Đề tài Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Tài liệu Đề tài Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện: Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương I: Khái quát chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán 3 I.Khái quát về chứng khoán 3 1.Các loại chứng khoán. 3 1.1.Cổ phiếu. 3 1.2.Trái phiếu. 3 2.Các chứng khoán phái sinh. 4 2.1.Chứng quyền. 4 2.2.Chứng khế. 5 2.3.Hợp đồng quyền lựa chọn. 6 2.4.Hợp đồng tương lai 7 2.5.Hợp đồng kỳ hạn 8 II.Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán 9 1. Bản chất của thị trường chứng khoán 9 2.Chức năng và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 9 2.1.Chức năng của thị trường chứng khoán 9 2.2.Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11 III.Cơ cấu của thị trường chứng khoán 14 1.Căn cứ vào phương thức giao dịch 14 1.1.Thị trường sơ cấp 14 1.2.Thị trường thứ cấp 15 2.Phân loại theo tính chất đăng ký 15 2.1.Sở giao dịch chứng khoán 15 2.2.Thị trường OTC 16 3.Phân loại thị trường chứng khoán theo công cụ lưu thôn...

doc86 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1063 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương I: Khái quát chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán 3 I.Khái quát về chứng khoán 3 1.Các loại chứng khoán. 3 1.1.Cổ phiếu. 3 1.2.Trái phiếu. 3 2.Các chứng khoán phái sinh. 4 2.1.Chứng quyền. 4 2.2.Chứng khế. 5 2.3.Hợp đồng quyền lựa chọn. 6 2.4.Hợp đồng tương lai 7 2.5.Hợp đồng kỳ hạn 8 II.Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán 9 1. Bản chất của thị trường chứng khoán 9 2.Chức năng và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 9 2.1.Chức năng của thị trường chứng khoán 9 2.2.Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11 III.Cơ cấu của thị trường chứng khoán 14 1.Căn cứ vào phương thức giao dịch 14 1.1.Thị trường sơ cấp 14 1.2.Thị trường thứ cấp 15 2.Phân loại theo tính chất đăng ký 15 2.1.Sở giao dịch chứng khoán 15 2.2.Thị trường OTC 16 3.Phân loại thị trường chứng khoán theo công cụ lưu thông 17 3.1.Thị trường cổ phiếu 17 3.2.Thị trường trái phiếu 17 3.3.Thị trường các chứng khoán phái sinh 17 IV.Đặc điểm và tình hình chứng khoán Việt Nam 17 1.Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam 17 1.1.Uỷ ban chứng khoán Nhà nước 18 1.2.Sở giao dịch chứng khoán 20 1.3.Tổ chức phụ trợ 21 1.4.Khối kinh doanh 23 1.5.Tổ chức phát hành 24 2.Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam 25 Chương II:Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 28 I. Một số văn bản pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Việt Nam 28 1.Các văn bản trực tiếp điều chỉnh 28 2. Các văn bản pháp luật có liên quan 31 II.Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 1.Một số vấn đề chung 32 1.1.Các thể chế về tài chính 32 1.2.Các thể chế về hành chính 33 1.3.Các quy định liên quan của pháp luật hình sự 34 1.4.Các quy định về giải quyết tranh chấp 34 1.5.Các quy định về giải thể phá sản công ty chứng khoán 35 2.Những vấn đề cụ thể 36 2.1.Cơ chế và hình thức phát hành chứng khoán 36 2.2.Về cơ cấu các loại thị trường 38 2.3.Còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán 40 2.4.Các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán 41 2.5.Khả năng tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam 42 2.6.Quy định về cách thức nhận lệnh của Công ty chứng khoán 46 2.7.Quản lý ngoại hối trong lĩnh vực chứng khoán 48 2.8.Quan hệ uỷ quyền trong giao dịch chứng khoán 49 2.9.Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán 51 2.10.Một số vấn đề khác 53 III. Những điểm mới và những mặt còn hạn chế trong các Dự thảo sửa đổi của một số văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam. 55 1. Dự thảo Quyết định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức và cá nhân nước ngoài 55 2. Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 48/NĐ - Chính phủ 56 Chương 3: Phương hướng hoàn thiện khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 58 I. Phương hướng chung 58 II. Giải pháp cụ thể 59 1.Sự cần thiết phải xây dựng Luật Chứng khoán 59 .Hiệu lực pháp lý cao 59 1.2.Phạm vi điều chỉnh rộng 60 1.3.Giải quyết xung đột với văn bản quy phạm pháp luật khác 60 1.4.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế 61 2. Những căn cứ để tiến hành xây dựng Luật Chứng khoán 61 2.1.Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 61 2.2.Tổng kết, đánh giá kết quả thực thi pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 63 2.3.Đánh giá thực trạng khung pháp luật về kinh tế 63 2.4.Tham khảo kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán ở một số nước 63 3. Những nội dung chính cần điều chỉnh trong Luật Chứng khoán 64 3.1.Những nội dung mang tính chất kế thừa 65 3.2.Một số nội dung cần có sự sửa đổi, bổ sung 65 a.Phạm vi điều chỉnh 65 b. Phát hành chứng khoán để niêm yết trên TTCK nước ngoài và cho phép chứng khoán nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam 66 c. Thị trường OTC 67 d. Hiệp hội chứng khoán 68 e. Hoà giải và giải quyết tranh chấp 68 f. Đối với hành vi mua bán khống 69 g. Bãi bỏ quy định bắt buộc phải qua phê duyệt của Thủ tướng chính phủ đối với việc mua cổ phần của cá nhân người nước ngoài 70 h. Đối với Công ty niêm yết 72 i. Đối với công ty chứng khoán 73 j. Một số nội dung khác 75 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 77 LỜI MỞ ĐẦU Ở Việt Nam, cũng như thị trường các yếu tố sản xuất khác (như thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ, chất xám…), thị trường chứng khoán (TTCK) là một phạm trù còn rất mới mẻ. Sự hình thành mảng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán (CK&TTCK) trong thị trường đặc thù này còn ở mức rất sơ khai, và nói chung còn rất manh mún. Cho đến nay, các văn bản pháp luật điều chỉnh về CK&TTCK có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau (Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Thông tư). Tuy nhiên, các văn bản pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình phát hành, kinh doanh và quản lý nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản dưới luật. Thêm vào đó, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt là còn một số điểm mâu thuẫn nhau giữa các văn bản, và nếu so sánh với các quy định của các nước trong khu vực thì có không ít những vấn đề nổi lên cần phải được quan tâm xử lý. Từ thực trạng đó có thể thấy vì mục tiêu ổn định và phát triển thị trường chứng khoán trước mắt và lâu dài, chúng ta nhất thiết phải có những sửa đổi, bổ sung nhằm làm cho hệ thống pháp luật này hoàn chỉnh hơn và đồng bộ với hệ thống pháp luật nói chung. Trong phạm vi bài viết này, em xin được phân tích một số điểm bất cập trong một số văn bản pháp luật quan trọng về CK&TTCK Việt Nam. Đồng thời, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện mảng pháp luật này. Xuất phát từ ý tưởng đó, nên nội dung của bài viết này sẽ bao gồm các nội dung sau: Chương I: Khái quát chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Chương II: Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam; Chương III: Phương hướng hoàn thiện khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam. Do trình độ hiểu biết và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, nên trong bài viết này, chắc chắn em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong có được sự góp ý và chỉnh sửa của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I.KHÁI QUÁT VỀ CHỨNG KHOÁN 1.CÁC LOẠI CHỨNG KHOÁN 1.1.Cổ phiếu Khi một công ty cổ phần gọi vốn để thành lập hoặc mở rộng, hiện đại hoá sản xuất, thì số vốn đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần, người mua cổ phần gọi là cổ đông. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Có nhiều khái niệm về cổ phiếu được quy định trong các luật chứng khoán. Cổ phiếu có thể hiểu là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể đối với một doanh nghiệp cổ phần. Theo thông tư 01/TT-UBCK ngày 13-10-1998 của Chính phủ Việt Nam về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng một chứng chỉ, hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Như vậy, chính công ty cổ phần đã khai sinh ra cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu. Các cổ đông - người mua cổ phiếu của công ty- là người hùn vốn cùng công ty hoạt động, là người chủ sở hữu công ty. Vì vậy cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn. 1.2.Trái phiếu Có rất nhiều khái niệm về trái phiếu. Có thể hiểu, trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với số tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Theo Nghị định 48/NĐ-TTg của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam, trái phiếu là một chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. 2.CÁC CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, chứng khế…Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh. 2.1.Chứng quyền Chứng quyền hay còn gọi là quyền đặt mua là một chứng thư do công ty cổ phần phát hành cho cổ đông, xác nhận quyền của cổ đông được mua một số lượng nhất định và trong một thời hạn nhất định. Các cổ đông là người góp vốn với công ty, vì vậy họ là thành viên của công ty, có quyền nhất định đối với công ty như quyền sở hữu tài sản, quyền biểu quyết, quyền hưởng cổ tức. Những quyền đó nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của cổ đông đối với công ty. Để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, thông thường, khi một công ty cổ phần muốn tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới, công ty thường dành cho các cổ đông hiện hữu quyền ưu tiên mua trước một lượng cổ phiếu mới tỷ lệ với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Mỗi cổ đông được hưởng ưu đãi này sẽ nhận được một tờ chứng quyền, nó thể hiện chính xác số lượng quyền mua trong một thời hạn xác định theo một giá ấn định. Số quyền mua của một chứng quyền bằng chính số cổ phần hiện hữu mà một cổ đông nắm giữ trong tổng toàn bộ số cổ phần hiện hữu của công ty. Số cổ phiếu dành cho một quyền mua tuỳ thuộc vào số cổ phiếu mới phát hành so với số cổ phiếu hiện hữu. Thông thường, giá cả của cổ phiếu phát hành thêm thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu khi chưa tăng nhằm bù đắp thiệt hại cho các cổ đông do “hiệu ứng pha loãng” gây ra (thị giá cổ phiếu sau khi phát hành cổ phiếu bổ sung sẽ giảm so với trước lúc phát hành). Các chứng quyền thường có thời hạn ngắn, có thể chỉ từ 1 tuần đến 6 tuần. Trong thời hạn này, người nắm giữ chứng quyền có thể sử dụng chúng để mua cổ phiếu mới của đợt phát hành đó hoặc bán chứng quyền cho người khác trên TTCK. Quá hạn, chứng quyền mất tác dụng và coi như huỷ bỏ, có nghĩa là nó không còn giá trị. Nếu một cổ đông muốn thực hiện quyền của mình, họ sẽ điền một tờ chứng quyền và gửi đến công ty. Họ cũng có thể gửi séc hoặc ngân phiếu theo giá trị của những cổ phiếu muốn mua thêm. Ngược lại, nếu họ không muốn thực hiện quyền của mình, họ có thể bán lại chứng quyền trên TTCK theo giá thị trường hiện hành để hưởng một phần chệnh lệch giá và phải chấp nhận “hiệu ứng pha loãng” đối với phần tài sản thuộc sở hữu của họ trong công ty. Giá chứng quyền được coi là một phần vốn của cổ đông và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Giá trị của chứng quyền, thời hạn còn lại của chứng quyền, xu hướng biến động về mệnh giá của cổ phiếu ấn định trong chứng quyền. 2.2.Chứng khế Đây là một chứng thư được công ty phát hành kèm với trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi, trong đó cho phép người sở hữu được quyền mua một số lượng nhất định chứng khoán (trái phiếu và cổ phiếu thường) mới phát hành, với giá cả nhất định và trong thời gian nhất định. Trong thực tế, các chứng khế được phát hành cùng với trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi để giúp cho việc chào bán lần đầu những chứng khoán này trở nên hấp dẫn hơn. Các trái phiếu được phát hành dưới hình thức thông thường, còn chứng khế được phát hành nhằm giúp cho việc chào bán hấp dẫn hơn. Nếu công ty có chiều hướng phát triển, trên cơ sở các báo cáo về mức độ hoàn thành những mục tiêu của nó, chứng khế sẽ hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Chẳng hạn, công ty XYZ có cổ phiếu thường đang lưu hành với giá 35$ một cổ phiếu trên TTCK. Chứng khế phát hành cho phép người sở hữu chứng khế đó mua cổ phiếu XYZ với giá 50$ một cổ phiếu vào bất kỳ thời điểm nào cho đến ngày 31/12/2003 chẳng hạn. Nếu XYZ là một công ty có triển vọng phát triển vọng phát triển tốt và công chúng đánh giá là thị giá cổ phiếu của nó vào năm 2003 không chỉ là 50$ mà còn cao hơn thế, thì chứng khế XYZ sẽ rất hấp dẫn. Do các chứng khế có kỳ hạn dài hạn hoặc vĩnh viễn, nên một công ty có thể có vài ba loại chứng khế lưu hành vào cùng một thời điểm. Người nắm giữ chứng khế có thể giữ lại trái phiếu và bán chứng khế, hoặc giữ lại chứng khế và bán trái phiếu, hoặc giữ lại cả trái phiếu và chứng khế; hoặc bán cả hai. Thị giá của chứng khế tuỳ thuộc vào những yếu tố như giá chuyển đổi, thời hạn còn lại trên chứng khế, giá cổ phiếu cơ bản của nó. 2.3.Hợp đồng quyền lựa chọn Hợp đồng quyền lựa chọn là hợp đồng được ký kết giữa một bên là “người ký phát” và một bên là người mua hợp đồng, trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số lượng chứng khoán, với giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Quyền lựa chọn có hai loại: -Quyền chọn mua: cho phép người mua hợp đồng được quyền mua một số lượng chứng khoán nhất định với giá cả nhất định, trong một thời hạn quy định của tương lai. Người mua hợp đồng phải trả cho người bán hợp đồng một khoản phí gọi là phí chọn mua. -Quyền chọn bán: cho phép người mua được quyền bán một số lượng chứng khoán nhất định, với giá cả nhất định, trong một thời hạn quy định trong tương lai. Người mua hợp đồng phải trả cho người bán hợp đồng một khoản phí gọi là phí chọn bán. Thông thường, người mua quyền chọn mua là người đang dự đoán giá của chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng và họ là người kỳ vọng giá lên; còn người ký phát thì đóng vai trò là người mong đợi giá xuống. Ngược lại, đối với quyền chọn bán, người mua quyền chọn bán là người kỳ vọng giá chứng khoán sẽ xuống. Hợp đồng quyền lựa chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua hoặc bán. Vì vậy, người chủ của quyền lựa chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng quyền lựa chọn. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ của quyền có thể bán quyền lựa chọn đó trên TTCK, nghĩa là chuyển quyền sở hữu cho người khác. Vì vậy, hợp đồng quyền lựa chọn cũng được coi là một loại chứng khoán của TTCK. 2.4.Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai là hợp đồng giữa người bán và người mua, trong đó người bán cam kết giao một số lượng chứng khoán nhất định và người mua sẽ trả tiền khi nhận số chứng khoán đó với một giá nhất định, tại một ngày nhất định trong tương lai, được xác định trước tại thời điểm ký kết hợp đồng. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng tương lai được xác định trước, được quy định cụ thể theo các nguyên tắc giao dịch và thống nhất về số lượng, chất lượng chứng khoán phải giao, địa điểm giao hàng và nhiều quy định cụ thể khác. Để tránh mọi thiệt hại khi hợp đồng không được tôn trọng, vào lúc ký kết hợp đồng, cả hai bên đều được yêu cầu ký quỹ. Số tiền này còn được gọi là tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng. Hợp đồng tương lai bắt nguồn từ hợp đồng giao hàng. Tuy nhiên, chúng cũng có những điểm khác biệt, đó là: Một hợp đồng giao hàng không được chuyển nhượng, người mua buộc phải trả tiền để nhận hàng và người bán phải giao hàng để nhận tiền. Còn hợp đồng tương lai được tiến hành trên cơ sở trao đổi, tức là nó cũng trở thành hàng hoá, được mua bán trên một thị trường riêng biệt TTCK. Các điều kiện của một hợp đồng mua bán có kỳ hạn được tiêu chuẩn hoá theo những quy tắc của SGD. Giá cả của các hợp đồng tương lai trên TTCK biến động theo cung cầu và được xác định trên cơ sở đấu giá công khai. Phí hoa hồng mua bán các hợp đồng tương lai thường rất cao, có khi gấp 8 đến 9 lần phí hoa hồng mua bán chứng khoán. Việc thanh toán mua bán các hợp đồng tương lai thường được thực hiện ngay qua tài khoản mở tại Trung tâm thanh toán bù trừ, không được mua bán chịu. Loại hợp đồng mua bán này ra đời trên cơ sở đổi mới tài chính do các điều kiện thị trường thay đổi và dựa vào các tiến bộ tin học. Hợp đồng tương lai ra đời nhằm chống đỡ rủi ro do sự biến động lãi suất vào những năm đầu của thập kỷ 70. Chúng xuất hiện sớm nhất ở Mỹ (thị trường Chicago) vào năm 1975 và phát triển mạnh vào năm 1977, tập trung chủ yếu vào các công cụ tài chính như: trái phiếu Kho bạc, tín phiếu Kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi có kỳ hạn bằng đôla châu Âu. Trong những năm 80, loại thị trường này trở nên phổ biến ở các nước phát triển. 2.5.Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là những thoả thuận mua bán một loại tài sản ở một thời điểm chắc chắn trong tương lai với mức giá nhất định. Tuy nhiên, không giống như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn không trao đổi trên thị trường, không định giá hàng ngày. Hợp đồng này không phải theo tiêu chuẩn của thị trường riêng biệt, ngày chuyển giao được xác định theo từng hợp đồng. Nói chung, các công cụ có nguồn gốc chứng khoán đều bắt nguồn từ một vài chứng khoán cơ bản. Vì vậy, giá cả của 2 loại phải dịch chuyển cùng gần nhau. Thông thường, giá cuả công cụ có nguồn gốc chứng khoán được xác định trực tiếp từ chứng khoán khởi đầu. Với hợp đồng lựa chọn và chứng khế, người ta đã mua quyền để thực hiện với chứng khoán gốc theo giá cả và số lượng đã được định trước. Như vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến giá của các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán là: - Giá của chứng khoán gốc. - Giá thực hiện. - Sự dao động giá của các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán. - Thời gian còn lại cho đến khi đáo hạn. - Sự sẵn có của chứng từ thay thế tương tự. - Các lãi suất tương đối và các chi phí để giữ các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán. II.BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. BẢN CHẤT CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, giao dịch các loại chứng khoán trung và dài hạn. Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì: - Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. - TTCK là định chế tài chính trực tiếp: cả chủ thể cung cà cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Qua kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn. 2.CHỨC NĂNG VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.1.Chức năng của thị trường chứng khoán Có nhiều quan điểm về chức năng của TTCK theo nhiều tiêu thức và cách đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung lại TTCK có những chức năng chủ yếu sau: a.Công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế TTCK cho phép các công ty hay Chính phủ có thể gọi vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng thông qua việc phát hành các loại chứng khoán trên TTCK. Tại hầu hết các nước, ngoài kênh huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính, các đơn vị kinh tế và Nhà nước có thể huy động vốn trực tiếp bằng cách phát hành chứng khoán thông qua TTCK. Nguồn vốn huy động được đảm bảo sử dụng lâu dài, đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả như khi vay ngân hàng. Do đó, áp lực tâm lý nặng nề của doanh nghiệp về chu kỳ trả lãi và vốn vay ngân hàng sẽ được giảm bớt. TTCK còn là công cụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài bên cạnh các hình thức phổ biến như liên doanh, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thông qua TTCK, các nhà đầu tư có thể quan sát, theo dõi và nhận định tình hình sản xuất kinh doanh của các ngành, các tổ chức kinh tế của một quốc gia. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì xu hướng huy động vốn thông qua TTCK càng tăng. Điều này có được là nhờ tính đa dạng, linh hoạt và chi phí thấp của TTCK so với việc huy động vốn gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. b.Công cụ tăng tiết kiệm quốc gia Nhìn chung, phương pháp tiết kiệm và quản lý tài sản của các nhà đầu tư có thể thực hiện bằng hai cách: Đầu tư vào tài sản thực như bất động sản, đá quý, hoặc đầu tư vào tài sản tài chính như gửi ngân hàng, tiết kiệm, chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và thu nhập quốc gia tăng, người dân có xu hướng thích đầu tư vào tài sản tài chính hơn là các tài thực. TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ mới đa dạng, phong phú phù hợp với từng loại đối tượng có suy nghĩ và tâm lý riêng. Với cả một hệ thống gồm hàng chục loại chứng khoán khác nhau của nhiều ngành kinh tế khác nhau, người tiết kiệm có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông qua các nhà tài chính chuyên môn để lựa chọn những hình thức đầu tư thích hợp nhất. Nhờ vậy, vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư càng sinh lời sẽ càng kích thích ý thức tiết kiệm trong công chúng. Rõ ràng, TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao mức độ tiết kiệm quốc gia tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế quốc dân. c.Cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán Công việc thường xuyên và hàng ngày của TTCK là mua bán các chứng khoán đã phát hành giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân nào đó phải thay đổi những quyết định đầu tư trước đó. Việc mua đi bán lại các chứng khoán này không tạo thêm nguồn vốn mới cho chủ thể phát hành mà chỉ là sự thay đổi quyền sở hữu đối với chứng khoán. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, tính thanh khoản của các chứng khoán cao hay thấp lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: + Thủ tục và phí thực hiện. + Thời hạn còn lại của chứng khoán. + Yếu tố thị trường. d.Chức năng đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp và tình hình cuả nền kinh tế TTCK là nơi đánh giá và biểu hiện giá trị tài sản của doanh nghiệp và nền kinh tế một cách nhạy bén, công khai, kịp thời thông qua giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán. Việc đánh giá này có thể tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, yếu tố tâm lý của người đầu tư, qua đó tạo ra môi trường cạnh tranh. 2.2.Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán TTCK thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau: a.Nguyên tắc trung gian Nguyên tắc trung gian đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thực hiện thông qua môi giới trung gian. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt dộng lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Muốn việc đầu tư chứng khoán có hiệu quả cao, người đầu tư phải có kinh nghiệm, có trình độ và có đầu xét đoán giỏi. Chính những công ty chứng khoán hoặc những nhà môi giới chứng khoán sẽ cố vấn đắc lực giúp cho nhà đầu tư xét đoán được giá trị thực của từng loại chứng khoán và dự đoán giá trị tương lai của nó, từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn. Nguyên tắc này có tác dụng đảm bảo an toàn về chứng khoán, tránh chứng khoán giả mạo, trộm cắp chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của Sàn giao dịch. Điều này thể hiện rõ hơn trên TTCK tập trung – tức là Sở giao dịch chứng khoán. b.Nguyên tắc đấu giá Mục tiêu của TTCK là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy, không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có thể xác định căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị trường. Vì vậy, TTCK được coi là thị trường mang tính tự do nhất trong các loại thị trường. * Căn cứ vào hình thức đấu giá, ở TTCK có 3 loại đấu giá: - Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau để thương lượng giá. Ví dụ: TTCK New York, Tokyo, Frankfurk. - Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau, việc thương lượng giá cả được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và vi tính nối mạng. Điển hình của loại đấu giá này là TTCK London. - Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống vi tính nối mạng giữa máy chủ của Sở giao dịch với hệ thống máy tính của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua bán được truyền đến máy chủ, máy tự động khớp các lệnh mua bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện (Ví dụ như TTCK Thái Lan…) * Căn cứ vào phương thức đấu giá, ở TTCK có 2 loại đấu giá: - Đấu giá liên tục: là một hệ thống, trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các lệnh của khách hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp được. Đặc điểm của đấu giá liên tục là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời của thông tin và các nhà đầu tư có thể nhanh chóng phản ứng lại trước những thay đổi trên thị trường. Loại đấu giá này thích hợp đối với những thị trường có khối lượng giao dịch lớn và nhiều đơn đặt hàng. - Đấu giá định kỳ: là một hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được tiến hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp tất cả các lệnh mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định. Đấu giá định kỳ là phương thức xác định mức giá cân bằng cung – cầu. Vì vậy, đây là phương thức đấu giá rất có hiệu qủa trong việc hạn chế biến động giá quá mức, phát sinh từ việc phối hợp những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một cách bất thường như trong trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, đấu giá định kỳ không phản ánh kịp thời những thông tin về thị trường và hạn chế tính kịp thời của các giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đấu giá của TTCK có số lượng khách hàng và khối lượng giao dịch còn ít. c.Nguyên tắc công khai thông tin Đề đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên TTCK đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao dịch. Việc công khai thông tin về TTCK đòi hỏi thoả mãn các yêu câu sau: - Tính chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. - Tính kịp thời: nếu các thông tin công khai mà không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. - Tính dễ dàng: nhà đầu tư phải dễ dàng tiếp cận với thông tin trên TTCK trên các phương tiện thông tin như: báo chí, phát thanh, các cơ quan thông tin, mạng lưới thông tin của Sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán. Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp quy, các đạo luật, các quy chế, điều lệ của từng TTCK, nhằm bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của TTCK, tạo điều kiện ổn định và phát triển TTCK. III.CƠ CẤU CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Có nhiều tiêu thức khi tìm hiểu về cơ cấu của TTCK. 1.CĂN CỨ VÀO PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH: TTCK ĐƯỢC CHIA THÀNH THỊ TRƯỜNG SƠ CẤP VÀ THỊ TRƯỜNG THỨ CẤP. 1.1.Thị trường sơ cấp Thị trường sơ cấp (còn gọi là thị trường cấp I hay thị trường phát hành) là giai đoạn khởi đầu của TTCK. Đây là nơi mua bán chứng khoán mới phát hành để thành lập doanh nghiệp, tăng thêm vốn cho doanh nghiệp, huy động vốn cho nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, qua đó đưa nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Nguồn cung cấp vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiết kiệm của công chúng, của một số tổ chức tài chính và phi tài chính. Đây là giai đoạn khó khăn và phức tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố tạo lập chứng khoán như hình thức chứng khoán, phương pháp phát hành, cách định giá chứng khoán, thủ tục tăng vốn, các yếu tố pháp lý có liên quan đến việc đăng ký, lưu thông, bảo quản và cất trữ chứng khoán. Nếu xác định không đúng các yếu tố, điều kiện phát hành thì chứng khoán có thể không tiêu thụ được, gây tổn thất tài sản và làm mất uy tín cho chủ thể phát hành. Do đó, để đảm bảo thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư chứng khoán, cơ quan quản lý việc phát hành và kinh doanh chứng khoán của Chính phủ ( Uỷ ban chứng khoán quốc gia) thường có những quy định chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt việc phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 1.2.Thị trường thứ cấp Thị trường thứ cấp (còn gọi là thị trường cấp II hay thị trường luân chuyển chứng khoán). Đây là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành với nhiều lần mua bán và giá cả khác nhau. Thu nhập từ việc mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán, chứ không thuộc về các tổ chức phát hành. Chức năng của thị trường thứ cấp là: - Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do (cạnh tranh hoàn hảo). Việc định giá tùy thuộc vào sự đánh giá của người mua và người bán về thực trạng và triển vọng của tổ chức phát hành. - Đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán có giá. Thị trường thứ cấp có hai đặc điểm: - Là thị trường có tính cạnh tranh cao. - Là thị trường hoạt động liên tục. 2.PHÂN LOẠI THEO TÍNH CHẤT ĐĂNG KÝ 2.1.Sở giao dịch chứng khoán (hay còn gọi là TTCK chính thức, TTCK tập trung): SGDCK là thị trường chính thức, ở đó thực hiện việc mua bán các chứng khoán được niêm yết trong danh sách của thị trường. SGDCK có những đặc điểm sau: - Là một tổ chức có tư cách pháp nhân, được thành lập theo quy định của pháp luật. Tuỳ theo quy định của mỗi nước mà SGDCK có thể là một doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước; hoặc là một doanh nghiệp cổ phần và cũng có thể là một doanh nghiệp tư nhân. Trong ba phương thức tổ chức SGDCK nêu trên, phương thức thứ hai được áp dụng phổ biến nhất hiện nay. Phương thức thứ nhất phù hợp với các SGD mới thành lập vì có sự tham gia của Nhà nước, nên có thể hạn chế tới mức thấp nhất những nhân tố tiêu cực của TTCK và tạo điều kiện để TTCK hoạt động có hiệu quả cao. - Là một tổ chức có thực thể hiện hữu, có địa điểm, sàn giao dịch cụ thể, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán được niêm yết dưới hình thức thủ công hay điện tử. Sự tồn tại của SGD có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó. - Là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký. Đây là loại chứng khoán đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định, được cơ quan có thẩm quyền cho phép giao dịch tại SGD, đảm bảo phân phối và mua bán tại SGD. - Là thị trường minh bạch và có tổ chức cao, có thời biểu mua bán cụ thể, giá cả được xác định trên cơ sở đấu giá công khai, chịu sự kiểm soát của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Các chứng khoán được giao dịch theo những quy chế nghiêm ngặt và nguyên tắc nhất định. 2.2.Thị trường OTC (thị trường phi tập trung). Đây là thị trường không có địa điểm giao dịch cụ thể, hàng ngàn hãng môi giới trong cả nước giao dịch mua bán chứng khoán với nhau thông qua hệ thống điện thoại và hệ thống vi tính nối mạng. Đây cũng là một loại thị trường bậc cao, được tự động hoá cao độ, phân tán, không phải là thị trường hiện hữu. Chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC không đòi hỏi các điều kiện tiêu chuẩn cao như giao dịch tại SGDCK. Hầu hết các loại chứng khoán mới phát hành lần đầu đều giao dịch qua thị trường OTC, sau đó mới xin đăng ký ở SGD. Quản lý thị trường OTC thường là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quốc gia. Hiệp hội có nhiệm vụ ban hành quy chế và giám sát việc thực thi quy chế, nhằm đảm bảo các khoản lợi nhuận và hoa hồng cho các công ty chứng khoán thành viên được công bằng, hợp lý. Thành viên của hiệp hội cũng là thành viên của TTCK và ngược lại. 3.PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO CÔNG CỤ LƯU THÔNG Theo tiêu thức này, TTCK có thể chia thành 3 loại thị trường: 3.1.Thị trường cổ phiếu Đây là thị trường phát hành và mua đi, bán lại các cồ phiếu đã được phát hành. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chứa đựng cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. 3.2.Thị trường trái phiếu Đây là thị trường phát hành và mua đi, bán lại các trái phiếu đã được phát hành, bao gồm thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường trái phiếu Chính phủ. Việc vay vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu ngày càng trở nên phổ biến ở các quôc gia. Do đó, thị trường trái phiếu ngày càng lớn về quy mô và tình hình thị trường ngày càng sôi động. 3.3.Thị trường các chứng khoán phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi, bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành. Đây là loại thị trường cao cấp chuyên giao dịch những công cụ tài chính cao cấp, do đó thị trường này chỉ xuất hiện ở những nước có TTCK phát triển mạnh. IV.ĐẶC ĐIỂM VÀ TÌNH HÌNH CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. Dựa vào kinh nghiệm và mô hình TTCK của các nước trên thế giới và thực trạng thị trường tài chính Việt Nam, UBCKNN đã quyết định thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Trải qua một thời gian hoạt động, TTGDCK sẽ phát triển thành SGDCK. Mô hình TTCK Việt Nam được thiết lập như sau: TTCK Việt Nam do Nhà nước sở hữu, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động công bằng, hiệu quả, an toàn, bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đồng thời hội nhập được với TTCK khu vực và trên thế giới. Tham gia vàoTTCK có nhiều chủ thể khác nhau, như các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam Công ty CK… Công ty CK3 Công ty CK2 Công ty CK1 UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC TRUNG TÂM GDCK Cơ quan tư vấn Tổ chức phát hành Nhà đầu tư Nhà đầu tư Các tổ chức phụ trợ Kế toán Thanh toán Lưu ký vv… 1.1.Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Kinh phí Nhà nước do Ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thuộc biên chế quản lý Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán có nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Soạn thảo các văn bản pháp luật về TT&TTCK để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. - Chủ trì và phối hợp với các Bộ ngành có liên quan tổ chức xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam. - Cấp, đình chỉ và thu hồi giấy phép hoạt động đối với Công ty kinh doanh chứng khoán, Công ty tư vấn chứng khoán, Quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và các đơn vị được phát hành chứng khoán để giao dịch ở TTCK theo quy định của Chính phủ. - Thành lập và quản lý các tổ chức dịch vụ và phụ trợ cho hoạt động của thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể SGD chứng khoán. - Kiểm tra, giám sát hoạt động của SGDCK và các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán. - Ban hành các quy định về niêm yết, thông báo phát hành thông tin về giao dịch, mua bán chứng khoán, thoả thuận với Bộ Tài chính để quy định phí, lệ phí liên quan đến việc phát hành và kinh doanh chứng khoán. - Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh chứng khoán. - Hợp tác với các tổ chức quốc tế và các nước về TT&TTCK theo quy định của Chính phủ. - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo cho hoạt động của thị trường chứng khoán diễn ra có hiệu quả và đúng luật. - Quản lý cơ sở vật chất và tổ chức bộ máy công chức, viên chức của UBCKNN theo quy định của Chính phủ. - Thực hiện các công việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao. UBCKNN có Chủ tịch và các phó Chủ tịch do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các uỷ viên kiêm nhiệm do các Bộ và Ngân hàng Nhà nước cử. Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ toàn bộ hoạt động của Uỷ ban chứng khoán. Nhiệm vụ của phó Chủ tịch và uỷ viên do Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán phân công. 1.2. Sở giao dịch chứng khoán (Trung tâm giao dịch chứng khoán) Ở Việt Nam, thị trường giao dịch tập trung được tổ chức từng bước từ Trung tâm giao dịch chứng khoán lên Sở giao dịch chứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc Sở giao dịch chứng khoán Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán do Ngân sách Nhà nước cấp. Trung tâm giao dịch chứng khoán có chức năng quản lý, điều hành, giám sát các hoạt động mua bán chứng khoán tại Trung tâm. Trung tâm giao dịch chứng khoán có nhiệm vụ và quyền hạn sau (Điều 24 – Nghị định 48/1998 NĐ-CP/ TTg và điều 4 chương II “Quy chế hoạt động của TTGDCK”): - Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán. - Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán. - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua, bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán. - Thực hiện đăng ký chứng khoán. - Thực hiện đăng ký bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán. - Công bố các thông tin về hoạt động giao dịch chứng khoán. - Kiểm tra giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán. - Thu phí niêm yết chứng khoán, phí thành viên, phí giao dịch, phí cung cấp dịch vụ, thông tin và các loại phí dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. -Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán theo quy định của Nhà nước. - Lập và quản lý quỹ hỗ trợ thanh toán. Tổ chức của TTGDCK gồm: Phong giao dịch, phòng đăng ký, phòng thanh toán bù trừ và lưu trữ chứng khoán, phòng giám sát thị trường, phòng quản lý niêm yết, phòng quản lý thành viên, phòng nghiên cứu và thông tin thị trường, phòng công nghệ tin học, phòng hành chính nhân sự. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng này do giám đốc TTGDCK quy định. Thành viên của TTGDCK là các công ty chứng khoán có giấy phép hoạt động. Chỉ có thành viên mới được phép hoạt động và giao dịch chứng khoán tại TTGDCK. 1.3 Tổ chức phụ trợ * Lưu ký chứng khoán: Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. Tổ chức hoạt động lưu ký chứng khoán phải là ngân hàng hoặc công ty chứng khoán đáp ứng các yêu cầu về vốn, cơ cấu vật chất, kỹ thuật và trình độ chuyên môn theo quy định của UBCKNN và phải được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán. Tổ chức được cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán được tham gia hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ tại TTGDCK. Tổ chức lưu ký chứng khoán phải quản lý tài sản của khách hàng tách biệt với tài sản của chính mình, không được coi là tài sản của mình và không được dùng để thanh toán nợ cho mình. Thành viên lưu ký mở tài khoản lưu ký chứng khoán cho công chúng, tài khoản lưu ký chứng khoán là tài khoản được sử dụng để hạch toán việc gửi, rút hoặc chuyển nhượng chứng khoán, hạch toán việc giao nhận chứng khoán. Thành viên lưu ký chứng khoán có quyền và nghĩa vụ sau: - Uỷ quyền bằng văn bản cho ngân hàng chỉ định thực hiện việc hạch toán tiền liên quan đến giao dịch chứng khoán và cam kết thông báo cho TTGDCK khi có các thay đổi liên quan đến giấy uỷ quyền. - Uỷ quyền bằng văn bản cho TTGDCK thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán các giao dịch chứng khoán theo quy định. - Chịu trách nhiệm đối với tất cả các hoạt động của nhân viên nghiệp vụ của mình trong việc thanh toán các giao dịch chứng khoán. - Cam kết tuân thủ các quy định của UBCKNN, TTGDCK và ngân hàng chỉ định về các vấn đề liên quan đến hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán. - Cung cấp cho TTGDCK những thông tin và những tài liệu cần thiết để thực hiện việc lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán. TTGDCK phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thiệt hại do TTGDCK gây ra cho các thành viên lưu ký. Các loại phí liên quan đến hoạt động đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán do UBCKNN quy định sau khi thoả thuận với Bộ Tài chính. * Thanh toán bù trừ chứng khoán: Thanh toán bù trừ chứng khoán được áp dụng cho tất cả các giao dịch chứng khoán tại SGDCK. Việc bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán được thực hiện theo nguyên tắc sau: +Việc bù trừ các giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức bù trừ đa phương. Phương thức bù trừ song phương chỉ áp dụng trong một số trường hợp, một số loại giao dịch nhất định theo quy định của TTGDCK. +Việc thanh toán giao dịch chứng khoán phải tuôn thủ các nguyên tắc giao dịch chứng khoán đồng thời với thanh toán tiền. +Việc thanh toán tiền phải thực hiện bằng hình thức chuyển khoản thông qua hệ thống tài khoản của thành viên lưu ký và của TTGDCK mở tại một ngân hàng chỉ định. Vào thời gian quy định, ngân hàng chỉ định sẽ trích số tiền phải thanh toán từ tài khoản thanh toán bù trừ của thành viên lưu ký chuyển vào tài khoản thanh toán bù trừ của TTGDCK mở tại ngân hàng chỉ định. *Kế toán TTGDCK: Đây là công việc tổ chức hệ thống thông tin kinh tế, tài chính bằng số liệu để quản lý và kiểm soát nguồn kinh phí, tình hình sử dụng, quyết toán kinh phí; tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, tài sản; tình hình chấp hành dự toán thu chi và thực hiện các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước ở TTGDCK. Cung cấp thông tin tổng quát về tình hình tài sản, công nợ, tình hình giao dịch chứng khoán, hoạt động thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán ở TTGDCK. Kế toán chứng khoán lưu ký theo mệnh giá thực hiện theo phương pháp ghi sổ “kép”. 1.4 Khối kinh doanh Khối kinh doanh bao gồm các công ty chứng khoán, doanh nghiệp, quỹ đầu tư, nhà đầu tư tư nhân… - Công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoặc Tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. UBCKNN cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán. Như vậy, các loại hình pháp nhân tham gia kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam có thể là: (1) Công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn do các pháp nhân, thể nhân hợp pháp thành lập. (2) Các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty bảo hiểm trong nước hoặc Tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập (hoặc liên quan thành lập) công ty chứng khoán trực thuộc, hạch toán độc lập. (3) Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tham gia kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập công ty chứng khoán liên doanh với công ty chứng khoán trong nước theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ- CP về TT&TTCK. Sau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của TTCK, UBCKNN có thể quy định bổ sung các loại hình doanh nghiệp khác tham gia kinh doanh chứng khoán phù hợp với tình hình của từng thời kỳ. - Các nhà đầu tư chứng khoán: Các nhà đầu tư chứng khoán trên TTCK bao gồm cá nhân, hộ gia đình, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm…Tuỳ theo đặc điểm của từng thị trường mà mức độ tham gia của các nhà đầu tư có khác nhau. Chẳng hạn trên thị trường đấu thầu trái phiếu Kho bạc Việt Nam hiện nay, các nhà đầu tư chủ yếu là ngân hàng thương mại quốc doanh. Các thành viên khác hầu như không tham gia hoặc tham gia đặt thầu với lãi suất cao nên rất ít khi trúng thầu. - Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán: Các bên tham gia hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Người đầu tư góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán. Cả hai khối phụ trợ và khối kinh doanh hoạt động dưới sự quản lý của UBCKNN. Giai đoạn đầu, UBCKNN triển khai các công việc để thành lập TTCK, khi TTCK đã ra đời thì vai trò quan trọng nhất của UBCKNN là quản lý và giám sát hoạt động của TTCK, thúc đẩy TTCK hoạt động lành mạnh, minh bạch và có hiệu quả. 1.5 Tổ chức phát hành Ở Việt Nam các tổ chức được phát hành chứng khoán bao gồm: Chính phủ, chính quyền địa phương, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước, quỹ đầu tư (phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư). Tuy nhiên, trên thực tế trong thời gian qua, người tham gia phát hành chứng khoán chủ yếu là Chính phủ, ngân hàng thương mại quốc doanh và các doanh nghiệp cổ phần hoá. Các chủ thể còn lại chưa triển khai mạnh việc tạo hàng hoá cho thị trường. Tất cả các tổ chức nói trên đều hoạt động dưới sự quản lý của UBCKNN. UBCKNN có vai trò quan trọng là quản lý và giám sát hoạt động của TTCK, thúc đẩy TTCK hoạt động lành mạnh, minh bạch và có hiệu quả. 2.Thực trạng TTCK Việt Nam Qua hai năm vận hành thử nghiệm, TTCK Việt Nam chưa phát triển được như dự kiến ban đầu. Mặc dù trong lễ kỷ niệm 2 năm, UBCKNN có một số đánh giá tích cực về kết quả điều hành thị trường, nhưng bản thân các con số về lượng tiền giao dịch mỗi phiên so với GDP; tỷ lệ công ty niêm yết so với số công ty có điều kiện niêm yết; tổng số tài khoản giao dịch so với dân số; số lượng các quỹ đầu tư nước ngoài so với các nước ASEAN;…lại cho thấy sự phát triển này lại chưa thể coi là “tạm ổn” Mức giao dịch thấp, số lượng nhà đầu tư ít ỏi, số nhà đầu tư bỏ giao dịch sau nhiều “quả đắng” ngày càng nhiều. Số vụ huy động vốn theo đúng nghĩa không có, chỉ có một số lần danh nghĩa, nhưng lượng huy động chẳng đáng kể; số công ty niêm yết còn rất ít ( 19 và sắp tới là 20 công ty ) trong tổng số hàng trăm công ty cổ phần đáng mặt. Thêm vào đó là khủng hoảng cung – cầu. Sự mất cân bằng cán cân cung – cầu luôn luôn là vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản lý thị trường trong suốt hơn hai năm qua. Trong gần một năm hoạt động đầu tiên, thị trường rơi vào tình trạng khủng hoảng do thiếu hàng hoá và giá cổ phiếu bị đẩy lên cao. Ngược lại, tính từ những tháng cuối năm 2001 cho tới nửa đầu năm 2002, khi thị trường bất động sản ở những đô thị lớn ( Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…) lên cơn sốt cũng là lúc TTCK rơi vào tình trạng khủng hoảng sức cầu khiến giá cổ phiếu liên tục tụt dốc. Chỉ số VN-Index vì thế cũng sụt giảm nặng nề. Và cho đến thời điểm này “dư âm” của nó vẫn còn. Có nhiều điều lý giải cho thực trạng này, trong đó phải nói đến cách nhận thức và cách điều hành thị trường: Về nhận thức Nhận thức xuyên suốt của UBCKNN được thể hiện rất rõ là lấy công ty chứng khoán làm trụ cột phát triển thị trường. Trong khi đó, về cơ bản thì quyền lợi của nhà đầu tư lại không trùng với quyền lợi của các CTCK. Có thể điểm qua cách thức tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý để thấy rõ: (1) Tăng phiên giao dịch: Lượng tiền giao dịch trung bình theo tuần tăng khoảng 60%, trong khi đó, VN-Index vẫn giảm và cơ hội phát hành ra công chúng của các công ty niêm yết không hề tăng. Điều đáng nói là phí giao dịch thuộc về CTCK, còn mối quan tâm của cộng đồng đầu tư và cả các công ty sản xuất kinh doanh lại là VN-Index. (2) Lúc cần tham khảo ý kiến, cơ quan quản lý chủ yếu dựa vào CTCK; khi cần thông báo chỉ gửi công văn cho CTCK như thể họ là cơ quan phát ngôn thay nhà đầu tư. (3)Trong dự kiến thành lập Hiệp hội chứng khoán, UBCK không hề đả động đến nhà đầu tư cá nhân, một nhân tố quan trọng làm nên thị trường mà thiếu họ có lẽ không một quỹ đầu tư, hay CTCK nào có thể tồn tại. Về quản lý điều hành. Khi các nhà đầu tư cần thông tin, thì Bản tin TTCK bị cấm photo và được coi là bản tin “nội bộ”. Thông tin đối với nhà đầu tư không thể thiếu, việc đáng làm của cơ quan quản lý thị trường là cần phát miễn phí, đúng lúc và đầy đủ những thông tin mà họ đã thay mặt công chúng đầu tư quản lý. Cơ quan quản lý nói nhiều về công tác thông tin, nhưng trang www.ssc.gov.vn không hề cho thấy dấu hiệu đang là kênh phục vụ thông tin thị trường. Trong khi đó, tại địa chỉ www.mezfin.com chẳng hạn, các thông tin này đang được phục vụ miễn phí cho nhà đầu tư, với lượng thông tin phong phú. (3) Phản ứng của cơ quan quản lý trước những sự kiện thường chậm và thiếu rõ ràng đối với nhà đầu tư. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán của chúng ta còn quá nhiều bất cập. Đây có thể coi là nguyên nhân đặc biệt quan trọng bởi chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành của thị trường chứng khoán hiện nay. Vậy những bất cập trong hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán bao gồm những gì? Cụ thể ra sao? Vấn đề này, xin được đề cập đến ở các phần tiếp theo. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA VIỆT NAM 1.CÁC VĂN BẢN TRỰC TIẾP ĐIỀU CHỈNH (1) Nghị định số 75/CP ngày 28-11-1996 của Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; (2) Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày 11-7-2000 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; (3) Nghị định số 17/2000/NĐ- CP ngày 26-5-2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra chứng khoán; (4) Nghị định số 22/2000/NĐ- CP ngày 10-7-2000 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán; (5) Quyết định số 1038/1997/QĐ-TTg ngày 5-12-1997 của Thủ tướng Chíng phủ về thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán trực thuộc UBCKNN; (6) Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7- 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán; (7) Quyết định số 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam; (8) Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài; (9) Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg ngày 19-8- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập Công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán; (10) Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27-3- 2000 của Thủ tướng Chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán; (11) Quyết định số 529/TT&TTCK/QĐ-TCDN ngày 31-7- 1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc lưu hành tờ cổ phiếu và ban hành Quy chế tạm thời về việc mua tờ cổ phiếu trong các công ty cổ phần; (12) Quyết định số 128/QĐ-UBCK5 ngày 1- 8- 1998 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Giao dịch chứng khoán; (13) Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13-10-1998 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán; (14) Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13-10-1998 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công tư quản lý quỹ; (15) Quyết định số 04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27-3- 1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế Thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán; (16) Quyết định số 42/2000/QĐ-UBCK1 ngày 12-6- 2000 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế Thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán ban hành theo Quyết định số 04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27-3- 1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; (17) Quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27-3-1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán; (18) Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3 ngày 14-6-2000 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27-3-1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; (19) Quyết định số 105/1999/QĐ- BTC ngày 30-8- 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán Trung tâm giao dịch chứng khoán; (20) Quyết định số 31/1999/QĐ-UBCK6 ngày 12-10- 1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế giám sát thanh tra hoạt động TT&TTCK; (21) Quyết định số 127/1999/QĐ-BTC ngày 22 – 10- 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Biểu mức thu phí, lệ phí đối với hoạt động thị trường chứng khoán; (22) Quyết định số 99/2000/QĐ-BTC ngày 13-6- 2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán công ty chứng khoán; (23) Thông tư số 01/1998/TT-UBCK ngày 13-10- 1998 của UBCKNN hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày11-7-1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng; (24) Thông tư số 10/1999/TT-BTC ngày 29- 1-1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn tạm thời chế độ quản lý tài chính đối với Trung tâm Giao dịch chứng khoán ; (25) Thông tư số 80/1999/TT- BTC ngày 29- 6-1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý đối với các loại tài sản quý hiếm và chứng chỉ có giá do Kho bạc nhà nước nhận gửi và bảo quản; (26) Thông tư số 27/2000/ TT-BTC ngày 6-4-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung Thông tư số 80/1999 ngày 29-6-1999 quản lý đối với các loại tài sản quý hiếm và chứng chỉ có giá do Kho bạc nhà nước nhận gửi và bảo quản; (27) Thông tư số 115/1999/TT-BTC ngày 24-9-1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc kinh doanh mua, bán công trái giữa các tổ chức được phép kinh doanh công trái với tổ chức, cá nhân; (28) Thông tư số 132 / 1999/ TT- BTC ngày 15 - 11- 1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài; (29) Thông tư số 01/1999/TT-UBCK1 ngày 30-12-1999 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước hướng dẫn Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam; (30) Thông tư số 11/2000/TT-BTC ngày 1-2-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với công ty chứng khoán cổ phần và trách nhiệm hữu hạn; (31) Thông tư số 01/2000/TT-UBCK1 ngày 17-4-2000 của UBCKNN hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; (32) Thông tư số 39/2000/TT-BTC ngày 11-5-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước; (33) Công văn số 109/1999/UBCK2 ngày 12-8-1999 của UBCKNN hướng dẫn đăng ký niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán; 2. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN Luật Doanh nghiệp 2000; Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995; Luật Các tổ chức tín dụng 1997; Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam 1997; Pháp lệnh Phát hành công trái xây dựng Tổ quốc; (6) Nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12-5-1999 của Chính phủ quy định việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc; (7) Thông tư số 67/1999/TT-BTC ngày 7-6-1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc sử dụng vốn và hạch toán kế toán tiền mua và lãi mua công trái xây dựng Tổ quốc tại các doanh nghiệp; (8) Nghị định số 01/2000/NĐ-CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ ban hành Quy chế Phát hành trái phiếu Chính phủ; (9) Thông tư số 55/2000/TT-BTC ngày 9-6-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung; (10) Thông tư số 58/2000/TT-BTC ngày 16-6-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điểm của Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ về ban hành Quy chế Phát hành trái phiếu Chính phủ; (12) Thông tư số 68/2000/TT-BTC ngày 13-7-2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết một số điểm về bảo lãnh và đại lý phát hành trái phiếu Chính phủ; (13) Quyết định số 59/2000/QĐ-UBCK ngày 12-7-2000 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung; … II.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về CK&TTCK như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật CK&TTCK với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có của nó, bao gồm: những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành; điều kiện về thể thức kinh doanh; quản lý Nhà nước và giám sát về CK&TTCK đã hình thành. Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động của TTCK trong thời gian qua, ta có thể thấy khung pháp luật về CK&TTCK Việt Nam nổi lên một số vấn đề cần được quan tâm xử lý kịp thời. 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Các thể chế về tài chính Trong các thể chế trực tiếp, gián tiếp liên quan đến CK&TTCK, thì các thể chế tài chính giữ vai trò trọng tâm và quan trọng nhất. Tuy nhiên, các quy định này được hình thành chủ yếu từ đầu những năm 90 đến nay, và nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, từ Luật đến các văn bản của Chính phủ, của một số Bộ, ngành có liên quan. Chính vì các quy định về thể chế tài chính đối với CK&TTCK còn thiếu và chưa đồng bộ, giá trị pháp lý thấp, nên phạm vi phát hành, chủ thể phát hành và các loại chứng khoán còn chưa phong phú. Các chứng khoán do bị hạn chế ở cơ chế phát hành nên khó mua bán, trao đổi trên thị trường, đặc biệt là các chứng khoán có lợi tức cố định. 1.2.Các thể chế về hành chính Các quy định thuộc về thể chế hành chính đối với thị trường chứng khoán bao gồm: các quy định về thể chế tổ chức, quản lý và giám sát thị trường như: + Quy chế tổ chức và hoạt động của TTGDCK; + Quy chế giám sát, thanh tra hoạt động kinh doanh chứng khoán và TTCK; + Các quy chế về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; Và nhiều quy định có tính chất quản lý Nhà nước trong hàng loạt các Quy chế khác như: + Quy chế thành viên TTGDCK; + Quy chế niêm yết chứng khoán; + Quy chế công bố thông tin; + Quy chế giao dịch chứng khoán; + Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán; + Quy chế về sự tham gia của các bên nước ngoài vào TTCK… Các quy định trên đây và đã đang được hình thành và có đặc điểm là một hệ thống chưa hoàn chỉnh, nằm rải rác ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý thấp. Do vậy, còn thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó, do hầu hết các quy chế này được xây dựng trước hoặc ngay sau khi TTGDCK đi vào hoạt động một thời gian ngắn. Do đó, chúng đều không có hoặc thiếu tính thực tiễn, nên khó triển khai áp dụng vào trong các hoạt động của TTGDCK. 1.3.Các quy định liên quan của pháp luật hình sự Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh tế. Hơn thế nữa, đây là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, liên quan đến một thị trường đặc biệt- thị trường mua bán, chuyển dịch quyền sở hữu các giấy tờ có giá và liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Từ đó có những tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Để bảo vệ sự phát triển bình thường của các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực CK&TTCK, ngăn ngừa và xử lý các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, đòi hỏi pháp luật hình sự cần phải có những quy định cụ thể về vấn đề này. Hiện nay, Bộ Luật hình sự của nước ta chưa có các quy định về tội phạm hình sự trong lĩnh vực CK&TTCK. Tuy nhiên, trong chương “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, có một số tội danh mà hành vi của các tội này được thực hiện một cách tương tự trong lĩnh vực chứng khoán như : tội đầu cơ, tội lừa dối khách hàng, tội kinh doanh trái phép. Và do vậy, khi có các hành vi phạm tội này xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán thì có thể áp dụng các điều khoản đã có trong Bộ Luật Hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự và làm căn cứ xét xử. Mặc dù vậy, xét về tính chất và mức độ nguy hiểm của những hành vi đó trong lĩnh vực chứng khoán chúng nguy hiểm hơn và để lại hậu quả nặng nề hơn. Mặt khác, trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán còn có những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ Luật Hình sự chưa có quy định cụ thể như: tội mua bán nội gián; tội vi phạm các quy định về mua bán, nắm giữ chứng khoán nhằm thôn tính, sáp nhập công ty; tội lạm dụng trong việc phát hành giấy tờ có giá- chứng khoán. 1.4.Các quy định về giải quyết tranh chấp Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán đã được đề cập đến trong một vài văn bản (Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; Nghị định 48/1998/NĐ-CP về CK&TTCK), nhưng cũng chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc, chung chung chưa rõ ràng cụ thể. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế coi “các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu trái phiếu” thuộc loại các tranh chấp kinh tế và thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân (Toà án kinh tế ); Nghị định 48/1998/NĐ- CP lại quy định trọng tài kinh tế cũng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về chứng khoán (Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động phát hành, kinh doanh và giao dịch chứng khoán trước hết phải được giải quyết trên cơ sở thương lượng và hoà giải. Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể đứng ra hoà giải các tranh chấp phát sinh. Trường hợp hoà giải không thành, các bên có thể đưa tranh chấp ra cơ quan trọng tài kinh tế hoặc toà án để xét xử theo quy định của pháp luật” - Khoản 2 - Điều 79 -NĐ48/CP). Hơn nữa, việc liệt kê hai loại chứng khoán nói trên cũng là chưa đầy đủ bởi trên TTCK, người ta không chỉ mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu và trái phiếu, mà còn mua bán các loại giấy tờ có nguồn gốc chứng khoán (chứng quyền, chứng khế, hợp đồng quyền lựa chọn…). Các tranh chấp về chứng khoán cũng không phải chỉ có các tranh chấp về mua bán chứng khoán mà còn nhiều các tranh chấp khác về sở hữu; về phát hành; về quản lý, giám sát…Song pháp luật hiện hành cũng chưa có các quy định cụ thể để điều chỉnh. 1.5.Các quy định về giải thể phá sản công ty chứng khoán Chúng ta đã có Luật phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật phá sản vẫn còn thiếu nhiều quy định cần thiết, dẫn đến không có cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến phá sản doanh nghiệp. Theo quy định, trước khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp mắc nợ đã bị Toà án tuyên bố các bản án dân sự, kinh tế. Theo đó, doanh nghiệp phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho một số chủ nợ. Để đảm bảo thi hành nghĩa vụ đó, một số tài sản của doanh nghiệp sẽ bị kê biên để bán đấu giá để giải quyết quyền lợi cho các chủ nợ. Như vậy, nếu các bản án được thi hành thì chủ nợ sẽ được đảm bảo thanh toán từ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản. Trường hợp các bản án không được thi hành thì lợi ích của các chủ nợ sẽ không được đảm bảo. Đây chính là khoảng trống trong Luật phá sản và chính là lý do để thẩm phán ở các địa phương đưa ra các cách xử lý khác nhau. Một vướng mắc khác trong việc giải quyết tranh chấp về dân sự và kinh tế giữa chủ nợ và doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) đã quy định: tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án kinh tế khi đã có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án. Nhưng Luật phá sản doanh nghiệp lại không có quy định để giải quyết vấn đề phát sinh tiếp theo là tòa án nào có quyền giải quyết và giải quyết theo thủ tục pháp lý nào đối với những tranh chấp dân sự, kinh tế bị đình chỉ. Chính vì vậy, tòa án các địa phương cứ “tùy cách hiểu biết mà vận dụng”. Hơn nữa, ngoài những vướng mắc chung đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực như trên, kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù, việc giải thể phá sản công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhất định đến thị trường, đến lợi ích các nhà đầu tư, và có thể gây hậu quả mang tính dây truyền. Trong khi đó, Luật phá sản lại chưa có các quy định cụ thể, rõ ràng việc giải thể, phá sản đối với công ty chứng khoán. 2.NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ Thực trạng pháp luật hiện hành còn nhiều quy định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc còn bỏ ngỏ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều quy định mặc dù mới được ban hành, chưa qua kiểm nghiệm nhiều trên thực tế nhưng đã bộc lộ những hạn chế, bất hợp lý. Cụ thể là: 2.1.Cơ chế và hình thức phát hành chứng khoán Thông thường có hai hình thức phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp, đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng: - Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán rộng rãi cho một số lượng lớn người đầu tư và khối lượng phát hành đạt mức nhất định. - Phát hành chứng khoán riêng lẻ là việc phát hành để được thực hiện trong phạm vi một số người nhất định, thông thường là cho các nhà đầu tư, các tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài và với những điều kiện hạn chế, chứ không thực hiện phát hành rộng rãi ra công chúng. Đối với hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng, hiện nay có rất nhiều các văn bản điều chỉnh như: +Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995; +Luật các tổ chức tín dụng 1997; +Nghị định 44/1998/NĐ- CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển Doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần; +Nghị định 48/1998/NĐ- CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về TT&TTCK; +Thông tư 01/1998/TT- UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN hướng dẫn NĐ 48/CP về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng. Như vậy, các văn bản trên được ban hành vào những thời điểm khác nhau, nhằm phục vụ các yêu cầu khác nhau, do nhiều cơ quan khác nhau ban hành. Chính vì vậy, quy định về phát hành chứng khoán trong các văn bản này nhìn chung còn rất sơ lược, thường chỉ giới hạn trong những quy định mang tính nguyên tắc và hình thức, thiếu chi tiết và cụ thể. Chẳng hạn như, trong Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần, chỉ quy định đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng một cách chung chung là: “Cổ phần được thông báo bán công khai tại doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc bán thông qua các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính và các sở, trung tâm giao dịch chứng khoán” (Điều 5); hay như trong Thông tư 01/1998/TT-UBCK ngày 13/10/1998 của của UBCKNN hướng dẫn Nghị định 48/CP về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng, cũng chỉ quy định: “Khi tiến hành phân phối cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng tổ chức phân phối phải tuân thủ các yêu cầu sau đây: - Chỉ được phép sử dụng thông tin trong Bản Cáo bạch và các tài liệu khác liên quan trong hồ sơ xin phép phát hành đã được UBCKNN chấp thuận; … - Phân phối cổ phiếu trái phiếu một cách công bằng theo giá bán xác định trong Bản Cáo bạch được UBCKNN chấp thuận; - Tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư cá nhân được mua cổ phiếu, trái phiếu; - Đảm bảo thời hạn đăng ký mua cho người đầu tư tối thiểu là 30 ngày; - Sử dụng phiếu đăng ký mua cổ phiếu hoặc trái phiếu; - Chỉ được yêu cầu người mua cổ phiếu, trái phiếu đặt cọc một khoản tiền tối đa là 10% giá trị cổ phiếu, trái phiếu đăng ký mua” (Điểm 6 mục VI) Bên cạnh đó, các quy định về kiểm toán kế toán còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; các quy định về phương thức phát hành thông qua các tổ chức trung gian và việc công bố thông tin còn thiếu tính đồng bộ, hoặc chưa được thể hiện đầy đủ trong các văn bản pháp luật. Đối với hình thức phát hành chứng khoán riêng lẻ, Luật Công ty trước đây và Luật Doanh nghiệp hiện hành do chỉ dừng lại ở những quy định chung chung cho nên không phân biệt được rạch ròi việc phát hành riêng lẻ và việc phát hành ra công chúng. Nghị định 48/1998/ NĐ- CP về CK&TTCK thì xác định rõ là chỉ điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng (“Nghị định này quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 1 Chương I). Như vậy, có thể nói pháp luật về CK&TTCK của ta hiện nay chưa có các quy định điều chỉnh việc phát hành chứng khoán riêng lẻ. 2.2.Về cơ cấu các loại thị trường Một mô hình thị trường thị trường chứng khoán hoàn chỉnh bao giờ cũng gồm hai loại thị trường là: Thị trường chứng khoán tập trung là Sở Giao dịch chứng khoán ( ở Việt Nam là Trung tâm giao dịch chứng khoán) và Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC). Thông thường, việc mua bán chứng khoán trên thị trường OTC là mua bán các chứng khoán không được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, cũng có trường hợp chứng khoán được niêm yết tại SGDCK vẫn được mua bán trên thị trường OTC. Ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển mạnh thì tổng giá trị chứng khoán được buôn bán trên thị trường OTC lớn hơn rất nhiều lần giá trị chứng khoán được giao dịch trên Sở GDCK. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có thị trường OTC. Bên cạnh đó, Nghị định 48/1998/NĐ - CP về CK&TTCK mới chỉ quy định về Thị trường giao dịch tập trung, nhưng lại quy định những điều kiện rất khắt khe như: tổ chức phát hành phải đáp ứng đủ một số điều kiện nhất định thì mới được xem xét cấp phép cho việc niêm yết chứng khoán. Cụ thể là theo điều 6 NĐ48/CP, “tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam; Hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục gần nhất; Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh; Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu; Tối thiểu 20 % vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành; Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc việc phát hành; Trường hợp số cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành” Khi TTGDCK mới được hình thành và đi vào hoạt động, việc đặt ra những điều kiện này là hết sức cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư và tạo dựng một thị trường chứng khoán có độ tin cậy cao đối với công chúng đầu tư. Tuy nhiên, những điều kiện này khi áp dụng trên thực tế thì ngoài những hạn chế như đã phân tích ở phần trước ( phần “ cơ chế và hình thức phát hành”), chúng còn loại bớt một số doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện trên. Ví dụ không đáp ứng được số vốn cần thiết, hoặc về thời gian hoạt động liên tục có hiệu quả và do đó không được xem xét cấp phép niêm yết chứng khoán. Thế nhưng, trên thực tế chứng khoán của những doanh nghiệp này vẫn có nhu cầu trao đổi và thực tế nó vẫn đang được tiến hành trao đổi. Song, chúng ta lại chưa có các quy định đối với thị trường OTC, dẫn đến việc trao đổi chứng khoán của các doanh nghiệp này diễn ra lẻ tẻ, manh mún và không có tổ chức vì bị nằm “ngoài vòng pháp luật”. Đây có thể coi là một hạn chế rất lớn, và là một trong những nhân tố làm đình trệ việc triển khai cổ phần hoá các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.3.Còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán Thị trường chứng khoán Việt Nam đang tồn tại một bất bình đẳng là trong khi các cá nhân đầu tư chứng khoán được hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập thì các tổ chức đầu tư chứng khoán lại phải chịu gánh nặng về thuế thu nhập doanh nghiệp (lên tới 32%) đối với phần lợi nhuận thu được từ cổ tức, trái tức, chênh lệch mua bán chứng khoán,… Thực tế này không khuyến khích sự nhiệt tình tham gia mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư là tổ chức tài chính, doanh nghiệp… Trong khi đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, nhà đầu tư là tổ chức mới thực sự là những khách hàng có năng lực, tiềm năng để tạo nên sự sôi động cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, theo quyết định số 39/2000/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27 tháng 3 năm 2000, quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán thì chỉ có 3 đối tượng là các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết được miễn thuế giá trị gia tăng và miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian đầu đi vào hoạt động… Việc đối tượng được hưởng ưu đãi thuế quá hạn hẹp như vậy đã gây ra những phản ứng khác nhau trong giới các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam. 2.4.Các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán Theo điều 29 Nghị định 48/1998/ NĐ - CP, “các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoặc các tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán”. Tuy nhiên, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 lại chưa có quy định cho phép các tổ chức tín dụng được quyền tham gia chứng khoán. Sự không đồng bộ này của hệ thống pháp luật đã phần nào gây khó khăn, cản trở hoạt động của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, những quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán cũng có nhiều bất cập. Cho đến nay, khung pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm: - Nghị định số 48/1998/NĐ - CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về CK&TTCK - Quy chế về tổ chức hoạt động của Công ty chứng khoán (ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ - UBCK3 ngày 13/10/1998 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước). Đánh giá một cách khái quát nhất, các văn bản này đã góp phần vô cùng quan trọng trong việc chuẩn bị và thúc đẩy TTCK ra đời ở Việt Nam vào tháng 7/2000. Nhờ có khuôn khổ pháp lý ban đầu quy định về tổ chức và hoạt động của các Công ty chứng khoán, trong thời gian qua, chúng ta đã hình thành một mạng lưới các CTCK, một trong những điều kiện cần thiết để thị trường đi vào hoạt động. Đồng thời, những quy định này còn tạo cho người dân làm quen với loại hình đầu tư mới, dần dần hình thành thói quen đầu tư vào các công cụ trên TTCK. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật này đã quy định phạm vi hoạt động của CTCK, và bằng hoạt động của mình, các CTCK thời gian qua đã xây dựng được niềm tin ban đầu trong dân chúng khi tham gia đầu tư trên TTCK. Tuy nhiên, các văn bản trên được ban hành trên cơ sở các quy định về tổ chức và hoạt động của công ty nói chung và được quy định trong Luật Công ty năm 1990. Vì vậy, khi Luật này được thay thế bởi Luật doanh nghiệp kể từ ngày 1/1/2000 đã không tránh khỏi có một số quy định cần được sửa đổi, bổ sung. Có thể nói, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp đã tạo một khung pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và CTCK nói riêng. Nhưng đi kèm với nó sẽ phải có những thay đổi liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán hiện hành, cụ thể là các quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán; giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán; việc thành lập chi nhánh; văn phòng đại diện; chia, tách, sáp nhập CTCK. 2.5.Khả năng tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Mặc dù TTCK nước ta đã đi vào hoạt động từ giữa năm 2000, nhưng tính đến nay (sau hơn hai năm hoạt động), sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trên thị trường này còn mờ nhạt. Có rất nhiều lý do giải thích cho vấn đề này. Nhưng có thể nói lý do liên quan đến vấn đề pháp lý là cơ bản nhất. Nói chung pháp luật ở hầu hết các nước đều có qui định những mức độ hạn chế sự tham gia của tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư vào TTCK của họ cả trên phương diện kinh doanh và phương diện đầu tư. Trên phương diện kinh doanh, pháp luật nhiều nước không cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài trở thành thành viên sở GDCK, chỉ cho phép tham gia dưới hình thức liên doanh với các công ty trong nước hoặc được mở chi nhánh, đặt văn phòng đại diện để làm nhiệm vụ môi giới. Trên phương diện đầu tư, luật pháp các nước trong khu vực hầu hết đều có những qui định riêng về các loại cổ phiếu bán cho người nước ngoài hoặc khống chế tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của các nhà ĐTNN. Ví dụ: Pháp luật của Indonesia, Thái Lan cho phép các nhà ĐTNN được quyền nắm giữ tối đa 49% số cổ phiếu đăng ký lưu hành trên sở giao dịch đối với một tổ chức phát hành; ở Malaysia tỷ lệ này là 30%; ở Philippine và Trung Quốc thì phân cổ phiếu thành hai loại: Loại bán cho các nhà đầu tư trong nước (loại A), loại bán cho các nhà ĐTNN (loại B). Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực, Việt Nam cũng mở TTCK với bên ngoài. Tuy nhiên, việc mở cửa này cũng có nhiều qui định hạn chế, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán trong nước có cơ hội lớn mạnh và bảo đảm tính an toàn của TTCK trong nước, hạn chế những tác động từ bên ngoài. Mặc dù vậy, những qui định của chúng ta lại quá khắt khe và có nhiều điểm không nhất quán. Trước hết, đó là sự không nhất quán trong việc nắm giữ cổ phần của các bên tham gia là người nước ngoài. Trong quyết định 139/TTg của Thủ tướng chính phủ về việc cho phép các tổ chức cá nhân nước ngoài được phép tham gia vào TTCK Việt Nam quy định “Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, chứng chỉ Quỹ đầu tư của một Quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%” (Điều 1). Nhưng trong Quyết định 145/TTg của Thủ tướng chính phủ về việc quy định các tổ chức nước ngoài được mua cổ phần của các công ty trong nước (ban hành sau QĐ139/TTg 18 ngày) lại quy định “Tổng số giá trị cổ phần bán cho các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty. Trong trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua vượt quá 30% số vốn điều lệ của công ty thì tổ chức bán đấu giá” (Điều 6). Mặc dù mâu thuẫn này đã được nhận biết từ lâu, song cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào được ban hành để điều chỉnh mâu thuẫn này. Thứ hai, mặc dù Chính phủ đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản pháp quy nào quy định các nguồn vốn nước ngoài được đưa vào Việt Nam để kinh doanh chứng khoán. Việc chuyển đổi ngoại tệ sang đồng Việt Nam để kinh doanh chứng khoán, việc chuyển vốn và lợi nhuận từ đồng Việt Nam sang ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài hay chuyển vào tài khoản của nhà ĐTNN cũng không được quy định cụ thể. Những quy định về quản lý ngoại hối cũng là vấn đề hiện được các nhà đầu tư nước ngoài hết sức quan tâm (xin được phân tích sâu hơn ở phần sau). Thứ ba, các quy định của Luật đầu tư nước ngoài chưa đồng bộ và thông thoáng, dẫn đến hạn chế khả năng tham gia TTCK của các nhà ĐTNN. Cụ thể là, theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, các “doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn…” (Điều 6, Chương II) và trong quá trình hoạt động cũng được phép chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Quy định này không những làm hạn chế khả năng huy động vốn đầu tư từ nước ngoài, mà còn hạn chế cả khả năng tham gia TTCK của các nhà ĐTNN. Thứ tư, đó là sự thiếu thống nhất trong ưu đãi thuế đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia TTCK. Các cá nhân nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi thuế thu nhập cá nhân. Nhưng nếu nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức thì lại bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức khoán bằng 5% doanh thu. Tương tự, chỉ các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết trong nước....mới được miễn, giảm thuế GTGT, thuế TNDN trong thời gian đầu đi vào hoạt động, còn các nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài vẫn phải nộp hai khoản thuế này. Những bất bình đẳng và thiếu hợp lý về thuế nói trên được Bộ tài chính khẳng định lại một lần nữa trong công văn số 4321TC/TCT ngày 07/05/2002 của Bộ tài chính về chính sách thuế đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Theo tinh thần của văn bản nói trên, các nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài còn bị đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 5% số thu nhập được chuyển. Theo các chuyên gia chứng khoán, trong bối cảnh quy mô của TTCK Việt Nam chưa lớn, cần thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để tăng phần sôi động, việc đánh thuế bằng 5% số thu nhập chuyển ra nước ngoài là thiếu khuyến khích. Ngay trong Luật Đầu tư nước ngoài, để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, trong nhiều trường hợp, Nhà nước cũng chỉ thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo mức có 3% trong số thu nhập được chuyển. Thậm chí, trong một số trường hợp còn miễn loại thuế này. Việc để xảy ra những bất bình đẳng, thiếu hợp lý về thuế nói trên là do Bộ tài chính, Tổng cục Thuế cho đến nay vẫn chưa nghiên cứu cụ thể, kỹ càng về thuế thu nhập đối với các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài. Do đó, việc xây dựng các chính sách thuế đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam nói riêng và các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài nói chung không chỉ chậm trễ (TTCK mất gần hai năm đi vào hoạt động mới có hướng dẫn riêng về chính sách thuế cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam) mà còn chưa hoàn chỉnh. Việc miễn thuế thu nhập cho các cá nhân nước ngoài nhưng lại đánh thuế TNDN đối với các tổ chức nước ngoài khi họ tham gia đầu tư vào TTCK Việt Nam vẫn là điều không được các chuyên gia chứng khoán chấp nhận. Theo họ, chính những tổ chức nước ngoài được thành lập theo pháp luật nước ngoài mới thực sự là những khách hàng tiềm năng, có thực lực và bài bản trong đầu tư để tạo ra sự sôi động, hiện đại cho TTCK Việt Nam. Chính sách thuế cho người nước ngoài khi tham gia TTCK quá “chặt” trong một số chừng mực nào đó, nó đi ngược lại với chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài mà Việt Nam đã thực hiện trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, còn có một số vướng mắc, đó là: Nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhận xét, TTCK Việt Nam quá khó tiếp cận và có độ rủi ro cao vì nhiều lý do, trong đó tình trạng “mù” thông tin là một trong những trở lực chính. Trên thực tế, hầu hết các công ty đã niêm yết trên TTCK nói riêng và khối công ty cổ phần nói chung hiện chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và chưa có hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Hapaco, Halong, Canfoco, Sacom, Lafooco... chủ yếu là sống nhờ vào xuất khẩu, nhưng chưa từng thấy sản phẩm của các doanh nghiệp này được quảng cáo trên các tạp chí nước ngoài. Do vậy, nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ có thể thu thập thông tin về các doanh nghiệp này từ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, từ các công ty chứng khoán và các ngân hàng nước ngoài đang cung cấp dịch vụ lưu ký chứng khoán cho người nước ngoài. Hiện nay, cơ sở pháp lý chi phối trực tiếp đến việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài là Quyết định 145/199/QĐ-TTg và Quyết định 139/1999/ĐQ-TTg. Hai văn bản này đều viết bằng tiếng Việt. Tất cả bản cáo bạch, báo cáo định kỳ của các công ty niêm yết, thông báo của trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM, thông báo của các công ty chứng khoán ... cũng đều chỉ có văn bản bằng tiếng Việt. Theo Quyết định145/199/QĐ-TTg và Quyết định139/1999/QĐ-TTg, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dệt may, giầy da, nông lâm thủy sản, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, vận tải thủy và bộ, thương mại, dịch vụ... được phép bán cổ phiếu cho người nước ngoài. Tuy nhiên, theo đánh giá của giới chuyên môn, tỷ lệ đầu tư của nước ngoài vào thị trường sơ cấp (phát hành lần đầu) cũng như thị trường thứ cấp đều vẫn rất khiêm tốn. Cho đến nay, những doanh nghiệp có chủ trương đại chúng hóa công ty qua việc niêm yết trên TTCK như Bibica, Tribeco, ASC, Germadept... đều chưa có chủ trương bán cổ phần cho người nước ngoài. Hơn nữa, theo quy định hiện hành, doanh nghiệp muốn bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. 2.6.Quy định về cách thức nhận lệnh của Công ty chứng khoán Khoản 4, Điều 38 của Nghị định 48/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK nêu rõ các công ty chứng khoán chỉ được phép nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở. Vậy các công ty chứng khoán có thực hiện đúng như quy định không? Thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam cho thấy, việc nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại một số công ty chứng khoán là không theo khuôn mẫu định sẵn này. Chẳng hạn, ngoài việc nhận lệnh trực tiếp tại công ty, Công ty chứng khoán Sài Gòn, Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, Công ty chứng khoán Thăng Long... đã cho phép một số khách hàng của họ được đặt lệnh bằng fax. Hiện tại, các công ty này chỉ không chấp nhận các lệnh gửi tới qua đường email hay điện thoại, còn đối với một số khách hàng, Công ty chấp nhận nhận những lệnh giao dịch của họ được gửi tới bằng fax. Lý do là: Trong số khách hàng của Công ty, không phải khách hàng nào cũng có điều kiện liên tục tới theo dõi các phiên giao dịch một cách trực tiếp, do đó việc được gửi lệnh bằng fax là một yêu cầu thích đáng của khách hàng. Cũng đã có những cảnh báo về mức độ an toàn khi công ty chứng khoán cho phép khách hàng đặt lệnh theo phương thức này do luật pháp không công nhận tính hợp pháp của hình thức đặt lệnh này. Nhưng thực tế, tại một số công ty chứng khoán, việc nhận lệnh bằng fax được đương nhiên áp dụng như một biện pháp cho phép trên thị trường. Để hạn chế rủi ro, các TTCK phải tự bảo vệ mình, thông thường, trước khi muốn đặt lệnh theo kiểu này khách hàng phải có sự thoả thuận trước với công ty chứng khoán và khi gửi lệnh bằng fax khách hàng phải xác nhận lại với công ty chứng khoán bằng một ký hiệu riêng hay một “password” đã quy ước. Biện pháp này tuy hơi thủ công nhưng trên thực tế lại tỏ ra khá an toàn đối với cả phía khách hàng và công ty chứng khoán. Về phía cơ quan quản lý, khi đề cập đến vấn đề này, một quan chức của UBCKNN cho biết, vừa qua, UBCKNN nhận được một số yêu cầu từ phía các công ty chứng khoán về việc cho phép họ nhận lệnh từ các đại lý bằng fax. Tuy nhiên, do TTCK nước ta chưa đủ điều kiện phát triển hệ thống công nghệ thông tin, đồng thời luật pháp chưa công nhận tính hợp pháp của việc đặt lệnh không trực tiếp tại các công ty chứng khoán, nên UBCKNN chưa có trả lời về việc này. Do đó, vì pháp luật chưa có quy định cụ thể nên mọi sự cố xảy ra từ việc đặt lệnh qua fax, các công ty chứng khoán phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Theo một số nhà quan sát, việc nhận lệnh bằng fax thực tế đã được áp dụng và tỏ ra có hiệu quả trên thị trường hiện nay. Do đó, khi tiến hành sửa đổi Nghị định 48/NĐ-CP, các cơ quan chức năng nên xem xét việc chấp nhận cho các công ty chứng khoán được nhận lệnh của khách hàng bằng fax. Theo đó, nên ban hành những quy chế cụ thể cho hoạt động này để tránh tình trạng “tự thao tác”, mỗi người một kiểu như hiện nay. Đây cũng là một bước chuyển dần trong sự phát triển nói chung của TTCK. 2.7.Quản lý ngoại hối trong lĩnh vực chứng khoán Mặc dù trung tâm GDCK TP.Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động từ ngày 20 tháng 7 năm 2000, tuy nhiên đến nay sau hơn hai năm hoạt động, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư chứng khoán. Đây là một sự chậm trễ đáng ngạc nhiên trong công tác quản lý tiền tệ, ngoại hối của cơ quan quản lý vĩ mô. Như đã đề cập qua trong phần “Khả năng tham gia của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam”, một thực tế hết sức bức xúc hiện nay là, việc các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ làm phát sinh một số giao dịch ngoại hối liên quan như: chuyển vốn ngoại tệ vào Việt Nam, chuyển đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam (VNĐ) để đầu tư, mua ngoại tệ và chuyển vốn, lợi nhuận đầu tư về nước. Các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối (Nghị định 63/1998/NĐ- C P ngày 17 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối, Thông tư số 01/1999/TT - NHNN7 ngày 16 tháng 4 năm 1999 của Ngân hàng Nhà nước) chưa đề cập đến vấn đề này mà chỉ có quy định rất chung về điều kiện, thủ tục đầu tư vào các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ phát hành tại Việt Nam đối với người không cư trú. Tương tự, theo Quyết định 145/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, những khoản lợi tức từ việc đầu tư như cổ tức hoặc tiền bán cổ phiếu được quy ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng trong nước hay các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay không dễ dàng “xử lý” các khoản tài chính có liên quan đến hoạt động đầu tư chứng khoán. Một nhân viên của ngân hàng HSBC - một ngân hàng nước ngoài đã triển khai nghiệp vụ lưu ký cho nhà đầu tư nước ngoài - cho biết, ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn khi giải quyết yêu cầu chuyển các khoản thu nhập liên quan đến chứng khoán. Sau gần ba năm kể từ ngày Quyết định145/1999/QĐ-TTg có hiệu lực, HSBC chưa nhận được văn bản hướng dẫn thực hiện. Cho nên, dù đã nhận được quyết định, nhưng HSBC chưa dám thực hiện yêu cầu chuyển lợi nhuận cho khách hàng. Vì vậy, một sự thật nhãn tiền hiện nay là nếu không có các quy định cụ thể, thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng chưa thể đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam được. Điều này cũng có nghĩa là thị trường chứng khoán Việt Nam mãi vẫn chỉ coi là “tập dượt” và sơ khai mà thôi. 2.8.Quan hệ uỷ quyền trong giao dịch chứng khoán. Uỷ quyền là một quan hệ dân sự khá phổ biến trong đời sống sinh hoạt, kinh doanh của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Trong lĩnh vực kinh doanh và giao dịch chứng khoán quan hệ uỷ quyền cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo quy định hiện hành, các công ty chứng khoán (CTCK) chỉ được nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở giao dịch chính, các văn phòng giao dịch chứng khoán tại tỉnh, thành phố nơi CTCK có trụ sở chính hoặc chi nhánh đã được chấp thuận theo quy định của pháp luật, tại các đại lý nhận lệnh cho CTCK ở các tỉnh, thành phố nơi công ty không có trụ sở chính hoặc chưa có chi nhánh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các nhà đầu tư ( tổ chức, cá nhân) không phải bao giờ cũng có thể trực tiếp tham gia giao dịch mua bán chứng khoán do nhiều lý do khác nhau. Vì vậy, việc uỷ quyền giao dịch chứng khoán được hình thành như một giải pháp cho những trường hợp thực tế phát sinh là người có tiền, chứng khoán muốn tham gia mua, bán trên thị trường lại không có điều kiện trực tiếp đặt lệnh giao dịch. Hiện nay, pháp luật về CK&TTCK chưa có quy định cụ thể hướng dẫn việc giao dịch chứng khoán thông qua uỷ quyền. Theo nguyên tắc chung, quan hệ uỷ quyền trong mua, bán chứng khoán hiện nay được điều chỉnh tiếp bởi quy định tại các điều 585 đến 594 của Bộ luật dân sự. Việc xác lập quan hệ uỷ quyền giao dịch chứng khoán phải được lập thành văn bản đúng theo quy định tại điều 586 của Bộ luật dân sự để làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp khi phát sinh. Trong thực tế, quan hệ uỷ quyền lại chỉ được xác lập ngay trong giấy yêu cầu mở tài khoản giao dịch tại CTCK của khách hàng với những chi tiết về nhân thân của bên uỷ quyền và bên nhận uỷ quyền như: họ tên, số CMND, địa chỉ hoặc bằng một giấy uỷ quyền riêng biệt. Song, quan hệ uỷ quyền giao dịch chứng khoán lại là một quan hệ dân sự phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp. Vì vậy, cần được xác lập bởi một hợp đồng dân sự độc lập gồm đầy đủ các điều khoản quy định về phạm vi, thời hạn uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ, nhân thân của các bên, các trường hợp chấm dứt quan hệ uỷ quyền, vv… Ở góc độ này, việc quy định mẫu thống nhất của hợp đồng uỷ quyền giao dịch chứng khoán áp dụng chung trên thị trường là rất cần thiết. Về bản chất, hợp đồng uỷ quyền giao dịch chứng khoán là sự thoả thuận bằng văn bản giữa các bên. Theo đó, bên được uỷ quyền có nghĩa vụ nhân danh và vì lợi ích của bên uỷ quyền thực hiện một công việc cụ thể có liên quan đến hoạt động mua bán chứng khoán theo thoả thuận với bên uỷ quyền. Bên uỷ quyền có trách nhiệm trả thù lao cho bên được uỷ quyền, nếu các bên có thoả thuận. Như vậy, trong quan hệ uỷ quyền giao dịch chứng khoán, người được uỷ quyền thay mặt người uỷ quyền thực hiện những hành vi cụ thể (đặt lệnh mua hoặc bán chứng khoán,…) làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích cho bên uỷ quyền. Vì vậy, phạm vi uỷ quyền cần được xác định một cách cụ thể, rõ ràng trên cơ sở thoả thuận giữa các bên trong phạm vi pháp luật cho phép. Nên lưu ý là phạm vi uỷ quyền phải là hành vi không bị pháp luật cấm và hạn chế quy định tại Nghị định 48 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Trong thời gian qua, đã diễn ra nhiều trường hợp tham gia mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung thông qua hình thức uỷ quyền. Phổ biến nhất là nhiều nhà đầu tư uỷ quyền giao dịch cho một người thực hiện việc mua, bán chứng khoán trên nhiều tài khoản được uỷ quyền. Về mặt pháp lý, đây là hình thức giao dịch dân sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, bởi lẽ trong Bộ luật này, không có một điều khoản nào hạn chế một người có thể nhận nhiều uỷ quyền trong một lúc. Nhưng xét về mặt lợi ích thị trường, người thực hiện giao dịch chứng khoán trên nhiều tài khoản theo uỷ quyền có thể lợi dụng để tiến hành các hoạt động thao túng, lũng đoạn thị trường. Từ đó, việc mua bán chứng khoán thông qua uỷ quyền cần có những quy định chuyên ngành và cụ thể hơn để quản lý một cách chặt chẽ nhằm góp phần cho thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, lành mạnh, ổn định, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư và các chủ thể khác tham gia thị trường. 2.9.Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán, theo quy định của pháp luật Việt Nam, là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán hoặc công bố, phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Hoạt động này đòi hỏi nhiều kiến thức về kỹ năng chuyên môn mà không yêu cầu về vốn. Tính trung thực của cá nhân và của công ty có vai trò vô cùng quan trọng đối với khách hàng. Đến nay, thị trường chứng khoán nước ta đã đi vào hoạt động được hơn hai năm nhưng các quy định về hoạt động tư vấn đầu tư trên thị trường này vẫn còn thiếu và hẹp. Trong các văn bản pháp luật hiện hành vẫn còn thiếu một số điều quy định về hoạt động này nhưng cũng chỉ dừng ở mức đưa ra định nghĩa và mức vốn pháp định để tiến hành hoạt động tư vấn đầu tư. Chính vì vậy, các công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn khi triển khai hoạt động này trong thực tế. Sau đây là một số vấn đề tồn tại trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.Về khái niệm và phạm vi của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Về khái niệm và phạm vi của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Khoản 11 Điều 2, Nghị định 48/CP quy định: “Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán” Theo quy định tại khoản 1 Điều 2, Nghị định 58/CP, “chứng khoán” là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của các tổ chức phát hành. Còn theo khoản 3, Điều 2, Nghị định này thì “tổ chức phát hành” là pháp nhân được phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Nghị định 48/CP. Như vậy, chiểu theo những quy định trên thì hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị, công bố và phát hành các báo cáo liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu của các pháp nhân không phát hành theo Nghị định 48/CP không được coi là hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán và công ty chứng khoán không được thực hiện hoạt động này. Nếu hiểu theo nghĩa này thì phạm vi hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty chứng khoán hiện nay là quá hẹp vì số lượng các pháp nhân phát hành chứng khoán theo Nghị định 48 còn rất khiêm tốn. Trong khi đó pháp luật của hầu hết các nước đều quy định hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có phạm vi rất rộng, bao gồm cả hoạt động tư vấn về cấu trúc vốn, về chiến lược công nghiệp và các vấn đề liên quan đến việc hợp nhất, mua lại doanh nghiệp. Một số vấn đề khác Cho đến nay, vẫn chưa có quy định cụ thể về việc khi thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư cho khách hàng, các công ty chứng khoán đưa ra các khuyến nghị dựa trên cơ sở nào(?) Nếu quy định rõ ràng về vấn đề này sẽ không chỉ có lợi cho hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý mà còn tạo cơ sở để các nhà đầu tư tự đánh giá chất lượng tư vấn của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, một số hành vi của công ty chứng khoán trong quá trình thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư cho khách hàng hiện nay chưa có quy định rõ ràng. Ví dụ, hành vi khuyến nghị đồng loạt các khách hàng mua hoặc bán liên tục một loại chứng khoán nào đó trong một thời gian nhất định hiện chưa bị pháp luật cấm và điều này sẽ gây tổn hại đến việc hình thành giá một cách công bằng; hành vi giới thiệu cho một khách hàng mua hoặc bán chứng khoán với việc đưa ra dự đoán chắc chắn; hành vi khuyến nghị khách hàng, trong một thời gian liên tục nhất định, mua hàng loạt hoặc mua quá mức với mục đích bán được chứng khoán mà công ty đang nắm giữ… Thực tế còn đang diễn ra một hiện tượng là có một số công ty tư vấn thực hiện các hoạt động tư vấn niêm yết cho các doanh nghiệp. Các công ty này không chịu sự quản lý của UBCKNN và không hề có giấy phép hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Hoạt động của các công ty này trong thời gian qua đã gây ra một số khó khăn cho các công ty chứng khoán cho việc triển khai dịch vụ tư vấn niêm yết; Mức phí dịch vụ tư vấn hiện nay do các bên tự thoả thuận. Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế và thể hiện sự tự do của các bên trong khi thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư. Tuy nhiên, đối với một thị trường vừa đi vào hoạt động như TTCK Việt Nam thì việc quy định như vậy sẽ không tránh khỏi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về chế độ thu phí giữa các công ty chứng khoán. Trên thực tế, có công ty chứng khoán đã chào mời dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí. Điều này không có lợi cho sự phát triển ổn định và dần đi đến củng cố các dịch vụ của các công ty chứng khoán trong giai đoạn đầu hoạt động của thị trường. 2.10.Một số vấn đề khác Ngoài một số vấn đề lớn còn tồn tại như đã nêu ở trên, thực trạng pháp luật về CK&TTCK Việt Nam còn nổi cộm lên một số vấn đề cũng cần được giải được giải quyêt như: - Thiếu các chế tài về cổ phần hoá Thực tế hiện nay là nhiều công ty không muốn niêm yết cổ phiếu. Việc này liên quan nhiều đến khía cạnh cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá hiện nay có ba nhược điểm chính: thứ nhất là chậm, thứ hai là không công khai, thứ ba là không công bằng. Vì vậy, bản thân nhiều doanh nghiệp không tự muốn cổ phần hoá. Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, lý do gốc rễ khiến doanh nghiệp không muốn niêm yết là các doanh nghiệp không muốn công khai số liệu tài chính vì việc định giá là hết sức chủ quan và không chính xác. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do chúng ta chưa có đủ các chế tài về cổ phần hoá để điều chỉnh. - Có “độ vênh” về nghĩa vụ giữa công ty niêm yết và chưa niêm yết. Có lẽ chỉ đến khi các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán phát hành thêm cổ phiếu thì mọi người mới thấy hết sự khó khăn của việc này so với việc phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần chưa niêm yết. Thực tế này cũng đã được nhận thấy qua việc phát hành thêm cổ phiếu của Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) và Công ty Kho vận và Giao nhận ngoại thương (TRANSIMEX) thời gian qua. Cụ thể là thời gian từ lúc xin cấp phép phát hành tới lúc được phép là quá dài. Vậy nguyên nhân là đâu? Nguyên nhân ở đây chính là do có “độ vênh” về quy định trong phát hành cổ phiếu giữa hai loại công ty trên. Đối với các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, thủ tục phát hành cổ phiếu phải tuôn thủ theo quy định của NĐ48 /CP và phải được sự chấp thuận của UBCKNN. Còn đối với công ty cổ phần chưa niêm yết lại chưa hề có văn bản nào điều chỉnh. III. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ NHỮNG MẶT CÒN HẠN CHẾ TRONG CÁC DỰ THẢO SỬA ĐỔI CỦA MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. DỰ THẢO QUYẾT ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN NƯỚC NGOÀI Dự thảo Quyết định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức và cá nhân nước ngoài đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hoàn thành và đang chờ phê duyệt. Về cơ bản, nhà đầu tư và tổ chức nước ngoài khi đầu tư vào thị trường chứng khoán sẽ phải tuôn theo những quy định về quản lý ngoại hối và quy định hiện hành của TTCK. Chẳng hạn, việc chuyển tiền bằng ngoại tệ vào đầu tư phải có nguồn gốc hợp pháp, phải bán ngoại tệ tại ngân hàng là thành viên lưu ký và theo quy định về quản lý ngoại hối. Đồng thời sẽ không có quy định hạn chế về khối lượng tiền đầu tư vào thị trường. Tuy nhiên, trong Dự thảo Quyết định này vẫn chưa đưa ra thời hạn tối thiểu được rút tiền, thiết nghĩ đây là quy định không thể bỏ qua. Đối với các hạn chế về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài trong từng công ty niêm yết sẽ được quy định rõ, còn hoạt động mua bán, lưu ký chứng khoán… thì được quy định đúng như đầu tư trong nước. Tuy nhiên, mặc dù thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của TTCK nước ta, nhưng việc ban hành các quy định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung.doc
Tài liệu liên quan