghiệm của các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp hoá trong khu vực cho thấy chiến lược giải quyết việc làm cho lao động xã hội chủ yếu có hai hình thức : Một là : Phát triển sản xuất theo chiều rộng để tạo ra nhiều việc làm mới trong khuôn khổ nền kinh tế , tiến hành đồng thời với việc phát triển sản xuất theo chiều sâu của những ngành sản xuất, với những dây chuyền công nghệ, những cơ sở sản xuất với những ngành kinh tế có sẵn ở địa phương . Hai là : Sử dụng ngay chính nguồn vốn lao động để tạo ra vốn tích luỹ từ nước ngoài bằng hình thức hợp tác lao động . Tuy nhiên dù áp dụng theo hình thức nào cũng cần phải xét đến yếu tố nội lực hay tiềm năng để có thể khai thác, dử dụng có hiệu quả mục đích giải quyết việc làm cho người lao động . Nhìn một cách tổng quát thì lao động ở Thanh Liêm được phân bố chủ yếu vào các ngành: Nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. 2.1 Tạo việc làm với phát triển sản xuất nông thôn-nông nghiệp ở Thanh Liêm Kể từ khi chuyển sang cơ chế mới, cơ cấu kinh tế của Thanh Liêm đã có sự chuyển dịch nhất định. Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu của huyện bởi nó là ngành kinh tế tạo ra nhiều giá trị sản xuất nhất (63% GDP) và thu hút nhiều lao động nhất (80,34%). Bảng 4 - Số lượng và tỷ lệ lao động nông nghiệp Thanh Liêm (Đơn vị : người ) Năm Lực lượng lao động 1999 2002 - Tổng số lao động . 67492 71706 - Lao động có việc làm . 60138 65131 - Lao động nông nghiệp . 56879 57608 - Tỷ lệ lao động nông nghiệp ( %) . 84,2 80,34 ( Số liệu từ điều tra lao động việc làm Hà Nam 1998 và 2000 ) Là một huyện nông nghiệp thì đa số lao động là lao động nông nghiệp là một điều hiển nhiên nhưng sự tiếp tục gia tăng về tỷ trọng lao động trong nông nghiệp để đạt tới 80,34 % là quá cao và như vậy thì sự dư thừa tương đối lao động trong lao động nông nghiệp là điều không tránh khỏi. Đây là điều bất hợp lý cần được giải quyết khi mà nước ta dang trên con đường CNH-HĐH nền kinh tế . Trong khu vực nông nghiệp nông thôn chưa có việc làm cần phải giải quyết hiện nay từ 7 nghìn đến gần 9 nghìn người và con số này có xu hướng ngày một tăng . Lao động tăng nhanh trong khi đó đất nông nghiệp lại có xu hướng giảm dần làm cho sự cân đối giữa đất đai và lao động trở nên gay gắt hơn. Để từng bước giải quyết khó khăn này thì Thanh Liêm đã có chủ trương, biện pháp tích cực để phân bố lại dân cư, lao động cho phù hợp với điều kiện mới. Một mặt thực hiện việc chuyển dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Lâm Đồng, miền Nam, miền núi phía Bắc ... mặt khác tận dụng các vùng đất còn hoang hoá chưa được khai thác triệt để và phát triển mạnh mẽ các ngành nghề nông nghiệp ở nông thôn, thực hiện đa dạng hoá nông nghiệp. Trước đây trong "khoán 10" hộ nông dân được giao ruộng đất lâu dài, họ chủ động điều hành công việc đồng áng, cân đối đất với người và từ đó điều chỉnh lực lượng lao động, dùng lực lượng thoả đáng để phát triển các ngành nghề và dịch vụ vào đời sống. Nhờ đó mà năng xuất và sản lượng lúa tăng nhanh trong những năm qua mà một nguyên nhân quan trọng là nông dân đã tăng cường đầu tư lao động và áp dụng kỹ thuật tiên tiến. Kết quả điều tra khoán sản phẩm cho thấy : Mức đầu tư lao động tính trên 1ha lúa hiện nay gấp 2 lần so với thời kỳ sản xuất tập thể, cá biệt có hộ tăng lên gấp 3 lần . Tuy lao động sống đầu tư cho lúa nặng nhưng lao động nông thôn vẫn dư thừa rất nhiều nhất là vào các dịp nông nhàn. Vì vậy trong những năm qua cùng với thâm canh lúa, phong trào tăng vụ nhất là cây vụ đông , mở rộng chăn nuôi gia đình : lợn, gà, cá ...và trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp thực tiễn theo mô hình VAC phát triển mạnh . Quá trình phân công lại lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp đang hình thành theo hướng giảm trồng trọt nhất là trồng lúa, tăng chăn nuôi kể cả gia súc, gia cầm và thuỷ sản. Sự điều chỉnh này chưa đều giữa các xã trong huyện , đó là mới đáng được quan tâm. Xu hướng độc canh cây lúa nặng nề trong nhiều năm qua đang được từng bước điều chỉnh, mọi người dân đều biết rằng trồng lúa giỏi lắm là đủ ăn, còn muốn làm giầu trên ruộng đất của mình thì cần phải trồng cây công nghiệp, chăn nuôi và phát triển ngành nghề . Trong cơ chế quản lý cũ, lao động nông nghiệp Thanh Liêm cũng như lao động nông nghiệp ở nhiều địa phương khác trong cả nước được chuyên môn hoá một cách máy móc theo hình thức các đội chuyên môn nên kỹ năng tổng hợp bị hạn chế. Cơ chế mới đã mở đường giải phóng sức lao động và tạo điều kiện cho người lao động phát huy khả năng sẵn có khai thác triệt để mọi tiềm năng để phát triển. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà nước từ huyện đến xã đều được bố trí lại, các chuyên gia kinh tế nông nghiệp được bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cấp xã, thôn được đặc biệt quan tâm bởi chính họ là đội ngũ trực tiếp quản ly, điều hành lực lượng lao động trực tiếp. Với người lao động nông nghiệp thì việc phổ biến và áp dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp thường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, khoa học nông nghiệp ở địa phương ...truyền tải kiến thức đến người lao động một cách cập nhật và có hiệu quả. Cơ sở vật chất phục vụ nông nghiệp tiếp tục được tăng cường, mở rộng không ngừng nâng cao chất lượng theo hướng thiết thực, hiệu quả không phô trương hình thức. Tư liệu sản xuất nông nghiệp phần lớn chuyển từ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể sang sở hữu tư nhân, hộ gia đình với tư cách là chủ sở hữu và chủ thể sản xuất ở nông thôn, các hộ gia đình tự mua sắm thêm trâu, bò, nông cụ và cả máy móc phục vụ sản xuất.Theo số liệu điều tra nông thôn nông nghiệp mới đây thì cứ 100 ha gieo trồng có 0,49 máy kéo, 0,78 máy động lực, 0,87 máy bơm nước, 0,71 trạm bơm điện . Trong khi đó thì ruộng đất bình quân đầu người ở Thanh Liêm vốn đã thấp lại giảm dần theo thời gian do dân số tiếp tục tăng thêm nhưng đất đai thì không thêm được mấy . Bảng 5 - Bình quân đất nông nghiệp ở Thanh Liêm Đất nông nghiệp bình quân 1996 2001 2002 - Một hộ nông nghiệp ( ha) 0,330 0,314 0,312 - Một khẩu nông nghiệp (m2) 790 651 611 - Một lao động nông nghiệp (m2) 2491 2328 1880 Nguồn: Phòng thống kê huyện Thanh Liêm. Với bình quân ruộng đất thấp như vậy, xu hướng lại giảm dần nên muôn thuở giữa dân số, lao động và việc làm ngày càng trở nên mâu thuẫn gay gắt . Hiện nay trung bình một năm 1 lao động nông nghiệp mới chỉ làm được 0,21 ha diện tích gieo trồng, điều này quá thấp so với khu vực và trên thế giới, người lao động không làm việc hết năng lực của mình. Nếu người lao động làm việc thực sự thì lượng lao động còn dư thừa là rất lớn, theo tính toán của các nhà khoa học nông nghiệp thì thời gian lao động thực tế của lao động trong điều kiện hiện nay của Thanh Liêm chỉ sử dụng hết hơn 50% thời gian, thời gian còn lại là nhàn rỗi. Như vậy thực tế lao động còn dư thừa trong nông nghiệp chiếm khoảng 26.000 người. Với số lao động dư thừa và tăng lên hàng năm thì dù thâm canh tăng vụ đến mức nào đi nữa thì quan hệ cung cầu lao động cũng rất căng thẳng. Sức ép dân số dẫn đến lao động thất nghiệp ngày một tăng, khó khăn về việc làm ở nông thôn ngày càng lớn. Đó là một thực tế đãn và đang hạn chế những kết quả và tiến bộ của quá trình xây dựng và phát triển ở Thanh Liêm . Thực hiện chủ trương giao quyền sở hữu đất lâu dài cho hộ nông dân, tuy đã có kết quả song ở nhiều vùng đã có những việc làm không đúng như tổ chức cưới chạy ruộng, tranh chấp đất đai ... thêm vào đó tình hình sử dụng diện tích dành cho xây dựng cơ bản, thổ cư cũng tăng nhanh làm mất đi sự cân đối giữa đất và người ở nông thôn, vấn đề đã nghiêm trọng càng trở nên nghiêm trọng . Trong nông nghiệp thì tỷ trọng của ngành chăn nuôi chiếm 24,5 % giá trị sản lượng nông nghiệp nhưng lao động làm trong ngành này rất ít ( 10,5% lao động nông nghiệp ) còn chủ yếu là sử dụng lao động phụ, tranh thủ thời gian rỗi. Tâm lý của người dân chưa coi chăn nuôi là ngành kinh tế chính, trong khi chính quyền nhà nước chưa có các biện pháp khuyến khích để phát triển ngành này cho xứng đáng với tiềm năng của nó. Cho nên vấn đề thu hút lao động vào chăn nuôi còn bị hạn chế, cần được khắc phục trong thời gian tới để đạt tới mức cân bằng trong nông nghiệp . 2.2 Việc làm trong phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Thanh Liêm Xem xét tốc độ phát triển dân số và lao động trên địa bàn, tốc độ tăng dân số nông thôn cao hơn thành thị do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan; mặt khác lao động thành thị thiếu việc làm, người về hưu, mất sức ... có xu hướng về nông thôn, bổ xung cho sản xuất nông nghiệp nông thôn nguồn lao động đáng kể làm cho số lao động thiếu việc làm ở nông thôn lại tăng lên. Đó là nguyên nhân chính, trực tiếp làm chậm sự phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và gây khó khăn cho việc phân bố lực lượng sản xuất ở nông thôn. Một nguyên nhân khác là nông nghiệp và dịch vụ ở địa phương những không có khả năng thu hút lao động dư thừa ở nông thôn mà còn có xu hướng đẩy lao động dư thừa phi nông nghiệp sang công nghiệp . Xu hướng lao động nông nghiệp tăng ở trong huyện, trong đó lao động trồng trọt là chủ yếu và tăng cả về số lượng và tỷ trọng, lao động chăn nuôi hiện nay chiếm tỷ trọng đáng kể nhưng chủ yếu là lao động phụ hoặc tận dụng thời gian nông nhàn của các hộ gia đình nông thôn. Nuôi cá nước ngọt cũng chỉ mang tính chất nghề phụ của nông dân, sản xuất kiểu tự cung tự cấp nên chưa thành nghề thu hút được lao động . Xét về cơ cấu của lao động công nghiệp trong ngành kinh tế quốc dân gồm 3480 người chiếm 5,3 % trong tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế và giá trị sản lượng công nghiệp chiếm tỷ trọng không cao (15,4% GDP bao gồm xây dựng 10,8 %, tiểu thủ công nghiệp 4,8% ) trong nền kinh tế. Thanh Liêm vốn là nơi có nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp : sản xuất vật liệu xây dựng ( gạch, ngói, vôi ...), chế biến ... cũng đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể vào các hoạt động này. Song nếu so với năm 1997 thì số lao động công nghiệp của huyện giảm sút tới mức đáng kể ( năm 1997 còn gần 1 vạn người thì đến năm 2002 chỉ còn hơn 3 nghìn người ). Trước đây một thập kỷ khi còn cơ chế bao cấp trên địa bàn huyện còn các cơ sở công nghiệp quốc doanh, xí nghiệp gạch ngói, xí nghiệp may 277, công ty xây dựng và 40 HTX tiểu thủ công chuyên nghiệp, nhiều HTX bán chuyên nghiệp với nhiều ngành nghề : dệt, may, cơ khí, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ và nhiều ngành nghề thủ công, đã thu hút khá nhiều lao động nhưng đến nay máy móc thiết bị phần lớn bị hỏng hóc hoặc đã quá lạc hậu, chất lượng và hiệu quả sản xuất rất thấp. Nhìn chung, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã hình thành và phát triển nhưng mới ở trình độ thấp và quy mô nhỏ, tuy vậy nó vẫn là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng, thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm, sáng tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ đắc lực cho tiêu dùng hàng ngày và trao đổi trong và ngoài nước . Những năm gần đây, các sơ sở sản xuất gặp nhiều lúng túng trong sản xuất kinh doanh, gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận cơ chế mới, bộc lộ nhiều yếu kém; sản xuất kinh doanh giảm sút, trì trệ, sản xuất chắp vá dẫn đến tình trạng sản phẩm sản xuất thấp, chất lượng không cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thiếu thốn, trình độ quản lý điều hành sản xuất kinh doanh suy giảm rõ rệt. Sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp giảm tỷ trọng xuống còn rất thấp, nhiều cơ sở đã phải giải thể vì không thể tồn tại nổi, người lao động thiếu việc làm hoặc có thu nhập rất thấp, đời sống khó khăn . Hiện nay thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được sắp xếp lại để phù hợp với cơ chế mới, cho đăng ký thành lập lại doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có đủ điều kiện sát nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Thanh Liêm còn duy trì được 1 doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của Huyện là xí nghiệp gạch ngói Thanh Liêm nhưng số lượng lao động rất ít chỉ có hơn 100 lao động ; còn lại là lao động ngoài quốc doanh. Khu vực ngoài quốc doanh trong cơ chế mới đã phát triển nhanh và có sức hút ghê gớm đối với mọi lực lượng lao động, số HTX tiểu thủ công giảm nhưng tăng mạnh kinh tế tự nhiên , kinh tế hộ gia đình . Tuy số HTX tiểu thủ công nghiệp giảm nhưng các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình tăng mạnh trên địa bàn huyện đã giải quyết được rất nhiều khó khăn về vốn đâù tư, công nghệ sản xuất ... và đặc biệt là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Trên địa bàn huyện, tại các xã, thôn đã hình thành và phát triển các " làng nghề " ở những nơi có nghề truyền thống, có nguyên liệu sản xuất, có thợ lành nghề ở 11 làng nghề. Thanh Liêm có nhiều làng nghề nổi tiến : Thêu ren ở xã Thanh Hà, đá ganitô và đá vôi ở thị trấn Kiện Khê ... Sự phát triển các làng nghề - kinh tế tập thể và tư nhân đã sản xuất ra các sản phẩm độc đáo, đa dạng và cơ bản là đã thu hút được lực lượng lao động lớn ở cả nông thôn và thành thị, tận dụng thời gian rỗi lúc nông nhàn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tốt . Cùng với sự hình thành và phát triển công nghiệp "mới" khi mà doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại giảm nhiều so với trước, còn lao động công nghiệp ngoài quốc doanh là 3618 người tập trung ở gần 2000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp từ quy mô nhỏ nhất trong gia đình. Trong số đó thì chủ yếu là lao động nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp vẫn là nghề chính của họ, họ tham gia sản xuất trong công nghiệp chỉ mang tính chất nghề phụ để tận dụng thời gian nông nhàn và lao động phụ. Cơ cấu đội ngũ công nhân viên chức đang chuyển dịch theo hướng khu vực Nhà nước giảm dần và khu vực ngoài quốc doanh tăng lên. Việc làm, đời sống người lao động vẫn đang là vấn đề còn nóng, tình trạng thiếu việc làm, không có việc làm vẫn còn đang diễn ra khá phổ biến, điều kiện lao động và các chính sách đối với người lao động chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, thợ bậc cao chưa được khuyến khích thoả đáng và có một số người đã ra đi để tìm đến những nơi có điều kiện để phát huy khả năng hơn. Đây là một điều rất thiệt thòi và đáng tiếc không chỉ cho chính bản thân người lao động mà còn cho cả một địa phương bởi trong điều kiện hiện nay Thanh Liêm rất cần có những con người như thế để có thể gây dựng và phát triển cả về quy mô và chiều sâu của các ngành trước đây là đặc thù và còn có nhiều cơ hội; bởi tuy có sự ra tăng nhanh nhưng kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay vẫn rất manh mún, nhỏ lẻ và lạc hậu . 2.3 Việc làm trong phát triển dịch vụ ở Thanh Liêm Về cơ cấu lao động và nhóm ngành trong dịch vụ trước hết phải kể đến ngành giao thông vận tải, vì đây là ngành kinh tế quan trọng của bất kỳ địa phương nào nhất là một nơi có điều kiện khá thuận lợi như Thanh Liêm . Bảng 6- Khối lượng hàng hoá, hành khách vận chuyển, luân chuyển và số lao động làm việc trong ngành giao thông vận tải Năm 1997 2001 2002 1-Hàng hoá : - Vận chuyển (1000 tấn ) 37.1 51.8 69.2 - Luân chuyển (1000 tấn km ) 1.047 1.451 1.941 2- Hành khách : - Vận chuyển ( 1000 lượt ) 12.9 19 24.5 -Luân chuyển(1000 người km) 126.8 209 243 3- Số người lao động : 151 274 298 ( Niên giám thống kê Thanh Liêm 1997-2002) Trong cơ chế mới hoạt động dịch vụ trong ngành giao thông vận tải những năm gần đây có xu hướng số lao động tham gia dịch vụ vận tải thuộc khu vực Nhà nước giảm dần và lao động tham gia dịch vụ tư nhân tăng lên, giải quyết được nhiều lao động tham gia hoạt động khu vực này; mỗi lao động chính trong ngành vận tải thường kéo theo 3-4 lao động phụ nên cũng giải quyết được một phần nào nhu cầu về việc làm. Tuy nhiên cũng phải nói cơ sở hạ tầng , đường xá , cầu cống của Thanh Liêm, chủ yếu là huyện lộ và đường liên thôn, liên xã đã xuống cấp nghiêm trọng do qua thời gian sử dụng khá lâu mà không được tu sửa kịp thời. Cùng với các phương tiện giao thông quá cũ kỹ, kém chất lượng ( ở nông thôn Thanh Liêm phổ biến nhiều các phương tiện vận tải như công nông " đầu ngang " và " đầu dọc " ...) nên hiệu quả hoạt động trong khu vực này còn kém , chưa thu hút được nhiều lao động . Trong lĩnh vực thương mại, những năm gần đây do cơ chế mới nên đã có sự phát triển, số hộ và lao động làm việc trong lĩnh vực này tăng lên hàng năm nhưng chủ yếu là các đơn vị ngoài quốc doanh và tư thương. Hiện nay số lao động tư thương hoạt động trong lĩnh vực này là 1275 người so với năm 1999 là 1063 người, tăng 212 người chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp và kinh doanh ăn uống tập trung chủ yếu ở trung tâm huyện lỵ và các chợ nông thôn và ở khu huyện lỵ cũ . Trong lĩnh vực tài chính - tín dụng hiện nay có 85 lao động thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, số lao động này giảm đi rất nhiều so với năm 1996, năm 1996 là 151 người, 1999 là 112 người. Điều này chứng tỏ thị trường tiền tệ không phát triển, điều này sẽ dẫn đến sản xuất khó có thể mà phát triển kể cả trong nông nghiệp và công nghiệp . Cơ cấu ngành nghề ở Thanh Liêm chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp chiếm 80,34 % tổng số lao động, kết quả của khu vực này chiếm 63,3 % tổng giá trị sản xuất trong khi đó dịch vụ nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp. Theo điều tra 1999 ở Thanh Liêm cho thấy tỷ trọng các ngành sản xuất phi nông nghiệp chiếm 23,6 nguồn thu nhập của nông dân trong đó dịch vụ tiểu thủ công nghiệp chiếm 19,9 %, dịch vụ nông nghiệp chiếm 3,71 %. Trong những năm gần đây các ngành nghề truyền thống được phục hồi, theo đó các hoạt động dịch vụ cũng được mở rộng góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn giải quyết được nhiều việc làm, tận dụng được thời gian nông nhàn của nông dân; chợ nông thôn cũng như chợ thành thị phát triển mạnh ở khắp các vùng trong huyện góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá công nghiệp, nông sản, vật tư ...tăng cường các hoạt động nội ngoại thị khai thác các tiềm năng. Đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy người sản xuất điều chỉnh các hoạt động sản xuất của mình, tích cực thay đổi mặt hàng, mẫu mã sản phẩm phù hợp với người tiêu dùng và xuất khẩu . 2.4 Việc làm trong lĩnh vực sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất Nhìn tổng quát toàn bộ các nguồn nhân lực đều phân bố vào hai lĩnh vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất . Phương pháp phân chia này xuất phát từ " Tính chất vật chất của lao động " . - Lao động sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất mang hình thái hiện vật, gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Nó sáng tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Tính chất của loại lao động này biểu hiện ra ở chỗ nó được vật chất hoá. Lĩnh vực sản xuất vật chất bao gồm các ngành: Công nghiệp, xây dựng, nông-lâm-ngư nghiệp, vận tải, bưu điện, thương nghiệp và các ngành khác ... - Lao động không sản xuất vật chất là lao động có ích, cần thiết đối với xã hội. Trong điều kiện hiện nay vai trò của loại lao động hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng trở nên quan trọng, vì lẽ khoa học - kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Lao động không sản xuất vật chất bao gồm các ngành: Nghiên cứu khoa học, giáo dục, văn hoá nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao, du lịch, ngân hàng-tín dụng, BHXH, dịch vụ công cộng và dịch vụ sinh hoạt đời sống, quản lý Nhà nước . Bảng 7- Phân bố lao động vào hai lĩnh vực sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất ở Thanh Liêm ( Đơn vị : Người ) Năm Phân bổ lao động 1997 2000 2002 Tổng số lao động 60138 64228 71706 - Lao động SX vật chất 58247 62955 68909 - Lao động không SX vật chất 1991 1369 2797 Tỷ lệ ( % ) 100 100 100 - Lao động SX vật chất 96,7 97,87 96,1 -Lao động không SX vật chất 3,3 2,13 3,9 (Nguồn : Do phòng thống kê Thanh Liêm cung cấp) Theo số liệu ta thấy lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất tăng lên từ 1997-2000 đã tăng từ 58247 lên 62955 ( tức là tăng từ 96,7% lên 97,87%) nhưng đến năm 2002 tuy số người vẫn tăng lên ( từ 62955 lên 68909) nhưng tỷ lệ thì không tăng mà có xu giảm đi và tỷ lệ lao động trong lĩnh vực không sản xuất vật chất lại tăng lên . Thực tế trong lĩnh vực sản xuất vật chất lao động tăng lên chủ yếu trong ngành nông nghiệp vốn đã rất thừa lao động. Trong giai đoạn 1997-2000 sự thuyên giảm lao động làm việc trong lĩnh vực không sản xuất vật chất là do cơ chế mới, nhằm tinh giảm biên chế. Nhưng xét về lâu dài thì giảm lao động trong lĩnh vực này là không có lợi bởi xu hướng phân bổ có tính quy luật trong lịch sử phát triển xã hội loài người là tỷ trọng số người lao động trong lĩnh vực không sản xuất vật chất ngày một tăng và vượt quá tỷ trọng của số người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Tuy nhiên đến thời điểm 2002 đã có sự cải thiện đáng mừng là tỷ lệ lao động hoạt động trong lĩnh vực không sản xuất vật chất đã tăng lên. Đây là thành công bước đầu của Huyện trong quá trình phân bố lao động theo chiều hướng ngày càng tiến bộ hơn , thu hẹp dần khoảng cách gữa tỷ trong lao động sản xuất vật chất và phi vật chất. Địa phương cần tiếp tục phát huy, lựa chọn những chiến lược phát triển kinh tế hữu hiệu , đặc biệt phải tìm cách tăng năng xuất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người. Đó là những điều kiện vật chất khách quan để thay đổi cơ cấu và phân bố lại lao động . Tóm lại : Qua khảo sát thực trạng lao động làm việc trong các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế có thể rút ra một số nhận xét khái quát như sau : * Một là : Lao động trong nông nghiệp còn rất lớn, cả về quy mô và số lượng lao động (80,34%) chứng tỏ Thanh Liêm là một huyện nông nghiệp và đã là một huyện nông nghiệp thì khó có thể đi lên giàu mạnh từ nông nghiệp canh tác trên vùng đồng chiêm trũng. Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch khá rõ rệt theo chiều hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá nền kinh tế . * Hai là :. Số lao động vẫn tiếp tục tăng nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn vẫn đang ở tình trạng rất thấp .. Các hướng sản xuất dịch vụ, khu vực sản xuất có thể dễ dàng thu hồi vốn nhất được đầu tư thiếu đồng bộ nên hiệu quả không cao, thu hút ít lao động. Các hoạt động dịch vụ tạo việc làm, đào tạo nghề, bồi dưỡng nghề và đào tạo lại có chất lượng và hiệu quả thấp * Ba là : Sản xuất nông nghiệp tuy có bước phát triển khá và tương đối toàn diện song tiềm năng trong nông nghiệp khai thác chưa được nhiều. Tỷ lệ thời gian lao động được tăng lên đáng kể, tuy vậy nhưng trình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm vẫn còn khá cao. Đời sống kinh tế-văn hoá-xã hội của nhân dân được cải thiện đáng kể nhưng so với các nơi khác thì vẫn còn hạn chế nhiều. * Bốn là : Năng lực quản lý, thu hút đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật chuyên gia kinh tế giỏi còn kém; tình trạng nhiều lao động có chuyên môn, tay nghề cao vẫn tiếp tục đi tìm kiếm việc làm ở nơi khác. Khả năng thu hút đầu tư còn thấp, phần lớn là đầu tư nhỏ bé với phương châm " có lãi ăn ngay " ít chú ý theo hướng lâu dài . * Năm là : Công tác tạo việc làm cho người lao động còn rất nhiều hạn chế, số việc làm được tạo ra chưa nhiều lại tập trung nhiều vào kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình. Công nghiệp quốc doanh lâm vào tình trạng khó khăn và chưa tìm ra được lối thoát.Sự phân bổ lao động trong xã hội còn chưa hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá . Trên đây là những nhận xét, đánh giá khái quát qua việc khảo sát thực trạng lao động và việc làm và xu hướng biến động của lượng lao động ở Thanh Liêm, bên cạnh những tiến bộ về các mặt đã đạt được còn không ít khó khăn, trở ngại và thách thức. Một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng vấn đề tạo việc làm cho người lao động còn nhiều bức xúc như vậy cần phải xem xét tới những khó khăn và trở ngại thực tế của địa phương nữa : III . Những khó khăn và trở ngại của huyện . 1. Do điều kiện tự nhiên : Ngoài những thuận lợi do tự nhiên đem lại thì bên cạnh đó cũng là những khó khăn: Thanh Liêm nằm trong khu vực trung tâm của các cơn bão và chịu ảnh hưởng rất lớn từ thiên tai do hạn hán , lũ lụt... gây ra. Tuy rằng nay không còn phải chịu cảnh " chiêm khê , mùa thối " như những năm trước đây nhưng ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết luôn đe doạ tới người dân nơi đây vốn sống chủ yếu vào nông nghiệp. Mặt khác Thanh Liêm cũng không được thiên nhiên ưu đãi, là huyện không có biển, tài nguyên thiên nhiên có không nhiều nên làm mất đi một lợi thế rất quan trọng trong sự phát triển . 2. Điều kiện kinh tế-văn hoá-xã hội - Khó khăn lớn nhất: Là có xuất phát điểm quá thấp do cơ sở vật chất quá nghèo nàn , thu nhập quốc dân thấp, mức sống của người dân - đa số là nông dân - so với nhiều địa phương khác trong cả nước còn ở mức rất thấp . Công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng ... còn đang ở giai đoạn phát triển thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế hiện nay. Nông nghiệp có bước khá nhanh, năng xuất cây trồng tăng cao qua những năm gần đây song chỉ mới đáp ứng được nhu cầu về ăn, chưa có sản phẩm hàng hoá thực sự. Ngư nghiệp phát triển một cách tự phát và giống như nông nghiệp: manh mún và chưa có tổ chức chặt chẽ, các ngành dịch vụ phát triển vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay . - Khó khăn thứ hai : Là cơ sở hạ tầng tuy có phát triển nhưng không có bảo dưỡng thường xuyên nên xuống cấp nhanh chóng và chỉ mới đáp ứng được một phần rất nhỏ các yêu cầu đặt ra hiện nay do thiếu vốn đầu tư cho phát triển, các dự án huy động vốn nội bộ và bên ngoài chưa được là bao (đầu tư nước ngoài có nhưng không đáng kể), thiếu vốn cho phát triển các ngành nghề mới, mở rộng và phát triển các ngành nghề hiện có nên một số các ngành nghề truyền thống bị mai một dần . - Khó khăn thứ ba : Là khó khăn về mặt xã hội, đó là áp lực về sự gia tăng dân số nhanh với việc làm và đời sống là trở ngại vô cùng to lớn, dân số tăng nhanh dẫn đến nguồn lao động tăng, nhu cầu về việc làm tăng trong khi khả năng tạo việc làm còn rất hạn hẹp. Cùng với các nhu cầu khác như ăn, ở, đi lại, học hành, khám chữa bệnh ... đều tăng mà khả năng đáp ứng không tăng gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động, việc làm. Do tác động của nền kinh tế mới mở cửa một số biểu hiện xấu của các hiện tượng xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm không mất đi mà có xu hướng ngày một gia tăng gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội . - Khó khăn thứ tư : Là trình độ tay nghề của lao động còn thấp, số cán bộ quản lý xã hội và quản lý kinh tế được đào tạo chưa nhiều, chưa sâu rộng và chưa cập nhật... chương III Một số kiến nghị để tạo việc làm cho người lao độngở Thanh Liêm trong những năm tới. I. Phương hướng tạo việc làm ở Thanh Liêm trong những năm tới. Đặc điểm nổi bật của hoạt động sản xuất ở Thanh Liêm là nông nghiệp chiếm ưu thế và là ngành kinh tế trọng điểm, đồng thời cũng là nơi sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối sẵn với nhiều ngành nghề truyền thống như: Công nghiệp chế biến, khai thác vật liệu xây dựng, mộc, đá Ganitô, đá vôi. Toàn huyện hiện có khoảng trên 73 nghìn người trong độ tuổi lao động. Trên 5000 lao động có trình độ chuên môn kỹ thuật trong tổng số 63 nghìn lao động đang hoạt động trong các nghành kinh tế quốc dân ( chiêms 7,8%, cả nước là 10%). Tổng số đại học và cao đẳng là 1010 người, trung học chuyên nghiệp là 2311 người, công nhân kỹ thuật 1760 người. Tình hình này cho thấy nguồn nhân lực ở Thanh Liêm là một thế mạnh ở một huyện chủ yếu là sản xuáat nông nghiệp. Song đồng thời cũng áp lực trong việc làm cho người lao động trong thời kỳ mà khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay ( bình quân từ nay đến năm 2010 mỗi năm Thanh Liêm phải lo thêm việc làm cho khoảng 2,2 – 2,5 nghìn người). Nhìn lại thực trạng kinh tế xã hội của Thanh Liêm ở thời kỳ 1993 – 1998 qua số liệu thhống kê tổng hợp ta thấy những năm gần đây, các mặt kinh tế đa có sự chuyển biến và khởi sắc bước đầu. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyến dịch định hướng ( giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ), sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lương thực có tiến bộ vượt bậc, chăn nuôi phát triển khá vể mặt số lượng và chất lượng, đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu đời sống nhân dân, có phần dự trữ và tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá. Sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã chặn đứng được tình trạng sa sút của những năm mới chuyển sang cơ chế mới. Nhiều ngành nghề được khôi phục nhiều cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng: Cải tạo và nâng cấp đường liên huyện và xã, thôn ... Các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất, dịch vụ ngày càng nhiều, hàng hoá phong phú dễ bán dễ mua. GDP bình quân đầu người năm 1997 là 2161 nghìn đồng, đến năm 1998 là 2310 nghìn tăng 10%, thu ngân sách đạt 92% thu ngân sách huyện. Tuy nhiên, những yếu kém còn tồn tại cũng đang làm vấn đề bức xúc cho việc hoạch định chính sách phát triển và giải quyết việc làm cho người lao động. Những mặt tồn tại: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, tỷ trọng nông nghiệp còn cao chiếm 63,3% GDP, công nghiệp chiếm 4,8%, xây dựng chiếm 10,6%, dịch vụ 21,3% Chi phí xây dựng chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp). Hiệu quả kinh tế còn chưa cao, trong công nghiệp trình độ công nghệ còn lạc hậu, chắp vá, chưa ngành chủ đạo và sản phẩm mũi nhọn, trong sản xuấta nông nghiệp cây lương thực vẫn là chủ yếu, cây nông nghiệp chưa được ổn định, tỷ trọng chăn nuôi thấp. Kinh tế khu vực quốc doanh còn yếu kém, làm ăn thua lỗ, kinh tế ngoài quốc doanh quy mô nhỏ, trang bị kỹ thuật thấp, chưa thu hút được người lao động. Tỷ trọng phát triển dân số còn cao. Từ tình hình trên, phương hướng tạo việc làm, phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 ở Thanh Liêm hướng vào mục tiêu chủ yếu sau: + Tập trung cho tăng truởng kinh tế trên cơ sở phát triển sản xuất, đưa tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm từ 11-12%. Đặc biệt sản xuất công nghiệp đạt mức tăng chung của cả nước( Hiện tại tốc độ tăng GDP bình quân ở Thanh Liêm là 9,5% giá trị sản xuất công nghiệp ). Mỗi năm cố gắng tạo thêm việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm, phấn đấu tới năm 2005 chỉ còn 5% lao động chưa có việc làm. Đến năm 2005 tỷ lệ dân số không quá 1,8%, đến năm 2010 tỷ lệ này dưới 1,4%. Để đạt được mục tiêu nói trên, vấn đề đặt ra là phải lựa chọn cơ cấu và phương hướng phát triển kinh tế một cách hợp lý, nhằm khai thác mọi tiềm năng và lợi thế của các hoạt động sản xuất và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Cụ thể: Cơ cấu kinh tế đến năm 2010 vẫn là cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ với điều kiện giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công ngiệp và dịch vụ để sau năm 2010 có thể chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Theo đó phát triển nông nghiệp, phải nhanh chóng chuyển từ thuần nông, độc canh sang phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm. Trong đó coi trọng sản xuất lương thực, chăn nuôi lợn và gia cầm, chế biến lương thực, thực phẩm là trọng tâm. Đưa tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp từ nay đến 2010 đạt bình quân 4,5 – 5,5%, tăng tỷ trọng chăn nuôi từ 35-40% sản phẩm nông nghiệp ( hiện nay là 24%). Thanh Liêm có lực lượng lao động nông nghiệp khá đông và tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 1993 Thanh Liêm có 46879 lao động nông nghiệp. Đến năm 1998 có 59379 lao động nông nghiệp. Đến năm 2000 toàn huyện có 80000 lao động, lao động tăng nhanh khoảng 2%/năm( bình quân mỗi năm tăng từ 1,2 – 2 nghìn lao động). Trong đó đất nông nghiệp có xu hướng giảm, làm cho sự mất cân đối giữa đất đai và lao động ngày càng trở nên gay gắt. Khi mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 4,5 – 5 %/ năm theo hướng đa dạng hoá sản phẩm. Trong bối cảnh đó, rõ ràng không thể thu hút thêm lao động vào trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, có chăng chỉ duy trì mức sử dụng lao động hiện có, đã loại trừ lực lượng lao động tăng lên trong năm. Như vậy sản xuất nông nghiệp càng phát triển sẽ tỷ lệ thuận với dôi dư lực lượng lao động và lực lượng này phải được sử dụng vào các ngành sản xuất khác không phải là nông nghiệp. Theo số liệu thống kê 1998 toàn huyện có 73757 người trong độ tuổi lao động từ 15- 60. Trong đó 9529 người chưa có việc làm, nếu loại trừ độ tuổi từ 15- 24 đang đi học hoặc trờ giải quyết việc làm thì số người không có việc làm là 7500 người. Để giải quyết việc làm cho khoảng 2500 người/ năm Thanh Liêm phải trên cơ sở mở rộng và phát triển sản xuất theo phương thức đa dạng hoá sản phẩm, thu hút lao động vào các hoạt động sản xuất ngoài lĩnh vực nông nghiệp là có thể khẳng định đi đúng hướng trong quá trình phát triển CNH- HĐH. Để tạo việc làm cho người lao động về phát triển công nghiệp và dịch vụ, với 74066 lao động có việc làm vào năm 2000. Trong đó 14687 lao động công nghiệp và dịch vụ ( 19,8% số lao động, hiện nay là 7,6%) cần hình thành các sản phẩm mũi nhọn, có khối lượng hàng hoá lớn hình thành các trung tâm giao dịch mua bán trên địa bàn huyện và có chiến lược đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ theo kịp với tình hình mới. Để tạo việc làm cho người lao động ngoài việc nhanh chóng chuyển nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang phát triển đa dạng hoá sản phẩm, cần phải thực hiện công nghiệp hoá nông thôn, phát triển dịch vụ và đẩy mạnh các hoạt động văn hoá xã hôi, y tế, giáo dục... II.Một số giải pháp cụ thể tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện Thanh liêm Cần phải nhắc lại rằng: Tạo việc làm cho người lao động là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế - xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến mọi mặt đời sống xã hội . Từ những đánh giá, nhận định khái quát qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng và xu hướng biến động của lực lượng lao động trên địa bàn huyện Thanh Liêm trên các đặc trưng chủ yếu qua mấy năm gần đây cho thấy: bên cạnh những tiến bộ đã đạt được còn không ít khó khăn và thách thức đang đặt ra cho địa phương trong thời gian tới. Đó cũng là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để có những đánh giá đầy đủ, cụ thể hơn làm căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách và giải pháp cũng như cho công tác quản lý, điều hành và tổ chức triển khai trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trong thời gian tới. Vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm vẫn đang là một vấn đề còn tồn tại và đòi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết. Qua việc nghiên cứu khái quát tình hình lao động - việc làm ở Thanh Liêm, bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài kiến nghị về giải pháp tạo thêm việc làm cho người lao động ở nông thôn Thanh Liêm : 1. Tạo việc làm trong nông nghiệp Tạo việc làm trong nông nghiệp thực chất là tổ chức lại sản xuất, thu hút lao động vào đầu tư cho thâm canh tăng năng xuất lao động, giải quyết lợi ích cho người nông dân . Cũng như các địa phương khác muốn tạo công việc làm có thu nhập tương ứng với sức lao động bỏ ra cần phải tổ chức lại sản xuất bằng thực hiện không chỉ riêng trao ruộng mà trao cả tư liệu sản xuất cho người lao động để người lao động làm chủ được tư liệu sản xuất và sử dụng đất lâu dài. Với hình thức này người lao động có quyền chủ động trên mảnh đất của mình và họ sẽ đầu tư lao động thâm canh tăng năng xuất lao động. Cần phải có những biện pháp tích cực trong việc giúp người nông dân đầu tư vào sản xuất . Cụ thể là làm thế nào để tập trung nguồn vốn hợp lý bằng cách cho người nông dân vay vốn để thực hiện các dự án kinh tế nông nghiệp hay đơn giản chỉ là đầu tư thâm canh sản xuất, với lãi xuất ưu đãi mà họ có thể chấp nhận được. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ là người trực tiếp đầu tư, ngoài ra cũng đòi hỏi những nguồn vốn khác từ các tổ chức, đoàn thể ... Và đi đôi với việc tăng cường vốn đầu tư cho nông dân các cơ quan chức năng có liên quan nên tổ chức các lớp nghiệp vụ bổ xung những kiến thức, kinh nghiệm làm ăn trong nông nghiệp để người nông có thể học tập, nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư . Biện pháp hàng đầu để giải quyết lao động trong nông thôn, nông nghiệp là đầu tư lao động cho cây lúa nước, khả năng tăng vụ và tăng diện tích gieo trồng trên địa bàn Thanh Liêm còn rộng lớn. Tổng số đất trồng lúa của Thanh Liêm là 1120,8 ha. Hiện mới sử dụng 9250 ha còn dư 870,8 ha. Nếu sử dụng hết lượng đất này vào trồng lúa, với mức đảm nhận diện tích trồng lúa của một lao động như hiện nay thì Thanh Liêm có thể thu hút được trên 5000 lao động vào trồng lúa, nếu không thì sẽ nâng cao mức đảm nhận của một lao động, giảm bớt thời gian nhàn dỗi của họ. Sau cây lúa nước cần chuyển sang tập trung lao động cho cây màu cây công nghiệp như: ngô, khoai, sắn. Riêng khâu trồng trọt các cây lương thực cây màu, cây công nghiệp đầu tư lao động vào các khâu cầy, bừa, phân bón, chăm sóc, thuỷ lợi, bảo vệ thực vật được tốt. Việc đó sẽ giải quyết được trình trạng “thiếu việc thừa người” tăng năng suất lao động và năng xuất cây trồng. Để chuyển dịch cơ cấu sản uất trong nông nghiệp cần phải phát triển chăn nuôi, chăn nuôi vừa là nghề chính sau trồng trọt, vừa là điều kiện quan trọng để tăng vụ cây trồng trong trồng trọt, giảm bớt những lao động nặng nhọc trong nông nghiệp, phát triển dịch vụ vận chuyển, vật kéo xe cung cấp thực phẩm quan trọng( nếu hai hộ nông dân có một lao động chăn nuôi thì toàn huyện có khoảng 18 nghìn lao động trên lĩnh vực này, sẽ giải quyết được một phần việc làm cho người lao động). Muốn vậy cần tập trung vào khâu chế biến thức ăn chế biến sản phẩm chăn nuôi và đặc biệt mở rộng thị trường nông nghiệp. Vậy để phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng sút hút đối với lao động vào lĩnh vực nông nghiệp cần phải: tăng cường công tác khuyến nông nhằm chuyển giao công nghệ bao gồm; giống, cây, con... có năng suất chất lượng cao và giá trị hàng hoá lớn, phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp với công nghệ tiên tiến, thực hiện bảo hiểm nông nghiệp nhằm tránh rủi ro cho nông dân để họ yên tâm đầu tư vào sản xuất. 2. Phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát huy thế mạnh của các làng nghề, dịch vụ và khu vực không kết cấu + Đối với tiểu thủ công nghiệp, là lĩnh vực có vố đầu tư thấp, có sử dụng nhân lực cao, tạo nhiều việc làm tại chỗ. Thanh Liêm về các ngành nghề thủ công với nhiều nghề truyền thống: mộc, dệt, thêu, đá ganitô, phục vụ trong nước và xuất khẩu. Tổng số hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong và ngoài quốc doanh của Thanh Liêm hiện có khoảng 5000 hộ, để phát triển các ngành nghề này, cần thu hút thêm lao động cần có cơ chế chính sách tiếp cận sát thực tế: Tạo đủ vốn để sản xuất, sắp xếp lại tổ chức sản xuất ( nên chăng thành lập cac hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bằng việc đóng cổ phần của các thành viên cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để sản xuất có thể áp dụng theo quy mô lớn sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường... Mở rộng và tìm kiếm thị trường ổn định. + Về dịch vụ: Thanh Liêm có lợi thế là giao thông thuận lợi có đường quốc lộ 21 và đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 1A Bắc- Nam chạy qua nối liền thị xã Phủ Lý với thành phố Nam Định là hai trung tâm kinh tế lớn, cùng với sự phát triển của tuyến đường liên huyện xã, thôn thuận lợi cho giao dịch buôn bán. Dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân, nó không những mang lại thu nhập cho một bộ phận dân cư mà nó còn là điều kiện để phát triển các ngành nghề khác trong cơ chế thị trường hiện nay. Hiện nay số lao động làm việc trong lĩnh vực này của Thanh Liêm là 1369 người chiếm 2% đây là một tỷ lệ rất thấp so với khu vực và cả nước, vì vậy năng lực thu hút lao động vào khu vực này là rất lớn. Để phát triển dịch vụ trước tiên cần phát triển mạnh mẽ các ngành nghề sản xuất ở địa phương : nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... để tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, kích thích nhu cầu trao đổi, mua bán, đi đôi với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ( Đường xá, cầu cống...) hình thành các trung tâm xã và phát triển chợ ở nông thôn, đưa dịch vụ thương mại, vật tư phục vụ nông nghiệp về các thôn, xóm phục vụ tận tay người tiêu dùng, Khuyến khích tư thương tham gia vào thị trường, hướng cho thương nghiệp Nhà nước phải vươn lên nắm vai trò chủ đạo, điều tiết thị trường nhất là với một số mặt bằng chiến lược, thiết yếu. Đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, làm tốt các dịch vụ cho khách hàng, những nhà đầu tư, những người về thăm quê. Phát triển dịch vụ tài chính, tiền tệ ; hướng vào việc tăng nguồn, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế, mở rộng mạng lưới ngân hàng, chuyển sang các quỹ tín dụng, các tổ chức bảo hiểm đảm bảo kinh doanh tiền tệ năng động. Mở rộng kinh doanh vàng, bạc, mua bán, thu đổi ngoại tệ, tạo việc làm thông qua các loại dịch vụ mới khác : Dịch vụ quảng cáo, dịch vụ chuyển giao công nghệ, tư vấn về việc làm ... mà địa phương còn chưa có. Đối với “khu vực không kết cấu” cần phân loại từng nghề từng dạng hoạt động. Hướng cơ bản là giúp đỡ thông qua các chính sách tạo mở cho các hoạt động về sản xuất dịch vụ, thương nghiệp nhỏ. Cần thấy rõ rằng khu vực này có khẳ năng tự tạo công việc, tự kiếm thu nhập để có chính sách hỗ trợ, quản lý hợp lý. 3. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề Việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho nguồn lực là sự cần thiết, vì hàng năm nhiều thanh niên bước vào độ tuổi lao động, nhưng chưa được đào tạo một nghề nào, một chuyên môn nào ngoài trình độ văn hoá phổ thông. Không những vậy nền kinh tế mở cửa nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu công nghệ thay đổi nhiều nghề, chuyên môn mới ra đời. Từ đó đòi hỏi trình độ lành nghề của nguồn nhân lực cần phải được đào tạo, nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Trước đây lợi thế so sánh của một vùng, một nước phụ thuộc lớn vào các yếu tố sản xuất truyền thống. Nguyên liệu thô và sức lao động rẻ nhưng trong điều kiện hiện nay thì thông tin, giáo dục, trí tuệ mới là cái tạo nên phồn vinh của đất nước. Theo các chuyên gia quốc tế nếu số năm học bình quân của một người tăng thêm 1 năm thì GDP tăng 3% . Vì vậy đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn nhân lực là một yêu cầu cấp bách không những đối với người lao động mà cả đối với nhà quản lý nhất là trong giai đoạn hiện nay. Trong những năm qua, Thanh Liêm đạt được một số kết quả về mặt kinh tế- xã hội, nhưng trong lĩnh vực đào tạo tay nghề cho người lao động thì vẫn còn yếu kém, hiện mới có khoảng 8% số người qua đào tạo, số người có tay nghề bậc cao, trình độ cao còn rất ít. Có thể nói Thanh Liêm cũng nằm trong tình trạng chung của cả nước là “Thừa người, thiếu lao động”. Để đáp ứng nhu cầu mới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2005 nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 8% lên 22% tức là khoảng 15000-16000 lao động qua đào tạo. Huyện cần phối hợp với trung ương, cơ sở đầu tư mạn vào giáo dục. Đào tạo, coi đây là nền kinh tế sản xuất là mục tiêu quan trong trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế đang có xu hướng đa phương hoá, đa dạng hoá thì việc đào tạo tay nghề cho người lao động cũng cần phải năng động, linh hoạt và đa dạng. Huyện có thể áp dụng các hình thức đào tạo nghề : Vừa học vừa làm . Vừa làm vừa học. Chuyên học nghề. Nên chăng, huyện phối hợp với các tổ chức kinh tế, các trường dạy nghề, các địa phương khác ... mở các lớp đào tạo ngắn hạn, dài han tại địa phương với các ngành nghề phù hợp nằm trong chiến lược phát triển, tạo điều kiện cho người lao động học nghề, nâng cao tay nghề và đào tạo lại cho phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay. 4. Mở rộng các hình thức xuất khẩu lao động Hiện nay với số người thất nghiệp ở huyện khá lớn (chiếm 13%) lao động trong nông nghiệp còn tình trạng dư thừa, nhàn rỗi, chưa sử dụng hết. Số người đến tuổi lao động hàng năm tăng lên trên 2000 người/năm. Các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm của địa phương. Xu hướng “ Đa dạng hoá và đa dạng hoá các quan hệ ” và toàn cầu hoá nền kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải hợp tác với bên ngoài trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực lao động. Về lĩnh vực này trong những năm qua Thanh Liêm đã có quan hệ với một số cơ sở sản xuất kinh doanh ở trong nước và nước ngoài, đưa lao động của địa phương đến làm việc nhưng thực tế hiệu quả thì chưa cao. Để giải quyết một phần về sức ép làm việc, tạo việc làm khác cần tăng cường hình thức xuất khẩu lao động. Có thể thông qua các hình thức sau : - Gia công cho bên ngoài nhằm tạo việc làm tại chỗ, dùng nhân lực tại chỗ, nhân lực nông nghiệp trong lúc nhàn rỗi, đồng thời tận dụng các thế mạnh về giá cả, tay nghề .. . để tạo công ăn việc làm ngay tại địa phương. - Tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu thông qua các hợp đồng với bên ngoài về các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhằm phát triển các ngành nghề kinh tế của địa phương để thu hút thêm nhiều lao động. - Đưa nhân lực có trình độ chuyên môn và nhân lực có trình độ giản đơn ra bên ngoài làm việc theo hợp đồng nhằm tạo công việc từ bên ngoài, giảm sức ép thất nghiệp của địa phương, tạo thu nhập để phát triển kinh tế ở địa phương. 5. Giảm sức ép về việc làm và chính sách dân số Dân số và kế hoạch hoá gia đình là vấn đề quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, với mục tiêu “ thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để cuộc sống ấm no hạnh phúc...” Thanh Liêm có tỷ lệ gia tăng dân số là 1,5%, tỷ lệ sinh là 2,1% thì điều gì sẽ xảy ra ? Câu trả lời tổng quát là cản trở tốc độ phát triển kinh tế gây nhiều khó khăn cho việc cải thiện đời sống cũng như trí tuệ văn hoá của các tầng lớp dân cư, nhất là vấn đề việc làm cho người lao động vốn đã phức tạp, bức xúc lại càng trở nên phức tạp hơn. Mức tăng dân số nhanh dẫn tới mức gia tăng lực lượng lao động trên địa bàn lãnh thổ, hàng năm có trên 2% số lao động mới tham gia vào thị trường lao động. Nhà nước đã sớm nhận ra mối quan hệ sâu sắc giữa dân số và phát triển, dân số với việc làm ( dân số tăng 1% thì GDP phải tăng ít nhất 4% , lương thực tăng 2,5% ) vì vậy vấn đề này đã được quan tâm từ rất sớm, nhưng do nhiều nguyên nhân nên việc thực hiện không đạt được kết quả như mong muốn. Theo kết quả điều tra tình hình biến động dân số hàng năm của huyện Thanh Liêm do phòng thống kê thực hiện cho thấy : số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã sinh con tính đến cuối năm 1999 là 3,3 con. Mức sinh này tương đối cao so với các tỉnh khác và khu vực . Gần đây trong các văn bản Nhà nước lại nhấn mạn thêm “ công tác dân số kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước-một vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu, một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, gia đình và xã hội”. Ngày 3/6/1993 Chính phủ đã ký quyết định 279/TTg phê duyệt chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình của nước ta đến năm 2000 với mục đích cụ thể “ mỗi gia đình nên có từ 1 đến 2 con ; đến năm 2015 bình quân toàn xã hội mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số vào giữa thế kỷ 21” Để đến năm 2005 tỷ lệ sinh của Thanh Liêm là 1,8% và tỷ lệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25655.DOC
Tài liệu liên quan