Đề tài Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam: MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 4 LỜI NÓI ĐẦU 5 Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 6 I. Lý luận chung về đầu tư: 6 1. Các khái niệm: 6 1.1. Khái niệm đầu tư dưới 1 số góc độ khác nhau: 6 1.2. Khái niệm chung về đầu tư: 6 2. Phân loại đầu tư phát triển ……………………………………………………….. 7 2.1. Đầu tư gián tiếp 7 2.2. Đầu tư trực tiếp 7 II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8 1. Cơ cấu kinh tế: 8 1.1. Khái niệm 8 1.2 Phân loại cơ cấu kinh tế: 9 1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế: 9 1.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: 10 1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế: 11 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 12 2.1. Khái niệm: 12 2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13 2.3. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 13 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế 14 2.4.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 14 2.4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ 14 2.4.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế...

doc82 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1047 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 4 LỜI NÓI ĐẦU 5 Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 6 I. Lý luận chung về đầu tư: 6 1. Các khái niệm: 6 1.1. Khái niệm đầu tư dưới 1 số góc độ khác nhau: 6 1.2. Khái niệm chung về đầu tư: 6 2. Phân loại đầu tư phát triển ……………………………………………………….. 7 2.1. Đầu tư gián tiếp 7 2.2. Đầu tư trực tiếp 7 II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8 1. Cơ cấu kinh tế: 8 1.1. Khái niệm 8 1.2 Phân loại cơ cấu kinh tế: 9 1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế: 9 1.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: 10 1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế: 11 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 12 2.1. Khái niệm: 12 2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13 2.3. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 13 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế 14 2.4.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 14 2.4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ 14 2.4.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế 15 III. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta: 15 1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 15 1.1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành: 16 1.2 Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: 17 1.3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: 18 2.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện toàn cầu hoá: 18 CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010 20 I – Thực trạng đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 20 II – Thực trạng đầu tư theo thành phần kinh tế 23 1. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể 23 2. Khu vực kinh tế nhà nước từng bước nâng cao hiệu quả. 28 3. Kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác ngày càng có sự đóng góp đáng kể vào GDP 29 4. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng 31 4.1 Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt. 31 4.2 Khả năng cạnh tranh thấp. 32 5. Khu vực kinh tế hợp tác chậm được củng cố và phát triển 33 III. Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 33 1. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 33 1.1. Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo ngành: 33 1.1.1. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong GDP: 33 1.1.2. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong tăng trưởng GDP: 37 1.1.3: Đầu tư làm thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành: 38 1.1.3.1. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp: 38 1.1.3.2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp: 40 1.1.3.3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ: 42 1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 46 1.3. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 47 IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÙNG LÃNH THỔ 49 1.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế hiện nay: 49 2.Tác động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế 49 2.1 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế nói chung 49 2.1.1 Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo vùng lãnh thổ: 49 2.1.2. Đầu tư góp phần hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm 51 2.1.3. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế một số vùng lãnh thổ: 52 2.1.3.1. Bước đầu phát huy lợi thế so sánh của từng vùng: 52 2.1.3.2 Thúc đẩy sự phát triển kinh tế các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn: 54 2.2 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng 54 2.3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc) 56 2.4 Khu vực Duyên Hải Miền Trung: 57 2.5. Vùng Tây Nguyên: 59 2.6.Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long 59 3. Đánh giá 60 3.1. Kết quả 60 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 61 3.2.1 Hạn chế 61 3.2.2. Nguyên nhân 62 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ GÓP PHẦN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG HỢP LÍ 63 1. Xây dựng được cơ cấu kinh tế hợp lý 64 2. Kết hợp tối ưu cơ cấu ngành với cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế ……68 3. Cải thiện môi trường đầu tư. 69 4. Đầu tư thích đáng và có các chính sách ưu đãi đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn. 72 5. Đổi mới cơ cấu gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 73 6. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và dự báo 74 7. Kết hợp hài hòa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. 76 8. Đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, có mối liên kết giữa các vù ng. 78 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 LỜI NÓI ĐẦU Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Kinh tế phát triển nhanh và Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao về thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển con người, sắp bước sang ngưỡng của nước có thu nhập trung bình. Có được những thành tựu đó là do: Ngay từ những ngày đầu của công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường tất yếu để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ Đổi mới. Mặt khác, để chủ trương đúng đắn đó đi vào thực tiễn phải kể đến vai trò trực tiếp của đầu tư phát triển. Những tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam luôn được nhắc đến khi đánh giá các thành tựu của thời kỳ Đổi mới. Nhận thức được tính chất quan trọng của vấn đề, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam” với mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, định tính cũng như định lượng về tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng, phát triển đất nước. Nhóm đã hết sức cố gắng nhưng vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp và kinh nghiệm cũng như kiến thức còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, nhóm thực hiện mong nhận được góp ý của thầy cùng toàn thể các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ I. Lý luận chung về đầu tư: 1. Các khái niệm: 1.1. Khái niệm đầu tư dưới 1 số góc độ khác nhau: Khái niệm thường dùng: đầu tư là sự hi sinh nhất thời một lợi ích nào đó với mong đợi thu được lợi ích mong muốn lớn hơn trong tương lai. Dưới góc độ tài sản: Đầu tư là quá trình bỏ vốn để tạo ra tiền lực sản xuất kinh doanh dưới hình thức các tài sản kinh doanh, đó cũng là quá trình quản trị tài sản để sinh lợi. Dưới góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi của chủ đầu tư và ngược lại chủ đầu tư sẽ nhận được một chuỗi hoạt động thu để hoàn vốn và sinh lời. Dưới góc độ tiêu dùng: Đầu tư là sự hi sinh tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Dưới góc độ khoa học kĩ thuật: Đầu tư là quá trình thay đổi phương thức sản xuất thông qua việc đổi mới và hiện đại hóa phương tiện sản xuất để thay thế lao động thủ công. Dưới góc độ xây dựng: Đầu tư xây dựng là quá trình bỏ vốn nhằm tạo ra các tài sản vật chất dưới dạng các công trình xây dựng. 1.2. Khái niệm chung về đầu tư: Từ những khái niệm ở các góc độ khác nhau trên, có thể rút ra: Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực ở hiện tại với kì vọng đem lại cho nền kinh tế và xã hội những kết quả (lợi ích) trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã được sử dụng để đạt được các kết quả (lợi ích) đó. Các nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội. 2. Phân loại hoạt động đầu tư Trong thực tế, có rất nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư. Tùy từng góc độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau người ta cũng có thể có các cách phân chia hoạt động đầu tư khác nhau. Một trong những tiêu thức thường được sử dụng đó là tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Theo tiêu thức này, đầu tư được chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển. Đó là việc chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho chính phủ các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội, là việc các cá nhân, tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, tín phiếu...để hưởng lợi. đầu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đầu tư trực tiếp Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Trong đó, đầu tư dịch chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng của giá trị tài sản. Chẳng hạn như nhà đầu tư mua một số lượng cổ phiếu với mức khống chế để có thể tham gia vào hội đồng quản trị của một công ty, các trường hợp thôn tính, sáp nhập doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Khái niệm đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là mộ phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới cho sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ, Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế tại mỗi quốc gia. Trong các hình thức đầu tư trên thì đầu tư phát triển là tiền đề, là cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác. Các hình thức đầu tư gián tiếp, dịch chuyển không hề tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển. II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1. Cơ cấu kinh tế: 1.1. Khái niệm: Khái niệm: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy thuộc mục tiêu của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chính là kết quả của sự phân công lao động xã hội. + Cơ cấu kinh tế phải được nhìn nhận là một thực thể gồm rất nhiều phần tử hay phân hệ, có cấu trúc và cấu trúc theo kiểu cách nhất định, khi thay đổi kiểu cách kết cấu hay thay đổi cấu trúc thì hệ thống cũng sẽ thay đổi theo cả về hình dạng, tính chất và trình độ của các phần tử trong hệ thống cùng tồn tại và phát triển. Nếu chúng phát triển cùng chiều thì tạo nên sức mạnh cho hệ thống nhưng nếu phát triển trái chiều thì sẽ cản trở lẫn nhau, làm cản trở cho sự phát triển chung của hệ thống. + Khi nói về cơ cấu kinh tế phải nói cả về số lượng (đo bằng tỷ lệ % của các phần tử trong toàn bộ hệ thống) và mặt chất lượng ( mức độ chặt lỏng của mối liên kết giữa các phần tử trong hệ thống), bản chất của cơ cấu gắn chặt với hình thức của nó, quy định hình thức của cơ cấu. Cơ cấu kinh tế có 2 đặc tính: - Biểu hiện hình thức thông qua quan hệ tỷ lệ: tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu ngành. - Biểu hiện nội dung thông qua mối quan hệ giữa các thành phần: chúng tác động qua lại, tương hỗ với nhau như thế nào, quan hệ chặt hay lỏng. Cơ cấu kinh tế là một hệ thống động, biến đổi không ngừng. Vì vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu các quy luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. 1.2 Phân loại cơ cấu kinh tế: Cơ cấu nền kinh tế bao gồm ba bộ phận cơ bản hợp thành: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. 1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế: - Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về mặt số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. - Vai trò: Là bộ phận quan trọng nhất trong phân tích CCKT vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. - Các nhóm ngành kinh tế lớn: + Nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Đây là một ngành cơ bản của nền kinh tế, và cũng là một ngành đặc biệt vì đối tượng sản xuất là những cơ thể sống. + Công nghiệp – xây dựng: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao gồm ngành công nghiệp nhẹ (chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da giầy, hàng tiêu dùng…), công nghiệp nặng (dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng,…) + Dịch vụ: Là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại: Thương mại, vận tải, bưu chính – viễn thông, tài chính tiền tệ, dịch vụ tư vấn,... Đối với Việt Nam, đây đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn. - Góc độ xem xét: + Cơ cấu theo nhóm ngành lớn: nông nghiệp, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ. + Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên phương thức và công nghệ sản xuất: nhóm ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. + Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành dịch vụ. 1.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: - Nền kinh tế quốc dân là một không gian thống nhất, được tổ chức chặt chẽ, là sản phẩm của quá trình phân công lao động theo lãnh thổ. Những khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử… đã dẫn đến sự phát triển không giống nhau giữa các vùng. Ứng với mỗi cấp phân công lao động theo lãnh thổ có cơ cấu lãnh thổ nhất định: toàn cầu và khu vực, quốc gia, các vùng lãnh thổ trong phạm vi quốc gia. - Các vùng kinh tế xã hội: + Trung du, miền núi Bắc bộ: Là vùng có vị trí địa lý đặc biệt, giáp Trung Quốc, Lào, liền kề đồng bằng Sông Hồng. Tài nguyên khoáng sản, thủy điện phong phú, có khả năng đa dạng hóa cơ cấu ngành kinh tế. Cơ sở vật chất kĩ thuật có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Việc phát huy các thế mạnh của vùng mang nhiều ý nghĩa về kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. + Đồng bằng Bắc bộ: Sông Hồng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển nông nghiệp và đời sống dân cư trong vùng. Là nơi tập trung đông dân cư, đất đai màu mỡ, nơi có những đô thị lớn của nước ta, đặc biệt là có thủ đô Hà Nội, là nơi giao thương lớn, quy tụ nhiều đầu mối giao thông, và cũng là nơi tập trung nguồn lao động dồi dào. + Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Là vùng có khí hậu khắc nghiệt, địa hình cũng khá khó khăn. Cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực còn khá hạn chế, nhưng thay vào đó là lợi thế có bờ biển trải dài nên thuận tiện cho việc khai thác thủy hải sản và cảng biển, phát triển thành nơi trung chuyển hàng hóa lớn. + Tây Nguyên: Là vùng đất bazan màu mỡ có khí hậu cao nguyên mát mẻ, tuy nhiên mùa khô kéo dài gây thiếu nước nghiêm trọng. Rừng nơi đây có trữ lượng lớn nhất nước (29.2 %), có quặng bô-xit với trữ lượng hàng tỷ tấn và trữ năng thủy điện tương đối lớn. Đây cũng là vùng được nhà nước rất quan tâm đến đẩy mạnh xói đói giảm nghèo, đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.. + Đồng bằng sông Cửu Long: Là vùng trọng điểm lúa của cả nước, giữ vai trò hàng đầu trong đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là nơi có vùng biển rộng, ấm quanh năm, hệ thống kênh ngòi chằng chịt cung cấp nhiều loại thủy hải sản. Ngoài biển, vùng còn có nguồn thủy sản nước ngọt lớn. Ngoài ra còn có các ngành công nghiệp khác như luyện kim, sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng… cũng đã và đang phát triển rất mạnh. + Đông Nam Bộ: là vùng giáp Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Campuchia và biển Đông, thuận lợi giao thương trong và ngoài nước. Biển ấm, ngư trường rộng, hải sản phong phú, có thềm lục địa nông, rộng, giàu tiềm năng dầu khí, đánh bắt hải sản. Phát triển trồng nhiều cây công nghiệp và nông nghiệp có giá trị kinh tế lớn: Cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, đậu tương, lạc, mía... - Góc độ xem xét: + Cơ cấu theo vùng kinh tế. + Cơ cấu theo khu vực: thành thị và nông thôn. 1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế: - Là kết quả tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu kinh tế, gồm nhiều thành phần kinh tế tác động qua lại lẫn nhau. - Các thành phần kinh tế: + Kinh tế nhà nước: Là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. + Kinh tế tập thể: Là thành phần kinh tế phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. + Kinh tế cá thể: Là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả về vốn sức lao động. + Kinh tế tư bản tư nhân: Là thành phần rất năng động nhạy bén với thị trường, nó có đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng của đất nước. + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta, luôn được khuyến khích phát triển, hướng mạch vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng. - Góc độ xem xét: + Cơ cấu theo 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. + Cơ cấu theo 2 nhóm: kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2.1. Khái niệm: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng, lãnh thổ và thành phần kinh tế. - Sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế cũng có thể do sự thay đổi các chính sách và các biến động về mặt xã hội gây nên, nó có thể được thực hiện một cách chủ động, có ý thức hoặc xảy ra trong điều kiện khách quan, có thể không theo dự kiến ban đầu. + CCKT không thể tự thay đổi nếu không có sự tác động từ bên ngoài. + Nếu CCKT chuyển dịch đúng, hợp lý thì đó là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; ngược lại nó trở thành yếu tố kìm hãm. Vì vậy CDCCKT là một vấn đề mang tầm quốc gia, đòi hỏi một chương trình hành động thống nhất trên cả nước. 2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Từ khi đất nước đổi mới đến nay, cơ cấu kinh tế nước ta đã có những biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ và nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề chưa được phát triển đúng mức. Nhìn chung CCKT nước ta còn nhiều bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp, chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nước. CDCCKT có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất lẫn văn hóa tinh thần cho nhân dân. Từ đó thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 2.3. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tức là phải phù hợp với các quy luật khách quan chứ không phải những mệnh lệnh hành chính chủ quan, duy ý chí. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên một chương trình hành động thống nhất mang tính quốc gia. + Đối với cơ cấu theo lãnh thổ, cơ cấu kinh tế vừa phải phù hợp với lợi thế so sánh của vùng vừa phải hài hoà với tổng thể xã hội. + Đối với cơ cấu ngành, phải xuất phát từ sự thay đổi các ngành chủ lực làm đầu tàu kéo nền kinh tế từ những thay đổi về lượng đến những chuyển dịch về chất. + Cơ cấu theo thành phần tuy không đóng vai trò chủ đạo nhưng phải tạo ra môi trường kinh tế cởi mở, linh hoạt cho sự chuyển dịch. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể diễn ra một cách tuần tự, nhưng cũng có thể diễn ra một cách nhảy vọt tuỳ theo điều kiện cụ thể. 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tích lũy về lượng, dẫn đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo yêu cầu và phương hướng tiến bộ hơn trong điều kiện cụ thể của bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau và còn phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế xã hội của từng quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, để có một nền kinh tế hợp lý và đồng bộ thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế tốt nhất nên đi theo một xu hướng chung. 2.4.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt đầu từ sự chuyển dịch của những ngành then chốt hay chủ lực có tính mũi nhọn. - Có sự dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh CNH- HĐH, nông nghiệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đưa nông- lâm- ngư nghiệp lên một trình độ mới. - Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu cung cấp cho thị trường nội địa, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước, đi sâu vào phát triển các ngành lĩnh vực có năng suất lao động cao, hàm lượng công nghệ cao và chất xám cao; phát triển mạnh công nghiệp chế biến, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. - Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng của các ngành dịch vụ, thương mại, các loại hình vận tải, thông tin liên lạc, du lịch… kinh tế phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. 2.4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: - Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế so sánh để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. - Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. - Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kĩ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh. 2.4.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: - Tỷ trọng của bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nhà nước có thể giảm xuống tương đối nhưng vẫn đảm bảo vai trò chủ đạo cho nền kinh tế. - Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài. - Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng vốn rộng rãi vốn đầu tư của xã hội. III. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta: Đầu tư có tác động quan trọng, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy rằng con đường tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng, lãnh thổ. 1.1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành: Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này qua trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn. Việc đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử dụng như thế nào… đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. - Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. - Như đã nói, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hóa cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. + Đối với các ngành nông nghiệp, đầu tư tác động nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ giới hóa nông nghiệp nông thôn bằng cách xây dựng kết cấu kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, tăng cường khoa học công nghệ… + Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành kinh tế theo hướng đa dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. + Đối với ngành dịch vụ, đầu tư giúp phát triển các ngành thương mại, dịch vụ vận tải hàng hóa, mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư còn tạo nhiều thuận lợi trong việc phát triển nhanh các ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, phát triển du lịch, mở rộng các dịch vụ tài chính tiền tệ. - Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường. Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc, trang thiết bị… suy cho cùng đều cần đến vốn. Một ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm là điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường. 1.2 Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn. + Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó những vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển, làm bàn đạp thúc đẩy cho các vùng khác phát triển. + Nguồn vốn đầu tư cũng thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giúp họ có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển, tạo đà cho nền kinh tế vùng, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một quốc gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác cùng phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi đói nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá không thể gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng không đáp ứng được các nhu cầu của người dân. 1.3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ đạo, thành phần nào được ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế… Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện. Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả nước. Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế. 2.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện toàn cầu hoá: “Trong sự phát triển ra thế giới, nếu thiếu một quốc gia không thể gọi là toàn cầu. Trên trường kinh tế thế giới, nếu thiếu một ngoại tệ của một quốc gia không thể gọi là toàn cầu hóa” Toàn cầu hoá là xu hướng chung của cả thế giới mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu hướng chung đó. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, toàn cầu hoá luôn kèm theo những yếu tố loại trừ rất khắc nghiệt. “Đổi mới hay tụt hậu?” câu hỏi đó phải được trả lời bằng quyết tâm của cả nền kinh tế. Vậy nên, trong điều kiện toàn cầu hoá vai trò của đầu tư trở nên vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, trước đòi hỏi cao của trình độ khoa học công nghệ thế giới, chúng ta phải không ngừng nâng cao công nghệ của mình. Mà công nghệ không thể tự sản sinh nếu không có vốn bất kể đó là công nghệ nội sinh hay công nghệ ngoại sinh. Hơn nữa, nền kinh tế trong nước là một bộ phận của kinh tế thế giới. Vì vậy, cơ cấu kinh tế của chúng ta không những phải chuyển dịch mà còn phải chuyển dịch nhanh hơn để phù hợp nhu cầu của thế giới. Với điều kiện nước ta hiện nay những bất hợp lý là không thể tránh khỏi, nhưng chúng ta phải nhanh chóng xoá bỏ những điều đó để hội nhập. Muốn vậy phải đầu tư nhiều hơn nữa. Mặc dù những thách thức là rất lớn nhưng toàn cầu hoá cũng mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội lớn để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó là đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và thương mại quốc tế. Với việc mở cửa nền kinh tế, chúng ta đang thu hút những nguồn vốn vô cùng quan trọng cho sự phát triển toàn diện. Chuyển giao công nghệ tuy có những khó khăn, phức tạp nhưng đó là hướng đi chung của các quốc gia đang phát triển hiện nay để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thương mại quốc tế là cơ hội rất lớn để chúng ta mở rộng thị trường đồng thời tạo môi trường cạnh tranh trong nước. Nhưng để cạnh tranh hiệu quả chúng ta cần biết thị trường thế giới đang cần gì để xây dựng cơ cấu đầu tư vào những nhóm ngành sản xuất hàng xuất khẩu phù hợp. Toàn cầu hoá đang đưa Việt Nam ra gần hơn với thế giới và đưa thế giới đến gần hơn với Việt Nam. CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2000 - 2010 I - Thực trạng đầu tư phát triển tại Việt Nam Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế, cơ cấu đầu tư ở nước ta đã có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn khi tiến hành đổi mới, nguồn vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội còn hạn chế, nguồn vốn chủ đạo là nguồn vốn nhà nước tuy còn ít nhưng bằng cách huy động hợp lý các nguồn vốn trong xã hội và sử dụng ngày càng hiệu quả hơn thì cơ cấu nguồn vốn đầu tư ở nước ta đang thay đổi theo hướng tích cực, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý, phù hợp để phát huy ngày càng tốt hơn các tiềm lực của nền kinh tế. + Cơ cấu đầu tư của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng phục vụ yêu cầu phát triển toàn diện của nền kinh tế, thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu ngành hợp lý bao gồm cả ngành sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ và cả những ngành không vì mục đích lợi nhuận. + Cơ cấu đầu tư theo vùng, địa phương có những chuyển biến tích cực, đầu tư góp phần hình thành những vùng chuyên môn hoá tập trung, những vùng kinh tế trọng điểm và mũi nhọn, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. + Cơ cấu bao cấp trong nền kinh tế dần được thay thế bằng một nền kinh tế thị trường theo định hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, và hướng tới mục tiêu toàn cầu hóa. + việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11/2006 mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức độ giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp) tăng mạnh. Đổi mới kinh tế đánh dấu một bước ngoặt lớn trong hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam. Với sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài (1987) và Luật Doanh nghiệp sửa đổi(2006), Luật Đầu Tư (2005) tình hình thu hút vốn đầu tư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư tăng nhanh. Biểu đồ: Tổng vốn Đầu tư ở Việt Nam theo giá thực tế giai đoạn 1995 - 2008 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Vốn đầu tư của 2009 là 715 nghìn tỷ tăng 17% so với 2008 Năm 2010 vốn đầu tư phát triển tăng 12% so với 2009 Chỉ xét giai đoạn từ 1995-2008, tổng vốn đầu tư theo giá thực tế đã tăng hơn 8 lần. Từ năm 1995 đến nay tổng vốn đầu tư phát triển của Việt Nam tăng khá nhanh và tỷ lệ đầu tư so với GDP đã tăng lên đến 41% năm 2006, 41,7% năm 2007, 41,4% năm 2008. năm 2009-2010 Vốn đầu tư đóng góp 44.62% cho tăng trưởng, cao nhất từ trước tới nay. Đầu tư khu vực nhà nước giúp duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010 nhưng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam lại rất thấp. Điều này thể hiện qua hệ số ICOR dự báo lên đến 6.3 lần trong năm 2010, và tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào dòng vốn đầu tư và chi tiêu của khu vực công. Việc tái cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng chưa có nhiều chuyển biến trong năm 2010. Điều này đã gây nên những lo ngại về tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Về cơ cấu nguồn vốn có sự đa dạng hóa. Nếu trước đổi mới, vốn đầu tư xã hội chủ yếu là vốn nhà nước. Thì sau đổi mới nguồn vốn đã được mở rộng với sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt dự kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng; đồng thời có nhiều hình thức huy động khác như công trái giáo dục, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị..., tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta luôn luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA và FDI chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. II.Thực trạng đầu tư theo thành phần kinh tế : 1. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể Quá trình đổi mới đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ giữa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhưng tỷ trọng của thành phần này trong GDP đang có xu hướng giảm dần. Thời kì này đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân. 2 khu vực này có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Thể hiện ngày càng rõ vai trò quan trọng của mình. Điều này thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước trong việc mở cửa nền kinh tế, khuyến khích mọi cá nhân tham gia hoạt động kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế hợp tác xã, lại có xu hướng giảm dần, phản ánh sự đầu tư chưa đúng mức và tổ chức chưa phù hợp với điều kiện biến đổi của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này cũng đã có sự đóng góp không nhỏ vào GDP chung và góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bảng 1: Tỉ trọng đóng góp trong công nghiệp của thành phần kinh tế Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Khu vực nhà nước 34,2 31,4 31,4 29,3 27,4 25,1 22,4 20,0 18,0 24,3 22,1 Khu vực ngoài NN 24,5 27,0 27,0 27,6 28,9 31,2 33,4 35,4 36.3 35,1 35,9 Khu vực vốn đầu tư nước ngoài 41,3 41,6 41,6 43,1 43,7 43,7 44,2 44,6 45,7 46,6 42,0 (nguồn: tổng cục thống kê) Về giá trị đóng góp trong công nghiệp, tỷ trọng của DNNN giảm dần từ 34,2% năm 2000 xuống 18% năm 2008,năm 2009,2010 con số này là 24,3 và 22,1; ngược lại với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc biệt, tỷ trọng của khu vực tư nhân tăng từ 24,5% (2000)lên 35,4% năm 2008;duy chỉ có năm 2009 có tỉ trọng có dấu hiệu đôi chút chững lại nhưng tỉ trọng của khu vực này lại tiếp tục tăng lên đến mức 35,9%.Năm 2008 là một năm chứng kiến nhiều biến động lớn cửa nền kinh tế thế giới và điển hình là cuộc khủng hoảng của nền kinh tế Mỹ đã lan rộng ra khắp thế giới.Trước tình hình đó nước ta xác định mục đích trước mắt là ngăn chặn đà suy thoái kinh tế và trong hai năm 2009,2010 đã tung ra một số gói kích cầu, điều này có thể thấy rõ trong cơ cấu vốn đầu tư của giai đoạn này có một sự tăng lên nhất định.Cụ thể: Giai đoạn 2000-2008: tỉ trọng vốn đầu tư của khu vực nhà nước vẫn rất lớn ,đặc biệt giai đoạn 2000-2006 tỉ lệ này rất lớn chiếm >50% vốn đầu tư của toàn xã hội và có xu hướng giảm từ 59,1% năm 2000 xuống 47,1% năm 2005 và đến năm 2008 con số này chỉ còn 28,6%.Nhưng năm 2009 ,2010 tỉ trọng tăng lên ở mức 34,8% và 38,1% đây chính là do các chính sách tài khóa của chính phủ để chống đỡ lại đà suy giảm kinh tế toàn cầu.Trong nhưng năm tới khi nền kinh tế đã phần nào ổn định thị dự báo tỉ trọng này sẽ được cắt giảm dần Bên cạnh đó thì tỉ trọng vốn cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước lại tăng lên liên tục không ngừng 22,9% năm 2000 lêm 25,3 năm 2002;37,7 năm 2004 và cao nhất là năm 2008 bất chấp khủng hoảng kinh tế thế giới thì tỉ lệ này vẫn chiếm tới 40%.Điều này cho thấy khu vực tư nhân rất năng động và hiệu quả. Bảng 2: Tỷ trọng vốn đầu tư và GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000-2010 Năm 2000 2002 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tỷ trọng vốn đầu tư theo thành phần kinh tế ( %) Kinh tế Nhà nước 59.1 57.3 48.1 47.1 45.7 37.2 28.6 34.8 38,1 Kinh tế ngoài nhà nước 22.9 25.3 37.7 38.0 38.1 38.5 40.0 39.5 36,1 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 18.0 17.4 14.2 14.9 16.2 24.3 31.4 25.7 29.8 Tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế (%) Kinh tế Nhà nước 40.75 40.97 41.07 40.67 39.89 38.96 38.24 39.1 38.6 Kinh tế ngoài nhà nước 48.43 48.17 47.36 47.26 47.35 47.75 48.23 48.5 48.35 Kinh tế tập thể 8.53 8.07 7.49 7.19 6.87 6.55 6.36 6.31 6.33 Kinh tế tư nhân 7.72 8.64 9.24 9.71 10.30 11.00 11.40 11.71 11.75 Kinh tế cá thể 32.18 31.46 30.63 30.36 30.18 30.21 30.39 30.48 30.27 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10.82 10.86 11.56 12.07 12.76 13.29 13.53 12.4 13.05 (nguồn: tổng cục thống kê) *Cơ cấu vốn đầu tư Tỷ trọng của đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước bắt đầu giảm, từ 59.1% (2000) xuống 34,8% (2009) và 38,1%(2010). Tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước tăng 17.1% trong 8 năm (từ 22.9% năm 2000 lên 40.0% năm 2008); sang năm 2009,2010 thì có đôi chút suy giảm song vẫn ở mức cao tương ứng là 39,5% và 36,1%. Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng.Trong những năm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài do thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư (tỷ trọng từ 18% năm 2000 lên cao nhất 31.4% năm 2008) nên tỷ trọng đóng góp vào GDP cũng có xu hướng tăng lên. Sở dĩ 2 khu vực này có được sự thay đổi khả quan đó là do: Thứ nhất, đây là giai đoạn kinh tế thế giới phát triển tương đối ổn định nên dòng vốn vào Việt Nam không ngừng gia tăng. Thứ 2 (nguyên nhân chủ yếu) là những thay đổi tích cực từ bản thân môi trường đầu tư trong nước. Đặc biệt trong năm 2005, Quốc hội sửa đổi và thông qua Luật Đầu tư (chung) và Luật Doanh nghiệp (thống nhất) tạo ra một khung pháp ly bình đẳng hơn cho các thành phần kinh tế. Theo đó hàng loạt văn bản pháp luật ra đời nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI của Việt Nam. Tính từ năm 1988 đến năm 2003, nước ta đã thu hút được trên 40 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã thực hiệnđược hơn 20 tỷ USD. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 12.07%GDP, năm 2007 khoảng 13,29%. Từ khi chúng ta gianhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam tăng đột biến, năm 2007 là hơn 20 tỷ USD (tăng khoảng 70% so với năm 2006), sáu tháng đầu năm năm 2008 là 31,6 tỷ USD. Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này đã và đang nảy sinh mộtvấn đề - đó là sự lệ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài. * Cơ cấu GDP: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong những năm qua, nền kinh tế VN tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn. Giai đoạn 2000-2005, vốn đóng góp vào tăng trưởng lên tới 64,63%, trong khi phần đóng góp của lao động chỉ là 19,25% và đóng góp năng suất tổng hợp là 16,12%.So với các nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á, tỉ trọng đầu tư trong GDP của VN thuộc hàng các nước đứng đầu. Năm 2007, tỉ trọng này ở VN chỉ thấp hơn so với Trung Quốc (44,2%), nhưng cao hơn so với Hàn Quốc (29,4%), Thái Lan (26,8%), Malaysia (21,9%)... + Giai đoạn 2000-2005:Chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Sự chuyển đổi chủ yếu diễn ra giữa khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao và tương đối ổn định trong GDP. Năm 2005 tỉ trọng GDP của khu vực nhà nước rất ít thay đổi, chỉ giảm 0.1% so với năm 2000. Trong khi đó khu vực ngoài nhà nước giảm từ 48.43% năm 2000 xuống còn 47.26% năm 2005(giảm 1.17%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục vị thế, vai trò trong nền kinh tế khi tỉ trọng liên tục tăng qua từng năm. Kết quả là sau 5 năm tỉ trọng của khu vực này đã tăng 1.25%. Một nét tích cực nữa là trong bản thân khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng có sự thay đổi. Kinh tế tư nhân bắt đầu có xu hướng tăng dần tỉ trọng trong khi 2 thành phần còn lại tiếp tục giảm mạnh. Kinh tế cá thể vẫn là khu vực có mức giảm mạnh nhất (1.82%). Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn này của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng nhanh nhất. + Giai đoạn 2006-2010: Nhìn chung có thể thấy những dấu hiệu tích cực hơn của việc chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Tỉ trọng của khu vực kinh tế nhà nước năm 2008 (theo ước tính) giảm 2.43% so với năm 2005(nhiều hơn mức giảm của cả giai đoạn trước ). Năm 2009-2010 do những chính sách kích cầu của chính phủ nên con số này là 48.5% và 48.35%Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục đà phát triển của giai đoạn trước, tỉ trọng vẫn liên tục gia tăng qua các năm và khẳng định vai trò to lớn của mình Xem xét nhịp độ phát triển về cơ cấu vốn đầu tư của các thành phần kinh tế qua các thời kỳ, nếu chỉ nhìn những thay đổi bề mặt sẽ không thấy được mối quan hệ giữa đầu tư và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Bởi lẽ, dễ thấy có những thời kỳ với một thành phần kinh tế tuy tỷ trọng đầu tư tăng nhưng tỷ trọng trong GDP lại giảm và ngược lại. Muốn nhìn nhận đúng vấn đề này phải phân tích bản chất của việc đầu tư đối với từng thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước nếu nhìn chung cũng chứng kiến tình trạng tỷ trọng vốn đầu tư tăng trong khi tỷ lệ GDP lại giảm. Tuy nhiên, đối với khu vực này nguyên nhân nằm ở các thành phần kinh tế cấu thành nên khu vực này. Bởi vì, tỷ trọng GDP của khu vực giảm là do sự thu hẹp hoạt động của kinh tế cá thể và kinh tế và kinh tế tập thể. Điều đó cung do nhu cầu chung của sự phát triển và phù hợp với xu hướng chung tiến bộ. Hiện nay vốn đầu tư tăng lên chủ yếu là đầu tư vào khu vực tư nhân. Và quả thật tỷ trọng GDP của khu vực này luôn có xu hướng tăng trong suốt kì nghiên cứu. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn thể hiện tính ưu trội về khả năng sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Bởi vậy mặc dù có những thời kỳ tỷ trọng vốn đầu tư giảm nhưng tỷ trọng GDP vẫn luôn tăng lên một cách đều đặn. Tóm lại, qua các phân tích ở trên có thể khẳng định vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Những tác động này nhìn chung không được thể hiện về mặt số lượng mà về mặt chất lượng của đầu tư. Ở đây, đầu tư được nghiên cứu là đầu tư hiệu quả và việc phân tích còn phụ thuộc vào sự khác nhau về nhiệm vụ, chức năng và lĩnh vực đầu tư của bản thân các thành phần kinh tế. 2. Khu vực kinh tế nhà nước từng bước nâng cao hiệu quả Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế hiện vật, bao cấp được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, chuyển sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đã khôi phục, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng và lợi thế của các chủ thể kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển đất nước, trước hết là cho kinh tế. Khu vực kinh tế nhà nước sau một thời gian cũng đã sớm phục hồi và hoạt động một cách có hiệu quả.Các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nhiều nghành, nhiều lĩnh vực có tác động trực tiếp tới nhiều nghành lĩnh vực khác trong nền kinh tế, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính tín dụng.Các nghành lĩnh vực này ít thu hút được khu vực tư nhân,cũng như do tính chất quan trọng của nó nên bắt buộc khu vực nhà nước phải tham gia quản lí thậm chí là độc quyền.VD An ninh quốc phòng Đóng góp của kinh tế nhà nước” cho GDP bao gồm các lĩnh vực: quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hoá thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) Tính đến cuối năm 1999 toàn quốc có 370 doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần,trong đó các bộ phận quản lý 69 doanh nghiệp, các tổng công ty quản lý 28 doanh nghiệp và các địa phương quản lý 273 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cổ phần hóa đang hoạt động tốt, nhiều chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều tăng: 1998 so với năm 1997 vốn tăng 3,1%,doanh thu tăng 133,5%,lợi nhuận sau thuế tăng 131%,các khoản nộp ngân sách tăng 153%, lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29% vá giá trị cổ tức đạt bình quân 2,6%, cao gần gấp 3 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng 3. Kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác ngày càng có sự đóng góp đáng kể vào GDP. Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã trải qua nhiều biến động trong suốt hai thập niên qua. Kể từ khi nhà nước từ bỏ vai trò độc quyền hoạt động kinh tế và công nhận thành phần kinh tế tư nhân, khu vực này không ngừng lớn mạnh và chính sách mở cửa mậu dịch đã trở thành nhân tố chính dẫn đến sự phát triển khá mau lẹ của nền kinh tế Việt Nam. Khung pháp lý đầu tiên cho khu vực kinh tế tư nhân trong nước được thiết lập vào năm 1990 với sự ban hành Luật Doanh nghiệp Tư nhân và Luật Công ty. Nhưng dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân chính là Luật Doanh nghiệp ban hành tháng 1/2000. Chỉ có khoảng 5000 doanh nghiệp tư nhân vào trước năm 1991 nhưng trong giai đoạn 1991-1999, số lượng doanh nghiệp tự nhân đã tăng lên xâp xỉ 5000 doanh nghiệp mỗi năm . Từ 2001 – 2005, số doanh nghiệp tăng nhanh, mỗi năm số doanh nghiệp thực tế hoạt động tăng thêm 14.213 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động vào cuối năm 2005 lên 113.352 . Ở quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp tư nhân là các hộ kinh doanh. Theo cuộc điều tra về mức sống hộ gia đình thực hiện năm 2004, có khoảng 7,4 triệu hộ, tức khoảng một nửa tổng số hộ gia đình, có hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như là nguồn lợi tức chính hay lợi tức phụ trong khoảng thời gian nhàn rỗi giữa các vụ mùa . Sự hình thành và lớn mạnh của của khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài đã xoay chiều hướng phát triển của nền kinh tế 180 độ. Kim ngạch xuất khẩu năm 1986 đạt 500 triệu USD, tăng lên 9.2 tỷ USD năm 1997, 35 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2007. Trong quá trình phát triển ấy, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân không ngừng gia tăng, vượt khu vực kinh tế nhà nước trên hầu hết các chỉ số kinh tế quan trọng Trên thị trường lao động, hàng năm, Việt Nam có khoảng 1,4 đến 1,5 triệu người gia nhập. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ cung cấp chưa tới 7% tổng số việc làm, do đó, sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân là khả năng duy nhất có thể giải quyết công ăn việc làm cho người dân và mở lối ra cho lao động dư dôi ở khu vực nông nghiệp, đặc biệt là phụ nữ trẻ . Trong giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp nhà nước chỉ tiếp nhận 5% trên tổng số 4 triệu lao động gia tăng, trong khi đó có 60% lao động được thu nhận bởi các doanh nghiệp tư nhân trong nước, 25% bởi các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp tư nhân không đăng ký, và 12% bởi các doanh ngiệp FDI . Về vốn đầu tư, năm 2010, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chiếm 32%, so với 17% vốn FDI và 49% vốn nhà nước . Điều cần lưu ý là trong 49% vốn nhà nước, phần của doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiếm chưa tới 20%, còn lại là từ ngân sách và vốn của chính phủ huy động . Mức tăng trưởng ngành công nghiệp là chỉ số kinh tế quan trọng khác: khu vực kinh tế tư nhân trong nước vượt các doanh nghiệp nhà nước với mức tăng trưởng hàng năm, tăng trung bình từ 18-24% so dưới 10% của doanh nghiệp nhà nước và đóng góp 33% sản lượng công nghiệp, so với 30% của khu vực nhà nước Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế . 4. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng 4.1 Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt. Một số nghành do có tác động mạnh đến sự phát triển của các thành phần kinh tế hay do tính chất quan trọng mà nhà nước phải trực tiếp quản lí nhằm tạo ra cho mình các công cụ để điều tiết kinh tế nói riêng và tất cả các mặt đời sống xã hội nói chung Các nghành nhà nước nắm độc quyền như các nghành liên quan đến an ninh quốc phòng nhằm đảm bảo bí mật quốc gia .Một số nghành như điện , nước,xăng dầu,than trước đây là độc quyền nhưng bây giờ cũng đang từng bước xóa bỏ độc quyền đưa giá cả hàng hóa về ở mức thị trường nhưng nhà nước vẫn giữ vai trò chủ yếu vì đây là những nghành nhạy cảm. Nhà nước quản lí để nhằm tạo sự ổn định thị trường, thúc đẩy,kích thích các ngành,các thành phần kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỉ trọng tương đối lớn trong nền kinh tế.VD tổng công ty đóng tàu VinaShin.Trong các doanh nghiệp này được nhà nước đầu tư rất lớn về tiền của tạo ra các cột trụ cho nền kinh tế cũng như là các nguồn thu thay thế dần nguồn thu từ thuế mà chắc chắn sẽ bi giảm xuống đáng kể trong giai đoạn mở cửa thị trường.Doanh nghiệp nhà nước có vai trò hàng đầu trong tổng nguồn thu của ngân sách(>40%) Ta cũng dễ nhận thấy là các doanh nghiệp đang chuyển mình theo hướng HĐH bằng cách đầu tư vào chiều sâu,đầu tư vào con người để từng bước tham gia sân chơi quốc tế.Khu vực nhà nước cũng có một khối lượng cán bộ kĩ thuât và công nhân lành nghề, đông về số lượng, đồng bộ về nghành nghề và tay nghề cao Theo kết quả điều tra doanh nghiệp nhà nước 1/1/2003 thì trong năm 2002 doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 8% về số doanh nghiệp nhưng chiếm 41,6% về số lao động; 55,9% về số vốn; 49,4% về doanh thu và chiếm 46,1% về tổng số nộp ngân sách của tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế. Qua những số liệu trên mặc dù số lượng DNNN giảm nhưng DNNN vẫn giữ được vị trí theo chốt của mình và vẫn khẳng định được vai trò quan trọngcủa mình trong sự đóng góp vào GDP 4.2 Khả năng cạnh tranh thấp: Một số lĩnh cực trong nền kinh tế không hấp dẫn được các nhà đầu tư vì rủi ro lớn cũng như thời gian thu hồi vốn dài như các lĩnh vực về cơ sở hạ tầng(xây dựng mạng lưới giao thông…).Nhưng chúng lại là các yếu tố cơ sở cần thiết của một nền kinh tế nên khu vực nhà nước phải trực tiếp xây dựng Bên cạnh đó các doanh nghiệp nhà nước hoạt động cũng không đạt mục tiêu lợi nhuận lên cao nhất.Các doanh nghiệp nhà nước cũng được hưởng những ưu đãi trong nền kinh tế quốc dân.Nhưng các doanh nghiệp này lại hoạt động một cách kém hiệu quả, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn quá lớn, nổi bật trong năm qua là tập đoàn đóng tàu thủy Vinashin đã tuyên bố phá sản, con số nợ lên tới >80 tỷ đồng,buộc nhà nước có những động thái tích cực tổ chức cơ cấu lại để tránh làm ảnh hưởng lên thị trường tài chính mà trực tiếp là các tổ chức tài chính,các ngân hàng.Chính sự ưu đãi này đã tạo ra sự ỷ lại,tạo ra một cơ chế bao cấp , làm cho các doanh nghiệp nhà nước ít động lực để vươn lên,kém năng động. Hiện nay nhà nước đang chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp, song tiến độ cổ phần hóa đang diễn ra chậm,chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ.Chủ yếu vẫn là do lãnh đạo các nghành va các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của chủ trương cổ phần hóa mà lại lo sợ ảnh hưởng đến quyền lợi,chưa yên tâm về hiệu quả nên còn chần chừ né tránh,sợ trách nhiệm… 5. Khu vực kinh tế hợp tác chậm được củng cố và phát triển Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết chưa thực hiện sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy nội lực, chưa thực sự Vai trò của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài. Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư. III. Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 1. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 1.1. Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo ngành: Thực hiện đường lối công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Đảng, cơ cấu đầu tư của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp hợp lý vì nước ta hiện nay nông dân vẫn chiếm một số lượng đông trong dân số và nông nghiệp nông thôn vẫn có vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. 1.1.1. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong GDP: Có thể thấy vai trò của các ngành kinh tế không ngừng thay đổi theo thời gian. Trong đó, ngành nông nghiệp từ chỗ là ngành quan trọng nhất (chiếm tỷ trọng cao nhất trong giai đoạn 1986-1990) đã dần nhường chỗ cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng của ngành dịch vụ nhìn chung không ngừng gia tăng trong các thời kỳ. Hiện nay, công nghiệp đang là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP. Đồng nghĩa với việc là ngành kinh tế quan trọng nhất. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng rất cao qua các năm và hiện nay đây là ngành kinh tế lớn thứ hai sau công nghiệp. + Qua bảng số liệu 3, ta có thể thấy rõ được xu hướng này: Nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư cho phát triển ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần, tuy giá trị vốn thì vẫn tăng dần theo các năm: từ 20933 tỷ đồng, chiếm 13,85% trong tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội năm 2000, đến năm 2005 là 25749 tỷ đồng, chiếm 7.5%, và năm 2009 chiếm 6.29% với giá trị vốn là 44759 tỷ đồng. Do đó tỷ trọng đóng góp cho GDP của ngành này cũng giảm rõ rệt: 24.35% năm 2000 xuống còn 20,97% năm 2005 và 20.91% năm 2009. Tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp có xu hướng chững lại, ít biến đổi, trung bình chiếm 41.56% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội trong giai đoạn này, điều này cũng dễ hiểu khi tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành dịch vụ tăng khá khả quan. Tuy tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành này ít biến đổi và chững lại nhưng cũng đã tác động làm tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP của ngành mình: từ 36.73% năm 2000 lên 41.02% năm 2005 và 40,24% năm 2009. Các ngành dịch vụ cũng có xu hướng gia tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối, cụ thể như: năm 2000 là 70.838 tỷ đồng chiếm 46,93%, năm 2005 là 171.282 tỷ đồng đạt 49.92% và lên đến 53.11% với 379.736 tỷ đồng năm 2009. Tỷ trọng vốn đầu tư lớn (trên dưới 50% tổng vốn đầu tư) nhưng trong giai đoạn 2000-2004 tỷ lệ đóng góp vào GDP lại có xu hướng giảm từ 38.74% xuống 37.98%, nhưng từ năm 2005 thì tác động đã có xu hướng thuận chiều, tăng từ 38.01% năm 2005 lên 38.85% năm 2009, điều này chứng tỏ vốn đầu tư đã được sử dụng bước đầu có hiệu quả. Bảng 3: Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành (H1) giai đoạn 2000-2009: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tỷ trọng vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế Nông nghiệp 13.85 9.47 8.76 8.45 7.89 57.5 7.43 6.38 6.45 6.26 Công nghiệp 39.23 42.38 42.34 41.29 42.75 42.58 42.24 41.81 40.38 40.63 Dịch vụ 46.93 48.16 48.9 49.77 49.36 49.92 50.33 51.81 53.17 53.11 Tỷ trọng GDP theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế Nông nghiệp 24.53 23.24 23.03 2.54 21.81 20.97 20.4 20.34 22.21 20.91 Công nghiệp 36.73 38.13 38.49 39.47 40.21 41.02 41.54 41.48 39.84 40.24 Dịch vụ 38.74 38.63 38.48 37.99 37.98 38.01 38.06 38.18 37.95 38.85 Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành (H1) Nông nghiệp / 6.014 8.297 0.04 -0.01 1.283 0.343 48.05 0.119 0.503 Công nghiệp / 2.107 -0.1 -0.97 1.886 -0.2 -0.63 7.048 0.865 0.617 Dịch vụ / -9.23 -3.957 -1.4 31.3 14.36 6.244 9.327 -4.36 -0.05 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Các hệ số co giãn của ngành nông nghiệp nhìn chung đều mang giá trị dương, điều đó có nghĩa là việc giảm tỷ trọng đầu tư đã tác động thuận chiều đến giảm tỷ trọng nông nghiệp. Chỉ riêng năm 2004, tác động này là ngược chiều. Hệ số co giãn trong năm 2004 là - 0.01 có nghĩa là giảm tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp 0.01% thì tỷ trọng nông nghiệp sẽ tăng 1%. Trong những năm còn lại thì năm 2003, hệ số co giãn có giá trị nhỏ nhất 0.04. Điều đó có nghĩa là để tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm 1% phải giảm tỷ trọng đầu tư nông nghiệp 0.04%. Hay ngược lại chỉ cần giảm tỷ trọng nông nghiệp 0.04% đã làm tỷ trọng nông nghiệp giảm 1%. Tức là năm đó mối quan hệ giữa tỷ trọng đầu tư và tỷ trọng GDP là rất chặt chẽ, đầu tư có tác động mạnh đến chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, để thích ứng với vấn đề độ trễ của đầu tư (do đặc trưng của 2 ngành này là các công trình đầu tư thường lớn hơn và có thời gian kéo dài hơn đầu tư cho nông nghiệp) xét hệ số co giãn theo giai đoạn. + Khi đó, đối với ngành công nghiệp, giai đoạn 2000-2004, H1 = 0.72975; giai đoạn 2005-2008, H1=1.5406. H1(CN) >0. Kết luận: đầu tư tác động đến thay đổi tỷ trọng công nghiệp và mức độ tác động giảm qua 2 giai đoạn. + Đối với ngành dịch vụ, H1(2000-2004)= 4.178, H1(2005-2008) = 5.1058, H1>0. Tức là để tăng tỷ trọng ngành dịch vụ thêm 1% thì trong giai đoạn 2005-2009 cần tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành dịch vụ 5.0158% còn trong giai đoạn 2000-2004 chỉ cần tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành dịch vụ 4.178%. Kết luận đầu tư tác động đến thay đổi tỷ trọng ngành dịch vụ và mức độ tác động giảm qua 2 giai đoạn. 1.1.2. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong tăng trưởng GDP: Bảng 4: Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đồi GDP (H2) giai đoạn 2000-2009: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tỷ trọng vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế Nông nghiệp 13.85 9.47 8.76 8.45 7.89 7.5 7.43 6.38 6.45 6.26 Công nghiệp 39.23 42.38 42.34 41.29 42.75 42.58 42.24 41.81 40.38 40.63 Dịch vụ 46.93 48.16 48.9 49.77 49.36 49.92 50.33 51.81 53.17 53.11 Tốc độ tăng trưởng GDP 5.32 6.1 6.54 6.45 7.26 8.48 8.29 8.85 7.37 6.63 Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đồi GDP (H2) Nông nghiệp / -2.16 -1.039 2.572 -0.53 -0.29 0.417 -2.09 -0.07 0.293 Công nghiệp / 0.548 -0.013 1.802 0.282 -0.02 0.356 -0.15 0.205 -0.06 Dịch vụ / 0.179 0.213 -1.29 -0.07 0.068 -0.37 0.435 -0.16 0.011 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Theo bảng số liệu trên có thể thấy việc phân bổ đầu tư vào hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp tuân thủ theo đúng đòi hỏi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể, H2 (NN) < 0. Điều đó có nghĩa là để đẩy nhanh tốc độ của tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng đầu tư vào khu vực nông nghiệp giảm qua các năm. Ví dụ như năm 2002, để góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 1%, tỷ trọng đầu tư của khu vực nông nghiệp đã giảm 2.09%. Xét theo cơ cấu 3 ngành kinh tế, tương tự phần trên, tính hệ số của công nghiệp và nông nghiệp theo giai đoạn. Đối với ngành công nghiệp, H2 (2000-2004) = 0.65475 và H2 (2005-2008) = 0.0648. H2>0 cho thấy sự gia tăng tỷ trọng của đầu tư và ngành công nghiệp đã đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Đối với ngành dịch vụ, H2 (2000-2004) = - 0.24175. H2 (2005-2008) = - 0.002. H2 < 0 cho thấy giữa đầu tư vào ngành dịch vụ và tăng trưởng kinh tế chưa có mối quan hệ thuận chiều mạnh mẽ. Nói cách khác đầu tư vào khu vực dịch vụ chưa thu được những hiệu quả tương xứng với phần bỏ ra. 1.1.3: Đầu tư làm thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành: 1.1.3.1. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp: Trước thời kỳ đổi mới nền nông nghiệp nước ta hết sức lạc hậu, đó là một nền nông nghiệp độc canh sản xuất lúa gạo. Đường lối đổi mới kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã làm thay đổi bộ mặt của nền nông nghiệp nước ta, nền nông nghiệp phát triển mạnh hơn đa dạng hơn với nhiều ngành nghề mới, khai thác được những lợi thế so sánh của từng vùng. Đặc biệt, đầu tư tác động giúp đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất góp phần tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, cơ cấu sản xuất nông nghiệp được xây dựng hợp lý, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn… Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi thì chưa thật rõ nét. Ngành trồng trọt vẫn chiếm 78,6% năm 2005, ngành chăn nuôi hàng năm chỉ tạo ra được 24,1% giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp, một tỷ trọng rất nhỏ so với tiềm năng sẵn có, do chăn nuôi vẫn chủ yếu có quy mô nhỏ, phân tán khó phòng chống được dịch bệnh và áp dụng các phương pháp chăn nuôi tiên tiến. Bảng 5: Tác động của đầu tư đến nông nghiệp giai đoạn 2000-2009 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tỷ trọng vốn đầu tư trong nội bộ ngành nông nghiệp (%) Nông nghiệp và lâm nghiệp 82.3 84.4 83.27 84.5 78.9 78 74.2 74.8 75.2 75.5 Thủy sản 17.8 15.6 16.73 15.5 21.1 22 25.8 25.2 24.8 24.5 Tỷ trọng trong nội bộ ngành nông nghiệp (%) Nông nghiệp và lâm nghiệp 86.3 84 83.5 82.6 82.4 81.3 80.7 80.2 82.3 82.2 Thủy sản 13.7 16 16.5 17.4 17.6 18.7 19.3 19.8 17.7 17.8 Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư vào thay đổi tỷ trọng nội bộ ngành Nông nghiệp và lâm nghiệp / -1.01 2.308 -1.27 32.09 0.832 7.595 -1.13 0.211 -3.61 Thủy sản / -0.75 2.384 -1.25 36.84 0.664 6.203 -0.77 0.155 -2.35 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Qua bảng 5, ta có thể thấy vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp tập trung phần lớn vào nông lâm nghiệp, bởi vậy mà phần lớn giá trị tăng thêm đạt được trong năm qua trong ngành nông nghiệp là do tăng trưởng của ngành nông lâm nghiệp. Tỷ trọng của ngành thủy sản liên tục tăng qua các năm từ 2000 cho đến 2007 mặc dù tỷ trọng đầu tư vào ngành có lúc tăng có lúc giảm. Điều này cho thấy vốn đầu tư được sử dụng tương đối hiệu quả. Xu hướng chung là giảm tỷ trọng đầu tư vào nông lâm nghiệp và tăng tỷ trọng đầu tư vào thủy sản. Kết quả là làm cho chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phát triển theo chiều hướng tích cực: tăng tỷ trọng thủy sản, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp. Qua bảng ta có thể thấy hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư vào thay đổi tỷ trọng nội bộ ngành nông nghiệp mang giá trị âm hoặc dương trong những năm khác nhau. Vì thế để ngành nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực thì phải thay đổi cơ cấu đầu tư phù hợp đối với từng thời kỳ. 1.1.3.2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp: Bảng 6: Tác động của đầu tư đến công nghiệp giai đoạn 2000-2009 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tỷ trọng vốn đầu tư trong nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng (%) Công nghiệp khai thác mỏ 16.17 11.27 9.4 11.48 18.07 18.39 18.11 17.05 20.22 20.81 Công nghiệp chế biến 49.19 52.79 53.51 51.68 47.21 46.75 47.02 48.74 43.82 43.44 Sản xuất và phân phối điện khí đôt, nước 28.64 23.42 24.72 25.19 25.72 25.83 25.48 24.71 25.92 25.99 Xây dựng 6.01 12.52 12.38 11.65 9 9.04 9.39 9.5 10.04 9.76 Tỷ trọng nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng(%) Công nghiệp khai thác mỏ 26.26 24.16 22.38 23.68 25.2 25.83 24.64 23.54 24.78 24.77 Công nghiệp chế biến 50.54 51.88 53.49 51.82 50.58 50.29 51.16 51.25 51.07 49.93 Sản xuất và phân phối điện khí đôt, nước 8.63 8.73 8.83 9.18 8.72 8.4 8.27 8.4 7.97 8.78 Xây dựng 14.57 15.22 15.3 15.32 15.49 15.48 15.94 16.8 16.18 16.52 Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư vào thay đổi tỷ trọng nội bộ ngành Công nghiệp khai thác mỏ / 3.789 2.252 3.809 8.943 0.708 0.33 1.311 3.53 72.306 Công nghiệp chế biến / 2.76 0.439 1.095 3.615 1.699 0.334 20.794 28.741 0.388 Sản xuất và phân phối điện khí đôt, nước / -15.729 4.846 0.48 -0.42 -0.117 0.876 -1.922 -0.957 0.027 Xây dựng / 24.28 -2.127 -45.109 -20.499 -6.884 1.303 0.217 -1.54 -1.327 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Khu vực công nghiệp và xây dựng chuyển dịch theo hướng tích cực và ngày càng hợp lý hơn, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu như chế biến nông lâm thủy sản, da giày, may mặc…; ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế. Ngành điện, ga, nước giữ ở mức tỷ trọng ổn định, tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng không nhiều do các ngành công nghiệp gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Giá trị sản xuất công nghiệp những năm qua tăng trưởng nhanh nhưng chủ yếu tăng ở các ngành may mặc, da giày, lắp ráp ô tô, lắp ráp máy tính, lắp ráp xe máy có giá trị tăng thêm chỉ chiếm 10-15% giá trị sản xuất. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp vẫn còn chậm, chất lượng tăng trưởng còn thấp. Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, phân lớn đầu vào cho quá trình sản xuất công nghiệp vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chiếm khoảng 85% giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp và xây dựng với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10,1%, trong đó công nghiệp chế biến tăng 11,69%/năm, điện ga nước tăng 12,15%/năm. Riêng công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần. Giá trị tăng thêm của ngành xây dựng bình quân hàng năm đạt 10,75% cao hơn tốc độ tăng của ngành công nghiệp, tuy vậy công tác giải phóng mặt bằng chậm, chi phí lớn, công tác quản lý vẫn chưa tốt gây thất thoát, lãng phí. 1.1.3.3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ: Khu vực dịch vụ nhìn chung không tăng được tỷ trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước, chủ yếu là do những ngành tạo ra nhiều lợi nhuận chưa được tập trung đầu tư thích đáng, chưa được đầu tư theo chiều sâu: Ngành tài chính ngân hàng, bảo hiểm, du lịch. Tuy nhiên, trong những năm qua một số ngành dịch vụ vẫn có mức tăng trưởng khá như: Thương mại, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính, tín dụng… Khu vực dịch vụ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nước ta, chính vì vậy tại nghị quyết đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu tăng trưởng dịch vụ bình quân hàng năm là 7% và phấn đấu đến năm 2010 giá trị gia tăng thêm của khu vực dịch vụ phải chiếm từ 42-43% tổng sản phẩm trong nước. Tốc độ tăng bình quân hàng năm về giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ giai đoạn 2001-2005 đạt 6,96% cao hơn mức tăng 5,69% của giai đoạn 5 năm trước đó 1996-2000 và thấp hơn mức tăng 7.07% của giai đoạn 2006-2009. Trong đó năm 2005 tăng 8,5 %/năm và năm 2008 tăng 7,37%/năm. Các ngành dịch vụ kinh doanh (thương mại, khách sạn, nhà hàng, vận tải, thông tin liên lạc, tài chính ngân hàng, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn liên quan) nhìn chung có mức tăng trưởng cao, đây đều là những ngành có rất nhiều tiềm năng đề phát triển trong giai đoạn tới. Ngành giao thông vận tải cũng thu hút đựoc lượng vốn lớn của xã hội Kết quả năm 2009, đã làm mới, cải tạo nâng cấp 750 km đường bộ, hơn 20.000 m cầu đường bộ, mở mới 3.149 km và nâng cấp hơn 12.000 km đường giao thông nông thôn, năng lực thông quan cảng biển tăng 23,4 triệu tấn, cảng sông tăng 17,2 triệu tấn, qua các sân bay tăng 8 triệu lượt khách.. Cơ sở hạ tầng giao thông của đất nước được cải thiện thêm một bước góp phần phục vụ phát triển KT-XH.  Ngành thông tin liên lạc tiếp tục được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Đến tháng 7/2010, cả nước có trên 157.8 triệu thuê bao điện thoại, trong đó có 17.5 triệu thuê bao cố định và 140.3 triệu thuê bao điện thoại di động. Số thuê bao Internet băng rộng trên cả nước tính đến hết tháng 7/2010 ước đạt 3,4 triệu thuê bao, tăng 31,6% so với cùng thời điểm năm 2009. Công tác nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại đang được chú trọng đầu tư như sử dụng mạng kỹ thuật số, tự động hóa và đa dịch vụ. Các tuyến truyền dẫn viba và cáp quang đã đạt tiêu chuẩn vào loại cao nhất hiện nay. Đặc biệt việc phóng vệ tinh Vinasat – 1 vào vũ trụ năm 2008 đã tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển ngành thông tin liên lạc trong nước và ra thế giới. Ngành giáo dục đào tạo đang được tập trung đầu tư phát triển. Đến cuối năm 2005 đã hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường học, lớp học. Năm học 2008-2009, cả nước đã có 369 trường đại học và cao đẳng trong đó có 160 trường đại học và 209 trường cao đẳng. So với năm học 2004-2005 con số lượng trường đã tăng thêm trên 60%. Quy mô vốn đầu tư cho giáo dục cũng đã tăng thêm hơn 30%. Tuy nhiên vấn đề chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực đầu ra cũng là vấn đề cần được quan tâm chú trọng trong thời gian tới. Ngành y tế tiếp tục được đầu tư phát triển. Các chỉ tiêu sức khỏe của nhân dân được nâng lên rõ rệt và cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập. Những tri thức tiên tiến của y học thế giới được cập nhật thường xuyên. Phương tiện hiện đại và thuốc chữa bệnh được tăng cường. Bác sỹ, y tá được đào tạo bài bản hơn. Mạng lưới y tế cơ sở đạt nhiều thành tựu quan trọng, đến cuối năm 2009, nước ta đã có 80% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động, 100% số xã có trạm y tế, trong đó gần 2/3 xã trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Tóm lại, nếu chia toàn bộ khu vực dịch vụ thành 3 nhóm ngành: nhóm 1 là các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường, bao gồm: thương nghiệp, khách sạn nhà hàng, vận tải kho bãi thông tin liên lạc, tài chính tín dụng, các hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng, hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân. Nhóm 2 là các ngành dịch vụ sự nghiệp, bao gồm hoạt động khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, hoạt động văn hoá thể thao, các hoạt động đoàn thể hiệp hội. Nhóm 3 là các ngành dịch vụ hành chính công, bao gồm quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc, hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế, thì tăng trưởng và sự đóng góp của từng nhóm ngành vào tốc độ chung của toàn khu vực dịch vụ như sau: Nhóm dịch vụ kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất và đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng chung của khu vực dịch vụ. Cùng với việc chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, đã xuất hiện nhiều loại hoạt động dịch vụ mới mang đậm nét của nền kinh tế thị trường, có tỷ lệ giá trị tăng thêm cao, như các hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm, vận tải hàng không, đường biển, bưu chính viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ xúc tiến đầu tư, sản xuất kinh doanh, tin học, pháp lý, tuyển chọn nhân sự, việc làm... nếu được quan tâm đúng mức sẽ có ảnh hưởng lớn đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính các ngành này phát triển sẽ đóng góp nhiều cho sự phát triển chung của nền kinh tế, nhất là thúc đẩy phát triển bền vững của những ngành thuộc khu vực công nghiệp - xây dựng. Song, vì chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của nhóm ngành này trong nền kinh tế thị trường, nên chưa khai thác, phát huy được khả năng và tiềm năng của chúng. Vốn đầu tư và chính sách của Nhà nước vẫn còn tập trung vào một số ngành dịch vụ truyền thống như thương mại, khách sạn nhà hàng, vận tải đường bộ... Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tăng trưởng của các ngành dịch vụ thị trường mới này. Nhóm ngành dịch vụ sự nghiệp khoa học - công nghệ, văn hoá, y tế, giáo dục hiện vẫn chủ yếu do Nhà nước quản lý hoặc trực tiếp làm, hoặc nhận được nhiều sự trợ giúp của Nhà nước về kinh phí, về cơ chế chính sách, nên tốc độ tăng trưởng hàng năm phụ thuộc vào việc chi ra của ngân sách, chưa huy động tốt các nguồn lực xã hội. Nhóm dịch vụ hành chính công đã đóng góp tích cực vào tốc độ tăng chung, nhờ tạo nên sự ổn định, cải thiện môi trường pháp luật... Sự tăng trưởng của ngành này cũng phụ thuộc vào nguồn ngân sách. Tuy nhiên, tiết kiệm chi tiêu hành chính công, chống lãng phí, thất thoát là chủ trương hoàn toàn đúng và còn phải tiếp tục làm riết róng hơn nữa, nhưng nếu đầu tư không tương xứng với vị trí và vai trò của nó, không bảo đảm điều kiện tối thiểu cho công việc điều hành, quản lý đất nước sẽ ảnh hưởng lớn đến công cuộc cải cách hành chính, trì trệ trong việc triển khai thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kỷ cương phép nước dễ bị buông lỏng, lãng phí tham nhũng dễ gia tăng. 1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Bảng 7: Độ lệch tỷ trọng các ngành các giai doạn 1995-2009: Đơn vị: % Giai đoạn 1995-1999 2000-2004 2005-2009 Độ lệch tỷ trọng Nông nghiệp -1.74 -2.73 1.34 Độ lệch tỷ trọng Công nghiệp 5.72 3.36 -1.19 Độ lệch tỷ trọng Dịch vụ -3.98 -0.59 0.23 Độ lệch tỷ trọng Phi Nông nghiệp 1.74 2.73 -1.34 Độ lệch tỷ trọng Phi Dịch vụ 3.98 0.59 -0.23 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Nếu xét theo tương quan giữa 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp có thể thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi đúng hướng. Từ năm 1995-2005, độ lệch tỷ trọng nông nghiệp luôn mang giá trị âm cho thấy hướng chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Nếu xét theo tương quan giữa 2 khu vực dịch vụ và sản xuất vật chất có thể thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đi đúng hướng. Từ năm 1995-2005, độ lệch tỷ trọng dịch vụ luôn mang giá trị âm cho thấy hướng chuyển dịch từ khu vực dịch vụ sang sản xuất vật chất. Giai đoạn 1995-2005, độ lệch tỷ trọng ngành nông nghiệp có giá trị luôn tăng đều qua các năm. Tỷ trọng công nghiệp tăng nhưng mức tăng có xu hướng chậm lại. Điều đó là phù hợp nếu công nghiệp nhường bước cho dịch vụ phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực dịch vụ lại không đi theo một xu hướng như mong muốn. Giai đoạn 1995-2005, độ lệch tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ mang dấu âm trong khi chủ trương chung của chúng ta trong thời kỳ này là không ngừng gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Điều đó có nghĩa là những chủ trương của Đảng chưa được thực sự đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay, xu hướng chung đã được lập lại. Độ lệch tỷ trọng dịch vụ lại mang giá trị dương trong giai đoạn 2005-2009. Có thể lạc quan rằng kế hoạch 5 năm 2006 -2010 đang được triển khai đúng hướng trong thực tế. 1.3. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu được đánh giá thông qua hệ số chuyển dịch k. Như đã trình bày ở trên, ta chỉ đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu giai đoạn từ sau 1990 (giai đoạn 1986-1989 không xét vì cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực nông nghiệp và giảm tỷ trọng phi nông nghiệp). Qua số liệu ở bảng 8, ta thấy hệ số k chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp thời kì 1995-2009 đều dương và nhỏ hơn 1/2 cho thấy: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng công nghiệp hóa nhưng chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Trong 3 giai đoạn, giai đoạn 1995-1999 có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm nhất (k= 0.019 là nhỏ nhất) so với hai giai đoạn còn lại. Mặc dù không có sự đảo lộn lớn do chuyển dịch cơ cấu quá nhanh nhưng việc chuyển dịch chậm tiềm ẩn yếu tố không bền vững trong tăng trưởng đòi hỏi chi phí điều chỉnh lớn. Cần phải có những biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và ổn định. Bảng 8: Hệ số chuyển dịch cơ cấu kinh tế Năm 1995 1999 2000 2004 2005 2009 GDP (%) 100 100 100 100 100 100 Trong đó: Nông nghiệp 27.2 25.4 24.53 21.81 20.97 20.91 Công nghiệp 28.8 34.5 36.73 40.21 41.02 40.24 Dịch vụ 44.0 40.1 38.74 37.98 38.91 38.85 Chuyển dịch cơ cấu của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp Giai đoạn 1995-1999 2000-2004 2005-2009 Cos q 0.99957 0.99912 0.99027 Góc q 1.68 2.40 7.9992 Hệ số k 0.019 0.027 0.09325 Chuyển dịch cơ cấu của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất Giai đoạn 1995-1999 2000-2004 2005-2009 Cos q 0.99711 0.99988 0.99195 Góc q 4.36 0.89 7.275 Hệ số k 0.048 0.010 0.082 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Hệ số k chuyển dịch cơ cấu giữa hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất thời kì này cũng đều dương. Giai đoạn 2005-2009 có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ nhất. Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, không đem lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào công cuộc đổi mới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực. Từ các chỉ số đã phân tích ở trên có thể thấy nền kinh tế đã chuyển dịch đúng hướng, tuy nhiên tốc độ còn chậm và hàm chứa những yếu tố bất hợp lý và không bền vững. IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÙNG LÃNH THỔ 1.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế hiện nay: Cơ cấu kinh tế cùng nước ta chuyển dịch theo xu hướng sau: Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá,. Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường quốc phòng- an ninh ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kĩ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh. Và phải có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển. 2.Tác động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế 2.1 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế nói chung 2.1.1 Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo vùng lãnh thổ: Bảng9: Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế giai doạn 1996 - 2005: Đơn vị % Loại vùng 2001-2005 2005-2010 2001-20010 Trung du và miền núi phía Bắc 7,10 7,50 7,30 Đồng bằng Bắc Bộ 27,70 26,70 27,20 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 17,40 17,80 17,60 Tây Nguyên 4,00 4,90 4,45 Đông Nam Bộ 30,60 29,70 30,15 Đồng bằng sông Cửu Long 13,20 13,40 13,30 (nguồn:Vụ quản lý vùng, Bộ kế hoạch và đầu tư) Trong giai đoạn 2001-2005 đầu tư tập trung chủ yếu cho những vùng phát triển,vốn đầu tư cho các vùng phát triển vẫn chiếm tỉ lệ cao, vùng Đông Nam Bộ chiếm tới 30,6% trong khi đó Tây Nguyên chỉ chiếm 4% và Trung du miền núi phía Bắc chỉ chiếm 7,1%. Giai đoạn những năm 2005-2010 vốn đầu tư cho các vùng núi, vùng kém phát triển có tăng lên nhiều hơn so với giai đoạn trước, tuy nhiên lượng tăng giảm không nhiều. Trong những năm gần đây thì những vùng sâu, vùng xa, miền núi và những vùng khó khăn đã được chú trọng phát triển hơn trước. Đối với các vùng lãnh thổ, chúng ta đã thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách đối với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông thuỷ lợi, điện nước, còn yếu kém...nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư. Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển kinh tế trọng điểm (84% tổng vốn đầu tư), tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài vùng phát triển. Nếu trong những năm đầu khi có Luật Đầu tư nước ngoài, ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% vốn đầu tư, thì đến hết năm 1998 các tỉnh phía Bắc đã thu hút được trên 30% số dự án trên 35% vốn đầu tư và đến năm 2007 khu vực này thu hút được 24 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 27% tổng vốn đăng ký của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút 44,87 tỷ USD vốn đầu tư , chiếm 54% tổng vốn đăng ký. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút 8,6 tỷ USD, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Đến nay tất cả các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có dự án đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta luôn luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA và FDI chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vốn FDI đã lan đến tất cả các tỉnh và thành phố, kể cả những địa phương nghèo, còn chậm phát triển như Điện Biên, Lai Châu, Đak Nông,…Vốn FDI đã đóng góp 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra hơn 1,2 triệu việc làm trực tiếp, góp phần chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công nghệ... Tính đến hết tháng 10/2010 vùng Tây Bắc thu hút được 253 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1,53 tỷ USD, chiếm gần 0,8% tổng vốn FDI của cả nước. Cùng với việc giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, giảm chi phí đầu tư, giải quyết những vướng mắc cụ thể cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, trong những năm gần đây đã ban hành hàng loạt các cơ chế chính sách mang tính khuyến khích cao..., từng bước hạn chế và xoá bỏ các rào cản; đã tạo ra nhiều khả năng huy động tốt hơn nguồn vốn từ khu vực dân cư, từ doanh nghiệp nhà nước, từ tín dụng nhà nước và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1.2. Đầu tư góp phần hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm: Các vùng kinh tế trọng điểm thường có sức thu hút vốn đầu tư lớn, do vậy vùng ngày càng phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng, nền kinh tế có điều kiện phát triển mạnh hơn. Các vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Hiện nay 3 vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 70% GDP, gần 3/4 sản lượng công nghiệp, thu ngân sách và xuất khẩu. Bảng10: Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước: Đơn vị: % Vùng 2005 2010 Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc 18,90 24,00 Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 5,30 5,50 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 42,70 41,00 Tổng ba vùng 66,90 70,50 (nguồn: Tạp chí quản lý nhà nước) Đầu tư giúp hình thành nên các khu công nghiệp, nhờ có đầu tư mà các khu vực có nguồn lực, có phương hướng phát triển kinh tế, các nhà máy được xây dựng…Như khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, có nguồn tài nguyên dầu thô sẵn có, nhưng những năm trước, do không đủ điều kiện để xây dựng hệ thống, nhà máy khai thác nên vùng vẫn chỉ như là vùng đất bình thường, sau đó vào năm 1999 nhờ có sự đầu tư về công nghiệp, máy móc, cơ sở hạ tầng…Nhà máy lọc Dung Quất đã ra đời, hình thành nên khu công nghiệp Dung Quất phát triển, khai thác được tài nguyên của vùng. Khu kinh tế mở Chu Lai ở Quảng Nam là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm thể chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Khu công nghiệp Đồng Văn ở Hà Nam, 4 khu công nghiệp ở Đà Nẵng, 2 khu công nghiệp ở Thừa thiên Huế, khu công nghiệp Đồng Nai – Biên Hoà. 2.1.3 Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế một số vùng lãnh thổ: 2.1.3.1. Bước đầu phát huy lợi thế so sánh của từng vùng: Trong những năm qua Nhà nước ta đã có chính sách phân bổ cơ cấu đầu tư tương đối hợp lý. Hàng loạt các công trình trọng điểm quốc gia được xây dựng lên với nguồn vốn đầu tư rất lớn. Các công trình này đều được xây dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên xã hội của vùng và còn phát huy đươc lợi thế so sánh. Các công trình như Thủy điện Sơn La, Khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất tập trung phát triển công nghiệp lọc dầu,hóa dầu,hóa chất…phát huy được lợi thế của vùng và đóng góp lớn cho kinh tế đất nước. Ngoài ra các vùng có tiềm lực khác nhau lại được đầu tư để phát triển những ngành nghề sản phẩm khác nhau. Như trung du và miền núi phía Bắc dễ dàng chuyên môn hóa về cây trồng và chế biến cây công nghiệp, Tây Nguyên , Đông Nam Bộ phát triển các vùng Công nghiệp sản xuất hàng hóa bởi thế mạnh là vùng thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp.Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long thì chuyên môn hóa về lương thực, thực phẩm,là 2 vựa lúa lớn nhất cả nước nên chú trọng đầu tư vào đã đem lại giá trị xuất khẩu cao. Trong nông nghiệp đã đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá quy mô lớn cả ở khu vực đồng bằng và trung du, miền núi như các vùng sản xuất lương thực tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, các vùng nuôi trồng thuỷ sản ở ven biển, các trung tâm dịch vụ nghề cá ở vùng đồng bằng ven biển; các vùng cây công nghiệp hàng hoá xuất khẩu cà phê, cao su, điều, dâu tằm ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và chè, quế, hồi... ở Trung Du miền núi Bắc Bộ. Vùng cây ăn quả trước đây mới hình thành ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long nay đã phát triển cả ở Trung Du miền núi; đóng góp tích cực trong việc phát triển và ổn định đời sống các tầng lớp dân cư.. Gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước. Các làng nghề ở nông thôn được khôi phục và phát triển mạnh. Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được triển khai xây dựng và đi vào vận hành theo quy hoạch. Điều này có tác động tích cực đến sự nghiệp phát triển công nghiệp nói chung và của vùng nói riêng. Hiện tại số khu công nghiệp, khu chế xuất được cấp giấy phép và đang triển khai ngày càng cao. Nhìn chung các khu công nghiệp triển khai theo đúng định hướng và qui hoạch và đã phát huy tác dụng, nổi bật là 16/17 khu công nghiệp được ưu tiên sớm tại vùng kinh tế trọng điểm phía nam, một số khu được triển khai ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và miền Trung có chậm hơn. Các khu công nghiệp của các tỉnh còn lại nói chung đều dành cho cả công nghiệp trong nước và nước ngoài, hình thành ban đầu như những điểm tập trung công nghiệp. Xu thế phân bố công nghiệp đang được quy hoạch theo hướng mở rộng quy mô và địa bàn, tăng năng lực và nâng cao hiệu quả trên các vùng: cả vùng phát triển và một số nơi ở vùng chậm phát triển, ở cả đô thị và một số vùng nông thôn. Ngoài các xí nghiệp quy mô nhỏ gắn với cơ sở nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp, vật liệu xây dựng và khai khoáng ở địa phương, công nghiệp được tập trung hơn vào các ngành then chốt, hướng tới sự phân bố trải rộng và liên kết theo quy mô toàn quốc và khu vực, rõ nhất là các ngành điện, xi măng và vật liệu xây dựng, sắt thép, dầu khí, sản xuất một số hàng tiêu dùng. Khoáng sản được chú trọng nhiều ở những địa phương nào có thế mạnh về nó.Như than ở quảng Ninh thì ở đó được đầu tư xây dựng các hầm mỏ,nhà máy để khai thác chế biến.Gang thép ở Thái Nguyên ,….và rất nhiều những lợi thế về tài nguyên ở mỗi vùng mang lại lợi ích kinh tế lớn.Đầu tư phát triển giúp mỗi vùng có thể phát triển kinh tế bền vững,liên kết với các vùng miền địa phương khác tạo thành một chỉnh thể đồng nhất cùng phát triển. 2.1.3.2 Thúc đẩy sự phát triển kinh tế các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn: Nhờ nguồn vốn đầu tư, các vùng đã phát huy đực thế mạnh của mình, có điều kiện để khai thác sử dụng tài nguyên, giúp tăng trưởng kinh tế khu vực, có thể xem xét một số khu vực sau: 2.2 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng Năm 2009, vùng KTTĐ Bắc Bộ có diện tích là 15594 km2 (chiếm 4,7% diện tích cả nước) và dân số là 1458,9 triệu (người chiếm 16,2% dân số cả nước), kinh tế toàn vùng hiện chiếm khoảng 21% GDP, tỷ trọng thu hút đầu tư đạt 26% về số dự án, 27% vốn đầu tư, đóng góp 25% ngân sách cả nước (năm 2009) . Thu nhập bình quân đạt khoảng 1.000 USD/đầu người/năm, gấp 1,4 lần so với mức bình quân cả nước. Vốn đầu tư phát triển cho vùng vào năm 1991 – 1995 là 26,9%; năm 1996 – 2000 là 25,5% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước. Trong 2 năm 2006-2007 tổng vốn đầu tư xã hội để phát triển của vùng đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 5 năm 2001-2005 (257 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân đạt 25,4%/năm. Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, Vùng KTTĐ Bắc Bộ có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án và 27% tổng vốn đăng ký trong cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện của cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Các đô thị hạt nhân của vùng này là TP Hà Nội, TP Hải Phòng và Hạ Long (Quảng Ninh) trong đó Hà Nội là thành phố trung tâm đầu não về chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Trên cơ sở đó sẽ phát triển các chuỗi đô thị theo các hành lang kinh tế tiến đến hình thành các dải siêu đô thị Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Hoà Lạc, Hải Phòng - Hạ Long. Cơ cấu kinh tế của vùng có sự dịch chuyển đáng kể. Năm 2007, khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 10,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm 43,7%, dịch vụ chiếm 45,9% tổng GDP của vùng (năm 2005, các tỷ trọng tương ứng là 12,6%, 42,2%, 45,2%). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng đạt 26,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu 18,2 tỷ USD. Thu ngân sách của vùng tăng bình quân 19,2%, tăng nhanh hơn với mức bình quân của cả nước (18,3%), tổng thu ngân sách của vùng năm 2007 đạt 75.260 tỷ đồng, tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%. Chi ngân sách hàng năm tăng bình quân 8%, chi ngân sách năm 2007 là 32.861 tỷ đồng. Hiện tại cùng như trong tương lai, Đồng bằng sông hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 2.3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc) Tây Bắc là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nhất là phát triển về công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, du lịch, dịch vụ... Tổng diện tích tự nhiên của vùng khoảng 109.245km2, chiếm 33% diện tích cả nước. Tính đến ngày 1/4/2009, dân số của vùng khoảng 11,496 triệu người, chiếm 13,5% dân số cả nước – là khu vực có mật độ dân số thuộc diện thấp nhất cả nước (khoảng 105 người/km2). Tăng trưởng GDP toàn vùng bình quân hàng năm giai đoạn 2005 - 2010 đạt từ 9 - 11%, riêng năm 2010 đạt trên 10%; thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 11 triệu đồng/năm. Giai đoạn 2001 – 2005 vồn đầu tư phát triển cho vùng là 7,1%, giai đoạn 2006 – 2010 là 7,5% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Cơ cấu kinh tế của vùng đã dịch chuyển theo hướng tích cực qua từng năm với tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân của vùng giảm và tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng. Năm 2010, nông lâm ngư nghiệp chiếm 34,09%, công nhiệp và xây dựng chiếm 28,64%, dịch vụ chiếm 36,98%. Trong 9 tháng đầu năm 2010, vùng Tây Bắc có hơn 2.100 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký trên 11.500 tỷ đồng. Vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp trong vùng đạt gần 5,4 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp trong vùng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực chính như khai thác mỏ, luyện kim, công nghiệp năng lượng, chế biến nông lâm thủy sản, trồng cao su… Tính đến hết tháng 10 năm 2010, Vùng có 253 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 1,53 tỷ USD, chiếm gần 0,8% tổng vốn FDI của cả nước. Vốn đầu tư bình quân một dự án 6 triệu USD, thấp hơn bình quân của cả nước (16 triệu USD/dự án). ). Hiện, Lào Cai, Phú Thọ, Lạng Sơn là những địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài của vùng Tây Bắc. Trong 10 tháng đầu năm 2010, Vùng đã thu hút được 10 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký là 38,4 triệu USD, 5 lượt dự án tăng vốn, tổng số vốn tăng thêm là 166,39 tiệu USD. Như vậy trong 10 tháng đầu năm 2010, luồng vốn FDI chảy vào Vùng (cả vốn cấp mới và tăng vốn) là 204,79 triệu USD. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 160 dự án, tổng vốn đăng ký 988,6 triệu USD, chiếm 63,2% về số dự án và 64,4% về vốn đăng ký; khai khoáng với 11 dự án, tổng vốn đăng ký 148,6 triệu USD, chiếm 4,3% về số dự án và 9,7% về vốn đăng ký. Lĩnh vực nông, lâm nghiệp thuỷ sản có 26 dự án, tổng vốn đăng ký là 109,5 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ có 17 dự án với tổng số vốn là 98,64 triệu USD. 2.4 Khu vực Duyên Hải Miền Trung: Theo số liệu năm 2009, Vùng KTTĐ miền Trung có diện tích tự nhiên là 27.976,7 km2, chiếm khoảng 8,4% diện tích tự nhiên của cả nước. Dân số trung bình năm 2009 là 6,1 triệu người bằng 7,1% dân số cả nước. Dân số đô thị chiếm 33,1% dân số của vùng (tỷ lệ này của cả nước là 29,6%). Bình quân các năm gần đây, đã đóng góp khoảng 36,2% GDP so với cả vùng duyên hải miền trung (tính từ Thanh Hóa đến Bình Thuận). Tốc độ tăng GDP giữa các tỉnh, thành phố trong VKTTÐMT không đều, nhưng dao động trung bình từ 10,6% đến 11,5%/năm. So cả nước, ước tính, tăng trưởng GDP bình quân của VKTTÐMT giai đoạn 2006 - 2010 tăng khoảng 1,2 lần; tỷ lệ đóng góp trong GDP khoảng 6%; giá trị xuất khẩu bình quân đầu người (tính đến đầu năm 2010) vào khoảng 374 USD; tốc độ đổi mới công nghệ bình quân đạt 20 - 22%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo (đến cuối năm 2009) là 49%; tỷ lệ đô thị hóa giai đoạn này cũng khá cao, khoảng 42%; số lao động không có việc làm đã giảm xuống dưới 5%; số hộ nghèo (theo tiêu chí mới) còn khoảng 8,8%...   Các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) đều có những lợi thế, tiềm năng về hệ thống cảng biển nước sâu, sân bay và những di sản văn hoá thế giới nổi tiếng, những khu công nghiệp, khu kinh tế. Tính đến hết tháng 3/2010, toàn vùng KTTĐ miền Trung có 384 dự án vốn FDI đăng ký (kể cả cấp mới và tăng vốn) đạt gần 14,5 tỷ USD, chiếm 74,5% về số dự án và 61% về tổng vốn đăng kí của cả khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Chỉ tính riêng 3 năm gần đây (2007 – 2009), vốn FDI vào vùng đã đạt mức kỷ lục gần 11,3 tỷ USD, hơn gấp 4 lần của 19 năm trước đó cộng lại (giai đoạn 1988 – 2006 chỉ đạt 2,7 tỷ USD) đã chứng tỏ việc thu hút đầu tư vào miền Trung đã bắt đầu “sôi” lên. Song, ông Trịnh Minh Vân - Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Xúc tiến đầu tư miền Trung cho rằng, vì thiếu một chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn, có chiều sâu theo từng thời kỳ cho cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, lẫn tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư theo kiểu “mạnh ai nấy làm” trên mặt bằng cơ sở hạ tầng yếu… đã trở thành lực cản tăng tốc của miền Trung. . 2.5. Vùng Tây Nguyên: Với diện tích tự nhiên 5,4 triệu ha, trong đó có 1,36 triệu ha đất đỏ bazan (chiếm tới 66% diện tích đất bazan toàn quốc), vùng đất Tây Nguyên rất thuận lợi để phát triển cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung chuyên canh. Dân số toàn vùng khoảng 4,8 triệu người, trong đó khoảng 1,5 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục, mức tăng GDP bình quân năm giai đoạn 2001 - 2005 đạt 10,05%. Trong 8 năm (2001- 2008), tổng số vốn đầu tư phát triển vùng Tây Nguyên chỉ đạt 109.000 tỷ đồng, bằng 4% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Trong đó, vốn ODA đạt 929,11 triệu USD, FDI gần 1,2 tỷ USD đầu tư vào 128 dự án tại Tây Nguyên. Năm 2009, Tây Nguyên có 133 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với trên 726,7 triệu USD vốn đầu tư đăng ký, vốn điều lệ là trên 378,2 triệu USD; trong đó tỉnh Lâm Đồng chiếm tới 114 dự án và trên 542,4 triệu USD. 2.6.Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL bao gồm 4 tỉnh, thành phố là Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau có diện tích là 16618,4 km2 với dân số khoảng 6,2 triệu người, có mật độ dân số là 375 người/km2, tỷ lệ đô thị hóa là 33,6% (cả nước là 29,6%), ( số liệu năm 2009). Trong 5 năm 2001 – 2005, GDP tăng trưởng của vùng này đạt bình quân 10,96%/năm (trong khi cả nước 7,5%), từ năm 2006 - 2008 là 13,57%/năm. Năm 2009, theo số liệu báo cáo của các địa phương, vốn thực hiện của vùng ĐBSCL đạt hơn 2,7 tỉ USD, chiếm 35% tổng vốn đăng ký. Năm 2010, vùng ĐBSCL thu hút được 70 dự án với tổng vốn đầu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctac_dong_cua_dau_tu_den_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_sua_0706.doc