Đề tài Phương hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) Tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 2001-2005

Tài liệu Đề tài Phương hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) Tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 2001-2005: Lời nói đầu TTCN trong nền kinh tế Việt Nam ngày nay có vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , giải quyết việc làm , phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo cũng như khôi phục , phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ... Với Việt nam là nước có mật độ dân số cao trên thế giới, với hơn 80% số dân ở khu vực nông thôn, và chiếm 73 % lực lượng lao động, chứa đựng một tiềm năng kinh tế lớn đó là nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, và nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống ... Tuy nhiên, đời sống dân cư nông thôn vẫn trong tình trạng đói nghèo, lạc hậu là phổ biến, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn về các mặt kinh tế văn hoá... còn chênh lệch lớn. Đây là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế chung của cả nước. Do vây Việt nam cần có một sự xác định và đánh giá đúng đối với thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp (gọi tắt là TTCN ) trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện tại và trong tương lai , để tận dụng tối ưu lợi ...

doc81 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 997 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phương hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) Tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 2001-2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu TTCN trong nền kinh tế Việt Nam ngày nay có vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , giải quyết việc làm , phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo cũng như khôi phục , phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ... Với Việt nam là nước có mật độ dân số cao trên thế giới, với hơn 80% số dân ở khu vực nông thôn, và chiếm 73 % lực lượng lao động, chứa đựng một tiềm năng kinh tế lớn đó là nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, và nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống ... Tuy nhiên, đời sống dân cư nông thôn vẫn trong tình trạng đói nghèo, lạc hậu là phổ biến, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn về các mặt kinh tế văn hoá... còn chênh lệch lớn. Đây là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế chung của cả nước. Do vây Việt nam cần có một sự xác định và đánh giá đúng đối với thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp (gọi tắt là TTCN ) trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện tại và trong tương lai , để tận dụng tối ưu lợi thế về tài nguyên nhân văn, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động... Trên cơ sở đó rút ngắn khoảng cách giàu nghèo ở khu vực thành thị và nông thôn, tránh tình trạng di dân tự do, giải quyết vấn đề xã hội, mặt khác đó còn là điều kiện để phát huy và khôi phục bản sắc văn hoá dân tộc... Từ những nhận định đó Nghị Quyết Đại Hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị tứ liên kết với công nghiêp tập trung, phát triển các làng nghề truyền thống làm hàng xuất khẩu, mở mang cá loại hình dịch vụ ...". Xuất phát từ đặc điểm cụ thể : Hà Tây là một Tỉnh diện tích không rộng, dân cư đông đúc, khu vực nông thôn chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh . Nhưng cạnh đó lại có ưu thế về phát triển Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp. Đặc biệt là ưu thế phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. Điều đó đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu phương hướng và giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) nông thôn, thị tứ, thị trấn, mở mang các làng nghề và các loại hình dịch vụ để thu hút lao động nông nhàn, trên cơ sở bố trí hợp lý cơ cấu trên từng địa bàn. Đây là một hướng đi rất quan trọng nhằm giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng vạn lao động khu vực nông thôn, thị trấn, thị tứ và đô thị. Với nhận thức đó, trong thời gian về thực tập tại Sở kế hoạch -Đầu tư Tỉnh Hà Tây, được sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của GS_TS Vũ Thị Ngọc Phùng và các cán bộ Sở kế hoạch -Đầu tư tôi đã chọn đề tài :"Phương hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) Tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 2001-2005 ". Nội dung đề tài bao gồm: ChươngI. Vai trò TTCN trong phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây. Chương II. Thực trạng phát triển TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Chương III. Phương hướng phát triển TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2005. Tuy nhiên, do khả năng và kinh nghiệm cũng như thời gian còn hạn chế , cho nên không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy tôi rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy cô trong khoa và các cán bộ Sở kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Hà Tây để bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! chương I vai trò của tiểu thủ công nghiệp trong phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây I/ vai trò của tiểu thủ công nghiệp trong phát triển kinh tế 1/ Khái niệm chung TTCN và đặc trưng sản xuất TTCN. 1.1. Hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp (TTCN) là một lĩnh vực sản xuất có quan hệ với sản xuất công nghiệp, TTCN được coi là một lĩnh vực vừa độc lập, vừa phụ thuộc với công nghiệp. Xét về trình độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất, thì TTCN, chính là hình thức phát triển sơ khai của công nghiệp. Trong quá trình phát triển lịch sử, ngành công nghiệp đã trãi qua hình thái tiểu thủ công nghiệp, ở đây tiểu thủ công nghiệp có thể là :Thủ công nghiệp và Tiểu công nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp phát sinh và phát triển cùng con người và xã hội loài người, ở các xã hội tiền tư bản cái gọi là sản xuất tiểu thủ công nghiệp đảm bảo toàn bộ các sản phẩm lao động và tiêu dùngcủa con người , trừ các sản phẩm nông nghiệp. Với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại ngày nay, thì tiểu thủ công nghiệp cần được xác định rõ ràng hơn. *Thủ công nghiệp. Về mặt sản xuất, thủ công nghiệp là hình thái phát triển của công cụ lao động lao động từ thô sơ bằng tay đến nữa cơ khí kết hợp máy móc hiện đại, năng xuất lao động ngày càng cao, sản xuất nhiều hàng hoá. Về mặt quan hệ sản xuất, đó là sự phát triển từ quan hệ thợ bạn, phường hội, tới quan hệ chủ sưởng và nhân công làm thuê. Công nghiệp ra đời và phát triển theo một quá trình từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, không phải đột nhiên thay thế toàn bộ nền sản xuất thủ công nghiệp. Vì vậy ta thấy rằng tất nhiên phải xuất hiện hai tình trạng. Một là : Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các ngành sản xuất này. Hai là : Sự tồn tại và phát triển song song của cả hai hình thức sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Những điều kiện nêu trên cho thấy, thủ công nghiệp là hình thái phát triển đầu tiên của sản xuất công nghiệp. Trong quá trình phát triển của mình nó đã trãi qua các hình thức. + Thủ công nghiệp gia đình + Thủ công nghiệp đặt hàng + Thủ công nghiệp thị trường *Tiểu công nghiệp Như tên gọi của nó, tiểu công nghiệp chỉ những đơn vị sản xuất công nghiệp với quy mô nhỏ, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp khó tách biệt với nhau, Tiểu công nghiệp là hình thức phát triển cao hơn của thủ công nghiệp trong điều kiện phát triển công nghiệp ngày nay. Có thể quy ước khái niệm: tiểu công nghiệp là cơ sản xuất nhỏ, có bao nhiêu công nhân, có bao nhiêu lợi tức ?. Đơn vị đó chỉ có thể tiến hành sản xuất bằng kỹ thuật thủ công hoặc kết hợp kỹ thuật cơ giới với những trình độ khác nhau. Trong thực tế nước ta : Tiểu công nghiệp được hiểu là những cơ sở sản xuất công nghiệp không thuộc thành phần kinh tế quốc doanh, nhưng đã được trang bị những kỹ thuật, cơ giới hoá một bộ phận quy mô nhỏ. Đứng trên góc độ xem xét khác nhau, đã có nhiều khái niệm về tiểu thủ công nghiệp. Ngoài những định nghĩa về quy mô tổ chức mà ta đã trình bày ở trên, thông qua xem xét thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, còn có những khái niệm, định nghĩa thuộc về mặt tiêu thụ sản phẩm mà Lê Nin đã chia tiểu thủ công nghiệp nước Nga thời kỳ phát triển tư bản thành ba loại. Loại 1: Người thợ thủ công tự bán sản phẩm ra thị trường. Loại 2: Người thợ thủ công san xuất theo đơn đặt hàng của người tiêu dùng. Loại 3: Người thủ công sản xuất cho chủ bao mua hay chủ xưởng. Trong điều kiện hiện nay có thể đưa ra khái niệm TTCN như sau: Khái niệm: "Tiểu thủ công nghiệp (TTCN) bao gồm toàn bộ cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ, được tiến hành bằng các kỹ thuật thủ công kết hợp với máy móc cơ khí , chuyên sản xuất các mặt hàng tiêu dùng phi nông nghiệp truyền thống được tiến hành sản xuất ở nông thôn, ở các làng nghề, thị trấn, thị tứ và đô thị. " 1.2. Đặc trưng sản xuất TTCN. Nếu chỉ xét một cách tổng quát thì công nghiệp và TTCN có những nét tương đồng, được cụ thể trong việc sản xuất các mặt hàng phi nông nghiệp,và không chựu sự tác động của điều kiện tự nhiên cũng như tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp... Nhưng nếu xét về trình độ sản xuất cũng như trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, thì công nghiệp và TTCN có nhiều đặc điểm khác nhau. Nghiên cứu đặc trưng của sản xuất TTCN ở đây là ta đi nghiên cứu sự khác nhau đó. Thứ nhất: Đặc trưng của sản xuất TTCN được thể hiện đơn giản về kỹ thuật sản xuất.Nếu như nền công nghiệp lớn được đặc trưng bằng những kỹ thuật sản xuất hiện đại và được đổi mới thường xuyên thì tiểu thủ công nghiệp với hai hình thức sản xuất là : Tiểu công nghiệp và Thủ công nghiệp, lại được sản xuất trên cơ sở đơn giản về kỹ thuật sản xuất và đôi khi nó mang tính truyền thống trong một khoảng thời gian tương đối dài. ở đây sự tham gia của máy móc nhiều khi không mang tính quyết định đối với khả năng cạnh tranh cuả mỗi cơ sở sản xuất trong cơ chế thị trường. Thứ hai : Đặc trưng của sản xuất TTCN còn thể hiện qua tính linh hoạt trong sản xuất, có thể thay đổi máy móc nhanh chóng trong việc kết hợp sản xuất mặt hàng phi nông nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm đơn giản trong kỹ thuật sản xuất cho nên TTCN rất linh hoạt về sản xuất. Phần nhiều máy móc được sử dụng trong hoạt động sản xuất TTCN là máy động lực và máy móc phổ thông, do đó việc chuyển từ sản xuất mặt hàng này sang sản xuất mặt hàng khác là việc đơn giản. Thêm vào đó vốn đầu tư cũng như vốn sản xuất trong TTCN là nhỏ, do vậy những cản trở vào và ra của ngành là không đáng kể. Điều đó tạo ra một sự linh hoạt và tính mềm dẻo của các lĩnh vực sản xuất TTCN. Thứ ba : Đặc trưng về sản suất TTCN còn được thể hiện qua sự gọn, nhẹ về quản lý. Với hình thức sản xuất chủ yếu là cá thể và hộ gia đình, cao hơn là hình thức tổ chức hợp tác xã. Đây là hình thức sản xuất quy mô nhỏ, một người có thể kiêm nhiều vị trí, vừa làm quản lý vừa trực tiếp tham gia sản xuất. Công tác điều hành quản lý ở đây nhiều khi mang tính kinh nghiệm, không đòi hỏi phức tạp như công tác quản lý các doanh nghiệp quy mô lớn. Mặt khác, đặc trưng sản xuất TTCN còn thể hiện tính dễ dàng trong tổ chức sản xuất. Thứ nhất do sản phẩm ngành TTCN đơn giản về hình thức, không đòi hỏi độ chính xác quá cao, nên việc tổ chức không không đòi hỏi tính phức tạp. Thứ hai, do hình thức sản xuất chủ yếu là hộ gia đình, với quy mô nhỏ nên việc tổ chức phân công công việc đơn giản, nên mọi mọi thành viên có thể hỗ trợ cho nhau, thay thế nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa mỗi cơ sở sản xuất thường chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm có quy trình và cách thức sản xuấtnhất định. Chính vì vậy việc tổ chức sản xuất không đòi hỏi độ phức tạp như khi sản xuất nhiều sản phẩm. Trên đây là một số đặc trưng của sản xuất TTCN , nghiên cứu vấn đề này cho phép phân biệt giữa sản xuất TTCN với lĩnh vực sản xuất vật chất khác, tạo điều kiện cho việc đề ra các phương hướng và giải pháp phát triển TTCN 2.Vai trò của TTCN trong phát triển kinh tế xã hội. 2.1 Vai trò TTCN với phát triển kinh tế đất nước. *TTCN với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Khu vực kinh tế nông thôn và khu vực kinh tế thành thị, sự khác biệt ở hai khu vực này không đơn thuần ở các đặc trưng của ngành, mà còn có sự khác biệt ở vị trí địa lý và lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội. Mặc dù vậy nghiên cứu sự tác động của TTCN đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở đây chúng ta chỉ giới hạn trong cơ cấu ngành kinh tế ở khu vực này. Thứ nhất: Sự phát triển của TTCN nó sẽ cho phép tăng tỷ trọng của CN_TTCN và kích thích phát triển dịch vụ ở khu vực thành thị - nông thôn, tạo ra cơ hội thu hút lao động và tăng thu nhập khi tham gia hoạt động TTCN , nhờ đó mà tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm dần... Thứ hai : TTCN có tác động tới mối tương quan giữa các ngành trên địa bàn khu vực nông thôn. Nhờ có sự phát triển TTCN mà có phát triển hơn trong quan hệ CN_NN_dịch vụ. Việc tạo ra sản phẩm TTCN sẽ kích thích trao đổi giữa các địa bàn, khu vực trong và ngoài nước, tạo ra sự phát triển dịch vụ. Ngoài ra TTCN còn là lực lượng sản xuất (LLSX) cho lĩnh vực nông nghiệp (NN) phát triển... Điều đó chứng tỏ sự phát triển TTCN tạo điều kện cho sự phát triển CN-NN-DV tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực ở nông thôn Việt Nam. * TTCN với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cũng như các ngành kinh tế khác TTCN có vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trước hết là ngành đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân, do đó sự gia tăng về sản lượng của TTCN là nhân tố tạo ra tạo ra sự tăng trưởng cho toàn nền kinh tế quốc dân. Mặt khác sự phát triển TTCN nông thôn còn tác động tích cực đối với nông nghiệp như trong chế biến sản phẩm, điều đó cho thấy phát triển TTCN nông thôn sẽ tạo ra tác động kép trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thêm vào đó TTCN còn đóng góp lớn trong thu nhập dân cư, giảm đáng kể tệ nạn xã hội..., mặt khác sự phát triển TTCN còn tạo ra sự phát triển giao lưu giữa hai khu vực thành thị và nông thôn theo hướng tích cực trong việc giảm bớt chênh lệch về thu nhập và đời sống... Từ những nhận định trên cho thấy TTCN có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và cả nước. * TTCN với giải quyết vấn đề xã hội. Vấn đề việc làm. Với đặc điểm sản xuất nông nghiệp là theo mùa vụ lao động chỉ tập trung vào một số tháng trong năm, vì vậy đã dẫn đến thất nghiệp trá hình, thất nghiệp theo mùa vụ. Điều này đã trở thành vấn đề bức xúc trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn được mô hình của OSHIMA (Nhật Bản) chỉ rỏ. Ngoài những đặc điểm trên thì sản xuấtnông nghiệp còn gặp phải một khó khăn nữa đó là việc mở rộng sản xuất nông nghiệp luôn có giới hạn về tài nguyên đất nông nghiệp, đây là tài nguyên đang bị khan hiếm. Cho đến nay lao động trong khu vực này hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng do hạn chế về ruộng đất, đất canh tác bị mất dần, do dùng cho việc phục vụ các lĩnh vực như xây dựng công trình công cộng, nhà ở, công trình giao thông, ... Thêm vào đó là tốc độ tăng dân số ở nông thôn qúa nhanh, do trình độ dân trí và phong tục tập quán... Đã làm cho mật độ dân cư nông thôn ngày một tăng cao. Điều đó đã dẫn đến tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn. Để giải quyết vấn đề này thì việc chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế là hết sức hợp lý, phát triển TTCN nông thôn sẽ cho phép xen kẽ thời gian nhàn rỗi trong năm của khu vực sản xuất nông nghiệp trong năm. Mặt khác với khu vực thành thị thì đội quân thất nghiệp là tương đối lớn, nó bao gồm cả lực lượng thất nghiệp tại thành thị và cả đội quân thất nghiệp di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, hiện tại đội quân thất nghiệp ở thành thị là qúa tải, hơn nữa các xí nghiệp công nghiệp ở khu vực thành thị không có khả năng thu hút hết lực lượng lao động ở khu vực này. Chính vì thế việc phát triển TTCN sẽ mở ra một cơ hội cho việc giải quyết việc làm ở thành thị và ở nông thôn, từ đó có thể giải quyết tốt vấn đề di cư tự do từ nông thôn ra thành thị... Vấn đề xoá đói giảm nghèo. Hiện nay cả nước tỷ lệ đói nghèo của các hộ gia đình vẫn chiếm một tỷ lệ cao, đối tượng này tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, nơi mà khả năng mở rông sản xuất còn hạn chế, tỷ lệ dân số cao, trình độ dân trí thấp...Các nguyên nhân đó dẫn đến thu nhập bình quân của các hộ là thấp so với khu vực thành thị, điều đó dẫn đến các hộ lâm vào tình cảnh nghèo nàn lạc hậu là lẽ dĩ nhiên. Nhìn một cách tổng thể vào ngành kinh tế lớn NN, CN_TTCN và DV , có thể thấy dịch vụ là ngành phi sản xuất vật chất, điều đó cho thấy vai trò của NN và CN_TTCN là hết sức to lớn trong việc tạo lương thực, thực phẩm , đồ dùng sinh hoạt... Trong khi NN bị giới hạn về đất đai sản xuất, do đó việc phát triển CN-TTCN có vai trò quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo thông qua việc tăng năng xuất và sản lượng trong ngành mình cũng như các ngành liên quan, tạo ra thu nhập, tăng cao mức sống nhân dân, dần dần xoá đói giảm nghèo khu vực nông thôn và cũng là điều kiện đễ giảm bớt chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn, điều đó cho thấy vai trò của TTCN cũng không kém phần quan trọng trong xoá đói giảm nghèo, đặc biệt khu vực nông thôn Việt Nam. 2.2 Vai trò của TTCN trong phát tiển kinh tế Hà Tây . Hà Tây nổi tiếng là đất trăm nghề có truyền thống phát triển từ ngàn xưa , nơi đây lại có thuận lợi về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan di tích lịch sử . Tuy nhiên hiện nay, thu nhập đầu người còn thấp so với mức bình quân chung của cả nước, hơn nữa lại có trên 90% dân số ở khu vực nông thôn, trong đó 80% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều đó cho thấy vai trò của TTCN là quan trọng trong giải quyết vấn đề việc làm , chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo..., đặc biệt là khu vực nông thôn Hà Tây hiện nay. Thật vậy ta có thể thấy vai trò của TTCN cụ thể như sau: - Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp là biện pháp có hiệu quả để khai khác tốt nguồn lao động dồi dào của Hà Tây . Với phần đông dân số ở nông thôn, song do nguồn lực đất đai có hạn và việc mở rộng đất đai khu vực nông nghiệp là khó khăn, điều đó phát triển TTCN Hà Tây là cần thiết để tận dụng tốt lợi thế nguồn lực lao động của mình. Thêm vào đó việc thu hút lao động vào các ngành nghề trong các xí nghiệp công nghiệp là có hạn, việc phát triển TTCN có nhiều khả năng tận dụng lao động tại chổ hơn... Điều đó cho thấy TTCN có vai trò quan trọng trong giải quyết lao động, việc làm ở Hà Tây hiện nay. -Đẩy mạnh phát triển TTCN cho phép khai khác và phát huy kỹ năng truyền thống của thợ thủ công theo hướng hiện đại hoá. Thủ công nghiệp ở nước ta và Hà Tây hiện sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá khác nhau. Trải qua quá trình sàng lọc lâu dài, các ngành nghề thủ công tồn tại đến nay vẫn còn thích hợp. Song nếu chúng ta biết kết hợp kỹ thuật truyền thống, cổ truyền với kỹ thuật hiện đại, hướng tài nghệ của người thợ thủ công vào những đề tài mới phục vụ sản xuất và đời sống, Hà Tây sẽ làm ra nhiều hàng hoá có giá trị kinh tế lớn. Như trong việc làm hàng mỹ nghệ, trạm trổ, Điêu khắc... Thủ công nghiệp không chỉ có khả năng đáp ứng hàng tiêu dùng thông thường trong nứơc, tỉnh mà còn có thể xuất khẩu. - Đẩy mạnh TTCN còn cho phép tận dụng mọi nguyên liệu rải rác, phân tán trên toàn tỉnh Hà Tây. Đối với tiểu thủ công nghiệp hiện nay có hai nguồn nguyên liệu chính, quan trọng, có thể đẩy mạnh khai thác. Nguồn thứ nhất lấy từ nông nghiệp, lâm nghiệp...gồm các nguyên liệu động thực vật hoặc khai thác từ các nguyên liệu thiên nhiên. Nguồn thứ hai lấy từ phế liệu các xí nghiệp và trong đời sống. Nguồn nguyên liệu lấy từ nông nghiệp, lâm nghiệp...gồm các nguyên liệu động thực vật. Nguồn này có nhiều khả năng tiềm ẩn. Chẳng hạn bẹ ngô dùng làm thảm, đó là mặt hàng đang được khách hàng nước ngoài ưa chuộng nếu tận dụng được nguồn nguyên liệu này từ diện tích nông nghiệp Hà Tây sẽ tạo ra thuận lợi cho sản phẩm và khối lượng mặt hàng TTCN hiện nay. Nguồn phế liệu từ các xí nghiệp lớn và trong nhân dân cũng là một cơ sở nguồn nguyên liệu lớn của TTCN, chẳng hạn sắt thép, bông vụn, sợi rối, bông vụn... ở các xí nghiệp công nghiệp trên địa bàn là rất nhiều. Nếu tận dụng được phế liệ đó sẽ thuận lợi cho phát triển TTCN tận dụng tối ưu nguyên liệu phân tán. - Phát triển TTCN là giải pháp nhằm phát huy tối đa nguồn vốn, trình độ lao động vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Khác với công nghiệp quốc doanh, TTCN xây dựng trên cơ sở sở hữu tập thể, người lao động góp công, của vào làm ăn chung. Đời sống của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh. họ có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đời sống. Cho nên nếu được hướng dẫn đúng đắn của tỉnh, nhà nước, TTCN có nhiều khả năng tự đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, điều đó sẽ phát huy tốt nguồn vốn hiện có trong dân, vừa phát huy tinh thần tự lực, tự cường của thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, vừa tạo điều kiện cho tỉnh Hà Tây đầu tư vào công trình trọng điểm, trong khi nguồn vốn từ ngân sách còn hạn hẹp và thực trạng những năm qua còn lâm vào tình cảnh thâm hụt. Với HàTây, nơi đây là đất trăm nghề, với nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú phân bố rộng khắp trong cả tỉnh. Mặt khác nơi đây còn có lợi thế nhiều mặt về vị trí địa lý, tài nguyên cảnh quan di tích lịch sử...Song một lợi thế quan trọng mà không thể không kể đến đó là tài nguyên con người, thể hiện qua trình độ giáo dục (21%có trình độ cấp III, 62% có trình độ cấp II), thêm vào đó là trình độ tay nghề của lao động trong khu vực làng nghề (117.000lao động)...Do đó việc tận dụng tối da nguồn lực sẽ cho phép Hà Tây giải quyết tốt vấn đề lao động... - Phát triển TTCN sẽ phát huy tốt lợi thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dây chuyền thiết bị đơn giản. Chính vì vậy việc tổ chức gọn nhẹ, tạo ra ưu thế năng động linh hoạt, có thể thay đổi nhanh các mặt hàng và phương hướng kinh doanh., do đó có thể đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường... Tóm lại với những yếu tố trên việc phát phát triển TTCN trên địa bàn Hà Tây sẽ giải quyết tốt vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Hà Tây, mặt khác nó giải quyết tốt vấn đề xã hội, như việc làm và giảm bớt khoảng cách giàu nghèo khu vực thành thị cũng như nông thôn. Do các đặc điểm của sản xuất TTCN, chúng ta nhận thấy rằng sản xuất TTCN rất phù hợp trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta, đặc biệt là khu vực nông thôn, vì vậy ta có thể thấy vai trò của TTCN cụ thể như sau: II. TTCN việt nam Và Một số nghề truyền thống Hà Tây . 1.Quá trình phát triển TTCN Việt Nam 1.1. Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1954-1975 ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng, do tác động của chủ nghĩa thực dân mới, sản xuất TTCN hình thành hai dạng khác nhau ở thành thị và nông thôn. ở thành thị, TTCN phát triển hai dạng : Một là tập trung thành những xưởng nhỏ được cơ giới hoá cao, hai là phân tán theo theo hộ gia đình theo tính chất tự sản tự tiêu. Còn nông thôn bị triệt tiêu quá nhiều cơ sở thủ công nghiệp cổ truyền, kể cả những nông cụ làm gạch, vôi, sành, sứ, đồ mộc, đan lát... Điều đó cho thấy sự kìm hãm tàn khốc của chế độ thực dân. ở miền Bắc giai đoạn này được giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội , TTCN cũng cũng bắt đầu được khôi phục và khuyến khích . Đảng đã nhận định " cải tạo thủ công nghiệp theo hướng XHCN là điều kiện cơ bản cho thủ công nghiệp có thể dần dần xoá bỏ những mặt lạc hậu, phát huy mạnh mẻ mặt tích cực theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân và thợ thủ công". Một số ngành nghề TTCN được phát triển thời kỳ 1954-1975 là + Nghề dệt: tập trung chủ yếu ở Hà Tây và Bắc Ninh , Nam Định + Nghề gốm : tập trung chủ yếu ở thanh Hoá và các khu vực thuộc đồng bằng sông Hồng ( Hà Nội, Hà Đông...) + Nghề kim khí : Tập trung chủ yếu ở các thành phố thị xã, đô thị lớn ( Thể hiện như nghề làm bát sắt bút thuỷ tinh , xe thồ ở Hà Nội, nghề làm gọng ô bằng thép ở, vành xe đạp ở Hà Tây, làm khoá ở Hải Phòng...) + Nghề thủ công mỹ nghệ (bàn ghế , giường, tủ ,điêu khắc...) tập trung chủ yếu ở Hà Nội , Hà Đông, Bắc Ninh và Thanh Hoá + Nghề hàng xáo, tập trung ở tất cả các tỉnh đồng bằng sông Hồng và thanh Hoá, Ninh bình. + Ngoài ra còn những ngành nghề sản xuất bìa, giấy mầu (Hà Đông, Bắc Ninh ) nghề làm mực viết, nghề làm đèn thắp ở Hà Nội, nghề bóng đèn ở Huế, thuốc tẩy Sài Gòn... + Vật liệu xây dựng (gạch, ngói, đá, thuỷ tinh...) tập trung chủ yếu ở Ninh Bình , Thanh Hoá . 1.2. Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1975 đến nay. Với thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp chống mỹ sau này, thì nhiệm vụ chiến lược của Việt Nam là tổ chức quản lý đất nước đã độc lập, thống nhất tiến lên XHCN và đáp ứng yêu cầu của việc khôi phục phát triển kinh tế trong giai đoạn mới lúc này Đảng đã xác định "cần ra sức phục hồi và phát triển tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, chú ý nghề thủ công và mỹ nghệ truyền thống ".Điều đó cho thấy sau khi thống nhất đất nước thì TTCN vẫn là ngành được chú trọng phát triển kinh tế Việt Nam và cụ thể tính đến năm 1983 TTCN cả nước làm ra 6,2 tỷ đồng, giải quyết gần triệu lao động, chiếm 72% sản lượng công nghiệp địa phương. TTCN Việt Nam tiếp tục được phát triển trên tất cả các miền quê tổ quốc , song phát triển mạnh nhất vẫn là miền Bắc sau đó đến miền nam và cuối cùng là miền trung. Các nghành phát triển chủ yếu là : + Ngành dệt, may. + Ngành thủ công mỹ nghệ. + Ngành chế biến thực phẩm. + Ngành kim khí (rèn dao, thuổng , búa...). + Ngành vật liệu xây dựng , gốm sứ thuỷ tinh. + Ngoài ra còn có một số nghề , như làm giấy , vẽ tranh... tập trung chủ yếu ở miềnbắc ( Hà Tây , Bắc Ninh, Nam Hà ). * Kết quả đạt được. Tốc độ phát triển TTCN ở một số vùng, đặc biệt là vùng nông thôn thời gian qua tương đối nhanh. Từ khi có luật đất đai, tốc độ tăng trưởng bình quân 10-11%/năm trong năm 1991-1995, giá trị sản lượng của TTCN tăng bình quân 7,8%/năm. Trong đó vùng Đông nam bộ tăng nhanh 18,3 %/năm, vùng đồng bằng sông Hồng tăng chậm 3,7%/năm - Các làng nghề truyền thống bước đầu được phục hồi, nghề và làng nghề mới đang phát triển. Theo số liệu tổng hợp từ sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện nay cả nước có 1000làng nghề, trong đó có 2/3 làng nghề truyền thống. Những tỉnh có nhiều có nhiều làng nghề như tỉnh Hà Tây, Nam Định, Thanh Hoá...mỗi tỉnh có tới 60-80 làng nghề. -TTCN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, nông thôn, thị trấn, thị xã... Bình quân một một cơ sở chuyên ngành nghề, tạo việc làm ổn định cho cho 27 lao động, mỗi hộ nghề có 4-6 lao động, ngoài số lao động sử dụng thường xuyên, hộ còn thu hút thêm lao động nhàn rỗi ở nông thôn (2-5 người / hộ và 8-10người/cơ sở ), đặc biệt là nghề dệt, thêu ren, một cơ sở có thể thu hút 200-250lao động. Hiện nay TTCN ở khu vực nông thôn giải quyết việc làm cho 4-6 lao động/ hộ và tạo điều kiện phát triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Thu nhập của lao động chuyên TTCN ở nông thôn cao hơn thu nhập lao động thuầnnông khoảng 4-6 lần. * Những hạn chế tồn tại. -Quy mô nhỏ, kinh tế hộ là phổ biến. Hiện nay, cả nước có khoảng 1,35 triệu hộ và cơ sở chuyên ngành nghề. trong đó cơ sở chuyên chỉ chiếm 3%. Bình quân lao động thường xuyên của cơ sở TTCN là 20 người, một hộ là 4-6 người. - Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của người lao động làm tiểu thủ công nghiệp còn thấp. cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn. Có tới 55% lao động chuyên chưa qua đào tạo, 36% không có chuyên môn kỹ thuật, chỉ có 20% cơ sở có nhà xưởng kiên cố. Máy móc thiết bị phần lớn đơn giản, cũ kỹ, thải loại từ công nghiệp thành phố, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh môi trường. -Vốn nhỏ bé, chủ yếu là tự có (bình quân vốn của cơ sở là 700 triệu đồng, một hộ chuyên là 28 triệu đồng ). -Chất lượng sản phẩm thấp, đơn điệu, mẫu mã, bao bì chưa hấp dẫn, sức cạnh tranh yếu, hơn 90%sản phẩm tiêu thụ trong nước. Chưa tìm được thị trường xuất khẩu ổn định - Tình trạng chất thải của TTCN không được xử lý, gây ôi nhiểm môi trường nhất là nhất là ở nông thôn và làng nghề. Tình trạng khai thác bừa bải nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển tiểu thủ công nghiệp. VD ở Triệu Sơn Thanh Hoá, việc khai thác quặng sắt ở mỏ Cổ Định làm lảng phí rất lớn tài nguyên thiên nhiên và gây ra ô nhiểm mất cân bằng sinh thaí khu vực này. - Do sự biến động về chính trị nên một số thị trường (Nga , Châu âu...) đã bị thu hẹp trong những năm 1990, khủng khoảng kinh tế thời gian gần đây có tác động xấu đến việc xuất khẩu mặt hàng TTCN, chủ yếu là thủ công mỹ nghệ ở khu vực châu á. 2. Nghề và làng nghề truyền thống Hà Tây . Hà Tây là một tỉnh có nhiều điều kiện trong phát triển tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là phát triển các làng nghề . Có thể thấy Hà Tây là đất trăm nghề đặc biệt từ năm 1986 đến nay, nhờ chủ trương phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và nhà nước, các ngành nghề, các làng nghề truyền thống dần dần được hồi phục và phát triển, (hiện tại trên địa bàn có 106 làng nghề truyền thống, giải quyết trên 10 vạn lao động đặc biệt khu vực nông thôn), đồng thời đã xuất hiện nhiều ngành nghề mới, có quy mô và hình thức tổ chức khác nhau, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các chương trình xoá đói giảm nghèo, đã làm tăng thu nhập cho người dân nông thôn, hạn chế trào lưu di dân ra thành thị để tìm việc làm. Hà Tây cũng như cả nước có TTCN phát triển phục vụ nhiều mặt cho phát triển đời sống xã hội, TTCN Hà Tây đã đạt được một trình độ điêu luyện mang đậm nét bản sắc, tinh thần dân tộc. Theo tài liệu của TTCN Việt Nam thì ở Hà Tây thợ thủ công chủ yếu tập trung ở hai bờ sông Đáy tức là phía tây nam tỉnh,bao gồm hai huyện Thanh Oai và ứng Hoà. Huyện Thanh Oai số thợ thủ công tập trung nhiều nhất, số người làm thợ ở đây chiếm 29% lao động toàn huyện, chủ yếu là nghề Dệt vải,làm quạt, đan lát mành, ...Đứng sau huyện Thanh Oai là ứng hoà có tới 19% lao động huyện tham gia trong TTCN làng nghề. Nhìn chung Hà Tây khắp nơi nhân dân đều làm nghề thủ công. Nghề thủ công ở đây rất đa dạng, gần như nghề nào cũng có và phát triển tuy ở mức độ khác nhau. Như vậy không có nghĩa là nghề thủ công Hà Tây không hình thành các trung tâm, các làng chuyên, mà trái lại ở Hà Tây khá nhiều trung tâm và làng chuyên, có làng chỉ chuyên một nghề, như làng la Khê ( chuyên dệt the, vân, xuyến ),làng vạn Phúc ( chuyên dệt vân, the, gấm ), làng Phú Vinh ( chuyên đân lát ).. Nhưng cũng trong một làng lại tập rung khá nhiều nghề, như làng Triều Khúc ( nay là thôn Triều Khúc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đến nay thủ công nghiệp làng này vẫn phát triển ). Làng này có đến 40 làng nghề thủ công khác nhau. Mặc dù vậy nghề thủ công ở Hà Tây rất đa dạng nhưng phải nói nghề quan trọng và nổi tiếng nhất vẫn là nghề tơ dệt lụa, các sản phẩn lụa vân, lĩnh, the,...của Hà Tây nỗi tiếng không những thị trường trong nước mà cả thị trường thế giới. Ngoaì ra còn phải kể đến nghề đan lát ở Hà Tây , qua các sản phẩm đan lát dỏ, va li, lẵng hoa...ở Bằng Sở, Phúc Am... Ngoài những nghề trên Hà Tây còn có nghề khác như nghề làm đồ bằng sừng, ngà, tạc tượng, trạm trổ, làm vàng mã... có thể nói đây là một thế giới thủ công thu nhỏ của đồng bằng Sông Hồng. Một số nghề và làng nghề thủ công truyền thống Hà Tây . Nghề làng nghề -Dệt. Hoà xá ( ứng Hoà), Phùng Xá (Mỹ Đức), Tân Lập (Đan Phượng), La phù, Vạn Phúc (Hà Đông). -Ren, Thêu. Quất Động, Hạ Hồi (Thường Tín), Cầu Đơ ( Hà Đông), hạ Mỗ (Đan Phượng). Thời Pháp thuộc còn có ở (ứng Hoà,Phú Xuyênvà Hoài Đức, Chương Mỹ, Thanh Oai. -Khảm trai Làng chuyên Mỹ(Phú xuyên)(xuất hiện từ thế kỷ thứ III). -Sơn mài . Bối khê, Ngọ Hạ,Vạn Điểm ( Phú Xuyên), Huyền Kỳ ( Thanh oai), Hà Cầu ( Hà Đông), Hạ Thái (Thường Tín). -Đan song,Mây tre Phú Vinh( chương Mỹ ), Bằng Sở ( Thường Tín ) -Nghề mộc Làng chàng sơn( Thạch Thất ),Tây Đằng (Ba Vì), ... -Nghề Rèn Làng Đa Sĩ ( Hà Đông). -Nghề Giấy, tranh cổ truyền Am cốc ( Phú xuyên), Kim Hoàng (Hoài Đức). -Nghề nón Làng chuông( Thanh Oai). Và ngày nay được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, các ngành , tiêu chí Làng nghề được xác định , tạo nhiều thuận lợi cho phục hồi và phát triển Làng nghề TTCN trên địa bàn Hà Tây , cụ thể như sau: + Số hộ và lao động quy làm công nghiệp-TTCN ở Làng ít nhất đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộvà lao động của Làng . + Giá trị sản xuất , và thu nhập từ công nghiệp -TTCN ở Làng đạt trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của Làng trong năm . + Có tổ chức phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ( hội , câu lạc bộ , ban quản trị HTX...) mang tính tự quản được pháp luật thừa nhận . Dù có tổ chức dưới hình thức nào cũng cần có địa điểm nhất định phục vụ sinh hoạt kinh tế , văn hoá , xã hội liên quan đến hoạt động của Làng nghề . + Tên Làng nghề : Nếu là Làng nghề truyền thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt cho tên Làng nghề . Nếu Làng nghề có nhiều nghề phát triển , sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì lấy nghề đó đặt tên cho Làng nghề . Hoặc trong Làng nghề có nhiều nghề không phải là truyền thống hay chưa có sản phẩm nào nổi tiếng thì lấy tên Làng sẽ căn cứ vào nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên cho Làng nghề . III. Kinh nghiệm một số nước trong phát triển TTCN. Cho dù nền kinh tế phát triển đến đâu thì các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước khu vực châu á; NICs, ASEAN, Nhật, đều trải qua quá trình phát triển TTCN. Tuy nhiên họ biết tận dụng lợi thế trong từng giai đoạn, hoàn cảnh, để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của mình, và thực tế họ đã đạt được những thành công. Việc nắm bắt và nhận biết kinh nghiệm phát triển TTCN của các nước phát triển trên thế giới là hết sức quan trọng cho Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng tận dụng tốt lợi thế của mình trong phát triển TTCN. 1. Kinh nghiệm của Nhật. Nhật Bản là nước đầu tiên thực hiện công nghiệp hoá (CNH) từ một nền nông nghiệp cổ truyền, tự túc, tự cấp, ... và đã nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế số một thế giới. Một điều đáng nói là khi tiến hành công nghiệp hoá ở Nhật, do điều kiện lịch sử nhất định, nên đi đôi với việc xây dựng các xí nghiệp công nghiệp lớn ở đô thị, Nhật Bản đã chú trọng đến việc hình thành các xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã, thị trấnvà đặc biệt là mở mang mạng lưới tiểu thủ công nghiệp gia đình phân tán ở nông thôn gia công các thiết bị cho các xí nghiệp lớn ở thành thị. Ngoài ra họ không chỉ duy trì các làng nghề cổ truyền mà còn mở ra các làng nghề mới, nằm tận dụng lao động dư thừa vào hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp. Nhật đã kiên trì nhất quán thực hiện hàng loạt các công việc như duy trì ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền nông thôn. Hình thành các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn làm vệ tinh, gia công cho các Công Ty, Xí nghiệp lớn ở thành thị. Phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, nông thôn... Mặt khác nhà nước hổ trợ về mặt thị trường cho TTCN phát triển, trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình, bằng việc đứng ra ký kết các hợp đồng dài hạn với đối tác nước ngoài. Đặc biệt việc phát triển các dịch vụ như tín dụng, công cấp vật tư kỹ thuật, công cụ máy móc... tới các dịch vụ mua bán chế biến, lưu thông đểcung cấp cho thị trường trong và ngoài nước. Tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp nói chung và TTCN nói riêng. 2. Kinh nghiệm của các nước NICs. NICs là một số nước phát triển, có nền kinh tế mạnh ở khu vực châu á trong nhiều năm gần đây. Đây là các nước tạo nên sự thần kỳ Châu á bằng việc phát triển nhanh nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy tuỳ thuộc vào từng giai đoạn mà họ phát huy lợi thế của mình. Kinh nghiệm của Hàn Quốc. Công cuộc phát triển kinh tế nông thông qua các chương trình phát triển ngành nghề ngoài nông nghiệp của các hộ nông dân, chương trình phát triển ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn, ngành nghề phi nông nghiệp nông thôn đã tạo thêm làm cho nông dân bắt đầu từ 1967. Chương trình này tập trung vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động thủ công, công nghệ đơn giản và sử dụng nguồn nguyên liệu sẳn có ở địa phương, sản xuất quy mô nhỏ, khoảng 10 hộ tập trung lại với nhau thành từng tổ, được ngân hàng cung cấp vốn tín dụng lãi xuất thấp đễ sản xuất, kinh doanh ngành nghề của mình. Chương trình phát triển các ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống cũng được triển khai từ những năm 1970. Để hổ trợ cho loại hình sản xuất này trong cả nước phát triển Hàn Quốc đã tổ chức ra gần 100 công ty dịch vụ thương mại dảm nhận đầu vào đầu ra cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên toàn địa bàn sản xuất, đây là một biện pháp để công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn độc đáo của Hàn Quốc, và loại hình này được sự hỗ trợ của chính phủ về vốn và công nghệ... Tạo ra thuận lợi cho phát triển TTCN khu vực nông thôn, giải toả được mật độ công nghiệp và dân cư tập trung quá đông ở thành phố. Kinh nghiệm của Đài Loan. Ngay từ đầu của quá trình phát triển kinh tế Đài Loan đã có chủ trương xây dựng các xí nghiệp công nghiệp nhẹ, bố trí phân tán ở các huyện lỵ, thi trấn rải rác ở các vùng nông thôn gần địa bàn nguyên liệu. Từ vấn đề nói trên làm cho các hộ nông dân trở thành vừa làm nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đã phần nào giảm bớt quỹ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn. Với khu vực công nghiệp nông thôn ở Đài Loan bao ồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN), các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến các sản phẩm lương thực, thực phẩm theo công nghệ cổ truyền và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch và xuất khẩu, các xí nghiệp vệ tinh, liên doanh với các xí nghiệp lớn ở đô thị. Nhờ những chính sách hỗ trợ phát triển như vậy mà TTCN Đài Loan đã góp phần không nhỏ vào tạo việc làm và thu nhập cho người dân, đặc biệt khu vực nông thôn, từ đó rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn. 3. Kinh nghiệm ASEAN. Tựu chung lại, các nước ASAN là những nước có chung có điều kiện phát triển nông nghiệp, chính vì thế lao động khu vực này là nhàn rổi nhiều theo mùa vụ, xuất phát từ yếu tố đó các nước ASEAN đã chú trọng phát triển TTCN khu vực này. Kinh nghiệm INDONEXIA. Chính phủ INDONEXIA đã đề ra chương trình phát triển ngành nghề TTCN ở khu vực nông thôn trong kế hoạch 5 năm. Từ xây dựng các xưởng và các trung tâm để bán các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp đến thực hiện các dự án hướng dẫn công nghiệp nhỏ nhằm giáo dục, đào tạo, mở rộng các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ, rồi tổ chức ra một số cơ quan để quản lý, chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ sản xuất kinh doanh và các dịch vụ cung cấp thiết bị vật tư, tiêu thụ sản phẩm... Chính phủ tổ chức ra trung tâm hỗ trợ công nghiệp nhỏ đặt mối quan hệ với công nghiệp lớn và chương trình nghiên cứu tiềm năng sản xuất và nhu cầu thị trường, làm cơ sở cho việc phát triển công nghiệp nhỏ. Cùng với việc đề ra các chính sách, Chính Phủ đã tổ chức ra " Hội đồng TTCN quốc gia INDONEXIA "nhằm thúc đẩy ngành TTCN phát triển nhanh, tổ chức thi thiết kế mẫu mã, tổ chức hội chợ triển lãm các sản phẩm TTCN và "Trung tâm phát triển TTCN " để quản lý hổ trợ TTCN, kế hoạch phát các ngành nghề TTCN được lồng gép vào các chương trình tạo việc làm ở nông thôn. Ngoài ra Chính Phủ còn phát động chương trình giúp đỡ người nghèo do Nhà nước đầu tư vốn để hỗ trợ các làng nghề truyền thống, khôi phục và phát triển tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Kinh nghiệm PHILIPPIN. Trong kế hoạch năm năm (1978-1982) Chính Phủ đã đề ra chương trình và dự án phát triển công nghiệp nông thôn ở khu vực nông thôn, vùng kém phát triển. Phương hướng phát triển là tập trung vào các ngành nghề TTCN, sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản, chế biến thực phẩm... Mặt khác chính phủ còn đề ra một chương trình hỗ trợ các xí nghiệp TTCN và công nghiệp nông thôn về tài chính, công nghệ và tiếp thị. Miễn thuế cho các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp nông thôn với 20 lao động và thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước về cung cấp vốn tín dụng, các ưu đải thuế... Từ yếu tố đó đã đưa tiểu thủ công nghiệp PHILLIPIN phát triển mạnh và giải quyết lớn lực lượng lao động khu vực nông thôn. 4. Những kết luận chung về bài học kinh nghiệm. Qua nghiên cứu trên cho thấy vấn đề phát triển TTCN được các nước chú trọng trong từng giai đoạn phát triển kinh tế của mình. -Về cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh của TTCN ở các nước rất đa dạng, từ sản xuất dịch vụ, nghề cổ truyền và nghề mới thủ công mỹ nghệ, nữa cơ khí... Cơ cấu ngành nghề TTCN lúc đầu thường là tự phát và phát triển theo nhu cầu thực tế của thị trường và sau đó được cơ cấu hợp lý từng giai đoạn. -Về quy mô ở các nước thì TTCN đều là quy mô nhỏ, dựa trên nguồn lực tại chổ, đặc biệt TTCN được chú trọng phát triển ở khu vực nông thôn, như ASEAN. -Các ngành nghề chủ yếu dựa vào lao động thủ công, sử dụng công cụ thô sơ, công nghệ đơn giản dễ làm, nhưng cũng có ngành nghề thủ công mỹ nghệ cần tay nghề điêu luyện, có óc sáng tạo của các nghệ nhân có tay nghề cao. Để tăng năng xuất ngành nghề đã dần dần sử dụng máy móc kỹ thuật cao. - Một vấn đề hết sức quan trọng trong mô hình này là các nước phát triển TTCN đều cần có sự trợ giúp từ phía nhà nước, trong việc tạo vốn, thị trường, tiếp thị, kỹ thuật ... bằng những trương trình chính sách cụ thể. Tuy vậy trong quá trình phát triển TTCN thì các nước đã bộc lộ những mặt hạn chế : gây nên sự tranh chấp đất đai, lao động, vốn, mặt khác việc gây ô nhiểm môi trường sinh thái thể hiện qua việc khai thác và sử dụng tài nguyên bừa bải, ảnh hưởng tới đời sống và năng xuất lao động... Đo đó, vấn đề phát triển TTCN ở Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng cần coi trọng và khắc phục vấn đề này. Chương II Thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây. I. Các điều kiện tư nhiên kinh tế - xã hội tác động đến phát triển kinh tế và TTCN Hà Tây 1. Điều kiện tự nhiên Hà Tây. Cũng như các lĩnh vực sản xuất khác, TTCN Hà Tây cũng chựu ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên. Các yếu tố này bao gồm : Vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản và nhiều nhân tố khác. 1.1. Về vị trí địa lý. Hà Tây có toạ độ địa lý 20,31o -21,17o vĩ bắc và 105,17 -106 o kinh đông bao quanh thành phố Hà Nội về phía tây Nam. Vơí bốn cửa ngõ vào thủ đô qua các quốc lộ 1; 6 ; 32, và hệ thống đường thuỷ. Diện tích chung 2192 km2 phía đông giáp Hà Nội, Hải Hưng, phía tây giáp với Hoà Bình, phía Bắc giáp với Vĩnh Phúc và phía Nam giáp với Hà Nam. Hà Tây nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội -Hải Phòng-Quãng Ninh, hạt nhân kinh tế miềm bắc, nằm trên khu chuyển tiếp từ tây bắc và trung du miền núi phía bắc, với đồng bằng Sông Hồng qua một mạng lưới giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường sắt và các bến cảng tương đối phát triển. Với những vị trí tạo cho Hà Tây những thuận lợi: -Có thành phố Hà Nội và các tỉnh phụ cận là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của Hà Tây (Hàng tiêu dùng thủ công mỹ nghệ, du lịch và nghĩ nghơi... ) -Hà Tây là địa bàn mở rông của thủ đô Hà Nội qua xây dựng thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí gnhiệp vừa và nhỏTTCN ở thành thị và nông thôn phục vụ cho các xí nghiệp lớn ở Hà Nội... -Mặt khác Hà Tây với vị trí địa lý của mình sẽ thuận lợi cho giao lưu, trao đổi lưu thông hàng hoá với các tỉnh trung du miền núi phía bắc, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Nam. Đây là điều kiện cung cấp tốt đầu vào đầu ra cho TTCN Hà Tây phát triển. 1.2. Tài nguyên khoáng sản. Với nền công nghiệp chưa phát triển, song tài nguyên phân bố đều ở các huyện trong tỉnh. Điều đó thuận lợi rất lớn cho phát triển công nghiệp nói chung và TTCN nói riêng.cụ thể là ngành vât liệu xây dựng . Cụ thể các loại khoáng sản : Đá vôi (Mỹ Đức,Chương Mỹ),Granit ốp lat(Chương mỹ), Đất sét(Chương mỹ,Sơn Tây,Thạch Thất, Quốc Oai), Đồng (BaVì),Vàng gốc và sa khoáng sản (Quốc Oai,Chương Mỹ), Nước khoáng (Ba Vì), Cao lanh (Ba Vì, Quốc Oai)... Nguồn tài nguyên rừng là thế mạnh của tỉnh, với 2/3 diện tích toàn tỉnh là đồi núi, với nhiều loại gỗ quý hiếm: như lim , sến, tấu và ngoài ra còn nhiều loại như tre, nứa,... thuận lợi cho phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy việc phát triển TTCN ở Hà Tây cho phép phát huy và tận dụng tốt nguồn tài nguyên khoáng sản sẳn có. 2. Điều kiện kinh tế xã hội . 2.1. Tài nguyên con người. Dân số Hà Tây năm 1999 là 2.393.000 người, tốc độ tăng trưởng là 2%/năm, mật độ bình quân là 1083 người/km2. Hà Tây là tỉnh đông dân thứ 7 trong cả nước, sau Tp Hồ Chí Minh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hải Hưng, Hà Nam, Hà Bắc, với 93% dân số ở nông thôn, chỉ 7% dân số ở thành thị. Lao động 1,1 triệu người, trong đó có 80% lao động nông nghiệp, tốc độ tăng lao động hàng năm là 2%, 1/3 số xã có làng nghề TTCN với 117000 lao động có Tay nghề. Lao động nông nghiệp có trình độ văn hoá khá ( 21% có trình độ cấp III, 62% cấp II, và 14% cấp I). Từ những số liệu và nhận định trên, với dân số tập trung ở nông thôn là lớn, mặt khác nơi đây lại có nhiều làng nghề thủ công nghiệp truyền thống, thêm vào đó là trình độ dân trí khá, điều đó cho thấy để tránh tình trạng di cư tự do gây sức ép cho khu vực thành phố, đô thị về mặt lao động, mặt khác giải quyết tốt vấn đề lao động và nguồn lực tại chỗ, thì vấn đề phát triển TTCN là hết sức cần thiết cho tỉnh Hà Tây. 2.2. Tài nguyên cảnh quan Di tích Lịch sử. Theo thống kê của Bộ Văn Hoá - Thông Tin , Hà Tây là tỉnh có số lượng di tích đứng thứ ba cả nước, sau (Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh).Với gần 300 di tích. Điều quan trọng hơn là nhiều di tích quý giá gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc, trong đó nổi bật là hệ thống chùa chiền và đền thờ cổ với nhiều lễ hội, làng việt cổ, các làng nghề truyền thống. Sự hiện diện của vùng núi, đặc biệt là núi Ba Vì và dãi đá vôi có nhiều hang động đẹp, với rừng nguyên sinh, khí hậu mát mẽ và có đồng bào dân tộc ít người với văn hoá dân tộc truyền thống . Hiện tại Hà Tây đã hình thành ba cụm di tích ( Cụm chùa Hương, Cụm Ao Vua -Ba Vì suối Hai-Đồng Mô-Ngải Sơn, Cụm Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai), tạo ra những trung tâm du lịch lớn có tầm cở quốc gia và quốc tế. Hiện tại hàng năm Hà Tây thu hút một số lượng lớn du lịch khách từ trong và ngoài nước đỗ về, từ những yếu tố đó tạo cho Hà Tây những thế mạnh về phát triển du lịch , trên cơ sở đó đây cũng là thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm TTCN và đó cũng là cơ hội để khôi phục và phát triển làng nghề cũng như bản sắc văn hoá dân tộc, tạo điều kiện giải quyết tốt nhất vấn đề lao động thành thị và nông thôn. 2.3. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế. * GDP và nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1991 - 1999 . Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu Theo giá 1989 Theo giá 1994 1991 1992 1993 1994 1995 1995 1996 1997 1998 1999 GDP (giá SS) 595,8 716,8 787,5 865,3 954,3 3537,7 3809,7 4109,6 4405,0 4654 Tốc độ phát triển (%) -1,31 20,31 9,86 9,88 10,29 - 7,96 7,87 7,19 5,7 Nguồn: Niên giám thống kê - Hà Tây Tốc độ trung bình: 1991 - 1995: 9,8% 1996 - 1999: 7,18% Theo số liệu thống kê trên đây nhìn chung tốc độ phát triển hàng năm đầu tăng, riêng năm 1991 thu nhập theo GDP theo giá so sánh là 595,8 tỷ đồng là năm thấp nhất và thấp hơn năm1990 là 7,9 tỷ đồng, chính vì vậy tốc độ giảm so với năm 1990 là (-1,31%) trong giai đoạn 1991 - 1995 (theo giá cố định 1989) nhìn chung các năm từ 1992 - 1995 thì tốc độ phát triển đều tăng, riêng 1992 có tốc độ cao nhất 20,31% và trung bình trung giai đoạn này là 9,8%. Bước sang giai đoạn (1996 - 1999) tính theo giá cố định 1994, tốc độ tăng trưởng hàng năm đều tăng (năm sau so năm trước), xu hướng về tốc độ phát triển (%) của tổng sản phẩm quốc dân Hà Tây trong giai đoạn 1996 - 1999 giảm xuống. Điều đó cho thấy có sự ảnh hưởng của điều kiện chủ quan và khách quan. Về khách quan có thể thấy giai đoạn này nền kinh tế tỉnh Hà Tây chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, về thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm tỉnh nhà, và điều kiện tự nhiên... gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh thời gian qua. Về chủ quan, có thể thấy do sự tác động từ cơ chế chính sách tới vấn đề đầu tư sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý khi nền kinh tế mở rộng.( cụ thể như quá trình đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép còn chậm, chưa có chính sách cụ thể cho vay vốn đối với khu vực kinh tế còn kém phát triển ...) Chính vì thế giai đoạn 1996 - 1999 tốc độ phát triển đạt 7,18% thấp hơn giai đoạn 1991 - 1995 là 2,62%. Với tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam qua các năm (1991 - 1999) ta có bảng sau: Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 Tốc độ phát triển (%) 6,0 8,65 8,1 8,8 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 * Trung bình giai đoạn: 91 - 95: 8,21% 96 - 99: 7,02% So sánh với kết quả tăng trưởng tế trung bình của Hà Tây và cả nước của qua các giai đoạn phát triển ta có nhận xét như sau: + Sự phát triển và tăng trưởng kinh tế Hà Tây có cùng xu hướng chung của cả nước cụ thể qua hai giai đoạn (1991 - 1995) và (1996 - 1999). + Về tốc độ tăng trưởng chung thì Hà Tây có cao hơn cả nước: cụ thể (1991 - 1995) là 9,8% và (1996 - 1998) là 7,18% trong khi cả nước lần lượt là 8,21% và 7,02%. Mặc dù vậy so với cả nước thì Hà Tây lại thấp hơn cả nước về các mặt như GDP bình quân đầu người, tỷ lệ huy động ngân sách và cân bằng ngân sách ... Cụ thể GDP bình quân đầu người 1991 là 149 USD năm 1992 là 172 USD/ 230 USD của cả nước, năm 1994 trong khi cả nước đã vượt trên 300 USD/ người. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP năm 1992 là 7%, 1993 là 6% trong khi đó Chi ngân sách so với thu thiếu hụt lần lượt 73 tỷ năm 1992 và 106,6 tỷ năm 1993. Bước sang năm 1999 thu là 577 tỷ đồng trong khi chi là 603,0 tỷ thiếu hụt 26 tỷ. Song có được sự phát triển kinh tế với tốc độ cao qua các thời kỳ, là nhờ có đường lối đổi mới của Đảng (cụ thể qua Đại hội Đảng lần VIII) nói chung và sự lãnh đao chỉ đạo của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng ,đã có những nghị quyết, chủ trương sát đúng với thực trạng của địa phương - lãnh đạo nhân dân trong tỉnh khắc phục khó khăn, lao động sáng tạo... nhờ đó đã phát huy được nội lực của tỉnh nhà và cụ thể đã đạt được những thành quả quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Thêm vào đó là sự lao động cần cù sáng tạo của nhân dân, ý thức tự lực vươn lên, có nhận thức đúng về sự đổi mới, năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, đã đóng góp một phần quan trọng cho sự phát triển chung của Hà Tây và cả nước. Tuy vậy trong giai đoạn qua, đặc biệt 1995 - 1999 tốc độ phát triển kinh tế tuy có tăng, song có xu hướng giảm xuống cùng với xu thế chung của cả nước và khu vực cho thấy Hà Tây là tỉnh cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, thêm vào đó là hệ thống hạ tầng xuống cấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, vấn đề vốn, thiết bị lạc hậu về công nghệ trong các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và tình trạng thâm hụt ngân sách còn tồn tại... Chính vì vậy đây sẽ là trở ngại lớn đối với phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây trong những năm tới, và đòi hỏi các cơ quan chức năng, các ngành các cấp cần có đối sách trong giải quyết tồn tại này để đưa nền kinh tế Hà tây phát triển. 2.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tính từ năm 1991 đến nay, cơ cấu kinh tế ngành Hà Tây đã có sự chuyển dịch theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và du lịch - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn tăng lên. Tổng sản phẩm nông nghiệp của tỉnh năm 1995 so với năm 1991 tăng 48,81%, bình quân mỗi năm tăng 6,7%, năm 1998 so với năm 1996 tăng 6,68%, bình quân tăng 5%. Cơ cấu kinh tế ngành ở Hà Tây(1991-1999). Đơn vị: % Năm Ngành 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Nông nghiệp 52,35 54,95 54,26 46,82 48,66 46,74 43,56 43,03 43,00 Công nghiệp 22,48 22,18 23,0 26,13 25,51 26,52 28,21 28,61 29,57 Dịch vụ 25,17 22,87 22,74 27,05 25,83 26,74 28,23 28,36 27,43 Nguồn: Niên giám Thống kê - Hà Tây Sự chuyển dịch cơ cấu được thực hiện trên cơ sở có sự tăng trưởng khá đều của cả ba nhóm ngành, đặc biệt là công nghiệp và du lịch - dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế ở Hà Tây(1991-1999). Đơn vị: % Năm Ngành 1991 1992 1993 1994 1995.. Bình quân 1997 1998 1999 Bình quân Nông nghiệp -8,8 26,3 8,4 -5,2 14,6 6,7 8,6 0,5 6,1 5,0 Công nghiệp 0 18,7 13,8 24,9 7,7 11,9 16,0 14,7 8,9 13,2 Dịch vụ 17,2 9,3 9,1 30,7 5,3 13,6 10,6 13,9 7,9 10,8 Nguồn: Niên giám Thống kê - Hà Tây Trong 5 năm 1991 - 1995, công nghiệp tăng bình quân 11,9% nông nghiệp 6,7%, dịch vụ - du lịch 13,6%. Trong ba năm 1996 - 1998, công nghiệp tăng bình quân 13,2%, nông nghiệp 5%, dịch vụ 10,8%. Như vậy, những nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng cao cũng là nhóm ngành có năng suất cao, nên tỷ trọng của nó trong GDP cũng tăng lên. Ngược lại, nhóm ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp nhất và tốc độ tăng trưởng thấp nhất nên tỷ trọng đã giảm 9,35% từ 53,35% năm 1991 xuống còn 43,00% năm 1999. Song hiện tại vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nhóm ngành công nghiệp có năng suất lao động và tốc độ tăng khá nên tỷ trọng đã tăng từ 22,48% lên 29,57% từ 1991 đến 1999 nên đã đứng hàng thứ hai về tỷ trọng và trên du lịch dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành được thực hiện gắn liền với sự phát triển của ngành theo hướng đa dạng hóa, dần hình thành các ngành trọng điểm, mũi nhọn, các ngành định hướng xuất khẩu đang được khôi phục và phát triển. Tóm lại, cơ cấu kinh tế của Hà Tây trong những năm qua đã có sự chuyển dịch đúng hướng và tích cực, góp phần cấu trúc lại nền kinh tế dầu đi vào ổn định, tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Có được những kết quả chuyển dịch như trên là do cơ quan chủ quản và chính quyền tỉnh đã thực hiện nhất quán các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉnh đã bước đầu định hướng tạo môi trường cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 - 2010 các kế hoạch phát triển, đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế. Yếu tố thị trường cũng bắt đầu định hướng các doanh nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, và sản xuất như thế nào. Giá cả về cơ bản đang hình thành trên thị trường thông qua quan hệ cung cầu và phản ánh mức độ khan hiếm của hàng hóa dịch vụ. 3. Lợi thế, hạn chế và thách thức đối với phát triển kinh tế và TTCN Hà Tây. 3.1. Lợi thế. - Hà Tây có lợi thế về vị trí địa lý , với tam giác kinh tế (Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long ) vừa là thị trường tiêu thụ của Hà Tây vừa là nhân tố tác động đến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Hà Tây, mặt khác cũng tạo điều kiện cho Hà Tây tiếp thu nhanh công nghệ mới và thông tin kinh tế trong nước và thế giới. -Hà Tây là tỉnh có quy mô GDP chiếm tỷ lệ cao trong GDP cả nước, cụ thể giai đoạn 1993 chiếm 2,12 % và đến năm 1998, 1999 là 2,3% và 2,43% GDP cả nước. - Tài nguyên du lịch và tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là khoáng sản vật liệu xây dựng là hai nguồn lực lớn có thể trở thành những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh về công nghiệp chế biến nông sản sẽ tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế. - Đặc điểm địa mạo, tài nguyên khí hậu, đất, nước cho phép phát triển một nền nông lâm nghiệp, thủy sản đa dạng và thâm canh, sinh thái và bền vững làm cơ sở cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Có hệ thống cơ sở hạ tầng đa dạng, đặc biệt là hệ thống giao thông đường bộ, liên tỉnh, liên huyện và xã. Điều đó tạo thuận lợi cho Hà Tây trong trao đổi và giao lưu buôn bán hàng hóa. - Có thị trường xuất khẩu tại chỗ với kim ngạch đáng kể qua du lịch. Có nhiều làng nghề, thủ công mỹ nghệ phát triển và công nghiệp tập trung, nhiều đối tác tới liên doanh đặc biệt trong những năm gần đây, có thị trường Hà Nội tiêu thụ nhiều loại sản phẩm. - Có nguồn nhân lực dồi dào, có văn hóa, có nhiều nghề truyền thống, bước đầu làm quen với sản xuất hàng hóa và có năng lực tiếp thu được công nghệ mới, những ngành nghề có hàm lượng chất xám cao (như điện tử, tin học). 3.2. Hạn chế. - Cơ sở hạ tầng quá xuông cấp do nhiều năm sát nhập tỉnh, 90% doanh nghiệp Nhà nước, trung ương và địa phương trình độ kỹ thuật trung bình và lạc hậu, 40% thiết bị già cỗi, năng suất và hiệu quả thấp. - Đất chật, người đông, tốc độ tăng dân số còn cao gây sức ép lớn về việc làm và thu nhập cũng như các vấn đề xã hội. - Với GDP bình quân đầu người còn thấp, là tỉnh chưa cân bằng ngân sách, vì vậy Hà Tây là tỉnh đang thiếu vốn nghiêm trọng. - Con người Hà Tây, tuy có những lợi thế nêu trên, song mặt hạn chế là thiếu kiến thức quản lý cũng như kinh nghiệm quản lý, nhất là trong quản lý công nghiệp, du lịch. - Du lịch được dự báo trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với nhiều danh lam thắng cảnh (thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) song cho tới nay vẫn chưa phát huy được tối đa lựi thế của mình, do điều kiện co sở hạ tầng yếu kém cũng như quá trình quản lý... - Có lợi thế phát triển tiểu thủ công nghiệp làng nghề, là một đóng góp lớn cho vấn đề xóa đói giảm nghèo khu vực nông thôn và tăng tưởng kinh tế, song hiện tại vẫn nhiều vướng mắc từ phía thị trường, cơ chế quản lý... 3.3. Những thách thức. - Sự biến động thị trường trong giai đoạn hiện nay là một trở ngai đối với các sản phẩm của Hà Tây khi tham gia cạnh tranh . - Là một tỉnh có nhiều tài nguyên (nông nghiệp, du lịch, vật liệu xây dựng, con người...) là lợi thế, song điểm xuất phát GDP thấp, GDP bình quân đầu người còn thấp và dưới mức bình quân của cả nước. Trong thời gian tới, không khai thác được những tài nguyên và lợi thế đó sẽ có nguy cơ tụt hậu xa so với bình quân cả nước. - Gần thủ đô Hà Nội vừa là cơ hội tạo ra những lợi thế song đây cũng vừa là thách thức. Sản phẩm của Hà Tây xâm nhập được thị trường Hà Nội phải có sức cạnh tranh lớn và nghệ thuật tiếp thị giỏi. Sức cạnh tranh lớn được biểu hiện ở chất lượng cao, giá thành hạ... - Du lịch là thế mạnh của Hà Tây, song muốn thu hút được khách quốc tế nghĩ lại qua đêm để kinh doanh khách sạn (vì kinh doanh khách sạn đưa lại lợi nhuận cao trong kinh tế du lịch) thì phải có hình thức, nội dung du lịch hấp dẫn và kiến trúc khách sạn ở Hà Tây phải khác với Hà Nội (VD: kiểu biệt thự, nhà sàn, khách sạn mini gắn với cảnh quan môi trường sinh thái sạch đẹp), mặt khác vấn đề quy hoạch các cụm, khu du lịch là điều kiện cần thiết để phát triển lợi thế ngành này. II. Thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp (TTCN) trên địa bàn Hà Tây. 1. Mạng lưới phát triển TTCN khu vực nông thôn tỉnh Hà Tây. Khi nghiên cứu sự hình thành, hoạt động mạng lưới TTCN nông thôn Hà Tây ta có thể thấy nó tồn tại hai hình thức đó là TTCN chuyên nghiệp và TTCN trong nông nghiệp, TTCN chuyên nghiệp tức là các cơ sở sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất TTCN, còn hình thức thứ hai là vừa sản xuất TTCN vừa sản xuất nông nghiệp, ở đây có sự đan xen sắp xếp dựa trên tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp. 1.1. Tiểu thủ công nghiệp chuyên nghiệp. Xét trên địa bàn nông thôn Hà Tây thì tỷ lệ TTCN chuyên nghiệp còn chiếm một tỷ lệ nhỏ .Hình thức sản xuất phổ biến ở đây là tổ sản xuất, cá thể và hình thức tư nhân, trong đó chủ yếu là hai hình thức tổ sản xuất và cá thể. Tỷ lệ TTCN không đều nhau đối với tất cả các mặt hàng. Tỷ lệ này cao đối với ngành chế biến gỗ, ngành mây tre giang, thuê len, dệt len, ngành sản xuất giấy và ngành chế tạo công cụ. Những ngành chiếm tỷ lệ thấp trong các ngành chế biến, sản phẩm từ nứa lá, ngành gốm sứ và ngành chế biến nông sản. Do chính sách ruộng đất phân chia bình quân đầu người như hiện nay nên chỉ có một tỷ lệ nhỏ lao động trong nông thôn tách rời khỏi ngành nông nghiệp còn phần lớn vẫn trong tình trạng bán nông nghiệp. Mặc dù tỷ lệ lao động chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng giá trị GDP khu vực này tạo ra không phải là không đáng kể, nhất là trong những ngành TTCN được coi là ngành nghề chính của người lao động. Chỉ tiêu về tỉ lệ lao động và giá trị TTCN. Chỉ tiêu TTCN chuyên nghiệp TTCN trong NN Tỉ lệ lao động (%) 45 55 Giá trị TTCN (%) 65,5 34,5 (Nguồn: Sở công nghiệp Hà Tây). 1.2. Tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp. Cũng như khu vực nông thôn cả nước trên địa bàn nông thôn Hà Tây hình thức sản xuất kết hợp giữa TTCN với nông nghiệp tồn tại phổ biến. Hầu như không có một làng quê nào trong tỉnh là không tồn tại những ngành nghề phụ, trong đó TTCN chiếm một phần lớn trong số làng nghề. Trong tỉnh có khoảng 1460 thôn (làng), thì có 560 làng thuần nông chiếm 38%, 900 làng có nghề và làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển chiếm 62%. Ngoài ra ngoài TTCN còn tồn tại bộ phận nhỏ lĩnh vực khác của thương mại dịch vụ, trồng cây ăn quả, chăn nuôi... Cũng như khu vực chuyên nghiệp khu vực TTCN nằm trong nông nghiệp cũng tồn tại nhiều lĩnh vực tổ chức sản xuất. Nhưng phổ biến nhất và hiệu quả nhất vẫn là hình thức sản xuất hộ gia đình. Bên cạnh hình thức đó còn tồn tại các hình thức hợp tác xã sản xuất hộ cá thể hợp tác xã sản xuất, các hình thức này đang dần dần được thể hiện tinh ưu việt của nó. Khác với TTCN chuyên nghiệp TTCN nằm trong nông nghiệp không phải là ngành chính tạo ra giá trị sản phẩm nuôi sống người lao động. TTCN ở đây được coi là nghề phụ cung cấp một lượng nhỏ giá trị góp phần nâng cao đời sống người lao động. Nó cho phép việc tận dụng tối đa khoảng thời gian nhàn rỗi (ngoài giờ lao động chính trong ngành nông nghiệp hay khoảng thời gian chống mang tính mùa vụ trong năm". Như vậy hình thức lao động TTCN không chuyên này tập trung ở các ngành sản xuất quy mô nhỏ còn lại trong các ngành sản xuất các mặt hàng đòi hỏi trình độ kỹ thuật cũng như trình độ tinh sảo thì hình thức này không tồn tại phổ biến. 2. Thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề . 2.1. Về số lượng làng có nghề và làng nghề. Toàn tỉnh có khoảng trên 1460 thôn (làng), thì có 560 làng thuần nông chiếm 38%, 900 làng có nghề, và làng nghề TTCN phát triển chiếm 62%. Riêng về số lượng làng nghề được khôi phục, phát triển đạt tiêu chuẩn quy định của tỉnh. Năm 1998và1999 là 106 làng truyền thống, thường có số hộ - lao động lành nghề - giá trị sản lượng sản xuất TTCN chiếm từ 50% trở lên. Trong tổng số hộ lao động giá trị sản lượng kinh tế chung của làng. Các huyện có nhiều làng nghề TTCN dịch vụ phát triển là huyện Phú Xuyên Thường Tín 26, Thanh Oai 15 làng Hoài Đức 7 làng, Phúc Thọ 7 làng, Thạch Thất 6 làng, Chương Mỹ 5 làng, ứng Hòa 4 làng, Quốc Oai 3 làng còn các huyện Mỹ Đức, Đan Phượng, Thị xã Hà Đông có từ 1 đến 2 làng. Phân bố làng nghề sản xuất TTCN - dịch vụ 1999 thuộc huyện thị xã tỉnh Hà Tây. Số hộ Tên huyện thị xã Số làng nghề Tổng số Hộ Chia ra Thuần nông Kiêm SX TTCN Chuyên SX TTCN Dịch vụ Toàn tỉnh Tỷ trọng 106 66.834 100% 18.567 27,8 38.839 58,1 3.631 5,4 5.797 8,7 Phú Xuyên 26 8.669 3.105 4.582 600 382 Thường Tín 26 10.521 4.147 5.184 359 831 Thanh Oai 15 15.782 478 4.809 - 495 Hoài Đức 7 12.986 2.004 7.487 451 2.134 Phúc Thọ 7 5.694 1.850 3.150 230 484 Thạch Thất 6 7.534 2.737 3.799 548 450 Chương Mỹ 5 1.472 47 1.320 59 46 ứng Hòa 4 2.278 458 1.144 646 30 Quốc Oai 3 3.479 847 2.472 - 160 Ba Vì 2 2.259 110 2.005 37 98 Đan Phượng 2 2.769 991 1.076 273 429 TX Hà Đông 2 1.845 690 657 398 200 (Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây) Các nghề chính : Cỏ tế , giang đan, chế biến Thực phẩm , bật bông, dệt tơ, lưới, khảm trai, mộc , Vật liệu xây dựng , thêu, đồ gỗ , rèn, bún , ... Nhìn vào bảng ta có thể thấy số lượng làng nghề ở Hà Tây tính đến 1999 là 106 làng nghề, có số lượng vào loại lớn trong cả nước, với tổng số hộ (66.834) tham gia sản xuất TTCN, với số lượng làng chuyên sản xuất TTCN Hà Tây chiếm 5,4%, cho thấy tỷ lệ này là rất ít so với số hộ kiêm sản xuất TTCN (với 58,1%), thuần nông chiếm 27,8%. Qua đó cho thấy làng nghề phát triển rộng khắp ở các huyện và số hộ tham gia vào sản xuất TTCN và dịch vụ chiếm tổng số lượng hơn số hộ thuần nông trên địa phận Hà Tây. Hầu như số hộ gia đình sản xuất kinh doanh TTCN nhiều nhất ở các làng nghề có nhiều nghề, như Phú Xuyên (8.669 hộ), Thường Tín (10.521 hộ), Hoài Đức (12.986 hộ) Song nhìn chung quy mô làng nghề Hà Tây phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, không phân bố đều, quy mô công nghệ sản xuất mỗi loại sản phẩm khác nhau, có loại sản phẩm giản đơn, có loại tinh xảo mang tính cổ truyền, truyền thống riêng của mỗi nghề, mỗi làng qua từng giai đoạn khác nhau. 2.2. Về số hộ và lao động tham gia sản xuất TTCN trong làng nghề. - Về số hộ: Năm 1991 đến năm 1994 thì số làng nghề là 88 và từ năm 1995 - 1997 thì số làng nghề là 85, cho thấy sự giảm xuống của làng nghề Hà Tây trong giai đoạn gần đây, mặc dù vậy đến năm 1998 - 1999 số làng nghề được hồi phục tăng lên 106 làng nghề, với số hộ tham gia sản xuất TTCN cũng tăng lên. Số làng nghề và số hộ qua các năm(1991-1999). Năm Đơn vị SX 91 92 93 94 95 96 97 98 99 Hộ cá thể 34.871 43.751 60.183 59.929 59.710 51.580 58.000 66.000 66.834 Làng nghề 88 88 88 88 85 85 85 106 106 Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây Năm 1991 số hộ của 85 làng nghề là 51.580 hộ, trong đó hộ làm nghề CN - TTCN 33.002 hộ chiếm 64%, hộ làm dịch vụ 4.043 hộ chiếm 7,8%, hộ làm nông nghiệp thuần nông 14.535 hộ chiếm 28,2%. Đến năm 1999 số hộ của 106 làng nghề là 66.834 hộ tăng 29,6%, trong đó: hộ làm nghề CN - TCN 42.470 hộ chiếm 63,5% (tăng 9.468 hộ), hộ làm dịch vụ 5.797 hộ chiếm 8,7% hộ làm nông nghiệp thuần tuý 18.567 hộ chiếm 27,8%. - Về số lao động. Tổng số lao động tham gia sản xuất trong các làng nghề năm1996 là 119.012 người, trong đó: lao động CN - TCN 76.463 người chiếm 64,2% lao động dịch vụ 8.912 người chiếm 7,5%, lao động thuần nông 33.637 người chiếm 28,3%. Đến năm 1999 số lao động của 106 làng nghề lên tới 152.036 người tăng 33.024 người so với 1996, trong đó: lao động CN - TCN: 98.570 người chiếm 64,8% (tăng 22.107 người) lao động là dịch vụ 12.244 người chiếm 8,1%, lao động nông nghiệp thuần nông 41.222 người chiếm 27,1%. ở đây số lao động tham gia nhiều nhất vẫn tập trung ở số huyện có nhiều nghề như Phú Xuyên tổng số lao động 23.046 người, Thường Tín 21.610 người, Hoài Đức 30.562 người, Thanh Oai 13.175 người, mặc dù vậy một số huyện này vẫn có số lao động thuần nông chiếm tỷ lệ lớn so với nhiều huyện khác. Lao động tham gia sản xuất trong các làng nghề 1999. Tên huyện Tổng số lao động Số lao động tham gia sản xuất kinh doanh Thuần nông Kiêm SX TTCN Chuyên SX TTCN Dịch vụ Toàn tỉnh Tỷ trọng 152.036 100% 41.222 27,1 89.737 58,8 9.133 6,0 12.244 8,1 - Phú Xuyên 23.040 8.348 12.953 1.370 425 - Thường Tín 21.610 7.262 11.130 909 2.309 - Thanh Oai 13.175 1.061 10.936 - 1.178 - Hoài Đức 30.562 6.742 17.976 1.092 4.752 - Phúc Thọ 11.333 3.576 6.116 660 981 - Thạch Thất 17.792 6.315 9.120 1.502 855 - Chương Mỹ 3.165 86 2.927 80 72 - ứng Hòa 5.244 1.466 2.168 1.573 37 - Quốc Oai 8.180 2.050 5.840 - 290 - Ba Vì 4.359 239 3.858 73 189 - Đan Phượng 6.510 2.129 3.007 659 715 - TX Hà Đông 4.276 1.401 1.356 1.161 358 Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây 2.3. Về giá trị sản lượng sản xuất và thu nhập đầu tư sản xuất kinh doanh (1996 - 1999). 2.3.1.Giá trị sản lượng sản xuất (theo giá hiện hành). Năm 1996 giá trị tổng sản lượng sản xuất của 85 làng nghề CN - TCN là 716.284 triệu đồng, trong đó: sản xuất CN - TCN 448.196 triệu đồng chiếm 62,6%, kinh doanh dịch vụ 90.136 triệu đồng chiếm 12,6% nông nghiệp 177.952 triệu đồng chiếm 24,8%. Đến năm 1999 giá trị tổng sản lượng của 106 làng nghề đã đạt tới 975.958 triệu đồng (tăng 225.674 triệu đồng so với 1996), trong đó sản xuất CN - TCN 607.893 triệu đồng chiếm 62,3% (tăng 15.969 triệu đồng) kinh doanh dịch vụ 131.646 triệu đồng chiếm 13,5%, sản xuất nông nghiệp 236.419 triệu đồng chiếm 24,2%. Bình quân 1 làng nghề có giá trị sản lượng 9.207,150 triệu đồng/năm, 1 hộ là 14,602 triệu đồng. Những làng nghề đạt giá trị sản lượng sản xuất CN - TCN, dịch vụ (theo giá hiện hành). + Từ 75.000 triệu đến 81.450 triệu đồng có hai làng: dệt La Phù, làng chế biến LTTP Minh Khai (Hoài Đức). + Từ 20.000 triệu đến 36.320 triệu đồng có 3 làng: làng nghề cơ kim khí Vĩnh Lộc, xã Phùng Xá (Thạch Thất), làng nghề chế biến LTTP Dương Liễu, Cát Quế xã Cát Quết (Hoài Đức). + Từ 10.000 triệu đến 15.000 triệu đồng có 5 làng: làng thường làm nghề dệt thuộc xã Phùng Xá (Hoài Đức), làng nghề in vải, dịch vụ xã Dương Nội (Hoài Đức) làm mộc, dịch vụ Chàng Sơn, Hữu Bằng (Thạch Thất). + Từ 5.000 triệu đến gần 10.000 triệu đồng có 25 làng làng Xuân La xã Phương Dực, Đại Nghiệp xã Tân Dân, Lưu Phượng xã Phú Túc (Huyện Phú Xuyên), Canh Hoạch xã Dân Hòa, Dư Dụ Thù Thượng, Dùa Hạ, Vĩnh Tiền, xã Thanh Thúy, Kỳ Thủy xã Bích Hòa (huyện Thanh Oai), Hạ Thái xã Duyên Thái, Vạn Điểm xã Vạn Điểm, Trát Cầu xã Tiền Phong, Ninh Sở xã Ninh Sở (huyện Thường Tín), Liên Hà xã Liên Hà, Thượng Hạ xã Liên Trung (huyện Đan Phượng), làng Đông, Tây, Nam xã Phụng Thượng, Hạ Hiệp xã Liên Hiệp, Linh Chiểu xã Sen Chiểu (huyện Phúc Thọ), Sơn Đồng xã Sơn Đồng (huyện Hoài Đức), Tân Hòa xã Tân Hòa (huyện Quốc Oai). 2.3.2. Về thu nhập và vốn đầu tư mở rộng sản xuất. (1996 - 1999). Về thu nhập làng nghề. *Thu nhập bình quân 1 lao động trong năm của làng nghề (1999). Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu Thuần nông Kiêm sản xuất TTCN Chuyên SX TTCN Dịch vụ Trung bình Thu nhập 1.459 3.551 5.236 3.155 3.350 Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây Thu nhập bình quân 1 lao động 1năm trong làng nghề năm 1996 là 2,659 triệu đồng, trong đó: Thu nhập từ làm TTCN chuyên là 3,858 triệu đồng/năm, kiêm sản xuất TTCN là 2,650triệu đồng, kinh doanh dịch vụ 2,907/triệu đồng/năm, làm nông nghiệp thuần nông 1,221 triệu đồng/năm, cho thấy lao động tham gia sản xuất chuyên TTCN có thu nhập gấp ba (3) lần lao động làm nông nghiệp thuần. Đến năm 1999 thu nhập bình quân 1 lao động 1 năm trong làng nghề tăng lên 3,350 triệu đồng (tăng 0,394 triệu đồng) trong đó: thu nhập từ làm TTCN kiêm sản xuất TTCN là 3,551triệu đồng/năm , chuyên sản xuất TTCN là 5,236 triệu đồng/năm, kinh doanh dịch vụ 3,155 triệu đồng/ năm, làm nông nghiệp thuần nông 1,459 triệu đồng. cho thấy lao động tham gia sản xuất chuyên TTCN có thu nhập gấp ba (3,5) lần lao động làm nông nghiệp thuần. Về vốn đầu tư mở rộng sản xuất ở làng nghề. Năm 1996 các làng nghề đã tự đầu tư được 316 tỷ đồng để khôi phục, phát triển sản xuất, trong đó: Vốn cố định 207,6 tỷ đồng chiếm 60%, vốn lưu động 138,4 tỷ đồng chiếm 40%. Đến năm 1999 đã tự đầu tư là 358 tỷ đồng (tăng 12 tỷ đồng, trong đó: vốn cố định là 214,8 tỷ đồng chiếm 60% (tăng 7,2 tỷ đồng), vốn lưu động 143,2 tỷ đồng chiếm 40% (tăng 4,8 triệu đồng). 2.4. Công tác nhân cấy nghề TTCN Hà Tây. Hàng năm công tác nhân cấy nghề TTCN trên địa bàn Hà Tây luôn được sự quantâm của các làng nghề, cấp uỷ chính quyền và các tổ chức... Trong ba năm 1996 - 1998 gần đây, mặc dù còn gặp không ít khó khăn các huyện, thị xã trong tỉnh vẫn coi trọng việc nhân cấy nghề mới, duy trì nghề cũ của làng là trách nhiệm của các ngành, các cấp chính quyền địa phương. Phòng công nghiệp các huyện ứng Hòa, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Ba Vì, Thanh Oai, Thạch Thất, Hoài Đức, Phú Tín, Mỹ Đức đã chủ động đề xuất với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể của huyện phối hợp cùng UBND xã trên địa bàn tổ chức các lớp học nghề sản xuất công nghiệp - tiểu chủ công nghiệp như cơ khí, gò hàn, tiện, điện nông thôn, dệt, may mặc, thêu ren, khâu bóng đá, mộc dân dụng, mộc gỗ cao cấp, sơn mài, khảm trai, mỹ nghệ, điêu khắc, tiện gỗ, xương, sừng, hóa trang mỹ thuật, mây tre đan, sản xuất vật liệu xây dựng... được nhiều người tham gia học nghề. Đã mở được 193 lớp với 8.500 học viên theo học thời gian thường từ 3 tháng đến 6 tháng, với số vốn đầu tư là 2355 triệu đồng (trong ba năm 1996 - 1998) bằng nguồn vốn hỗ trợ từ phía huyện, UBND xã, các chủ doanh nghiệp tham gia, kết hợp với cá nhân học viên tự nguyện đóng góp. Các nhóm ngành tiểu thủ công nghiệp được đào tạo hay các mặt hàng được tập trung đào tạo như: (khảm trai, điêu khắc, thêu ren, mây tre giang, kết vải + khăn, dệt thảm len, dệt len, dệt thảm đay, dệt mặc, chẻ tăm hương, khâu bóng đá, chế biến nông sản, đồ mộc dân dụng, sửa chữa cơ khí, giấy bao bì ươm tơ...). Trong đó nghề mây tre giang được nhiều người theo học nhất (3.408) và kinh phí đầu tư lớn nhất 505,67 triệu đồng trong ba năm 1996 - 1998, sau đó là nhóm nghề thêu ren 930 học viên với 124,6 triệu đồng đầu tư và tiếp theo là nghề dệt len. Và số học viên tham gia đông nhất tập trung vào ba huyện ứng Hòa, Thanh Oai, Chương Mỹ, mặc dù vậy kinh phí đầu tư lớn nhất vẫn là Phú Xuyên 519,68 triệu đồng. Các nghề được đào tạo dưới sự chỉ dẫn của giảng viên là giáo viên của trường công nhân kỹ thuật trung học, cao đẳng, viện nghiên cứu Trung ương, trường công nghiệp thủ công mỹ nghệ Hà Tây, công nhân có tay nghề bậc cao, nghệ nhân chuyên nghề, chủ doanh nghiệp, đến trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn thực tế. Các huyện ứng Hòa đã mở được 41 lớp truyền nghề cho 14 xã chủ yếu thuần nông với 1862 học viên theo nghề, huyện Chương Mỹ mở được 36 lớp cho 17 xã, với 1980 học viên học nghề, huyện Phú Xuyên mở được 23 lớp cho 9 xã với 629 học viên huyện Thạch Thất mở được 27 lớp cho 5 xã với 677 học viên, huyện Thường Tín mở được 16 lớp cho 4 xã, với 774 học viên, huyện Ba Vì mở được 13 lớp cho 5 xã, với 170 học viên, huyện Mỹ Đức mở 4 lớp cho 4 xã với 200 học viên. Huyện Hoài Đức mở 3 lớp cho 3 xã với 160 học viên học nghề theo lựa chọn, huyện Thanh Oai 27 lớp với 1430 học sinh. Nhất là 1999 ngành công nghiệp được UBND tỉnh Hà Tây, quan tâm hỗ trợ 1 tỷ đồng cho khuyến khích mở lớp nhân cấy nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, tuy số tiền còn có hạn chế nhưng đã động viên và tạo điều kiện cho các địa phương trong việc tổ chức dạy truyền nghề tại chỗ. Số lớp đào tạo và kinh phí đào tạo nghề, nhân cấy nghề tiểu thủ công nghiệp giai đoạn (1996 - 1998). Chỉ tiêu Năm Số lớp truyền nghề Số học viên tham gia Tổng kinh phí cho mở lớp truyền nghề (triệu đồng) Tổng 193 8.500 2.355,68 1996 51 2.757 912,86 1997 53 2.505 797,08 1998 89 3.238 645,74 Nguồn: Sở Công nghiệp - Hà Tây Kết quả sau khi học nghề xong, đã có 90% số người học nghề có việc làm tại chỗ và ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, góp phần sản xuất ra nhiều sản phẩm vừa phục vụ tiêu dùng nội địa, vừa xuất khẩu, tăng đóng góp cho ngân sách địa phương, giảm hộ nghèo tại địa phương. 3. Các loại doanh nghiệp và sản phẩm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. 3.1. Về các loại hình doanh nghiệp: Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, các loại hình như Công ty TNHH, DNTN, HTX CN - XD, tổ sản xuất cùng với kinh tế hộ gia đình được phát triển ngay trong các làng nghề, tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đến nay toàn tỉnh có hơn 50 công ty TNHH, 30 DNTN, 46 HTX CN - XD, 100 tổ sản xuất và trên 150.000 hộ gia đình tham gia làm nghề CN - TTCN, dịch vụ, thì trong các làng nghề đạt tiêu chuẩn qui định có 13 công ty TNHH, 20 DNTN, 13HTX XD 50 tổ sản xuất, 48.217 hộ cá thể gia đình làm CN - TTCN, dịch vụ. Các doanh nghiệp đó có trong làng nghề là hạt nhân trong hoạt động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, công nghệ sản xuất sản phẩm theo mẫu mã mới, góp phần duy trì phát triển ngành nghề, làng nghề tạo cho nhiều người có thêm việc làm, giảm dần hộ đói nghèo và làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh. Về vấn đề giá trị sản lượng sản xuất của tiểu thủ công nghiệp Hà Tây qua các năm cũng có phần cải thiện, trong từng loại hình doanh nghiệp đã có sự gia tăng về giá trị sản xuất năm sau cao hơn năm trước, mặc dù vậy ở đây cũng phải nói đến sự tăng lên về số lượng của các doanh nghiệp, cụ thể nó được thể hiện qua bảng sau: Tình hình phát triển các loại hình doanh nghiệp TTCN giai đoạn (1991 - 1998) Năm Đơn vị SX 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Hợp tác xã 85 46 31 30 30 35 36 46 Tổ sản xuất 110 104 70 82 100 110 92 100 DN tư nhân 3 9 38 37 29 22 30 30 Công ty TNHH - - - 2 14 20 39 50 Hộ cá thể gia đình 34871 43751 60183 59929 59710 60000 58000 66000 (Nguồn từ Sở Công nghiệp) Nhìn vào bảng qua các năm từ 1992 - 1998 các loại hình doanh nghiệp không ngừng tăng lên từ 159 vào 1992 lên 173 vào 1995 và tăng lên 187 và 197; 226 vào năm 1996 và 1997, 1998. Mặc dù vậy trong một số năm như 1993 - 1994 giảm xuống, song một số năm gần đây các loại hình doanh nghiệp đều tăng trừ doanh nghiệp tư nhân trong đó công ty TNHH tăng mạnh qua các năm từ 2 công ty vào năm 1994 tăng lên 50 công ty vào năm 1998, các hộ gia đình cũng không ngừng tăng lên trong tham gia sản xuất thủ công nghiệp ở các làng nghề, từ 34.871 hộ vào 1991 tăng lên 60.000 vào 1996, mặc dù có một sự giảm sút trong thời gian 1997. 3.2. Về các loại sản phẩm ngành nghề TTCN Hà Tây: Các làng nghề trong các năm 1991 - 1994 là 88 làng nghề và sau đó giảm xuống 85 làng nghề trong một số năm sau đó, và tới nay (từ 1998-1999) số làng nghề đã tăng lên tới 106 làng truyền thống thủ công. Sự xa sút và hồi phục làng nghề cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến số lượng, chất lượng sản phẩm từ làng nghề, trong một số năm gần đây với số làng nghề tăng lên cũng đã xuất hiện mới một số ngành nghề như dệt len, mút, đan cỏ tế, guột... Bên cạnh đó thì cũng kèm theo sự mai một một số ngành nghề truyền thống, bởi lý do không cạnh tranh nổi sản phẩm công nghiệp, thị trường tiêu thụ, cơ chế chính sách của Nhà nước Đảng... Có thế thí dụ ra đây như nghề làm ô, làm vành xe, mực... và những năm gần đây (1995) do chính sách của Nhà nước một số nghề như làm pháo ở xã Thanh Cao, Cao viên và Bình Minh (Thanh Oai) đã giải thể, và nay đã chuyển dần sang một số nghề mới như thêu ren, may, đồ mộc... Nhìn vào số liệu dưới đây về một số sản phẩm TTCN Hà Tây. Có thể thấy trong mấy năm gần đây, các sản phẩm vẫn không ngừng phát triển, như các mặt hàng: hàng thêu, quần áo may sẵn, gỗ xẻ các loại, đồ thủy tinh, đá... mặc dù vậy bên cạnh đó cũng có một số mặt hàng không thống kê được cũng như giảm về số lượng... (như hàng dệt thảm, vôi...) đó là do thị trường bị thu hẹp cũng như cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương không chặt chẽ. Một số các sản phẩm TTCN Hà Tây (1996 - 1999). Sản phẩm Đơn vị tính 1996 1997 1998 1999 1. Đá các loại 1000m3 431 658,5 710 985,3 2. Bánh kẹo các loại tấn - 326 743 1.200 3. Đường mật các loại tấn 1.165 1621 1.305 1.372 4. Rượu màu 1000lít - 1.893 114 38 5. Bia các loại 1000 lít - 2278 4921 4287 6. Nước khoáng 1000 lít 850 5927 656 880 7. Dệt thảm 1000m 6,7 6,5 0,33 0,58 8. Vải lụa thành phẩm 1000m - 1102 2250 1620 9. Hàng thêu 1000bộ 398 414 485,5 880 10. Quần áo may sẵn 1000cái 2100 1750 3478 3650 11. Gỗ xẻ các loại 1000m3 32 37 45,5 52 12. Giấy bìa các loại tấn 163 - 60 160 13. Gạch nung các loại triệu viên 711 655 568,7 606 14. Ngói nung các loại triệu viên 32 35 30,18 28,4 15. Vôi 1000 tấn 81 105 103 88 16. Gạch hoa 1000viên 5961 3102 3144 3860 17. Máy tuốt lúa Cái 15.000 3.290 1.709 1.310 18. Vải màn các loại 1000m - 8.980 9.353 6.000 19. Khăn mặt các loại 1000cái - 7822 14.578 16.000 20. Đồ thủy tinh tấn 37 70 80 108 21. Cày bừa các loại 1000cái 20,3 7 11 12 22. Xe cải tiến 1000cái 5,2 2 4,9 4,3 23. Xà phòng giặt tấn - 75 43 102 24. Hàng ren 1000m2 - - 8 8 25. Giầy dép da 1000đôi - - 91 120 26. Khâu bóng 1000quả - - 171 195 27. Hàng mây tre đan tỷ đồng - - 45,9 48,9 28. Hàng sơn mài khảm trai điêu khắc tỷ đồng - - 20,4 20 Nguồn: Cục Thống kê Hà Tây. 4. Về thị trường và hình thức tiêu thụ. Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm là nhiệm vụ đòi hỏi và bức xúc hiện nay của sản xuất kinh doanh nói chung và của CN - TTCN Hà Tây nói riêng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Hà Tây tập trung chủ yếu ở thị trường khu vực châu á, đặc biệt là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... chủ yếu tập trung vào các mặt hàng dệt, thêu, hàng mỹ nghệ. Ngoài ra còn có thị trường châu Âu, Nga...song thị trường này chưa được mở rộng. Thời gian vừa qua việc tiêu thụ sản phẩm TTCN ở khu vực Hà Tây còn gặp nhiều khó khăn do thị trường trong và ngoài nước biến động lớn, dẫn đến sản phẩm tồn kho nhiều, điển hình như khu vực huyện Phú Xuyên, huyện Thường Tín... Việc tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khói khăn còn do nguyên nhân phải kể đến đó là công tác tiếp thị còn hạn chế (tiếp cận thị trường không hợp lý) và sự cải tiến mẫu mã, chất lượng cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp và truyền thống ở khu vực khác là một yếu điểm. Mặt khác sự hỗ trợ của các cấp, các ngành còn rất hạn chế. Tuy nhiên sau một thời gian thử thách với cơ chế thị trường các tổ chức và cá nhân đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh các huyện đã có những kinh nghiệm nhất định, hình thành cách tiêu thụ riêng của mình tập trung một số hình thức: - Tổ chức điểm trưng bày giới thhiệu và bán sản phẩm sản xuất tại nơi sản xuất, hình thành khu vực hàng hóa riêng. - Hình thành các điểm bán và giới thiệu sản phẩm truyền thống làng nghề ở các khu di tích, danh lam thắng cảnh như: chùa Hương, Ao Vua, khu vực Ba Vì, Sơn Tây... - Mở các cửa hàng riêng, tổ chức đại lý tại các trung tâm thương mại lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn... - Đem hàng bán chậm trả đến các chợ, các quầy bán hàng trong và ngoài tỉnh. - Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu ủy thác. - Làm gia công. Đây là những hình thức tiêu thụ chính, đem lại hiệu quả cao cho các cơ sở sản xuất TTCN khu vực Hà Tây. Qua đây cũng cần đề nghị có sự quan tâm tích cực từ phí các cấp lãnh đạo từ huyện đến tỉnh, đặc biệt Sở Thương mại Hà Tây và các cơ quan vật giá sớm có chính sách cụ thể hỗ trợ về công tác thị trường tiêu thụ sản phẩm để ngành TTCN Hà Tây phát triển, sớm phát huy tối đa lợi thế làng nghề truyền thống của mình và có hướng đi vững chắc trong thời gian tới. 5. Cơ cấu trong nội bộ CN-TTCN 5.1. Cơ cấu ngành. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kinh tế xã hội. Cơ cấu ngành nghề trong CN - TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây có sự phân chia rõ rệt. Sự phân chia này nhằm khai thác tiềm năng về của tỉnh. Với thế mạnh là tỉnh có nhiều nguồn tài nguyên về giá trị sản xuất vật liệu xây dựng, cho nên CN - TTCN sản xuất vật liệu xây dựng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong giá trị của ngành CN - TTCN, mặt khác Hà Tây là tỉnh có điều kiện về phát triển nông nghiệp nên ngành chế biến nông sản chiếm tỷ trọng lớn (cao nhất) 40% vào năm 1997. Đây là ngành quan trọng và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong công nghiệp TTCN ngoài quốc doanh là đàu vào rất quan trọng cho sản xuất sản phẩm TTCN, làng nghề Hà Tây. Tình hình các loại sản phẩm mang tính làng nghề truyền thống có tỷ trọng không lớn, cho thấy nó chưa tương xứng với tiềm năng có thể phát triển của tỉnh: như may mặc chiếm 10% năm 1997 và tăng lên 11% năm 1998, 1999. Thủ công mỹ nghệ chỉ chiếm 8% năm 1997 và giảm xuống còn 7% năm 1998; 6% năm 1999. Qua đó cho thấy các giá trị sản phẩm làng nghề TTCN chưa tương xứng với khả năng phát triển trên địa bàn. Tỷ trọng của mỗi ngành về giá trị sản xuất CN - TTCN trên địa bàn 1997 - 1999 Hà Tây. Đơn vị tính: % Các ngành Tỷ trọng trong CN - TTCN 1997 1998 1999 - Chế biến nông sản - thực phẩm 40 35 36 - Sản xuất vật liệu xây dựng 20 25 24 - Chế biến lâm sản - khoáng sản 12 10 10 - Cơ khí - Điện máy - Bao Bì 10 12 13 - May mặc 10 11 11 - Thủ công mỹ nghệ 8 7 6 (Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Hà Tây). 5.2. Cơ cấu thành phần sở hữu. Cùng với sự đổi mới về cơ cấu, cơ chế kinh tế cả nước, cơ cấu thành phần sở hữu về sản xuất TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây cũng có những bước tiến triển phù hợp với sự chuyển đổi này, thể hiện qua khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn. Với quan điểm phát huy mọi thành phần kinh tế coi trọng vai trò kinh tế quốc doanh và các loại hình kinh tế hợp tác trong việc phát triển những ngành công nghiệp có triển vọng ở địa phương và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành các cấp có liên quan đã tiến hành sắp xếp cũng như cấp đăng ký kinh doanh hoạt động cho các doanh nghiệp đang hoạt động và các doanh nghiệp xin thành lập mới. Đến nay trong cơ cấu thành phần sở hữu về sản xuất CN - TTCN trên địa bàn tỉnh rất đa dạng đảm bảo cho sự phát triển tất cả các thành phần kinh tế. Xét theo sự phân bố về thành phần sở hữu sản xuất CN - TTCN của cac thành phần kinh tế, trên địa bàn tỉnh tồn tại các loại hình sở hữu: quốc doanh, ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu xét sự tồn tại của các cơ sở ngoài quốc doanh gồm có các hình thức: hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và tổ sản xuất, thể hiện cho các doanh nghiệp tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. *Cơ cấu thành phần sở hữu CN - TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây đến 31/12/1998. Loại hình Số lượng Tỷ lệ (%) 1997 1998 1997 1998 Tổng số 254 290 100% 100% Doanh nghiệp quốc doanh 43 46 16,93% 15,86% Các cơ sở ngoài quốc doanh 197 226 77,56% 77,93% Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 14 18 5,51% 6,2% (Nguồn: Sở kế hoạch - Đầu tư Hà Tây). Như vậy các cơ sở ngoài quốc doanh vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu thành phần sở hữu về sản xuất CN - TTCN. Xét trên góc độ sở hữu và các hình thức tồn tại cũng như vốn kinh doanh ta nhận thấy khu vực ngoài quốc doanh nói chung và tiểu thủ công nghiệp có tiềm năng rất lớn. Thành phần sở hữu về các loại hình, cơ sở này bao gồm các hộ cá thể, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, tổ sản xuất và hợp tác xã. Mặc dù vốn kinh doanh của từng cơ sở còn rất hạn chế nhưng tổng số vốn kinh doanh của khu vực này là rất lớn so với khu vực Nhà nước, đầu tư nước ngoài. Phát huy được hết tiềm năng của khu vực này sẽ tạo điều kiện phát triển CN - TTCN trên địa bàn Hà Tây, đối với cơ quan chức năng đây là khu vực rất khó kiểm soát bởi không thể nắm vững được hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở này. Trong cơ cấu về sở hữu của khu vực ngoài quốc doanh, các hộ cá thể gia đình chiếm một tỷ lệ cao về tổng số vốn kinh doanh, mặc dù vậy TTCN Hà Tây chưa phát huy được tối đa lợi thế của mình trong việc tạo ra giá trị sản phẩm và hàng năm đóng góp vào ngân sách còn thấp so với khu vực khác, cụ thể 1997 khu vực ngoài quốc doanh là 5,8 tỷ đồng trong khi khu vực Nhà nước và nước ngoài là 26,1 và 45,19 tỷ đồng. Điều đó đòi hỏi các cấp quản lý cần có chính sách hợp lý trong qui hoạch và quản lý cũng như phân bố hiệu quả quản lý vốn... *Hình thức sở hữu về vốn của các thành phần kinh tế (tính đến 31/12/1998) STT Vốn sản xuất kinh doanh (tỷ đồng) Tỷ lệ % 1997 1998 1997 1998 1. Khu vực Nhà nước 162,52 182 18,71% 4,76% 2. Khu vực đầu tư nước ngoài 225,766 316 25,99% 46,44% 3. Khu vực ngoài quốc doanh 480,38 475,3 55,3% 48,8% - Hợp tác xã 17,9 7,8 - Tổ sản xuất 14,4 14,7 - Doanh nghiệp tư nhân 17,39 17,5 - Công ty TNNN 52,57 57,2 - Hộ gia đình cá thể 37,04 378,1 Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư 6. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của TTCN trên địa bàn Hà Tây. 6.1. Giá trị sản xuất TTCN . Giá trị sản xuất của TTCN qua các năm (1995 - 1998). Về vấn đề giá trị sản lượng sản xuất của tiểu thủ công nghiệp Hà Tây qua các năm cũng có phần cải thiện, trong từng loại hình doanh nghiệp đã có sự gia tăng về giá trị sản xuất năm sau cao hơn năm trước, mặc dù vậy ở đây cũng phải nói đến sự tăng lên về số lượng của các doanh nghiệp. Tính từ 1992 - 1998 các loại hình doanh nghiệp không ngừng tăng lên từ 159 vào 1992 lên 173 vào 1995 và tăng lên 187 và 197; 226 vào năm 1996 và 1997, 1998. Mặc dù vậy trong một số năm như 1993 - 1994 giảm xuống, song một số năm gần đây các loại hình doanh nghiệp đều tăng trừ doanh nghiệp tư nhân trong đó công ty TNHH tăng mạnh qua các năm từ 2 công ty vào năm 1994 tăng lên 50 công ty vào năm 1998, các hộ gia đình cũng không ngừng tăng lên trong tham gia sản xuất thủ công nghiệp ở các làng nghề, từ 34.871 hộ vào 1991 tăng lên 60.000 vào 1996, mặc dù có một sự giảm sút trong thời gian 1997. Nhờ có sự tăng lên về số lượng trong những năm qua, cho nên nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng giá trị của TTCN khu vực Hà Tây, nó được thể hiện qua bảng sau: Giá trị sản lượng TTCN trên địa bàn Hà Tây (1995 - 1998) (Giá cố định 1994) Đơn vị: Triệu đồng Thành phần Năm Tập thể Tư nhân Cá thể Hỗn hợp 1995 6.510 12.820 988.863 11.267 1996 23.625 10.980 1.064.222 20.289 1997 22.535 11.110 1.123.745 36.248 1998 22.870 9.281 1.165.285 49.559 Chỉ số phát triển (năm trước = 100%) 1995 292,98 24,00 104,92 1996 362,90 85,65 107,62 180,07 1997 95,39 101,18 105,59 178,66 1998 101,49 83,54 103,7 136,57 (Nguồn từ: Niên giám thống kê 1998). Các doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức sắp xếp lại theo NĐ388 HĐBT và chỉ thị 500 TTg của TTCP nên số lượng giảm, trong khi đó số lượng các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh không ngừng tăng, và thực tế giá trị sản lượng cũng tăng lên, qua số liệu bảng trên, giá trị sản lượng của các thành phần tăng lên qua nhiều năm (theo giá cố định 1994) đặc biệt thành phần kinh tế tập thể chỉ có số phát triển cao là 362,9 vào 1996 thể hiện qua giá trị cũng tăng lên 17115 (triệu đồng) so với năm 1995, ngoài ra các thành phần kinh tế khác cũng không ngừng tăng, và đóng góp vào giá trị sản lượng lớn nhất là thành phần cá thể. Bên cạnh đó thành phần tư nhân cũng có sự giảm xuống trong năm 1998 và chỉ số phát triển của các thành phần có giảm xuống trong nhiều năm gần đây. Theo sự tính toán từ sở công nghiệp thì trong nhiều năm qua từ 1991 - 1999 (theo giá cố định 1994) thì tốc độ tăng bình quân của công nghiệp khối ngoài quốc doanh (TTCN) là 8,45% là một trong những khối có tốc độ cao so với công nghiệp Trung ương (3,25%), địa phương khối quốc doanh là 12,2%; trừ khối liên doanh nước ngoài (53,3% từ 1995 - 1999), chiếm 52,3% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh chiếm 85,2% giá trị CN - TTCN địa phương năm 1999. Giá trị sản xuất CN - TTCN Hà Tây (1995 - 1999) (Theo giá cố định 1994) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 Tốc độ tăng bình quân (%) Tổng 1430,5 1785,2 2099,5 2297,8 2537,5 khu vực doanh 315,5 335 343,8 379,9 400,2 3,2% + Quốc doanh TW. 169,9 165,1 145,8 163,0 164,0 + Quốc doanh địa phương 145,6 169,9 198,0 216,9 236,2 Khu vực ngoài quốc doanh 1019,5 1119,1 1193,6 1247 1329,6 8,45% Khu vực liên doanh nước ngoài 95,5 331,1 562,1 670,9 807,7 53,5% (Nguồn từ: Sở Công nghiệp Hà Tây). 6.2. Tình hình thu hút lao động và nộp ngân sách của TTCN Hà Tây 6.2. 1. Tình hình thu hút lao động của các doanh nghiệp TTCN (khu vực ngoài quốc doanh). Hoạt động sản xuất CN - TTCN ngày nay ở địa bàn tỉnh ngày một được mở rộng và phát triển đã góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh. Trong giai đoạn hiện nay khu vực ngoài quốc doanh là khu vực thu hút số lao động cao nhất, so với khu vực quốc doanh và đầu tư nước ngoài. Lao động thu hút vào sản xuất CN - TTCN 1997 - 1998. Đơn vị tính: Người Năm Khu vực kinh tế 1997 1998 Khu vực kinh tế quốc doanh 9.759 10.772 Khu vực ngoài quốc doanh 154.900 154.473 + Tập thể 2.011 1.927 + Tư nhân 1.980 2.444 + Cá thể 145.000 143.000 + Hỗn hợp 5.909 6.502 Khu vực đầu tư nước ngoài 1.485 2.585 (Nguồn: Niên giám thống kê 1999 Hà Tây ) Theo số liệu bảng bên khu vực ngoài quốc doanh (trong đó bao gồm các hình thức sản xuất TTCN) đã giải quyết phần lớn số lao động trong ngành CN - TTCN, năm 1997 và 1998 lần lượt là 154.900 và 154.473 với số lao động của tỉnh năm 1997 và 1998 là: 1.130.000; 1.256.100 người. Vậy khu vực TTCN (khu vực ngoài quốc doanh) đã được giải quyết được lượng lao động là: 1997: 154.900/1.130.000 = 13,70% 1998: 154.473/1.256.100 = 12,29%. Vậy khu vực TTCN nói chung hay khu vực ngoài quốc doanh giải quyết việc làm có giảm xuống vào năm 1998. - Trong khu vực kinh tế TTCN giải quyết nhiều việc làm nhất phải kể đến ngành chế biến gỗ, lâm sản năm 1997 là 21.680, năm 1998 là 20.689 lao động, khu vực sản xuất giấy là 399 vào 1997, 499 lao động vào năm 1998, ngành sản xuất tủ bàn, ghế lần lượt là 8519 và 9176 lao động. 6.2.2. Tình hình đóng góp ngân sách của TTCN Hà Tây. Đóng góp của TTCN Hà Tây vào ngân sách được thể hiện qua khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như sau: Đơn vị: Tỷ VNĐ. Năm Khu vực 1996 1997 1998 Khu vực kinh tế Nhà nước 25,8 26,1 30,7 Khu vực ngoài quốc doanh 4,1 5,8 7 Khu vực vốn đầu tư nước ngoài 17 45,2 74 Tổng 46,9 77,1 111,7 Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Hà Tây Như vậy đóng góp vào ngân sách từ khu vực ngoài quốc doanh là ít nhất so với khu vực đầu tư nước ngoài và quốc doanh. Chiếm 8,74% và 7,52%; 6,27% vào 1996 và 1997, 1998. - Tính đến 1998 đóng góp thấp hơn khu vực vốn nước ngoài 10,5 lần khu vực quốc doanh 4,3 lần. Qua quá trình nghiên cứu trên ta có nhận xét TTCN Hà Tây đóng góp vào giải quyết lao động lớn , song nguồn thu từ khu vực này là rất thấp cho thấy sự yếu kém trong công tác quản lý TTCN Hà Tây . 6.3. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của TTCN Hà Tây . Trong số các sản phẩm xuất khẩu trên địa bàn Hà Tây thì sản phẩm thuộc TTCN chiếm ưu thế trong xuất khẩu trên địa bàn, thể hiện qua một số mặt hàng xuất khẩu như: mây tre đan, hàng mỹ nghệ, thảm len, thêu, áo thêu Kimono, hàng dệt... Hàng mây tre đan năm 1997 tăng 19 lần so với năm 1991, hàng sơnmài khảm tăng 20 lần, hàng thêu ren Vơni từ 13 đến 22 lần. Riêng hàng thêu áo Kimono cho Nhật, Triều Tiên tăng tới 200 lần. Một số mặt hàng khác như thảm len, thảm đay... cũng tăng bình quân từ 28 - 69% giai đoạn 1991 - 1998. Một số mặt hàng xuất khẩu (1991-1998) Năm Tên SP Đơn vị 91 92 93 94 95 96 97 Tốc độ tăng bq 98 1. Hàng mây tre Triệu $ 0,213 0,312 0,497 0,200 0,52 0,056 4,2 19lần 1,43 2. Hàng mỹ nghệ Triệu $ 0,044 0,354 0,312 0,170 0,0702 - 0,9 20 lần 0,8 3. Thảm len 1000m2 3,1 3,1 9 15,18 12,7 11,8 14 28,5% 11,1 4. Hàng thêu 1000 bộ 20,73 3,28 10,78 5,244 301,2 192,5 462 22 lần 420 5. Ren Vơni m2 476 161 - 1000 2000 2200 6200 13 lần - 6. áo thêu Kimono chiếc 1007 9868 - 429.798 - 200.000 - 200 lần - 7. Thảm đay, cói m2 1797 - - - - 25.000 - 69% - 8. Hàng may, dệt kim Triệu $ - 0,2 - - - 0,5 2,1 60% 2,3 ( Nguồn : sở công nghiệp Hà Tây ). Giá trị xuất khẩu TTCN Hà Tây ( 1996-1998). Đơn vị: triệu VND Năm 1996 1997 1998 Giá trị 95.800 124.433 134.000 ( Nguồn: sở kế hoạch đầu tư - Hà Tây ). Nhìn vào bảng số liệuvề mặt hàng xuất khẩu và giá trị xuất khẩu TTCN trên địa bàn Hà Tây ta có nhân xét: Về số lượng mặt hàng đều tăng cao trong các năm từ 1991-1997, song bước sang năm 1998 có chững lại, một số mặt hàng có xu thé giảm xuống , như hàng ( mây tre đan, thảm len ... ). Về giá trị xuất khẩu qua các năm1996-1998 đều tăng , song có tốc độ tăng chậm dần , giá trị tăng chậm không phù hợp với tốc độ tăng về số lượng, điều đó chứng tỏ giá cả của các mặt hàng TTCN bị ảnh hưởng trong thời gian qua, cụ thể thời kỳ 1996-1998. III. Đánh giá chung về sự phát triển TTCN tỉnh Hà Tây. 1. Những thành tựu đạt được. * Về phía làng nghề: - Các làng nghề tồn tại, phát triển đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân, góp phần ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội nông thôn. Các sản phẩm của làng nghề rất đa dạng, phong phú, đáp ứng được phần nào thị hiếu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Các làng nghề phần lớn tận dụng các nguồn lực của địa phương (nguyên liệu dễ tìm và lao động tại chỗ), trong các làng nghề, người chỉ làm nông nghiệp thuần túy có mức thu nhập thấp hơn người tham gia làng nghề (cụ thể năm 1999, thu nhập của một thuần nông 1.459.000đ/năm trong khi một lao động kiêm sản xuất TTCN và chuyên sản xuất TTCN là 3.551.000đ; 5.236.000đ. - Trong giai đoạn (1996 - 1999) mặc dù tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực kéo dài, thời tiết phức tạp, sức mua của thị trường giảm. Nhưng sản xuất CN - TTCN trong tỉnh nói chung và của làng nghề nói riêng vẫn ổn định và có mức tăng trưởng trên 10%. - Nhiều sản phẩm của làng nghề như: mây tre giang đan, thêu ren, thảm len, may mặc, dệt lụa tơ tằm, khăn mặt, dệt quần áo len mút, đệm tơ, lưới, điêu khắc, sơn mài mỹ nghệ, khảm trai mỹ nghệ, chế biến lâm sản gỗ... là những mặt hàng sản xuất ngày một tăng, góp phần phục hồi tiêu dùng nội địa, phục vụ cho xuất khẩu... (sản xuất chủ yếu ở Phú Xuyên, Thường Tín ...) - Việc khôi phục làng nghề, nhân cấy nghề được nhiều ngành nhiều cấp quan tâm chú ý hơn, cụ thể năm 1998 - 1999 đã khôi phục được 106 làng nghề, là bước nhảy vọt so với các năm trước khoảng 88 làng nghề vào năm 1995, hiện trên địa bàn Hà Tây có 9 huyện, thị xã mở lớp dạy nghề, truyền nghề SXCN - TTCN tạo cho trên 8.000 người có thêm việc làm, tăng thu nhập. Nhất là sau khi được tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Hà Tây có chính sách hỗ trợ kinh phí khuyến công 1999, trong đó có hỗ trợ kinh phí nhân cấy nghề, thì hầu hết các huyện thị trong tỉnh mở được lớp dạy, truyền nghề SXCN - TTCN cho nhiều người đến độ tuổi lao động... - Góp phần vào thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 8 và kết luận 02 của tỉnh về phát triển CN - TTCN nhân cấy nghề mới, làm giảm số hộ thuần nông, tăng số hộ chuyên và kiêm sản xuất TTCN cũng như hộ hoạt động dịch vụ góp phần xóa đói giảm nghèo. * Về phía khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: Khu vực này nó bao gồm tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp nói chung trên địa bàn, trong những năm qua đã có những bước tiến khá. - Về cơ cấu thành phần sở hữu khu vực này chiếm 77,56% vào năm 1997 và 77,93% vào 1998. Chủ yếu là loại hình hợp tác xã, tổ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn (Cty TNHH), hộ gia đình cá thể và xuất phát từ yếu tố đó thì khu vực này giải quyết số lượng lớn lao động trong khu vực CN - TTCN, năm 1997 là 154.900 người, năm 1998 là 154.473 người khu vực cá thể (làng nghề) là khu vực giải quyết việc làm với số lượng lớn nhất. - Những năm qua nhờ có sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế và các cấp, các ngành số lượng các đơn vị tham gia sản xuất ngày một tăng lên. Chính nhờ đó mà sản lượng giá trị sản xuất hàng năm đều tăng lên. Cụ thể giai đoạn 1995-1999 tăng 8,45%/năm, trong khi khối quốc doanh là 3,25%/năm. - Các sản phẩm chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, sản phẩm dệt may, thủ công mỹ nghệ đều có mức tăng trưởng khá, bước đầu khôi phục lại một số làng nghề, làng nghề mới được hình thành và đi vào hoạt động. Có nhiều mô hình sản xuất và chế biến nông sản như: xay xát thóc gạo ở Đức Giang, chế biến tinh bột, sắn ở Minh Khai - Dương Liễu - Hoài Đức, Quốc Oai, Chương Mỹ, chế biến gỗ, hàng mộc ở Liên Trung - Đan Phượng, hàng thêu ren ở Đồng Tân - Thường Tín, mây tre đan ở Phú Vinh - Chương Mỹ, Phú Xuyên... - Các sản phẩm xuất khẩu TTCN Hà Tây ngày một tăng về số lượng và chất lượng. 2. Những tồn tại và khó khăn. - Hình thức sản xuất kinh doanh TTCN chưa được kiểm soát chặt chẽ từ phía cơ quan chức năng. - Việc khôi phục làng nghề cũ, phát triển làng nghề mới nhiều tuy có sự phát triển, song sự phát triển chưa mạnh, chưa vững chắc chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh vốn là đất trăm nghề, ảnh hưởng lớn đến sự đóng góp của TTCN, làng nghề cho ngân sách và tỷ trọng GDP. - Sự phát triển của làng nghề chưa được qui hoạch tổng thể, qui hoạch chi tiết về CN - TCN, nên sự phát triển chủ yếu là tự phát, và đã có một số làng nghề trong sản xuất gây ô nhiễm môi trường xung quanh như: (3 xã Minh Khai, Cát Quế, Dương Liễu huyện Hoài Đức) diện tích ô nhiễm lên tới 308 ha. Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp chưa làm được nhiều, với TTCN nhiều làng nghề truyền thống, tiềm năng lớn, song phát triển tản mạn, tự phát, thiết bị công nghệ còn lạc hậu và chưa kết hợp được truyền thống hiện đại, chậm đổi mới. - Cơ sở hạ tầng bị xuống cấp (đường, điện, trạm...) ảnh hưởng không nhỏ đến cung cấp và tiêu thụ sản phẩm đầu vào đầu ra của làng nghề TTCN nói chung trên địa bàn. - Về thị trường tiêu thụ sản phẩm vẫn còn là khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất TTCN và khó khăn chung đối với tất cả các thành phần kinh tế, trong thời gian vừa qua TTCN Hà Tây chỉ tập trung chủ yếu khu vực Châu á, Song do khủng hoảng kinh tế nên thị trường này có xu hướng giảm dần vào thời gian gần đây , một số thị trường Nga , EU ,Mỹ tiêu thụ còn rất thấp. Do sản phẩm không tiêu thụ rộng rãi trên thị trường dẫn tới các doanh nghiệp không thể mở rộng sản xuất của mình. Điều này không những ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển TTCN và giải quyết lao động trên địa bàn, dẫn đến TTCN phát triển chưa vững chắc... Bên cạnh đó việc tổ chức nắm bắt nguồn hàng và tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp chưa được coi trọng đúng mức, mặc dù các doanh nghiệp sản xuất đã căn cứ vào nhu cầu thị trường. - Các nghệ nhân, thợ tài hoa chưa được nhà nước quan tâm đúng mức. Việc xét phong tặng công nhận cho họ về mặt pháp lý Nhà nước chưa được thể chế hóa bằng những chính sách cụ thể. Mặt khác việc nhân cấy nghề, mở lớp dạy nghề cho con em nông thôn đến tuổi lao động còn nhiều khó khăn về kinh phí. 3. Nguyên nhân của tồn tại, khó khăn. - Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về CN - TTCN nói chung và ngành nghề, làng nghề, nhân cấy nghề nói riêng hãy còn nhiều bất cập. Các phòng công nghiệp huyện thị xã chưa được thể chế hóa lại, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức biên chế bộ máy quản lý. Các xã chưa có cán bộ theo dõi chuyên ngành nghề CN - TTCN, dịch vụ. - Sự nhận thức về phát triển ngành nghề, làng nghề nhân cấy nghề của một số ngành, địa phương, trong tỉnh còn chậm, chưa đầy đủ. - Chiến lược tiêu thụ sản phẩm (tiếp thị) ở làng nghề còn nhiều khó khăn bất cập, chưa được tháo gỡ kịp thời. - Do ảnh hưởng của khủng hoảng, nên một số sản phẩm bị thu hẹp thị trường tiêu thụ. - Một nguyên nhân nữa là thiết bị sản xuất ở các cơ sở sản xuất TTCN lạc hậu, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm và giá thành cũng như năng xuất lao động. Chương III Phương hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2005 I. những căn cứ cơ bản cho việc phát triển tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2005. 1. Quan điểm phát triển TTCN Hà Tây. 1.1. Phục hồi và phát triển TTCN truyền thống -Việc phục hồi phát triển các làng nghề truyền thống không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt văn hoá xã hội. Vì khi bán sản phẩm truyền t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16347.DOC