Đề tài Sự phát triển của thị trường Logistics cho hội chợ, triển lãm ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Sự phát triển của thị trường Logistics cho hội chợ, triển lãm ở Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: Logistics là một lĩnh vực kinh doanh đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế hiện đại. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật,… Logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Còn tại các quốc gia đang phát triển, con số này lên tới 25%-30%. Tuy nhiên ở Việt Nam, Logistics vẫn là một ngành còn khá mới mẻ, các công ty Logistic phần lớn mới chỉ kinh doanh nhỏ lẻ một vài hoạt động trong tổng thể chuỗi Logistics phức tạp. Trong những năm gần đây, các công ty sản xuất đã chú trọng hơn nhiều đến các vấn đề về chuỗi cung ứng nên ngành Logistic cũng đã được đầu tư và có những bước tiến mạnh mẽ. Cùng xu hướng mở cửa nền kinh tế, công tác xúc tiến thương mại cũng đã phát triển rất mạnh trong thời gian qua. Đi liền với xu hướng đó là sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng các cuộc triển lãm quốc tế tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây và dự báo sẽ còn phát triển mạnh mẽ sau gi...

doc66 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 880 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sự phát triển của thị trường Logistics cho hội chợ, triển lãm ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: Logistics là một lĩnh vực kinh doanh đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế hiện đại. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật,… Logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Còn tại các quốc gia đang phát triển, con số này lên tới 25%-30%. Tuy nhiên ở Việt Nam, Logistics vẫn là một ngành còn khá mới mẻ, các công ty Logistic phần lớn mới chỉ kinh doanh nhỏ lẻ một vài hoạt động trong tổng thể chuỗi Logistics phức tạp. Trong những năm gần đây, các công ty sản xuất đã chú trọng hơn nhiều đến các vấn đề về chuỗi cung ứng nên ngành Logistic cũng đã được đầu tư và có những bước tiến mạnh mẽ. Cùng xu hướng mở cửa nền kinh tế, công tác xúc tiến thương mại cũng đã phát triển rất mạnh trong thời gian qua. Đi liền với xu hướng đó là sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng các cuộc triển lãm quốc tế tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây và dự báo sẽ còn phát triển mạnh mẽ sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế năm 2007-2009. Có được điều đó là do Việt Nam liên tiếp nhiều năm liền được đánh giá là điểm nóng đầu tư nước ngoài, là thị trường béo bở với các nhà đầu tư nhạy bén với thời cuộc. Thêm vào đó, hàng hoá tham gia vào các hội chợ, triển lãm có những yêu cầu đặc biệt hơn hàng hoá thông thường như thời hạn triển lãm, thủ tục hành chính phức tạp, những yêu cầu khắt khe trong vận chuyển, lưu kho,…đã làm cho lĩnh vực này gần như trở thành phân khúc cao cấp trong thị trường Logistics, có khả năng sinh lời cao nhưng đồng thời cũng đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp, uy tín của các nhà cung cấp dịch vụ. Trước tình hình kinh doanh ngày càng cạnh trang khốc liệt và yêu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng đã đòi hỏi các công ty kinh doanh Logistics nói chung và lĩnh vực Logistics hội chợ, triển lãm nói riêng tất yếu cần có những chiến lược phát triển rõ ràng cùng với những giải pháp kịp thời để nâng cao khẳ năng cạnh tranh của mình. Đó chính là sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài mà tác giả thực sự muốn đi sâu nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Dựa trên cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh và dịch vụ Logistics, cùng với những số liệu của công ty, tác giả tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty trong lĩnh vực Logistics cho hội chợ triển lãm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty trong bối cảnh toàn cầu hóa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này là sự phát triển của thị trường Logistics cho hội chợ, triển lãm ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ Logistics hội chợ triển lãm. 4. Kết cấu đề tài: Luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh dịch vụ Logistics hội chợ triển lãm của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho dịch vụ Logistics hội chợ triển lãm của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT Tổng quan về Logistics: 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về Logistics: 1.1.1.1 Khái niệm: Logistics là một thuật ngữ rất rộng và thực tế đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Logistics và khó có thể khẳng định, định nghĩa nào là đúng nhất. Nhưng đúc rút lại từ những nhận định đó, xin đưa ra một định nghĩa được coi là đầy đủ nhất và được sử dụng rộng rãi nhất là định nghĩa của hội đồng quản lý Logistics của Hoa Kỳ ( LCM-Council of Logistics Management) “Logistics là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát quá trình lưu chuyển, dự trữ hàng hoá, dịch vụ và những thông tin liên quan từ điểm suất phát đầu tiên đến nơi tiêu thụ cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách hàng”. Tại Việt Nam, theo quy định của luật thương mại, tại mục 4, điều 233 quy định: dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. 1.1.1.2 Đặc điểm: Logistics là một quá trình: điều đó có nghĩa Logistics không phải là một hoạt động riêng lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, liên quan mật thiết và tác động qua lại mật thiết với nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống qua các bước: nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và hoàn thiện. Do đó Logistics xuyên suốt mọi giai đoạn, từ giai đoạn đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Logistics liên quan đến tất cả các nguồn tài nguyên các yếu tố đầu vào cần thiết để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Nguồn tài nguyên không chỉ có vật tư, nhân lực mà còn bao gồm cả dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ. Logistics tồn tại ở cả hai cấp độ: hoạch định và tổ chức. Ở cấp độ thứ nhất, vấn đề đặt ra là phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm hay dịch vụ…ở đâu? Vào khi nào? Và vận chuyển chúng đi đâu?. Do vậy tại đây xuất hiện vấn đề vị trí. Cấp độ thứ hai quan tâm tới việc làm thế nào để đưa được nguồn tài nguyên, các yếu tố đầu vào từ điểm đầu đến điểm cuối dây chuyền cung ứng. Từ đây nẩy sinh vấn đề vận chuyển và lưu trữ. 1.1.2 Phân loại Logistics: Logistics được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, nếu theo hình thức tổ chức hoạt động thì có các hình thức sau: Logistics bên thứ nhất (1PL): chủ sở hữu hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu bản thân. Logistics bên thứ hai (2PL): người cung cấp dịch vụ Logistics bên thứ hai sẽ cung cấp dịch vụ cho các hoạt động đơn lẻ trong dây chuyền logistics như vận tải, lưu kho bãi, thanh toán, mua bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng. Trong hình thức này, chưa tích hợp các hoạt động đơn lẻ thành chuỗi cung ứng đồng nhất. Logistics bên thứ ba (3PL): là người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ Logistics cho từng bộ phận. 3PL tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin, trong dây chuyền cung cứng của khách hàng. Logistics bên thứ tư (4PL): người cung cấp dịch vụ là người tích hợp (integrator), gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi Logistics. 4PL hướng đến quản lý cả quá trình logistics. Logistics bên thứ năm (5PL): được nói tới trong lĩnh vực thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ Logistics cung cấp dịch vụ trên cơ sở nền tảng là thương mại điện tử. Cũng có thể phân loại dịch vụ Logistics theo quá trình: Logistics đầu vào (inbound Logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào một cách tối ưu về cả giá trị, thời gian và chi phí cho quá trình sản xuất. Logistics đầu ra (outbound Logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung cấp thành phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Logistics ngược (reverse Logistics): là các dịch vụ được cung ứng đảm bảo quá trình thu hồi phế phẩm, phế liệu,...các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường phát sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý. Logistics bao gồm bốn dòng chảy chính, dòng chảy hàng hoá, nguyên liệu, dòng chảy thông tin, dòng chảy tài chính, và dòng chảy chứng từ, tài liệu.Logistics hiện nay đã tiến lên một giai đoạn phát triển mới đó là chuỗi cung ứng (supply chain).Tuy nhiên, tại Việt Nam các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cấp độ 2PL, 3PL tại các doanh nghiệp lớn, và thường làm nhiệm vụ của người giao nhận (Forwarder, Freight Forwarder) 1.1.3. Nội dung của logistics: Logistics ngày nay được nhắc đến là Logistics hợp nhất (Integrated Logistics) với ý nghĩa là tổng hợp của tất cả những hoạt động Logistics cần thiết để đảm bảo hỗ trợ một cách hiệu quả nhất và kinh tế nhất cho một tổ chức. Vận tải: Không một công ty nào có thể tự cung cấp tất cả các dịch vụ mà công ty cần. Do đó công ty dù lớn hay nhỏ cũng điều phải dựa vào môi trường bên ngoài để tồn tại, để có nguyên vật liệu cần thiết duy trì hoạt động. Vận tải chính là cách thức chuyên chở những nguyên liệu đó từ nguồn cung cấp tới doanh nghiệp. Thông qua quá trình chuyển đổi trong doanh nghiệp, nguyên vật liệu được chế biến tạo thành sản phẩm cuối cung, và một lần nữa, vận tải đóng vai trò phân phối sản phẩm này tới tay người tiêu dùng. Do vậy vận tải chính là một yếu tố của Logistics, là mạch máu lưu thông toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Logistics phải phối hợp chặt chẽ với vận tải, dây dựng chiến lược vận tải khoa học, hợp lý. Xác định lộ trình vận tải, chọn hãng vận tải thích hợp, xúc tiến, đôn đốc và kiểm soát hàng hoá trong quá trình vận chuyển, làm hồ sơ khiếu nại khi hàng hoá bị hư hỏng, mất mát. Lưu kho, dự trữ: quản trị dự trữ, lưu kho cũng là một bộ phận quan trọng trong quản lý Logistics. Ở mỗi giai đoạn của quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng luôn cần phải tích luỹ một lượng nhất định nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm. Sự tích luỹ đó được gọi là dự trữ, trong quản lý dự trữ cần quan tâm đến mức dự trữ tối ưu, là mức mà có thể tối thiểu hoá chi phí dự trữ nhưng vẫn phục vụ được khách hàng với chất lượng tốt, không những giữ chân khách hàng cũ mà còn thu hút thêm khách hàng mới. Bộ phận sửa chữa và dự phòng: sửa chữa và dự phòng bao gồm tất cả các bộ phận liên quan đến sản phẩm để có thể sửa chữa hay thay thế khi có yêu cầu. Quá trình dự trù gồm có: xác định nhu cầu sửa chữa thay thế, xác định các bộ phận sửa chữa thay thế, văn bản hoá những vấn đề xác định trên, tiến hành thực hiện sửa chữa thay thế và bàn giao lại cho khách hàng. Có hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dự trù: khả năng xẩy ra hư hỏng cần sửa chữa, thay thế, và hậu quả của việc hư hỏng đó. Các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến dự trù như: mức độ sẵn có của các bộ phận dự trù, môi trường hoạt động sản xuất, chi phí dự trù trong mối tương quan với chi phí sản xuất. Nhân sự và đào tạo: đào tạo phải được thiết kế phù hợp với sản phẩm cung cấp, phù với tài liệu kỹ thuật được sử dụng, với hướng dẫn bảo dưỡng, với các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Bên cạnh đó, đào tạo trong Logistics là chương trình mà các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng của mình và nội dung thường liên quan đến các sản phẩm do chính bộ phận này sản xuất ra. Tài liệu kỹ thuật: tài liệu kỹ thuật tồn tại là để thực hiện chức năng thông tin, tài liệu kỹ thuật do các nhân viên kỹ thuật soạn thảo. Trong Logistics tài liệu kỹ thuật hỗ trợ khách hàng sử dụng đúng chức năng của sản phẩm, nhờ đó thoả mãn nhu cầu của khách hàng, góp phần đạt mục tiêu của Logistics. Thiết bị hỗ trợ và kiểm tra: máy móc và thiết bị, dù là một bộ phận của quá trình sản xuất hay là một sản phẩm cuối cùng do doanh nghiệp cung cấp đều cần định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng và sửa chữa. Những hoạt động như vậy được tiến hành nhờ các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Các thiết bị này phải được lựa chọn và thiết kế phù hợp với từng yêu cầu nhất định, phù hợp với sản phẩm, với môi trường vận hành sản phẩm và khả năng của người vận hành bảo dưỡng. Trong quá trình sản xuất, khi thiết kế sản phẩm được hoàn thiện xong thì danh mục các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra cũng phải hoàn thành. Hoạt động Logistics ở đây thể hiện ở chỗ phải đưa ra quyết định cần cái gì, cần số lượng bao nhiêu và khi nào thì cần đến, tức là phải lập kế hoạch để trả lời cho những câu hỏi trên. Cơ sở vật chất: các nguồn lực Logistics sẽ chưa đầy đủ nếu như chưa có cơ sở vật chất cần thiết để hỗ trợ cho các thành phần khác của Logistics. Một cơ sở vật chất cho Logistics có thể được xây mới hoặc cũng có thể cải tạo từ những công trình đã xây để đáp ứng những yêu cầu cụ thể của Logistics. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong lĩnh vực Logistics hội chợ triển lãm: Môi trường vĩ mô: Văn hóa Công nghệ Dân số Doanh Nghiệp Luật pháp Kinh tế Tự nhiên Hình 1.1: Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 1.2.1.1 Môi trường dân số: Môi trường dân số bao gồm các yếu tố như quy mô dân số, mật độ dân số, tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp. Đó là các khía cạnh được quan tâm nhiều nhất bới nó liên quan trực tiếp đến con người và con người cũng chính là tác nhân tạo ra thị trường. Hiện nay chúng ta đang sống trong một thế giới luôn có nhiều thay dổi, trong đó bao hàm những thay đổi về mặt dân số. Những sự biến động về dân số có thể làm thay đổi về mặt lượng của thị trường, đồng thời nó cũng ảnh hưởng trực tiếp làm thay đổi về mặt chất lượng của thị trường.Chúng ta có thể liệt kê một số thay đổi chính yếu mà ít nhiều đã tác động đến các hoạt động của một doanh nghiệp. Những sự chuyển dịch về dân số: Là sự gia tăng về mặt quy mô dân số ở một số quốc gia, một số khu vực do tình trạng di dân. Xu hướng di dân này là do chính sách nhập cư thoáng hay do điều kiện kinh tế phát triển ở một số quốc gia. Ngoài ra một su hướng di dân thường thấy hiện nay là tình trạng dân chúng tập trung vào các đô thị lớn do điều kiện làm việc và đời sống cao hơn tạo ra một quy mô và mật độ cao về dân số ở các đô thị lớn. Những thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân chúng: Tỷ lệ sinh đẻ thấp ở một quốc gia phát triển tạo ra một cơ cấu tuổi tác già hơn dân chúng. Ngoài ra các điều kiện kinh tế, các điều kiện phúc lợi xã hội ở các quốc gia phát triển cũng tạo ra một cấu trúc tuổi già hơn trong dân chúng do tuổi đời trung bình trong dân chúng cao hơn. Một cơ cấu dân cư có trình độ văn hóa cao hơn: Sự nâng cao về đời sống kinh tế, văn hóa và giáo dục tạo ra một tỷ lệ cao hơn dân số có trình độ văn hóa. Ngoài ra do sự phát triển về kỹ thuật công nghệ đã làm thay đổi dần vai trò của máy móc, tri thức trong các hoạt động sản xuất kinh doanh đã dẫn đến một sự gia tăng số lượng công nhân áo trắng trong cơ cấu lao động của xã hội. Sự thay đổi này tạo ra trên thị trường những nhu cầu tiêu dung cao cấp hơn, đòi hỏi nhiều hơn vào các nhu cầu giải trí, văn hóa, tinh thần. 1.2.1.2 Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên thuận lợi là một trong những yếu tố để phát triển Logistics. Các cảng biển tự nhiên như vịnh hay các cảng nước sâu là một trong những đặc điểm về tự nhiên rất có giá trị trong việc phát triển vận tải sông, vận tải biển mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn có được. Việc phát triển đường bộ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng và phát triển Logistics. Đất đai bằng phẳng là điều kiện lý tưởng để phát triển giao thông đường bộ, địa hình nhiều đồi núi, đầm lầy phát triển giao thông đường bộ sẽ rất khó khăn. Là một quốc gia có biển, với chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, hệ thống cảng biển đa dạng trải đều từ Bắc vào Nam lại nằm trên tuyến đường hàng hải quốc tế, phải nói rằng thiên nhiên đã ưu đãi cho Việt Nam một điều kiện rất lý tưởng để phát triển vận tải đường biển. Với sự ưu đãi này không những tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển buôn bán với các quốc gia, các khu vực trên thế giới mà còn có thể đưa Việt Nam trở thành nơi trung chuyển hàng hóa trong khu vực. Ngoài lợi thế về đường biển, hệ thống sông ngòi Việt Nam cũng đa dạng và phong phú đặc biệt là đồng bằng Nam Bộ, tạo điều kiện phát triển giao thông nội thủy. Hàng hóa được dỡ khỏi cảng biển, tiếp tục lên các phương tiện vận tải nội thủy theo các đường sông đi sâu vào trong đất liền để giao hàng. Với hai vùng châu thổ Bắc Bộ và Nam Bộ bằng phẳng, rộng lớn nối với nhau bởi dãy đất Trung Bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường sắt và ôtô một mắt xích không thể thiếu được trong vận tải đa phương thức. Với điều kiện tự nhiên như đề cập trên đây, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để áp dụng và phát triển hoạt động Logistics. 1.2.1.3 Môi trường kinh tế: Với sự tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc của nền kinh tế trong những năm qua, nhu cầu giao lưu phân phối ngày càng trở nên cấp thiết và ngành Logistics đã trở thành một ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất Việt Nam, đóng góp xấp xỉ 15% tổng GDP cả nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007-2009 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế các quốc gia trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Suy thoái kinh tế dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu sụt giảm nghiêm trọng, tất cả các ngành Logistics cũng suy giảm và gặp không ít khó khăn trong giai đoạn 2007-2009. Kể từ cuối năm 2009, nền kinh tế Việt Nam cũng như thế giới có xu hướng phục hồi là một dấu hiệu tốt cho ngành Logistics. Theo hướng tích cực, kinh doanh quốc tế đang trở thành xu hướng của thời đại, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO ngày 07/11/2006 mở đường cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển những bước tiến lớn trong tương lai. Đặc biệt trong 10 năm tới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đến 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ lại càng lớn. Theo số liệu của Bộ Thương Mại, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 và 2008 tưng ứng đạt 48,6 tỷ và 52,9 tỷ USD, tăng tương ứng 21,9% và 29,5%. Cũng theo số liệu của Bộ Thương Mại năm 2008 sau hai năm Việt Nam gia nhập WTO, FDI bùng phát kể từ năm 2007 đăng ký tới 21,3 tỷ USD mức cao nhất kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1987 thực hiện đạt trên 8 tỷ USD riêng phần vốn nước ngoài là 6,7 tỷ USD. Các con số về cam kết và thực hiện giải ngân tương ứng năm 2008 là 60,3 tỷ USD, 11.5 tỷ USD. Từ năm 2009 với việc Việt Nam mở cửa hoạt động Logistics sự đầu tư này được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Các tên tuổi lớn trong ngành Logistics thế giới như TNT, DHL, Mearsk Logistics,.. đều đã có mặt ở Việt Nam. Đây một mặt là thách thức lớn với các doanh nghiệp kinh doanh Logistics còn non trẻ của Việt Nam, một mặt cũng là cơ hội thúc đẩy ngành Logistics Việt Nam bắt kịp với xu hướng của thế giới. 1.2.1.4 Môi trường chính trị, pháp luật: Yếu tố chính trị, pháp luật ngày càng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước năm 2005, pháp luật Việt Nam chưa hề có quy định về việc kinh doanh dịch vụ Logistics cũng như các hình thức dịch vụ Logistics. Luật thương mại được quốc hội thông qua ngày 16/4/2005 mới có quy định về dịch vụ này một cách khái quát từ điều 233 đến điều 240. Nhưng mãi tới ngày 05/9/2007, nghị định 140/2007/NĐ-CP mới được ban hành để quy định chi tiết luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics. Theo cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường dịch vụ theo lộ trình tới năm 2009, vì vậy những quy định chi tiết trong nghị định đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của thị trường. Việc tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập hàng hoá để tham gia hội chợ triển lãm thương mại được thực hiện theo các quy định tại luật thương mại, nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 của chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động buôn bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý, mua bán gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài và thông tư số 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 hướng dẫn một số nội dung quy định tại nghị định số 12/2006/NĐ-CP và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên đến nay thì các điều khoản luật về ngành Logistics của Việt Nam vẫn còn khắt khe đối với các nhà đầu tư nước ngoài do đó các hoạt động đầu tư vào ngành Logistics Việt Nam vẫn còn hạn chế. Chẳng hạn như đối với việc kinh doanh bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được mở công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%, trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi, tỷ lệ này không quá 51%. Quy định này đến năm 2014 mới được chấm dứt. Điều này sẽ dẫn đến cả mặt có lợi và bất lợi. Nó có lợi đối với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước của chính phủ, nhưng ngược lại cũng làm hạn chế sự vươn lên phát triển của ngành Logistics Việt Nam để bắt kịp với xu hướng mới. 1.2.1.5 Môi trường văn hoá, xã hội: Với thói quen cũng như văn hoá kinh doanh nhỏ lẻ của người Việt Nam từ trước tới nay cũng là những hạn chế gây nên tình trạng trì trệ và phát triển manh mún của ngành Logistics ở Việt Nam: Trước hết là về phía chính sách công ty Logistics với nhau. Như chúng ta đã biết cơ sở vật chất cho ngành Logistics là hết sức tốn kém, do đó đa phần các công ty Việt Nam chưa đủ khả năng kinh doanh tất cả các mắt xích trong chuỗi các hoạt động Logistics, các công ty Việt Nam mới đáp ứng khoảng ¼ nhu cầu trong nước, do đó vấn đề liên kết, hợp tác đôi bên cùng có lợi giữa các công ty này là tất yếu. Nhưng thực tế vấn đề này được các công ty trên thực hiện còn rất yếu, dẫn đến không tiết kiệm được chi phí cũng như nâng cao hiệu quả dịch vụ, tạo niềm tin với khách hàng. Không những không liên kết mà giữa các doanh nghiệp này còn xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá giá trong khi chất lượng còn yếu thì thành ra hại lẫn nhau. 1.2.1.6 Môi trường công nghệ: Phải nói rằng cơ sở dữ liệu thệ thống thông tin của Việt Nam nói chung, ngành Logistics nói riêng còn nhiều bất cập. Các trang web của các cơ quan chuyên ngành Logistics chưa thực sự mạnh, chưa thực sự hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp, dữ liệu thông tin còn chưa phong phú, chưa đáp ứng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nhiều khi các trang web ở nước ngoài lại chứa đựng nhiều thông tin ở Việt Nam hơn hẳn những trang web trong nước. đặc biệt các công ty trong nước thì chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về công ty mình, những dịch vụ mà mình có. Những tiện ích dành cho khách hàng như hệ thống (track and trace) tìm kiếm cơ sở dữ liệu của lô hàng hầu như không doanh nghiệp nào làm được. Các hệ thống quản lý chuỗi cung ứng cũng như dịch vụ khách hàng đang bùng nổ trên thế giới được các công ty Logistics ứng dụng rộng rãi thì ở Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ như các hệ thống RFID, CRM, ERP… Phải xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, cơ sở dữ liệu phải mạnh để nó thật sự giúp ích là cầu nối giữa cộng đồng Logistics Việt Nam với khách 1.2.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô: Sử dụng mô hình 5 lực của M.Porter để phân tích, đây được xem như môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng chính là những áp lực mà doanh nghiệp phải cạnh tranh trực tiếp. Do vậy, doanh nghiệp cần phân tích và đánh giá đúng. Những công ty có khả năng gia nhập thị trường Nhà cung ứng Sản phẩm hay dịch vụ thay thế Người mua Các công ty cùng ngành nghề cạnh tranh nhau Sức mặc cả Sức mặc cả Mối đe dọa Mối đe dọa Sơ đồ 1: Mô hình 5 lực tác động hay cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp 1.2.2.1 Mối đe dọa của những người gia nhập ngành (đối thủ tiềm ẩn): Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ quyết định gia nhập ngành. Những đối thủ này khi gia nhập ngành sẽ đem theo những nguồn lực mới: Tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ mới… Chính điều này làm cho cạnh tranh diễn ra rất gay gắt và làm cho thị phần cũng như lợi nhuận giảm. Mối đe dọa xâm nhập ngành phụ thuộc vào: Tính kinh tế nhờ quy mô: Coi sự giảm xuống về chi phí cho một đơn vị sản phẩm là do sự tăng lên tuyệt đối trong một thời kỳ về khối lượng sản phẩm. Ở trường hợp này một công ty muốn xâm nhập vào ngành gặp nhiều khó khăn và trở ngại buộc phải đầu tư một quy mô lớn, phải đối phó với những phản ứng mạnh mẽ của doanh nghiệp trong ngành. Rào cản kinh tế nhờ quy mô có ở nơi các hoạt động kinh tế diễn ra theo kiểu liên kết dọc nghĩa là hoạt động thành công ở các công đoạn sản xuất đến phân phối. Tại đây các đối thủ mới nhập cuộc phải vào cuộc dưới dạng liên kết hoặc buộc sự bất lợi về chi phí cũng như khả năng khó khăn nguyên liệu đầu vào, hay thị trường cho sản phẩm khi đa số các nhà cạnh tranh đã có liên kết. Tính dị biệt hóa sản phẩm: có nghĩa là một công ty đã ổn định đã có một nhãn hiệu và một lượng khách hàng trung thành. Những yếu tố này gây ra rào cản vì buộc những công ty nào nếu muốn xâm nhập ngành phải đầu tư rất lớn cho việc quảng cáo, chăm sóc khách hàng để có được lòng trung thành từ họ. Các yêu cầu về vốn: sự cần thiết phải đầu tư một lượng tài chính lớn, đặc biệt là cho công tác quảng cáo và nghiên cứu… nếu muốn có được các năng lực cạnh tranh với các đối thủ trong ngành. Phí tổn chuyển đổi: Là phí tổn một lần mà người mua gặp phải khi chuyển đổi từ sản phẩm của doanh nghiệp này sang sản phẩm của doanh nghiệp khác. Các chi phí này có thể bao gồm: chi phí đào tạo lại nhân viên, máy móc thiết bị mới, trợ giúp kỹ thuật, đăng lý lại sản phẩm, thậm chí những chi phí do cắt đứt mối quan hệ. Khả năng tiếp cận các kênh phân phối: Khi những kênh phân phối đối với sản phẩm đã ổn định, thì công ty mới vào phải thuyết phục các kênh phân phối ấy chấp nhận sản phẩm của mình bằng việc phá giá, chi tiêu quảng cáo nhiều hơn và những động thái tương tự. Điều này làm lợi nhuận giảm, thậm chí thua lỗ. Những bất lợi về chi phí không liên quan đến quy mô như: công nghệ, sản phẩm độc quyền, có nguồn nguyên liệu thuận lợi, vị trí thuận lợi, những khoản hỗ trợ từ chính phủ. Tóm lại việc gia nhập ngành của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào lợi nhuận của ngành và mức rủi ro, cụ thể là: Bảng 1.1: Rào cản mức xâm nhập ngành Rào cản xâm nhập Thấp Lợi nhuận thấp, ổn định Lợi nhuận thấp, rủi ro cao Cao Lợi nhuận cao, ổn định Lợi nhuận cao, rủi ro cao Từ việc phân tích các rào cản này giúp doanh nghiệp không ngừng nâng cao chúng, chính tự nâng cao chính các nguồn lực của mình nhằm đối phó với các đối thủ chuẩn bị hay muốn xâm nhập ngành. Áp lực từ sản phẩm thay thế: Xét theo nghĩa rộng (cạnh tranh chung) thì các công ty trong cùng một ngành đều có cạnh tranh với các sản phẩm thay thế từ các ngành khác. Chính các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa (mức trần) đối với những mức giá mà những công ty trong ngành ấy có thể đưa ra trong phạm vi có thể thu được lợi nhuận. Điều này thể hiện qua độ co giãn của cầu chéo, tức là khi giá sản phẩm trong ngành tăng khuyến khích dùng các sản phẩm thay thế. Một số loại hình thay thế là: Thay thế hoàn toàn. Thay thế bình thường. Các sản phẩm thay thế cần được quan tâm là: + Những sản phẩm nằm trong xu hướng có thể cạnh tranh giá cả với sản phẩm đang bị cạnh tranh. + Các sản phẩm đang sản xuất ở những ngành có lợi nhuận cao. 1.2.2.3 Sức mạnh mặc cả của người mua: Người mua trực tiếp họ buộc doanh nghiệp giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Áp lực này xuất hiện từ những điều kiện sau: Người mua có tính tập trung hay mua những khối lượng hàng hóa lớn so với doanh số người bán. Số lượng người mua ít sản phẩm, nhóm người mua này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí người mua bỏ ra. Lợi nhuận người mua này thấp. Người mua tạo ra được mối đe dọa có cơ sở là họ có thể rút ra khỏi thị trường. Sản phẩm không quan trọng đối với chiến lược sản phẩm hay dịch vụ của người mua. Người mua có đủ thông tin. Như vậy, những người tiêu dùng cũng như khách hàng của ngành, với tư cách người mua có hầu hết các quyền lực như vậy. Do vậy để giảm áp lực từ người mua công ty cần lựa chọn nhóm khách hàng của mình có ít quyền lực nhất hay thay đổi quyền lực của họ. 1.2.2.4 Sức mặc cả của nhà cung ứng: Nhà cung cấp là một áp lực khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào của doanh nghiệp, giảm chất lượng sản phẩm hay dịch vụ mà họ cung cấp qua đó làm giảm chất lượng và đó như làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhà cung cấp sẽ có sức mạnh mặc cả khi: Có rất ít nhà cung cấp cho cùng mặt hàng. Không buộc phải “giành giật” với những sản phẩm thay thế khác có thể đem bán trong ngành nghề ấy. Công ty không phải là khách hàng thường xuyên của họ và không quan trọng, lại mua với số lượng ít. Nguyên liệu đầu vào là các mặt hàng quý, hiếm. Các nhà cung ứng là những nhà cung ứng độc quyền hoặc sản phẩm thay thế đặc biệt mà công ty không có nhà cung cấp nào khác. 1.2.2.5 Các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành. Đây là áp lực thường xuyên và trực tiếp cạnh tranh với công ty để dành lấy những vị thế cạnh tranh nhất định. Các doanh nghiệp trong ngành thường dùng các chiến thuật cạnh tranh về giá cả, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và gia tăng chất lượng chăm sóc khách hàng. Các yếu tố quyết định đến tính chất và cường độ cạnh tranh. Số đối thủ cạnh tranh quá nhiều hoặc quy mô cân bằng. Tốc độ tăng trưởng ngành chậm. Điều này tạo ra cuộc chiến khốc liệt giành thị phần. Chi phí cố định hoặc lưu trữ cao. Chính điều này làm cho các doanh nghiệp tăng sản lượng nhằm tận dụng hiệu ứng kinh tế nhờ quy mô nên tạo ra dư thừa lớn trong ngành và cuộc chiến về giá xảy ra. Tính dị biệt hóa không cao và chi phí chuyển đổi thấp, chính điều này tạo ra cuộc cạnh tranh về giá và lòng trung thành của khách hàng. Các đối thủ cạnh tranh đa dạng, phức tạp nên khó thỏa thuận luật chơi thống nhất và cùng chia sẻ phân đoạn. Quyết tâm cao trong đường lối chiến lược của đối thủ. Họ sẵn sàng cạnh tranh với bất kỳ đối thủ nào và bằng mọi cách đạt được mục tiêu, chấp nhận hi sinh lợi nhuận trong ngắn hạn. Rào cản trở ngại cho việc thoát khỏi. Họ có thể phải ở lại mặc dù không muốn, khi ở lại họ sẽ cạnh tranh gay gắt hơn. Việc khó thoát ra khỏi ngành là do: + Tài sản thiết bị chuyên môn hóa cao. + Phí tổn cố định thoát ra lớn. + Các rào cản tinh thần. + Các chính sách của Nhà nước và xã hội Như vậy, chính các đối thủ cạnh tranh hiện tại là lượng lực cạnh tranh quan trọng nhất mà doanh nghiệp phải đương đầu. Do vậy, bên cạnh việc nâng cao các năng lực cạnh tranh thì doanh nghiệp cần quan tâm đến hoạt động của đối thủ cạnh tranh để có những phản ứng kịp thời. 1.3 Đánh giá chung: Thị trường Việt Nam thực sự có nhiều tiềm năng và cơ hội lớn đối với ngành Logistics. Với những điều kiện tự nhiên ưu đãi, cộng thêm môi trường kinh tế, chính trị thuận lợi, ngành Logistics Việt Nam chắc chắn sẽ còn phát triển hết sức mạnh mẽ trong thời gian tới. Riêng với lĩnh vực hậu cần hội chợ, triển lãm còn khá mới mẻ nhưng tiềm năng và lợi nhuận lớn sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt xâm nhập trong thời gian tới, hứa hẹn một môi trường kinh doanh năng động và cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp Việt Nam ngay bây giờ nếu không có chiến lược phát triển tốt và cập nhập xu hướng mới của ngành Logistics thế giới thì nguy cơ bị loại khỏi cuộc chơi ngay tại sân nhà và nhường chỗ cho các tập đoàn xuyên quốc gia hùng mạnh là điều khó tránh khỏi. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH DỊCH VỤ LOGISTICS HỘI CHỢ TRIỂN LÃM CỦA CÔNG TY TNHH TM & DV TIẾP VẬN KẾT NỐI 2.1 Tổng quan về công ty: 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển: Tên công ty: CÔNG TY TNHH TM & DV TIẾP VẬN KẾT NỐI Tên giao dịch: LINK LOGISTICS CO., LTD Địa chỉ: Số 11 Đinh Bộ Lĩnh, Phường 25, Quận Bình Thạnh, TP.HCM Điện thoại: (08) 54453528 Fax: (08) 54453529 Email: docs@link-logistics.info Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối trụ sở đặt tại: số 11 Đinh Bộ Lĩnh, Phường 25, Quận Bình Thạnh. Đây được xem là vị trí khá thuận lợi cho hoạt động của công ty, văn phòng tương đối gần các cảng biển, rất thuận lợi cho công tác giao nhận hàng hoá. 2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của công ty: 2.1.2.1 Chức năng: Công ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ theo giấy phép kinh doanh trong những lĩnh vực sau: * Những ngành nghề mà công ty hoạt động dịch vụ: Dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: thực hiện dịch vụ có liên quan đến giao nhận, thuê các phương tiện vận tải, mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu, thu gom hoặc chia hàng lẻ, thuê vỏ container, giao hàng đến tận nơi. Dịch vụ uỷ thác xuất nhập khẩu: nhận uỷ thác giao nhận vận tải trong nước và quốc tế bằng các phương tiện đường biển, đường hàng không và các loại hình xuất nhập khẩu, hàng hội chợ, triển lãm. Dịch vụ khai thuê hải quan: thay mặt chủ hàng làm thủ tục hải quan, thủ tục về cảng, giám định và dịch vụ vận chuyển hàng hoá tận nơi. Các dịch vụ cung cấp: Dịch vụ cho hội chợ, triển lãm chiếm 80% hoạt đông và doanh thu của công ty, chủ yếu là các hội chợ, triển lãm có yếu tố nước ngoài. Thường phục vụ cho các hoạt động thương mại của VCCI, Vinexad (công ty quảng cáo và hội chợ thương mại), các tổ chức và hiệp hội trung bình có 9-12 hội chợ, triển lãm /năm.Trong đó sản phẩm này lại được chia làm 2 lĩnh vực: Thứ nhất: Dịch vụ in-bound đưa sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài vào các hội chợ, triển lãm quốc tế tại Việt Nam. Các hội chợ, triển lãm quốc tế tại Việt Nam hàng năm có sử dụng dịch vụ in-bound của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối gồm có: Viet Nam Expo, Con-Build, Viet Nam commodies Fair, Textile Garment Expo,.. Thứ hai: Dịch vụ out-bound đưa sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài vào các hội chợ, triển lãm quốc tế tại nước ngoài. Các hội chợ, triển lăm thường có Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối và các doanh nghiệp Việt Nam tham gia gồm có: Hong Kong Houseware, Eco-product 2.1.2.2 Nhiệm vụ: Đảm bảo uy tín và chất lượng dịch vụ đối với khách hàng, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh theo đúng giấy phép kinh doanh, mục đích thành lập của doanh nghiệp và tuân theo pháp luật. Quản lý, sử dụng vốn kinh doanh đúng chức năng, đúng quy định, lập sổ kế toán, ghi chép sổ kế toán, hoá đơn chứng từ và lập báo cáo tài chính trung thực, chính xác. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi vi phạm hợp đồng đã ký kết với khách hàng, không ngừng nghiên cứu thị trường mới, tìm cách thoả mãn nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Về mặt tài chính thì luôn đảm bảo có săn vốn để thanh toán các khoản chi tiêu sao cho hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Luôn cập nhật kiến thức cũng như các thông tư, nghị định, quyết định của chính phủ, các bộ ngành liên quan đến xuất nhập khẩu và hội chợ, triển lãm 2.1.3 Tầm nhìn và sứ mệnh của công ty: 2.1.3.1 Tầm nhìn: Xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh đáp ứng nhu cầu của khách hàng và mang lại lợi nhuận cho công ty. Xây dựng chiến lược thu hút khách hàng và giữ mối quan hệ tốt với khách hàng. Hoàn thành các kế hoạch kinh doanh, nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn. Tạo điều kiện thuật lợi để nhân viên hoàn tất các công việc được giao và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên trong công ty. Trở thành nhà cung cấp dịch vụ Logistics hàng đầu bắt kịp những thách thức của thương mại toàn cầu. 2.1.3.2 Sứ mệnh: Một khi công ty đã ký kết hợp đồng với đối tác thì phải cân nhắc, xem xét các yếu tố sau: Các chính sách, văn bản pháp luật có liên quan để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của đối tác, đem lại hiệu quả cao nhất cho công ty, tạo uy tín trên thương trường dịch vụ Logistics, tạo khả năng cạnh tranh, tiết kiệm tối đa các khoản chi phí phát sinh, bảo vệ được lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân viên trong công ty và giao thương dễ dàng nhờ những giải pháp chuỗi cung ứng cải tiến. 2.1.4 Bộ máy tổ chức: Với phương châm hoạt động với bộ máy nhỏ gọn, chuyên nghiệp và hiệu quả, hiện nay đơn vị phân chia cơ cấu bộ máy kinh doanh gồm 3 bộ phận: Phòng kinh doanh: Đứng đầu là Sales Manager, có nhiệm vụ tìm và nhận các hợp đồng về cho đơn vị, quan hệ với khách hàng cũng như các cơ quan quản lý và các hoạt động về Marketing. Phòng kế toán: Gồm các bộ phận kế toán, nhân sự và hành chính. Phòng xuất nhập khẩu: Trưởng bộ phận là Supervisor, và các mhân viên chịu trách nhiệm về giam sát, quản lý về hàng hoá, tình trạng, thời gian, các công việc đóng gói, vận chuyển, bốc dỡ. Quản lý và định hướng cho 3 bộ phận trên đó là Giám Đốc. Sơ đồ tổ chức của công ty: Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức của công ty Các nguồn lực của doanh nghiệp: Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực đối với bất cứ doanh nghiệp dịch vụ nào cũng là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường. Phòng kinh doanh: Tổng số nhân sự 5 người Điểm mạnh: Đội ngũ trẻ, sức khoẻ tốt, năng động, hiện đại và dễ tiếp thu cũng như ứng xử linh hoạt, sáng tạo Đánh giá: luôn có sự bình đẳng giới trong tổ chức nhân sự của công ty thể hiện ở sự cân đối trong cơ cấu nhân sự theo giới tính và những chức vụ cao mà nữ giới được nắm trong các phòng ban, cần thêm nhiều nhân sự nam hơn hiện tại, để phục vụ cho các công việc giám sát hàng hoá, quản lý công nhân bốc dỡ, đóng gói, vận chuyển Trình độ: số nhân viên có trình độ đại học là 10 người, 1 trình độ cao đẳng. Phần lớn nhân sự được đào tạo từ lĩnh vực Quản trị Kinh Doanh, công nghệ, tài chính kế toán. Có 3 người được đào tạo từ ngành xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hải. Kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực: trưởng các bộ phận đều là những người có kinh nghiệm làm việc cho doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra có 2 nhân viên mới ra trường, trong thời gian tổ chức các hội chợ, triển lãm hoặc công việc nhiều đơn vị thường thuê thêm nhiều nhân viên làm việc tạm thời, bán thời gian, hoặc ngoài giờ. Cơ sở vật chất: công ty Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối đã và đang tiếp tục nâng cấp, phát triển cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp, các thiết bị cần thiết cho việc vận chuyển on-site. 2.1.5 Kết quả hoạt động kinh doanh các năm gần đây: Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh của công ty 2008-2010 Đơn vị tính: đồng Năm 2008 2009 2010 Tổng doanh thu 3,700,906,896 4,845,671,352 6,950,750,825 Tổng chi phí 1,436,200,760 1,645,564,026 2,031,075,349 Lợi nhuận trước thuế 2,264,706,136 3,200,107,326 4,919,675,476 Lợi nhuận sau thuế 634,117,718 800,026,832 1,229,918,869 (Nguồn : Phòng kế toán) Bảng 2.2: Phân tích kinh doanh của công ty 2008- 2010 Năm 2009/2008 2010/2009 Tuyệt đối Tương đối (%) Tuyệt đối Tương đối (%) Tổng doanh thu 1,144,764,456 30.93 2,105,079,473 43.44 Tổng chi phí 209,363,266 14.58 385,511,323 23.43 Lợi nhuận trước thuế 935,401,190 41.30 1,719,568,150 53.73 Lợi nhuận sau thuế 165,909,113 26.16 429,892,038 53.73 Biểu đồ 2.1: Thể hiện doanh thu, chi phí, lợi nhuận sau thuế Nhận xét: Nhìn vào biểu đồ thể hiện tình hình tổng doanh thu, tổng chi phí, tổng lợi nhuận trước thuế và sau thuế qua các năm có thể thấy mức độ tăng tương đối qua các năm. Dựa vào biểu đồ ta nhận thấy tổng doanh thu tăng đều qua các năm cụ thể: Năm 2008 tổng doanh thu là: 3.700.906.896 VNĐ, Năm 2009 tổng doanh thu là: 4.845.671.352 VNĐ tăng 1.144.764.456 VNĐ (tức 30.93%) so với Năm 2008. Năm 2010 doanh thu là: 6.950.750.825 VNĐ tăng 2.105.079.473 VNĐ (tức 43.44%) so với Năm 2009. Từ những số liệu này ta thấy tổng doanh thu của công ty đều tăng qua các năm, điều đó minh chứng công ty dần phát triển. Bên cạnh tổng doanh thu của công ty tăng qua các năm thì tổng chi phí công ty bỏ ra cũng tăng cụ thể: năm 2008 tổng chi phí là: 1.436.200.760 VNĐ, năm 2009 tổng chi phí là: 1.645.564.026 VNĐ tăng 209.363.266 VNĐ (tức 14.58%) so với năm 2008. Năm 2010 tổng chi phí là: 2.031.075.349 VNĐ tăng 385.511.323 VNĐ (tức 23,43%) so với năm 2009. Chính vì thế việc tổng chi phí tăng để tăng tổng doanh thu là điều hiển nhiên. Nếu qua các năm tổng doanh thu, tổng chi phí đều tăng qua các năm thì tổng lợi nhuận trước thuế vẫn như thế cụ thể: Năm 2008 tổng lợi nhuận trước thuế là: 2.264.706.136 VNĐ, năm 2009 tổng lợi nhuận trước thuế là: 3.200.107.326 VNĐ tăng 935.401.190 VNĐ (tức 41,30%) so với năm 2008. Năm 2010 tổng lợi nhuận trước thuế là: 4.919.675.476 VNĐ tăng 1.719.568.150 VNĐ (tức 53,73%) so với năm 2009. Như vậy, lợi nhuận trước thuế không ngừng tăng qua các năm. Tương tự, lợi nhuận sau thuế qua các năm cũng có nhiều chuyển biến cụ thể: năm 2008 tổng lợi nhuận sau thuế là: 634.117.718 VNĐ sang năm 2009 tổng lợi nhuận sau thuế là: 800.026.832 VNĐ tăng 165.909.113 VNĐ (tức 26,16%) so với năm 2008. Năm 2010 tổng lợi nhuận sau thuế là: 1.229.918.869 VNĐ tăng 429.892.038 VNĐ (tức 53.73%) so với năm 2009. Như vậy, lợi nhuận sau thuế qua các năm ở công ty đều tăng dần, điều này thể hiện hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng khởi sắc nhiều hứa hẹn. 2.2 Tổng quan về ngành Logistics cho hội chợ triển lãm: 2.2.1 Xu hướng phát triển ngành Logistics hội chợ triển lãm trên thế giới và đặc trưng riêng của ngành Logistics hội chợ triển lãm quốc tế ở Việt Nam: 2.2.1.1 Xu hướng phát triển ngành Logistics cho hội chở triển lãm trên thế giới: Xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Bất kỳ quốc gia nào, ngành nghề nào dù lớn hay nhỏ, mới hay cũ đều tham gia tích cực vào xu hướng này. Toàn cầu hoá làm cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới phát triển mạnh mẽ và đương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu về Logistics. Theo các nhà nghiên cứu thì trong những thập niên đầu của thế kỷ 21, ngành Logistics thế giới sẽ phát triển theo những xu hướng sau: * Xu hướng thứ nhất: toàn cầu hoá hệ thống chuỗi cung ứng ngày càng mở rộng ra tầm quốc tế với những mạng lưới phức tạp và rộng khắp trên toàn cầu. Từ đó việc phân phối hàng hoá, dịch vụ được thực hiện rộng khắp trên toàn cầu và sự cạnh tranh cũng là cạnh tranh quốc tế. * Xu hướng thứ hai: sức ép từ phía khách hàng, khách hàng hiện đại có sức mạnh rất lớn tác động đến nhà cung cấp. Họ luôn có yêu cầu sát sao về tiêu chuẩn dịch vụ hoàn hảo đòi hỏi sự đáp ứng cao yêu cầu họ đưa ra từ phía nhà cung cấp. Áp lực về giá là rất lớn, doanh nghiệp chuyển dần sự quan tâm từ việc định giá theo chi phí cơ bản sang chi phí theo giá. Điều này được hiểu như sau: khi mà sức ép cạnh tranh còn thấp, nhà cung cấp thường định giá sản phẩm dựa vào phần chi phí cơ bản để cung cấp dịch vụ, cộng thêm một phần lợi nhuận mong muốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên vì sức ép cạnh tranh từ đối thủ cạnh tranh và khách hàng ngày càng lớn người ta phải suy nghĩ đến việc tác động đến chi phí từ cái giá cạnh tranh mà họ muốn đạt đến. Có hai cách để đạt được điều đó là: kiểm tra và cắt giảm chi phí đến mức tối thiểu hoặc cộng thêm giá trị cho dịch vụ để khách hàng sẵn sàng trả mức giá cao hơn để có thể thu được lợi nhuận. Lòng trung thành của khách hàng càng thấp vì sự bùng nổ dịch vụ tạo cho khách hàng quyền thỏa sức chọn lựa. * Xu hướng thứ ba: sự ứng dựng của công nghệ thông tin thương mại điện tử ngày càng được ứng dụng phổ biến và sâu rộng trong các lĩnh vực Logistics và chuỗi cung ứng vì các thông tin càng chuyển nhanh và chính xác thì các quyết định trong chuỗi cung ứng và Logistics càng hiệu quả. Đặc biệt là hệ thống thông tin trong quản lý chuỗi cung ứng, công nghệ nhận dạng bằng RFID là một phương pháp nhận dạng tự động dựa trên việc lưu trữ dữ liệu từ xa sử dụng thiết bị thẻ RFID và một đầu đọc RFID. Thẻ RFID được đưa vào sử dụng trong trong rất nhiều lĩnh vực như quản lý đối tượng, quản lý nhân sự, quản lý hàng hoá bán lẻ trong siêu thị, quản lý hàng hoá trong xí nghiệp hay nhà kho. Bên cạnh đó còn có các công nghệ ERP là một phần mềm hoạch định nguồn nhân lực doanh nghiệp và quản lý quan hệ khách hàng mã nguồn mở, được thiết kế với mục tiêu có đáp ứng nhanh theo các nhu cầu khác nhau của từng doanh nghiệp. Hệ thống CRM đây là lĩnh vực hoạt đông nghiên cứu nhu cầu và hành vi của khách để xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với khách hàng. Việc thiết lập tốt mối quan hệ này được xem là yếu tố trung tâm quyết định thành công của doanh nghiệp. CRM có rất nhiều thành phần công nghệ, nhưng sẽ là sai lầm nếu xem CRM chỉ là một thuật ngữ công nghệ, chính xác hơn phải xem CRM là một quy trình liên kết tất cả thông tin về khách hàng, về hiệu quả và trách nhiệm trong việc bán hàng, tiếp thị và về xu thế thị trường. Xu hướng sử dụng CRM để tạo dựng và duy trì các mối quan hệ với khách hàng đang ngày càng trở nên phổ biến trong kinh doanh ngày nay. Việc hàng nghìn khách hàng cùng lúc nhận được những lá thư thăm hỏi cũng như những lời mời giảm giá hấp dẫn không còn là điều gì xa lạ nữa. Với CRM bạn có thể dễ dàng trả lời câu hỏi: Liệu sản phẩm do công ty bạn sản xuất có đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng được không? * Xu hướng thứ tư: phương pháp kéo (Pull) đang dần được thay thế cho phương pháp đẩy (Put). Bởi vì với phương pháp đẩy, chỉ cần một mắt xích trong chuỗi hoạt động nhanh hơn mắt xích sau ngay lập tức sinh ra hàng tồn ở mỗi công đoạn làm tăng chi phí. Đối với chiến lược kéo ta khắc phục được việc này là do có thể kiểm soát được hoạt động của toàn bộ dây chuyền, mắt xích sau chỉ cung cấp đủ nhu cầu theo lệnh cho mắt xích sau. * Xu hướng thứ năm: thuê ngoài (outsources) thuê dịch vụ Logistics từ các công ty Logistics chuyên nghiệp ngày càng phổ biến. Hợp tác cùng có lợi được coi như một năng lực lõi, các hình thức Logistics bên thứ ba, bên thứ tư (Logistics 3P/ 4P) có xu hướng tăng và trở nên phổ biến. Toàn cầu hoá nền kinh tế càng sâu rộng dẫn đến tính cạnh tranh càng mãnh liệt trong mọi khía cạnh của nền kinh tế, để đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên vật liệu, phân phối sản phẩm các doanh nghiệp thường xuyên phải cân nhắc tự làm hay thuê ngoài và mua dịch vụ của ai?. Các công ty vận tải giao nhận cũng nhận ra xu hướng đó nhanh chóng chớp lấy thời cơ phát triển và trở thành các nhà cung cấp dịch vụ Logistics và chuỗi cung ứng hàng đầu với hệ thống trên toàn quốc. Để tối ưu hoá sức mạnh của mình và tăng tính cạnh tranh và chuyên nghiệp các chủ hàng hoá lớn thay vì tự mình đứng ra tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để thoả mãn nhu cầu của mình thì bây giờ có xu hướng thuê ngoài ngày càng phổ biến. * Xu hướng thứ sáu: giá trị Logistics và chuỗi cung ứng sẽ chiếm tỷ trọng càng cao trong tổng giá trị thương mại trên thế giới và trong cơ cấu ngành dịch vụ. * Xu hướng thứ bảy: Châu Á nổi lên như trung tâm Logistics và chuỗi cung ứng mới của thế giới thay cho Châu Âu và Châu Mỹ, những gương mặt tiêu biểu gồm có Nhật, Singapore,Trung Quốc. * Xu hướng thứ tám: an ninh toàn cầu không ổn định khủng bố và chiến tranh là những mối lo ngại lớn nhất gây ảnh hưởng đến nguồn cung cấp cũng như biến đổi nhu cầu. Từ đó chi phí cho vấn đề an ninh cũng tăng lên và cộng thêm việc thủ tục liên quan sẽ khó khăn, phức tạp hơn. 2.2.1.2 Đặc trưng riêng của ngành Logistics cho hội chợ, triển lãm quốc tế ở Việt Nam: Dịch vụ Logistics cho hội chợ, triển lãm bao gồm các hoạt động vận chuyển, lưu kho và chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc nhận uỷ thác mang hàng tới các hội chợ, triển lãm quốc tế ở Việt Nam và trả lại hàng hoá cho khách hàng. Dịch vụ Logistics cho hội chợ, triển lãm có những đặc điểm riêng so với hàng hoá thông thường là do: Theo luật thương mại 2005 của Việt Nam quy định hàng hoá từ nước ngoài cần được làm thủ tục tạm nhập và tái xuất để tham gia hội chợ, triển lãm ở Việt Nam. Do đó vấn đề thủ tục hải quan cũng phức tạp hơn so với hàng hoá thương mại khác. Tuy nhiên một số sản phẩm có thể được bán tại hội chợ, triển lãm, hoặc biếu, tặng ở Việt Nam, hoặc bỏ đi, không tái xuất. Các sản phẩm này cần phải được làm thủ tục, tờ khai, khai báo cụ thể số lượng, tính chất, trước khi nhập vào Việt Nam và được sự cho phép của cơ quan hải quan. Riêng hàng hoá để bán, mục đích bán cho các tổ chức chuyên doanh tại Việt Nam sẽ khác với bán lưu niệm tại hội chợ, triển lãm, trong hồ sơ xin phép cần phải có bản sao hợp đồng ký kết giữa chủ hàng với các tổ chức chuyên doanh tại Việt Nam, và phải nộp thuế hàng hoá cho Hải quan tại địa điểm hội chợ, triển lãm. Các sản phẩm đem hội chợ, triển lãm cũng có thể dùng xong tại một nơi và được chuyển tiếp đi cho các hội chợ, triển lãm tại các thành phố, tỉnh thành khác cũng tại Việt Nam. Riêng các vật phẩm dùng để tiếp tân và phục vụ cho hội chợ, triển lãm, như thực phẩm, nước ngọt, bia, thuốc lá, và các nhu yếu phẩm khác, không kể hàng cấm, với số lượng phù hợp sẽ được nhập khẩu miễn thuế. Và các vật phẩm nói trên không được phép bán hoặc chuyển nhượng tại Việt Nam. Trong thời hạn lâu nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc hội chợ, triển lãm, hàng thuộc loại tạm nhập-tái xuất sẽ phải xuất lại sang nước của chủ hàng, nếu không có lý do chính đáng, cơ quan hải quan sẽ thanh lý các loại hàng này theo quy định hiện hành của nước Việt Nam. Các quy định về nhập khẩu hàng hoá cho hội chợ, triển lãm quốc tế đã được thể hiện rõ trong quy chế hải quan đối với hàng của nước ngoài đưa vào Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, để hội chợ, triển lãm, ban hành kèm theo quyết định số 1592-TCHQ/PC ngày 25-10-1986 của tổng cục hải quan về việc ban hành quy chế hải quan đối với hàng hoá của nước ngoài đưa vào Việt Nam. 2.2.2 Xu hướng phát triển ngành Logistics hội chợ, triển lãm ở Việt Nam: Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong thời gian qua kể từ khi nhà nước ban hành chính sách mở cửa nền kinh tế những năm 1990 và định hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trong đó việc giao thương mậu dịch với các quốc gia trên thế giới có nhiều thay đổi tích cực, cộng thêm ấn tượng về tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của Việt Nam trong hơn chục năm trở lại đây đã biến Việt Nam trở thành điểm đến đầy hứa hẹn trong mắt các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài. Và điều tất yếu là hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư được chú trọng phát triển hơn bao giờ hết. Một yếu tố lớn nữa đó là xu hướng phát triển mạnh mẽ của ngành Logistics trên thế giới. Đã xuất hiện từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam nó còn là một ngành khá mới mẻ tuy vậy có nhiều tiềm nãng. Do Việt Nam không nằm xu hướng phát triển chung của thế giới, đối với các quốc gia phát triển ngành Logistics chiếm đến 10% tổng GDP, ở Việt Nam hay nhiều nước đang phát triển tỷ lệ này vào khoảng 25-30% tổng GDP. Điều đó một phần thấy được tầm quan trọng của ngành Logistics trong nền kinh tế hiện đại. Trên đây là những điều kiện thuận lợi làm động lực thúc đẩy dịch vụ Logistics hậu cần hội chợ, triển lãm phát triển hơn nữa ở Việt Nam. Xu hướng tổ chức các hội chợ, triển lãm nhằm mục đích xúc tiến thương mại tại Việt Nam hình thành từ năm 1990. Khi đó các sự kiện này hầu hết đều hạn chế về quy mô các đơn vị tham gia cũng như các ngành hàng công nghiệp, tuy vậy dịch vụ Logistics cho hội chợ, triển lãm đã manh nha hình thành từ đó. Do đặc thù nước ta là một nước đang phát triển, đang giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên các nhà đầu tư không bỏ lỡ thời cơ này với việc tổ chức hàng loạt các hội chợ, triển lãm xúc tiến thương mại trong các lĩnh vực máy móc thiết bị (đặc biệt trong ngành chế biến gỗ, dệt may, nhựa), ngoài ra những hội chợ, triển lãm máy móc thiết bị nông nghiệp, y tế cũng khá thường xuyên. Gần đây nổi lên là các hội chợ, triển lãm hàng tiêu dùng, trang sức, nội thất cũng rất thành công. Hầu hết doanh nghiệp Logistics chỉ có quy mô nhỏ, trong số đó các doanh nghiệp có kinh doanh hoạt động hậu cần hội chợ, triển lãm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một thực trạng là giữa các doanh nghiệp không hợp tác với nhau. Ông Nguyễn Hùng - phó tổng giám đốc công ty Kho Vận Miền Nam (Sotrans) cho biết: các doanh nghiệp chẳng những không liên kết mà thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Bà Phạm Tú Anh - công ty Vinatrans nói thêm: hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ khá manh mún, chụp giật và hạ giá để lôi kéo khách hàng, trong khi chất lượng dịch vụ thì không rõ ràng, tạo nên những tiền lệ xấu trong hoạt động Logistics. 2.2.2.1 Xu hướng vận động, phát triển của thị trường: a. Sự phát triển của hội chợ, triển lãm tại Việt Nam: Trong quá trình mở cửa hội nhập kinh tế và gia nhập WTO của Việt Nam vấn đề xúc tiến thương mại luôn luôn được quan tâm hàng đầu. Các hội chợ triển lãm hay sự kiện, quan hệ công chúng (PR) được tổ chứa chuyên nghiệp và có quy mô ngày càng được mở rộng ra nhiều hơn. Điều này sẽ kết nối các doanh nghiệp Việt Nam lại với nhau gần hơn, cũng như kết nối với các đối tác nước ngoài hay tạo nên hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam và nền kinh tế mới hiện nay đối với các quốc gia khác trên trế giới. Thống kê từ danh mục hội chợ, triển lãm những năm gần đây do sở công thương xác nhận. Năm 2008 tại Việt Nam có 75 hội chợ triển lãm thương mại với quy mô lớn trong đó có 30 cuộc hội chợ triển lãm quốc tế chiếm tỷ lệ 40%, năm 2009 có 112 cuộc hội chợ, triển lãm thương mại lớn trong đó hội chợ triển lãm quốc tế là 63 chiếm 56%, 2010 có 74 hội chợ triển lãm lớn trong đó có 38 triển lãm quốc tế chiếm 51% như vậy trong 3 năm qua cùng với xu hướng tăng về số lượng các cuộc hội chợ, triển lãm cũng tăng cả về số lượng và tỷ trọng. b. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm khoảng 240000 km đường bộ và 42000km đường thuỷ, 90 cảng biển, 37 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng điều và còn nhiều yếu kém. Vận tải đường biển: Với chiều dài bờ biển là 3.260km, cùng với nhiều cảng biển sâu rộng, Việt Nam được tự nhiên ưu đãi cho sự phát triển của ngành công nghiệp vận tải biển. Hiện nay theo số liệu cục hàng hải thì toàn quốc có 90 cảng được phân bố theo 3 cụm cảng tương ứng 3 miền, nhưng chỉ có cảng quốc tế. Tuy nhiên, đa số là cảng nhỏ, các cảng chính là cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng và cảng Sài Gòn, nhưng điều là cảng ở cửa sông và cách biển khoảng 30 đến 90 km. Điều này rất bất lợi cho tàu lớn cập cảng, không cảng nào có thể đón nhận tàu thuộc loại trung bình có trọng tải 50.000 tấn hoặc 2.000 TEUS. Công suất bốc dỡ hàng năm gia tăng một cách đáng kể, cứ khoảng 5 năm lại gấp đôi, từ 56 triệu tấn năm 1998 lên 114 triệu tấn năm 2003. Các cảng gần vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm gần hai phần ba tổng sản lượng cả nước. Đội tàu cũng phát triển từ 679 chiếc lên 1.119 chiếc từ năm 2003 đến năm 2008. Tuy nhiên chất lượng đội tàu chưa cao nên chỉ đảm nhận được khoảng 18% khối lượng hàng hoá XNK của Việt Nam. Vận tải đường sông: Với 41.000 km đường sông trong đó 8.000 km có thể khai thác hiệu quả kinh tế. Có thể nói Việt Nam là một nước có mạng lưới giao thông đường sông rất phong phú và dầy đặc với mật độ cao. Mặc dù việc đầu tư phát triển hệ thống đường sông chưa được quan tâm đúng mức nhưng đây vẫn là hệ thống vận tải hữu hiệu đối với các loại tàu thuyền cỡ nhỏ. Đặc biệt các loại hàng hoá giá trị thấp như: than đá, gạo, cát đá và các loại vật liệu khác rất thuận tiện và hiệu quả khi vận chuyển bằng đường sông trong lãnh thổ Việt Nam với khối lượng lớn. Giao thông đường sông vẫn chiếm vị trí khá quan trọng đối với hai vùng châu thổ đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Vận tải đường sông ở miền Bắc kém phát triển hơn do địa hình đồi núi, vận tải đường sông ở miền Nam đôi khi gặp khó khăn do độ chênh lệch mực nước sông giữa mùa mưa và mùa khô. Vận tải đường bộ: Tổng chiều dài đường bộ của Việt Nam là 240.000 km. Hệ thống đường bộ chính bao gồm các con đường quốc lộ, nối liền các vùng, các tỉnh cũng như đi đến các cửa khẩu quốc tế với Trung quốc, Lào, Campuchia. Hệ thống này rất thuật tiện cho vận chuyển hàng hoá vào tận kho và giao thương với các nước láng riềng gần gũi. Ngoài những cây cầu cũ kỹ thì ngày càng có nhiều cây cầu mới được xây đáp ứng được nhu cầu lưu thông trên tuyến đường, tạo điều kiện đi lại tốt nhất cho người dân, chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên chất lượng đường của hệ thống đường bộ Việt Nam còn rất thấp, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống đường cao tốc đạt tiêu chuẩn quốc tế, đường trong các thành phố lớn (Hà Nội, TP.HCM) bị hạn chế về thời gian ra vào, điều này làm ảnh hưởng tới việc chuyên chở hàng hoá vào các khu vực này. Vận tải đường sắt: Mạng lưới đường sắt Việt Nam với tổng chiều dài 2.600 km nối liền các khu dân cư, trung tâm văn háo nông nghiệp và công nghiệp trừ khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đường sắt Việt Nam nối với đường sắt quốc tế qua các cửa khẩu với trung quốc bởi hai hướng: với Vân Nam Trung Quốc qua tỉnh Lào Cai, với Quảng Tây Trung Quốc qua tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra đường sắt Việt Nam cũng có tiềm năng nối liền với mạng lưới đường sắt Campuchia, Thái Lan và Malaysia để đến Singapore và tuyến đường sắt của Lào khi được phát triển. Vận tải đường hàng không: Theo cục hàng không dân dụng Việt Nam thì Việt Nam có tổng số 37 sân bay phục vụ cho mục đích dân sự, quân sự quốc phòng. Trong đó cục hàng không dân dụng Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý 22 sân bay với các sân bay tầm cỡ quốc tế như sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay quốc tế Phú Bài. Chất lượng các sân bay lớn ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, một số sân bay đã bắt đầu quá tải. Vận chuyển hàng hoá quốc tế chỉ tập trung ở sân bay Nội Bài và sân bay Tân Sơn Nhất. Về đội máy bay đa số máy bay loại lớn hiện nay là máy bay đi thuê, Việt Nam chỉ sở hữu một số loại máy bay nhỏ, tầm bay hạn chế. Theo quy định phát triển của ngành hàng không đến năm 2015, nhiều sân bay được nâng cấp để có thể đáp ứng cho các loại máy bay dân dụng hạ cánh, cất cánh tối thiểu là loại máy bay vận tải hạng nhẹ như: ATR-72, Foker-70, hay máy bay hạng trung như A320, Boeing 737, thậm chí là máy bay hạng nặng như A380. Bên cạnh đó, đội máy bay sẽ nâng cấp bởi các máy bay loại lớn thuộc sở hữu của Việt Nam. c. Sự phát triển của các doanh nghiệp trong ngành: Ngành công nghiệp Logistics ở Việt Nam mới đang ở thời kỳ phôi thai. Quy mô các doanh nghiệp kinh doanh Logistics còn nhỏ, manh mún, nguồn lợi hàng tỷ USD lại đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh Logistics, trong số các doanh nghiệp này có 101 doanh nghiệp là hội viên của Hiêp Hội Giao Nhận Kho Vận Việt Nam (VIFFAS). Và trong 101 hội viên thì có đến 80 hội viên chính thức và 21 hội viên liên kết. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Logistics Việt Nam mới chỉ đáp ứng khoảng ¼ nhu cầu thị trường và mới chỉ dừng lại ở một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Trong năm 2009 nhiều dự án kho bãi, Logistics, cảng khô ICD đã được triển khai đầu tư và đi vào hoạt động. Và nổi bật là sự đầu tư mạnh mẽ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như liên doanh giữa Schenker Việt Nam và Gemadept đã đưa vào hoạt động trung tâm Logistics SGL tại khu công nghiệp Sóng thần (Bình Dương) vào ngày 17/03/2009, cung cấp dịch vụ Logistics cho các ngành sản phẩm công nghệ cao, điện tử, hoá phẩm, hàng tiêu dùng,… Hay trung tâm Logistics - ICD Tiên sơn, Tỉnh Bắc Ninh ở phía Bắc. Nguồn nhân lực Logistics cũng là một vấn đề rất nóng bỏng. Hiện nguồn nhân lực trình độ cao mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu. Do đó việc đầu tư ngắn và dài hạn cho nguồn nhân lực của các công ty Logistics trở thành xu hướng nổi bật trong những năm tới. 2.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối trong lĩnh vực Logistics hội chợ triển lãm: 2.3.1 Môi trường vĩ mô: a. Điều kiện địa lý: Điều kiện địa lý có một ảnh hưởng rất lớn đối với các doanh nghiệp Logistics Việt Nam nói chung và công ty TNHH TM & DV TIẾP VẬN KẾT NỐI nói riêng. Nước ta có vị trí rất thuận lợi: Lợi thế về khu vực, Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế - nằm trên đường giao thương quốc tế. Nằm ở khu vực chiến lược trong vùng Đông Nam Á - trong khu vực phát triển năng động. Bờ biển trải dài trên 2.000 km, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông là tiền đề khả quan để phát triển logistics. b. Cơ sở hạ tầng: Hệ thống cảng biển. Cảng biển là đầu mối vận tải quan trọng, nơi tập trung, kết nối tất cả các phương tiện vận tải: đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường ống,… Năng lực hệ thống cảng container đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của dịch vụ Logistics. Năng lực hệ thống cảng container của một quốc gia được hiểu là khả năng xếp dỡ, thông qua hệ thống container của quốc gia đó. Hiện tại hệ thống cảng biển Việt Nam có hơn 24 cảng lớn nhỏ (nếu tính theo chủ thể cảng chúng ta có 126 cảng) với tổng chiều dài tuyến mép bến hơn 26 km và hơn 100 bến phao. Có những cảng biển chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Nhìn chung hệ thống cảng biển nước ta còn hạn chế, chúng ta chưa có những cảng nước sâu, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung chuyển giữa các quốc gia vào cảng Việt Nam. Đây là một trong những khó khăn đối với các doanh nghiệp phát triển dịch vụ Logistics. Hệ thống đường hàng không. Các sân bay quốc tế gồm: sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay quốc tế Cam Ranh, sân bay quốc tế Cát Bi. Các hãng hàng không của Việt Nam gồm: Vietnam Airlines, Jetstar Pacific, Vasco và hai hãng tư nhân vừa được chính phủ ký quyết định cho phép hoạt động là VietJetAir và Air Speed Up. Trong 4 hãng này, hiện tại duy nhất chỉ có Vietnam Airlines trực tiếp thực hiện các đường bay quốc tế. Ngành hàng không Việt nam đang phát triển theo hướng giảm dần độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm Một hạn chế nữa là chúng ta cũng chưa phát triển vận tải hàng hóa bằng đường hàng không, thiếu đội bay để vận tải hàng hóa yêu cầu phải rất nhanh như thực phẩm tươi sống, rau quả, thủy hải sản. Hệ thống đường hàng không nghèo nàn cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty nói riêng và các doanh nghiệp logistics Việt Nam nói chung. Làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Logistics Việt Nam, chi phí cao và khó cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Hệ thống đường bộ: Toàn bộ các tuyến đường Quốc lộ có tổng chiều dài khoảng 17.300 km, trong đó gần 85% đã tráng nhựa. Ngoài các đường quốc lộ còn có các đường tỉnh lộ, nối các huyện trong tỉnh, huyện lộ nối các xã trong huyện. Các tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài khoảng 27.700 km, trong đó hơn 50% đã tráng nhựa. Hệ thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 3200 km, trong đó tuyến đường chính nối Hà Nội – TP.HCM dài 1726 km, toàn ngành có 302 đầu máy, 1063 toa tàu chở khách và 4986 toa tàu chở hàng. Đây là những tiền đề khả quan để phát triển dịch vụ Logistics. Tuy nhiên, khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, đường không dược thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và khá nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Điều này gây khó khăn trong việc vận chuyển hàng hóa, tốn nhiều thời gian và làm tăng chi phí của doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh. Hệ thống đường sông: Tổng chiều dài của tất cả các loại sông, kênh, rạch trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 42.000 km, dài nhất là hai con sông: sông Hồng với khoảng 541 km và sông Đà khoảng 543 km. Sông Hậu là con sông có khúc rộng nhất ở huyện Long Phú (Sóc Trăng) và Cầu Kè (Trà Vinh) với chiều ngang khoảng gần 4 km. Hệ thống đường thủy Việt Nam hiện đang đảm nhiệm 30% tổng lượng hàng hóa lưu chuyển trong nước, riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long đảm nhiệm tới 70% lưu thông hàng hóa trong vùng. Các cảng biển chính hiện nay gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái ở miền Nam. Năm 2007, tổng khối lượng hàng hoá thông qua các cảng tại Việt Nam là 177 triệu tấn, trong đó hệ thống cảng Sài Gòn là 55 triệu tấn. Theo dự báo, dự báo lượng hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam vào năm 2010 sẽ đạt 230-250 triệu tấn/năm và 500-550 triệu tấn/năm vào năm 2020. Hệ thống sông ngoài ở Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ Logistics, nhưng chủ yếu là vận chuyển khối lượng hàng hóa nhỏ. c. Môi trường pháp lý: Chính sách hội nhập ở Việt Nam là một trong những điều kiện để dịch vụ Logistics phát triển, VN đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc đã trở thành thành viên chính thức của WTO, vì thế VN trở thành một quốc gia đang mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Về hành lang pháp lý, thực ra Logistics mới chỉ được công nhận là một hành vi thương mại trong Luật Thương mại sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-1-2006. Tháng 9-2007, Chính phủ mới ban hành Nghị định 140 “Quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics”, nhưng theo những người am hiểu về lĩnh vực này thì Nghị định 140 còn sơ sài đối với một lĩnh vực mang lại lợi nhuận khổng lồ như Logistics. d. Sự phát triển của công nghệ thông tin: Mạng thông tin toàn cầu đã, đang và sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Logistics là một lĩnh vực phức tạp với chi phí lớn nhưng lại là yếu tố chủ đạo, quyết định lợi nhuận của doanh nghiệp trong thương mại điện tử. Xử lý đơn đặt hàng, thực hiện đơn hàng, giao hàng, thanh toán và thu hồi hàng hóa mà khách hàng không ưng ý...là những nội dung của lĩnh vực Logistics trong môi trường thương mại điện tử. Một hệ thống Logistics hoàn chỉnh, tương thích vói các qui trình của thương mại điện tử, đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng trong thời đại công nghệ thông tin là yếu tố quyết định thành công trong kinh doanh. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử như: hệ thống thông tin quản trị dây truyền cung ứng toàn cầu, công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến. ..đang ngày càng được áp dụng rộng rãi trong kinh doanh bởi vì thông tin được truyền càng nhanh và chính xác thì các quyết định trong hệ thống Logistics càng hiệu quả. Ứng dụng công nghệ thông tin cho phép các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ logistics phát hiện ra các điểm yếu trong toàn bộ quá trình lưu chuyển của hàng hoá, loại bỏ được thời gian chết, thời gian lưu kho ở các điểm chuyển tải. Vì vậy, cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển logistics, cần xây dựng chiến lược phát triển, ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin trong dịch vụ logistics như: thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử, công nghệ đang được áp dụng trong kinh doanh, khai thác vận tải đa phương thức, vận tải biển, áp dụng các hệ thống quản lý logistics bằng điện tử của các nước có hệ thống này phát triển như Singapore, Anh... e. Môi trường cạnh tranh mang tính toàn cầu: Nền kinh tế đất nước đang tham gia sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thông qua các chính sách mở cửa và giao lưu kinh tế, mở ra cho công ty nhiều cơ hội cạnh tranh mới nhưng gắn với nó là có nhiều áp lực cạnh tranh. Về cơ hội, công ty có thể tiếp cận với thị trường nước ngoài, tận dụng các lợi thế cạnh tranh mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ. Tuy nhiên, theo cam kết gia nhập WTO Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, Logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp Logistics Việt Nam sẽ gặp áp lực cạnh tranh gay gắt với nhiều công ty nước ngoài. 2.3.2 Môi trường vi mô: a. Áp lực cạnh tranh từ nhà cung cấp: Khi hàng về Việt Nam chờ hội chợ, triển lãm và gửi trả lại cho khách hàng sau khi kết thúc hội chợ, triển lãm, việc chuyên môn hoá cho bên thứ ba giúp cho công ty tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả dịch vụ hơn là ôm đồm trong khi công ty chưa có chưa có tiềm lực phát triển sang tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, các nhà cung cấp lớn phải kể đến của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối gồm có: Nhà cung cấp hợp đồng thuê kho: Ký kết hợp đồng khi công ty có nhu cầu lưu kho hàng do công ty chưa có kho riêng. Do nhà kho này cung cấp dịch vụ cho nhiều khách hàng khác nhau dẫn đến rủi do thất thoát hoặc hư hại cho hàng hoá của công ty là hoàn toàn có thể xảy ra ảnh hưởng đến uy tín với khách hàng. Hơn nữa với tình hình biến động của thị trường bất động sản Việt Nam, chuyện ép giá thuê kho, tăng giá bất hợp lý thường xuyên xảy ra. Ảnh hưởng đến quá trình kiểm soát chi phí của công ty. Nhà cung cấp dịch vụ xe nâng, xe tải: Hợp đồng với chủ xe nâng, xe tải theo từng show hội chợ, triển lãm. Dịch vụ này rất phổ biến và được nhiều công ty Logistics hội chợ, triển lãm sử dụng để tiết kiệm chi phí cho đầu tư máy móc, thiết bị, cộng thêm chi phí lưu bãi, bảo dưỡng, công nhân điều khiển,… Tuy vậy đôi khi công ty cũng gặp phải những khó khăn trong đàm phán giá cả dịch vụ cũng như không chủ động hoàn toàn trong công tác điều phối phương tiện. Ngoài ra còn có các hợp đồng thuê công nhân làm bán thời gian trong thời gian hội chợ, triển lãm. b. Đối thủ cạnh tranh: Các đối thủ chính trong ngành gồm có: * Các doanh nghiệp Việt Nam: Đa phần đều là các công ty Logistics có vốn nhà nước với đầu tư tương đối lớn về trang thiết bị, kho bãi, và có hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực và thông thường mảng Logistics cho hội chợ, triển lãm không phải là hoạt động mũi nhọn. Có đặc điểm chung là có tiềm lực tài chính và cơ sở vật chất tương đối lớn tuy nhiên do chưa phát triển được hoạt động ra nước ngoài, rất ít công ty có văn phòng đại diện ở nước ngoài do đó còn yếu trong việc tìm kiếm được khách hàng nước ngoài cho các hội chợ, triển lãm quốc tế so với các công ty đa quốc gia. Tuy vậy họ lại có thế mạnh trong mảng xuất hàng hội chợ, triển lãm (outbound) và tìm kiếm khách hàng nội địa do giá cạnh tranh. * Công ty giao nhận kho vận ngoại thương (Vietrans): Địa chỉ: 13 Đường Lý Nam Đế, Thành Phố Hà Nội, được thành lập năm 1970 tại Hải Phòng. Hiện nay Vietrans có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nghệ An, Nha Trang, Vladivortock, Oddessa-Ukeraine (văn phòng địa diện). Là thành viên sang lập hiệp hội VIFFAS - Hiệp Hội Giao Nhận Kho Vận Việt Nam. Các dịch vụ cung cấp: Vận tải đường hàng không, đường biển, đường bộ, đường sắt. Giao nhận hàng hội chợ, triển lãm, giao nhận hành lý cá nhân, hàng thu gom, hàng lẻ, đại lý tàu biển và môi giới thuê tàu. Kinh doanh kho, kho ngoại quan, dịch vụ thủ tục hải quan, khai thác cầu cảng. Một số số liệu về cơ sở vật chất và trang thiết bị của Vietrans: Hệ thống kho của Vietrans lên đến gần 220.000 m2 trên khắp cả nước tập trung chủ yếu ở Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh, trang thiết bị bốc xếp cũng đầu tư mới và hiện đại với các loại xe tải, cần cẩu,.. Các hoạt động chủ lực của Vietrans gồm có các hoạt động đại lý tàu biển, gom hàng, khai thác kho bãi, cầu cảng, dịch vụ door-to-door. * Công ty Vinatrans: Địa chỉ số 2 Bích Câu, Đống Đa, Hà Nội. Vinatrans là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó vốn pháp định là 3.000.000 USD và có vốn lưu động là 6.000.000 USD, thành lập năm 1975. Hệ thống kho CFS của doanh nghiệp (cho cả hàng biển và hàng không) là 2.500 m2, kho ướp lạnh liên doanh với công ty TNHH Konoike Tranportation là 2.800 m2. Hệ thống kho bãi gồm có 40.000 m2 dành cho kho kín. 50.000 m2 dành cho kho bãi chứa vật tư lộ thiên. Hệ thống xe cho việc vận chuyển hàng hóa của công ty bao gồm xe container là 40 chiếc, xe nâng, cẩu là 10 chiếc. Vinatrans Hanoi sau khi trở thành thành viên chính thức của IATA năm 1998 đã nhanh chóng mở rộng, phát triển dịch vụ của mình trong nước và quốc tế. Có hệ thống kho bãi tại Hà Nội và văn phòng làm việc tại sân bay Nội Bài. Vận chuyển phối hợp đường biển và đường hàng không, trung chuyển qua Singapore và Dubai. Là tổng đại lý hàng hoá (GSA) của British Airway, Malaysia Airline, China Southern Airline. Các dịch vụ cung cấp: Giao nhận từ kho chủ hàng hoặc sân bay đến sân bay hoặc kho người nhận với đa dạng các mặt hàng: Giầy dép, may mặc thời trang, hàng máy móc thiết bị, hàng thủ công mỹ nghệ, vận chuyển kết hợp đường biển và đường không, gom hàng lẻ xuất khẩu và chia lẻ hàng nhập khẩu, dịch vụ khai quan và giao nhận nội địa, dịch vụ đại lý hải quan, đại lý bán cước và hợp đồng vận chuyển với nhiều hãng hàng không lớn trên thế giới cam kết tại Việt Nam, dịch vụ hậu cần cho hội chợ, triển lãm và dự án (Exhibition & Project Handling), trung chuyển cho Lào và Capuchia (Cargo Transit to Lao & Cambodia). Đây là một đối thủ lớn của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Đó là đầu tư chuyên nghiệp cho dịch vụ hậu cần hội chợ, triển lãm. Riêng về mảng dịch vụ này Vinatrans hiện nay liên doanh với Schenker một tập đoàn Logistics lớn trên thế giới. Do đó, chất lượng dịch vụ cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực này là khá tốt. Đây cũng là một hình thức đầu tư của Schenker trong bối cảnh ngành Logistics Việt Nam còn nhiều rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau khi mở cửa thị trường, chắc chắn Schenker sẽ có những bước tiến mạnh mẽ xâm nhập thị trường Việt Nam gây sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Bên cạnh đó còn có thể kể đến công ty SAFI (Sea & Air Freight International), Công Ty Cổ Phần Logistics Tân Thế Giới, đều là những doanh nghiệp mới gia nhập ngành song cơ hội phát triển là rất lớn. * Các doanh nghiệp nước ngoài: Nissin Logistics - Tập đoàn Nissin (Nissin Corporation) là một trong 4 đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận và Logistics lớn nhất của Nhật Bản. Có số vốn pháp định là 6,1 tỷ yên, có chi nhánh và văn phòng đại diện tại 32 quốc gia trên khắp thế giới. Được thành lập 14/12/1938 tại Onoe-cho, Naka-ku, thành phố Yokohama, hiện nay trụ sở chính của tập đoàn tại số 5, Sanban-cho, Chioyada-ku, Tokyo. Văn phòng đại diện tại Việt Nam (công ty Nissin Logistics VN), được thành lập 3/2006, với số vốn 500.000 USD. Mặc dù còn khá mới mẻ trên thị trường tuy nhiên đã đảm nhận được nhiều hợp đồng từ phía công ty mẹ và một số triển lãm, sự kiện tổ chức tại Việt Nam. Trong đó Nissin Logistics tham gia vào các triển lãm như triển lãm về các sản phẩm sinh thái, hay làm nhà vận chuyển, giao nhận chính cho triển lãm Toyota tại Việt Nam. Các dịch vụ cung cấp: Xuất nhập khẩu hàng không, hàng biển, dịch vụ hải quan, hậu cần cho hội chợ, triển lãm, kho bãi, phân phối hàng hoá và các dịch vụ vận chuyển giao nhận bằng xe tải, xe container, vận tải đa phương thức. Kết luận chung về đối thủ cạnh tranh: Chi phí cho ngành Lgistics của Việt Nam hàng năm chiếm khoảng 15% GDP. Theo kết quả nghiên cứu của viện Numura (Nhật bản), dịch vụ Logistics trong vận tải hàng hải của các doanh nghiệp trong nước hiện nay mới cung cấp 25% nhu cầu. Với quy mô vốn như thế, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc gia nhập thị trường Logistics thế giới, hơn nữa tính chuyên sâu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, phần lớn chỉ đáp ứng được một vài công đoạn đơn giản trong khâu cung ứng Logistics. Hơn nữa vấn đề Logistics hiện nay là toàn cầu, nhiều hãng nước ngoài đặt chân vào Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hầu như đều chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài. Theo nhận xét của ông Nguyễn Việt Hoà, giám đốc công ty cổ phần Container (Viconship Việt Nam, ngành công nghiệp Logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống Logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất, đa phần các doanh nghiệp họat động trong lĩnh vực này điều nhỏ bé về địa bàn hoạt động và hạn chế về vốn cũng như về công nghệ. Về thị trường Logistics cho hàng hội chợ, triển lãm thương mại quốc tế tại Việt Nam hiện nay là một thị trường mới, chuyên biệt và có nhiều đặc thù do đó chưa có doanh nghiệp nào chuyên sâu vào thị trường này, mà chỉ coi hội chợ, triển lãm quốc tế là một phần trong những hoạt động Logistics của họ. Vì thế chưa xây dựng được những tiêu chí, tiêu chuẩn riêng phụ vụ cho hội chợ, triển lãm, cũng như chưa đủ điều kiện để các nhà tổ chức lựa chọn làm nhà giao nhận chính thức (Official Forwader). Đây vẫn là sân chơi chủ yếu của các doanh nghiệp nước ngoài với kinh nghiệm và định hướng phát triển chuyên sâu cho lĩnh vực này. Các bên đều muốn bành trướng thị phần trong thị trường đầy tiềm năng này, và tất nhiên đối với phong cách của các công ty đa quốc gia họ luôn chuẩn bị sẵn những chiến lược dài hơn, nhiều khi là rất tốn kém để xâm nhập thị trường và giành giật với đối thủ cạnh tranh. Sự ngang bằng, ngang sức làm cho cuộc chiến giữa các công ty lớn càng ngày càng lớn. c. Khách hàng: Khách hàng của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối trong lĩnh vực Logistics hội chợ, triển lãm chủ yếu là những khách từ Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan hoặc một số khách hàng địa phương. Thường các khách hàng về lĩnh vực này rất khó tính do đặc điểm hàng hoá cộng với tính chất quốc tế, các khách hàng đến từ nhiều nền văn hoá với những đặc tính và những quy tắc kinh doanh khách nhau cũng là một thử thách lớn. * Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quyết định mua của khách hàng: Đặc thù của thị trường này đó là cung cấp dịch vụ cho khách hàng công nghiệp. Mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu hậu cần dành cho trưng bày, quảng bá và giao dịch thương mại xung quanh sản phẩm của khách hàng công nghiệp đó. Không phải mục đích mua nguyên liệu đầu vào hay mua sản phẩm hữu hình cho doanh nghiệp. Những người liên quan đến quá trình mua chủ yếu gồm có: Ban lãnh đạo, trưởng phòng, ban phụ trách về xúc tiến hỗn hợp, marketing, ban phụ trách kinh doanh - giao dịch thương mại, các kỹ sư chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật cho hàng hoá, sản phẩm, ban phụ trách về Logistics đầu ra cho sản phẩm. * Các yếu tố mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ này sắp xếp theo thứ tự ưu tiên: Chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp: Luôn đi kèm với uy tín của thương hiệu. Do đó một khi đã dành được khách hàng, giữ họ ở lại và biến họ thành khách hàng trung thành là điều kiện không mấy khó khăn đối với các doanh nghiệp đã có thương hiệu và ấn tượng tốt. Quy mô của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: Điều này sẽ đảm bảo cho hàng hóa của khách hàng luôn đúng giờ, được đóng gói và bảo quản tốt, dựa trên hệ thống trang thiết bị, kho bãi, phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp. d. Đối thủ cạnh tranh sắp gia nhập: Với xu hướng các công ty dịch vụ Logistics mọc ra như nấm hiện nay và còn tiếp diễn thì sự cạnh tranh của ngành dự báo sẽ còn gay gắt hơn nhiều. Nguyên nhân chính do đã nói ở trên thì đó là chính sách đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng của chính phủ Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực Logistics đã có những bước tiến lớn, cộng thêm xu hướng phát triển của ngành trong tương lai đã thu hút được sự chú ý của các tập đoàn Logistics lớn mạnh trên thế giới. Một khi các công ty này đầu tư khai thác ở bất kỳ thị trường nào cũng cần đầu tư rất lớn về cơ sở vật chất, công nghệ và để tận dụng hết các nguồn lực đã đầu tư, việc mở rộng lĩnh vực hoạt động rất được ưa chuộng. Từ đó có thể thấy Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Phải đối mặt với nhiều thách thức cả từ phía các công ty Logistics cũ mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực hội chợ, triển lãm và cả các đối thủ sắp gia nhập ngành. e. Dịch vụ thay thế: Trong bối cảnh các công ty Logistics ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ như hiện nay thì các nhà hội chợ, triển lãm hoàn toàn có thể dễ dàng lựa chọn gói dịch vụ từ các nhà cung cấp Logistics sao cho đạt hiệu quả nhất. Do đó có thể nói tất cả các công ty có tham gia mảng dịch vụ cho hội chợ, triển lãm hay không đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh sản phẩm thay thế đối với Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Lựa chọn có sử dụng trọn gói dịch vụ của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối sẽ có những thuận lợi đối với họ như sau: Thứ nhất: khách hàng sẽ được hưởng tiện lợi hơn nhiều khi chỉ cần làm việc với một nhà cung cấp mà có thể an tâm giao hàng từ nơi gửi hàng tham gia hội chợ, triển lãm thành công và nhận hàng trở lại. Nếu họ yêu cầu với những thủ tục ðõn giản và an tâm về chất lýợng dịch vụ chuyên nghiệp nhý khi làm việc với nhiều công ty Logistics thì khi hàng có xảy ra vấn đề hư hỏng, thiếu hụt sẽ rất rắc rối trong việc giải quyết thiệt hại giữa các bên. Hoặc quan trọng hơn các nhà cung cấp dịch vụ đơn lẻ không thể chịu trách nhiệm về thời gian khắt khe cho hàng tham gia hội chợ, triển lãm tốt như nhà cung cấp dịch vụ trọn gói chuyên nghiệp. Khi nhận hàng từ khách hàng Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giấy tờ và thời gian cụ thể để đưa hàng về kịp hội chợ, triển lãm và chịu trách nhiệm nếu như sai sót thuộc về phía công ty. Vì nếu không đưa hàng về kịp hội chợ, triển lãm sẽ gây thiệt hại rất lớn cho khách hàng, để tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế thì vốn đầu tư bỏ ra không phải là nhỏ cũng như ảnh hưởng đến kế hoạch xúc tiến thương mại mà họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Đó là vấn đề mà khách hàng quan tâm nhất khi chọn lựa dịch vụ hơn cả vấn đề chi phí. Thứ hai: khi sử dụng các dịch vụ trọn gói của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối khách hàng sẽ được trăm sóc đặc biệt với sự tin cậy cao nhất. Ví dụ như khi khách hàng gửi hàng qua Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối tham gia hội chợ, triển lãm họ có thể được công ty hỗ trợ lắp đặt máy móc vào trong gian hàng hoặc được chăm sóc tận tình trong quá trình diễn ra hội chợ, triển lãm khi có bất cứ nhu cầu gì liên quan đến vận chuyển, di dời. Thứ ba: khách hàng sẽ được tư vấn tốt nhất về các vấn đề phưong thức vận chuyển, bảo hiểm và các dịch vụ liên quan sao cho đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Có được điều đó là do công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực Logistics cho hội chợ, triển lãm và am hiểu tính chất hàng hoá trong lĩnh vực này hơn hẳn các nhà dịch vụ không chuyên. Tuy vậy, không thể không kể đến sự phát triển nhanh chóng của các công ty Logistics với chất lượng tốt, chi phí tối ưu sẽ là những thách thức lớn đối với Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Đòi hỏi công ty phải hoàn thiện dịch vụ cũng như tối thiểu hoá chi phí để nâng cao sự cạnh tranh. Thực trạng năng lực cạnh tranh dịch vụ Logistics hội chợ triển lãm của công ty: 2.4.1 Chất lượng: a. An Toàn: Khi hàng về tới cảng, sân bay công ty sẽ tiến hành làm thủ tục hải quan để nhận hàng, khi hàng hóa đã được thông quan hàng sẽ được đưa về kho của công ty bằng xe container, xe tải có phủ bạt để tránh mưa. Sử dụng công nhân để phân loại hàng, hàng đóng trong thùng carton dưới 30kg thì xuống hàng bằng công nhân, hàng trên 150kg thì xuống bằng xe nâng máy để hàng hóa được đảm bảo tránh đổ vỡ. Với tính cẩn trọng trong công việc của mọi thành viên và hệ thống xe nâng tay sẵn sàng phục vụ luôn để hàng hóa trong độ an toàn cao nhất, với kiện hàng có khối lượng khoảng 5 tấn thì công ty sẽ dỡ hàng với xe cẩu là 10 tấn để đảm bảo an toàn cho hàng hóa. Tuy nhiên, công ty chưa có trang thiết bị hiện đại, tối tân nhất để bốc xếp hàng hóa phục vụ cho triển lãm. b. Chính xác: Công ty yêu cầu các lô hàng về bằng đường biển phải về trước thời gian tham gia triển lãm là 10 ngày và 05 ngày đối với các lô hàng vận chuyển bằng đường hàng không. Khi hàng về tới cảng, sân bay thì được công ty tiến hành làm thủ tục hải quan và vận chuyển về lưu tại kho của công ty nên tất cả các lô hàng đều được giao hàng đúng ngày, giờ tại các gian hàng theo yêu cầu của khách hàng. Do đó công ty chưa bao giờ giao hàng trễ cho khách hàng. Trong năm 2008 công ty chưa để xảy ra trường hợp giao hàng trễ, sự cố mất, hư hỏng hàng hóa. Tuy nhiên, năm 2009 đã xảy ra 1 trường hợp giao hàng trễ do lỗi công ty trong khâu làm thủ tục hải quan nhưng cũng được giải quyết bồi thường cho khách hàng bằng cách làm thủ tục nhập và tái xuất, bồi thường 50% trị giá lô hàng, phương án này cũng được khách hàng chấp nhận thỏa đáng và cùng hợp tác với công ty để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. c. Sự chuyên nghiệp trong chuyên môn: Phòng giao nhận Phòng chứng từ Khách hàng Kho công ty Gian hàng của triển lãm Kho bãi Hình 2.1: Qui trình làm hàng tạm nhập tái xuất Phòng chứng từ: nhận chứng từ của khách hàng từ fax, mail sau đó kiểm tra chứng từ và phản hồi đúng sai cho khách hàng biết, sau khi đã kiểm tra chứng từ phòng chứng từ sẽ chuyển chứng từ cho phòng giao nhận. Phòng giao nhận: nhận chứng từ và lên tờ khai, áp mã số thuế cho từng mặt hàng và sau đó mang hồ sơ ra cảng, sân bay để làm thủ tục hải quan cho từng lô hàng cụ thể. Sau khi hàng hóa được thông quan hàng sẽ được chở về kho của công ty. Kho bãi: sau khi nhận hàng từ phòng giao nhận, kho bãi sẽ phân loại hàng hóa và xếp vào từng vị chí theo hàng biển và hàng không. Trước ngày khai mạc triển lãm 2 ngày kho bãi sẽ mang hàng tới gian hàng cho khách hàng và ký nhận với khách hàng về số lượng hàng hóa. Sau khi triển lãm kết thúc: phòng giao nhận tới gặp khách hàng tại triển lãm để nhận hàng và nhận lệnh của khách hàng về việc phương thức vận chuyển đường biển hay đường hàng không đối với hàng tái xuất toàn bộ hoặc 1 phần của lô hàng, sau đó hàng được đưa về kho của công ty và dán tem vào hàng hóa để biết hàng xuất bằng đường biển hay đường hàng không. Nếu hàng được bán tại Việt Nam phòng giao nhận sẽ làm hợp đồng đứng tên người mua hàng và làm thủ tục hải quan nhập lô hàng đó, nếu lô hàng được xuất toàn bộ hoặc một phần của lô hàng thì làm thủ tục hải quan tái xuất cho lô hàng đó. Với việc phân loại phân loại hàng hóa, sử dụng xe container, xe tải có phủ bạt để tránh mưa, hệ thống xe nâng tay sẵn sàng phục vụ luôn để hàng hóa trong độ an toàn cao nhất, hàng hóa luôn được giải phóng nhanh chống khi về đến cảng, sân bay nên hàng hóa phục vụ cho hội chợ triển lãm luôn được giao đúng thời gian, sau khi kết thúc triển lãm hàng hóa lưu tại kho của công ty được dán tem phân chia, sắp xếp loại hình tái xuất theo đường không hay đường biển nên không thể có sự nhầm lẫn xảy ra. Đây là lợi thế được đánh giá hơn hẳn so với các đối thủ. Tuy nhiên, công ty chưa có trang thiết bị hiện đại tối tân nhất trong việc bốc xếp hàng hóa, trong năm 2009 đã có một trường hợp giao hàng không đúng thời gian tạo ấn tượng không tốt với khách hàng. Đây cũng là một sự thiệt thòi, điểm yếu so với các đối thủ. 2.4.2 Chi phí: Giá Công ty Kết Nối Công ty Vinatrans Công ty Schenker Hàng không 0.6 USD/ kg 0.8 USD/ kg 0.9 USD/ kg Hàng FCL 1,300.00 USD/ 20’ 1,800.00 USD/ 40’ 1,600.00 USD/ 20’ 2,200.00 USD/ 40’ 1,700.00 USD/ 20’ 2,400.00 USD/ 40’ Hàng LCL 60.00 USD/ CBM 80.00 USD/ CBM 100.00 USD/ CBM Bảng 2.3: Bảng so sánh các dịch vụ của công ty với đối thủ cạnh tranh Đối với các sản phẩm phục vụ mục đích thương mại, chi phí cho Logistics ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, do đó khách hàng luôn phải cân nhắc chọn lựa nhà cung cấp phù hợp với yêu cầu về chi phí của công ty. Giá dịch vụ: rẻ hơn so với các đối thủ vì sử dụng nhân viên là người trong nước, không phải thuê phương tiện vận tải vì công ty đã có sẵn phương tiện vận tải và có mặt bằng kho bãi rộng không phải đi thuê, công nhân phục vụ được thuê trọn gói cho mỗi đợt triển lãm nên có giá thành ưu đãi hơn. Đây là lợi thế lớn nhất của công ty so với các đối thủ cạnh tranh. Chính sách giá mà công ty theo đuổi là cạnh tranh về giá và xác định chính sách định giá theo chi phí do đó công ty không ngừng tìm kiếm các nguồn cung cấp trong nước để giảm thiểu chi phí tối đa. Chính nhờ ưu điểm am hiểu thị trường Logistics Việt Nam cũng như đặc thù về thủ tục và bộ máy hải quan trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nên công ty Tiếp Vận Kết Nối có lợi thế tối ưu hóa vượt trội so với các đối thủ nước ngoài về chi phí giá cả dịch vụ. Vì vậy, so với mặt bằng giá cả trên thị trường Logistics thì giá dịch vụ Logistics của công ty Tiếp Vận Kết Nối là tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, việc thuê công nhân bên ngoài không được chuyên nghiệp, giá thuê công nhân có sự biến động, thay đổi liên tục, không có rằng buộc về trách nhiệm nên luôn phải có ít nhất một người theo dõi, đôn đốc công việc để công việc được trôi chảy. 2.4.3 Khả năng tài chính của công ty: Vốn: vốn điều lệ của công ty có 5,5 tỷ đồng, vốn lưu động 1,5 tỷ đồng Cơ sở vật chất và trang thiết bị: Văn phòng chính rộng 100 m2 đặt tại số 11 Đinh Bộ Lĩnh, phường 25, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh, kho và văn phòng kho rộng 1500 m2 đặt tại số 190 Trương Văn Hải, Phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9, TP Hồ Chí Minh. Phương tiện vận tải: Có 03 xe đầu kéo container, 03 xe tải loại 2,5 tấn, 10 xe nâng tay, 02 xe nâng máy Đây là một trong những yếu tố then chốt làm nên thế mạnh của công ty. Đặc điểm của vận tải đa phương thức hàng hóa quốc tế là sử dụng nhiều dịch vụ liên quan và cước phí dịch vụ cao. Hầu hết các chuỗi dịch vụ của công ty cung cấp là từ nguồn lực bên ngoài. Thêm nữa khách hàng thường yêu cầu các công ty dịch vụ cung cấp các chính sách công nợ hấp dẫn từ 1 tháng tới 2 tháng kể từ sau khi hoàn tất dịch vụ vì đây là các khách hàng quen có mối quan hệ tốt với công ty, đây là thế mạnh của công ty so với đối thủ vì khi làm hàng xong thì các đối thủ thường thu tiền ngay của khách hàng. Tuy nhiên, so với các đối thủ là các công ty đối thủ lớn trong ngành như: Vinatrans (100% vốn nhà nước), Nissin (100% vốn đầu tư Nhật Bản) thì công ty Tiếp Vận Kết Nối thực sự thua kém về mọi mặt so với đối thủ rất nhiều, với Vinatrans thì hệ thống kho CFS của doanh nghiệp là 2.500 m2, kho ướp lạnh liên doanh với công Ty TNHH Konoike là 2.800 m2, hệ thống kho bãi gồm 40.000 m2 dành cho kho kín, 50.000 m2 dành cho kho bãi lộ thiên. 2.4.4 Nguồn nhân lực: PHÒNG BAN SỐ LƯỢNG Giám đốc 1 Phòng kinh doanh 5 Phòng kế toán 3 Phòng XNK 9 Tổng cộng: 18 Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn nhân lực Công ty có 18 người, độ tuổi trung bình 32 tuổi, trình độ học vấn với 10 người có trình độ đại học chiếm 55.55%. Với độ tuổi trung bình như vậy thì công ty nhân lực của công ty thuộc độ tuổi trẻ. Đào tạo nội bộ tại công ty do nguồn đào tạo chính quy thiếu hụt nên các công ty sau khi tuyển dụng nhân viên đều phải tự trang bị kiến thức nghề nghiệp bằng các khóa tự mở trong nội bộ công ty cho các nhân viên mới với lực lượng giảng dạy là những cán bộ đang tại chức. Lực lượng này là những người đang kinh doanh nên có nhiều kinh nghiệm thực tế, tuy nhiên khả năng sư phạm và phương pháp truyền đạt chưa đảm bảo. Điều này dẫn đến sự khập khễnh, chênh lệch về nghiệp vụ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ của nhân viên. Hơn nữa, đội ngũ nhân viên sales của công ty chuyên môn nghiệp vụ còn yếu và thiếu nên cần phải được đào tạo và tuyển dụng để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty. Lãnh đạo, quản lý được tuyển dụng theo một qui trình chặt chẽ và hội tụ được nhiều kĩ năng về trình độ, kinh nghiệm nên công tác quản lý của công ty tương đối tốt. Lãnh đạo đã tạo được mối quan hệ tốt, gần gũi, biết khai thác tốt năng lực và phát huy sáng tạo của nhân viên trong công việc. Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của công ty. Tuy nhiên quyết định của lãnh đạo đôi lúc còn cứng nhắc, không bám sát với thực tế gây áp lực cho nhân viên. Điều này sẽ làm giảm tinh thần làm việc của cấp dưới. Những cá nhân có thâm niên và hiểu biết sâu rộng trong ngành Logistics, nắm bắt tốt theo những xu hướng mới của thị trường thế giới còn chưa nhiều so với sự chuyên nghiệp của những công ty nước ngoài so với các công ty đa quốc gia thì còn thua kém về nhiều mặt. 2.4.5 Truyền thông Marketing và thương hiệu: Quảng cáo: hiện tại công ty đang áp dụng một công cụ quảng cáo trên tạp chí chuyên ngành Logistics 1 trang /1 số, quảng cáo trên website của hệ thống saigonnewport.com.vn. PR: công ty thường xuyên tham dự các event về giới thiệu dịch vụ giao nhận vận tải, tham dự các ngày kỉ niệm của hãng tàu, đại lí hãng tàu. Khuyến mại: hỗ trợ khách hàng đưa hàng vào khu vực triển lãm, trang trí trưng bày sản phẩm. Bán hàng cá nhân: ban giám đốc thường tới các show triển lãm để gặp gỡ các khách hàng tham gia triển lãm thiết lập mối quan hệ với khách hàng quảng bá thương hiệu của công ty. Marketing trực tiếp: gửi khách hàng namecard. Hoạt động truyền thông marketing của công ty còn yếu, và chi phí đầu tư cho hoạt động này còn hạn chế. Công ty chưa có nhân viên chuyên về nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng và các Vender. Vì thế, hiệu quả như mong đợi, một phần là do ảnh hưởng kinh tế, nhưng phần lớn là do đầu tư cho hoạt động truyền thông chưa hợp lý vì thế chưa mang lại hiệu quả cho công ty. Logistics còn là một lĩnh vực mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics của Việt Nam nói riêng, vì vậy việc ứng dụng còn rất sơ sài và đơn lẻ cho nên chưa phát huy được hiệu quả của Logistics. Hiện tại, công ty áp dụng hình thức phân phối trực tiếp, đồng thời xây dựng mối quan hệ với các công ty Logistics có hệ thống đại lý khắp nơi trên thế giới làm đối tác hợp tác làm hàng ở nước ngoài chứ chưa có những đại lý trực thuộc nước ngoài. Đây cũng là một hạn chế của công ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối so với các đối thủ cạnh tranh là các công ty đa quốc gia với hệ thống các đại lý hùng mạnh trên khắp thế giới. Mặt khác thương hiệu công ty là tài sản vô hình được tạo nên từ rất nhiều yếu tố cạnh tranh của công ty cũng như ý đồ xây dựng của doanh nghiệp. Trong đó có thể kể đến các yếu tố chủ chốt như: thế mạnh cạnh tranh mà công ty muốn xây dựng, văn hóa và tác phong làm việc của công ty và chiến lược marketing, PR của doanh nghiệp. Tuy nhiên, với công ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối thì chỉ có những người trong ngành Logistics hội chợ triển lãm mới biết đến, chưa thật sự nổi bật rộng khắp với thị trường vận tải nói chung. 2.5 Nhận xét chung: 2.5.1 Ưu điểm: - Với tính an toàn cao, thời gian giao hàng chính xác, sự chuyên môn nghiệp vụ nổi bật. Tinh thần trách nhiệm và tính cẩn trọng của nhân viên công ty luôn đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Vì sử dụng nhân viên là người trong nước, có sẵn phương tiện vận chuyển và mặt bằng kho bãi rộng, công ty đã áp dụng chính sách cạnh tranh về giá và xác định chính sách định giá theo chi phí, am hiểu thị trường Logistics Việt Nam cũng như đặc thù về thủ tục hải quan nên giá thành của công ty rẻ hơn so với đối thủ. - Kho và văn phòng công ty rộng, nằm ở vị trí thuận lợi. Với chính sách công nợ hấp dẫn, cho khách hàng nợ từ 1 đến 2 tháng kể từ sau khi hoàn tất dịch vụ. Đây là chính sách nổi bật so với đối thủ về thu hút khách hàng. - Công ty với độ tuổi trung bình là 32 tuổi, nhân lực thuộc độ tuổi trẻ, năng động. Lãnh đạo trong công ty là những người có nhiều có kinh nghiệm thực tế, tạo được mối quan hệ tốt, gần gũi, là những người biết khai thác tốt năng lực và phát huy sáng tạo của nhân viên trong công việc. Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của công ty. - Việc ứng dụng các công cụ truyền thông như đăng báo, quảng cáo trên một số website trong ngành Logistics, thường xuyên tham gia các event, áp dụng các chính sách khuyến mại giữ chân khách hàng cũ và tạo mối quan hệ mới, thiết lập mối quan hệ với khách hàng để quảng bá thương hiệu của công ty. 2.5.2 Nhược điểm: - Công ty chưa có trang thiết bị hiện đại tối tân nhất là điểm yếu của so với đối thủ. - Việc thuê công nhân bên ngoài, giá thuê công nhân có sự biến động, thay đổi liên tục, không có ràng buộc trách nhiệm nên khách hàng đánh giá là thiếu sự chuyên nghiệp. - So với các đối thủ là các công ty 100% vốn nhà nước, công ty có vốn đầu tư nước ngoài thì khả năng tài chính của công ty luôn là yếu kém so với đối thủ. - Đội ngũ nhân viên trẻ nhưng trình độ nghiệp vụ, vốn ngoại ngữ còn yếu. Lãnh đạo là những người có nhiều kinh nghiệm nhưng khả năng sư phạm thì chưa đủ để truyền đạt hết nghiệp vụ chuyên môn qua những lớp đào tạo nội bộ của công ty đến nhân viên. - Chi phí đầu tư cho hoạt động Marketing còn hạn chế, chưa có nhân viên chuyên về nghiên cứu thị trường. Logistics là lĩnh vực mới mẻ nên việc ứng dụng còn rất sơ sài và đơn lẻ chưa phát huy hết được hiệu quả của Logistics. Công ty chưa có hệ thống đại lý trực thuộc nước ngoài là hạn chế của công ty so với các đối thủ cạnh tranh là công ty đa quốc gia với hệ thống đại lý rộng khắp. - Công ty TNHH TM & DV Tiếp Vận kết Nối là một thương hiệu mới chưa thật sự nổi bật rộng khắp với thị trường vận tải nói chung. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO DỊCH VỤ LOGISTICS HỘI CHỢ TRIỂN LÃM CỦA CÔNG TY TNHH TM & DV TIẾP VẬN KẾT NỐI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ 3.1 Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3.1.1 Giải pháp chi phí: Trong lĩnh vực hậu cần hội chợ triển lãm phải kể đến các chi phí cần quan tâm: Biến phí: Chi phí làm hàng cơ bản được quy định trong hợp đồng (đơn vị tính kg, cbm, hoặc container tuỳ theo đặc điểm hàng hoá) vận tải, chi phí đóng gói, xếp dỡ, phí chứng từ, phí lưu kho, lưu container tại cảng, thủ tục chuyển từ hàng tạm nhập sang hàng nhập khẩu, phí gom hàng, phí chia hàng. Định phí: Chi phí cơ sở hạ tầng, thiết bị, công nhân viên. Đó là những chi phí cố định trong hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó biến phí chiếm một phần tỷ lệ lớn quyết định đến lời lỗ của doanh nghiệp và là chi phí liên quan trực tiếp đến dịch vụ của công ty cần thiết phải xem xét hơn cả. Chiếm một tỷ lệ lớn là chi phí vận chuyển, công ty nên quy định rõ điều kiện giá dịch vụ trong hợp đồng vận chuyển thuê ngoài trong điều kiện Việt Nam nên chọn phương pháp giá linh hoạt. Trên thực tế khi giá xăng dầu tăng các doanh nghiệp vận tải sẽ tăng giá dịch vụ vận chuyển của mình không theo một nguyên tắc nào cả vì giá vận chuyển được chào không tách rời phí xăng dầu. Chính điều này đã làm cho giá dịch vụ vận chuyển không minh bạch và rất dễ bị các hãng vận chuyển lợi dụng tình hình tăng của xăng dầu thì tăng luôn giá bán, vì thế doanh nghiệp nên yêu cầu các hãng vận chuyển chào giá dịch vụ vận chuyển tách rời với phụ phí xăng dầu. 3.1.2 Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ: Để phát huy được thế mạnh về chất lượng dịch vụ của Công Ty TNHH TM & DV Tiếp Vận Kết Nối. Xin đưa ra một số giải pháp sau: Đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo phục vụ tốt nhất yêu cầu công việc vừa tiết kiệm chi phí, vừa chủ động trong hoạt động kinh doanh của công ty. Từ việc đầu tư kho bãi, phương tiện vận chuyển, công cụ dụng cụ phục vụ hội chợ, triển lãm. Vấn đề thời gian luôn là một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dịch vụ, nên để đảm bảo giao hàng đúng hẹn cho khách hàng cần có kế hoạch điều phối tốt tất cả mọi nguồn lực của doanh nghiệp cả nhân lực và vật lực. Đối với khách hàng để có thể đúng hẹn giao hàng, công ty đã đề ra những lịch trình hết sức sát sao cho họ, bao gồm các hạn chót cho việc cung cấp chứng từ cần thiết cho công tác khai hải quan và các thủ tục nhập hàng và lấy hàng từ cảng được đảm bảo. Lịch trình này được hướng dẫn chi tiết tới khách hàng qua bảng báo giá, đòi hỏi sự hợp tác từ tất cả các bên để thực hiện tốt các công việc. Từ đó, cũng có thể dễ dàng xác định rõ nguyên nhân của những lỗi trong dịch vụ là do công ty hay từ phía khách hàng để giải quyết triệt để và không làm mất lòng khách, đây cũng là cách để chiếm được lòng tin của khách hàng từ sự chuyên nghiệp và chặt chẽ trong việc quản lý dịch vụ của công ty. Doanh nghiệp cần phải hình thành được các danh mục dịch vụ kinh doanh, kèm theo đó là bảng giá hoặc các đặc điểm của dịch vụ. Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động có nhiều dịch vụ quan trọng liên quan tới sự tồn tại và phát triển của công ty, các dịch vụ mũi nhọn đảm nhận việc tạo dựng uy tín và hình ảnh của công ty cần phải chú trọng như: Dịch vụ hậu cần cho hội chợ, triển lãm quốc tế Vận chuyển hành lý cá nhân và hàng hoá đặc biệt (hàng thực phẩm, nghệ thuật) Đóng gói và vận chuyển nội địa. Các dịch vụ khác doanh nghiệp có thể thuê trong quá trình cung ứng để họ đảm nhiệm. Dựa vào đặc điểm của các dịch vụ, các báo cáo kết quả kinh doanh, quan hệ khách hàng, các nghiên cứu về thị trường doanh nghiệp nên có một hồ sơ về các dịch vụ của mình cũng như hồ sơ khách hàng và cập nhập liên tục để theo dõi và chăm sóc tốt hơn. 3.1.3 Giải pháp tài chính: Cần bổ sung vốn lưu động để mua sắm thêm các trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của công ty Đầu tư mở rộng kho bãi và các phương tiện vận tải, trang thiết bị để đóng gói sau khi kết thúc triển lãm Phải xây dựng một quy trình làm việc, quản lý thống nhất, thể hiện tính minh bạch rõ ràng. Xác định được rõ những công việc trong quản lý tài chính , phân công chi tiết đến từng nhân sự thực hiện. Khi năng lực và điều kiện chưa cung ứng đầy đủ, trọn gói dây chuyền dịch vụ Logistics cho khách hàng trước mắt công ty phải mở rộng hoạt động liên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN 22-04-2011 (word 2003).doc
Tài liệu liên quan