Đề tài Phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ 1978 đến nay và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tài liệu Đề tài Phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ 1978 đến nay và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam: Lời giới thiệu Du lịch là một lĩnh vực phát triển tương đối muộn ở Trung Quốc, chỉ thực sự được chú ý từ sau khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa năm 1978. Tuy nhiên, với ưu thế lớn về nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn vô cùng phong phú, cùng với nhu cầu tìm hiểu về một đất nước Trung Quốc đầy bí ẩn đối với thế giới đã trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy du lịch Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong suốt gần 30 năm từ khi bắt đầu tiến hành cải cách. Trong những năm tháng cải cách mở cửa, du lịch đã trở thành ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất, mạnh mẽ nhất trong nền kinh tế Trung Quốc. Hiện nay, du lịch Trung Quốc không những có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Trung Quốc, đóng góp 5,4% GDP cả nước mà còn là một phần quan trọng của du lịch thế giới. Trung Quốc với ngành Du lịch quốc tế đến từ xuất phát thấp đã nhanh chóng trở thành quốc gia có lượng khách quốc tế và thu nhập từ du lịch quốc tế đến đứng thứ năm trên thế giới. Vậy Trung Quốc đã...

doc91 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ 1978 đến nay và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời giới thiệu Du lịch là một lĩnh vực phát triển tương đối muộn ở Trung Quốc, chỉ thực sự được chú ý từ sau khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa năm 1978. Tuy nhiên, với ưu thế lớn về nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn vô cùng phong phú, cùng với nhu cầu tìm hiểu về một đất nước Trung Quốc đầy bí ẩn đối với thế giới đã trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy du lịch Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong suốt gần 30 năm từ khi bắt đầu tiến hành cải cách. Trong những năm tháng cải cách mở cửa, du lịch đã trở thành ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất, mạnh mẽ nhất trong nền kinh tế Trung Quốc. Hiện nay, du lịch Trung Quốc không những có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Trung Quốc, đóng góp 5,4% GDP cả nước mà còn là một phần quan trọng của du lịch thế giới. Trung Quốc với ngành Du lịch quốc tế đến từ xuất phát thấp đã nhanh chóng trở thành quốc gia có lượng khách quốc tế và thu nhập từ du lịch quốc tế đến đứng thứ năm trên thế giới. Vậy Trung Quốc đã làm như thế nào để có được thành tựu to lớn như vậy trong một thời gian ngắn? Liệu vấn đề có hoàn toàn phụ thuộc vào những tiềm năng du lịch sẵn có của Trung Quốc hay còn do nhiều yếu tố khác tích hợp lại? Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có quan hệ tương tác với nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, chính trị, môi trường…Vì vậy, muốn đánh giá đúng nguyên nhân tại sao du lịch quốc tế đến của Trung Quốc có được thành tựu này và liệu Trung Quốc có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển như vậy, cần có cái nhìn khái quát, xem xét khách quan trong quá trình phát triển du lịch Trung Quốc nói chung và du lịch quốc tế đến nói riêng. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, lại có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá và con đường phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu Trung Quốc là một vấn đề quan trọng nhằm nâng cao hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước. Hơn nữa, những năm gần đây, du lịch Việt Nam cũng đang là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đã xây dựng mục tiêu phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Do đời sống người dân Việt Nam còn thấp, thu nhập từ du lịch nội địa ở Việt Nam còn chưa cao, do đó phát triển du lịch quốc tế đến Việt Nam đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Xuất phát từ những điểm trên đây, là một sinh viên chuyên ngành Trung Quốc tôi muốn tìm hiểu về quá trình phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ sau cải cách mở cửa đến nay và đặc biệt là trong thời gian gần đây, qua đó bước đầu tìm hiểu một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển du lịch quốc tế đến ở Việt Nam. Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ 1978 đến nay và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam”. Bản thân khoa học du lịch là một ngành mới ra đời và phát triển. Hoạt động nghiên cứu về du lịch chỉ mới bắt đầu trở thành một nhu cầu quan trọng vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX, khi mà hiệu quả kinh tế của du lịch, đặc biệt ở các nước đang phát triển được thừa nhận, du lịch Trung Quốc lại càng là một vấn đề mới. Tuy nhiên, với sức phát triển thần kỳ của ngành du lịch Trung Quốc nó đã thu hút được sự quan tâm, chú ý, nghiên cứu của nhiều nhà du lịch học trên thế giới. ở Việt Nam, vấn đề này cũng đã được bàn khá sôi nổi trên các tạp chí Du lịch Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc và một số báo kinh tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn chưa có một công trình lớn nào đi sâu nghiên cứu du lịch Trung Quốc nói chung và du lịch quốc tế đến Trung Quốc nói riêng. Chính vì vậy, tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm và tham khảo tư liệu. Với những tài liệu có hạn bằng tiếng Việt và tiếng Trung mà tôi thu thập được, tôi chỉ hy vọng đóng góp một phân nhỏ bé trong việc tìm hiểu về du lịch Trung Quốc nói chung và du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc nói riêng. Cũng bởi những hạn chế trên cùng với khả năng và trình độ có hạn của một sinh viên đại học bước đầu tham gia nghiên cứu, luận văn không thể tránh khỏi nhiều sai sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến, nhận xét quý báu của thầy cô và bạn bè. 1. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, tôi lấy hệ thống quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận chung của luận văn. Trong quá trình triển khai đề tài, do đặc điểm nghiên cứu về lĩnh vực du lịch nên tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của bộ môn khoa học du lịch như thu thập và xử lý tư liệu, phương pháp cân đối kinh tế, phân tích hệ thống, phân tích xu thế, các phương pháp xử lý bằng công cụ tin học... Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp truyền thống như phân tích, tổng hợp, chứng minh…để lý giải vấn đề, xác lập luận điểm, luận cứ cho luận văn. 2. Kết cấu của luận văn gồm ba chương: Chương I: Giới thiệu chung Chương II: Quá trình phát triển du lịch quốc tế đến Trung Quốc 1978 đến nay. Chương III: Một số kinh nghiệm đối với phát triển du lịch quốc tế đến ở Việt Nam. Để hoàn thành luận văn này, tôi đã được sự hướng dẫn tận tình, sâu sắc của 2 thạc sĩ hướng dẫn, giảng viên chuyên ngành Trung Quốc học, khoa Đông Phương học, trường Đại học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến hai Cô giáo. Nhân dịp này, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Đông Phương, các thầy cô ở Viện nghiên cứu Trung Quốc đã truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học. CHƯƠNG I: Giới THiệU CHUNG I. Một số khái niệm 1. Du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được Latinh hoá thành tornus và sau đó thành tourisme trong tiếng Pháp, tourism trong tiếng Anh. Do hoàn cảnh về thời gian, khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có cách hiểu về du lịch khác nhau. Có người đã nhận định “ đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Giáo sư viện sĩ Nguyễn Khắc Viện cho rằng “ du lịch là sự mở rộng không gian văn hoá của con người”. Tiến sĩ Trần Nhạn trong cuốn sách du lịch và kinh doanh du lịch định nghĩa: “Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng tiền” (2). Hai học giả Thụy Sĩ Hunriker và Kraof cho rằng: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ” (3). Định nghĩa này về sau đã được hiệp hội các chuyên gia khoa học về du lịch thừa nhận. Các nhà kinh tế du lịch trường đại học kinh tế Praha lại định nghĩa: Tất cả các hoạt động, tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ các cuộc hành trình và lưu trú của con người ngoài nơi cư trú với nhiều mục đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng người thân là du lịch. Do đó, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội ( hiểu theo nghĩa từ đơn giản đến phức tạp ) mà còn là một hoạt động về kinh tế. Vì vậy, nếu gộp định nghĩa bằng cách gộp các nội dung khác nhau vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó hiểu và không rõ ràng. Các tác giả trong cuốn sách “Nhập môn Khoa học Du lịch” đã tách thuật ngữ du lịch thành hai phần để định nghĩa nó cho đầy đủ, chính xác hơn: Du lịch có thể được hiểu là: Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích hồi phục sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. 2. Du lịch quốc tế và du lịch quốc tế đến Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà trong đó quá trình thực hiện nó có sự giao tiếp với người nước ngoài, một trong hai phía (du khách hay nhà cung ứng du lịch) phải sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp. Về mặt không gian điạ lý: du khách đi ra ngoài đất nước của họ. Về mặt kinh tế: có sự giao dịch, thanh toán bằng ngoại tệ. Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du lịch. Nói cách khác, du lịch quốc tế đến hay du lịch đón khách ( nếu nói theo cách của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch) là loại hình du lịch quốc tế phục vụ, đón tiếp khách nước ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất nước của cơ quan cung ứng du lịch. II. Xu hướng du lịch thế giới ngày nay Nếu như thời cổ đại, hiện tượng du lịch chỉ là du lịch tôn giáo với những chuyến đi truyền giáo của các tu sĩ, với những cuộc hành hương tới các thánh địa, đền chùa, đến các nhà thờ Kitô giáo thì, ngày nay với các hình thức phong phú như: du lịch xanh, du lịch văn hoá, du lịch thể thao, du lịch chữa bệnh, du lịch khám phá, du lịch quốc tế, du lịch nội địa… du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá - xã hội của đa số quần chúng nhân dân các nước. Trong thời đại hiện nay, số lượng khách du lịch nước ngoài tăng lên rất nhanh. Nếu năm 1950 trên toàn thế giới có hơn 25 triệu lượt khách du lịch quốc tế thì con số đó đã tăng lên gần 290 triệu vào năm 1980 và tăng lên thành 625 triệu vào năm 1998. Những nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng bùng nổ về lượng du khách quốc tế đó là: Mức sống của người dân ngày càng tăng lên, thời gian rảnh rỗi ngày càng nhiều. Trong khi đó, giá cả các dịch vụ ngày càng hạ hơn, giao thông phát triển nhanh chóng, mức độ ô nhiễm môi trường ở nơi cư trú thường xuyên của du khách, đặc biệt là ở các thành phố và các khu đô thị ngày càng trầm trọng, trình độ dân trí ngày càng cao đã kích thích nhu cầu du lịch tăng lên nhằm mục đích nghỉ ngơi thư giãn, nâng cao hiểu biết, hồi phục sức khoẻ… Sự phát triển nhanh chóng đa dạng của các phương tiện giao thông như ô tô, máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ…cùng với giá cả dịch vụ và hàng hoá không đắt đã khiến du lịch không còn là một đặc quyền đặc lợi của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu hướng quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở mọi nước. Một xu hướng mới phát triển nhưng đầy triển vọng là xu hướng chuyển động Tây-Đông. Theo các chuyên gia du lịch, thế kỉ 21 được gọi là thế kỉ của Châu á-Thái Bình Dương. Số lượng du khách đến các nước trong khu vực này thời gian gần đây không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1960 số du khách quốc tế đến khu vực này chỉ có 704 nghìn lượt người thì năm 2000 số lượng du khách quốc tế đến đây đã lên tới trên 100 triệu lượt người. Một số đến đây tìm cơ hội làm ăn, ký kết hợp đồng, nghiên cứu điều kiện đầu tư do đây là khu vực kinh tế mới phát triển và có tốc độ phát triển rất cao. Một số khác đến đây vì cảnh quan thiên nhiên hay vì muốn tìm hiểu một số nền văn hoá Phương đông đầy bản sắc và phần nào kỳ bí đối với họ. Những công trình kiến trúc ẩn chứa những giá trị tinh thần to lớn, những phong tục tập quán khác lạ…đã góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch hấp dẫn cho khu vực này. Trung Quốc là một quốc gia có tiềm năng phát triển du lịch vô cùng to lớn, điều kiện du lịch Trung Quốc phù hợp với xu hướng du lịch thế giới, giá cả du lịch ở Trung Quốc tương đối thấp so với giá ở các nước Châu Âu và Bắc Mĩ, phù hợp với lượng khách đông đảo thuộc tầng lớp trung lưu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc những năm gần đây cao vào loại bậc nhất trên thế giới. Trung Quốc còn là một quốc gia rộng lớn không chỉ có phong cảnh thiên nhiên mỹ lệ, kỳ vĩ, có bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời mà còn có nền văn minh rực rỡ kéo dài suốt mấy nghìn năm lịch sử. Đây chính là những yếu tố vô cùng hấp dẫn thu hút khách du lịch quốc tế đến Trung Quốc. III. Tài nguyên du lịch của Trung Quốc . Nói đến du lịch cần phải nói đến tài nguyên du lịch. Không có tài nguyên du lịch thì không thể phát triển du lịch được. Tài nguyên du lịch trên thế giới được chia làm hai loại: tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Dưới đây tôi xin giới thiệu vài nét về hai nguồn tài nguyên này của Trung Quốc. 1.Tài nguyên thiên nhiên Điều kiện tự nhiên là một phần quan trọng đối với phát triển du lịch. Trong nhịp sống hối hả và căng thẳng của thời đại công nghiệp hiện đại, rất nhiều du khách có xu hướng tìm về với thiên nhiên, muốn hoà mình vào thiên nhiên hoang dã, ngắm nhìn khung cảnh tự nhiên mỹ lệ và tận hưởng không khí trong lành, dễ chịu. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn với lãnh thổ rộng 9,6 triệu km2, có địa hình đa dạng, khí hậu phức tạp, bờ biển dài giáp với đại dương lớn nhất thế giới -Thái Bình Dương, là yếu tố vô cùng thuận lợi, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển du lịch. Địa hình là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, địa hình càng đa dạng, tương phản và độc đáo thì càng có sức hấp dẫn du khách. Các nhà nghiên cứu du lịch chỉ ra rằng trong các kiểu địa hình, kiểu địa hình Karst ( núi và hang động) là những tài nguyên du lịch rất có giá trị, bởi du khách thường có xu hướng ưa thích những nơi nhiều đồi núi. Trung Quốc là một quốc gia có địa hình đa dạng với năm kiểu địa hình chính là núi, cao nguyên, bồn địa, đồng bằng và gò núi. Miền núi chiếm 2/3 diện tích toàn quốc với những đỉnh núi cao nhất nhì thế giới như ChôMôLungMa cao 8848m hay ChoiGơRi cao hơn 8000m so với mặt biển. Ngoài ra, còn có bộ phận gò núi gồm các núi cao dưới 500m so với mặt nước biển, chiếm 10% diện tích toàn quốc với các gò núi nổi tiếng như gò núi Giang Nam, Lưỡng Quảng, Liêu Đông… Cao nguyên Thanh Tạng với độ cao hơn 4500m được mệnh danh là “nóc nhà của thế giới” đã tạo cho phong cảnh thiên nhiên đất nước Trung Hoa trở nên hùng vĩ và hoành tráng. Cũng nhờ lãnh thổ trải rộng theo cả chiều Bắc - Nam, Đông - Tây nên khí hậu Trung Quốc cũng rất đa dạng, phức tạp. Khí hậu trên các vùng miền khác nhau tương đối rõ rệt. Nằm khoảng từ vĩ độ 20o đến vĩ độ 500 của nửa cầu Bắc, lại chịu tác động của địa hình cao, thấp khác nhau và hệ thống khí quyển hoàn lưu Đông á, Trung Quốc có tất cả các loại hình khí hậu trên thế giới: xích đạo, nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới nóng, ôn đới và ôn đới lạnh. Sự đa dạng về khí hậu đã khiến cho thiên nhiên Trung Quốc có muôn màu, muôn vẻ khác nhau, từ những rừng mưa nhiệt đới, những vùng thực vật xanh lá quanh năm ứng với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới phương Nam đến cảnh sắc mùa đông tuyết phủ khắp núi rừng ở phương Bắc mà đi liền với nó là hệ động, thực vật vô cùng phong phú. Tất cả tạo nên sức hấp dẫn lớn lao đối với du khách, đặc biệt là du khách quốc tế từ các nước thuộc các miền khí hậu khác nhau. Theo một thống kê của tổ chức du lịch thế giới WTO, trung bình cứ 3 người đi du lịch thì có một người đi nghỉ biển. Trung Quốc có bờ biển kéo dài 32.000 km với các bãi biển tuyệt đẹp như bãi biển Bắc Hải, Đại Liên, những hòn đảo như những hòn ngọc quý như đảo Hải Nam, Hoàng Cầm…và hơn 5000 hòn đảo lớn nhỏ là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với sự nghiệp phát triển du lịch Trung Quốc. Một nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quan trọng không thể không nhắc đến của Trung Quốc đó là hệ thống sông hồ kết hợp với núi non tạo nên những bức tranh sơn thuỷ hữu tình vô cùng mỹ lệ. Nhắc đến Trung Quốc hẳn không ai trong chúng ta không biết đến cảnh “sông nước Quế Lâm”, “Tây Hồ Hàng Châu”, “Tam Hiệp Trường Giang”…là các thắng cảnh tuyệt vời đã từng được bình chọn xếp trong mười phong cảnh đẹp nhất của Trung Quốc. Tất cả sự kết hợp hài hoà đến tuyệt vời của sông, núi, hồ (sơn và thuỷ) này là yếu tố hấp dẫn du khách thưởng ngoạn từ hàng bao thế kỷ đến nay vẫn không thay đổi. Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú đã giúp Trung Quốc có được bảy di sản thiên nhiên thế giới. Những di sản thiên nhiên này đã góp phần tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành du lịch Trung Quốc. 2.Tài nguyên văn hoá nhân văn Có thể nói nếu như nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng là một yếu tố góp phần quan trọng trong sự phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc thì tài nguyên văn hoá nhân văn là yếu tố quyết định tạo điều kiện đưa ngành du lịch Trung Quốc trở thành “đại sản nghiệp”, trở thành ngành kinh tế trọng điểm quốc gia có vị trí thứ 3 trong các ngành kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc là một trong những cái nôi của loài người, cũng là quốc gia duy nhất có nền văn minh phát triển rực rỡ liên tục từ thời cổ đại, và cho đến tận ngày nay văn hoá văn minh Trung Quốc vẫn là một điểm sáng trong nền văn hoá thế giới. Trải qua nhiều thiên niên kỷ xây dựng và phát triển, các dân tộc Trung Hoa đã không ngừng sáng tạo cống hiến cho toàn nhân loại rất nhiều báu vật tuyệt vời mà điển hình đến nay Trung Quốc đã được Unesco công nhận 26 di sản văn hoá thế giới. 2.1. Các thành phố văn hoá lịch sử Đây chính là nguồn tài nguyên rất có giá trị trong các nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của Trung Quốc. Trải qua thời kỳ lịch sử hơn năm nghìn năm phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá từ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế trong truyền thuyết đến các triều đại phong kiến sau này người dân Trung Hoa đã tạo ra hàng loạt các thành phố văn hoá lịch sử nổi tiếng như Bắc Kinh, Tây An, Lạc Dương, Côn Minh, Tô Châu, Diên An, Quảng Châu, Thành Đô, Khúc phụ…Trong đó có “lục đại” cố đô gồm: Bắc Kinh, Tây An, Khai Phong, Nam Kinh, Hàng Châu, Lạc Dương và từ năm 1988 là “thất đại” cố đô ( Sau khi hội đồng thường vụ học hội cố đô Trung Quốc quyết định xếp thêm An Dương ( tỉnh Hà Nam) là một trong những kinh đô lớn trong lịch sử Trung Quốc). Tại những địa danh này, bên cạnh những toà nhà cao ốc, những khu phố sầm uất mới phát triển, thể hiện thành tựu của công cuộc đổi mới cải cách mở cửa phát triển kinh tế của Trung Quốc, vẫn còn đó những khu đô thị cổ kính, những ngôi nhà cổ với kiến trúc độc đáo mang đậm tính triết học sâu sắc và trình độ thẩm mỹ cao. Ngoài ra, những thành phố văn hoá lịch sử này đều là những nơi bảo tồn di vật cách mạng và di tích lịch sử với trữ lượng lớn thu hút sự chú ý của khách du lịch và đều là một trong những trọng điểm phát triển du lịch của quốc gia, được xếp vào danh sách các “thành phố du lịch ưu tú của Trung Quốc”. 2.2. Nghệ thuật kiến trúc Dành được sự quan tâm, tìm hiểu cũng như ngưỡng mộ rất nhiều từ các du khách quốc tế là các công trình kiến trúc như kiến trúc cung đình, lăng tẩm, chùa chiền, động đá… mang đậm phong cách văn hoá Trung Hoa. Các lăng tẩm của vua chúa luôn được xây dựng trên những vùng đất đã được lựa chọn kỹ càng theo thuật phong thuỷ của Trung Quốc; các động đá mang đậm phong cách Phật giáo Trung Hoa; các khu nhà xây dựng theo kiểu Tứ Hợp Viện…Tất cả đều vô cùng mới mẻ đối với du khách quốc tế, và đặc biệt càng kỳ lạ hơn đối với du khách Phương Tây - những người chưa hề tiếp xúc với văn hoá Phương Đông. Đặc biệt, kiến trúc cung đình Trung Quốc lấy sự hài hoà với tự nhiên làm đẹp, nhưng vẫn luôn đảm bảo tượng trưng cho sự uy nghiêm và quyền lực trong các đường nét kiến trúc. Nghệ thuật kiến trúc thường chứa đựng những tư tưởng triết lý uyên thâm như “noi theo tự nhiên”, “lấy hư dẫn dắt thực, nâng đỡ thực”, “hư và thực đan xen”…khiến ta có thể cảm thấy nó chứa đựng quan niệm về “hữu và vô” của Lão Tử. Đi du lịch Trung Quốc, đặc biệt là những người có hứng thú tìm hiểu về lịch sử hay về nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc cổ không thể bỏ qua những công trình thuộc hạng kỳ quan kiến trúc như Vạn Lý Trường Thành, Cố Cung, Thập Tam Lăng, Di Hoà Viên, động đá Đôn Hoàng, tháp chùa Báo Ân… 2.3. Các ngành nghề truyền thống Một trong những nhu cầu cơ bản của khách du lịch là mua sắm, đặc biệt là mua những vật kỷ niệm, đồ lưu niệm mang đặc trưng văn hoá của vùng, miền hoặc quốc gia mà họ tới du lịch.Với bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời, Trung Quốc có rất nhiều sản phẩm truyền thống nổi tiếng trên toàn thế giới như lụa, đồ gốm, hàng thêu, mực, chè, đồ chạm khắc, mỹ nghệ… Những sản phẩm mà từ thời cổ đại đã được ưa chuộng và nghề thì vẫn được lưu truyền cho tới tận ngày nay. 2.3.1. Dệt lụa Nghề dệt lụa tơ tằm ở Trung Quốc đã xuất hiện từ trước công nguyên, trong các truyền thuyết. Trong tác phẩm Kinh Thi, Tả truyện đã nhắc đến nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa như một nghề chuyên biệt của nữ giới. Theo các tài liệu lịch sử thì từ thời Hán đã xuất hiện máy dệt hoa trên lụa là gấm vóc. Đến thời Đường tơ lụa phát triển mạnh và các sản phẩm làm ra rất đẹp, mềm nhẹ. Thời kỳ này nổi tiếng nhất là lụa Thiệu Hưng ( Chiết Giang), đây cũng là thời kỳ con đường tơ lụa sang các nước Trung Đông rất tấp nập, vải tơ lụa của Trung Quốc được truyền sang khắp các nước Châu Âu và được giới quý tộc ưa chuộng. Về sau có thêm nhiều vùng dệt lụa, gấm nổi tiếng như lụa Tô Châu, Hàng Châu, gấm ích Châu ( gấm Thục). Hiện nay sản phẩm tơ lụa truyền thống Trung Quốc như sa tanh, the, gấm với các ưu điểm là màu sắc sáng, mỏng, mềm, nhẹ là một trong những mặt hàng được khách du lịch quốc tế ưa chuộng nhất. 2.3.2. Đồ thêu Trung Quốc có bốn trường phái thêu lớn là Giang Tô, Quảng Đông, Hồ Nam và Tứ Xuyên. Trong đó hàng thêu Giang Tô nổi tiếng với các mẫu trang trí đẹp mắt, màu sắc hài hoà, nhẹ nhàng với những kiểu may mang nét sắc sảo, tay nghề cao. Sản phẩm thêu Quảng Đông nổi tiếng bởi những mẫu sinh động với đường may đơn giản, thường thêu các mẫu “rồng”, “phượng”…Đồ thêu Hồ Nam nổi bật bởi các mẫu sinh động, tươi sáng và thường mô tả các động vật như sư tử, hổ. Đồ thêu Tứ Xuyên thường có đường may dày, đều và phẳng với màu sắc sáng bóng. Mẫu thêu điển hình của đồ thêu Tứ Xuyên là “Hoa sen và cá chép”. Ngoài ra một số dân tộc thiểu số Trung Quốc như người Thái, Choang còn có các sản phẩm thêu độc đáo, tinh tế trên chất liệu gấm cũng là những sản phẩm được du khách chú ý, ưa thích. 2.3.3. Đồ gốm sứ Với lịch sử phát triển hàng vạn năm, kỹ thuật làm gốm sứ của Trung Quốc đã đạt tới trình độ thành thục mà điều then chốt là sự phát hiện ra một loại đất sét trắng thuần khiết, kết dính và tạo được nhiệt độ cao trong lò nung. Chất liệu làm men và kỹ thuật tráng men, đã đưa nghề gốm sứ Trung Quốc đạt tới đỉnh cao kỹ thuật và mỹ thuật. Trong lịch sử đồ sứ Trung Quốc gồm ba loại men chính là men xanh, men trắng và men nhiều màu. Gốm sứ men xanh ngọc là sản phẩm phát triển vào đời Đường với lò Long Tuyền nổi tiếng, đến đời Tống Nguyên đồ sứ trấn Cảnh Đức (Giang Tây) với chất men trắng được ưa chuộng nhất và đến thời Minh Thanh thì đã phát triển đồ sứ men nhiều màu mà nổi tiếng nhất là đồ sứ Thanh Hoa. Hiện nay ngành nghề truyền thống lâu đời nhất trong lịch sử Trung Hoa này phát triển rất đa dạng với các sản phẩm nổi tiếng như: gốm vùng Quảng Tây có màu sắc tự nhiên, chất lượng bền, đẹp; gốm Giang Tô rất đa dạng với đồ gốm vẽ chất lượng cao; đồ gốm của tỉnh Quảng Đông có sự trang trí đơn giản; đồ gốm men ba màu ở Lạc Dương… Đây cũng là một trong những sản phẩm được du khách nước ngoài rất chú ý. 2.3.4. Đồ chạm khảm Với kỹ thuật trạm khảm lâu đời mà chủ yếu là trạm khảm kỹ thuật cao trên ngọc và đá quý với mục đích phục vụ cung đình, nay nghề trạm khảm Trung Quốc cũng được phát triển, mở rộng trên các chất liệu khác nhau như gỗ, đá nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách. Ngoài ra, Trung Quốc còn có một số ngành nghề truyền thống khác cũng được đưa vào khai thác trong du lịch như chè, mực, rượu…và đặc biệt là ngành y học cổ truyền, nhằm đáp ứng các nhu cầu phong phú, đa dạng của khách du lịch trong nước và quốc tế. 2.4. Nghệ thuật vườn cảnh Trung Quốc Vườn cảnh nghệ thuật cổ điển Trung Quốc cũng là di sản văn hoá phong phú và là bộ phận tổ thành quan trọng của tài nguyên du lịch nhân văn. Vườn cảnh Trung Quốc có thể phân làm hai loại: vườn cảnh hoàng gia của các hoàng đế và vườn riêng của các gia đình quý tộc, quan lại. Trong đó vườn cảnh hoàng gia là nơi cho vua chúa nghỉ ngơi, tránh nắng thường có quy mô lớn và nằm ở ngoại ô các thành phố trung tâm như Di Hoà Viên hay sơn trang Thừa Đức. Đặc biệt nổi tiếng là nghệ thuật làm vườn ở Tô Châu với danh hiệu “ Thế giới viên lâm tri mẫu”, với sự khéo léo tài tình của người thợ làm vườn, họ đã tạo ra nét đẹp mềm mại, uyển chuyển, sống động cho các khu vườn ở đây. Đây không những là nơi ngắm cảnh, tìm hiểu về một nghề mang tính nghệ thuật cao của Trung Quốc mà còn là một nơi du lịch sinh thái lý tưởng. 2.5. ẩm thực Trung Quốc Trung Quốc có nền văn hoá ẩm thực hết sức xán lạn, huy hoàng với phong phú các món ăn và kỹ thuật chế biến món ăn đứng hàng đầu thế giới. “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây” đã trở thành câu nói cửa miệng của rất nhiều người trên thế giới. Trên thực tế, món ăn Trung Quốc không chỉ có tác dụng nuôi dưỡng cơ thể ( “bổ” ) mà còn có đầy đủ các yêu cầu về thẩm mỹ, nghệ thuật cao. Do diện tích rộng lớn với các điều kiện khác nhau về địa hình, khí hậu, dân tộc nên các món ăn Trung Quốc vô cùng phong phú, thay đổi khẩu vị và cách chế biến theo vùng miền , người Trung Quốc thường có câu “Nam ngọt, Bắc mặn, Đông cay, Tây chua”. Ngay cả món ăn chính hàng ngày của người Trung Quốc cũng không giống nhau vì người phương nam thường ăn món ăn từ gạo, còn người phương bắc thì thường ăn món ăn chế biến từ bột mì như bánh bao, mì sợi, suỉ cảo… Món ăn Trung Quốc được chia thành bốn hệ lớn nổi tiếng nhất, đó là: - Món ăn Sơn Đông ở hạ du sông Hoàng Hà: Do thuộc phía Bắc đất nước Trung Quốc, khí hậu tương đối lạnh, rau xanh ít nên các món ăn ở đây thường có đặc điểm là nhiệt lượng cao, giàu prôtit như vịt quay, gà Đức Chân, lòng chín khúc… Món ăn Sơn Đông thường chú trọng cách phối hợp nguyên liệu, tạo món ăn ngon có mùi vị đậm đà, giàu dinh dưỡng vì vậy nó mang dư vị của món ăn cung đình. - Món ăn Tứ Xuyên ở thượng du sông Trường Giang. Đặc điểm của món ăn Tứ Xuyên là chế biến cầu kỳ, thường cho nhiều thứ gia vị phức tạp và chủ yếu sử dụng các loại nguyên liệu từ thực vật như dầu, vừng, ớt, các loại rau… Món ăn Tô Châu (Chiết Giang) ở trung hạ du và Đông Nam duyên hải sông Trường Giang. Vùng này còn được gọi là “ thuỷ hương” (làng trên nước), có rất nhiều sông hồ, có vùng giáp biển vì vậy đặc trưng các món ăn ở đây là các món chế biến từ hải sản đặc sắc với sự pha trộn ăn uống của cả miền nam và miền bắc. Do đó, thức ăn ở đây đậm mà không béo, nhạt mà không chán, được khách du lịch rất ưa thích. Món ăn Quảng Đông thường được sử dụng nguyên liệu rất rộng rãi, chế biến nhiều món ăn có mùi vị khác lạ với đặc sản là thức ăn chế biến từ các loại động vật hoang dã ( rắn, chó, khỉ), thường chế biến đơn giản, lấy sự tươi ngon làm tiêu chuẩn để đánh giá món ăn. Do các điều kiện khách quan, Trung Quốc có được rất nhiều loại thức ăn và nhân dân Trung Quốc cũng sáng tạo chế biến ra đa dạng các món ăn. Vì vậy, du khách đến bất kỳ đâu trên đất nước Trung Quốc cũng đều có thể thưởng thức đặc sản mang đậm phong vị địa phương. Ngoài các món ăn chính, các vùng miền khác nhau, các dân tộc khác nhau còn có vô số các đồ ăn nhẹ như cháo gà yến mạch, bánh bao ngọt… với nhiều màu sắc, mùi vị, hình dáng độc đáo. Các loại món ăn chay làm từ rau xanh, hoa quả, nấm ăn…có giá trị dinh dưỡng cao. Các món ăn có tính chất trị bệnh, theo quan niệm của người Trung Quốc món ăn có vị mặn, ngọt, đắng cay, chua thuộc âm và dương, nếu sử dụng đúng vào cơ thể giúp cải thiện điều hoà âm dương thì có tác dụng cải thiện sức khoẻ. Người Trung Quốc sành ăn và rất cầu kỳ trong ăn uống. ẩm thực Trung Quốc theo nguyên tắc “thập mỹ” gồm: “ chất, sắc, vị, hương” nhằm đáp ứng về sinh lý cho cơ thể và “hình, khí, thích, thời, cảnh, thú” nhằm đáp ứng về thưởng thức thẩm mỹ, nghệ thuật trong khi ăn uống. Với nền ẩm thực phong phú, xán lạn khách du lịch sẽ có thêm rất nhiều sự khám phá, hiểu biết thêm về con người đất nước Trung Hoa cũng như được thưởng thức những món ăn độc nhất vô nhị trên thế giới. 2.6. Lễ hội truyền thống và các hoạt động giải trí Bất kỳ một dân tộc nào cũng có những phong tục tập quán và những ngày lễ truyền thống riêng của mình. Chưa kể đến cùng một dân tộc nhưng sống ở địa bàn cư trú khác nhau, điều kiện sản xuất, sinh hoạt khác nhau cũng tạo ra những phong tục tập quán cũng như lễ hội riêng biệt. Trung Quốc là một đất nước rộng lớn với năm mươi sáu dân tộc, trải qua lịch sử mấy ngàn năm, các cư dân Trung Quốc đã sáng tạo ra rất nhiều lễ hội đặc sắc có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách nước ngoài. Có thể kể đến các lễ hội nổi tiếng khắp trong và ngoài nước như: Lễ hội Băng đăng ở Cáp Nhĩ Tân tỉnh Hắc Long Giang kéo dài suốt một tháng từ mùng năm tháng một đến mùng năm tháng hai; hội chợ xuân trên khắp đất nước vào trước dịp tết dương lịch với các cuộc triển lãm hoa, hàng mỹ nghệ, đồ ăn; hội hoa mẫu đơn ở Lạc Dương vào khoảng cuối tháng tư dương lịch; hội thuyền rồng sông Mịch La (tỉnh Hồ Nam) vào ngày 5 tháng 6 để tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên; lễ hội tơ lụa du lịch ở Tô Châu tỉnh Giang Tô từ ngày 3/9 đến ngày 12/9 hàng năm; tháng Tây Hồ mùa thu (tháng chín) là thời gian cảnh sắc Tây Hồ Hàng Châu đẹp nhất trong năm, thời gian này tổ chức các hoạt động nghệ thuật văn hoá dân gian giới thiệu văn hóa đặc sắc Trung Quốc; lễ hội du lịch Hoàng Phố của Thượng Hải (tháng 10), gồm hội đèn lồng, trình diễn nghệ thuật, ăn thử các món ăn địa phương… Ngoài các lễ hội truyền thống lớn, ngày nay Trung Quốc còn tổ chức rất nhiều hoạt động giải trí kèm vào các tour du lịch nhằm giới thiệu nền nghệ thuật biểu diễn, đời sống tinh thần phong phú của người dân Trung Quốc làm cho các chuyến du lịch của khách quốc tế thêm phần hấp dẫn. Những bài hát dân ca, điệu múa dân gian các dân tộc khác nhau, nghệ thuật múa hát cung đình, nghệ thuật nhào lộn, múa rối, các buổi biểu diễn thời trang quần áo lụa dân tộc…đều là những sản phẩm du lịch độc đáo, giàu tính nhân văn và là một nguồn tài nguyên lớn có thể đưa vào khai thác, phát triển du lịch, đặc biệt là thu hút khách quốc tế. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chỉ nhắc đến những cái hiện hữu mà du khách có thể nhìn ngắm mà không nhắc đến một hệ thống các giá trị vô hình vẫn tồn tại trong từng nếp sống, phong tục tập quán của cư dân một quốc gia với nền văn hoá văn minh năm nghìn năm rực rỡ. Cái gì đã khiến Trung Quốc trở nên huyền ảo, kỳ bí hơn trong con mắt du khách quốc tế mà đặc biệt là người phương Tây? Đó là tư tưởng Nho gia đã thấm sâu vào máu thịt của từng con người, đó là những tục lệ cưới hỏi, ma chay ở nhiều nơi vẫn giữ nhiều nét truyền thống, là luân lý trong từng gia đình hiện đại, là cách nghĩ, cách sống trong từng con người…Tất cả tạo nên một sức hút kỳ lạ khiến những người tò mò muốn thực sự tìm hiểu, cảm nhận về một nền văn hoá Phương Đông điển hình không thể không ít nhất một lần tới Trung Quốc – một quốc gia cổ kính nhưng vẫn không kém phần hiện đại, đang hoà mình vào dòng chảy của thời đại mới. Trung Quốc ngày nay không chỉ có thể để cho khách du lịch được đắm mình trong không gian của một nền văn hoá lâu đời, mà những thành tựu phát triển kinh tế gần đây của Trung Quốc cũng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với một bộ phận không nhỏ du khách quốc tế. Đó là các đặc khu kinh tế, thành phố hiện đại không kém gì các thành phố trung tâm của Châu Âu, Châu Mỹ như Thượng Hải, Thâm Quyến, Ninh Ba, Quảng Châu…Khách du lịch đến đây để chiêm nghiệm những thành tựu đạt được của nền kinh tế quốc dân sau một thời gian Trung Quốc tiến hành cải cách, mở cửa. Đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu những bước đi ngoạn mục của nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian gần đây. Có thể nói, Trung Quốc là một trong số rất ít các quốc gia trên thế giới có được nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hoá nhân văn vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của ngành du lịch, đặc biệt là đối với thị trường du lịch khách quốc tế như vậy. Trên thực tế, người Trung Quốc đã biết tôn tạo, giữ gìn và khai thác những tiềm năng du lịch to lớn này một cách khá thành công. Cho tới nay du lịch Trung Quốc đã đưa về cho ngân sách nhà nước hơn hai mươi tỉ USD mỗi năm và doanh thu ngành du lịch chiếm 5,4% GDP toàn quốc. Trong chương trình phát triển ngành “ công nghiệp không khói” của mình đến năm 2020, du lịch Trung Quốc sẽ phấn đấu đạt tổng doanh thu lên tới 54 tỉ USD, chiếm 11% GDP toàn quốc. Chương II: Quá trình phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ năm 1978 đến nay I. Vài nét về du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc trước cải cách. Trong thời kỳ đầu thành lập nước Trung Quốc mới (những năm 50), du lịch chỉ là một phần của công tác đối ngoại, tiếp đón các đoàn ngoại giao. Cả nước vẫn chưa có cơ cấu hành chính quản lý chuyên môn, bên trên đều do các bộ phận có liên quan của Quốc vụ viện quản lý chung, bên dưới do Tổng công ty lữ hành quốc tế và các công ty dịch vụ du lịch Hoa kiều Trung Quốc kiêm nhiệm. Trong đó, trên thực tế Tổng công ty du lịch quốc tế Trung Quốc được Quốc vụ viện phê chuẩn thành lập năm 1954 đảm nhiệm chức năng quản lý về du lịch quốc tế với nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu về vấn đề ăn, ở và tham quan của khách nước ngoài. Du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc nhờ sự phát triển quan hệ ngoại giao của Trung Quốc mới bắt đầu được khởi sắc. Tổng công ty du lịch quốc tế Trung Quốc đã bắt đầu ký kết các hợp đồng du lịch với các công ty du lịch của Liên Xô, các nước Đông Âu và xây dựng quan hệ với các công ty du lịch một số quốc gia phương Tây, tiếp đón khách du lịch tự túc. Trong hai năm 1956, 1957 Tổng công ty du lịch quốc tế Trung Quốc đã tiếp đón tới 4000 lượt người, trong đó có 15% là khách Phương Tây. Năm 1964, cùng với chuyến đi thăm 14 nước và mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước á, Phi, Âu của thủ tướng Chu Ân Lai thành công tốt đẹp, khách du lịch quốc tế từ các nước Phương Tây không ngừng tăng lên, đưa du lịch phát triển sang một giai đoạn mới. Lượng khách du lịch ngày càng tăng lên, dẫn đến đòi hỏi khách quan có một cơ cấu quản lý du lịch tương ứng. Năm 1964, phiên họp thứ 124, Đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc phê chuẩn thành lập cục quản lý khách du lịch nước ngoài, với nhiệm vụ lãnh đạo các cơ quan du lịch trực thuộc ngành, phụ trách tuyên truyền và liên hệ với bên ngoài. Nhờ đó, du lịch quốc tế đến Trung Quốc ngày càng phát triển. Riêng năm 1965 số khách nước ngoài đến Trung Quốc đã đạt con số 12.877 lượt người. Tuy nhiên, ngành du lịch quốc tế Trung Quốc vừa bắt đầu phát triển chưa lâu thì năm 1966 với việc triển khai “ Đại cách mạng văn hoá”, cường điệu hoá tính chính trị trong hoạt động tiếp đón khách quốc tế, kịch liệt phản đối tư tưởng ngoại lai, cách ly với khách nước ngoài, ngành du lịch quốc tế đến của Trung Quốc chịu tổn thất nghiêm trọng. Ngay trong năm 1966 lượng khách quốc tế đến Trung Quốc chỉ còn 303 lượt người. Sang thập niên 70, trên cơ sở chỉ đạo “ kỳ vọng vào nhân dân, tiếp đón khách nước ngoài” và việc đích thân tổ chức, triển khai lại các hoạt động du lịch đối ngoại của thủ tướng Chu Ân Lai, công tác tiếp đón khách quốc tế dần được khôi phục. Hệ thống du lịch địa phương và hệ thống quản lý du lịch cũng dần được khôi phục với việc lập lại Tổng công ty Du lịch Hoa Kiều ở các địa phương. Sau đó, cùng với việc nối lại quan hệ ngoại giao với các nước và khôi phục lại địa vị trong Liên hiệp quốc, khách quốc tế đến Trung Quốc tăng lên rất nhanh. Năm 1976 số khách du lịch nước ngoài đến Trung Quốc đã đạt tới gần 50.000 lượt người. Tóm lại, giai đoạn từ khi thành lập Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mới đến trước thời kỳ cải cách mở cửa 1978, do điều kiện mức sống trong nước còn thấp, nhu cầu du lịch của nhân dân Trung Quốc gần như chưa có, và với chính sách đóng cửa của Trung Quốc, công tác du lịch chủ yếu là tiếp đón ngoại giao. Nguồn khách quốc tế của Trung Quốc trong giai đoạn này chủ yếu là các nước Phương Đông. Nhìn chung số lượng khách quốc tế rất ít, tuy nhiên giai đoạn này đã đặt nền tảng cũng như tích luỹ được những kinh nghiệm nhất định giúp cho du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc sau này từng bước lớn mạnh và trưởng thành trong những giai đoạn sau. II. Quá trính phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc từ năm 1978 - nay. 1. Đường lối chính sách 1.1 Định hướng phát triển. 1.1.1. Giai đoạn từ 1978 - 1990 Sau bước đi sai lầm của “ Đại cách mạng văn hoá”, Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa trên mọi lĩnh vực. Ngành du lịch là một ngành mới phát triển, trước cải cách vẫn chỉ là một bộ phận của công tác ngoại giao nay đã được chú ý tích cực, phát triển trở thành một ngành kinh tế thu ngoại tệ về cho đất nước. Trong hai năm 1978-1979, qua năm lần nói chuyện chuyên đề về du lịch, đồng chí Đặng Tiểu Bình đều yêu cầu phải nhanh chóng phát triển ngành du lịch, đồng chí chỉ rõ, phát triển du lịch trước tiên phải xây dựng khách sạn, phải hạ quyết tâm làm nhanh, đầu tiên có thể dựa vào nguồn vốn đầu tư của đồng bào Hoa Kiều, của nước ngoài sau đó tự mình phát triển. Trên tinh thần chỉ thị của đồng chí Đặng Tiểu Bình, tháng 11 năm 1979 trong báo cáo của Tổng cục quản lý du lịch đã chỉ rõ: Đẩy mạnh phát triển ngành du lịch có thể thu hút lượng lớn ngoại tệ, xây dựng nguồn vốn tích luỹ, thúc đẩy phát triển các hạng mục, ngành nghề trong nước, vì bốn mục tiêu hiện đại hoá. Sự phát triển du lịch Trung Quốc phải kiên trì tự lực cánh sinh đồng thời kết hợp với việc tích cực thu hút vốn đầu tư và tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, tìm ra con đường phát triển riêng cho ngành du lịch Trung Quốc. Năm 1985 nhằm khắc phục tình trạng thiếu thốn về cơ sở hạ tầng đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch quốc tế đến, tăng thu ngoại tệ phục vụ phát triển đất nước, Trung Quốc tiến hành đa nguyên hoá hoạt động kinh doanh du lịch. Cho phép các nhà đầu tư, kinh doanh không thuộc ngành du lịch được phép đầu tư kinh doanh du lịch, chấm dứt tình trạng trước đây không phải các cơ quan du lịch không được làm kinh doanh du lịch. Nhờ vậy, du lịch quốc tế đến của Trung Quốc ngày càng phát triển nhanh chóng. Ngành du lịch Trung Quốc, ngành mà trong thời gian này vẫn chủ yếu là tiếp đón khách du lịch nước ngoài ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Ngày 20/12/1985, Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn mục tiêu qui hoạch phát triển du lịch của Cục du lịch quốc gia, đưa ngành du lịch thành ngành phát triển trọng điểm của quốc gia, chính thức đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhờ đó, toàn ngành du lịch đặc biệt là du lịch quốc tế đến được đẩy mạnh phát triển toàn diện, tạo ra một bước tiến lớn trên con đường phát triển kinh tế du lịch ở Trung Quốc. 1.1.2 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Năm 1992, sau chuyến đi công tác miền nam của đồng chí Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường Xã Hội Chủ Nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Lúc này ngành du lịch được coi là trọng điểm của sản nghiệp thứ ba (ngành dịch vụ), đã có địa vị khá vững chắc trong nền kinh tế của Trung Quốc. Tháng 6 năm 1992, Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc quyết định việc nhanh chóng phát triển sản nghiệp thứ ba, Quốc vụ viện Trung Quốc xác định ngành du lịch là ngành trọng điểm của sản nghiệp thứ ba. Chính quyền các cấp và các cơ quan ban ngành có liên quan đã lần lượt đưa du lịch vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, và đại đa số các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương đã đề nghị lấy ngành du lịch làm ngành trụ cột, trọng điểm hoặc ngành dẫn đường để phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cần phải phát triển du lịch bền vững. Tháng 3 năm 1994 Uỷ ban thường vụ Quốc vụ viện đã thông qua “ Nghị trình Trung Quốc thế kỷ 21”, trong đó chỉ rõ: một là, khi đưa vào khai thác một tuyến du lịch mới cần tăng cường các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch, đẩy mạnh phát triển du lịch xanh, có biện pháp khống chế các nguồn gây ô nhiễm và giải quyết vấn đề xử lý nước thải cũng như việc thu thập và vận chuyển rác; hai là, cần cân đối các nguồn lợi (lợi ích kinh tế trước mắt và lợi ích phát triển du lịch lâu dài) trong khi thực hiện quy hoạch du lịch, đưa việc giáo dục bảo vệ môi trường du lịch (cả tự nhiên và nhân văn) vào trong hoạt động du lịch. Từ đó định hướng phát triển du lịch bền vững ngày càng được chú trọng. Năm 1998, trong Hội nghị công tác kinh tế toàn quốc, ngành du lịch lại một lần nữa được xác định là ngành tăng trưởng kinh tế trọng điểm của nền kinh tế quốc dân. Ngành du lịch tiến thêm một bước theo hướng “ du lịch lớn, thị trường lớn, ngành nghề lớn”. Thời kỳ này, toàn ngành du lịch tiến hành tinh giản và chuyển biến chức năng trên quy mô lớn, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện pháp chế du lịch, đi sâu cải cách hệ thống quản lý du lịch, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và thực hiện chiến lược phát triển du lịch, tích cực khai thác tài nguyên du lịch theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú ý nhiều hơn vào miền trung và miền tây, đặc biệt chú ý công tác tuyên truyền quảng bá và thu hút khách du lịch quốc tế. Luôn luôn đặt ra mục tiêu nhanh chóng phát triển ngành du lịch. Bước sang thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 10 (2000 – 2005), Trung Quốc đặc biệt chú đến việc phát triển du lịch để xúc tiến việc làm. Trong tương lai gần, cụ thể là giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ 11, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thống nhất quan điểm là phải lợi dụng đầy đủ ưu thế về nguồn tài nguyên du lịch, thúc đẩy phát triển cả ba thị trường lớn là: thị trường du lịch quốc tế đến, thị trường du lịch trong nước và thị trường du lịch ra nước ngoài, nhằm từng bước phát triển mạnh về việc làm trong lĩnh vực du lịch và các ngành nghề có liên quan, góp phần giải quyết tình trạng dư thừa lao động ở Trung Quốc hiện nay. Đồng thời, trong những năm gần đây, trên cơ sở tinh thần chỉ đạo về việc tăng cường xây dựng, phát triển hài hoà “3 loại văn minh” (văn minh vật chất, văn minh tinh thần và văn minh chính trị) của Đảng và chính phủ Trung Quốc, ngành du lịch Trung Quốc tích cực xây dựng quy hoạch phát triển chương trình “du lịch đỏ”. Mục đích của chương trình này là nhằm thông qua hoạt động du lịch phát huy tinh thần dân tộc, tăng cường giáo dục chính trị cho thanh thiếu niên, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội những khu căn cứ cách mạng, để du lịch thực sự trở thành trận địa vững chắc cho công cuộc xây dựng đất nước. Định hướng này có tác dụng nhất định trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc Trung Hoa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khiến cho du lịch Trung Quốc luôn giữ được giá trị riêng của mình, xứng đáng là điểm đến được du khách quốc tế lựa chọn. 1.2.Cải cách hệ thống quản lý 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1978 - 1990 Sau cải cách mở cửa 1978, cơ quan cao nhất của ngành du lịch Trung Quốc lúc bấy giờ là Tổng cục quản lý du lịch trực thuộc Quốc vụ viện do bộ ngoại giao quản lý chung. Nhằm tăng cường quản lý lãnh đạo, Chính phủ Trung Quốc thành lập Ban chỉ đạo công tác du lịch do Phó chủ tịch Quốc vụ viện làm trưởng ban và thành viên gồm các đồng chí lãnh đạo các ban ngành có liên quan như: xây dựng, ngoại thương, đường sắt, giao thông…Thời gian đầu, Trung Quốc vẫn trong giai đoạn khôi phục lại hệ thống quản lý hành chính du lịch bị tổn thất trong thời kỳ đại cách mạng văn hoá. Thời kỳ này việc quản lý, lãnh đạo, kinh doanh ngành du lịch vẫn được thực hiện thống nhất từ trên xuống. Tuy nhiên do nhu cầu phát triển của ngành, tháng 8/1978 Tổng cục quản lý du lịch đã được chuyển sang cho Quốc vụ viện trực tiếp quản lý. Hệ thống các công ty, đơn vị kinh doanh du lịch từ trung ương đến địa phương lần lượt dần dần chuyển sang thực hiện quản lý theo mô hình xí nghiệp. Bước sang thời kỳ kế hoạch năm năm lần thứ 6 (1980 – 1985), hình thức quản lý, kinh doanh thống nhất từ trung ương đến địa phương trong ngành du lịch bị lên án. Sự tan rã của các xí nghiệp du lịch quốc doanh đã trở thành yếu tố quyết định chấm dứt của mô hình quản lý cũ, quản lý du lịch chuyển sang xu hướng đa nguyên hoá. Do đó đòi hỏi phải có sự thay đổi trong nguyên tắc quản lý kinh doanh du lịch. Tháng 8 năm 1982, Tổng cục quản lý du lịch được đổi thành Cục du lịch Quốc gia Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gọi tắt là Cục du lịch quốc gia do Quốc vụ viện trực tiếp lãnh đạo, không chịu sự quản lý của Bộ ngoại giao nữa. Cục du lịch quốc gia là cơ quan hành chính, thống nhất quản lý công tác du lịch toàn quốc, không trực tiếp kinh doanh và tiếp đón khách quốc tế. Nhiệm vụ kinh doanh du lịch đối với khách nước ngoài đến Trung Quốc được giao cho Tổng công ty du lịch quốc tế Trung Quốc đảm nhiệm và công ty này tiến hành quản lý theo mô hình xí nghiệp. Do đó, nguyên tắc quản lý du lịch trong giai đoạn này là “ lãnh đạo thống nhất, quản lý kinh doanh riêng rẽ”. Bộ máy tổ chức ngành du lịch Trung Quốc trong giai đoạn này là: Quốc vụ viện lãnh đạo Cục du lịch quốc gia, Cục du lịch quốc gia phụ trách quản lý công tác du lịch trên phạm vi toàn quốc. Cục du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các khu tự trị chịu sự lãnh đạo đồng thời của các chính quyền địa phương và Cục du lịch quốc gia. Nhà nước thông qua công ty du lịch quốc tế Trung Quốc quản lý vĩ mô về việc đón tiếp khách quốc tế, từ đó cân đối giao cho các địa phương tự liên hệ, hạch toán và có quyền xin cấp thị thực cho khách quốc tế đến địa phương mình. Các công ty du lịch trên toàn quốc đều chuyển sang thực hiện mô hình quản lý xí nghiệp hoá, trở thành các đơn vị kinh tế kinh doanh độc lập, tự hạch toán kinh doanh, tự chịu lỗ lãi. Các cơ quan chủ quản cấp trên không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thông thường của các hãng du lịch. Ngoài ra, Trung Quốc còn tiến hành cải cách chế độ trách nhiệm của cán bộ, công nhân viên chức, nâng cao tính tích cực nhằm giải quyết vấn đề hưởng lương bình quân trước kia, tiến hành thí điểm cải cách chế độ tiền lương ở một số đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Nhờ hàng loạt các biện pháp cải cách này, ngành kinh doanh du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc đã có cơ hội lớn, để năng động, chủ động phát triển nhanh, đạt được những kết quả đáng biểu dương, đem lại cho quốc gia hàng tỉ đô la từ kinh doanh du lịch quốc tế. Song song với sự phát triển và công cuộc cải cách thể chế kinh tế của đất nước, bước sang thời kỳ kế hoạch năm năm lần 7 (1985-1990), hệ thống quản lý du lịch lại có chuyển biến lớn. Đó là cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường, quản lý ngành du lịch cũng chuyển từ quản lý hành chính sang quản lý hành nghiệp, từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, từ trực tiếp quản lý các đơn vị kinh doanh sang điều tiết, quản lý gián tiếp thông qua thị trường. Giai đoạn này, quản lý du lịch dựa vào nguyên tắc “ Nhà nước điều phối thị trường, thị trường điều phối xí nghiệp”. Tiến hành tách quản lý hành chính ra khỏi xí nghiệp, chuyển biến chức năng, giao quyền cho xí nghiệp, để các đơn vị kinh doanh du lịch các cấp trở thành những đơn vị độc lập, chủ động trong hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, tháng 10 năm 1988 Cục du lịch quốc gia đã đồng ý với phương án cải cách hệ thống hoạt động của Tổng công ty du lịch quốc tế Trung Quốc nhằm cải cách hệ thống du lịch đối với khách nước ngoài, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh du lịch quốc tế đến, đẩy mạnh việc thu hút khách quốc tế. Về vấn đề xin cấp thị thực cho khách nước ngoài của các công ty du lịch quốc tế, quy định: quyền thông báo xin cấp visa đưa hết về Cục du lịch quốc gia; cho phép ba tổng công ty gồm tổng công ty Lữ hành quốc tế Trung Quốc, tổng công ty Lữ hành Trung Quốc, tổng công ty Lữ hành Thanh niên có thể thông báo xin cấp visa; trao quyền cho Cục du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, khu tự trị phụ trách, quản lý các văn phòng đại diện du lịch của địa phương mình đặt ở nước ngoài tiến hành hạch toán, xin cấp visa cho khách nước ngoài. Về việc mời chào, thu hút khách nước ngoài, cuối năm 1989 Cục du lịch quốc gia quy định tất cả các công ty du lịch có thể mời chào, thu hút khách du lịch nước ngoài. Khuyến khích các đơn vị độc lập hoặc liên hợp nhằm mở rộng thị trường khách du lịch của mình trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên phải chấp hành nguyên tắc thống nhất đối với khách nước ngoài, tuân thủ chính sách và tiêu chuẩn thu phí, giá cả do nhà nước quy định, Nhờ những cải cách mang tính tích cực này, các công ty lữ hành lớn, các văn phòng đại diện cho du lịch các địa phương ở nước ngoài đã có thể chủ động mời chào, hạch toán và xin cấp visa cho khách quốc tế. Tạo điều kiện mở ra cánh cửa rộng hơn cho khách nước ngoài muốn đến Trung Quốc du lịch, là nguyên nhân trực tiếp làm cho lượng khách quốc tế đến Trung Quốc ngày một đông hơn. 1.2.2.Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Tiếp tục thực hiện nguyên tắc “ thống nhất lãnh đạo, phân cấp quản lý” của giai đoạn trước, đồng thời nhằm xây dựng cơ chế quản lý ngành du lịch thích ứng với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy ngành du lịch phát triển một cách lành mạnh, liên tục với tốc độ cao, giai đoạn này toàn ngành du lịch Trung Quốc tiến hành tinh giản và chuyển biến chức năng hệ thống quản lý du lịch. Năm 1994, Cục Du lịch Quốc gia Trung Quốc đưa ra phương án cải cách, xác định rõ bốn phương diện cần chuyển biến chức năng là: Tăng thêm quyền kinh doanh tự chủ của xí nghiệp, bãi bỏ chế độ nhà nước định giá, phí du lịch; giao việc bình xét cấp sao cho khách sạn ba sao trở xuống, việc xét duyệt thiết lập và quản lý công ty du lịch nội địa cho lãnh đạo cấp tỉnh, thành, khu đảm nhiệm; Đi sâu giao quyền cho cấp dưới, độc lập tự chủ trong hợp đồng kinh doanh du lịch; tăng cường quản lý điều tiết vĩ mô đối với toàn ngành trên phạm vi cả nước. Cục du lịch quốc gia chủ yếu nghiên cứu xây dựng chính sách và chiến lược phát triển du lịch chung cho cả nước. Năm 1996, Quốc vụ viện ra điều lệ quản lý các công ty du lịch liên quan đến bên ngoài, cụ thể tách riêng công ty du lịch quốc tế và công ty du lịch nội địa. Cục du lịch quốc gia ngoài quản lý giám sát các công ty du lịch cấp trung ương, chịu trách nhiệm xét duyệt, thành lập các công ty du lịch quốc tế, đồng thời các công ty du lịch nước ngoài muốn đặt trụ sở thường trú tại Trung Quốc cũng phải được sự đồng ý của Cục du lịch quốc gia. Bắt đầu từ năm 1995, Cục du lịch quốc gia bắt đầu thực hiện chế độ thu tiền đảm bảo chất lượng của các hãng du lịch. Cục du lịch quốc gia quy định thống nhất chế độ và tiêu chuẩn thu tiền đảm bảo chất lượng, đồng thời trực tiếp quản lý tiền bảo đảm chất lượng của các công ty kinh doanh du lịch quốc tế trên phạm vi toàn quốc. Việc thực hiện chế độ này đã gây ảnh hưởng tích cực, rộng rãi, nâng cao chất lượng các đơn vị kinh doanh cũng như tạo niềm tin cho du khách trong và ngoài nước. Trung Quốc tăng cường quản lý đối với việc tuyên truyền du lịch Trung Quốc ra bên ngoài, việc tham ra các hoạt động nhằm mở rộng phát triển thị trường du lịch ở nước ngoài và việc tiến hành các hoạt động thúc đẩy, phát triển du lịch quốc tế mang tính toàn quốc, quy định các việc này đều phải do Cục du lịch quốc gia tổ chức. Các cơ quan thuộc cấp tỉnh, thành, khu muốn tiến hành những hoạt động phát triển du lịch quốc tế mang tính khu vực (liên tỉnh) hoặc những hoạt động lễ hội định kỳ mà mục đích chủ yếu là thu hút khách du lịch phải được sự xem xét, đồng ý của Cục du lịch quốc gia. Các biện pháp trên đây đã tạo ra một cơ chế quản lý thống nhất đối với du lịch quốc tế mà đặc biệt là du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc, quản lý chặt chẽ hơn đối với việc kinh doanh du lịch liên quan đến khách nước ngoài, đảm bảo sự nhất quán đồng bộ từ khâu thu hút khách đến việc giữ uy tín với khách quốc tế nhằm phát triển du lịch quốc tế đến ổn định, lâu dài. Tuy nhiên, không chỉ thống nhất quản lý, tăng cường quản lý vĩ mô, giao quyền cho cấp dưới…để tạo đà cho ngành du lịch phát triển năng động và sáng tạo, Trung Quốc còn ngày càng đa dạng hoá trong các biện pháp quản lý, không ngừng mở rộng các lĩnh vực quản lý, giảm nhẹ các thủ tục xét duyệt hành chính đối với các hoạt động trong ngành. Năm 2001, cùng với việc giảm nhẹ thủ tục hành chính của các ban ngành trên toàn quốc, được sự đồng ý của Quốc vụ viện, ngành du lịch đã giảm bớt các hạng mục phải xét duyệt hành chính cụ thể: giữ lại 14 hạng mục, bỏ 7 hạng mục, thay đổi phương thức quản lý 7 hạng mục. Theo đó chuyển biến chức năng theo hướng chuyên môn hoá ví dụ như thành lập các uỷ ban chuyên bình xét, cấp sao cho khách sạn hay kiểm tra chất lượng các khu thắng cảnh…giảm nhẹ thủ tục hành chính xét duyệt rườm rà, bỏ đi một số khâu không thật cần thiết trong hệ thống xét duyệt, cấp phép du lịch như việc xét duyệt, phê chuẩn các hoạt động nhằm thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm thuộc dịch vụ thương nghiệp, hay phê duyệt thành lập các chi nhánh nhỏ trực thuộc công ty du lịch… Nhờ đó, hệ thống quản lý du lịch Trung Quốc không những vẫn giữ được tính nhất quán mà còn mở ra thông thoáng hơn, thuận lợi hơn cho kinh doanh du lịch phát triển. 1.3. Quản lý giá cả 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1978 - 1990 Từ năm 1979, Trung Quốc đã không ngừng quản lý giá cả du lịch có liên quan đến người nước ngoài, nhằm tránh việc đưa ra giá cả không đúng hay thu phí bừa bãi đối với du khách quốc tế. Theo đó, yêu cầu các đơn vị kinh doanh du lịch trong quá trình mở rộng các hoạt động phục vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, vì mục tiêu tăng thu nhập ngoại tệ, phải làm theo phương châm “sinh tài hữu đạo”, “bạc lợi đa tiêu”( lãi ít tiêu thụ nhiều) nhằm nâng cao danh tiếng của ngành du lịch, phát triển hơn nữa du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc. Cụ thể tháng 9/1979, Quốc vụ viện đã quyết định phương án điều chỉnh tiêu chuẩn phí dịch vụ tổng hợp đối với du lịch nước ngoài, quy định bất kỳ phương châm chính sách, nguyên tắc liên quan đến giá cả cho khách du lịch nước ngoài đều bắt buộc do trung ương thống nhất trên phạm vi cả nước. Giá cả và phí dịch vụ cụ thể do cấp tỉnh, thành, khu trên cơ sở căn cứ vào chính sách, nguyên tắc thống nhất từ trung ương quy định và quản lý trực tiếp, nhưng phải luôn chú ý cân đối với giá cả chung. Chú ý tăng cường quản lý giá cả cho khách du lịch theo các hình thức khác nhau như tính giá trọn gói cho khách đi theo đoàn, thu phí du lịch theo tuyến du lịch, thời gian, mùa vụ du lịch và điều kiện ăn uống. Quán triệt nguyên tắc “ thống nhất lãnh đạo, phân cấp quản lý, thống nhất giá đối với khách nước ngoài”. Cục du lịch quốc gia trên cơ sở tham khảo giá cả du lịch trên thị trường quốc tế, dựa vào tình hình chất lượng dịch vụ du lịch trong nước đưa ra quy định mức phí và giá cả hợp lý. Theo đó, Cục du lịch quốc gia và Cục vật giá trung ương quy định cụ thể nguyên tắc và cách thức lập giá. Cục du lịch các tỉnh, thành, khu căn cứ vào tiềm năng du lịch của địa phương mình, tình hình nguồn khách đến và điều kiện tiếp đón, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc quy định chung của nhà nước đối với giá cả du lịch, đưa ra quy định giá cả du lịch tại địa phương mình. Tuy nhiên, mức giá này không được trái với giới hạn quy định chung, gây ảnh hưởng xấu đến lợi ích và danh dự quốc gia. Đến cuối những năm 80, lượng khách quốc tế đến Trung Quốc ngày càng đông, hoạt động kinh doanh du lịch ngày càng mở rộng trên phạm vi cả nước với nhiều loại hình du lịch khác nhau, đồng thời nền kinh tế thị trường cũng bắt đầu phát triển, các đơn vị kinh doanh du lịch lần lượt thực hiện quản lý theo mô hình xí nghiệp tự hạch toán kinh doanh. Do đó, về sau Cục du lịch quốc gia và Cục vật giá chủ yếu chỉ quy định đảm bảo mức giá cao nhất và thấp nhất. Trên cơ sở lãnh đạo thống nhất chung của trung ương và quán triệt tinh thần thống nhất giá đối với khách nước ngoài, việc quản lý giá cả du lịch ngày càng được quản lý phân cấp rõ ràng hơn. Điều này một mặt đã góp phần thúc đẩy các đơn vị kinh doanh du lịch quốc tế chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, mặt khác đối với khách quốc tế đến Trung Quốc, nó cũng tạo ra tác dụng tích cực là tạo niềm tin, uy tín đối với thương hiệu du lịch Trung Quốc. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Giai đoạn này, ngành du lịch kiên trì nguyên tắc “ thống nhất lãnh đạo, phân cấp quản lý, thống nhất giá với khách nước ngoài” trong quản lý giá cả du lịch. Năm 1994 Trung Quốc bãi bỏ chế độ nhà nước định giá phòng khách sạn, phí giao thông, phí tiếp đón…và bãi bỏ phân hoạch giá cả theo địa phương, khu vực. Từ nay về sau nhà nước chủ yếu chỉ đưa ra tiêu chuẩn tham khảo chỉ đạo giá phòng khách sạn du lịch được cấp sao và các nhà khách lẻ có khách nước ngoài. Đối với phí ăn uống, đi lại, thủ tục tiếp đón và các dịch vụ cơ sở, nhà nước không có quy định chung về tiêu chuẩn giá mà do các tỉnh đưa ra mức giá theo địa phương làm tiêu chuẩn tham khảo. Các hãng du lịch quốc tế có thể tự do báo giá theo giá ngoại tệ cho khách nước ngoài, không nhất thiết phải báo giá theo đồng nhân dân tệ. Đồng thời, Trung Quốc cũng bỏ chế độ hai tỷ giá hối đoái, chấm dứt sự bất mãn lớn nhất của khách nước ngoài . 1.4. Phát triển cơ sở hạ tầng 1.4.1. Giai đoạn từ năm 1978 - 1990 Thời kỳ đầu sau cải cách mở cửa, lượng khách quốc tế đến du lịch Trung Quốc tăng đột biến, đặc biệt là lượng khách Hoa Kiều về đại lục thăm người thân tăng quá nhanh. Ngành du lịch non trẻ mới phát triển còn chưa có đủ thời gian, kinh nghiệm cũng như vốn liếng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhìn chung thời kỳ này về cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ cho du lịch vô cùng thiều thốn, cung không đáp ứng đủ cầu. Khách sạn, sân bay, nhà ga, phương tiện giao thông đều thiếu thốn, và điều kiện chất lượng không đạt tiêu chuẩn đã luôn là vấn đề bị khách nước ngoài phản ánh, không hài lòng. Trên quan điểm phát triển du lịch Trung Quốc phải kiên trì, tự lực cánh sinh, đồng thời kết với việc tích cực thu hút vốn đầu tư và tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, tìm ra con đường phát triển riêng của ngành du lịch Trung Quốc nhằm đưa ngành du lịch phát triển thành ngành phát triển trọng điểm của đất nước, Trung Quốc đã không ngừng tăng cường cải cách mở cửa theo hướng đa nguyên hoá hoạt động kinh doanh du lịch. Cho phép các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia hoạt động kinh doanh du lịch. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch chủ yếu do nhà nước triển khai dần dần được chuyển sang nhà nước, địa phương, các ban ngành, tập thể, cá nhân cùng làm theo phương châm: “Tự lực cánh sinh, đồng thời lợi dụng vốn đầu tư nước ngoài và vốn của đồng bào Hoa Kiều, nhanh chóng trong xây dựng cơ sở hạ tầng”. Nhờ đó, tình trạng cung không đủ cầu dần dần được khắc phục. Nếu như năm 1978 toàn quốc chỉ có 137 khách sạn với 15.539 phòng thì năm 1985 số khách sạn đã tăng lên 710 khách sạn với 107.513 phòng và năm 1990 là 1.987 khách sạn với 293.800 phòng. Năm 1988, Cục du lịch quốc gia đưa ra quy định về việc bình xét, cấp sao cho các khách sạn du lịch trên toàn quốc. Trong đó Cục du lịch quốc gia phụ trách lãnh đạo việc bình xét cấp sao cho khách sạn du lịch trên phạm vi toàn quốc, trực tiếp bình xét cấp sao cho các khách sạn 3, 4, 5 sao. Cục du lịch các tỉnh dưới sự chỉ đạo của Cục du lịch quốc gia, phụ trách bình xét cấp sao cho các khách sạn du lịch tại địa phương, bình xét cụ thể cho các khách sạn 1, 2 sao, kết quả bình xét phải báo lên Cục du lịch quốc gia. Đối với khách sạn 3 sao ở địa phương sau khi xem xét phải đưa lên Cục du lịch quốc gia xác nhận, đồng thời Cục du lịch ở địa phương phụ trách việc tiến cử các khách sạn 4, 5 sao lên Cục du lịch quốc gia. Do đó tạo ra một hệ thống quản lý thống nhất, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương đối với các khách sạn, đồng thời dần dần tiêu chuẩn hoá các khách sạn đặc biệt là các khách sạn cho khách quốc tế đến Trung Quốc. Tháng 5 năm 1989 Cục du lịch quốc gia đã phê chuẩn cấp sao lần đầu tiên cho 22 khách sạn trong nước. 1.4.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Với tốc độ phát triển vô cùng nhanh chóng của ngành du lịch Trung Quốc, đặc biệt là nhu cầu thu hút khách quốc tế đến du lịch, việc phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng được chính phủ và các cấp chính quyền quan tâm. Các khách sạn cấp sao không ngừng tăng lên. Năm 1990 Trung Quốc có 1987 khách sạn đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế, năm 1995 con số này đã tăng lên 3.720 khách sạn với 486.114 phòng nghỉ. Năm 1997 là 5.201 khách sạn với hơn 700.000 phòng, trong đó 2.724 khách sạn đã được cấp sao với 57 khách sạn 5 sao, 157 khách sạn 4 sao, 895 khách sạn 3 sao, 1.339 khách sạn 2 sao và 276 khách sạn 1 sao. Và tính đến năm 2000 thì số khách sạn được cấp sao đã lên tới 3.856 khách sạn. Để đảm bảo chất lượng dịch vụ của các khách sạn và các khu du lịch, Trung Quốc quy định các tỉnh nửa năm một lần tổ chức cấp xét lại sao cho các khách sạn đồng thời thường xuyên tiến hành kiểm tra chất lượng các khu, điểm du lịch . Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đất nước, giao thông Trung Quốc cũng không ngừng phát triển. Trung Quốc có 142 sân bay, 25 hãng hàng không vận chuyển khách trên 876 đường bay định kỳ trong đó 757 đường bay trong nước, 98 đường bay quốc tế, 21 đường bay khu vực. Hệ thống đường bộ, đường sắt nối các tỉnh và thành phố khá hiện đại, tạo điều kiện cho việc vận chuyển khách du lịch, rút ngắn thời gian đi lại cho khách. Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng được hoàn thiện. Việc đặt phòng và chọn chương trình du lịch được tiến hành qua các phương tiện thông tin như điện thoại, mạng internet ngày càng phát triển rộng rãi. Hiện nay Trung Quốc huy động năm nguồn vốn đầu tư vào phát triển du lịch là: Nhà nước trung ương; các địa phương; các bộ, ngành mà quan trọng nhất là các ngành giao thông, xây dựng, thương mại, du lịch; tập thể; cá nhân ( cả trong nước và hợp tác nước ngoài). Trong đó đặc biệt chú ý thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Riêng năm 2000 Trung Quốc đã phê duyệt 211 dự án phát triển du lịch với số vốn đầu tư nước ngoài lên tới trên 4 tỉ USD. Với những nguồn vốn này, thực sự nhà nước Trung Quốc chỉ đầu tư 15 % còn 85 % là từ 4 nguồn vốn còn lại. Nhờ đó du lịch Trung Quốc đã có những thay đổi lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, tôn tạo, bảo quản lâu dài tài nguyên du lịch và giữ gìn môi trường du lịch. 1.5. Phát triển nguồn nhân lực Đối với việc phát triển bất kỳ một ngành nghề nào thì ngoài các vấn đề cơ bản như vốn, cơ sở hạ tầng, trình độ khoa học kỹ thuật…một yếu tố quan trọng hàng đầu là nguồn nhân lực. Trung Quốc hiện nay đã trở thành một trong năm nước thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất thế giới. Ngành du lịch đóng góp nguồn thu đáng kể trong GDP cả nước. Du lịch Trung Quốc cũng là ngành tạo cơ hội việc làm cho mấy chục triệu người hoạt động trong lĩnh vực du lịch và ngành có liên quan. Vì vậy việc phát triển tốt nguồn nhân lực, chính là hướng đi lâu dài, đảm bảo cho ngành du Trung Quốc ngày càng phát triển thịnh vượng. Phát triển du lịch quốc tế đến càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhân viên có chất lượng cao hơn. Do đó, việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch quốc tế càng cần được chú trọng hơn. Nhận thức được vấn đề trên, ngành du lịch Trung Quốc đã khá chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho du lịch, đặc biệt là quan tâm đến vấn đề chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch quốc tế đến nói riêng và phát triển du lịch nói chung. Theo thống kê năm 2000, toàn Trung Quốc đã có 1.195 cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành du lịch, trong đó đào tạo cấp đại học, học viện gồm 252 cơ sở đào tạo 73.586 sinh viên, hệ trung cấp có 943 cơ sở với 254.352 học sinh. Ngoài việc đào tạo dài hạn, chính quy ở các trường đại học, học viện, trung cấp, trước thực trạng là cán bộ lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực hoạt động ngành du lịch Trung Quốc hiện nay, hoặc chưa được đào tạo cơ bản, hoặc yêu cầu cần cập nhật tri thức mới, Trung Quốc đã mở ra 4 trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nhân lực du lịch lớn ở cấp quốc gia: Trung tâm đào tạo bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý du lịch các tỉnh, thành, khu; Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giám đốc khách sạn; Trung tâm đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Lữ hành và Trung tâm đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ dịch vụ du lịch. Để đảm bảo chất lượng nhân lực du lịch, Trung Quốc còn thường xuyên tiến hành các kỳ thi cấp bằng chứng nhận tư cách cho giới lãnh đạo và nhân viên cùng đội ngũ hướng dẫn viên trên toàn ngành. Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch quốc tế đến. 2.1. Giai đoạn từ năm 1978 - 1990 Thời kỳ đầu của cải cách mở cửa, đất nước Trung Quốc với nền văn minh văn hoá phát triển rực rỡ lâu đời chứa đầy những yếu tố huyền bí, sau nhiều năm đóng kín cánh cửa với thế giới bên ngoài vừa mở toang cánh cửa đã tạo sức hấp dẫn lớn khiến du khách quốc tế tấp nập kéo đến Trung Quốc. Tuy nhiên, thời kỳ này điều kiện cơ sở hạ tầng du lịch còn quá thiếu thốn. Tính đến trước 1985 tổng số phòng khách sạn của cả nước Trung Quốc có không đến 100.000 phòng cho khách du lịch, điều kiện giao thông, đi lại cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch. Thị trường nguồn khách quốc tế tăng lên một cách tự nhiên vượt quá cả năng lực tiếp đón của ngành du lịch, ngành du lịch đón khách quốc tế luôn trong tình trạng ứng phó. Do đó hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch quốc tế đến còn chưa thực sự được chú trọng, quan tâm. Các biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch quốc tế đến trong giai đoạn này chủ yếu là các biện pháp tuyên truyền truyền thống và cơ bản như: xuất bản sách về du lịch, phát hành các tài liệu tuyên truyền; tổ chức, tham gia các hội chợ triển lãm du lịch quốc tế; lợi dụng các báo tạp chí trong và ngoài nước viết bài tuyên truyền hay mời các đoàn khảo sát du lịch nước ngoài đến Trung Quốc tham quan, khảo sát… Có thể thấy, các biện pháp quảng bá, xúc tiến du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc trong giai đoạn này chủ yếu là học tập các biện pháp, cách làm thông thường của các quốc gia có ngành du lịch phát triển. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nó đã giúp Trung Quốc tạo lập một hình tượng của du lịch Trung Quốc đối với khách nước ngoài và đã tuyên truyền giới thiệu được các sản phẩm cũng như tài nguyên du lịch to lớn của Trung Quốc, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của lượng khách du lịch quốc tế đến Trung Quốc và thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Trung Quốc. 2.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Từ những năm 90, cơ sở hạ tầng du lịch và vấn đề giao thông trong du lịch ở Trung Quốc đã được cải thiện cơ bản, khắc phục được sự khó chịu của khách về các lĩnh vực này. Tuy nhiên sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ về nguồn thị trường du lịch quốc tế đã đưa đến một xu thế mới trong việc quảng bá, xúc tiến các hoạt động nhằm thu hút khách du lịch quốc tế. Đó là việc tổ chức các hoạt động lớn, cần liên hợp, tập trung lực lượng để tuyên truyền rộng rãi có hiệu quả đến các thị trường khách nguồn. Thời gian này, năng lực tiếp đón khách của Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều, dần dần việc dựa vào tăng trưởng tự nhiên của nguồn khách quốc tế như giai đoạn trước sẽ làm cho cung vượt quá cầu, không phát huy được điểm mạnh về tiềm năng vốn có của du lịch Trung Quốc. Do đó, sau năm 1991, do quan niệm về phát triển thị trường khách du lịch được nhận thức sâu sắc hơn, công tác thúc đẩy, phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tuyên truyền theo chủ đề hàng năm. Năm 1992, Trung Quốc tổ chức thành công “ Năm du lịch Trung Quốc” với sự phối hợp tổ chức của các bộ, ngành khác nhau đã đưa ra giới thiệu 249 điểm du lịch cấp quốc gia, 14 tuyến du lịch và 134 lễ hội du lịch. Năm du lịch Trung Quốc 1992 đã tạo ra một hình ảnh Trung Quốc hoà bình, hữu nghị, vui vẻ thu hút 38,1 triệu lượt du khách quốc tế, tạo hiệu ích kinh tế đáng ghi nhận với số thu ngoại tệ đạt hơn 3 tỉ USD. Từ đó đến nay, mỗi năm Trung Quốc đều xác định một chủ đề du lịch nhằm tuyên truyền với thế giới về tài nguyên du lịch phong phú của mình. 1992: Năm du lịch Trung Quốc lần I 1993: Du lịch phong cảnh Trung Quốc 1994: Du lịch tích văn vật cổ 1995: Du lịch phong tục dân gian 1996: Du lịch nghỉ dưỡng, nghỉ mát 1997: Năm du lịch Trung Quốc lần thứ II 1998: Năm du lịch thành phố làng quê Hoa Hạ 1999: Du lịch môi trường sinh thái 2000: Du lịch thế kỷ Thần Châu 2001: Năm du lịch thể thao và sức khoẻ 2002: Du lịch nghệ thuật dân gian Trung Quốc 2003: Du lịch ẩm thực Trung Quốc 2004: Du lịch sinh hoạt đời sống nhân dân 2005: Năm du lịch Trung Quốc lần thứ III Qua đó, Trung Quốc đã lần lượt giới thiệu tập trung có trọng điểm về nền văn hoá văn minh lâu đời, về tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, về bản sắc văn hóa, các phong tục tập quán và các lễ hội đặc sắc của 56 dân tộc anh em cũng như giới thiệu nhiều thành tựu nổi bật của Trung Quốc trong hơn 20 năm cải cách mở cửa, xây dựng một đất nước Trung Quốc hoàn toàn mới đang từng bước trở thành một trong những cường quốc lớn mạnh nhất trên thế giới. Bên cạnh đó cũng hướng việc giới thiệu, quảng bá hình tượng du lịch Trung Quốc một cách tập trung, có mục đích đối với các thị trường nguồn khách quốc tế mà Trung Quốc hướng tới như các nước Châu á, Châu Âu, Mỹ. Ngoài hoạt động tuyên truyền chủ đề hàng năm, Trung Quốc còn tổ chức các hình thức tuyên truyền quảng bá, xúc tiến khác, đặc biệt là việc tổ chức, tham gia các hội chợ triển lãm du lịch quốc tế, lễ hội văn hoá truyền thống... Hầu như địa phương nào Trung Quốc cũng tổ chức lễ hội truyền thống, hay hội chợ du lịch như: Hội triển lãm cây cảnh nghệ thuật làm vườn Côn Minh (Vân Nam), lễ hội băng đăng ở Cáp Nhĩ Tân, lễ hội đua thuyền rồng ở sông Mịch La ( Hồ Nam)…nhờ đó thu hút lượng không nhỏ du khách quốc tế. Để tích cực thúc đẩy phát triển du lịch quốc tế đến, năm 1995 Trung Quốc triển khai công tác xây dựng “Thành phố du lịch ưu tú toàn quốc”. Trên cơ sở các nội dung như: địa vị ngành du lịch trong cơ cấu ngành của thành phố, chính sách phát triển du lịch của thành phố, môi trường phát triển du lịch và thị trường du lịch của thành phố… Cục du lịch các cấp sẽ xem xét, tiến cử lên Cục du lịch quốc gia để Cục du lịch quốc gia kiểm tra, xem xét, phê chuẩn. Năm 1998, Cục du lịch quốc gia tiến hành kiểm tra, nghiệm thu 75 thành phố, trong đó 54 thành phố đã đạt danh hiệu “ Thành phố du lịch ưu tú Trung Quốc”. Công tác này có tác dụng cải thiện môi trường phát triển ngành du lịch hướng tới quốc tế hoá, hiện đại hóa trong phương hướng phát triển du lịch. Đồng thời danh hiệu thành phố du lịch ưu tú cũng trở thành một thương hiệu quảng bá có hiệu quả đối với việc thu hút khách du lịch quốc tế. Để quảng bá ngày càng rộng rãi hình tượng Trung Quốc ra bên ngoài, thúc đẩy du lịch quốc tế đến phát triển, Trung Quốc với vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế liên tục tổ chức các hoạt động quốc tế lớn như các hội nghị của các tổ chức, khu vực trên thế giới, đăng cai tổ chức các hoạt động mang tính khu vực và thế giới về văn hóa, thể thao, tổ chức rầm rộ các hoạt động mang tính lịch sử kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước… Đồng thời tại các thị trường khách nguồn và các địa điểm có sự tập trung cao của du khách quốc tế, Trung Quốc cũng tranh thủ quảng bá các sản phẩm du lịch của mình như: tuyên truyền “Bắc Kinh 2008-Trung Quốc chào đón các bạn” tại Atens; tổ chức giới thiệu du lịch Trung Quốc tại Pháp nhân năm văn hoá Trung-Pháp 2004; hay “Trung Quốc sức hấp dẫn kỳ lạ” tại Kualalampua (Malaixia) nhân kỷ niệm 30 năm chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước. Một hình thức vô cùng có hiệu quả trong thúc đẩy, phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc đó là lợi dụng các hoạt động ngoại giao để phát triển du lịch. Xung quanh vấn đề mở rộng quan hệ ngoại giao, tích cực tăng cường hợp tác giao lưu quốc tế của chính phủ Trung Quốc, Cục du lịch Trung Quốc cũng không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức du lịch các khu vực được coi là thị trường khách nguồn của du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc, đồng thời thiết lập những quan hệ song phương về du lịch với các nước có lượng lớn khách đến Trung Quốc. Hàng năm, lãnh đạo Cục du lịch quốc gia thường xuyên tổ chức các chuyến thăm các nước cũng như tiếp đón nhiều đoàn thể, tổ chức, lãnh đạo du lịch các nước, ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương về phát triển du lịch hai bên. Nhờ đó ngày càng mở rộng, đi sâu tuyên truyền sản phẩm du lịch Trung Quốc ra bên ngoài và có trọng điểm. Tóm lại, giai đoạn 1990 đến nay là giai đoạn mà Trung Quốc đã thành công trong chiến lược phát triển du lịch đưa ngành du lịch thành “ đại ngành nghề”, thành trọng điểm phát triển kinh tế quốc gia. Trải qua nhiều sóng gió trong nước cũng như quốc tế, xét về toàn cục, du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc vẫn liên tục phát triển ổn định và toàn diện. Có được thành tựu to lớn này, yếu tố quan trọng quyết định là do lãnh đạo nhà nước, ngành du lịch và các ban ngành có liên quan đã rất đúng đắn, sáng suốt trong công tác lãnh đạo, linh hoạt trong việc thay đổi chính sách trong từng điều kiện cụ thể, năng động sáng tạo trong việc quảng bá, tuyên truyền, xúc tiến các hoạt động du lịch cũng như có hướng đi đúng đắn trong việc phát triển lâu dài, bền vững ngành du lịch. 3. Tình hình phát triển du lịch quốc tế đến 3.1. Giai đoạn từ năm 1978 - 1990 Sau cải cách mở cửa năm 1978, với các chính sách mở cửa, khuyến khích phát triển ngành du lịch nói chung và phát triển du lịch quốc tế đến nói riêng của chính phủ Trung Quốc, số lượng khách quốc tế đến Trung Quốc không ngừng tăng lên. Nếu trước cải cách số khách quốc tế đến Trung Quốc chỉ tính theo con số vài chục nghìn người: ví dụ như năm 1976 là gần 5 vạn người (50 nghìn người) thì sau cải cách, lượng khách quốc tế đến Trung Quốc đã lên tới con số hàng triệu lượt người. Cụ thể như năm 1978 là 1.809.000 lượt người, năm 1981 đã lên tới gần 8 triệu lượt người và năm 1990 là 27,46 triệu lượt người. Trong đó lượng khách chủ yếu vẫn là Hoa Kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma Cao, thường chiếm khoảng trên dưới 90% trong tổng số lượng khách quốc tế đến Trung Quốc. Trừ một vài năm đầu sau cải cách, do cơ sở hạ tầng thiếu thốn, năng lực tiếp đón khách có hạn nên mức tăng trưởng về số lượng khách bị hạn chế. Từ giữa những năm 80, do được sự chú ý của các cấp lãnh đạo, việc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng du lịch được đặc biệt coi trọng, do đó năng lực tiếp đón khách quốc tế của toàn ngành du lịch Trung Quốc không ngừng tăng lên. Thời gian này mức tăng trưởng về số lượng khách du lịch quốc tế hàng năm của Trung Quốc đạt khoảng từ 20 đến 50%. Từ năm 1988, Trung Quốc quyết định mở cửa cho phép đồng bào Đài Loan trở về đại lục du lịch, thăm người thân. Và ngay năm đầu tiên mở cửa, năm 1988 Trung Quốc đã tiếp đón 437.700 lượt khách từ Đài Loan. Song song với việc lượng khách tăng lên là nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động kinh doanh du lịch cũng liên tục tăng lên, đóng góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng kinh tế đất nước Tóm lại, giai đoạn 1978-1990 là giai đoạn mới khởi sắc và tăng trưởng tương đối nhanh của toàn ngành du lịch Trung Quốc, đặc biệt là du lịch quốc tế đến, tạo nền tảng vững chắc cũng như đem lại nguồn kinh nghiệm quý báu cho du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc tiếp tục vững bước phát triển mạnh trong những giai đoạn sau này. 3.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Nhìn chung, trong thời kỳ này du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc có mức tăng trưởng khá cao, trung bình khoảng hơn 10%, số lượng khách quốc tế tăng nhanh khiến cho thu nhập ngoại tệ từ du lịch của Trung Quốc cũng theo đó không ngừng tăng lên. Cuối thập niên 80 thế kỷ XX, do ảnh hưởng của sự kiện chính trị “Thiên An Môn” làm cho tổng lượng khách du lịch quốc tế giảm mạnh, thu nhập ngoại tệ cũng giảm xuống17% làm cho ngành du lịch và đặc biệt là du lịch quốc tế đến bị tổn thất nghiêm trọng. Bước sang thập niên 90, với chính sách thông thoáng hơn và việc xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ngành du lịch chuyển hẳn sang quản lý kinh tế, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho ngành du lịch Trung Quốc mà đặc biệt là du lịch quốc tế đến nhanh chóng khôi phục và phát triển ổn định. Lượng khách là người nước ngoài tăng lớn với tốc độ cao, điển hình như năm 1991 tăng 55,1%, năm 1992 tăng 47,83%. Đồng bào Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan về Đại lục cũng ngày càng nhiều. Kế hoạch 5 năm lần thứ 9 của Trung Quốc ( 1996 - 2000 ) đã xác định mục tiêu đến năm 2000 Trung Quốc sẽ đón 70 triệu khách quốc tế, nhưng trên thực tế năm 2000 Trung Quốc đón 83,4 triệu lượt khách quốc tế. Từ năm 1990 đến nay, lượng khách quốc tế đến Trung Quốc đã tăng lên gấp 4 lần (từ 27 triệu năm 1990 tăng lên 109 triệu năm 2004), đồng thời đưa mức thu nhập ngoại tệ từ du lịch từ hơn 2 tỉ USD năm 90 xếp hàng thứ 25 trên thế giới lên 25,9 tỉ năm 2004 và xếp hàng thứ 5 trên thế giới. Những thành tựu trên đã thực sự khiến Trung Quốc trở thành một cường quốc về du lịch, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút khách quốc tế và kích thích hoạt động chi tiêu của khách. Ngoài ra, một điều dễ nhận thấy trong những năm gần đây là Trung Quốc ngày càng tập trung vào thị trường nguồn khách có mức chi phí du lịch cao như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và các nước Châu Âu. Trong khi lượng khách từ Châu Phi không tăng lên hoặc có chiều hướng giảm thì du khách đến từ Mỹ không ngừng tăng lên. Năm 2000 Mỹ đã trở thành thị trường khách du lịch lớn thứ tư của du lịch Trung Quốc chỉ xếp sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga với tổng lượng khách đến Trung Quốc đạt gần một triệu lượt khách. Năm 1997, khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu á đã gây thiệt hại và tổn thất kinh tế lớn cho các nước trong khu vực. Trong khi đó, một lượng lớn khách du lịch nước ngoài của Trung Quốc là đến từ các nước láng giềng, và thị trường khách Châu á vẫn là thị trường chủ đạo của du lịch quốc tế đến Trung Quốc. Mặc dù vậy, du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc vẫn duy trì ở mức tăng trưởng tương đối cao. Trong khi các nước có ngành du lịch tương đối phát triển xung quanh như Singapore, Thái Lan, Philippines…đều giảm mạnh hoặc không tăng về lượng khách quốc tế đến thì tổng lượng khách quốc tế đến Trung Quốc vẫn tăng 12,6% vào năm 1997 và 10,2% vào năm 1998. Có được thành tựu này là nhờ vào rất nhiều cố gắng, nỗ lực của toàn ngành du lịch Trung Quốc như: hệ thống quản lý du lịch ngày càng được mở rộng và hoạt động ngày càng có hiệu quả; việc xây dựng pháp chế du lịch ngày càng hoàn thiện, các văn bản pháp qui liên quan đến du lịch liên tục được bổ xung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới; và đặc biệt là công tác tuyên truyền, quảng bá xúc tiến du lịch ngày càng được chú trọng và phát huy hiệu quả, các sản phẩm du lịch ngày càng được nâng cao chất lượng cũng như chú ý đến tính độc đáo đặc sắc, hấp dẫn du khách. Một năm duy nhất trong suốt tiến trình phát triển ngành du lịch Trung Quốc từ 1990 đến nay, khiến ngành du lịch Trung Quốc bị sụt giảm khá nghiêm trọng cả về lượng khách và thu nhập ngoại tệ đó là 2003. Chúng ta đều biết đại dịch SARS ở khu vực Châu á mà đặc biệt là các nước Đông á đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh tế xã hội các nước trong vùng dịch. Trung Quốc năm 2003 đã giảm hơn 6% lượng du khách quốc tế, trong đó riêng lượng khách là người nước ngoài đã giảm 15,15%, thu nhập ngoại tệ từ du lịch quốc tế đến giảm 3 tỉ USD tương đương với 14,6% so với năm 2002. Tuy nhiên, năm 2004 với nỗ lực của chính phủ cùng toàn ngành, với mục tiêu “khôi phục và chấn hưng” ngành du lịch, Trung Quốc đã đạt được thành tựu lớn lao, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc số lượng khách nhập cảnh vượt qua ngưỡng 100 triệu lượt người, số khách quốc tế nghỉ qua đêm vượt qua 40 triệu lượt người và thu nhập ngoại tệ đạt tới 25,97 tỉ USD. Tóm lại, chỉ nhìn vào quá trình phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc suốt từ sau cải cách mở cửa đến nay ta đã có thể nhìn thấy những bước đi dài, vững chắc của ngành du lịch Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay đã trở thành một cường quốc du lịch trên thế giới, trong đó riêng du lịch quốc tế đến đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn thứ 5 trên thế giới, góp phần làm cân bằng thu chi ngoại tệ, tăng khả năng tích luỹ ngoại tệ của Trung Quốc, đồng thời tạo nhiều việc làm mới, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao đời sống văn minh tinh thần, vật chất và văn minh chính trị trên toàn nước Trung Quốc. IV. Đánh giá về triển vọng phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc. Sau một năm bị tổn thất nghiêm trọng do đại dịch SARS, năm 2004 du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc ngay lập tức được khôi phục và chấn hưng thành công với thành tựu đáng biểu dương, đạt tới con số 109 triệu lượt khách quốc tế và 25,7 tỉ USD thu nhập ngoại tệ. Đây chính là minh chứng xác thực nhất cho sức phát triển mạnh mẽ của du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc. Liệu trong tương lai mà cụ thể trong tương lai gần khoảng một vài chục năm nữa, du lịch quốc tế đến Trung Quốc có còn duy trì được đà phát triển liên tục và mạnh mẽ, ngày càng nâng cao địa vị của mình trong ngành dịch vụ du lịch nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói chung hay không? Qua quá trình tìm hiểu về quá trình phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc, từ đó nhận thấy được những nhân tố ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến sự phát triển của du lịch quốc tế đến, tôi nhận thấy du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc hiện nay có rất nhiều điều kiện thuận lợi (cả chủ quan và khách quan) để phát triển. 1. Những điều kiện khách quan 1.1. Sự phát triển khoa học kỹ thuật. Hiện nay, chúng ta đang sống những năm đầu tiên của thế kỷ XXI thuộc thiên niên kỷ thứ 3, thiên niên kỷ được dự báo là ngay từ đầu sẽ có những bước đột phá lớn về khoa học công nghệ kéo theo những bước nhảy vọt về kinh tế. Nền kinh tế dựa trên công nghệ cao sẽ nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Mặt khác, giá các mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng công nghiệp ngày càng phù hợp với khả năng chi trả của người dân. Nhu cầu vui chơi, giải trí, du lịch sẽ trở thành phổ biến trên thế giới. Song song với xu hướng chuyển các chuyến du lịch từ chỉ là “chiêm ngưỡng”, “ngắm nhìn” sang nghiên cứu sâu, kỹ lưỡng về đối tượng tham quan thì trào lưu du lịch xa nơi ở thường xuyên cũng ngày càng phổ biến. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã ngày càng thu nhỏ trái đất trong tầm hiểu biết của con người. Các trang thiết bị, phương tiện giao thông vận tải hiện đại và tiện nghi ngày càng làm cho trái đất trở nên nhỏ bé hơn, dễ chinh phục hơn. Sự phát triển của công nghệ thông tin và giao thông hiện đại đã làm cho khái niệm xa xôi đối với du khách không còn nữa. Ngành du lịch sẽ dễ dàng đáp ứng được nhu cầu đi du lịch rất xa nhà (sang các nước khác, và châu lục khác) của hàng triệu lượt người ở mọi nơi trên thế giới. Và như vậy, phát triển du lịch quốc tế đến (hay du lịch đón khách, nếu nói theo cách của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch) là một điều gần như quy luật tự nhiên mà bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển du lịch đều phải hướng tới. 1.2. Về nhân tố thời gian rỗi của nguồn khách tiềm tàng. Một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến việc đi du lịch của du khách là thời gian rỗi. Với đà phát triển của ngành công nghiệp, đặc biệt là của tự động hoá và điều khiển học, con người ngày càng được giải phóng khỏi lao động chân tay. Các máy móc tự động, người máy sẽ đảm đương phần lớn công việc nặng nhọc của con người. Trong khi đó dân số thế giới vẫn tiếp tục gia tăng, cho dù theo một tốc độ có thể kiểm soát được. Hai điều kiện trên tạo nên một sức ép lớn đến quyền được lao động của mọi người. Một giải pháp khả dĩ đó là giảm giờ lao động và giảm tuổi về hưu. Giải pháp này đồng nghĩa với việc tăng thời gian rỗi cho du khách tiềm tàng. Hiện nay ở các nước phát triển, người dân trung bình giành cho vui chơi giải trí 4,5 giờ, làm việc 7 giờ, đi lại 1,5 giờ, còn 0,5 giờ cho các việc khác. Đây là cơ cấu sử dụng thời gian trung bình của thế giới vào nửa đầu thế kỷ XXI. Sang thế kỷ XXI, nhiều đường siêu cao tốc ở Âu - Mỹ được vận hành sẽ giảm thiểu đáng kể thời gian đi lại. Mặt khác, với công nghệ thông tin hiện đại, hơn 30 % công việc quản lý có thể sắp xếp tại nhà. Thời gian dành cho công việc sẽ giảm trong khi thời gian rỗi trong ngày có thể lên đến từ 5 đến 7 giờ. 1.3. Nhân tố kinh tế. Điều kiện kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra quyết định du lịch. Theo tính toán thống kê, nếu như thu nhập của một gia đình ở mức 1000 USD một năm thì 50% trong số đó dùng để chi cho ăn uống, chỉ có 20% chi cho giáo dục và giải trí. Khi thu nhập bình quân khoảng 5000 USD thì phần chi dùng cho ăn uống sẽ chiếm khoảng 30%. Số tiền dư ra có đủ khả năng đáp ứng các hoạt động vui chơi giải trí và các chuyến du lịch ra nước ngoài cho hầu hết mọi thành viên trong gia đình, nhất là các gia đình hạt nhân. Khi thu nhập ở mức 10.000 USD thì chi cho ăn uống chỉ chiếm mức dưới 20%, việc đi du lịch cho tất cả mọi thành viên trong gia đình có thể thực hiện ở mức sang trọng. Vậy mà ngay trong thập niên 90 của thế kỷ XX trên thế giới đã có trên 20 nước có GNP đầu người trên 20.000 USD. Và hiện nay nhiều quốc gia đã vượt con số 300.000USD/người/năm. Điều này có nghĩa là hiện nay số gia đình có thu nhập đạt mức có thể có các chuyến du lịch ra nước ngoài, thậm chí ở mức sang trọng không còn là hãn hữu. Nói cách khác, một lượng khách lớn có thể có khả năng thực hiện những chuyến du lịch xa, dài ngày ra nước ngoài. Trên đây là những điều kiện khách quan thuận lợi cho việc phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc. Tuy nhiên, điều kiện thuận lợi này không chỉ dành riêng cho ngành du lịch Trung Quốc mà cho du lịch tất cả các nước. Việc phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc trong thời gian vừa qua cũng như trong tương lai phụ thuộc rất lớn vào những điều kiện chủ quan của bản thân Trung Quốc. 2. Những điều kiện chủ quan 1.1. Nguồn tài nguyên du lịch vô cùng to lớn. Bản thân đất nước Trung Quốc là một quốc gia có tiềm năng lớn về du lịch có sức lôi cuốn kỳ lạ đối với du khách khắp nơi trên trái đất. Như đã trình bày trong chương I, Trung Quốc là một quốc gia có tài nguyên du lịch phong phú bậc nhất thế giới, có thể đáp ứng tất cả các loại hình du lịch trên thế giới hiện nay như diện tích lãnh thổ rộng lớn trên 9,6 triệu km2, dân số đông đúc gần 1,3 tỉ người. Điều kiện tự nhiên vô cùng phong phú: Khí hậu phức tạp với 6 loại hình khí hậu khác nhau và sự khác biệt khí hậu giữa Bắc Nam tạo điều kiện phát triển du lịch quanh năm; địa hình đa dạng được kết tạo bởi sự hữu tình của nước, của non, khắp đất nước Trung Quốc đâu đâu cũng có cảnh đẹp thiên tạo đã làm say mê bao thế hệ và ngày nay làm du khách phải trầm trồ về sự khéo léo của tạo hoá. Bên cạnh đó, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, biết bao triều đại đã đi qua trên mảnh đất Trung Hoa này, mỗi triều đại đều để lại kết tinh trí tuệ một thời không chỉ trong các di sản vật thể mà còn phong phú hơn, sâu sắc hơn trong các di sản phi vật thể. Nhắc đến tài nguyên nhân văn của du lịch Trung Quốc không thể không nhắc đến sự đa dạng trong văn hoá của 56 thành phần dân tộc mà từ đó đã dẫn đến một hệ thống phong phú các lễ hội truyền thống độc đáo, các món ăn lạ, các trò giải trí, nghệ thuật đặc sắc…Ngoài ra, cũng không thể không nhắc đến ý thức gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hoá của nhiều thế hệ người dân Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm qua. Ngoài ra, nhờ vào nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn to lớn của mình, Trung Quốc còn có điều kiện thuận lợi để phát triển những loại hình du lịch triển vọng.Trong thế giới công nghiệp, hàng loạt các căn bệnh đã xuất hiện mà các nhà y học cho rằng nguyên nhân cơ bản của chúng là do nền văn minh ấy đẻ ra. Stress, chứng béo phì, bệnh tim mạch…là những ví dụ và hiện nay, đây là những căn bệnh có tỉ lệ người mắc cao nhất trên thế giới. Mọi người cũng đã đến lúc quan tâm nhiều hơn đến việc giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ. Du lịch sức khoẻ ngày càng trở thành hoạt động thường xuyên của số đông du khách. Trung Quốc với tiềm năng thiên nhiên thuận lợi không chỉ có thể phát triển mạnh loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao mà cùng với ngành y dược cổ truyền (Trung Y) nổi tiếng khắp năm châu, du lịch chữa bệnh ở Trung Quốc cũng là một loại hình có triển vọng 2.2. Nền chính trị hoà bình và ổn định. Không khí chính trị hoà bình hiện nay của Trung Quốc cũng bảo đảm cho việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá và chính trị giữa các dân tộc. Trong phạm vi các mối quan hệ kinh tế quốc tế, sự trao đổi du lịch quốc tế ngày càng phát triển và thực sự du lịch quốc tế đến cũng chỉ có thể phát triển được trong bầu không khí hoà bình, ổn định, trong tình hữu nghị giữa các dân tộc. ổn định và an toàn là yếu tố có ý nghĩa lớn đối với du khách. Khi có một thông tin bất ổn về chính trị xã hội xảy ra tại điểm du lịch nào đó thì việc thuyết phục du khách đến đó là một điều hết sức khó khăn. Chính trị cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Thực tế ngay tại đất nước Trung Quốc cho thấy với nguồn tài nguyên du lịch vô cùng thuận lợi trước 1978, nhưng chính sách bất hợp tác với các nước không cùng chính kiến, việc cường điệu tính chính trị trong các hoạt động giao tế với người nước ngoài đã làm cho du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc không thể phát triển được. Số người nước ngoài đến Trung Quốc hàng năm chỉ tính theo con số hàng trăm, hàng nghìn người. Tuy nhiên, từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa đến nay, việc ngày càng mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên khắp thế giới, với đường lối đổi mới mở cửa hợp tác rộng rãi với bên ngoài trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống và nền chính trị tương đối ổn định đã giúp Trung Quốc nhanh chóng trở thành điểm du lịch được ưa chuộng với hơn 10 triệu du khách nước ngoài đến đây mỗi năm (Năm 2004 lượng khách du lịch là người nước ngoài đạt 16,9 triệu lượt người). 3. Tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong thời gian gần đây. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Điều này được giải thích bởi sự lệ thuộc của du lịch vào thành quả của các ngành kinh tế khác. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc hội đồng kinh tế và xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC), một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch. Khi phải nhập đại đa số trang thiết bị, hàng hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và để đảm bảo phục vụ khách du lịch thì hầu hết lợi nhuận( ngoại tệ) do du lịch mang lại sẽ rơi vào tay tư bản nước ngoài. Những nước có nền kinh tế phát triển, có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Trung Quốc hiện nay đã và đang vươn lên thành một cường quốc về kinh tế trên thế giới. Công cuộc xây dựng hiện đại hoá đất nước với nhiều ngành kinh tế phát triển cao như: công nghệ thực phẩm, công nghiệp nhẹ, xây dựng giao thông vận tải, công nghệ thông tin, y học… đã được tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Một lượng không nhỏ khách quốc tế đến Trung Quốc ngoài mục đích du lịch còn có mục đích tìm cơ hội đầu tư, buôn bán, mở văn phòng đại diện. Thực tế trong những năm gần đây, với việc gia nhập WTO cánh cửa Trung Quốc gần như mở cửa hoàn toàn cho các nhà đầu tư khắp thế giới. Là một thị trường tiêu thụ tiềm năng vô cùng lớn, đồng thời tiền thuê nhân công tương đối rẻ, Trung Quốc hiện là một trong những quốc gia hấp dẫn nhất để các thương nhân tìm kiếm cơ hội đầu tư kinh doanh. Riêng năm 2004 Trung Quốc đã phê chuẩn gần 40.000 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, làm cho tổng các xí nghiệp loại này đã được xây dựng trên cả nước lên tới hơn 500.000 xí nghiệp. Điều này mang lại sự tăng nhanh cho các chuyến đi du lịch kết hợp mục đích kinh doanh hoặc công tác của khách quốc tế. Cũng nhờ kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, hiện nay du khách đến Trung Quốc không chỉ để ngắm những dấu tích cổ xưa, những công trình quá khứ nữa, mà còn có thể chiêm ngưỡng một Trung Quốc mới với những thành phố, những công trình hiện đại không kém gì các thành phố cao cấp bậc nhất Âu-Mỹ. Đó chính là biểu hiện cụ thể của những thành tựu Trung Quốc đạt được sau hơn 20 năm cải cách mở cửa và hơn 10 năm xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Đến Trung Quốc ngày nay, du khách không còn phải ở trong những nhà nghỉ lụp xụp thiếu thốn đủ thứ nữa mà đâu đâu cũng sẵn sàng các khách sạn được cấp sao theo tiêu chuẩn quốc tế. Đến Trung Quốc ngày nay, giao thông không còn là vấn đề phải lo lắng nhiều và bởi vậy lịch trình chuyến đi cho du khách quốc tế cũng được đảm bảo tốt hơn. 4. Chất lượng dịch vụ du lịch không ngừng được nâng cao. Chất lượng dịch vụ du lịch là yếu tố quan trọng đánh giá chất lượng chung của một sản phẩm du lịch. Cho dù phong cảnh rất đẹp, kiến trúc rất đặc sắc hay giá trị văn hoá, lịch sử vô cùng to lớn, nhưng nếu chất lượng dịch vụ không tốt thì sẽ gây phản cảm đối với du khách, không những ảnh hưởng đến danh dự quốc gia mà còn ảnh hưởng rất lớn đối với tương lai phát triển của ngành du lịch, đặc biệt gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh quốc tế đối với phát triển du lịch quốc tế đến. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, năm 1981 trong quyết định của Quốc vụ viện Trung Quốc về việc tăng cường công tác du lịch đã nhấn mạnh phải quyết tâm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Cục du lịch quốc gia Trung Quốc hàng năm đều tiến hành điều tra ý kiến đánh giá về chất lượng dịch vụ du lịch của khách du lịch quốc tế, từ đó có các biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, ngày càng làm hài lòng số đông du khách. Nhờ vậy, chất lượng dịch vụ du lịch ở Trung Quốc ngày càng được đánh giá cao trong con mắt của du khách quốc tế. Theo điều tra của Cục du lịch quốc gia Trung Quốc thì lượng du khách hài lòng với chất lượng dịch vụ du lịch Trung Quốc đã tăng lên từ 27,9% vào cuối những năm 80 của thập niên trước ( tức là thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 7) lên 48% vào cuối những năm 90 ( tức là thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 9). Không chỉ nâng cao chất lượng phục vụ, các nhà cung ứng du lịch ngày càng biết cách làm hài lòng du khách bằng các hoạt động giải trí đi kèm trong các tour du lịch như các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân gian, truyền thống, các buổi trình diễn thời trang nhằm giới thiệu sản phẩm địa phương hay để du khách thưởng thức những món ăn đặc sắc được chế biến theo phong cách độc đáo mà không nơi nào khác có thể tìm thấy. Các sản phẩm phục vụ nhu cầu mua sắm đồ lưu niệm cho khách cũng được phát triển một cách toàn diện. Không còn nữa những lời kêu ca, trách móc khi chuyến đi không được thực hiện đúng lịch trình, không còn nữa những câu phàn nàn về sự tẻ nhạt của những chuyến đi kiểu “ngày thăm miếu, tối đi ngủ” của thời kỳ những năm 1980 của thế kỷ trước, không còn nữa những bất mãn của khách du lịch vì không tìm ra nổi nhà vệ sinh tiêu chuẩn trên các tuyến đường du lịch và thậm chí cả ở các điểm du lịch. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên sự thành công cho quá trình phát triển du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc trong thời gian qua. Trong tương lai, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch Trung Quốc trên trường quốc tế, làm cho du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc ngày càng phát triển. 5. Đường lối chính sách hết sức linh hoạt, luôn luôn diều chỉnh kịp thời trong những tình huống mới. Một yếu tố quan trọng, mang tính quyết định để đưa ngành du lịch của một quốc gia phát triển là đường lối chính sách phát triển du lịch. Hiện nay, trên thế giới hầu như không có một nơi nào không tồn tại một bộ máy quản lý xã hội. Rõ ràng bộ máy này có vai trò quyết định đến các hoạt động của cộng đồng đó. Hoạt động du lịch không nằm ngoài qui luật chung ấy. Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch phong phú, mức sống người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương không hỗ trợ cho các hoạt động du lịch thì hoạt động này cũng không thể phát triển được. ở Trung Quốc đã có thời kỳ du lịch quốc tế chỉ là một bộ phận của công tác ngoại giao mà nhiệm vụ chủ yếu là đón tiếp các đoàn ngoại giao của các nước có cùng chính kiến với Trung Quốc tới thăm. Nhưng nhờ có sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, nhờ chính sách khuyến khích phát triển du lịch của chính phủ Trung Quốc nên du lịch quốc tế đến ở Trung Quốc đã ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu to lớn. Cho đến nay, hầu hết các tài nguyên du lịch Trung Quốc đã được đưa vào khai thác. Đồng thời, các loại hình dịch vụ du lịch ngày càng hoàn hảo đã làm cho thế giới biết đến các sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc Trung Quốc, tạo sức hấp dẫn cao đối với du khách quốc tế. Từ định hướng chuyển đổi ngành du lịch từ ngành phục vụ công tác ngoại giao sang ngành kinh tế thu ngoại tệ vào đầu những năm 1980, bộ máy quản lý du lịch liên tục được cải cách , ngày càng trở thành một hệ thống hoàn chỉnh, quản lí nhất quán nhưng cũng không thiếu tính linh hoạt, sáng tạo: từ thống nhất quản lý và kinh doanh, quản lý trực tiếp đến “ lãnh đạo thống nhất, kinh doanh riêng rẽ” rồi đến “ nhà nước điều phối thị trường, thị trường điều phối doanh nghiệp”, quản lý gián tiếp thông qua thị trường… Năm 1992 với việc xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã tiến hành cải cách mạnh mẽ bộ máy quản lý, đẩy mạnh chuyển biến chức năng các đơn vị hành chính nhằm xây dựng cơ chế quản lý ngành du lịch thích ứng với nhu cầu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhanh chóng tiến vào xây dựng và dần dần hoàn thiện hệ thống pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng và khai thác tài nguyên du lịch được đặc biệt chú trọng. Trung Quốc đã tích cực lợi dụng nguồn vốn tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài trong phát triển du lịch. Hiện nhà nước Trung Quốc chỉ đầu tư 15% còn 85% vốn phát triển du lịch là do địa phương, bộ ngành, tập thể, cá nhân (cả trong nước và hợp tác nước ngoài). Nhờ đó du lịch Trung Quốc đã có những thay đổi lớn lao cả về mặt vật chất kỹ thuật, dịch vụ, tôn tạo, bảo quản lâu dài tài nguyên du lịch và giữ gìn môi trường du lịch, tạo điều kiện phát triển du lịch theo hướng bền vững, lâu dài. Một hướng đi đúng đắn và lâu dài trong sự nghiệp phát triển du lịch là phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch bền vững (vừa phát triển du lịch, vừa bảo vệ tốt môi trường tự nhiên, vừa bảo tồn được truyền thống văn hoá dân tộc) là con đường tất yếu của tất cả các quốc gia muốn phát triển du lịch lâu dài. Bởi khi những người làm du lịch chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, không sớm có các biện pháp bảo vệ lâu dài nguồn tài nguyên du lịch khiến cho thiên nhiên bị xâm hại, bản sắc văn hoá bị mai một do sự có mặt thường xuyên của các du khách thì thực chất là chính họ đang huỷ hoại tương lai của ngành kinh tế đầy hy vọng này. Trung Quốc không chỉ chú trọng việc khai thác các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử phục vụ cho phát triển du lịch mà còn chú trọng đến công tác tôn tạo, tu sửa, giữ gìn các điểm du lịch, các di tích lịch sử, đền chùa miếu mạo, bảo tồn các lễ hội truyền thống, duy trì phát triển các ngành nghề truyền thống, các món ăn dân tộc. Luôn luôn chú trọng công tác bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ cảnh quan tự nhiên, đa dạng sinh học…, đồng thời có các chính sách đẩy mạnh giáo dục nhận thức cho người dân địa phương tích cực gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống. Đây cũng là một trong những nhân tố khiến cho tương lai du lịch quốc tế đến của Trung Quốc có thể duy trì được tốc độ phát triển của mình. 6. Hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch ngày càng được tiến hành một cách chuyên nghiệp, có hệ thống và phát huy hiệu quả cao. Ngoài việc tuyên truyền chủ đề du lịch hàng năm, tích cực tổ chức các hội chợ triền lãm du lịch, lễ hội truyền thống hay hội chợ du lịch, Trung Quốc còn phân chia thị trường du khách quốc tế thành các đối tượng khác nhau, trên cơ sở đó có những biện pháp ngoại giao, tiếp thị khác nhau cho từng loại đối tượng. Trong bài phát biểu của cục trưởng Cục du lịch quốc gia Trung Quốc Hà Quang Vĩ tại hội nghị công tác du lịch toàn quốc năm 2005 đã chỉ rõ, cần tăng cường tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch Trung Quốc, tranh thủ việc khôi phục và chấn hưng thành công ngành du lịch sau tổn thất do đại dịch SARS 2003, tiến lên giành lấy thành tích cao hơn nữa trong sự nghiệp phát triển du lịch quốc tế đến, đồng thời nắm chắc những cơ hội có lợi do sự tăng trưởng hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, điều động nhất loạt các nhân tố tích cực, ra sức làm tốt công tác quảng bá, xúc tiến du lịch ra nước ngoài. Cần tiếp tục củng cố và phát triển thị trường cơ sở Hồng Kông- Ma cao- Đài Loan, từng bước mở rộng việc hợp tác du lịch, tích cực tiến hành giao lưu, nghiên cứu thảo luận các mô hình mới về hợp tác du lịch đối với khu vực này. Đối với Đài Loan, cần tiến hành tổ chức hội nghị đồng hành hai bên bờ eo biển để mở rộng giao lưu qua lại của nhân d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 142.doc
Tài liệu liên quan