Đề tài Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương

Tài liệu Đề tài Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương: Mục lục Danh mục các chữ viết tắt DN Doanh nghiệp CTCP Công ty cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn TTCK Thị trường chứng khoán CTCK Công ty chứng khoán UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước HASTC Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội HOSE Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị LỜI NÓI ĐẦU Ở nước ta, sau hơn 20 năm song hành với sự nghiệp đổi mới đất nước và hơn 1 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt kể cả quy mô và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hội nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực, Thị trường chứng khoán bắt đầu phát triển và bùng nổ tại Việt Nam trong hơn 2 năm trở lại đây. Các Công ty chứng khoán lần lượt ra đời dẫn đến hoạt động thương m...

docx82 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Danh mục các chữ viết tắt DN Doanh nghiệp CTCP Công ty cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn TTCK Thị trường chứng khoán CTCK Công ty chứng khoán UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước HASTC Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội HOSE Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị LỜI NÓI ĐẦU Ở nước ta, sau hơn 20 năm song hành với sự nghiệp đổi mới đất nước và hơn 1 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt kể cả quy mô và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hội nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực, Thị trường chứng khoán bắt đầu phát triển và bùng nổ tại Việt Nam trong hơn 2 năm trở lại đây. Các Công ty chứng khoán lần lượt ra đời dẫn đến hoạt động thương mại trong nước có sự thay đổi đáng kể, hoạt động của các Công ty chứng khoán đã từng bước được hoàn thiện, đa dạng và phong phú hơn, góp phần tích cực mở rộng vốn đầu tư cho những người tham gia vào Thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Từ những lợi ích kinh tế từ việc phát triển Thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu và tìm hiểu đối với hoạt động này là rất cần thiết và hữu ích đối với một sinh viên Luật. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài "QUản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương" với mong muốn qua việc nghiên cứu tìm hiểu hoạt động của Công ty - Hội sở chính sẽ giúp em có thêm kiến thức và hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh trên một thị trường đầy năng động và trong một Công ty chứng khoán đang phát triển với tốc độ nhanh chóng - một trong mười Công ty chứng khoán lớn nhất Việt Nam. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Kinh tế Quốc dân, những người đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường, đặc biệt là TS Nguyễn Hợp Toàn và ThS Vũ Văn Ngọc cùng toàn thể các anh chị trong Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương - Hội sở chính đã hướng dẫn tận tình, giúp đỡ tạo điều kiện để em hoàn thành Chuyên đề thực tập này. Chương I. Những cơ sở khoa học trong Quản trị doanh nghiệp I. Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp đã được thay đổi đáng kể sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được ban hành. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã có những quy định thể hiện rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước là mở rộng quyền tự do kinh doanh cho tất cả các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế. Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là quyền của doanh nghiệp được tự chủ quyết định các vấn đề trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là quyền đầu tư kinh doanh và quyền huy động vốn. Mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp có nghĩa là hạn chế sự can thiệp hành chính tùy ý của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự mở rộng quyền tự do kinh doanh trong quản trị và thành lập doanh nghiệp được khái quát như sau: Thứ nhất là hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. So với Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã đưa ra các quy định hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu như các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được quyền tự quyết về công việc kinh doanh của mình thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn phải chịu sự ràng buộc hay chi phối bởi sự can thiệp mang tính chất hành chính, chủ quan và thiếu phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước. Với Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp Nhà nước được chủ động trong quyền kinh doanh, việc quản trị sẽ được cải thiện và ít phải phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005 thì sẽ có 3 điểm lợi: Thuận lợi hơn trong giao dịch nhất là với đối tác nước ngoài; không bị phân biệt đối xử trong buôn bán và nâng cao hiệu lực quản trị mở rộng quyền năng và kinh doanh đa ngành. Thứ hai là sự ra đời về Công ty TNHH 1 thành viên trong Luật Doanh nghiệp 2005. Có thể nói Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể hiện rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng quyền tự do trong thành lập và quản trị doanh nghiệp khi quy định 4 loại hình doanh nghiệp để các nhà đầu tư lựa chọn. Luật cho phép cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập được lựa chọn thêm hình thức mới là Công ty TNHH có thành viên là cá nhân( trước đây quyền thành lập này chỉ thuộc về một tổ chức) thay cho loại hình Doanh nghiệp tư nhân như trước. Như vậy, doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ này sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn mà chủ sở hữu đã đăng ký cho hoạt động đăng ký kinh doanh. Thứ ba là thay đổi được coi là mang tính đột phá của Luật Doanh nghiệp 2005, đó là quyền năng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng đáng kể. Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm chứ không chỉ bị giới hạn trong nội dung của Giấy phép đầu tư như quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Đồng thời, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng chế độ đăng ký kinh doanh giống như các doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhờ đó việc thành lập doanh nghiệp trở nên đơn giản, nhanh chóng và ít chi phí hơn so với chế độ cấp phép đầu tư phức tạp, tùy tiện và tốn kém hiện nay. Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không bị giới hạn ở một loại hình công ty TNHH như trước mà sẽ được tự do lựa chọn các loại hình doanh nghiệp phù hợp. Ví dụ, Công ty cổ phần với lợi thế về huy động vốn trên thị trường tài chính. Việc khống chế mức sở hữu 30% đối với đầu tư nước ngoài về cơ bản sẽ được xóa bỏ. Đối với một số ngành nghề hạn chế kinh doanh áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ có quy định những điều kiện nhất định mà nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng theo hướng công khai, minh bạch hơn. Những thay đổi này chắc chắn sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới. II. Sự phát triển của Pháp luật về doanh nghiệp và quản trị nội bộ từ Luật Doanh nghiệp 1999 đến Luật Doanh nghiệp 2005 1. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp: Trong những năm qua, gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế là quá trình hình thành và phát triển đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta từng bước đã được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi phải được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập hiện nay. Với mục đích tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc cải cách và hoàn thiện Luật doanh nghiệp là một bước đi quan trọng trong định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta. Ngày 19 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ hợp thứ VIII đã thông qua Luật doanh nghiệp thống nhất thay thế Luật doanh nghiệp 1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006( sau đây gọi là Luật doanh nghiệp 2005). Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp từ Luật DN 1999 đến Luật DN 2005 được khái quát qua những điểm chính sau đây: 1.1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được đặt vào một khung pháp lý chung: Căn cứ vào Điều 1 Luật doanh nghiệp 2005 “Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, quy định về nhóm công ty". Do đó, Luật doanh nghiệp 2005 với tư cách là luật chung cho các loại hình doanh nghiệp thay thế cho Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 (trừ trường hợp vẫn còn được áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước đang trong thời kỳ chuyển đổi nếu Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định), các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Trước đây, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác nhau. Điều này ít nhiều tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước do có sự khác biệt về thủ tục. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bất kể là trong nước hay ngoài nước, vốn sở hữu nhà nước hay vốn sở hữu tư nhân đều hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý chung. Các quy định nói trên tạo ra môi trường pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế đối với hoạt động của các doanh nghiệp, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp. 1.2. Quy định về đăng ký kinh doanh. Trong thời gian xây dựng Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ đã thể hiện rất rõ quyết tâm trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một loạt các giấy phép đã lỗi thời, không cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhỏ các giấy phép kinh doanh thông qua một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Thay cho việc phải có Đơn đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định về Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp bao gồm hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định cụ thể về tên của doanh nghiệp, trong đó có cách đặt tên cho doanh nghiệp, những trường hợp cấm về cách đặt tên doanh nghiệp, đặt tên doanh nghiệp trong trường hợp tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp và những trường hợp tên trùng và tên gây nhầm lẫn. Một điểm mới khác của Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo hướng là luật chung cho các loại hình doanh nghiệp, là gắn thủ tục đăng ký kinh doanh với thủ tục đăng ký đầu tư. Điều này xuất phát từ quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường và thực hiện các hoạt động đầu tư. Rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo khoản 2 Điều 15 Luật Doanh nghiệp 2005, “”Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ”. Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và pháp luật về đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.3. Quy định về các loại hình Công ty a. Quy định về Công ty hợp danh: Luật Doanh nghiệp 2005 thừa nhận tư cách pháp nhân của Công ty hợp danh. b. Quy định về Công ty TNHH một thành viên: Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty trách nhiệm hữu hạn Luật cho phép một cá nhân có thể thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Điều 63 Luật doanh nghiệp) và đã đưa ra quy định về cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Đạo luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về người đại diện theo pháp luật của công ty. Theo đó, chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. c. Quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên: Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ thể hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo đó Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Những quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng tương đồng với quy định về vấn đề này của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định về người đại diện theo uỷ quyền, đây chíng là quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, việc chỉ định người đại diện theo uỷ quyền phải bằng văn bản, được thông báo đến công ty và cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chỉ định. d. Quy định về Nhóm công ty: Luật doanh nghiệp 2005 bổ sung quy định về nhóm công ty, trong đó điển hình là mô hình công ty mẹ - công ty con. Theo đó, tổ hợp công ty mẹ - công ty con không có tư cách pháp nhân; bản thân công ty mẹ và từng công ty con thành viên đều có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa, công ty mẹ và các công ty con thành viên đều có tài sản riêng, đều có khả năng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi kinh doanh của mình. Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con. Điều này có nghĩa, nếu công ty con là công ty TNHH thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền của mình với tư cách là thành viên của công ty đó. Nếu công ty con là công ty TNHH 1 thành viên thì công ty mẹ thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty. Nếu công ty con là công ty cổ phần thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền với tư cách là cổ đông của công ty. Thực chất, quy định về nhóm công ty nhằm mục đích tăng cường sự công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh cũng như hạn chế chế độ trách nhiệm hữu hạn và bảo vệ lợi ích của cổ đông thiểu số. Đây là một bước phát triển mới của Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. e. Quy định về công ty cổ phần: Trong Luật Doanh nghiệp 1999, quy định về công ty cổ phần là phần quy định chặt chẽ nhất, chi tiết nhất. Tuy nhiên, với Luật Doanh nghiệp 2005, các quy định này còn cụ thể hơn, chi tiết hơn và tiến dần tới chuẩn mực chung của thế giới về công ty cổ phần. Trong 111 Điều quy định về các hình thức doanh nghiệp, có tới 52 điều quy định về công ty cổ phần. Điều này thể hiện rất rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này. Về cơ bản, quy định về Công ty cổ phần vẫn giữ nguyên theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999, tuy nhiên Luật Doanh nghiệp 2005 có một số điểm mới sau: - Mở rộng quyền của cổ đông phổ thông: Cổ đông phổ thông được quyền xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông, có quyền biểu quyết và quyền yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác, xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chép điều lệ Cty, sổ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của HĐCĐ. Bảo vệ quyền của cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số + Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn có quyền yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Có quyền yêu cầu triệu tập Đại hội đồng cổ đông công ty khi Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị đã vượt quá sáu tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế… + Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% cổ phần có quyền biểu quyết, trước đây là 51%. + Quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là 51%. + Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là 51%. Nâng cao trách nhiệm cá nhân của cổ đông phổ thông. Cổ phần phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi sau: + Vi phạm pháp luật; + Tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; + Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty. Quy định cơ chế xử lý đối với cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Luật doanh nghiệp 2005 quy định xử lý như sau: + Các cổ đông sáng lập còn lại góp đủ số cổ phần đó theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty; + Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó; + Huy động người khác không phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó; người nhận góp vốn đó đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Trong trường hợp này, cổ đông sáng lập chưa góp cổ phần theo đăng ký đương nhiên không còn là cổ đông của công ty. Quy định thành viên HĐQT không nhất thiết là cổ đông. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì số lượng tối thiểu của Hội đồng quản trị là 03 người, thành viên của Hội đồng quản trị không nhất thiết là cổ đông của công ty. Vì vậy, Luật quy định thêm tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Hội đồng quản trị. Như vậy, chủ tịch của Hội đồng quản trị cũng không nhất thiết là cổ đông của công ty. Quy định tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên của Ban Kiểm soát, quy định cụ thể hơn quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát. Mở rộng thẩm quyền của Ban Kiểm soát như “Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả”, “sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệmvụ được giao”… Ngoài ra Luật còn quy định về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Ban Kiểm soát. Khi kết thúc năm tài chính, Hội đồng quản trị phải chuẩn bị các báo cáo và tài liệu về tình hình kinh doanh, tài chính, đánh giá công tác quản lý để nộp cho Ban Kiểm soát… 1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp: Quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp được tăng cường và cụ thể hơn. Điều này được thể hiện bằng các quy định về cung cấp thông tin giữa các cơ quan Nhà nước; quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan Nhà nước; cấp chính quyền trong quản lý doanh nghiệp; quy định cụ thể điều kiện giải thể doanh nghiệp; quy định cụ thể các hành vi bị cấm; bổ sung thêm trường hợp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đổi mới cơ bản cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp, trong đó tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính Nhà nước, thực hiện tập trung và thống nhất các quyền chủ sở hữu, đồng thời tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra Luật còn quy định rõ hơn quyền lợi và nghĩa vụ của người quản lý: Thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty (các Điều 58,73,117,125); Nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng (Điều 56,72,119,126,134); Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của Ban kiểm soát, Thành viên Ban kiểm soát (các Điều 123,124,126). 2. Sự phát triển của pháp luật về quản trị nội bộ 2.1. Các quy định về quản trị nội bộ trong điều lệ công ty. So với Luật Doanh nghiệp 2005, luật doanh nghiệp 2005 đã có nét đột phá khi đi theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc về nhiều nội dung trong quản trị nội bộ doanh nghiệp, cho phép Điều lệ công ty quy định thêm những vấn đề cụ thể để đáp ứng nhu cầu điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền quyết định trong Điều lệ của mình các quan hệ ứng xử nội bộ và cách thức quản lý, điều hành cụ thể trong hoạt động nội bộ của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các quy định của luật doanh nghiệp 2005 với các yêu cầu của quản trị doanh nghiệp ghi trong điều lệ cty được thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật này. Các quy đinh này của Luật doanh nghiệp 2005 nhằm hình thành khung quản trị nội bộ tiên tiến của doanh nghiệp. 2.2. Hoàn thiện quản trị doanh nghiệp Khung quản trị doanh nghiệp được hoàn thiện hơn, rõ ràng hơn và bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền và lợi ích của thành viên, cổ đông. cụ thể: Khung quản trị được thiết kế tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp có chủ sở hữu tư nhân, doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước. Xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng. Quy định rõ điều kiện và tiêu chuẩn của chức danh quản lý quan trọng trong công ty. Tăng thêm quy định yêu cầu công khai và minh bạch, nhất là đối với những người quản lý. Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của ban kiểm soát. Tăng cường thêm các quy định về quản lý vốn, hạn chế nguy cơ lạm dụng trách nhiệm hữu hạn. III. Đặc điểm riêng của Công ty cổ phần Trong nền kinh tế thị trường, các Công ty cổ phần hình thành theo con đường tự nhiên là dựa trên nhu cầu vốn lớn của doanh nghiệp khi công nghệ, kỹ thuật phát triển, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh đòi hỏi quy mô sản xuất lớn, đầu tư nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mà cá nhân các nhà đầu tư không thể có đủ vốn để thực hiện thì Công ty cổ phần - loại hình doanh nghiệp hoạt động dựa trên vốn góp của các cổ đông - bắt đầu hình thành và phát triển. Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của Công ty đối vốn. Trong đó, vốn của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Theo quy định tại khoản 1 điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào DN. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của Luật Doanh nghiệp 2005. Dựa vào khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm riêng của Cty cổ phần, từ đó chúng ta có thể phân biệt được công ty cổ phần với công ty TNHH và công ty hợp danh: Thứ nhất, về thành viên công ty: Trong quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành viên tham gia công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn nên cần có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy, việc quy định số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần. Thứ hai, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Luật không hạn chế mỗi thành viên được mua tối đa bao nhiêu phần trăm vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể thỏa thuận trong Điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty. Thứ ba, tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: phần vốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Thứ tư, về chế độ trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty ( tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu) Thứ năm, trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Thứ sáu, công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Và cuối cùng, công ty cổ phần là loại hình công ty thông thường có rất nhiều thành viên và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó cần phải có một cơ chế quản lý thật chặt chẽ. Việc quản lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền của 3 cơ quan: Đại hội đồng cổ đông, HĐQT và Ban kiểm soát quy định cụ thể trong Luật doanh nghiệp 2005. Từ những đặc điểm trên, ta có thể rút ra được những thuận lợi đối với công ty cổ phần là: Trách nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn ở số tiền đầu tư của họ. Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả có nghĩa là nhà đầu tư có thể đầu tư mà không sợ rủi ro cho các tài sản cá nhân khác và có sự đảm bảo trong một chừng mực nào đó giá trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi năm. Điều này tạo khả năng cho hầu hết các Công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng. Được chuyển nhượng quyền sở hữu Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được chuyển giao dễ dàng. Chúng được ghi vào danh mục chuyển nhượng tại sở giao dịch chứng khoán và có thể mua hay bán trong các phiên mở cửa một cách nhanh chóng. Vì vậy, các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt. Bên cạnh những thuận lợi trên thì việc thành lập và hoạt động của Công ty cổ phần cũng gặp phải những khó khăn sau: + Công ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo chặt chẽ. + Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan trọng, những thông tin này có thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác. + Phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến công việc của công ty. Sự quan tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt chứ không phải sự thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân mình. + Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu nhập cá nhân của từng cổ đông. IV. Khái quát về Thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán: 1. Thị trường chứng khoán 1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán: Cho đến thời điểm này có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, do đó khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất. Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện về TTCK, chúng ta có thể tham khảo các ý kiến sau: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán, trong đó chứng khoán là các giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền sở hữu hoặc quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này là khác nhau giữa các loại chứng khoán tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Từ những quan điểm trên, ta thấy rằng TTCK không giống với thị trường hàng hóa thông thường, bởi vì hàng hóa được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên TTCK là các loại chứng khoán, hay chính là quyền sở hữu về tư bản. Với mục tiêu hội nhập theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, TTCK Việt Nam ra đời. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chính Minh, bắt đầu hoạt động vào ngày 20/07/2000 và giao dịch phiên đầu tiên ngày 28/07/2000. 1.2. Phân loại Thị trường chứng khoán: Căn cứ vào hình thức hoạt động của thị trường, TTCK được chia thành hai loại là: TTCK tập trung và TTCK phi tập trung. TTCK tập trung: Tính tập trung phản ánh các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán( hay Stock Exchange). Tại VN, Sở giao dịch chứng khoán như đã nói ở trên chính là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) và Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE). TTCK phi tập trung còn có tên gọi khác là thị trường OTC( viết tắt của Over the Couter). Trên TTCK phi tập trung, giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán nằm khắp mọi miền và nối mạng với nhau. Giá thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận. Căn cứ vào tính chất của sự luân chuyển nguồn vốn: TTCK được chia thành hai loại là TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp: TTCK sơ cấp là nơi mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua cổ phiếu mới phát hành từ nhà phát hành. TTCK thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường này bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng khoán mới phát hành. Căn cứ vào phương thức giao dịch: Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường giao ngay và thị trường giao sau Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại thời điểm giao dịch nhưng việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau dó một vài ngày theo thoả thuận. Thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch , nhưng việc thanh toán và giao hàng xảy ra trong một thời hạn ở tương lai. Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành: Tthị trường chứng khoán còn được chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các công cụ phái sinh. 1.3 Các chủ thể trên TTCK Việt Nam 1.3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán Các tổ chức phát hành gồm có: Chính phủ( Kho bạc Nhà nước), Chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, Công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán. Những tổ chức trên được phép phát hành chứng khoán để bán trên thị trường nhằm mục đích huy động vốn. 1.3.2 Nhà đầu tư chứng khoán: Nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt Nam và các tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK. Các nhà đầu tư cá nhân, hộ gia đình, nhà đầu tư có tổ chức và các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Các nhà đầu tư nước ngoài: các tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể tham gia mua chứng khoán trên TTCK Việt Nam. 1.3.3 Chủ thể trung gian trên TTCK. Ủy ban chứng khoán Nhà nước: Ủy ban chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, được thành lập theo Nghi định 75/ NĐ- CP ngày 28 tháng 01 năm 1996. Ủy ban thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK, quản lý việc cấp giấy phép, đăng ký phát hành và kinh doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra giám sát các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán để đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có tên Tiếng Anh là Hanoi Stock Trading Centre, viết tắt là HASTC. Đây là đơn vị trực thuộc có thu của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, có tư cách pháp nhân, thực hiện các chức năng tổ chức và quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán, quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán, đăng ký chứng khoán, thanh toán bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán, công bố thông tin về hoạt động giao dịch chứng khoán, kiểm tra giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán và một số hoạt động khác… Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện quản lý trên TTCK phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh: Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh cũng thực hiện các chức năng giống như Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, nhưng quản lý trên thị trường tập trung. Theo quyết định số 599/ QĐ- TTg ngày 11 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ thì Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đổi tên thành Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh với tên Tiếng Anh là Ho Chi Minh Stock Exchange, viết tắt là HOSE. Công ty chứng khoán: Theo điều 59 Luật chứng khoán 2006, Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Các tổ chức hỗ trợ khác: Các tổ chức hỗ trợ khác có thể kể đến là các tổ chức lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các tổ chức kiểm toán, Ngân hàng … 2. Công ty chứng khoán 2.1 Khái niệm Công ty chứng khoán Điều 59 của Luật chứng khoán 2006 chỉ quy định về hình thức tổ chức pháp lý của Công ty chứng khoán. Sau đây, để hiểu rõ về Công ty chứng khoán, chúng ta hãy xem xét một số khái niệm: Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo Pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán có chức năng của người môi giới, người chuyên viên & người bảo lãnh chứng khoán. Tuy Luật Chứng khoán 2006 không quy định nhưng theo khoản 1 Điều 2 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán thì: Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Theo quy định tại Luật Chứng khoán 2006, Ủy ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh cho các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành lập để hoạt động kinh doanh chứng khoán nếu như những công ty này đáp ứng được đầy đủ điều kiện theo quy định của Pháp luật hiện hành về mức vồn pháp định, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân viên Công ty phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. 2.2 Phân loại Công ty chứng khoán: Có thể phân loại CTCK thành các loại sau: - Công ty môi giới chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán cho khách hàng và nhận hoa hồng. - Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty tự bỏ vốn và tự kinh doanh chứng khoán. Giống như mọi nhà đầu tư, họ kinh doanh trên vốn của mình và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Công ty bảo lãnh phát hành: là công ty cung ứng các dịch vụ bảo lãnh đối với những công ty có dự định phát hành chứng khoán và hưởng phí từ dịch vụ đó hoặc hưởng lợi từ sự chênh lệch giá chứng khoán ( trong trường hợp bảo lãnh có cam kết mua số chứng khoán còn dư). - Công ty tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch vụ tư vấn như tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành trái phiếu, tư vấn định giá, thẩm định đầu tư và thu phí dịch vụ. - Công ty quản lý danh mục đầu tư (các quỹ): là công ty nhận uỷ quyền hay nguồn vốn từ khách hàng, đại diện cho khách hàng, thông qua việc giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để kiếm lời cho mình và cho khách hàng. - Công ty trái phiếu: là công ty chuyên mua bán các loại trái phiếu - Công ty chứng khoán phi tập trung : là các công ty hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường. 2.3 Đặc điểm của Công ty chứng khoán 2.3.1 Các quy chế pháp lý đối với Công ty chứng khoán: a. Loại hình tổ chức của Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là công ty cổ phần: Công ty cổ phần là công ty mà vốn được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Pháp luật. Công ty chứng khoán thành lập dưới hình thức công ty TNHH: Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Cty TNHH không được quyền phát hành cổ phiếu. b. Các điều kiện và thủ tục được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Công ty chứng khoán Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động: Có trụ sở, có trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán (Đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán không phải đáp ứng điều kiện này). Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán thì Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán là Công ty chứng khoán phải có trụ sở đảm bảo các yêu cầu sau: - Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2; - Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: Sàn giao dịch phục vụ khách hàng; thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán; - Hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật; - Có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc. Có đủ vốn góp theo quy định của Chính phủ Theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/ NĐ - CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán 2006 thì Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán trong nước, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là: + Môi giới chứng khoán: 25 tỷ VNĐ + Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ VNĐ + Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ VNĐ + Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ VNĐ Trong trường hợp Công ty xin cấp giấy phép cho nhiều hoạt động kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh mà công ty được cấp phép. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. Ngoài ra, Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán còn quy định các Tiêu chuẩn đối với Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc Chi nhánh, Phó Giám đốc chi nhánh của công ty chứng khoán. Hơn nữa Điều 3 khoản 3 còn quy định có tối thiểu ba (03) người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh. Điều kiện đối với cá nhân góp vốn: Đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Chứng khoán; Chỉ được phép sử dụng vốn của chính mình để góp vốn, không được sử dụng nguồn vốn ủy thác đầu tư của pháp nhân và cá nhân khác. Cá nhân góp vốn từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải chứng minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Đối với tài sản bằng tiền, phải có xác nhận của ngân hàng về số dư tại ngân hàng. Đối với tài sản bằng chứng khoán, phải có xác nhận của công ty chứng khoán hoặc của tổ chức phát hành về số chứng khoán đó. Đối với tài sản khác, phải có tài liệu chứng minh quyền sở hữu và tài sản đó phải được định giá bởi tổ chức định giá đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Điều kiện đối với pháp nhân: Đang hoạt động hợp pháp; Vốn chủ sở hữu (không tính các khoản đầu tư dài hạn) đảm bảo đủ góp vốn theo cam kết; hiệu số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tại thời điểm báo cáo tài chính năm gần nhất có kiểm toán tối thiểu bằng số vốn góp; Không được dùng vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn. Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu của công ty chứng khoán. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và phù hợp với Điều lệ công ty. Cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, chỉ có các Công ty chứng khoán được Chính phủ( Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước) cấp giấy phép mới được kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam. Ngoài công ty chứng khoán, không một cá nhân hoặc thực thể pháp lý nào khác được cấp giấy phép hành nghề tương tự. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán( Trích khoản 1 Điều 65 Luật Chứng khoán 2006) 2.3.2 Đặc điểm về các loại hình nghiệp vụ kinh doanh của Cty chứng khoán: Như đã đề cập ở trên, các loại hình nghiệp vụ kinh doanh mà Cty chứng khoán thực hiện gồm có: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Chỉ có công ty chứng khoán mới được phép thực hiện các nghiệp vụ nói trên và đây chính là đặc điểm của công ty chứng khoán so với các công ty khác. Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt này, chúng ta nên đi sâu vào việc tìm hiểu từng loại hình nghiệp vụ. a. Môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bảo lãnh chứng khoán cho khách hàng (Điều 6.20 Luật chứng khoán 2006) Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, Công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng của mình để tiến hành các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC, và chính khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch của mình. Khi giao dịch bắt đầu, có nghĩa là Công ty chứng khoán đã kết nối thành công người bán chứng khoán và người mua chứng khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các Công ty chứng khoán. Hoạt động này là sự liên kết giữa nguồn cung và cầu trên TTCK. Công ty chứng khoán là điều kiện để các nhà đầu tư giao dịch với nhau mà không cần quan tâm họ đang ở đâu, có quen biết nhau hay không mà chỉ cần có hai lệnh khớp nhau là các Công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và nhận tiền hoặc chứng khoán thay cho khách hàng đã mở tài khoản tại Công ty chứng khoán đó. b. Hoạt động tự doanh chứng khoán Tự doanh chứng khoán là việc Công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình (Điều 6.21 Luật chứng khoán 2006) Trong hoạt động tự doanh, Công ty chứng khoán dùng chính nguồn vốn của công ty để kinh doanh chứng khoán. Mục đích của hoạt động tự doanh là mang đến thu nhập cho chính Công ty chứng khoán. Lúc này, Công ty nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định và thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Khi một Công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh, đôi khi Công ty chứng khoán còn tham gia với tư cách là Nhà tạo lập thị trường. Nếu như vậy, ngoài mục tiêu lợi nhuận, Công ty chứng khoán còn phải thực hiện một mục tiêu với vai trò quan trọng là bình ổn giá chứng khoán. Để thực hiện các mục tiêu đó, Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình. Theo quy định của Việt Nam, khi tiến hành hoạt động tự doanh, Công ty chứng khoán cần phải chú ý các điểm sau: Không được đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của Công ty chứng khoán. Không được đầu tư trên 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một số tổ chức niêm yết trên thị trường tập trung. Không được đầu tư trên 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một số tổ chức không niêm yết trên thị trường phi tập trung. Không được đầu tư góp vốn trên 15% tổng số vốn góp của một công ty TNHH. Đây là 04 quy định riêng đối Công ty chứng khoán, và chỉ có Công ty chứng khoán phải tuân theo các quy định này. c. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúa (Điều 6.22 Luật chứng khoán 2006) Thông thường, khi Công ty chứng khoán bảo lãnh thì thực hiện luôn việc phân phối chứng khoán còn khi đột ngột phát hành do Ngân hàng hoặc một tổ chức bảo lãnh phát hành thì khâu phân phối sẽ được chuyển cho các Công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác trong tổ hợp bảo lãnh. d. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán (Điều 6.23 Luật chứng khoán 2006). e. Hoạt động tư vấn tài chính Tư vấn tài chính là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành, niêm yết chứng khoán. f. Các hoạt động khác Ngoài 5 hoạt động nghiệp vụ cơ bản trên, Công ty chứng khoán còn thực hiện một số hoạt động hỗ trợ để tạo thuận lợi hơn cho khách hàng như: Hoạt động lưu ký chứng khoán: là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyết nghị liên quan đến chứng khoán. Hoạt động đăng ký chứng khoán: là việc ghi nhận quyền sở hữu và các quyền khác của người sở hữu chứng khoán. Qua những phân tích trên, ta có thể thấy rõ ràng rằng các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo nên sự khác biệt trong hoạt động của Công ty chứng khoán so với các Công ty khác. 2.3.3 Đặc điểm về hoạt động của Công ty chứng khoán: a. Quy mô đầu tư lớn: Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể mức vốn pháp định cho từng loại hình nghiệp vụ kinh doanh của Công ty chứng khoán. Theo đó, mức vốn pháp định thấp nhất là 10 tỷ VNĐ và cao nhất là 165 tỷ VNĐ. Như vậy, ta có thể thấy rằng việc thành lập một Công ty chứng khoán để thực hiện các nghiệp vụ cần nguồn vốn đầu tư lớn hơn rất nhiều so với những ngành nghề kinh doanh khác. Đây chính là đặc điểm nổi bật trong việc thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán. b. Hoạt động đa dạng Ngoài những nghiệp vụ chính theo quy định của Luật Chứng khoán 2006, Công ty chứng khoán còn thực hiện cả những nghiệp vụ khác như hoạt động lưu ký chứng khoán và hoạt động đăng ký chứng khoán. Hơn nữa, trên thực tế các Công ty chứng khoán hiện nay còn thực hiện một số nghiệp vụ chính do Công ty quản lý quỹ thực hiện, cụ thể là Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và Quản lý danh mục đầu tư. Như vậy, với tất cả các đặc điểm nêu trên như điều kiện thành lập và hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh, quy mô đầu tư lớn thì ta thấy hoạt động của công ty chứng khoán vô cùng đa dạng. Từ đó ta thấy được tầm ảnh hưởng của các Công ty chứng khoán đến sự phát triển về mặt kinh tế xã hội ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung. V. Chế độ pháp lý về quản trị nội bộ đối với Công ty chứng khoán 1. Luật Doanh nghiệp 2005 Công ty chứng khoán là một công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Do đó việc thành lập cũng như quản trị nội bộ công ty chứng khoán trước hết phải tuân theo các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp với tư cách là Luật chung cho tất cả các doanh nghiệp được lựa chọn để áp dụng đầu tiên. Luật Doanh nghiệp 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006 bao gồm 10 chương với 172 điều, trong đó có 39 điều quy định về Công ty trách nhiệm hữu hạn và 52 điều quy định về Công ty cổ phần. Đây chính là cơ sở để các Công ty chứng khoán quản trị nội bộ doanh nghiệp mình. 2. Luật Chứng khoán 2006 Luật chứng khoán là Luật chuyên ngành để điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến chứng khoán như Thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán và các hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán… Do đó, việc quản trị nội bộ doanh nghiệp cũng phải tuân theo các quy định của Luật chứng khoán 2006. Luật Chứng khoán 2006 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 bao gồm 11 chương với 136 điều, trong đó Chương XI là chương quy định về Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. 3. Văn bản dưới Luật 3.1 Nghị định số 139/ 2007/ NĐ-CP Nghị định số 139/ 2007/ NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005. 3.2 Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2006. 3.3 Quyết định số 27/ 2007/ QĐ- BTC Quyết định số 27/ 2007/ QĐ- BTC ngày 24 tháng 04 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán. Đây là quy chế áp dụng riêng đối với công ty chứng khoán, gồm 46 điều quy định chi tiết việc tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. 4. Văn bản riêng của Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương Điều lệ Công ty là bản cam kết của tất cả thành viên về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty. Do đó, Công ty có thể có những quy định cụ thể hơn so với các văn bản Luật, hoặc đề cập những vấn đề mà Luật không nói đến nhưng không được trái với quy định của Pháp luật. Chương II. Thực tiễn về quản trị nội bộ tại Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương I. Tổng quan về Công ty cổ phần Châu Á - Thái Bình Dương: Quá trình ra đời và sự phát triển của Công ty Quá trình ra đời Tên Công ty: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương Tên giao dịch: Asia – Pacific Securities Joint Stock Company Tên viết tắt: APEC Securities.,JSC Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương (APEC) được thành lập theo Giấy phép đăng ký kinh doanh số 0103015146 ngày 21 tháng 12 năm 2006 do Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hà Nội cấp và Giấy phép kinh doanh chứng khoán số 37/UBCK – GPHĐKD ngày 26/12/2006 do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp với số vốn điều lệ là 80.000.000.000 đồng. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương là một trong những công ty chứng khoán được thành lập vào thời điểm thị trường chứng khoán của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nhưng hầu hết những người tham gia chưa có kiến thức chuyên sâu về Thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương được tổ chức theo mô hình định chế tài chính hiện đại với phương pháp hoạt động khoa học và phong cách làm việc chuyên nghiệp với mục tiêu chiến lược là trở thành một tập đoàn đầu tư tài chính có tên tuổi ở khu vực cũng như trên toàn thế giới, kinh doanh nhiều lĩnh vực như đầu tư, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng và giáo dục… Quá trình phát triển Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương hình thành và phát triển qua các giai đoạn chính như sau: Ngày 26/12/2006: Quyết định của Chủ tịch uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh cho Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương với số vốn điều lệ là 60.000.000.000 đồng, trụ sở chính đặt tại số 66 Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội. Ngày 02/01/2007: Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương chính thức là thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký chứng khoán thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Ngày 23/01/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Ngày 26/02/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/07/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương dời trụ sở chính đến tầng 8, Toà nhà Trung tâm thương mại Quốc tế, số 9 Đào Duy Anh, phường Phương Liệt, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Ngày 01/10/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương tăng vốn điều lệ lên 80.000.000.000 đồng. Ngày 12/11/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương chính thức khai trương Đại lý nhận lệnh thứ 15 tại phố Hoàng Đạo Thuý, Trung Hòa, Nhân Chính, Hà Nội. Cơ cấu tổ chức quản lý Theo quy định tại điều 59.1 Luật chứng khoán 2007 thì " Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp". Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương được tổ chức dưới hình thức Công ty cổ phần và theo mô hình quản lý dưới đây: DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU ĐẦU TƯ & BẢO LÃNH PHÁT HÀNH HÀNH CHÍNH TÀI CHÍNH KẾ TOÁN TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ VỐN PHÁT TRIỂN KINH DOANH HỘI SỞ CHI NH¸NH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT BAN GIÁM ĐỐC ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG VP TRỢ LÝ HĐQT 2.1 Đại hội đồng cổ đông: Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất, quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn được pháp luật và Điều lệ Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương quy định. 2.2 Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị của Công ty, có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hiện nay, ông Nguyễn Đỗ Lăng giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị. HĐQT Công ty hiện có 04 người, gồm 01 Chủ tịch, 01 Phó chủ tịch và 02 thành viên. 2.3 Ban Kiểm soát: Ban Kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Vai trò của Ban kiểm soát là đảm bảo các quyền lợi của cổ đông và giám sát các hoạt động của Công ty. Ban Kiểm soát Công ty Châu Á Thái Bình Dương do ông Nguyễn Nhật Quang làm Trưởng ban. Ban Kiểm soát gồm có 03 thành viên: 01 Trưởng ban & 02 Phó ban. 2.4 Văn phòng trợ lý HĐQT Văn phòng trợ lý HĐQT có vai trò giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc. Hiện nay Văn phòng Hội đồng quản trị gồm 6 thành viên do Ông Phạm Duy Hưng phụ trách. 2.5 Ban Giám đốc Ban Giám đốc gồm có 01 Tổng giám đốc, 01 Phó tổng giám đốc và các Giám đốc phụ trách Khối chuyên môn. Tổng Giám đốc Công ty Châu Á Thái Bình Dương là ông Nguyễn Mạnh Hào. 2.6 Hội sở chính Hội sở chính được phân chia dưới dạng các Phòng ban và Khối chuyên môn. Khối Dịch vụ chứng khoán: do ông Dương Song Hà làm Giám đốc. Phòng Công nghệ thông tin: do ông Nguyễn Hữu Hùng làm Trưởng phòng. Phòng Tư vấn tài chính doanh nghiệp: do ông Hà Minh Kiên làm Trưởng phòng. Khối Phân tích và nghiên cứu, Đầu tư và bảo lãnh phát hành; Tư vấn đầu tư và quản lý vốn: do ông Đinh Văn Hùng làm Giám đốc. Phòng Tài chính kế toán: Do ông Nguyễn Văn Hùng làm Trưởng phòng. Khối Phát triển kinh doanh: Do bà Phạm Hồng Vân làm Giám đốc. Phòng Tổ chức Hành chính Nhân sự: do ông Vũ Quang Huy làm Trưởng phòng. 2.7. Chi nhánh: Hiện nay, Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương có 04 Chi nhánh và gần 25 Đại lý nhận lệnh. Con số này tiếp tục thay đổi vì Công ty đang triển khai kế hoạch phát triển thị trường. Chi nhánh: gồm có chi nhánh tại Hà Nội, TP Hồ Chính Minh, Huế và Hải Phòng. Đại lý nhận lệnh: Trung Hòa Nhân Chính, Chương Dương - Gia Lâm, Việt Trì, Hải Dương, Thái Bình, Móng Cái, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Gia Lai, Đak Nông, Vũng Tàu, Nha Trang … 3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Cho đến tháng 01 năm 2008, Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kinh doanh, có thể kể đến như sau: Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành một trong các công ty chứng khoán có mạng lưới lớn nhất Việt Nam với gần 25 chi nhánh, sàn giao dịch và đại lý nhận lệnh. Tổng giá trị giao dịch lên đến 6 triệu USD mỗi ngày. Đến cuối năm 2007, tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ là 50%. Đến cuối quý 3 năm 2007, Công ty có tổng cộng 10.000 tài khoản giao dịch và chiếm khoảng 5% thị phần. Công ty chứng khoán Châu Á - Thái Bình Dương đã ký kết hợp đồng cổ đông chiến lược với đối tác Nhật Bản JICS. Theo đó, JICS trở thành cổ đông chiến lược của Công ty và sẽ đầu tư 200 triệu USD vào Việt Nam thông qua Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương vừa tăng vốn điều lệ lên 80 tỷ đồng vào tháng 10 năm 2007, hoàn thành thủ tục tăng vốn lên 350 tỷ đồng vào đầu năm 2008. Tiếp theo đó, vốn chủ sở hữu của Công ty sẽ lên gần 800 tỷ VND vào cuối năm 2008. 4. Nhân sự tại Công ty Châu Á Thái Bình Dương Hiện nay, chưa có một con số chính xác về số lượng nhân viên chính thức của Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, vì các đại lý nhận lệnh trong thời gian trước và sau Tết nguyên đán liên tục được mở ra để phục vụ ngày càng tốt và kịp thời cho những người tham gia vào Thị trường chứng khoán. Vào thời điểm này, tính riêng tại Hội sở chính, Sàn giao dịch và 03 chi nhánh Trung Hòa - Nhân Chính, TP Hồ Chí Minh và Huế, Công ty có tất cả 160 nhân viên. Đội ngũ nhân viên được chia thành 02 loại: Nhân viên có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp: Gần 20 người làm việc trong các Phòng ban hoặc Khối chuyên môn mà yêu cầu bắt buộc phái có chứng chỉ. Trong số 20 người này, có 06 người đang giữ các chức vụ quan trọng tại công ty, có thể kể đến là ông Nguyễn Đỗ Lăng, Ông Nguyễn Duy Khanh … Nhân viên chưa và không có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán: Làm việc tại các bộ phận khác trong công ty mà không yêu cầu bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán. II. Việc thực thi các quy định của Pháp luật về Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 1 Đại hội đồng cổ đông: 1.1 Khái niệm Theo quy định tại khoản 1 điều 96 của Luật Doanh nghiệp 2005 thì: "Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần" Thẩm quyền về quản trị nội bộ của ĐHĐCĐ phụ thuộc vào nhiệm vụ và quyền hạn của ĐHĐCĐ do Pháp luật và Điều lệ Công ty quy định. 1.2 Thẩm quyền của ĐHĐCĐ Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty Châu Á Thái Bình Dương, thẩm quyền của ĐHĐCĐ được tựu trung lại như sau Đại hội đồng cổ đông có các quyền và nhiệm vụ dưới đây: a) Thông qua định hướng phát triển của công ty; b) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; c) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát; d) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty; đ) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán; e) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm; g) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại; h) Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty; i) Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty; Trong số những nhiệm vụ và quyền hạn kể trên của Đại hội đồng cổ đông, ta thấy rằng thẩm quyền quản trị công ty của ĐHĐCĐ là thẩm quyền vĩ mô. Quyết định của ĐHĐCĐ thông thường được cụ thể hóa và thực hiện thông qua Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Trên thực tế, tính vào thời điểm này, Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương chính thức hoạt động được 16 tháng nhưng ĐHĐCĐ mới tiến hành họp lần thứ nhất( khi thành lập công ty). Vậy nên căn cứ vào biên bản họp ĐHĐCĐ lần thứ nhất, hoạt động của ĐHĐCĐ mới chỉ dừng lại ở những công việc như sau: Thông qua định hướng phát triển Công ty Bầu thành viên HĐQT và thành viên Ban Kiểm soát Thông qua dự thảo báo cáo tài chính cho năm 2007. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương tăng vốn điều lệ và sửa đổi điều lệ 02 lần. Lần thứ nhất vào ngày 01 tháng 10 năm 2007 và lần thứ hai vào ngày 15 tháng 01 năm 2008. Trong hai lần tăng vốn này, ĐHĐCĐ không tiến hành họp mà việc biểu quyết tán thành thông qua hình thức gửi văn bản. 1.3 Họp ĐHĐCĐ Tất cả hoạt động và quyết định của ĐHĐCĐ đều xuất phát từ kỳ họp ĐHĐCĐ thường niên hoặc bất thường. Căn cứ theo Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều lệ Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, Hội đồng quản trị phải triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường trong các trường hợp sau: Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của Công ty; Bảng cân đối kế toán hàng năm, các báo cáo quý hoặc nửa năm hoặc báo cáo kiểm toán của năm tài chính phản ánh vốn điều lệ đã bị mất một nửa; Khi số thành viên của Hội đồng quản trị ít hơn số thành viên mà luật pháp quy định hoặc ít hơn một nửa số thành viên quy định trong Điều lệ; Cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ trên 5% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục từ sáu tháng trở lên yêu cầu triệu tập Đại hội đồng cổ đông bằng một văn bản kiến nghị. Văn bản kiến nghị triệu tập phải nêu rõ lý do và mục đích cuộc họp, có chữ ký của các cổ đông liên quan (văn bản kiến nghị có thể lập thành nhiều bản để có đủ chữ ký của tất cả các cổ đông có liên quan); Ban kiểm soát yêu cầu triệu tập cuộc họp nếu Ban kiểm soát có lý do tin tưởng rằng các thành viên Hội đồng quản trị hoặc cán bộ quản lý cấp cao vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ của họ theo Điều 119 Luật Doanh nghiệp hoặc Hội đồng quản trị hành động hoặc có ý định hành động ngoài phạm vi quyền hạn của mình; Tại Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, số liệu thực tế ghi nhận là chưa có diễn biến nào thuộc một trong năm trường hợp kể trên dẫn đến việc tổ chức họp ĐHĐCĐ bất thường, do đó trong chuyên đề thực tập chuyên đề này không làm rõ vấn đề họp bất thường. Căn cứ vào khoản 2 Điều 103 Luật Doanh nghiệp 2005 thì Chủ tịch Hội đồng quản trị làm chủ toạ các cuộc họp do Hội đồng quản trị triệu tập. Trong trường hợp Chủ tịch vắng mặt hoặc tạm thời mất khả năng làm việc, các thành viên còn lại bầu một người trong số họ làm chủ toạ cuộc họp. Trường hợp không có người có thể làm chủ toạ thì thành viên Hội đồng quản trị có chức vụ cao nhất điều khiển để Đại hội đồng cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp trong số những người dự họp và người có số phiếu bầu cao nhất làm chủ toạ cuộc họp. Trong các trường hợp khác, người ký tên triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông điều khiển để Đại hội đồng cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp và người có số phiếu bầu cao nhất làm chủ toạ cuộc họp. 2 Hội đồng quản trị 2.1 Khái niệm Căn cứ vào Điều 108 của Luật Doanh nghiệp 2005 thì Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có không ít hơn ba thành viên, không quá mười một thành viên. Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là năm năm. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá năm năm; thành viên Hội đồng quản trị có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Điều lệ Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương quy định cụ thể như sau: Số lượng thành viên Hội đồng quản trị từ 04 đến 11 thành viên. Tổng số thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành phải chiếm ít nhất một phần ba tổng số thành viên Hội đồng quản trị. Để trở thành thành viên của HĐQT, các cá nhân phải đáp ứng được những tiêu chuẩn dưới đây: a) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005; b) Là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty. 2.2 Chức năng của HĐQT: Chức năng của HĐQT là quản lý Công ty Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý Công ty, do ĐHĐCĐ bầu ra, chịu trách nhiệm trước các cổ đông và người lao động trong Công ty về lợi nhuận và quyền lợi hợp pháp của họ. HĐQT là đại diện chủ sở hữu vốn, chịu trách nhiệm trước các cổ đông về việc bảo toàn và phát triển vốn. HĐQT là người quyết định hướng phát triển của Công ty. 2.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương gồm có 04 người, cụ thể là: 01 Chủ tịch: ông Nguyễn Đỗ Lăng 01 Phó Chủ tịch: ông Lưu Thanh Bình 02 thành viên: ông Nguyễn Duy Khanh và ông Nguyễn Mạnh Hào Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì HĐQT có nhiệm vụ và quyền hạn sau: a) Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; b) Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc Điều lệ công ty; c) Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 120 của Luật Doanh nghiệp; d) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; e) Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty; f) Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác; g) Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp Đại hội đồng cổ đông, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định; h) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Đại hội đồng cổ đông; i) Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; j) Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty; k) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; l) Quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác; m) Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; n) Quyết định mua lại cổ phần theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Luật Doanh nghiệp; Các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định từ khoản a đến khoản j được thể hiện thông qua hoạt động của HĐQT công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương như sau: Hàng tháng, HĐQT công ty tiến hành họp 01 lần để theo dõi tình hình hoạt động cuả Công ty giữa hai lần họp. Đồng thời trong cuộc họp này, các thành viên HĐQT sẽ tiếp tục thảo luận định hướng phát triển cho công ty trong tháng tiếp theo. Vì công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán nên hoạt động của Công ty phần lớn phụ thuộc vào biến động của thị trường, do đó việc đưa ra các chính sách ngắn hạn là vô cùng cần thiết( ví dụ như chính sách trong nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành...). Còn các kế hoạch phát triển dài hạn chỉ áp dụng với những công việc không phụ thuộc hoặc phụ thuộc ở mức thấp đến thị trường chứng khoán, có thể kể đến như vấn đề nhân sự, hoạt động nghiệp vụ tư vấn tài chính hoặc phát triển công nghệ... Trong lĩnh vực đầu tư, HĐQT công ty đã ra quyết định, theo đó Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã và đang hợp tác đầu tư với các công ty khác để thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần( TMCP) Kinh Bắc, Công ty cổ phần tích hợp hệ thống VNPT, Công ty cổ phần thuỷ điện Nậm Lừm, Dự án xây dựng Khu công nghiệp 300 ha tại Hưng Yên và Hải Phòng, dự án xây dựng khu đô thị tại trung tâm thành phố Huế ... Tất cả những dự án đầu tư trên đều được các thành viên trong HĐQT Công ty tán thành với tỷ lệ biểu quyết là 100%. Trong lĩnh vực phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ, HĐQT công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã ra quyết định ứng dụng hàng loạt những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho khách hàng, có thể kể đến là: Cung cấp dịch vụ Mở tài khoản online 24/24, mọi lúc và mọi nơi trên website của Công ty. Công ty APEC là công ty chứng khoán đầu tiên cam kết mở rộng dịch vụ mở tài khoản 24/24 giờ; có riêng đường dây nóng 1900545469 chăm sóc khách hàng. Những dịch vụ này giúp Công ty kết nối với nhà đầu tư, với doanh nghiệp cả ở trong và ngoài nước. Được đánh giá là một dịch vụ mới và tiện ích cao cho khách hàng, tránh những thủ tục khá phức tạp trong việc khách hàng phải sắp xếp thời gian khi mở tài khoản tại Công ty chứng khoán. Cung cấp dịch vụ Giao dịch chứng khoán trên Internet (APEC CyberInvestor) và dịch vụ Giao dịch chứng khoán bằng nhắn tin SMS (APEC MobileInvestor). Công ty APEC là công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam cung cấp các dịch vụ đặt lệnh Mua - Bán chứng khoán, truy vấn tài khoản chứng khoán qua SMS, là công ty thứ 2 áp dụng dịch vụ mở tài khoản, đặt lệnh Mua - Bán chứng khoán, truy vấn tài khoản chứng khoán qua Internet. Dịch vụ APEC CyberInvestor (đặt lệnh mua bán chứng khoán qua Internet) và dịch vụ APEC MobileInvestor (đặt lệnh mua bán chứng khoán qua tin nhắn SMS) là các dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ mới nhất hiện nay. Với những dịch vụ này, khách hàng sẽ không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Chỉ cần truy cập vào trang web: www.apec.com.vn hoặc đơn giản hơn là sử dụng ngay dịch vụ nhắn tin SMS trên điện thoại di động. Cung cấp dịch vụ nhắn tin Kết quả khớp lệnh qua SMS: Với dịch vụ nhắn tin kết quả  khớp lệnh ngay trong phiên giao dịch, thay vì phải liên lạc qua điện thoại hoặc email để biết được kết quả khớp lệnh của mình, khách hàng sẽ nhận được tin nhắn từ số dịch vụ  chăm sóc khách hàng 8209 về kết quả giao dịch ngay trong mỗi phiên giao dịch của công ty APEC. Nhắn tin kết quả giao dịch thành công trên sàn HOSE ngay sau khi khớp lệnh mỗi phiên từ 3-5 phút. Nhắn tin kết quả giao dịch thành công trên sàn HASTC 5 phút một lần sau mỗi đợt khớp lệnh liên tục. Việc quyết định ứng dụng công nghệ hiện đại vào kinh doanh chứng khoán là một bước đi hết sức sáng suốt cũng như táo bạo của Công ty APEC. Nói rằng táo bạo vì việc đầu tư này vô cùng tốn kém, lại chưa từng được thử nghiệm tại Việt Nam. Tuy nhiên chính sự táo bạo vô cùng đúng đắn này đã và đang đem lại lợi thế công nghệ vô cùng lớn cho Công ty. Đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý; quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; Giám sát, chỉ đạo Tổng giám đốc, giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Sau khi HĐQT được ĐHĐCĐ bầu ra, HĐQT tiếp tục bổ nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc là ông Nguyễn Mạnh Hào và Phó Tổng Giám đốc là ông Trịnh Hoàng Hà, đồng thời chỉ định các chức vụ khác như: Giám đốc khối dịch vụ chứng khoán: ông Dương Song Hà Trưởng phòng Công nghệ thông tin: ông Nguyễn Hữu Hùng Giám đốc khối Tư vấn tài chính doanh nghiệp: ông Hà Minh Kiên Giám đốc khối Phân tích và nghiên cứu, Đầu tư và bảo lãnh phát hành; Tư vấn đầu tư và quản lý vốn: ông Đinh Văn Hùng Trưởng phòng Tài chính kế toán: ông Nguyễn Văn Hùng Giám đốc khối Phát triển kinh doanh: bà Phạm Hồng Vân Trưởng phòng Tổ chức Hành chính Nhân sự: ông Vũ Quang Huy Việc quyết định mức lương của các chức danh quan trọng trong công ty do HĐQT quyết định và được giữ kín, vì vậy trong chuyên đề này không đề cập đến. Về quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty: HĐQT dựa vào Luật Doanh nghiệp 2005 cùng với Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán đưa ra cơ cấu tổ chức đối với Công ty, cụ thể là Mô hình quản lý đã được đề cập đến trong phần 2- II- Chương II. Quy chế quản lý nội bộ công ty hiện nay chưa có, vì trước hết Công ty áp dụng theo các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 cùng với Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán do Bộ Tài chính ban hành. Quyết định thành lập chi nhánh, đại lý nhận lệnh Tính đến thời điểm này, HĐQT công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã ra quyết định thành lập 04 chi nhánh và 30 đại lý nhận lệnh: 04 chi nhánh: tại Hà Nội, TP Hồ Chính Minh, Huế và Hải Phòng. Đại lý nhận lệnh: Trung Hòa Nhân Chính, Chương Dương - Gia Lâm, Việt Trì, Hải Dương, Thái Bình, Móng Cái, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Gia Lai, Đak Nông, Vũng Tàu, Nha Trang … Theo kế hoạch, công ty chứng khoán APEC đã nâng tổng số chi nhánh, sàn giao dịch và đại lý nhận lệnh lên 30 vào cuối tháng 1 năm 2008 và sẽ là 100 vào cuối năm 2008. Trên cơ sở các mạng lưới này, công ty sẽ cung cấp thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư bên cạnh các dịch vụ chứng khoán. Các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định từ khoản k đến khoản n là các quy định liên quan đến quản trị về mặt tài chính của Công ty. Trong năm 2008, công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã hoàn thành kế hoạch tăng nguồn vốn điều lệ lên 350 tỷ đồng bằng việc huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu cho các Cổ đông hiện hữu, Cán bộ công nhân viên và một phần từ các Cổ đông chiến lược. Đây là chính sách tài chính có tính chất chiến lược trong việc phát triển công ty, cụ thể: Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại: HĐQT kiến nghị lên ĐHĐCĐ những vấn đề liên quan đến đợt phát hành cổ phiếu như sau: Tên cổ phiếu: APEC Securities Loại cổ phiếu: Phổ thông Mệnh giá: 10.000 VNĐ/cổ phiếu Vốn điều lệ: 80.000.000.000 đồng Vốn điều lệ tăng thêm: 270.000.000.000 đồng Tổng vốn điều lệ sau khi tăng: 350.000.000.000 đồng Tổng số cổ phiếu phát hành thêm : 27.000.000 cổ phiếu, tương đương 270.000.000.000 đồng, trong đó: Phát hành cho cổ đông hiện hữu: 16.000.000 cổ phiếu, tương đương với 160.000.000.000 đồng Mỗi cổ đông sở hữu 01 cổ phiếu sẽ được quyền mua 02 cổ phiếu phát hành thêm Phát hành cho lãnh đạo và cán bộ, công nhân viên: 2.000.000 cổ phiếu tương đương với 20.000.000.000 đồng Giá bán: 10.000 đồng /cổ phiếu Phát hành cho cổ đông chiến lược: 9.000.000 cổ phiếu Thời gian phát hành : 45 ngày (sau ngày đăng ký). Kế hoạch niêm yết: vào thời điểm thích hợp năm 2008. Mục đích phát hành cổ phiếu là để đầu tư vào các dự án sau: Nâng cấp công nghệ cho công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, với nguồn vốn dự chi là 30.000.000.000 VNĐ Phát triển mạng lưới chi nhánh và đại lý nhận lệnh với mức đầu tư khoảng 20.000.000.000 VNĐ Thành lập Công ty quản lý quỹ Châu Á Thái Bình Dương với mức chi phí ước lượng 50.000.000.000 VNĐ Thành lập Công ty bảo hiểm phi nhân thọ Châu Á Thái Bình Dương với nguồn vốn góp dự định 60.000.000.000 VNĐ Xây dựng Đại học Châu Á Thái Bình Dương với 50.000.000.000 VNĐ vốn góp Đầu tư vào các đối tác chiến lược khoảng 400.000.000.000 VNĐ HĐQT quyết định giá bán cổ phiếu đối với từng loại như sau: Bán cho cổ đông hiện hữu: 10.000 VNĐ/ 1 cổ phiếu Bán cho lãnh đạo, cán bộ nhân viên: 10.000 VNĐ/ 1 cổ phiếu Bán cho cổ đông chiến lược: giá thỏa thuận Ngoài những quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, Điều lệ Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương còn quy định 9 vấn đề phải được HĐQT phê chuẩn như sau: Trong phạm vi quy định tại Điều 108.2 của Luật Doanh nghiệp và trừ trường hợp quy định tại Điều 120.3 Luật Doanh nghiệp phải do Đại hội đồng cổ đông phê chuẩn, Hội đồng quản trị tùy từng thời điểm quyết định việc thực hiện, sửa đổi và huỷ bỏ các hợp đồng lớn của Công ty (bao gồm các hợp đồng mua, bán, sáp nhập, thâu tóm công ty và liên doanh); Chỉ định và bãi nhiệm những người được Công ty ủy nhiệm là đại diện thương mại và Luật sư của Công ty; Việc vay nợ và việc thực hiện các khoản thế chấp, bảo đảm, bảo lãnh và bồi thường của Công ty; Các khoản đầu tư không nằm trong kế hoạch kinh doanh và ngân sách vượt quá các khoản đầu tư vượt quá 10% giá trị kế hoạch và ngân sách kinh doanh hàng năm; Việc mua hoặc bán cổ phần của những công ty khác được thành lập ở Việt Nam hay nước ngoài; Việc định giá các tài sản góp vào Công ty không phải bằng tiền liên quan đến việc phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu của Công ty, bao gồm vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và bí quyết công nghệ; Việc công ty mua hoặc thu hồi không quá 10% mỗi loại cổ phần; Các vấn đề kinh doanh hoặc giao dịch mà Hội đồng quyết định cần phải có sự chấp thuận trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình; Quyết định mức giá mua hoặc thu hồi cổ phần của Công ty. Các quy định trên trong Điều lệ của công ty là không trái với quy định của Pháp luật và phù hợp với tình hình phát triển của Công ty. 2.4 Chủ tịch HĐQT Căn cứ vào khoản 1 điều 111 Luật Doanh nghiệp 2005 và khoản 1 điều 26 Điều lệ công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương thì "Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị phải lựa chọn trong số các thành viên Hội đồng quản trị để bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch" Trong công ty cổ phần, Chủ tịch HĐQT có nhiệm vụ và quyền hạn sau: a) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng quản trị; b) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ toạ cuộc họp Hội đồng quản trị; c) Tổ chức việc thông qua quyết định của Hội đồng quản trị; d) Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị; e) Chủ toạ họp Đại hội đồng cổ đông; f) Đảm bảo việc Hội đồng quản trị gửi báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo hoạt động của công ty, báo cáo kiểm toán và báo cáo kiểm tra của Hội đồng quản trị cho các cổ đông tại Đại hội đồng cổ đông; Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt thì uỷ quyền bằng văn bản cho Phó chủ tịch HĐQT để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị. Trường hợp không có người được uỷ quyền hoặc Phó chủ tịch Hội đồng quản trị không làm việc được thì các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc đa số quá bán. Với vai trò là Chủ tịch HĐQT công ty APEC, ông Nguyễn Đỗ Lăng đã thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình theo quy định của Pháp luật và điều lệ công ty như sau: Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT và thông báo những chương trình, kế hoạch đó tại cuộc họp HĐQT: như đã nói ở trên, HĐQT công ty APEC tiến hành họp 01 lần 01 tháng với sự chủ trì của chủ tịch HĐQT. Do đó, hàng tháng chủ tịch HĐQT đều phải lập kế hoạch cho HĐQT, đồng thời phải giải thích trước các thành viên HĐQT cơ sở cho những kế hoạch đó. Đây là hoạt động thường xuyên của chủ tịch HĐQT công ty APEC. Tổ chức và giám sát thực hiện các quyết định của HĐQT: Sau khi các thanh viên HĐQT thông qua một vấn đề nào đó, chủ tịch HĐQT APEC sẽ phối hợp với thành viên HĐQT kiêm Tổng giám đốc công ty điều hành việc thực hiện. Đơn cử như việc thành lập chi nhánh hoặc thực hiện các dự án đầu tư... Song song với việc tổ chức thực hiện, chủ tịch HĐQT còn phải làm báo cáo để gửi lên các thành viên HĐQT còn lại. Chủ tọa họp ĐHĐCĐ: như đã đề cập ở trên, ĐHĐCĐ công ty APEC tiến hành họp lần đầu tiên khi thành lập công ty. Khi đó chủ tịch HĐQT phải gửi đến các cổ đông báo cáo tỷ lệ vốn góp, thành phần nhân sự dự kiến... Như vậy, về cơ bản chủ tịch HĐQT đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. 2.5 Họp HĐQT Căn cứ vào khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp 2005: "Cuộc họp định kỳ của Hội đồng quản trị do Chủ tịch triệu tập bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết, nhưng mỗi quý phải họp ít nhất một lần" Như vậy, HĐQT công ty Châu Á Thái Bình Dương tiến hành họp 01 lần/ 01 tháng là thực hiện đúng theo quy định của Pháp luật. Theo quy định tại Điều 111.2 Luật Doanh nghiệp 2005 và điều 26.2 Điều lệ Công ty chứng khoán APEC thì Chủ tịch HĐQT là người có thẩm quyền triệu tập và chủ trì cuộc họp HĐQT. Trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt thì uỷ quyền bằng văn bản cho một thành viên khác để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị. Điều 112.4 Luật Doanh nghiệp quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị phải triệu tập họp Hội đồng quản trị khi có một trong các trường hợp sau đây: a) Có đề nghị của Ban kiểm soát; b) Có đề nghị của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc hoặc ít nhất năm người quản lý khác; c) Có đề nghị của ít nhất hai thành viên Hội đồng quản trị; d) Các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định. Đề nghị phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ mục đích, vấn đề cần thảo luận và quyết định thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị. Ghi nhận từ các biên bản họp HĐQT tại công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, chưa có cuộc họp HĐQT bất thường nào diễn ra. 3. Ban Giám đốc 3.1 Khái niệm Ban Giám đốc Ban Giám đốc được hiểu là người lãnh đạo làm thuê cho chủ công ty, được nhận thù lao và thù lao ấy phụ thuộc vào hiệu quả của việc lãnh đạo công ty. Ban Giám đốc Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương gồm có 01 Tổng giám đốc, 01 phó Tổng giám đốc và 04 Giám đốc nghiệp vụ. Tuy nhiên, về mặt quản trị nội bộ ta chỉ chú ý xét đến hoạt động của người đứng đầu công ty là Tổng Giám đốc, bởi vì Giám đốc các khối chuyên môn nghiệp vụ trực tiếp chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về những hoạt động của Khối. 3.2 Tổng Giám đốc Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty thì Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Tổng giám đốc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định Tổng giám đốc phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây: a) Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005; b) Là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của công ty hoặc người không phải là thành viên, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty. Ngoài ra, Tổng giám đốc Công ty chứng khoán còn phải đáp ứng được quy định của Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán, cụ thể là: Không phải là người đã từng hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền hành nghề theo quy định của pháp luật; Chưa từng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị phá sản, trừ trường hợp phá sản vì lý do bất khả kháng; Trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc: có bằng đại học hoặc trên đại học; có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán ít nhất ba (03) năm và có kinh nghiệm quản lý điều hành tối thiểu ba (03) năm; Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán; Có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán; Chưa từng bị Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt theo pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán trong vòng hai (02) năm gần nhất. Tổng giám đốc Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương hiện nay là ông Nguyễn Mạnh Hào. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều lệ Công ty thì ông Hào có những quyền lợi và nhiệm vụ sau đây: Thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông, kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư của Công ty đã được Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông thông qua; Quyết định tất cả các vấn đề không cần phải có nghị quyết của Hội đồng quản trị, bao gồm việc thay mặt công ty ký kết các hợp đồng tài chính và thương mại, tổ chức và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thường nhật của Công ty theo những thông lệ quản lý tốt nhất; Kiến nghị số lượng và các loại cán bộ quản lý mà công ty cần thuê để Hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm khi cần thiết nhằm áp dụng các hoạt động cũng như các cơ cấu quản lý tốt do Hội đồng quản trị đề xuất, và tư vấn để Hội đồng quản trị quyết định mức lương, thù lao, các lợi ích và các điều khoản khác của hợp đồng lao động của cán bộ quản lý; Tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị để quyết định số lượng người lao động, mức lương, trợ cấp, lợi ích, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và các điều khoản khác liên quan đến hợp đồng lao động của họ; Vào ngày 31 tháng 10 hàng năm, Tổng Giám đốc điều hành phải trình Hội đồng quản trị phê chuẩn kế hoạch kinh doanh chi tiết cho năm tài chính tiếp theo trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu của ngân sách phù hợp cũng như kế hoạch tài chính 05 năm. Thực thi kế hoạch kinh doanh hàng năm được Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị thông qua; Đề xuất những biện pháp nâng cao hoạt động và quản lý của Công ty; Chuẩn bị các bản dự toán dài hạn, hàng năm và hàng tháng của Công ty (sau đây gọi là bản dự toán) phục vụ hoạt động quản lý dài hạn, hàng năm và hàng tháng của Công ty theo kế hoạch kinh doanh. Bản dự toán hàng năm (bao gồm cả bản cân đối kế toán, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự kiến) cho từng năm tài chính sẽ phải được trình để Hội đồng quản trị thông qua và phải bao gồm những thông tin quy định tại các quy chế của Công ty. Thực hiện tất cả các hoạt động khác theo quy định của Điều lệ này và các quy chế của Công ty, các nghị quyết của Hội đồng quản trị, hợp đồng lao động của Tổng giám đốc điều hành và pháp luật. Ông Nguyễn Mạnh Hào là thành viên HĐQT kiêm Tổng giám đốc công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, do đó hoạt động của ông Hào với vai trò là Tổng giám đốc gắn bó chặt chẽ và có liên hệ trực tiếp với hoạt động của HĐQT. Ông Hào đã thực hiện những quyền hạn của mình như sau: Thực hiện tốt các Nghị quyết của HĐQT, các kế hoạch kinh doanh và đầu tư của công ty. Ngoài ra, Tổng giám đốc còn tham gia đàm phán với các đối tác về đầu tư, phát triển kinh doanh và công nghệ... Thay mặt công ty ký kết các hợp đồng tài chính và thương mại: Tổng giám đốc Nguyễn Mạnh Hào đã thay mặt công ty ký kết nhiều hợp đồng và dự án đầu tư với đối tác như đề án thành lập Ngân hàng TMCP Kinh Bắc, Công ty cổ phần tích hợp hệ thống VNPT, Công ty cổ phần thuỷ điện Nậm Lừm, Dự án xây dựng khu Công nghiệp 300 ha tại Hưng Yên và Hải Phòng, Dự án xây dựng khu đô thị tại trung tâm thành phố Huế ... Với tư cách là Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động của Công ty, việc ông Hào tham gia tuyển dụng các vị trí quan trọng then chốt trong công ty là không thể thiếu. Hơn nữa, chính Tổng giám đốc còn là người đề xuất lên HĐQT chế độ tiền lương, thưởng cho các vị trí này. Việc đưa ra chế độ lương thưởng xứng đáng là một nhân tố quan trọng để phát triển công ty, đồng thời duy trì nguồn nhân lực, vốn rất quan trọng khi hiện nay Công ty phải đối diện với sự cạnh tranh trực tiếp và sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công ty chứng khoán trong nước cũng như các công ty quản lý quỹ đầu tư, các quỹ đầu tư nước ngoài với chính sách lương hấp dẫn, chế độ đãi ngộ tốt hơn. Tại Công ty APEC, cùng với Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc là người phụ trách công bố thông tin và giám sát nội dung của Bản cáo bạch. Do đó các nhiệm vụ của Tổng giám đốc như: Kế hoạch kinh doanh chi tiết cho năm tài chính tiếp theo, bản cân đối kế toán, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự kiến... sẽ được Tổng giám đốc trình lên HĐQT lấy ý kiến. Khi giữ chức Tổng Giám đốc Công ty chứng khoán, Luật chứng khoán 2006, Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2006, Quy chế Tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán quy định Tổng giám đốc phải là người có bằng đại học hoặc trên đại học; có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán ít nhất ba năm và có kinh nghiệm quản lý điều hành tối thiểu ba năm; có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. Đối với những quy định này, ông Hào đã đáp ứng được đầy đủ, do đó việc kỳ vọng vào một Tổng giám đốc trẻ có tài năng và kinh nghiệm sẽ dẫn dắt công ty phát triển thành một trong ba công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam là có cơ sở. 3.3 Vai trò của Giám đốc chuyên môn nghiệp vụ và Trưởng phòng Tuy không được đề cập trong văn bản nào, nhưng trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, em thấy vai trò của những Giám đốc nghiệp vụ và các Trưởng phòng tương đối quan trọng, tựu trung lại như sau: Điều hành hoạt động của phòng, khối. Mọi hoạt động của phòng, khối đều phải được sự cho phép của Giám đốc hoặc Trưởng phòng; Quyết định những vấn đề không cần thông qua ý kiến của Tổng giám đốc Thay mặt cho Tổng giám đốc làm việc hoặc đàm phán với khách hàng nhằm thúc đẩy hoạt động của Công ty; Đề xuất lên Tổng giám đốc các vị trí nhân sự cũng như chế độ lương thưởng đối với những vị trí này; Đề xuất lên Tổng giám đốc những biện pháp thúc đẩy hoạt động của Phòng, Khối mình phụ trách; Trình lên Tổng giám đốc kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn. 4. Ban kiểm soát 4.1 Khái quát về Ban kiểm soát Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005 và điều 36 Điều lệ công ty APEC quy định: Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra, số lượng từ ba đến năm thành viên. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm và thành viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các thành viên Ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban kiểm soát. Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên. 4.2 Thành viên của Ban kiểm soát Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Ban kiểm soát. Một cá nhân sẽ được bổ nhiệm thành thành viên Ban kiểm soát khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: a) Từ 21 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật này; b) Không phải là vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác. c) Thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty. Ban kiểm soát công ty APEC hiện nay có 03 thành viên đáp ứng đủ yêu cầu trên, gồm có: 01 Trưởng ban: ông Nguyễn Nhật Quang 02 Phó trưởng ban: Bà Nguyễn Thị Mai Hương và Bà Đào Thanh Hương ( kế toán viên) 4.3. Quyền và nghĩa vụ của ban kiểm soát Với vai trò giám sát và kiểm soát hoạt động của công ty, ban kiểm soát nhìn chung có các quyền và nghĩa vụ như sau: a) Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. b) Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. c) Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị. Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hàng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. d) Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này. e) Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. f) Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. g) Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. h) Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông. Thực tế tại Công ty APEC em thấy Ban kiểm soát đã hoàn thành được những nhiệm vụ mà pháp luật quy định, có thể khái quát là: Ban Kiểm Soát đã tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của Luật Doanh Nghiệp, Điều lệ công ty và hoạt động của Công ty trong việc quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty; - Xem xét tính phù hợp của các Quyết định của Hội đồng Quản Trị, Tổng Giám đốc trong công tác quản lý; Kiểm soát trình tự, thủ tục ban hành các văn bản của Công ty phù hợp với quy định của Pháp luật và Điều lệ công ty; - Kiểm tra, đánh giá các quy trình trọng yếu của Công ty nhằm phát hiện những rủi ro tiềm tàng hoặc những thiếu sót, từ đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp phù hợp; - Tham gia các buổi họp của HĐQT, kiểm tra giám sát việc triển khai các quyết định của Đại hội đồng cổ đông đối với HĐQT, Ban Giám đốc; - Xem xét các báo cáo định kỳ do Tổng Giám đốc lập, kiểm tra, giám sát các báo cáo tài chính hàng quý nhằm đánh giá tính hợp lý của các số liệu tài chính. Đồng thời, phối hợp với Kiểm toán độc lập xem xét ảnh hưởng của các sai xót kế toán và kiểm toán trọng yếu đến báo cáo tài chính; giám sát ban lãnh đạo trong việc thực thi những kiến nghị do Kiểm toán đưa ra. Giám sát việc thực thi pháp luật của Công ty, đặc biệt là các quy định của Pháp luật về chứng khoán và TTCK, là lĩnh vực mới và được điều chỉnh bởi nhiều loại văn bản khác nhau do nhiều cơ quan ban hành. Như vậy, với một cơ cấu tổ chức bộ máy thống nhất và việc chấp hành những quy định về quyền hạn và nhiệm vụ trong quản trị nội bộ, có thể nói Công ty chứng khoán APEC về cơ bản đã chấp hành tốt các quy định của Pháp luật. Tuy nhiên công ty kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp mà còn phải chấp hành những quy định nhiều văn bản khác, do đó việc bỡ ngỡ trong việc áp dụng luật cũng như chưa hiểu rõ về luật là không thể tránh khỏi. Nhưng với đội ngũ lãnh đạo và cán bộ nhân viên giàu kinh nghiệm, có trình độ, nhiệt tình thì chắc chắn công ty APEC sẽ thực hiện tốt quy định của Pháp luật, phát triển không ngừng và trở thành một trong ba công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam như mục tiêu đã đề ra. Chương III: Một số nhận xét về tình hình thực hiện quy định của Pháp luật về quản trị công ty chứng khoán và kiến nghị để hoàn thiện hệ thống Pháp luật 1. Nhận xét về tình hình thực hiện các quy định về quản trị nội bộ tại công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương nói riêng và các công ty chứng khoán nói chung Quản trị nội bộ là một yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp, thông thường quản trị nội bộ được điều chỉnh bởi 4 vấn đề cơ bản sau: Cơ cấu tổ chức, quản lý tài chính, quản lý hoạt động và quản lý nhân sự. Những vấn đề này lại được điều chỉnh trong những văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, cụ thể ở Việt Nam là Luật Doanh nghiệp. Riêng đối với CTCK áp dụng thêm các điều khoản có trong Luật Chứng khoán, nghị định 14/ NĐ- CP, quyết định 27/ QĐ- BTC và các văn bản có liên quan khác. Mặc dù đã có văn bản điều chỉnh nhưng không phải CTCK nào cũng làm tốt những điều mà pháp luật quy định. 1.1 Về cơ cấu tổ chức: Khoản 1 điều 59 luật CK quy định : "Công ty chứng khoán,công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán( sau đây gọi là công ty quản lý quỹ) được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp". Như vậy ở Việt Nam chỉ có 2 loại hình mà CTCK có thể đăng ký thành lập là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. Các công ty cổ phần được hình thành nhờ phần vốn góp của các cổ đông, trong khi đó các công ty TNHH thường là công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại( NHTM ). Có thể kể tên vài công ty cổ phần chứng khoán tiêu biểu như : CTCK Sài Gòn( SSI ), CTCK Bảo Việt( BVSC), CTCK Châu Á Thái Bình Dương( APEC )… còn loại hình TNHH thì có thể kể đến : CTCK Vietcombank( VCBS ), CTCK Ngân hàng đầu tư phát triển( BSC ), CTCK Sacombank( SBSC )… Mỗi loại hình công ty đều có mặt mạnh và mặt yếu riêng, ta có thể so sánh trong 2 mô hình sau : DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU ĐẦU TƯ & BẢO LÃNH PHÁT HÀNH HÀNH CHÍNH TÀI CHÍNH KẾ TOÁN TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ VỐN PHÁT TRIỂN KINH DOANH HỘI SỞ CHI NH¸NH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT BAN GIÁM ĐỐC ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG VP TRỢ LÝ HĐQT Mô hình CTCK cổ phần Mô hình CTCK là công ty TNHH Ưu điểm của loại hình công ty cổ phần là với cơ cấu đa sở hữu, HĐQT chịu trách nhiệm trước các cổ đông về hoạt động của công ty nên yếu tố kiểm soát chặt chẽ hơn. Đa số các CTCK hoạt động tại Việt Nam hiện nay đều theo cơ cấu sở hữu này. Tuy vậy, cơ cấu tổ chức của các công ty không phải nơi nào cũng giống nhau, có nơi trao phần lớn quyền lực cho HĐQT, có nơi lại để mọi quyền quyết định cho Ban giám đốc khiến cho sự ràng buộc giữa HĐQT và Ban giám đốc còn chồng chéo và lỏng lẻo, có công ty còn không có sự phân cấp rõ ràng giữa 2 cơ quan trên, hoặc có sự thay đổi về cơ cấu mà không thông báo theo quy định của Pháp luật. Vụ việc CTCK Thiên Việt đầu năm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxQT01.docx
Tài liệu liên quan