Đề tài Sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê robusta tại chi nhánh công ty thực phẩm miền bắc – fonexim Hồ Chí Minh

Tài liệu Đề tài Sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê robusta tại chi nhánh công ty thực phẩm miền bắc – fonexim Hồ Chí Minh: PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Cho đến nay, cà phê vẫn luôn giữ vài trò là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy trong giai đoạn 2005 – 2010. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc phát triển ngành cà phê khá bấp bênh. Tính chất giá cà phê của nước ta là phụ thuộc vào giá cả của thị trường thế giới, chỉ một vụ rớt giá mạnh cũng khiến cho người trồng cà phê và các nhà kinh doanh cà phê gánh chịu rủi ro lớn, có khi dẫn đến phá sản. Chính vì vậy trên thế giới, để bảo hộ giá cả cho nhà sản xuất xuất khẩu nông sản, các nước thường sử dụng thành công một biện pháp là xây dựng thị trường giao dịch hợp đồng tương lai hàng hóa nông sản để các chủ thể có thể là nhà sản xuất, xuất khẩu nông sản tham gia giao dịch để san sẻ rủi ro về giá cả hàng hóa cho đối tác khác trên thị trường đó và cho thị trường quốc tế. Các hợp đồng này thực hiện thông qua các trung tâm giao dịch hàng hoá tập trung lớn như tại Lu...

doc77 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê robusta tại chi nhánh công ty thực phẩm miền bắc – fonexim Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Cho đến nay, cà phê vẫn luôn giữ vài trò là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy trong giai đoạn 2005 – 2010. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc phát triển ngành cà phê khá bấp bênh. Tính chất giá cà phê của nước ta là phụ thuộc vào giá cả của thị trường thế giới, chỉ một vụ rớt giá mạnh cũng khiến cho người trồng cà phê và các nhà kinh doanh cà phê gánh chịu rủi ro lớn, có khi dẫn đến phá sản. Chính vì vậy trên thế giới, để bảo hộ giá cả cho nhà sản xuất xuất khẩu nông sản, các nước thường sử dụng thành công một biện pháp là xây dựng thị trường giao dịch hợp đồng tương lai hàng hóa nông sản để các chủ thể có thể là nhà sản xuất, xuất khẩu nông sản tham gia giao dịch để san sẻ rủi ro về giá cả hàng hóa cho đối tác khác trên thị trường đó và cho thị trường quốc tế. Các hợp đồng này thực hiện thông qua các trung tâm giao dịch hàng hoá tập trung lớn như tại Luân Đôn (LIFFE), New York (NYBOT). Vì vậy không lý do gì Việt Nam không áp dụng hình thức này khi mà sự phát triển sản phẩm giao dịch cho các hàng hoá Việt Nam là điều tất yếu và cần thiết tương ứng với giai đoạn phát triển kinh tế và hội nhập hiện nay. Sự biến động bất thường của giá các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam nói chung và ngành hàng cà phê nói riêng đã ảnh hưởng đến sự tình hình kinh doanh của toàn ngành cũng như Công ty Chi Nhánh Thực Phẩm Miền Bắc – FONEXIM HCM, đặt ra yêu cầu bức thiết đó là cần có những công cụ bảo hiểm trong kinh doanh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững lâu dài và hình thức mà công ty đã và đang áp dụng đó là sử dụng hợp đồng tương lai (Futures Contract) để phòng ngừa rủi ro về giá. Trước khi tham gia giao dịch này, FONEXIM HCM chỉ thực hiện các hợp đồng uỷ thác từ những đối tác đã có sẵn nguồn hàng, các đối tác này gửi hàng cho công ty nhờ công ty thực hiện xuất khẩu thu trước 70% tiền hàng và sau khi chốt giá nhờ thu tiếp 30% tiền hàng còn lại, lợi nhuận thu được từ khoảng chênh lệch và hoa hồng uỷ thác. Hợp đồng dạng này được gọi là Diffirentials Contract, trong đó giá được hai bên thống nhất giữ một khoảng cách biệt so với thị trường LIFFE, mà thường thấp hơn nên gọi nôm na là hợp đồng “trừ lùi”. Với phương thức này, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nói chung và FONEXIM HCM nói riêng phần nhiều thua thiệt do chênh lệch giữa giá chào bán cà phê Việt Nam với giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn London khá lớn, luôn ở mức trên 100USD/tấn. Nay thì, nhờ giao dịch trực tiếp trên thị trường kỳ hạn London, doanh nghiệp không còn bị thua thiệt về chênh lệch giá như đã nói trên, thay vào đó doanh nghiệp chỉ phải chịu một khoản phí không đáng kể cho nhà môi giới (Techcombank). Khoản phí này là 10 USD/tấn cho mỗi giao dịch dưới 200 lot (lot là đơn vị tính cho mỗi hợp đồng 5 tấn cà phê nhân) và trên 1000 lot phí giảm còn 2 USD/tấn. Nhận thấy tầm quan trọng của thị trường này, năm 2008, công ty tiến hành tham gia giao dịch hợp đồng tương lai đối với cà phê Robusta tại thị trường kỳ hạn Luân Đôn (LIFFE), ký kết xuất khẩu với khách hàng nước ngoài và tiến hành thu mua cà phê trực tiếp từ những nơi trồng cà phê như Đắk Lắk, Lâm Đồng…Sau một năm tham gia giao dịch, công ty đã đạt được những thành công bước đầu, bên cạnh đó vẫn có nhiều khó khăn và hạn chế nhất định do mới chập chững bước vào thị trường này. Nghiên cứu hợp đồng tương lai, lợi ích, khó khăn và kỹ thuật vận hành của thị trường này nhằm giúp cho công ty phần nào có được cái nhìn tổng quan và hiểu rõ hơn về hình thức giao dịch này trên thế giới cũng như Việt Nam hiện nay cùng với những giải pháp để công ty có thể thực hiện tốt hơn nữa những giao dịch này trong tương lai. Đó là lý do cho đề tài: “SỬ DỤNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ CÀ PHÊ ROBUSTA TẠI CHI NHÁNH CÔNG TY THỰC PHẨM MIỀN BẮC – FONEXIM HCM” Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Tổng quan về công cụ phòng chống rủi ro biến động giá đang được sử dụng trên thế giới: sản phẩm phái sinh trên thị trường hàng hóa. Tổng quan về thị trường cà phê những năm gần đây trên thế giới và Việt Nam; xác định rủi ro mà ngành đang đối mặt đó là biến động giá cà phê nhân. Tìm hiểu khái niệm, mục đích, kỹ thuật vận hành và những lợi ích từ việc sử dụng hợp đồng tương lai cho giao dịch buôn bán cà phê, qua đó phục vụ cho công cuộc phòng chống rủi ro sự biến động giá cả cà phê trong giai đoạn hiện nay. Đánh giá sự cần thiết, khả năng sử dụng hợp đồng tương lai và phân tích tình hình ứng dụng giao dịch hợp đồng tương lai của công ty để nhận định những kết quả đạt được cùng với những khó khăn, hạn chế trong quá trình tham gia giao dịch. Thu thập những tài liệu liên quan về thị trường hàng hoá phái sinh, nhất là về hợp đồng tương lai cho hoạt động của công ty. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tình hình ứng dụng Hợp đồng tương lai vào giao dịch buôn bán cà phê trong phạm vi chi nhánh công ty thực phẩm miền bắc FONEXIM HCM để đánh giá xem hiệu quả sử dụng hợp đồng tương lai mang lại lợi ích gì cho quá trình kinh doanh của công ty. Ngoài ra còn nghiên cứu thêm tình hình sử dụng giao dịch hợp đồng tương lai của các doanh nghiệp khác cùng ngành, từ kết quả mà họ đạt được cùng với những thách thức trở ngại của ngành. Qua đó đưa ra những giải pháp để áp dụng hiệu quả hình thức này cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê nói chung và công ty FONEXIM HCM nói riêng. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp tổng hợp để thu thập thông tin, sau đó sử dụng các phương pháp logic, thống kê để phân tích, hệ thống hoá từng nhóm thông tin, qua đó đối chiếu, so sánh các số liệu có được. Số liệu được thu thập từ các nguồn thông tin thứ cấp như: báo chí, web, giáo trình, các báo cáo ngành hàng cà phê của các tổ chức thống kê, VICOFA (Hiệp Hội Cà phê – Ca Cao Việt Nam), ICO (Tổ Chức Cà Phê Thế Giới),… Các số liệu báo cáo của công ty FONEXIM từ phòng Kế Toán. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm các chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng tương lai trong kinh doanh cà phê Robusta Chương 2 – Sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại công ty FONEXIM HCM. Chương 3 – Một số đề xuất và giải pháp trong việc sử dụng Hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại công ty FONEXIM HCM. Do hạn chế về thời gian, tài liệu và khả năng của người viết nên nội dung của đề tài này chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự hướng dẫn và những góp ý tận tình của quý thầy cô để cho bài luận của em được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI TRONG KINH DOANH CÀ PHÊ ROBUSTA CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH (DERIVATIVES) Khái niệm: Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro tiềm ẩn, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận của các giao dịch được chia sẻ cho các bên. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu hoặc để đảm bảo rằng nếu giá cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng nhưng có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract), Hợp đồng tương lai (Futures Contract), Hợp đồng quyền chọn (Options Contract) và Hợp đồng hóan đổi (Swaps Contract). Các sản phẩm hàng hóa phái sinh 2.1 Hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract) Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng mua hay bán một số lượng nhất định đơn vị tài sản cơ sở ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng hay ngày đáo hạn. Thời gian từ khi ký hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của hợp đồng. Giá xác định áp dụng trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là giá kỳ hạn. (theo www.wikipedia.org) Ví dụ: Tình hình giá cà phê trên thị trường Việt Nam thường bất ổn và dao động tùy thuộc vào tình hình giá cà phê trên thị trường thế giới và tình hình thời tiết. Năm nào thời tiết tốt và giá cà phê thị trường thế giới giảm thì giá cà phê trong nước giảm theo khiến nông dân trồng cà phê bị thiệt hại. Ngược lại, năm nào thời tiết không tốt và giá cà phê thị trường thế giới tăng thì giá cà phê trong nước tăng theo khiến các nhà xuất khẩu cà phê khó khăn khi thu mua cà phê của nông dân. Để tránh tình trạng bất ổn, nhà xuất khẩu cà phê có thể thương lượng và ký hợp đồng mua cà phê kỳ hạn với nông dân. Ví dụ, vào đầu vụ, công ty A ký hợp đồng kỳ hạn 6 tháng mua của ông X 20 tấn cà phê với giá thỏa thuận trước là 15 triệu đồng/ tấn. Ông X được gọi là người bán, công ty A là người mua trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 6 tháng ông X phải bán cho công ty A 20 tấn cà phê với giá thỏa thuận trước là 15 triệu đồng/tấn và công ty A phải mua 20 tấn cà phê của ông X với giá đó, cho dù giá cà phê trên thị trường sau 6 tháng là bao nhiêu đi chăng nữa. Với giá thỏa thuận biết trước và cố định, cả ông X và công ty A đều có được sự an tâm khỏi phải lo lắng về sự biến động giá cà phê trên thị trường. 2.2 Hợp đồng tương lai ( Futures Contract) Hợp đồng Futures là một thỏa thuận để mua hoặc bán một tài sản vào một thời điểm xác định chắc chắn trong tương lai với một mức giá xác định. (theo www.wikipedia.org) Ví dụ: Công ty A ký hợp đồng xuất khẩu cà phê cho công ty B giao tháng 11/2009 là 100 tấn giá 1,350 USD/ tấn. Như vậy, đến thời điểm giao hàng, công ty A phải bán cho công ty B 100 tấn cà phê đó với giá 1,350 USD/tấn và công ty B phải mua 100 tấn cà phê với giá đó cho dù giá cà phê vào thời điểm đó là bao nhiêu đi chăng nữa. 2.3 Hợp đồng quyền chọn (Options Contract) Options là quyền bán hoặc mua một hạng mục hàng hoá cụ thể nào đó như: cổ phiếu, kim loại quý hoặc trái phiếu Kho bạc, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hóa theo một giá đã xác lập trước trong một khoản thời gian nào đó. (theo www.wikipedia.org) Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (Call Option) và hợp đồng quyền chọn bán (Put Option). Quyền chọn mua Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua. Ví dụ: Giá cổ phiếu của ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ lên khoảng 200.000 đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000 đồng để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không đúng như dự báo bị giảm xuống còn 60.000 đồng thì nhà đầu tư bị lỗ: 40.000.000 đồng. Trong trường hợp này, để vừa giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Quyền chọn mua, cụ thể: mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000 đồng/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000 đồng/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000 đồng. Trong thời gian 3 tháng trên, nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000 đồng/cổ phiếu thì bạn sẽ thu được: 1000 cổ phiếu x 200.000 đồng = 200.000.000 đồng tức là bạn lãi 100.000.000 đồng – 20.000.000 đồng phí mua quyền chọn = 80.000.000 đồng. Trong trường hợp giá cổ phiếu của AB không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất 20.000.000 đồng tiền phí quyền chọn mua. Quyền chọn bán Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai. Ví dụ: Nhà đầu tư là người nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000 đồng/cổ phiếu thì sẽ bị mất 30.000.000 đồng. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000 đồng/cổ phiếu = 20.000.000 đồng để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán được 100.000 đồng/cổ phiếu. Tức là nếu như giá cổ phiếu giảm xuống dưới 100.000 đồng/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao hơn mức giá của cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó. Ví dụ khác: Nhà đầu tư muốn bán 1000 cổ phiếu công ty AB nhưng không nắm toàn bộ số cổ phiếu trên. Nhà đầu tư sẽ đặt quyền chọn bán 1000 cổ phiếu công ty AB với mức giá 100.000 đồng/cổ phiếu, nếu như giá cổ phiếu công ty giảm xuống còn 60.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ mua lại 1000 cổ phiếu của công ty AB với giá 60.000 đồng/cổ phiếu và bán lại với mức giá 100.000 đồng/cổ phiếu theo quyền bán mà ông đã mua. Nếu giá cổ phiếu công ty AB tăng lên, nhà đầu tư có thể hủy quyền bán cổ phiếu và chịu thiệt hại ít hơn (số tiền đặt mua quyền bán cổ phiếu AB với mức giá 100.000 đồng/cổ phiếu). Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua kỳ hạn và hợp đồng mua bán tương lai, hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền . Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí ; giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay ngày thực hiện (Expiration date, The exercise date hay Maturity ). Người nắm giữ hợp đồng futures dài hạn được quyền mua tài sản với giá nhất định vào thời điểm xác định trong tương lai. Người ta không phải tốn chi phí (ngoại trừ tiền ký quỹ theo yêu cầu) khi tham gia thị trường futures. Người mua hợp đồng option có quyền lựa chọn mua (hay không mua) tài sản với giá xác định vào thời điểm xác định trong tương lai. Trên thị trường option, nhà đầu tư phải trả trước tiền lệ phí hoặc giá của hợp đồng option. Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ. Thị trường giao dịch option chứng khoán lớn nhất là Chicago Board Option Exchange (CBOE). Có 4 loại người tham gia trên thị trường option: Người mua quyền chọn mua ( Long Call ) Người bán quyền chọn mua ( Short Call ) Người mua quyền chọn bán ( Long Put ) Người bán quyền chọn bán ( Short Put ) 2.4 Hợp đồng hoán đổi (Swaps Contract) Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.(theo www.wikipedia.org) Ví dụ: Để có đủ ngoại tệ là đô la Mỹ cho hoạt động đầu tư tại thị trường Mỹ, Công ty A của Việt Nam đã thoả thuận một Hợp đồng hoán đổi với Công ty B của Mỹ, theo đó Công ty B chuyển cho Công ty A một lượng USD nhất định, đổi lại Công ty A sẽ cung cấp đồng Việt Nam cho hoạt động đầu tư của Công ty B tại Việt Nam. Hợp đồng hoán đổi được sử dụng để phòng ngừa rủi ro lãi suất hay đầu cơ vào sự thay đổi của giá cả hàng hóa cơ sở. Các loại hợp đồng Swaps thông dụng: Hoán đổi lãi suất (Interest Rate Swaps) Hoán đổi tiền tệ (Currency Swaps) Hoán đổi tín dụng (Credit Swaps) Hoán đổi hàng hóa (Commodity Swaps) Hoán đối chứng khoán vốn (Equity Swaps) Vai trò của công cụ tài chính phái sinh Quản trị rủi ro Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác. Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có của thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội. Thông tin hiệu quả hình thành giá Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá  giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình. Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả. Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn. Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn. Thứ 3, các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận. Mức độ áp dụng các công cụ tài chính ở Việt Nam hiện nay: Tại Việt Nam hiện nay thị trường phái sinh chỉ mới hình thành trên trên lĩnh vực ngoại hối và gần đây bắt đầu trên thị trường hàng hóa (cà phê, cao su, đậu nành của Techcombank, cà phê của BIDV, ATB), chưa xuất hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Các giao dịch phái sinh chủ yếu là hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa chọn còn hợp đồng giao sau và hợp đồng hoán đổi chưa được thực hiện.  Đối với thị trường ngoại hối, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn trên thị trường ngoại hối được Ngân hàng Nhà nước cho phép từ năm 1998 theo quyết định số 17/1998/ QĐ-NHNN7 ngày 10/1/1998. Với quyết định này, cho phép các Ngân hàng Thương mại triển khai các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất và mua bán ngoại hối kỳ hạn với khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhờ vậy đã giúp cho các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á. Đến năm 2002, được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Eximbank đã tiến hành thí điểm giao dịch quyền lựa chọn (Options). Mặc dù mới đưa vào giao dịch trên thị trường, cơ chế còn khá mới mẻ nhưng bước đầu đã được nhiều khách hàng tham gia. Sang năm 2004, trước tình hình biến động giá cà phê trên thị trường gây rủi ro cho nông dân và các công ty xuất khẩu cà phê, Ngân Hàng Kỹ Thương đã đứng ra làm đầu mối tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện giao dịch phái sinh trên thị trường London, bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể. Với tình hình hoạt động của thị trường các chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thời gian qua có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế sau:  ° Những thành quả bước đầu:  + Nhận thức về các công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt động kinh doanh ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa các công cụ phái sinh hoán đổi (Swaps), kỳ hạn (Forwards) và quyền lựa chọn (Options) vào giao dịch trên thị trường, bước đầu Ngân hàng đã tạo được nhận thức cho khách hàng trong việc vận dụng chúng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá. Trên cơ sở những thành quả đạt được trên thị trường ngoại hối hoạt động giao dịch phái sinh được triển khai sang lĩnh vực thị trường hàng hóa, cụ thể là sản phẩm cà phê trên thị trường London được Ngân Hàng Kỹ Thương Techcombank áp dụng, Ngân hàng Á Châu thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán vàng.  + Cung ứng thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối. Một số Ngân hàng năng động giờ đây không chỉ tập trung vào những sản phẩm kinh doanh ngân hàng truyền thống mà còn hướng tới nghiên cứu triển khai các phái sinh hiện đại.  ° Những hạn chế:   + Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với như cầu thực tế: các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng các giao dịch này ở các Ngân hàng Thương Mại vẫn còn rất ít, vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Tỷ giá giữa USD/VND được Ngân hàng Nhà Nước can thiệp khá ổn định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu + Nhận thức về các công cụ phái sinh chưa phổ biến và chưa am hiểu sâu sắc về các công cụ từ các doanh nghiệp. + Tính hiệu quả kém của thị trường làm cho các giao dịch phái sinh không phát huy hết vai trò là công cụ dựa trên những biến động ngẫu nhiên của thị trường để hạn chế rủi ro và tạo ra lợi nhuận + Hệ thống thông tin thị trường chưa kịp thời và đầy đủ.  + Giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị trường khác vẫn chưa hình thành hoặc trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ nguyên nhân về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán phái sinh chưa đầy đủ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia chưa được đảm bảo do đó chưa tạo được sự quan tâm của các định chế tài chính cũng như các nhà đầu khi tham gia trên thị trường chứng khoán trong vận dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư kiếm lợi.  + Khung pháp lý điều chỉnh các giao dịch phái sinh trên thị trường chưa được hoàn thiện. Các giao dịch phái sinh mà các Ngân hàng Thương Mại kinh doanh trên thị trường ngoại hối được điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý của Ngân hàng Nhà Nước còn lại trên các thị trường khác vẫn chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt động của các giao dịch này. Công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại. Kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một trình độ hiểu hiết và phát triển nhất định của bất kỳ nền kinh tế nào. Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu. Từ những nguyên nhân trên một yêu cầu cấp thiết đặt ra là chúng ta cần có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật này trên thị trường tài chính. HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ( FUTURES CONTRACT) Quá trình hình thành và phát triển của hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai hay hợp đồng giao sau đều xuất phát từ thuật ngữ Commodities Futures Contract. Người ta gọi tên thị trường này là Commodities Futures Market hoặc Futures Market. Nguồn gốc của hợp đồng tương lai ngay tại thời Trung Cổ tại Châu Âu, đó là mối quan hệ được hình thành giữa thương nhân và nông dân. Vào những năm mất mùa, người nông dân trữ hàng làm giá cả tăng cao, điều này gây khó khăn cho giới thương nhân, ngược lại khi bội thu, giới thương nhân lại dìm giá xuống, gây khó khăn cho người nông dân. Để tránh tình trạng đó, thương nhân và nông dân gặp nhau trước mỗi mùa vụ để thỏa thuận giá cả trước. Như vậy, rủi ro về giá của cả hai bên đã được giải quyết. Thị trường tương lai đầu tiên trên thế giới ra đời tại thành phố Chicago (Mỹ). Vào thập niên 40 của thế kỷ XIX Chicago đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của Mỹ. Năm 1848, một trung tâm giao dịch The Chicago Board Of Trade (CBOT) đã được thành lập. Ở đó, người nông dân và thương nhân có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mì theo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng do CBOT quy định. Nhưng giao dịch ở CBOT bấy giờ chỉ dừng lại ở hình thức của một chợ nông sản vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng – trao tiền đủ, sau đó thì quan hệ các bên chấm dứt. Trong vòng vài năm, một kiểu hợp đồng mới xuất hiện dưới hình thức là các bên cùng thỏa thuận mua bán với nhau một số lượng lúa mì đã được tiêu chuẩn hóa vào một thời điểm trong tương lai. Nhờ đó, người nông dân đã biết mình nhận được bao nhiêu cho vụ mùa của mình, còn thương nhân thì biết được khoản lợi nhuận dự kiến. Hai bên ký kết với nhau một hợp đồng và khoản tiền gọi là “ tiền bảo đảm”. Quan hệ mua bán này là hình thức của hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract). Nhưng không dừng ở đó, quan hệ mua bán ngày càng phát triển và trở nên phổ biến đến nỗi Ngân hàng cho phép sử dụng loại hợp đồng này làm vật cầm cố trong các khoản vay. Và rồi người ta bắt đầu mua đi bán lại chính loại hợp đồng này trước ngày nó được thanh lý. Nếu thương nhân không muốn mua lúa mì thì họ có thể bán lại cho người khác cần nó hoặc nông dân không muốn giao hàng thì họ có thể chuyển nghĩa vụ của mình cho người nông dân khác. Giá cả hợp đồng lên xuống dựa vào diễn biến của thị trường lúa mì. Nếu thời tiết xấu xảy đến thì người bán lại hợp đồng đó sẽ thu được nhiều lãi và nguồn hàng đang thấp đi nên giá hợp đồng tăng; nếu vụ mùa thu được nhiều hơn sự mong đợi thì bán hợp đồng sẽ mất giá vì người ta có thể trực tiếp mua lúa mì từ thị trường tự do. Cứ như thế quy định cho loại hợp đồng này ngày càng chặt chẽ và người ta quên dần mua bán hợp đồng kỳ hạn mà chuyển sang lập các hợp đồng giao sau lúa mì vì chi phí cho loại giao dịch này thấp hơn rất nhiều và người ta có thể dùng nó để bảo hộ giá cả cho chính hàng hóa của mình. Từ đó trở đi, những người nông dân có thể bán lúa mì bằng ba cách: trên thị trường giao ngay, trên thị trường kỳ hạn (Forwards) hoặc thị trường giao sau (Futures). Ngày nay, thị trường giao sau đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để bảo vệ hàng hóa truyền thống và cũng là một trong các công cụ đầu tư hữu hiệu nhất trong ngành tài chính. Sự thay đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới. Khái niệm, đặc điểm, mục đích sử dụng hợp đồng tương lai: (Futures Contract) 2.1 Khái niệm: Hợp đồng tương lai là một hợp đồng được tiêu chuẩn hoá, được giao dịch trên thị trường giao dịch hợp đồng tương lai để mua hay bán một số loại hàng hoá nhất định, ở một mức giá nhất định, vào một ngày xác định trong tương lai. Ngày trong tương lai đó gọi là ngày giao hàng, hay ngày thanh toán cuối cùng. Giá được xác định ngay tại thời điểm kí hợp đồng được gọi là giá tương lai (Futures Price), còn giá của hàng hoá đó vào ngày giao hàng là giá quyết toán. Dù cho thời điểm giao hàng, giá hàng hóa trên thị trường có biến động theo chiều hướng nào chăng nữa thì giá bán theo hợp đồng tương lai vẫn không thay đổi. Do vậy, hợp đồng tương lai được coi là công cụ phòng ngừa rủi ro không chỉ cho các nhà xuất khẩu, cho người sản xuất mà cho cả các nhà nhập khẩu. (Nguồn: 2.2 Đặc điểm: Hợp đồng tương lai (HĐTL) có nhiều đặc điểm riêng biệt, không có ở các hợp đồng khác. Dựa vào định nghĩa và thực tiễn, HĐTL có thể được chia thành các đặc điểm chính sau: Các điều khoản trong HĐTL được tiêu chuẩn hóa. Là hợp đồng song vụ, cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Được lập tại Sở Giao Dịch (SGD) qua các cơ quan trung gian. Phải có tiền bảo chứng và đa số các HĐTL đều được thanh lý trước thời hạn. Các điều khoản trong HĐTL được tiêu chuẩn hóa. Trong Thị trường tương lai (TTTL), các hoạt động mua bán được thực hiện liên tục với trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bảo đảm an toàn cao. Do đó, các điều khoản trong hợp đồng được tiêu chuẩn hóa một cách tối đa giúp cho việc ký kết hợp đồng nhanh chóng, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được tiêu chuẩn hóa trong Thị trường tương lai là: tên hàng, chất lượng, độ lớn hợp đồng, thời gian giao hàng, địa điểm giao hàng. Tên hàng phải là chính hàng hóa được phép giao dịch trên SGD đó. Hàng hóa đó có thể là một loại hàng hóa thông thường hoặc cũng có thể là các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, chỉ số… Mỗi SGD chỉ giao dịch một số loại hàng hóa nhất định. Do đó, người tham gia thị trường chỉ được phép giao dịch các hàng hóa cho phép trong SGD đó. Trong trường hợp người nông dân muốn bảo vệ cho hàng hóa của mình nhưng hàng hóa đó không được mua bán trên SGD thì họ có thể bán bằng một HĐTL của loại hàng hóa tương tự. Ví dụ như người nông dân thu hoạch Bắp hạt vàng loại 4, trong khi đó, SGD chỉ cho phép giao dịch loại 1 và loại 2, thì người nông dân có thể thực hiện các HĐTL thanh toán bù trừ đối với Bắp loại 2 để bảo hộ cho giá Bắp loại 4 của mình. Chất lượng hàng hóa cũng được tiêu chuẩn hóa. Hàng hóa được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì SGD chỉ cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định. Độ lớn là độ lớn giá trị tài sản được giao dịch trong một hợp đồng. Độ lớn mỗi HĐTL về mỗi loại hàng hóa đều được thống nhất và hầu như được thống nhất trên toàn thế giới giúp cho việc mua bán giữa các TTTL trên thế giới dễ dàng hơn. Chẳng hạn như một hợp đồng vàng có khối lượng là 100 ounces, hợp đồng dầu thô là 1000 barrels, hợp đồng Yen Nhật là 12.500.000 ¥, hợp đồng cà phê Arabica là 37.500 pounds (tại NYMEX), hợp đồng cà phê Robusta là 1 lot = 10 tấn (tại LIFFE),… việc qui định độ lớn mỗi hợp đồng sao cho không quá lớn để những nhà bảo hộ nhỏ cũng có khả năng tham gia, không quá nhỏ vì khoản được bảo hộ hoặc đầu cơ sẽ không bù đắp được chi phí huê hồng hay các chi phí khác. Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là tháng giao hàng trong năm. Trong tháng giao hàng đó, ngày giao hàng được quy định cụ thể tuỳ vào loại hàng hóa và thị trường. Ví dụ như hợp đồng Bạc được đáo hạn vào tháng 3, 5, 7, 9, 12; hợp đồng tiền tệ qui định tháng đáo hạn là 3, 6, 9, 12;… Thời điểm giao hàng là điều kiện xác định để nhằm phân biệt đối tượng được giao dịch trong HĐTL, ví dụ như: HĐTL cà phê tháng 3 năm 2005 khác với HĐTL cà phê tháng 5 năm 2005… Địa điểm giao hàng trong HĐTL do SGD quy định. Việc giao hàng này xảy ra khi các bên mong muốn thi hành hợp đồng. Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong HĐTL là một trong những đặc điểm để phân biệt HĐTL với các loại hợp đồng khác. HĐTL là một hợp đồng song vụ, cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Khi lập một HĐTL thì các bên bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ vào trong mối liên hệ đó. Trong đó bên bán phải có nghĩa vụ giao một khối lượng hàng xác định cho bên mua và có quyền nhận tiền vào một thời điểm trong tương lai ở một giá thoả thuận trước. Còn bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán tiền theo như thoả thuận trong hợp đồng và có quyền nhận hàng cũng vào một thời điểm trong tương lai. Đặc điểm trên cũng là một dấu hiệu giúp phân biệt HĐTL với một loại hợp đồng phái sinh khác là hợp đồng quyền chọn (Options). Trong hợp đồng quyền chọn thì chỉ bên mua quyền được mua (Buy Call) hoặc mua quyền được bán (Buy Put) mới có quyền, bên còn lại (Sell Call – Sell Put) không có quyền mà phải thực hiện nghĩa vụ mà mình cam kết với bên kia. Như vậy, cả hai bên trong quan hệ HĐTL đều bị ràng buộc bởi những quyền và nghĩa vụ nhất định. Và để đảm bảo cho các HĐTL được thi hành nên SGD đã qui định các biện pháp bảo đảm đối với cả bên mua lẫn bên bán bằng việc ký quỹ hoặc các giấy tờ chứng minh khác. HĐTL được lập tại SGD qua các cơ quan trung gian (CQTG) . Ở trong Thị trường chứng khoán, các loại chứng khoán có thể được mua bán trên SGD hoặc ở thị trường tự do nhưng trong TTTL thì các HĐTL chỉ được lập trên SGD. Việc mua bán qua SGD trong TTTL làm cho các nhà đầu tư không cần quan tâm đến đối tác của mình. Chỉ cần các bên tuân thủ quy định pháp luật khi ký kết thì quyền và nghĩa vụ các bên sẽ được bảo đảm. Bởi vì, việc giám sát đảm bảo thực hiện hợp đồng của tất cả các thành viên tham gia trong TTTL đã có CQTG đảm nhiệm. Trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện giao dịch thanh toán bù trừ thì CQTG sẽ cân đối, bù trừ vào tài khoản của các nhà đầu tư; còn trong trường hợp các bên muốn được thi hành hợp đồng thì CQTG sẽ là cầu nối, yêu cầu bên bán và bên mua giao nhận hàng tại kho hoặc nơi do CQTG chỉ định. Ngoài CQTG ra thì còn có nhiều bên khác làm trung gian giúp cho việc giao kết HĐTL. Đó là các công ty thanh lý thành viên, các Công ty giao sau, các quỹ đầu tư,… làm trung gian giữa nhà đầu tư với CQTG. Các bên này có nhiệm vụ giúp CQTG xác định tư cách tham gia TTTL của các nhà đầu tư, giúp họ giao dịch bằng cách nhận lệnh của họ và đem đấu giá trên sàn. HĐTL phải có tiền bảo chứng và đa số các HĐTL đều được thanh lý trước thời hạn. Tiền bảo chứng là biện pháp bảo đảm thi hành hợp đồng, bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đặt cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hóa (thế chấp) để bảo đảm cho việc mua bán thì SGD chỉ quy định một mức bảo chứng rất thấp, tùy vào loại hàng hóa. Tiền bảo chứng thấp trong HĐTL cũng như trong hợp đồng quyền chọn là một trong những nguyên nhân làm cho chúng trở thành những công cụ đòn bẩy tài chính mạnh nhất ngày nay. Chính vì tiền bảo chứng thấp nên ai cũng có thể tham gia thị trường với tư cách là nhà đầu cơ. Những nhà đầu cơ luôn kỳ vọng vào việc kiếm lời đã trở thành nhân vật chủ yếu trong TTTL, TTTL hoạt động sôi nổi và trôi chảy là nhờ họ. Và vì thế, những người có hàng hóa cần được bảo hộ lại được lợi, họ có thể dễ dàng lập một HĐTL bất cứ lúc nào vì lúc nào cũng có người mua bán. Nhờ vậy mà TTTL có tính thanh khoản cao. Cuối cùng là một đặc điểm hết sức độc đáo của HĐTL mà các dạng hợp đồng khác không có được, đó là thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn. Trong các hợp đồng thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả thuận chuyển nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng buộc về nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong HĐTL thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cách dễ dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào bằng cách thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ là lập một hợp đồng ngược lại vị thế mà mình đã có. Cứ như thế, các bên có thể mua đi bán lại nhiều lần một loại hàng hóa vào một tháng giao hàng nhất định trong tương lai. Đến ngày giao hàng, nếu các bên không muốn giao hàng thực sự thì CQTL sẽ thanh toán bù trừ các loại hợp đồng đó và nghĩa vụ giao hàng cũng như nhận hàng của họ được chuyển giao cho người khác. Ví dụ: Vào tháng 2 một người (A) đã bán một hợp đồng vàng tháng 5 với giá 387 USD/ounce nhưng đến tháng 4 thì hợp đồng vàng tháng 5 chỉ còn ở giá 380 USD/ounce thì người (A) đó có thể lập một hợp đồng ngược lại với vị thế mà mình đã có bằng cách mua lại hợp đồng vàng tháng 5 với giá 380 USD/ounce (vào thời điểm tháng 4 thì giá cả của hợp đồng cho tháng 5 hoàn toàn có thể không phải là 380 hoặc 387 USD/ounce). Khoảng chênh lệch giá giữa giá bán và giá mua 7 USD là khoản lời mà người (A) đó kiếm được từ việc thiết lập quan hệ hợp đồng này dù họ không cần có một sự trao đổi hàng hóa thực sự. Trong đó, hành vi bán một hợp đồng vàng tháng 5 sẽ làm phát sinh cho người đó nghĩa vụ giao hàng (vàng) vào tháng 5. Khi người đó thực hiện hành vi mua lại hợp đồng vàng tháng 5 có nghĩa là người (A) đó đã mua cùng một lượng hàng mà mình đã bán trước đây; phía đối tác bên kia (B) sẽ có nghĩa vụ giao hàng (vàng) cho người đó vào tháng 5. Như vậy, tới hạn giao hàng vào tháng 5, người (A) đó sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ giao hàng nữa. CQTL hiểu là người (A) đó sẽ dùng hàng (vàng) của phía đối tác bên kia (B) để thi hành nghĩa vụ của mình (A). Lúc này, nghĩa vụ của người (A) đó được xem như đã chuyển cho phía đối tác kia (B). Nói như thế, xem ra hợp đồng mua lại hợp đồng vàng tháng 5 là một hợp đồng chuyển nghĩa vụ cho một người thứ ba. Nhưng cũng có ý kiến ngược lại cho rằng ở đây không có một hợp đồng chuyển nghĩa vụ cụ thể nào giữa hai bên. Cụ thể là các bên khi lập HĐTL thì chỉ quan tâm đến việc đối tượng trong hợp đồng là (hàng hóa) vàng, không phải đối tượng là nghĩa vụ giao hàng. 2.3 Mục đích của việc sử dụng hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai có thể được sử dụng với mục đích phòng ngừa rủi ro (Hedging) hay đầu tư (Speculate). Những người giao dịch trực tiếp với hàng hóa, đặc biệt là nhà sản xuất nông sản, công ty khai thác mỏ, sẽ sử dụng hợp đồng tương lai để đảm bảo một mức giá xác định và bảo vệ họ trước những chuyển động thị trường trái chiều. Hợp đồng tương lai cũng được các nhà đầu tư (Speculators) sử dụng để tìm kiếm lợi nhuận từ xu hướng giá của hàng hóa – xu hướng lên hoặc xuống. Một trong những lợi thế chính của giao dịch hợp đồng tương lai là nó cho phép đạt được lợi nhuận tiềm năng cao trong một khoảng thời gian ngắn. Đó là nhờ vào tính chất đòn bẩy chứa đựng trong hợp đồng tương lai. Tuy nhiên, mặc dù tính chất đòn bẩy và giao dịch ký quỹ cho phép đạt lợi nhuận cao thì nó cũng tiềm tàng một khoản lỗ lớn tương đương. Chính vì vậy, bạn phải chắc chắn rằng cần phải có một chiến lược kinh doanh rõ ràng và phải tuân thủ theo chiến lược đó một cách chặt chẽ cũng như sử dụng lệnh dừng lỗ (Stop Loss) trong khi giao dịch. Phân biệt Hợp đồng tương lai (Futures Contract) & Hợp đồng kỳ hạn (Forwards Contract): Hợp đồng tương lai cũng như Hợp đồng kỳ hạn khác với Hợp đồng quyền chọn (có quyền không cần thực hiện hợp đồng) ở chỗ là có sự bắt buộc phải thực hiện hợp đồng vào ngày giao hàng đã thỏa thuận trước. Bên mua của hợp đồng được gọi là bên giữ thế trường vị (Long Position) của hợp đồng, bên bán của hợp đồng được gọi là bên giữ thế đoản vị (Short Position) của hợp đồng. Cả hai loại hợp đồng đều được ấn định rõ loại hàng hóa, số lượng, chất lượng, giá tương lai, ngày giao hàng và địa điểm giao hàng. Tuy vậy, giữa chúng có những điểm khác biệt: Hợp đồng tương lai Hợp đồng kỳ hạn Giao dịch tập trung tại các sàn giao dịch. Được giao dịch tại thị trường phi tập trung (OTC) hay chỉ đơn giản là một hợp đồng được ký kết giữa hai bên. Là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa, chỉ có giá là được thỏa thuận, mỗi hợp đồng đều được quy định một số lượng hàng hóa nhất định (gọi là Contract Size), ngày giao hàng và nơi giao hàng được ấn định cụ thể trên thị trường, không có sự đàm phán giữa hai bên tham gia vào hợp đồng. Hợp đồng có tính riêng biệt, mỗi hợp đồng mỗi khác. Mọi điều khoản đều được thỏa thuận, đàm phán giữa hai bên. Được tất toán hợp đồng trước hạn bằng việc mua/bán một hợp đồng tương lai ngược chiều với hợp đồng trước đó. Các bên có thể kết thúc hoặc chấm dứt vị thế của mình một cách dễ dàng . bên giữ thế trường vị (bên mua) có thể kết thúc vị thế của mình bằng cách bán hợp đồng tương lai với cùng loại hàng hóa và cùng ngày giao hàng. Ngược lại, bên giữ thế đoản vị (bên bán) cũng có thể kết thúc vị thế của mình bằng cách mua hợp đồng tương lai tương tự. Không thể tất toán hợp đồng trước hạn. Khả năng phá vỡ hợp đồng thấp, thậm chí bằng 0. Các trung tâm thanh toán bù trừ (Clearing House) sẽ đóng vai trò như là một bên trung gian cho cả người bán và người mua, luôn đảm bảo uy tín. Nghĩa là, nếu Bên A muốn mua một hợp đồng tương lai, anh ta có thể mua nó từ trung tâm thanh toán bù trừ; nếu bên B muốn bán một hợp đồng tương lai, anh ta có thể bán nó cho trung tâm thanh toán bù trừ. Trung tâm thanh toán bù trừ là một bên trong hợp đồng tương lai, nó luôn công bằng cho cả người bán và người mua theo những qui tắc đã được đặt ra. Khả năng phá vỡ hợp đồng cao, đối mặt với rủi ro khi phía đối tác khi không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Chỉ 1-5 % số hợp đồng tương lai trên thị trường thực sự được diễn ra còn hầu như chỉ diễn ra sự thanh toán lỗ lãi giữa các bên. Hầu hết mọi hợp đồng kỳ hạn đều diễn ra việc giao hàng thực sự giữa các bên. Được thanh toán hàng ngày và được ấn định, ghi nhận trên thị trường nên khoản lời lỗ được ghi nhận hàng ngày. Chỉ có thể nhận biết lời lỗ vào ngày giao hàng trong tương lai. Vì vậy xuất hiện một khoản lỗ vào ngày giao hàng là rất cao, nên khả năng người bị lỗ sẽ tìm cách phá vỡ hợp đồng cũng rất cao, điều này giải thích vì sao khả năng phá vỡ hợp đồng kỳ hạn cao hơn rất nhiều so với hợp đồng tương lai. Các đối tác được xác định một cách ngẫu nhiên. Các bên đều xác định rõ đối tác của mình là ai. Các chủ thể trên thị trường tương lai a. Những nhà đầu cơ (speculators): Là những người chấp nhận rủi ro cao để tìm kiếm lợi nhuận cao từ sự dao động giá bao gồm các nhà đầu cơ chuyên nghiệp chấp nhận rủi ro, kinh doanh trạng thái trong ngày hoặc dài ngày. Họ có thể giữ thế trường vị – bên mua (Long Position) hay đoản vị – bên bán (Short Position) hay cả hai vị thế cho cùng một hàng hóa (Spread Position). b. Những người phòng hộ (Hedgers): Là những người tham gia giao dịch tương lai để phòng ngừa các rủi ro do sự biến động giá bất lợi cho họ như nhà xuất nhập khẩu, nhà sản xuất, những người mong muốn chuyển đổi rủi ro giá. Ví dụ: Một công ty Việt Nam phải mua 100.000 thùng dầu với giá $60/thùng để bán qua Mỹ với giá kỳ vọng khoản $75/thùng, rủi ro hiển hiện ở đây là trong suốt khoảng thời gian vận chuyển dầu qua Mỹ, giá dầu ở Mỹ sẽ giảm xuống dưới $75/thùng sẽ làm giảm lợi nhuận, thậm chí là lỗ. Khi đó, để hạn chế tối đa rủi ro, công ty này có thể bán hợp đồng tương lai (vào thế đoản vị) dầu với cùng số lượng để phòng ngừa rủi ro. Nếu giá lúc giao hàng giảm, công ty sẽ bị giảm lợi nhuận hay lỗ, nhưng sẽ được bù đắp bằng lợi nhuận ở hợp đồng tương lai dầu. Đây là một ví dụ của phòng hộ đoản vị (Short Hedge). Một ví dụ khác, một công ty ký hợp đồng bán nữ trang cho một nhà bán lẻ vào tháng 1, giao hàng vào tháng 9. Nhưng vào thời điểm hiện tại, công ty không có vàng nguyên liệu trong kho và cũng không có đủ tiền mặt để mua vàng vào lúc này,công ty dự tính rằng vào tháng 5 mới có thể đáp ứng được nguồn vàng nguyên liệu để bắt đầu sản xuất nhưng lo ngại từ đây đến đó giá vàng sẽ tăng, làm đội giá sản phẩm đầu ra. Để phòng ngừa cho điều này, công ty có thể mua những hợp đồng tương lai vàng để tránh rủi ro tăng giá vàng nguyên liệu. Đây là một ví dụ của phòng hộ trường vị (Long Hedge). c. Những người đầu cơ hưởng chênh lệch (Arbitrageurs): Là những người tìm kiếm lợi nhuận bằng cách xem xét một loại hàng hóa nào đó cùng những hàng hóa tương đương để bán hai giá khác nhau ở hai thị tường khác nhau. Họ là những người dựa vào mối quan hệ giữa giá giao ngay và giá tương lai hay những biến động cung cầu nhất thời làm rối loạn giá để kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá giao ngay và giá tương lai. Cơ chế vận hành của giao dịch hợp đồng tương lai Để giao dịch futures, cần đặt một lệnh bán hoặc mua một hàng hoá nào đó vào một ngày cụ thể trong tương lai - ví dụ như lúa mỳ tháng 10, thịt lợn tháng 12, hay đồng Eurodollar tháng 6. Giá cả sẽ được quyết định khi giao dịch trên sở giao dịch nào cung cấp thị trường giao dịch futures cho hàng hoá đó. Ví dụ: cà phê Rosbuta giao dịch trên sàn Luân Đôn (LIFFE), cà phê Abarica trên sàn New York (NYBOTT). Chi phí của hợp đồng sẽ là giá trị của hàng hoá đó khi giao hàng. Nhưng giá mua hợp đồng thì chỉ bằng một tỷ lệ nào đó (2% đến 10%, tuỳ thuộc vào ai là khách hàng) của tổng giá trị hợp đồng. Giá này sẽ được thanh toán như một khoản cược đảm bảo, gọi là tiền cược tối thiểu (Initial Margin). Ví dụ: một hợp đồng cung cấp 5.000 giạ lúa mỳ có trị giá 17.500$ nếu giá lúa mỳ là 3,5$ một giạ thì khoản tiền cược đặt ra sẽ vào khoảng 1.750$. 4.1 Đánh giá trạng thái hàng ngày Khi một lệnh đã có người đáp ứng thường thì hợp đồng sẽ được đưa vào một quỹ vốn (pool) trong ngân hàng của sở giao dịch cùng với tất cả các lệnh đã khớp khác. Người mua và người bán sẽ được ghép cặp tương ứng với nhau một cách kín đáo. Do các hợp đồng thường được giao dịch liên tục, quá trình ghép cặp sẽ luôn luôn diễn ra. Mọi vị trí của người giao dịch tương lai đều được theo dõi và ghi nhận trên thị trường hằng ngày. Qui trình này đôi khi được gọi là tái thanh toán hằng ngày (Daily Resettlement). Nghĩa là, lãi hay lỗ sẽ được ghi nhận  hằng ngày. Việc nhận biết lãi và lỗ dựa vào giá thanh toán hằng ngày vào giá tại thời điểm đóng cửa của ngày giao dịch (giá tương lai lúc đóng cửa). Nếu tiền trong tài khoản dưới mức duy trì thì phải gửi tiền vào tài khoản để đưa về khoản ký quỹ ban đầu. 4.2 Ký quỹ Để tham gia giao dịch các hợp đồng tương lai, người giao dịch cần một khoản tiền ký gửi để đảm bảo các bên tuân theo những điều kiện của hợp đồng. Khoản tiền này được gọi là tiền ký quỹ. Mỗi sở giao dịch tương lai sẽ đưa ra những yêu cầu ký quỹ ban đầu (Initial Margin) tối thiểu để có thể giao dịch ở đó. Khoản ký quỹ ban đầu là khoản tiền phải gửi vào trong tài khoản giao dịch (hay còn gọi là tài khoản ký quỹ) khi muốn mua hay bán. Khoản ký quỹ ban đầu này phụ thuộc vào mỗi sở giao dịch, mỗi loại hàng hóa và giá tương lai của hàng hóa đó đang được giao dịch ở hiện tại và các dữ liệu trong quá khứ. Sau một thời gian giao dịch nếu tiền trong tài khoản giảm tới bằng hoặc dưới mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) theo qui định (mức này tùy thuộc vào qui định của các sở giao dịch và loại hàng hóa giao dịch) thì phải chuyển thêm tiền vào tài khoản để đưa tiền trong tài khoản về mức ký quỹ ban đầu. Ví dụ: Để giao dịch một hợp đồng tương lai dầu mỏ 100 thùng dầu bạn cần một số tiền ký quỹ ban đầu (Initial Margin) là $1000, mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là $750, giả sử bạn ở thế bên mua của hợp đồng, sau đó ngày mai giá dầu tương lai thay đổi bất lợi cho bạn, tức giảm $2,7/thùng, bạn lỗ $2,7*100 = $270. Lúc này tiền trong tài khoản của bạn còn $730, dưới mức $750, để được tiếp tục tham gia giao dịch, bạn cần phải gửi vào tài khoản ký quỹ $270 để trở về mức ký quỹ ban đầu là $1000. Khoản tiền $270 để đáp ứng giấy gọi ký quỹ (Margin Call) được gọi là khoản bù đắp ký quỹ (Variation Margin). Một người giao dịch mà không thực hiện nhanh theo giấy gọi theo một khoản thời gian qui định sẽ bị thanh lý hay chấm đứt vị trí bởi FCM (Futures commission merchant – các công ty môi giới) 4.3 Đóng trạng thái hợp đồng tương lai Có lẽ chưa đầy 2% các hợp đồng tương lai (futures) thực sự sinh ra quá trình trao đổi hàng hoá. Những hợp đồng còn lại thường được tiến hành theo phương pháp bù trừ, thông qua một hay nhiều các hợp đồng khác có tính chất ngược lại. Ví dụ: nếu mua một hợp đồng lúa mì tháng 9 với giá 3,5$ một giạ lúa và mức cược tối thiểu là 1.750$, dự tính là giá sẽ lên. Nếu giá của hợp đồng tăng lên, đạt tới mức 3,8$/giạ sau một tuần trong tháng 6 có bão tàn phá vụ lúa mì, tài khoản của bạn sẽ được tính cộng lên 1.500$ và bạn đang có lợi trong cuộc chơi. Sau đó, bạn bán hợp đồng đó, điều này có nghĩa là bạn không còn quyền mua lúa mì theo hợp đồng đó nữa và sử dụng tiền lãi thu được (trừ đi phí hoa hồng và các chi phí khác) để đầu tư vào một hợp đồng tương lai khác. Nhưng diễn biến này cũng có thể xảy ra theo chiều hướng khác. Nếu giá giảm và bạn bị mất tiền đầu tư, bạn có thể bán một hợp đồng bù trừ (Offset Contract) với giá cao nhất có thể có để huỷ quyền mua và rời khỏi thị trường trước khi bạn có thể bị thua lỗ nặng hơn. Các báo cáo thống kê đã chỉ ra rằng có khoảng từ 79 đến 90% tất cả những người giao dịch hợp đồng tương lai bị thua lỗ tiền trong năm thống kê đó. 4.4 Giảm các rủi ro giao dịch Một trong những kỹ thuật được những người giao dịch thường xuyên sử dụng nhằm giảm bớt rủi ro bị thua lỗ quá nhiều tiền mỗi khi thị trường có biến động nhẹ là chiến lược giao dịch dự phòng (Spread Trading), mặt khác, chiến lược này sẽ hạn chế bớt những lợi ích mà họ có thể thu được. Về cơ bản, chiến lược này có nghĩa là mua một hợp đồng cùng lúc với bán một hợp đồng khác cùng cung cấp một loại hàng hoá. Thường thì một hợp đồng sẽ có lãi còn hợp đồng kia thì thua lỗ. Điểm mấu chốt để cuối cùng có thể thu được lợi nhuận là có được một khoản dự phòng (Spread), hay nói cách khác là khoản chênh lệch giá giữa hai hợp đồng. Ví dụ, nếu bạn mất tiền trong một hợp đồng bán nhưng lại thu được tiền trong một hợp đồng mua, chênh lệch giữa hai giá này chính là khoản dự phòng. Nếu đó là 5 cent trong dự kiến của bạn, thì bạn đã thu được 250$ trên hợp đồng đó. Nếu 5 cent đó trái với dự kiến của bạn, 250$ chính là khoản bạn sẽ bị lỗ. Lợi ích của hợp đồng tương lai Công cụ phòng ngừa rủi ro giá cả. Phòng ngừa rủi ro chi phí đầu vào. Ổn định lợi nhuận và kế hoạch kinh doanh sản xuất. Gắn hoạt động kinh doanh sát hơn với thị trường quốc tế. Các rủi ro khi tham gia giao dịch hợp đồng tương lai Bên cạnh những lợi ích mà hợp đồng tương lai mang lại thì bên trong nó cũng tiềm ẩn mức độ rủi ro khá cao vì giao dịch hợp đồng tương lai không thích hợp với rất nhiều đối tượng cá nhân và thể nhân. Các doanh nghiệp cần phải cân nhắc và sự phù hợp của loại giao dịch này đối với tổ chức. Các rủi ro bao gồm: Tình trạng biến động giá cả hiện nay rất phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ký quỹ: doanh nghiệp có khả năng bị thua lỗ và mất toàn bộ số tiền ký quỹ ban đầu hoặc bất kỳ khoản quỹ nào khác đã hoặc có nghĩa vụ đặt cọc để duy trì trạng thái trên thị trường hàng hóa tương lai và hàng hóa giao ngay. Nếu thị trường biến động bất lợi cho trạng thái của công ty, công ty phải ký quỹ bổ sung để duy trì trạng thái. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng tương lai. Trì hoãn hoặc hạn chế quan hệ giao dịch và định giá: các điều kiện về thị trường (tính thanh khoản) và/hoặc việc vận hành các quy tắc của thị trường (một số thị trường có thể ngừng bất kỳ giao dịch nào hay tháng giao dịch nào vượt quá quy định về phạm vi biến động giá) có thể làm gia tăng khả năng thua lỗ do không thanh toán hoặc không thực hiện được giao dịch. Các lệnh giao dịch hạn chế: đặt lệnh hạn chế như lệnh “stop-loss” hay “stop limit” không đủ hạn chế thua lỗ bởi điều kiện của thị trường trong một số trường hợp không cho phép thực hiện lệnh này. Rủi ro tiền tệ: mức biến động tỷ giá trong những trường hợp phải chuyển đổi dòng tiền chỉ định trong hợp đồng sang một dòng tiền khác có thể ảnh hưởng đến mức lợi nhuận hoặc thua lỗ trong các giao dịch hợp đồng tương lai. Giao dịch điện tử: giao dịch trên một hệ thống điện tử thường có những đặc trưng khác với hệ thống giao dịch thông thường, doanh nghiệp khi giao dịch có thể gặp các rủi ro sau; trục trặc phần cứng, phần mềm, khi hệ thống bị trục trặc, lệnh giao dịch của doanh nghiệp có nguy cơ không thực hiện được hoặc bị vô hiệu hóa hoàn toàn. CHƯƠNG II – SỬ DỤNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ CÀ PHÊ TẠI CÔNG TY FONEXIM HCM. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY FONEXIM HCM Giới thiệu công ty: Tên doanh nghiệp : CHI NHÁNH CÔNG TY THỰC PHẨM MIỀN BẮC Tên doanh nghiệp quốc tế : The Northern Foodstuff Company – HCM Branch. Tên giao dịch : FONEXIM HCM Địa chỉ : 64 Bà Huyện Thanh Quan, phường 7, quận 3, TP.HCM Điện thoại : 083.9327588 – 083.9325450 Fax : 083.9322161 Giấy ĐKKD số : 4116000944 Hình thức sở hữu vốn : Doanh nghiệp Nhà Nước. Tiền thân của chi nhánh là Công ty Thực phẩm và Dịch vụ tổng hợp. Đây là đơn vị hoạch toán độc lập trực thuộc Bộ Thương Mại trước đây, hoạt động kinh doanh đa ngành nghề, được thành lập theo quyết định số 638/TM-TCCB ngày 13/08/1996 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại, trên cơ sở tổ chức lại văn phòng Tổng công ty Thực Phẩm, Công ty Thực Phẩm Nam Trung Bộ, Công ty Xuất Nhập Khẩu Thực phẩm và Dịch vụ tại TP. Hồ Chí Minh và các đơn vị trực thuộc Tổng công ty Thực Phẩm. Ngày 04/05/2005, Bộ Thương Mại cũ ra quyết định số 0753/QĐ/BTM về việc sáp nhập Công Ty Thực Phẩm và Dịch vụ Tổng Hợp vào Công ty Thực Phẩm Miền Bắc để tổ chức lại thành đơn vị thành viên trực thuộc Công Ty Thực Phẩm Miền Bắc. Căn cứ quyết định số 6251/TM-TCCB ngày 06/10/2005 của Bộ Thương Mại về phê duyệt phương án của Công ty Thực Phẩm Miền Bắc xin thành lập Chi nhánh Công ty Thực Phẩm Miền Bắc tại TP.Hồ Chí Minh. Và ngày 10/10/2005, Chi nhánh Công ty Thực Phẩm Miền Bắc được thành lập tại TP. Hồ Chí Minh thuộc Công ty Thực Phẩm Miền Bắc, bao gồm các đơn vị trực thuộc : + Kho Đầu Cầu Sài Gòn: trụ sở đóng tại số 01 đường Xa Lộ Hà Nội, phường Thảo Điền, Quận 2, TP.Hồ Chí Minh. + Kho Toàn Thắng: trụ sở đóng tại 508 Kinh Dương Vương, An Lạc, quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh. + Cửa hàng ăn uống: đặt tại 195 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Chi nhánh công ty Thực Phẩm Miền Bắc tại TP.Hồ Chí Minh là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Công ty Thực phẩm Miền Bắc, hoạt động sản xuất kinh doanh thực hiện theo giấy phép đăng ký kinh doanh được cấp cho chi nhánh và trong điều lệ tổ chức và hoạt động kinh doanh do Tổng Công ty qui định. Chi nhánh có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu riêng và được mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định hiện hành. Lĩnh vực kinh doanh Là một công ty nhà nước, tổ chức kinh doanh theo hệ thống hạch toán kinh tế độc lập, tham gia vào kinh tế thị trường tạo ra lợi nhuận, bảo toàn đựơc đồng vốn, góp phần ổn định tình hình lưu thông hàng hóa trên thị trường cả trong và ngoài nước, đảm bảo việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Thông qua xuất nhập khẩu, chi nhánh đã phần nào đóng góp cho việc thúc đẩy nền kinh tế của thành phố, thu về ngoại tệ đóng góp cho ngân sách nhà nước. Các hoạt động kinh doanh chính của chi nhánh là: Hoạt động sản xuất kinh doanh: chuyên sản xuất kinh doanh gạo, cà phê, nông sản, kinh doanh các mặt hàng bách hóa tổng hợp, dịch vụ nhà hàng, khách sạn, phân bón, vật tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cho thuê kho bãi, dịch vụ khai báo hải quan và giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu… Hoạt động xuất nhập khẩu: Xuất khẩu: cà phê Robusta, gạo, nông sản.. Nhập khẩu: phân bón, thuốc thú y, nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, hóa chất và các mặt hàng khác… Xuất khẩu ủy thác: cà phê, gạo. Hoạt động liên doanh: Liên doanh với Vinasun QUY TRÌNH GIAO DỊCH HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI CỦA CÔNG TY Sản phẩm tham gia giao dịch là cà phê Robusta. Từ năm 2008, công ty bắt đầu tham gia giao dịch hợp đồng tương lai mua bán cà phê trên thị trường LIFFE thông qua ngân hàng môi giới Techcombank, trước kia sàn LIFFE quy định 1 lot cà phê = 5 tấn, từ tháng 3/2009 trở đi đã quy định 1 lot cà phê = 10 tấn. Đây là quy trình thực hiện giao dịch hợp đồng tương lai của công ty FONEXIM HCM tại Ngân Hàng Kỹ Thương Techcombank: Hàng ngày đại diện công ty sẽ lên mạng giao dịch từ lúc 16h30 đến 24h. Căn cứ bảng giá nhấp nháy và những thông tin đọc được trên màn hình nối mạng trực tuyến, dự đoán hàng hóa mình đang buôn bán sắp tới giá sẽ lên hay xuống để đặt lệnh mua, bán về số lượng và giá cả cho hợp đồng tương lai. Lệnh này sẽ được chuyển về trung tâm của Techcombank. Sau khi kiểm tra cứ liệu chắc chắn, chuyên viên giao dịch sẽ cho khớp lệnh với sàn giao dịch. Nếu lệnh được khớp thì nó sẽ được nhập trực tiếp đến sàn giao dịch ở nước ngoài và tại trung tâm của Techcombank. Như vậy, giao dịch coi như đã thực hiện xong. Mỗi đơn vị hợp đồng (lot) đối với cà phê là 10 tấn. Hình 2.1 Quy trình giao dịch Bước 1: Chuẩn bị giao dịch: Công ty đã đáp ứng đủ các thủ tục để được cung cấp tài khoản giao dịch như công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu, mở tài khoản tại Techcombank, có sự hiểu biết về nghiệp vụ giao dịch và có năng lực tài chính để đáp ứng nhu cầu giao dịch. Công ty nộp tiền vào tài khoản để chuẩn bị giao dịch Công ty đã hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ tài chính (Initial Margin, Commission…) trước khi giao dịch. Bước 2: Đặt lệnh giao dịch: Lệnh có thể đặt trước hoặc trong phiên giao dịch Khách hàng chỉ được giao dịch trong phạm vi số tiền ký quỹ Khách hàng phải hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ tài chính (Initial Margin, Commission…) trước khi giao dịch Hình 2.2: Cơ chế giao dịch: Lệnh giao dịch Người Mua Người bán Sàn giao dịch hoạt động theo nguyên tắc khớp lệnh tập trung Có 2 hình thức khớp lệnh là Khớp lệnh điện tử và Đấu thầu trực tuyến Lệnh và đặt lệnh: Lệnh là một yêu cầu hay một chỉ dẫn thực hiện một giao dịch. Nó lập nên một giao dịch giữa hai bên đối tác chủ yếu trên cơ sở văn nói Lệnh được nêu một cách rõ ràng, ngắn gọn, do yêu cầu thời gian thực hiện thường rất gấp. Các yếu tố của câu lệnh: Mã giao dịch Mua/Bán Mặt hàng Số lượng Tháng HĐ Giá Ví dụ: Công ty A Mua 10lot Liffe tháng 3 giá 1,738USD/tấn Công ty B Bán 20lot Nybot tháng 12 giá 111.75 cents/pound Hình 2.3: Quy trình nhận và đặt lệnh của Techcombank Yêu cầu lệnh Xác nhận lệnh Bước 3: Đánh giá giao dịch: Cuối ngày, sàn giao dịch sẽ đưa ra mức giá đánh giá – Settlment Price - để đánh giá tất cả các trạng thái mở của khách hàng tham gia – Mark to market Các báo cáo đánh giá sẽ được gửi đến khách hàng vào cuối ngày hoặc đầu phiên giao dịch hôm sau Hàng ngày, sàn giao dịch sẽ thực hiện việc đánh giá trạng thái mở của tất cả các đối tượng tham gia. Các khoản Lãi/Lỗ tạm tính sẽ được hạch toán trực tiếp vào tài khoản ký quỹ của từng khách hàng Bước 4: Tài khoản ký quỹ: Techcombank thực hiện việc quản lý nghĩa vụ và quyền lợi của khách hàng thông qua tài khoản ký quỹ Khách hàng phải đóng ký quỹ bổ sung trong trường hợp Margin Call Báo cáo giao dịch Hàng ngày, Techcombank gửi 03 bản báo cáo đến cho Khách hàng: Xác nhận giao dịch: thể hiện các lệnh khách hàng đã thực hiện được trong phiên giao dịch Đánh giá giao dịch: đánh giá các khoản lãi lỗ thực và lãi lỗ tạm tính của khách hàng Tài khoản ký quỹ: báo cáo tình trạng tài khoản ký quỹ GIAO DỊCH BUÔN BÁN CÀ PHÊ BẰNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI: Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta từ trước tới nay. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 2 tỷ USD. Tuy nhiên, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tình hình xuất khẩu của mặt hàng này. Bởi cà phê được đánh giá là mặt hàng có giá biến động nhanh và mạnh nhất trong 1 thập kỷ trở lại đây. Chưa kể ở nước ta, sản lượng cà phê các năm cũng rất không ổn định. Người trồng cà phê luôn sống trong tâm trạng nơm nớp về nỗi lo được mùa, mất mùa. Tuy hạn hán dẫn đến sản lượng thấp nhưng chưa chắc nông dân đã thua thiệt bởi giá tự khắc sẽ được nâng lên. Ngược lại, được mùa, sản lượng tăng, nhưng nông dân chưa chắc đã thắng bởi giá thị trường có thể sẽ bị giảm xuống. Đó chính là sự nhạy cảm và khó đoán biết của thị trường cà phê. Không chỉ với người nông dân mà ngay với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của nước ta sụt giá bất ngờ vẫn là nỗi khiếp đảm luôn tồn tại. Điều đặc biệt là giá cả cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới lại phụ thuộc phần lớn vào sản lượng cà phê Braxin. Như đã nói trên giá cả cà phê là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động của giá bao gồm: điều kiện khí hậu; sản lượng các nước xuất khẩu lớn như: Braxin, Việt Nam, Indonexia, Colombia; mức tiêu thụ ở một số thị trường tiêu thụ lớn; biến động tỷ giá một số đồng tiền thanh toán sàn giao dịch; trạng thái đầu cơ, tài trợ, phi thương mại trên thị trường hàng hoá, chính trị. Tiềm năng sản xuất và tiêu thụ cà phê Thế giới: Trên thế giới hiện nay có gần 80 nước xuất khẩu cà phê, sản lượng cà phê sản xuất hàng năm dao động từ 5,5 - 6,5 triệu tấn, tập trung ở bốn khu vực chính: Nam Mỹ, Bắc và Trung Mỹ, châu Phi và Châu Á. Trong đó, Nam Mỹ chiếm 47%, Châu Phi 17%, Bắc và Trung Mỹ 16%, Châu Á 17% sản lượng cà phê của thế giới. Braxin là nước sản xuất cà phê lớn nhất trên thế giới với sản lượng trên 1,7 triệu tấn hàng năm, chiếm 25% thị trường quốc tế. Các nước xuất khẩu lớn khác là Việt Nam, Colombia, Indonesia, Côte d'Ivoire, Mexico, Ấn Độ, Guatemala, Ethiopia, Uganda, Costa Rica, Peru và El Salvador. Bảng 2.1 Các nước xuất khẩu cà phê chính của thế giới Sản lượng cà phê (nghìn bao) Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) Quốc gia Niên vụ 2002 2003 2004 2005 Brasil (R/A) T.4-T.3 48.480 28.820 39.272 32.944 Việt Nam (R/A) T.10-T.9 11.555 15.230 13.844 11.000 Colombia (A) T.10-T.9 11.889 11.197 11.405 11.550 Indonesia (R/A) T.4-T.3 6.785 6.571 7.386 6.750 Ấn Độ (A/R) T.10-T.9 4.683 4.495 3.844 4.630 Mexico (A) T.10-T.9 4.000 4.550 3.407 4.200 Ethiopia (A) T.10-T.9 3.693 3.874 5.000 4.500 Guatemala (A/R) T.10-T.9 4.070 3.610 3.678 3.675 Peru (A) T.4-T.3 2.900 2.616 3.355 2.750 Uganda (R/A) T.10-T.9 2.900 2.510 2.750 2.750 Honduras (A) T.10-T.9 2.497 2.968 2.575 2.990 Côte d'Ivoire (R) T.10-T.9 3.145 2.689 1.750 2.500 Costa Rica (A) T.10-T.9 1.938 1.802 1.775 2.157 El Salvador (A) T.10-T.9 1.438 1.457 1.447 1.372 Ecuador (A/R) T.4-T.3 732 767 938 720 Venezuela (A) T.10-T.9 869 786 701 820 Philippines (R/A) T.7-T.6 721 433 373 500 Tổng sản lượng 121.808 103.801 112.552 106.851 Nguồn: www.ico.org A (Arabica): Cà phê chè R (Robusta): Cà phê vối T.  : Tháng A/R: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Arabica là chủ yếu R/A: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Robusta là chủ yếu 1 bao = 60 kg Thị trường xuất nhập khẩu cà phê thế giới năm 2008: Năm 2008, tổng sản lượng cung cấp cho hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của thế giới khoảng 8 triệu tấn, trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ là chủ yếu. Hoa Kỳ nhập khẩu 1,35 triệu tấn cà phê các loại với kim ngạch đạt 4,12 tỉ USD tăng 17,3% so với năm 2007. Ngoài ra, Nhật Bản, Italia, Pháp và Đức cũng là các quốc gia có nhu cầu nhập khẩu cà phê rất lớn với giá trị nhập khẩu cà phê trên 1 tỉ USD. Tính tới hết tháng 11 năm 2008, 10 thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới đã nhập tổng kim ngạch 14,01 tỉ USD, chiếm 75,53% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới. So với cùng kỳ năm 2007, kim ngạch nhập khẩu cà phê các thị trường này tăng 14,19% (tương đương 1,75 tỉ USD). Hình 2.4 Top 10 nước có kim ngạch nhập khẩu cà phê lớn nhất 11 tháng năm 2008 (triệu USD) Nguồn: AGROINFO tổng hợp Trong nước: Từ những năm 1990, 1991 sau sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu việc bán cà phê theo Nghị Định Thư của Nhà Nước không còn nữa, cà phê Việt Nam bắt đầu được tiếp xúc rộng rãi với thị trường thế giới và đầu năm 1991 Việt Nam bắt đầu gia nhập, là thành viên chính thức của Tổ chức quốc tế về cà phê (ICO). Cho đến nay, cà phê Việt Nam đã được tiêu dùng ở 74 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục. Và chỉ sau 25 năm phát triển sang đầu thế kỷ 21 Việt Nam đã chiếm vị trí thứ 2 trên thế giới về lượng cà phê xuất khẩu chỉ sau Braxin, thứ nhất về sản lượng Robusta. - 2007: Diện tích 506.000 ha (gần 1 triệu tấn), 1,85 tỷ đôla (1 trong 5 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD) - Tỷ trọng diện tích 6 vùng trồng cà phê: Đông Bắc và duyên hải Nam Trung Bộ 0%, Tây Bắc 1%, Bắc Trung Bộ  2%, Đông Nam Bộ 8%, Tây Nguyên 89%. - Tỷ lệ diện tích theo tuổi cây: trên 25 năm 5%, 20 – 25 năm 17%, 12 – 20 năm 28% và nhỏ hơn 12 năm 50%. Tốc độ tăng diện tích và tốc độ tăng giá. + 1995 – 2000 : giá bình quân 1561 USD/tấn, diện tích tăng 29,7% /năm + 2001 – 2005: giá bình quân 541 USD/tấn, diện tích giảm 1,7%/năm + 2006 – 2007: giá bình quân 1389,5 USD/tấn, diện tích tăng 3,6%/năm Năng suất sản lượng: + Năng suất: 18,9 tạ/ha, gấp 2 lần năng suất cà phê thế giới, với sản lượng 960 ngàn tấn (2007) + Giai đoạn 1997 – 2007 mức tăng sản lượng bình quân 12,8%/năm Hiện trạng giống: + Cơ cấu: Robusta chiếm 93%; Arabica 0,9% diện tích cả nước. Năm 2008, cà phê vẫn là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN Việt Nam đã xuất 1,2 triệu tấn với kim ngạch khoảng 1,643 tỷ USD, tăng 22,3% về số lượng và 49,9% về giá trị Kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do giá thế giới tăng mạnh. Riêng 6 tháng 2008, giá trị cà phê xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu hàng đầu là Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia. Nguồn: Triển vọng thị trường cà phê thế giới năm 2009 Triển vọng sản xuất Theo dự báo của Hiệp Hội Cà Phê Thế Giới - ICO, tổng sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2009 sẽ đạt khoảng 122-125 triệu bao (loại 60kg), giảm 6,83% so với năm 2008 (tương ứng với 9,16 triệu bao). Ở một số nước sản xuất cà phê chính như Braxin, Ấn Độ, Colombia.., sản lượng cà phê sẽ giảm. Braxin: Theo thông tin của hiệp hội cà phê thế giới, sản lượng cà phê của Braxin vụ 2009 sẽ đạt khoảng 40 triệu bao cà phê so với 45,9 triệu bao của niên vụ 2008. Hiệp hội cà phê Braxin dự báo, sản lượng cà phê của Braxin có thể sẽ giảm từ 16%- 20%. Tổng sản lượng thu hoạch đạt từ 36,9 – 38,8 triệu bao, thấp hơn nhiều so với sản lượng 45.99 triệu bao của năm 2008. Các nước sản xuất khác: Theo Hiệp Hội Cà Phê Thế Giới, sản lượng của hầu hết các nước sản xuất cà phê khác (Ngoài Braxin) sẽ thay đổi không nhiều so với niên vụ 2008. Sản lượng cà phê của Colombia vụ 2009 sẽ khoảng 12,5 triệu bao (tăng khoảng 200.000 bao so với năm 2008, nhưng nếu mưa nhiều thì sản lượng sẽ giảm khoảng 200.000-500.000 bao. Hội đồng cà phê Ấn Độ dự kiến, sản lượng cà phê Arabica của Ấn Độ năm 2009 sẽ đạt khoảng 80.000 tấn, sản lượng cà phê Robusta sẽ đạt khoảng 186.500 tấn. Các nước trồng cà phê khác như Indonesia, Ethiopia, Guatemala, Peru... sẽ giảm sản lượng cà phê năm 2009 do ảnh hưởng của thời tiết những tháng cuối năm 2008. Như vậy, với lượng tồn kho cuối năm 2008 khoảng 4,5 triệu bao và sản lượng mới sản xuất, tổng cung cà phê cho thế giới năm 2009 sẽ đạt khoảng 126,5-129,5 triệu bao (tương đương 7,6 – 7,8 triệu tấn). Nguồn: AGROINFO tổng hợp 2. Biến động giá cà phê trong giai đoạn hiện nay Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định nhất là về giá cả. Tổ Chức Cà Phê Thế Giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Từ năm 1999 bắt đầu cùng với cộng đồng cà phê thế giới, ngành cà phê nước ta trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Giá cà phê liên tục xuống thấp đến mức kỷ lục trong vòng mấy chục năm lại đây. Khủng hoảng đã kéo theo những hậu quả xấu cho sản xuất và đời sống. Nông dân thu nhập thấp không đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày và đầu tư cho tái sản xuất. Đã có những vườn cà phê bị bỏ không chăm sóc và cũng có tình hình chặt phá vườn cà phê để trồng cây khác, kể cả cây lương thực. Từ năm 2004, giá cà phê bắt đầu được cải thiện và giá lên cao vào các năm 2006, 2007 tuy còn thấp nhiều so với giá cà phê các năm 1995- 1998 nhưng với người trồng cà phê thì mức giá hiện nay đã có sức hấp dẫn đáng kể. Cà phê được bán với giá từ 25- 30 triệu đồng Việt Nam 1 tấn. Và có lúc lên trên 30 triệu đồng 1 tấn. Lúc này lại có hiện tượng ngược lại trước đây là người ta lại trồng mới, mở mang diện tích cà phê. Đồ thị 2.1 .Diễn biến bình quân của đơn giá xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu trong 17 năm từ 1991- 2007 Năm 2008: Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính, thị trường nông sản thế giới bước vào thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Tình hình này tác động đến nhiều mặt hàng nông sản trong nước, sau cao su đến cà phê... rớt giá thảm hại. Riêng đối với cà phê - một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, tháng 2/2008 giá xuất khẩu (FOB) tại Tp.HCM đã từng đạt 2.520 USD/tấn; tháng 9 giảm mạnh xuống ở mức 2.000 USD/tấn; giữa tháng 10 giá tiếp tục giảm, còn 1.700 USD/tấn; đến tháng 11 rơi xuống tồi tệ chỉ còn khoảng 1.480 USD/tấn. Ngoài nguyên nhân chính do tác động của khủng hoảng tài chính, giá cà phê xuất khẩu “trượt dốc không phanh” còn chịu sức ép phục hồi của đồng USD. Bên cạnh đó, nhiều quỹ đầu tư đồng loạt rút vốn ra khỏi hoạt động đầu tư nông sản, dẫn tới sự giảm cầu trên các thị trường kỳ hạn, làm giá nông sản giảm đột ngột. Nếu tính từ đầu năm 2008 đến nay, giá cà phê ở Tây Nguyên rơi theo nhịp “tụt - tụt dần”. Vào dịp tháng 2/2008, giá cà phê xô tại Đắc Lắc, Lâm Đồng là 40.000 - 42.000 đồng/kg, đến tháng 9 còn 34.000 - 35.000 đồng/kg; tháng 10 tụt xuống 26.000 - 27.000đồng/kg. Hiện tại chỉ còn 24.000 - 25.000 đồng/kg. Nếu so với giá đầu năm, 1 tấn cà phê nông dân mất 14 - 16 triệu đồng. Bước vào những ngày đầu tháng 9, giá cà phê trên thị trường thế giới có bước hồi phục trở lại so với cuối tháng 8 vừa qua. Giá cà phê giao dịch ngày 8/9 tại Luân Đôn đạt 1.494 USD/tấn, tăng 131 USD/tấn so với cuối tháng 8. Nhờ đó giá cà phê trong nước cũng đã quay trở lại mốc trên 25.000 đồng/kg. Giá cà phê tại Đăk Lăk ngày 8/9 được các đại lý mua vào ở mức 25.500 đồng/kg, tăng 2.700 đồng/kg so với cuối tháng 8. Triển vọng giá năm 2009 Tuy giá cà phê thế giới có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây (đặc biệt là 8 tháng đầu năm 2008), nhưng theo Ngân Hàng thế giới (WORLD BANK), dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá tất cả các loại hàng hóa nông sản nói chung trong đó có cà phê sẽ giảm. World Bank dự báo giá cà phê Arabica sẽ giảm 14,52% trong năm 2009, giá cà phê Robusta sẽ giảm 15,08% so với mức giá bình quân của năm 2008. Theo dự báo của AGROINFO, trong điều kiện mất mùa làm suy giảm sản lượng cà phê của Braxin và một số nước xuất khẩu chủ chốt (Việt Nam, Colombia, Ấn Độ...), cung cà phê sẽ giảm dẫn tới giá tăng cao nhưng không thể đạt tới mức đỉnh điểm của năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính. Giá cà phê thế giới nhiều khả năng sẽ giảm khoảng 12,57% so với mức giá trung bình của năm 2008. Mua bán cà phê Robusta bằng hợp đồng tương lai qua LIFFE 3.1 Thế nào là giao dịch cà phê trên thị trường tương lai? Từ năm 1997 đến nay, có 2 phương thức bán hàng ra nước ngoài đang được nhiều doanh nghiệp sử dụng đồng thời. Đó là bán theo phương thức Outright (giá cố định, thời gian giao hàng cố định) và bán theo phương thức Differentials hay Price To Be Fixed (bán trừ lùi, chốt giá sau). Bán hàng giao ngay (Outright) trong truyền thống giao thương cà phê thế giới có nghĩa người mua và người bán chốt giá ngay tại thời điểm ký hợp đồng mua bán mà không cần biết giá cà phê tại thời điểm giao hàng diễn biến ra sao. Phương thức này được các doanh nghiệp cà phê Việt Nam áp dụng phổ biến vào đầu những năm 1990, nhưng nếu cả hai bên thoả thuận giá ngay thì việc họ gặp rủi ro về giá là hoàn toàn có thể xảy ra nên sau này phương thức này được thay thế bằng phương pháp ký hợp đồng nhưng không chốt giá mà khi giao hàng mới chốt giá bán dựa vào giá cà phê giao dịch trên thị trường London (Anh) và trừ lùi một khoảng chênh lệch so với giá ở thị trường Luân Đôn vào thời điểm giao hàng, còn gọi là phương thức bán trừ lùi (Differentials). Phương thức bán trừ lùi phổ biến trong hơn chục năm qua thường áp dụng cho các hợp đồng giao xa mà nhà nhập khẩu thường ứng trước 70% số tiền của hợp đồng cho nhà xuất khẩu, phần còn lại được tính toán khi giao hàng và chốt giá dựa vào giá cà phê giao dịch trên thị trường kỳ hạn London. Các năm trước, đây là phương thức bán cà phê tiến bộ so với giao ngay bởi gắn giá cà phê Việt Nam với giá thế giới, hạn chế thiệt hại so với phương thức giao ngay nếu giá cà phê thế giới tăng. Với cách thức này doanh nghiệp có thể trúng lớn và cũng có thể lỗ nặng, tuỳ theo giá thị trường thế giới lên hay xuống ở thời điểm giao hàng. Để bảo đảm kinh doanh cà phê ở thị trường trong nước không bị lỗ trong tình hình giá lên xuống chập chờn, nhà buôn cà phê sẽ mua bán một lượng cà phê trên mạng, đặt lệnh bán ngay khi thấy giá có lời, đó là hình thức của giao dịch hợp đồng tương lai, trong đó giá cà phê được "chốt" ngay tại thời điểm đặt lệnh (là thời điểm mà giá cà phê trên thị trường quốc tế  được Doanh nghiệp "ưng ý" nhất), còn hàng thì giao sau với thời điểm do hai bên thỏa thuận. Điều quan trọng là, tại thời điểm giao cà phê, giá lên hay xuống thì vẫn giao theo giá đã được "chốt" lệnh từ trước. Giả sử mua cà phê vào giá 13.000đ/kg, khi xuất khẩu giá rớt còn 12.000đ/kg, bị lỗ 1.000 đồng. Thế nhưng cũng trong cùng thời điểm đó, công ty đã mua vào và bán ra trên thị trường kỳ hạn một lượng cà phê tương ứng với giá bán ra 15.000đ/kg, lời 2.000đ/kg. Nhờ cân đối được giữa mua bán trên thị trường trong nước và thị trường kỳ hạn, công ty vẫn bảo đảm có lãi và tính toán giá mua cà phê của người nông dân ở mức hợp lý. Và cũng nhờ vào khoản lãi trên thị trường kỳ hạn, nhà xuất khẩu cà phê sẵn sàng mua cà phê của nông dân với giá cao hơn giá thị trường. Thực tế, có thời điểm giá mua vào trên thị trường trong nước là 14.300đ/kg, Công ty Inexim Đắc Lắc đã mua cà phê của nông dân giá 15.000đ/kg khi tính toán bán ra thị trường kỳ hạn được giá trên 18.000đ/kg. Điểm đặc biệt ở phương thức giao dịch này là các hợp đồng được bên mua và bán ký trên mạng hoặc qua điện thoại trên cơ sở lòng tin. Thông tin về giá cà phê thế giới vừa được gửi về, các quyết định mua bán bắt đầu cũng được đưa ra. Hàng trăm, thậm chí hàng ngàn cú điện thoại được gọi tới các doanh nghiệp thông báo quyết định bán khi người ta thấy giá cả hợp lý. Một sàn giao dịch điện tử được thiết lập để người bán và người mua thỏa thuận giá cả và ký hợp đồng. Cà phê sẽ được chuyển giao ở một thời điểm nào đó mà hai bên thống nhất trong tương lai. Vào thời điểm đó, giá cà phê có cao hay thấp hơn giá đã thỏa thuận thì hợp đồng vẫn giữ nguyên giá trị. Cho nên, bên mua và bên bán có thể tính toán được lỗ lãi ngay khi vừa ra quyết định. Trong khi mua bán như vậy, cà phê là ảo nhưng lợi nhuận lại thực. Hình thức mua bán mới mẻ này thực chất là: ký hợp đồng trên mạng và bán cà phê qua điện thoại. Thông thường, phiên giao dịch sẽ được kết thúc vào nửa đêm. Sau mỗi ngày làm việc như vậy, các bảng, biểu đồ giá cà phê cũng được xây dựng để các nhà sản xuất cà phê có thể dự đoán giá trong tương lai. Ưu thế lớn nhất của giao dịch này là người ta có thể trong tương lai theo mức giá hiện tại – mức giá mà các doanh nghiệp biết chắc là hợp lý, nhờ thế hạn chế được những rủi ro, điều này không một phương thức kinh doanh truyền thống nào đạt được. Ngoài bảo hiểm rủi ro về giá, hình thức này còn được các công ty tham gia như một kênh đầu tư (mua bán các hợp đồng tương lai nhằm kiếm lợi từ chênh lệch giá) hoặc sử dụng hợp đồng tương lai như công cụ xác định giá của thị trường hàng thật. Từ giá bán cà phê futures trên sàn LIFFE có thể tính toán giá thu mua cà phê thị trường trên thị trường nội địa sao cho có lãi. Tuy nhiên, buôn bán trên thị trường kỳ hạn lãi cũng nhiều mà lỗ cũng dữ. Do vậy người kinh doanh phải có điểm dừng lỗ. Ngoài doanh nghiệp, nông dân cũng được lợi: Trước đây, nếu giá xuất khẩu lên cao thì doanh nghiệp mua cà phê của nông dân giá cao. Còn giá xuất khẩu rớt thấp thì ép giá người trồng cà phê. Với hợp đồng tương lai, doanh nghiệp sẵn sàng mua cà phê của nông dân với giá cao hơn giá thị trường trong nước khi tính toán bán ra thị trường kỳ hạn có lời. Ví dụ: Giá ký hợp đồng xuất khẩu cà phê giao ngay là 915 đô la Mỹ/tấn, tương đương mua vào của nông dân là 14.000 đồng/kg thì có lãi. Cùng thời điểm đó, giá London lên 1.095 đô la Mỹ /tấn, giá FOB sẽ là 1.005 đô la Mỹ/tấn (trừ lùi 90 đô la Mỹ/tấn so với giá London ) như vậy có thể đẩy giá mua cà phê của nông dân lên 15.400 đồng/kg. Rõ ràng, doanh nghiệp nếu đưa ra quyết định mua bán trên LIFFE được đúng thời điểm giá lên thì sẽ mua được giá cao cho nông dân. Mua bán cà phê trên thị trường tương lai thật sự là một phương thức hỗ trợ tích cực hoạt động xuất khẩu cà phê trên thị trường trong nước giúp nhà xuất khẩu cà phê hạn chế rủi ro do giá biến động, kiểm soát giá cả trong tương lai và còn có thể kiếm lời. Giao dịch cà phê Robusta trên thị trường LIFFE LIFFE là từ viết tắt của London International Financial Futures and Options Exchange - Thị trường hợp đồng tương lai và quyền chọn Quốc tế Luân Đôn. Thị trường Luân Đôn hiện là thị trường giao dịch lớn nhất thế giới dành cho cà phê Robusta, còn cà phê Arabica được mua bán chủ yếu qua thị trường New York. Trên thị trường Luân Đôn người mua với người bán không gặp gỡ trực tiếp với nhau mà giao dịch qua trung gian, môi giới là các công ty môi giới, các ngân hàng, định chế tài chính. Các hợp đồng tương lai mua bán cà phê trên thị trường Luân Đôn được mặc định với khối lượng 5 tấn/lô, hiện nay 10 tấn/lô, nguồn gốc xuất xứ của cà phê rất đa dạng nhưng tập trung chủ yếu ở một số nước Đông Nam Á, Nam Mỹ và Châu Phi, trong đó Việt Nam hiện đang là nước xuất khẩu cà phê vối - Robusta hàng đầu thế giới, vượt qua cả Brasil - nước hiện chiếm tới 30% thị phần cà phê thế giới. Để được phép giao dịch trên thị trường Luân Đôn, cà phê phải đạt những tiêu chuẩn chất lượng được qui định rõ trong một bản hướng dẫn trên website của sàn giao dịch này. Các tháng giao hàng có thể là tháng 1, 3, 5, 7, 9 và 11. Mức xê dịch giá tối thiểu là 1 USD/tấn ($5/lô). Ngày giao dịch cuối cùng là vào 12h30 ngày làm việc cuối cùng của tháng giao hàng. Giờ giao dịch từ 9h40 đến 16h55. Từ năm 2004, Chính phủ chỉ định Ngân Hàng Cổ Phần Kỹ Thương Techcombank hợp tác với chuyên gia Singapore và Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt Nam Vicofa, đã thực hiện chương trình sử dụng công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro. Các bên đã huấn luyện cho doanh nghiệp, và tổ chức thí điểm đưa cà phê VN tham gia sàn giao dịch hàng hoá Luân Đôn. Cuối năm 2004, INEXIM Đăk Lăk là doanh nghiệp đầu tiên tham gia thị trường hợp đồng tương lai thông qua ngân hàng Techcombank. Cho tới hết năm 2005, các doanh nghiệp Cà phê Việt Nam thực hiện mua bán trên thị trường hợp đồng tương lai Luân Đôn đều phải thông qua môi giới của Techcombank. Ngân hàng này giữ vai trò đại lý giao dịch làm cầu nối cho nhà xuất khẩu Việt Nam và doanh nhân cà phê quốc tế. Sở dĩ phải làm như vậy vì khung pháp lý của Việt Nam chưa đầy đủ đối với loại hình kinh doanh theo thông lệ quốc tế ỨNG DỤNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI TRONG GIAO DỊCH KINH DOANH CÀ PHÊ TẠI CÔNG TY Giao dịch hợp đồng tương lai trong giao dịch mua bán cà phê được công ty sử dụng như công cụ phòng ngừa rủi ro khi giá biến động, được thể hiện cụ thể qua các trường hợp sau: Trường hợp 1: Mua Futures Trường hợp này được công ty sử dụng khi đã có hợp đồng xuất bán hang nhưng vẫn chưa có hợp đồng thu mua hàng từ các nhà sản xuất trong nước. Khi giá biến động theo chiều hướng tăng gây bất lợi cho công ty, công ty sẽ quyết định mua lượng hàng hóa tương ứng trên thị trường tương lai mà công ty tính toán là sẽ hợp lý, cụ thể như sau: Tháng 5/2009, Công ty ký hợp đồng xuất khẩu 500 tấn cà phê với giá 850 USD/tấn giao hàng thực vào tháng 9/2009 nhưng do tiên liệu giá cà phê biến động theo chiều hướng tăng, gây bất lợi cho công ty nên đã quyết định mua 50 lots (1 lot = 10 tấn) trên thị trường tương lai với cùng mức giá trên. Vào thời điểm giao hàng, giá tăng 900 USD/tấn. Physical (hàng thực) Futures (tương lai) Bán Mua 5/2009 850 850 9/2009 900 900 Lãi/ Lỗ Lỗ 50 Lời 50 Rõ ràng, trên thị trường hàng thật công ty đã lỗ 50 USD nhưng trên thị trường tương lai, công ty đã lời 50 USD, khoản lời này đã bù đắp cho khoản lỗ trên. Trường hợp 2 : Bán Futures Trường hợp này được ứng dụng khi công ty đã thu mua được một lượng hàng từ trong nước nhưng vẫn chưa có hợp đồng xuất khẩu hàng, khi giá giảm gây bất lợi cho công ty thì công ty sẽ bán lượng hàng này trên thị trường tương lai để bẩ toàn lợi nhuận kinh doanh. Khi mua cà phê với giá 13.000đ/kg, khi xuất khẩu giá chỉ còn 12.000đ/kg, bị lỗ 1.000đ/kg Thế nhưng vào thời điểm này, công ty đã bán ra trên thị trường tương lai một lượng tương ứng với giá bán 15.000đ/kg, lời 2000đ/kg. Nhờ cân đối giữa mua bán trên thị trường trong nước và thị trường tương lai, công ty đã đảm bảo có lãi. Nhận định chung: Thông thường giá trên thị trường hàng thật và thị trường tương lai biến động cùng chiều và với độ chênh lệch ổn định. Khi tham gia vào hợp đồng tương lai, các nhà XNK được bù trừ lãi lỗ thông qua 2 thị trường, khi trên thị trường hàng thật có lãi sẽ bù đắp khoản lỗ trên thị trường tương lai và ngược lại, chính điều này làm lợi cho các nhà XNK trong việc cố định được giá với đối tác mà không sợ biến động trên thị trường. Future Physical Phân tích một hợp đồng cụ thể: Căn cứ Hợp đồng số SW/V/02.12.08/P/271 ngày 2/12/2008 ( phụ lục kèm theo) giữa công ty FONEXIM HCM với công ty SW COMMODITIES LTD. Công ty ký bán 8 lot » 76.8 tấn cà phê Robusta loại 1, ngày giao hàng là tháng 02/2009, theo điều khoản về giá như sau: Giá kỳ hạn LIFFE Robusta tháng 03/09, trừ lùi 155 USD/tấn, ngày chốt (fix) giá cuối cùng là ngày 02/03/09. Trong trường hợp bên bán không chốt giá vào ngày chốt giá cuối cùng, bên mua sẽ chốt giá tự động theo giá thị trường LIFFE vào thời điểm đó. Nếu hợp đồng chưa được chốt giá vào lúc giao hàng thì bên mua phải trả cho bên bán 70% giá trị tiền hàng thị trường LIFFE vào tháng 03/09 theo ngày B/L trừ giá trừ lùi, khoản tiền còn lại sẽ được trả sau khi hoàn tất việc chốt giá của toàn bộ hợp đồng. Nếu mức giá thị trường LIFFE giao tháng 03/09 rớt xuống tới mức giá mà bên mua đã trả 70%, SW COMMODITIES sẽ chốt giá theo giá thị trường. Theo hợp đồng đã ký kết, công ty FONEXIM HCM đã ký với giá theo Provisional Invoice theo giá đóng cửa ngày 19/02/2009 là 1577 USD, trừ lùi 155 USD. Vào ngày giao hàng, SW trả trước cho FONEXIM HCM 70% giá trị tiền hàng là : (1577 – 155) x 70% = 995 USD đây cũng là mức stop-loss, mức chặn lỗ trên hoá đơn tạm tính. 30% còn lại, SW sẽ trả cho FONEXIM vào ngày chốt giá cuối cùng. 30% phần tiền còn lại được tính như sau: (Giá chốt – giá trừ lùi) x lượng hàng = tổng tiền thật – 70% giá trị hàng đã nhận được theo Provisional Invoice Giá chốt trên Final Invoice là 1,414 USD, mức trừ lùi 222 USD Tổng tiền thật: (1414 - 222) x 76.8 = 91,545.60 USD Mức tiền nhận từ 70% trên Provisional Invoice là 76,416.00 USD Mức tiền còn lại là 15,129.60 USD Theo hợp đồng trên, do từ lúc ký kết hợp đồng đến lúc chốt giá quy định trong hợp đồng giá liên tục giảm nên công ty không thể chốt giá vì không thể bù lỗ, công ty đã chuyển tháng 3 lần, kỳ hạn tháng 5, tháng 7 và chốt giá kỳ hạn tháng 9, giá trừ lùi tăng do cộng từ khoảng chênh lệch tỷ giá giữa các kỳ hạn và cộng 20USD phí cho mỗi lần chuyển, mức trừ lùi từ 155 USD đến 222 USD. Vào ngày chốt giá cuối cùng, nếu FONEXIM HCM không chốt giá mà để giá rơi chạm mức stop-loss, FONEXIM HCM sẽ mất quyền bán lô hàng này và SW sẽ tự động fix giá theo giá thị trường vào ngày đó, hai bên thanh lý hợp đồng, FONEXIM HCM sẽ nhận được 30% còn lại tuỳ thuộc khoảng chênh lệch giá, thậm chí mất luôn khoảng tiền này nếu giá xuống quá thấp. Sau khi ký kết hợp đồng xuất bán, đây được gọi là hợp đồng ngoại, công ty tiến hành thu mua cà phê từ trong nước, ở đây ký hợp đồng với công ty Hoàng Đạo (hợp đồng nội), mua 76,8 tấn. Khối lượng hàng bán cho SW phải tương đương với lượng hàng mua trong nước. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch khối lượng vì theo thị trường Luân Đôn, quy định 1 lot = 10 tấn, 76,8 tương đương 8 lot, nếu khoảng chênh lệch này quá lớn sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty vì để mua khối lượng hàng trên công ty phải trả bằng tiền mặt cho khách hàng nội địa thông qua tiền vay của ngân hàng, lãi suất được tính vào hàng ngày, nếu không chốt giá ở mức có lời công ty sẽ liên tục lỗ do tiền vốn không thu được và lãi suất ngân hàng phát sinh. Giá mua hàng nội địa phải thấp hơn giá bán kỳ hạn mới có lời, ở đây công ty mua với giá 24.800.000 đ/tấn. Sau khi mua được lượng hàng cần thiết để xuất khẩu, công ty tiến hành giao hành, chốt giá nhận khoảng tiền 30% còn lại, sau đó thanh lý hợp đồng, tính toán lời lỗ. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG GIÁ CÀ PHÊ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY Trường hợp đã có hợp đồng nội, tức là đã có hàng để bán, ví dụ mua 100 tấn cà phê giá 25.000 đ/kg, cộng tiền hàng với chi phí xuất khẩu = giá FOB + khoảng trừ lùi sẽ thành giá thị trường LIFFE, khoảng 1520 USD là có lời, và kỳ vọng giá 1550 USD. Nếu mức giá lên đến giá kỳ vọng thì dĩ nhiên doanh nghiệp có lời trên cả hai hợp đồng nội và hợp đồng ngoại. Nhưng nếu giá giảm thì thậm chí giảm hơn mức giá kỳ vọng, khi đó sẽ lỗ một khoảng rất lớn do tiền vốn bỏ ra rất lớn cộng với tiền lãi ngân hàng phải trả do mua hàng nội địa. Trường hợp đối với hợp đồng ngoại, giá tăng so với lúc ký kết hợp đồng và chốt giá vào ngay thời điểm đó, công ty sẽ được lời. Nếu giá liên tục giảm đến nỗi không thể fix được, đến thời hạn chốt giá, người bán có 2 quyền chọn: Phải chốt giá ở bất kỳ mức giá nào vào ngày chốt giá cuối cùng trên Hợp đồng cho dù ở mức giá đó vẫn không bù lỗ. Thực hiện chuyển tháng: mức trừ lùi sẽ tăng do cộng thêm phần chênh lệch giữa các kỳ hạn và phí chuyển tháng là 20USD cho mỗi lần chuyển, nếu kỳ hạn những tháng sau vẫn giảm thì khoảng lỗ của công ty sẽ rất lớn do tiền chuyển tháng cao cũng với việc phải trả lãi suất cho Ngân hàng. KẾT LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ĐỂ PHÒNG NGỪA BIẾN ĐỘNG GIÁ CẢ Hơn một năm tham gia giao dịch hợp đồng tương lai, công ty đã đạt được những thành công đó là doanh thu tăng hơn so với thời kỳ thực hiện uỷ thác xuất khẩu, lợi ích từ tham gia giao dịch hợp đồng tương lai mang lại đó là bảo hộ được hàng hoá của mình, kiểm soát giá cả thị trường tương lai, hạn chế rủi ro do biến động giá, bảo vệ lợi nhuận, tạo khả năng linh hoạt trong đặt giá, gắn hoạt động kinh doanh của công ty gần với thị trường quốc tế, phòng ngừa rủi ro cho hàng tồn kho và hàng đã fix giá và có thể kiếm lời do dự đoán đúng về tình hình biến động giá, đưa ra những quyết định đúng đắn mang lại lợi nhuận cho công ty, tuy nhiên do ảnh hưởng của giá thị trường thế giới biến động thất thường trong giai đoạn hiện nay cũng có những khoản lỗ đã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty. Việc sử dụng hợp đồng tương lai được xem một công cụ phòng ngừa rủi ro một cách có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay tuy vậy công ty chỉ mới tham gia vào sân chơi lớn chỉ trong thời gian ngắn, kinh nghiệm còn ít, yêu cầu đặt ra là cần phải hết sức thận trọng, nhận định một cách sáng suốt, toàn diện toàn bộ bối cảnh của thị trường để đưa ra lệnh chốt giá đúng lúc mang lại hiệu quả cho công ty. CHƯƠNG 3 – MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC SỬ DỤNG HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ CÀ PHÊ TẠI CÔNG TY FONEXIM HCM. DỰ BÁO NHU CẦU CÀ PHÊ CỦA THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI VÀ KHẢ NĂNG CUNG CẤP CỦA VIỆT NAM Nhu cầu cà phê của thị trường thế giới: Trong năm 2009, nhu cầu tiêu thụ cà phê toàn cầu khoảng 130 triệu bao (tăng không đáng kể - chỉ chiếm 0,6% so với năm 2008). Mỹ, Braxin và các nước Châu Âu là các quốc gia tiêu thụ cà phê lớn trên thế giới, chiếm gần 62% lượng tiêu dùng cà phê toàn cầu, nhưng tăng trưởng tại các nước này lại giảm mạnh (Mĩ: -0,9%, Bra-xin: 3,8% và các nước Châu Âu: -1,2%). Những động thái cung cầu như đã phân tích ở trên cho thấy trong năm 2009 sản lượng cà phê toàn cầu sẽ bị thặng dư 7,6 triệu bao (tăng hơn 5 triệu bao so với dự đoán trong năm 2008). Như vậy, hàng tồn kho sẽ tăng 42 triệu túi và kéo theo tăng tỷ lệ hàng dự trữ cho tiêu dùng từ 26,7 triệu cao năm 2008 lên 32,4 triệu bao năm 2009. Ngoài những thị trường như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Ý, Pháp, Canada, Anh... là những thị trường nhập khẩu cà phê hàng đầu thế giới, năm 2009, những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu cà phê toàn cầu được thống kê trong bảng dưới đây : Bảng 3.1: Các thị trường tiềm năng cho xuất khẩu cà phê thế giới năm 2009 Country Kim ngạch nhập khẩu cà phê 11 tháng năm 2008 (triệu USD) Tăng trưởng nhập khẩu cà phê 11 tháng năm 2008 (%) Tăng trưởng kinh tế năm 2008 (%) Tăng trưởng kinh tế năm 2009 (%) Bỉ 1.099 99,07% 1,4% 0,2% Áo 420 18,42% 2,0% 0,8% Thuỵ Sĩ 389 29,60% 1,7% 0,7% Hàn Quốc 263 41,17% 5,0% 4,1% Nguồn: AGROINFO tổng hợp – Ghi chú: (*) dự báo của IMF Bỉ là thị trường tiềm năng đứng đầu với kim ngạch nhập khẩu cà phê 11 tháng năm 2008 gần 1,1 tỉ USD, đống thời cũng là thị trường có tăng trưởng nhập khẩu cà phê lớn nhất (đạt 99,07% so với năm 2007). Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của Bỉ sẽ đạt khoảng 0,2%, nhu cầu nhập khẩu cà phê sẽ tăng nhẹ cùng với sự tăng trưởng kinh tế. Rumani là thị trường nhập tiềm năng khẩu cà phê có tăng trưởng kinh tế lớn nhất trong năm 2008 với tốc độ 8,6%. Năm 2009, dựa vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (theo dự báo sẽ đạt 4,8%), thị trường Rumani được kỳ vọng sẽ là một trong những thị trường có tiềm năng rất lớn nhập khẩu cà phê của thế giới. Slovakia là một trong số ít các thị trường có tăng trưởng nhập khẩu cà phê lớn hơn 50% trong 11 tháng đầu năm 2008. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định (năm 2008 đạt 7,4%, năm 2009 dự báo đạt 5,6%), Slovakia sẽ tiếp tục là thị trường có tăng trưởng nhập khẩu cà phê lớn của thế giới năm 2009. Các thị trường tiềm năng khác (Áo, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Hàn Quốc, Bồ Đào Nha...) được dự báo sẽ đạt tăng trưởng kinh tế dương năm 2009 và sẽ tiếp tục tăng kim ngạch nhập khẩu cà phê. Đây sẽ là những thị trường xuất khẩu rất tốt cho ngành cà phê thế giới trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm kéo theo nhu cầu tiêu dùng cà phê ở các thị trường chính đang có xu hướng giảm đi. (Trích từ ”Báo cáo thường niên ngành hàng cà phê Việt Nam 2008 và triển vọng 2009“ của Trung tâm Thông tin PTNNNT) Khả năng cung cấp cà phê của Việt Nam Dự báo khả năng cung cấp cà phê năm 2009 Theo Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (VICOFA), sản lượng cà phê năm 2009 của Việt Nam ước đạt khoảng 16 triệu bao (tương đương với 960.000 tấn). Như vậy theo VICOFA, sản lượng năm 2009 sẽ giảm nhẹ khoảng 0.65% so với năm 2008 tương đương khoảng 6.300 tấn. Còn theo dự báo của Hiệp hội cà phê thế giới, sản lượng cà phê của Việt Nam sẽ không giảm nhiều trong vụ 2009 do cây cà phê vẫn còn “trẻ”, trong 3 năm tới, cà phê Việt Nam sẽ cho sản lượng khoảng 18-21 triệu bao (tương đương với 1,08 – 1,26 triệu tấn). Thực trạng ngành hàng cà phê Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Chưa bao giờ kinh doanh cà phê lại khó khăn như hiện nay. Từ đầu tháng 7/2009 trở lại đây giá cà phê giao dịch trên thị trường thế giới biến động khá thất thường. Giá giao dịch vào đầu tháng 7 giảm 19 USD/tấn so với ngày cuối tháng 6 nhưng vài hôm sau lại tăng trở lại 30 USD/tấn. Đà tăng tiếp tục duy trì vài ngày sau đó nhưng rồi lại đột ngột giảm trở lại 12 USD/tấn. Giá cà phê hiện tại chỉ còn 1.323 USD/tấn, giảm tới 1.433 USD/tấn (giá tháng 7/2009) so với thời điểm đầu tháng 3 năm 2008 khi giá cà phê lên tới mức đỉnh là 2.757 USD/tấn. Trong khi đó, ở thị trường nông thôn, một số đại lý nhỏ đã không ngừng ngại thu gom cà phê với mức giá cao hơn từ 500 – 700 đồng/kg, khoảng 24.000 – 24.200 đồng/kg. Trước diễn biến thất thường của thị trường cà phê trên thế giới trong những ngày qua đã làm cho nhiều doanh nghiệp kinh doanh cà phê càng thêm lúng túng. Theo mức giá giao dịch của ngày 2/7 là 1.323 USD/tấn thì giá tương ứng mà các doanh nghiệp thu mua trong nước phải là dưới 21.500 đồng/kg mới có lãi. Đằng này, do khan hàng nên nhiều doanh nghiệp đã phải chịu lỗ tới 2.000 đồng/kg để thu gom cà phê với mức giá ngoài ý muốn là 23.500 đồng/kg. Có thể khẳng định giá cà phê trong thời gian qua không còn tuân theo quy luật cung cầu nữa mà đang bị giới đầu cơ lũng đoạn. Bởi sản lượng cà phê thực tế không còn nhiều. Sản lượng cà phê niên vụ 2008- 2009 của VN đạt 960.000 tấn, qua 6 tháng đầu năm đã bán đươc trên 2/3 số đó. Như vậy, lượng cà phê còn lại của Việt Nam chỉ từ 220.000 đến gần 300.000 tấn thì chưa đủ để xuất theo các hợp đồng đã ký đến thời điểm này. Trong khi đó, hầu hết sản lượng cà phê của Việt Nam được bán qua khâu trung gian cho các nhà đầu cơ nước ngoài (hiện có tổng cộng 12 doanh nghiệp nước ngoài đang thu mua cà phê ở Việt Nam) chứ mới chỉ có lèo tèo vài doanh nghiệp tham gia giao dịch trực tiếp trên thị trường LIFFE (London) với số lượng vài ba lô hàng. Do bán qua khâu trung gian và xử lý thông tin kém, cộng thêm thiếu tính liên kết nên hồi đầu tháng 6 vừa qua, các nhà đầu cơ đã tung tin rằng giá cà phê sẽ tăng đột biến vào cuối tháng do khan hiếm hàng khiến cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam đua nhau đầu cơ tích trữ, mạnh ai nấy làm. Chỉ sau một thời gian ngắn, khi các Quỹ đầu cơ ngừng mua vào thì họ lại tung tin giá cà phê sẽ giảm mạnh trong thời gian tới đã làm nhiều doanh nghiệp Việt Nam chới với, sợ lỗ nên bán túng, bán tháo để trả nợ. Đến nay, số lượng cà phê còn lại của niên vụ vừa qua chưa đáp ứng đủ số lượng hợp đồng đã ký với khách hàng, nhưng ngặt nỗi hầu hết số hàng này đang bị kẹt ở trong dân. Doanh nghiệp cũng chỉ là người mua đi, bán lại còn người quyết định đầu cung vẫn là người nông dân. Đây cũng là một cái khó nữa khiến các doanh nghiệp Việt Nam vì thiếu khả năng tài chính và cung cách làm ăn thiếu chuyên nghiệp đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Giá thấp thì người dân và các đại lý nhỏ găm hàng không bán, giá cao thì doanh nghiệp thua lỗ. Đó cũng là một nghịch lý. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TƯƠNG LAI NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG TƯƠNG LAI CÀ PHÊ NÓI RIÊNG TẠI VIỆT NAM Thị trường tương lai tại Việt Nam Thị trường giao sau ở Việt Nam chưa phát triển, chỉ có một số hàng hoá như ngoại tệ, vàng được các Ngân hàng thực hiện. Các giao dịch về café, gạo cũng được 1 số nhà kinh doanh thực hiện trên thị trường quốc tế. Luật chứng khoán Việt Nam cũng đã có quy định về các hình thức giao dịch giao sau, tuy nhiên trên thực tế thì vẫn chưa thể áp dụng vì chưa được hướng dẫn thực hiện cụ thể. Những phương thức này chỉ có thể áp dụng khi thị trường chứng khoán Việt Nam đảm bảo các yếu tố về hạ tầng kỹ thuật, pháp lý và phát triển đến một trình độ cao hơn nhiều so với hiện nay. Một số ngân hàng như HSBC, Standard Charter,ABN, Citi …đã có những giao dịch hoán đổi lãi suất lớn, ngoại tệ trên thị trường Việt Nam tuy nhiên về các giao dịch giao sau thì vẫn chưa thực hiện được. Ví dụ: HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó,  HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND Thị trường tương lai cà phê Trong những năm gần đây, giao dịch hợp đồng tương lai cũng được Nhà Nước nghiên cứu và cho áp dụng thí điểm. Năm 2004, Ngân hàng Nhà Nước lần đầu tiên đã cấp cho ngân hàng Việt Nam là Ngân Hàng Techcombank được quyền giao dịch hợp đồng tương lai (Futures Contract) trên thị trường trực tiếp với các sàn giao dịch nước ngoài. Luật Thương Mại ra ngày 14/6/2005, có hiệu lực vào đầu năm 2006, đã cho phép “mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa”, bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Theo luật: “thương nhân VN được quyền hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ”. Nghị định của Chính phủ về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa sẽ được ban hành. Đây là hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn tham gia giao dịch trên LIFFE. Lần đầu tiên ở nước ta, loại giao dịch hợp đồng tương lai đối với mua bán cà phê được thực hiện vào ngày 6/11/2004 giữa Công ty Đầu Tư Xuất Nhập Khẩu Đắk Lắk (Inexim Dak Lak) với sàn giao dịch LIFFE (London Internationnal Financial Futures & Options Exchange) thông qua nhà môi giới Techcombank. Từ đó đến nay, đã có nhiều doanh nghiệp thực hiện phương thức mua bán này đạt hiệu quả khá cao. Số lượng doanh nghiệp tham gia LIFFE chủ yếu tập trung ở Đắk Lắk, Gia Lai, Bình Dương, TP.HCM và Hà Nội. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp chiếm 40%, còn lại là đại lý thu mua, chế biến cà phê. Tổng số lượng giao dịch tính đến nay trên 70.000 lot (5 tấn/lot), tức 350.000 tấn cà phê nhân, từ tháng 3 năm 2009, 1 lot = 10 tấn. Với mục tiêu sử dụng hợp đồng tương lai (Futures Contract) làm công cụ phòng chống rủi ro (Hedging) để tránh thua thiệt về giá cho thị trường hàng thật, khoảng một nửa sản lượng cà phê nhân Robusta xuất khẩu trong nước đang được xuất khẩu thông qua thị trường giao dịch LIFFE. Có thể nói, đây là thành công bước đầu của các doanh nghiệp Việt Nam trên đường hội nhập. Sau thời gian tham gia giao dịch tương lai kết quả đạt được là làm cho thị trường trong nước gần hơn với thị trường quốc tế về giá xuất khẩu, tạo khả năng linh hoạt trong đặt giá, phòng ngừa rủi ro cho hàng tồn kho hay hàng đã chốt giá và tận dụng đòn bẩy tài chính, để kiếm lời. Tuy nhiên, sau thời gian tham gia thị trường Luân Đôn, sử dụng công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro qua các hợp đồng tương lai đã xảy ra một số biến tướng như: Nghề mua bán hợp đồng tương lai mới du nhập vào nước ta nên còn rất mới mẻ, khả năng phân tích và tập hợp thông tin về thị trường thế giới có hạn vì thế không ít doanh nghiệp dự đoán sai giá cả tương lai nên đã chịu thua lỗ nặng. Một số doanh nghiệp đã tự đứng ra làm trung gian giao dịch để thu phí bất hợp pháp từ các đối tượng không đủ điều kiện giao dịch với Techcombank, trong khi các đối tượng chưa được khuyến cáo đầy đủ, chưa hiểu biết sâu về phương thức này và thực sự không có cà phê, năng lực tài chính lại quá nhỏ bé so với các đại gia nước ngoài vì thế việc thua lỗ là tất yếu. Các doanh nghiệp không xem nó như một công cụ phòng, chống rủi ro khi thị trường biến động, mà tham gia giao dịch mang tính đầu cơ, “đỏ, đen”, đặt lệnh mua bán khống, không có cà phê Robusta vẫn tham gia giao dịch với thị trường LIFFE (London), không có cà phê Arabica vẫn giao dịch với thị trường NYBOT (New York). Lúc đầu, giao dịch qua LIFFE chỉ có các nhà xuất khẩu cà phê, đại lý với hy vọng tránh rủi ro do biến động giá trên thị trường thế giới. Ví dụ như ở Buôn Mê Thuộc, đến mùa thu hoạch, người dân: giáo viên, viên chức, dân buôn bán tạp hoá thường bỏ tiền ra mua vài tấn cà phê để gửi vào kho các công ty xuất khẩu chờ giá lên thì bán, xem như một hình thức tiết kiệm rất chính đáng. Nhưng bây giờ nhiều người đã chuyển sang mua “hàng giấy” như kiểu bà nội trợ, ông cán bộ hưu trí ở TP.HCM tham gia chơi chứng khoán khi thấy thị trường nóng lên cách nay hơn hai tháng. Thậm chí còn xuất hiện đội ngũ cò mời gọi chơi “hàng giấy”. Tuy nhiên, do phải ký quỹ 8-10% giá hàng thật tại cùng thời điểm (gọi là margin) và mở tài khoản ngoại tệ tại Techcombank nên những người chơi “hàng giấy” lách bằng cách giao dịch qua các công ty có đủ điều kiện đăng ký giao dịch với LIFFE thông qua ngân hàng này. Một chuyên gia cà phê thừa nhận, trong 33 doanh nghiệp tham gia giao dịch với LIFFE qua Techcombank thì gần một nửa là doanh nghiệp tư nhân và họ sẵn sàng rủ rê những người khác tham gia giao dịch. Các “nhà cái” được hưởng chênh lệch phí giao dịch nộp cho Techcombank mà người chơi “hàng giấy” đóng vào. Chẳng hạn, mức phí giao dịch mà Techcombank thu cả hai chiều mua và bán cho 1 lot là 28 USD nhưng “nhà cái” thu của người chơi 30 USD. Đấy là chưa kể, càng nhiều người tham gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan