Đề tài Phân tích hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Tây Ninh

Tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Tây Ninh: MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT iv DANH MỤC CÁC BẢNG v DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ vi DANH MỤC VIẾT TẮT ATM: AUTOMATIC TELLER MACHINE DN: DOANH NGHIỆP NH: NGÂN HÀNG NHNN: NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC NHTM: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHTMCP: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHTƯ: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TCKT: TỔ CHỨC KINH TẾ TCTD: TỔ CHỨC TÍN DỤNG TMCP: THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TNV: TỔNG NGUỒN VỐN TVHĐ: TỔNG VỐN HUY ĐỘNG TSCĐ: TÀI SẢN CỐ ĐỊNH UBND: ỦY BAN NHÂN DÂN UBMTTQ: ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VHTTDL: VĂN HÓA THỂ THAO DU LỊCH VHĐCKH: VỐN HUY ĐỘNG CÓ KỲ HẠN VHĐKKH: VỐN HUY ĐỘNG KHÔNG KỲ HẠN DANH MỤC CÁC BẢNG BẢNG 2.1: VỐN ĐIỀU LỆ CỦA SACOMBANK QUA CÁC NĂM BẢNG 2.2: CƠ CẤU CỔ ĐÔNG CỦA SACOMBANK TÍNH ĐẾN NGÀY 22/10/2011 BẢNG 2.3: TỔNG HỢP BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 BẢNG 2.4: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 BẢNG 2.5: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NĂM 2008, 2009, 2010 BẢNG 2.6: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN THEO THỜI GIAN HUY ĐỘNG C...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Tây Ninh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT iv DANH MỤC CÁC BẢNG v DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ vi DANH MỤC VIẾT TẮT ATM: AUTOMATIC TELLER MACHINE DN: DOANH NGHIỆP NH: NGÂN HÀNG NHNN: NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC NHTM: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHTMCP: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHTƯ: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TCKT: TỔ CHỨC KINH TẾ TCTD: TỔ CHỨC TÍN DỤNG TMCP: THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TNV: TỔNG NGUỒN VỐN TVHĐ: TỔNG VỐN HUY ĐỘNG TSCĐ: TÀI SẢN CỐ ĐỊNH UBND: ỦY BAN NHÂN DÂN UBMTTQ: ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VHTTDL: VĂN HÓA THỂ THAO DU LỊCH VHĐCKH: VỐN HUY ĐỘNG CÓ KỲ HẠN VHĐKKH: VỐN HUY ĐỘNG KHÔNG KỲ HẠN DANH MỤC CÁC BẢNG BẢNG 2.1: VỐN ĐIỀU LỆ CỦA SACOMBANK QUA CÁC NĂM BẢNG 2.2: CƠ CẤU CỔ ĐÔNG CỦA SACOMBANK TÍNH ĐẾN NGÀY 22/10/2011 BẢNG 2.3: TỔNG HỢP BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 BẢNG 2.4: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 BẢNG 2.5: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NĂM 2008, 2009, 2010 BẢNG 2.6: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN THEO THỜI GIAN HUY ĐỘNG CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009, 2010 BẢNG 2.7: BẢNG TỔNG HỢP CHI PHÍ LÃI VÀ TIỀN GỬI NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 BẢNG 2.8: HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NĂM 2008, 2009, 2010 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ SƠ ĐỒ 2.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN SƠ ĐỒ 2.2: BỘ MÁY TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÍ CỦA SACOMBANK TÂY NINH SƠ ĐỒ 2.3: KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.4: VỐN HUY ĐỘNG CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.5: VỐN TỰ CÓ CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.6: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2008 SƠ ĐỒ 2.7: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2009 SƠ ĐỒ 2.8: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA SACOMBANK TÂY NINH NĂM 2010 SƠ ĐỒ 2.9: TIỀN GỬI CỦA DN – TCKT NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.10: TIỀN GỬI KHÔNG KỲ HẠN CỦA DN – TCKT NĂM 2008, 2009, 2010 SƠ ĐỒ 2.11: TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN CỦA DN – TCKT NĂM 2008, 2009, 2010 SƠ ĐỒ 2.12: TIỀN GỬI TIẾT KIỆM CỦA DÂN CƯ NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.13: TIỀN GỬI TIẾT KIỆM CÓ KỲ HẠN CỦA DÂN CƯ NĂM 2008, 2009, 2010 SƠ ĐỒ 2.14: TIỀN GỬI TIẾT KIỆM KHÔNG KỲ HẠN CỦA DÂN CƯ NĂM 2008, 2009 VÀ 2010 SƠ ĐỒ 2.15: PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ NĂM 2008, 2009, 2010 SƠ ĐỒ 2.16: TIỀN GỬI CỦA TCTD KHÁC NĂM 2008, 2009, 2010 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài : Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra hiện nay là tích cực đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đây là mục tiêu quan trọng trong quá trình vươn lên, thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế hay nói cách khác mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi sau một giai đoạn suy thoái, với sự phục hồi đó làm cho thị trường xuất khẩu trở nên sôi nổi, xu hướng đầu tư của doanh nghiệp ngày càng tăng cao, các thành phần kinh tế khác cũng theo đó mà phát triển… vì thế nhu cầu về vốn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực tế, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp vốn, đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất. Như chúng ta đã biết trong những năm vừa qua để kìm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã có những chính sách thắt chặt tiền tệ như tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, ấn định mức lãi suất huy động vốn để tránh tình trạng nguồn vốn chạy từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác đã làm cho hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại gặp khá nhiều khó khăn. Nhu cầu về vốn của khách hàng tăng trong khi Ngân hàng lại thiếu vốn để giải ngân. Vì vậy, Ngân hàng cần có những giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn ngoài việc sử dụng công cụ lãi suất. Nắm bắt được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, với những kiến thức đã học và kinh nghiệm thực tập, tìm hiểu tình hình thực tế tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Tây Ninh, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phân tích hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu thực tế hoạt động huy động vốn của Sacombank Tây Ninh qua 3 năm 2008 - 2010 nhằm nhận dạng những khó khăn và thuận lợi để từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh qua 3 năm 2008 - 2010. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh qua 3 năm 2008 - 2010. Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh. Phương pháp nghiên cứu Khảo sát thông tin từ thực tiễn Sacombank qua quan sát và trao đổi trực tiếp với các nhân viên, lãnh đạo phụ trách hoạt động huy động vốn Thu thập dữ liệu thứ cấp: Báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng So sánh các số liệu qua các thời kỳ để đánh giá hiệu quả huy động vốn Dựa vào các chỉ tiêu tài chính để phân tích và đánh giá hiệu quả huy động vốn Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài Thuận lợi: Được thực tập tại Ngân hàng để có thể vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Được sự giúp đỡ hết sức tận tình của các anh chị trong phòng Kế toán. Khó khăn Hạn chế về thời gian thực tập. Chưa có kinh nghiệm thực tế để xử lý thông tin. Kết cấu của luận văn tốt nghiệp Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – chi nhánh Tây Ninh Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – chi nhánh Tây Ninh CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN Ngân hàng thương mại Khái niệm Ngân hàng thương mại Mỗi nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức Ngân hàng khác nhau. Thông thường người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Trong điều 1 luật Ngân hàng của Pháp (13/6/1941) có ghi: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ , trong các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”. Hay như Ấn Độ, luật Ngân hàng năm 1950 được bổ sung vào năm 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ, đầu tư”. Và theo luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…”. Theo pháp lệnh “Các Tổ chức Tín dụng” (1990) của Việt Nam thì Ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho nền kinh tế Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, lưu thông hàng hóa ngày càng được mở rộng, nhu cầu về vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Mặt khác trong xã hội lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác... NHTM là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng. NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có những hoạt động và nghiệp vụ của NHTM, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, tăng năng suất lao động, từ đó thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại là cầu nối doanh nghiệp và thị trường Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp khi sản xuất phải luôn đặt ra và trả lời được 3 câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Sản xuất của doanh nghiệp phải phù hợp với tín hiệu của thị trường. Để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao sản xuất, đa dạng hóa mẫu mã, sản phẩm, đầu tư các trang thiết bị, công nghệ hiện đại... Những hoạt động này luôn đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư lớn và các NHTM có thể đáp ứng được vấn đề này. Nói cách khác NHTM là một cầu nối vững chắc giữa doanh nghiệp và thị trường, giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tiền tệ của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự dao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy, sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nước tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Mặt khác thông qua NHTM, NHNN có thể ấn định mức lãi suất huy động, quy định thời hạn cho vay, tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt nhằm quản lý lượng tiền trong lưu thông, đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ. Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thườmg đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được Nhà nước sử dụng . Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó.Vì vậy nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế . Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động vốn dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện dịch vụ kinh doanh khác. Vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm: Nguồn vốn tự có Nguồn vốn huy động Vốn đi vay Nguồn vốn khác Nguồn vốn tự có Vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của Ngân hàng theo quy định của NHNN. Vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ nhưng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Vốn tự có gồm: Vốn điều lệ : là số vốn do pháp luật quy định khi Ngân hàng mới thành lập và đi vào hoạt động. Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ : được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi nhuận sau thuế và không được vượt quá vốn điều lệ. Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 10% lợi nhuận sau thuế nhương không được vượt quá 25% vốn điều lệ. Tài sản nợ khác: Lợi nhuận chưa phân phối Thu nhập lớn hơn chi pní Hao mòn TSCĐ..... Nguồn vốn trong huy động Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng huy động được từ hai nguồn chủ yếu là: Tiền gửi của cá nhân và hộ gia đình Tiền gửi của tổ chức kinh tế và doanh nghiệp Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của Ngân hàng. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. Để đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao, Ngân hàng phải huy động đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn làm sao để huy động được nguồn vốn phù hợp với chi phí thấp nhất, tỷ trọng các nguồn vốn phải hợp lý từ đó nâng cao được sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Nguồn vốn đi vay Vốn đi vay là nguồn vốn được hình thành do Ngân hàng đi vay các tổ chức tín dụng khác hoặc NHTƯ: Vay các TCTD khác: Trong trường hợp vốn huy động không đủ đáp ứng nhu cầu thanh khoản NHTM có thể đi vay các TCTD khác để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Đây là nguồn vốn có tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, NHTM chỉ sử dụng nguồn vốn này khi thực sự cần thiết vì nó có chi phí cao hơn vốn huy động rất nhiều. Vay NHTƯ: NHTƯ cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn, vay thanh toán, vay ngắn hạn bổ sung...NHTƯ có cho NHTM vay hay không phụ thuộc vào: Chính sách tiền tệ mà NHTƯ đang theo đuổi: Nếu NHTƯ muốn mở rộng mức cung tiền để thúc đẩy kinh tế phát triển thì NHTƯ sẽ đáp ứng nhu cầu vay của NHTM một cách dễ dàng và ngược lại. Hạn mức tín dụng của NHTM được NHTƯ cấp đã được sử dụng hết chưa: thông thường NHTƯ cấp cho mỗi Ngân hàng một hạn mức tín dụng và NHTM được phép vay trong hạn mức này. Đây là nguồn vốn có chi phí rất cao do đó NHTM chỉ sử dụng khi thực sự cần thiết. Nguồn vốn khác Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên NHTM còn có các nguồn vốn khác cũng không kém phần quan trọng như: vốn trong thanh toán, nguồn vốn uỷ thác đầu tư...NHTM có thể sử dụng các nguồn vốn này để kinh doanh trong khoảng thời gian và điều kiện nhất định. Khái niệm về huy động vốn Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Các NHTM nhận vốn từ những người gửi tiền, các chủ thể cho vay để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình nên nguồn vốn này được xem như một khoản nợ của Ngân hàng. Các hình thức huy động vốn trong Ngân hàng thương mại Phân loại căn cứ theo thời gian Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian hình thức huy động chia thành Huy động ngắn hạn Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các Ngân hàng thương mại thông qua việc phát hành các công nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán… Phần lớn số này được dùng để cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tính ổn định kém. Huy động trung hạn Đây là nguồn huy động vốn Ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (1 năm đến 5 năm). Vốn huy động này Ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để Ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung hạn, dài hạn với lãi suất cao. Huy động dài hạn Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của Ngân hàng trên thị trường vốn. Với nguồn huy động này Ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5 năm trở lên). Do vậy lãi suất của Ngân hàng phải trả cũng rất cao. Phân loại theo đối tượng huy động Huy động vốn từ dân cư Đây là khu vực huy động đầy tiềm năng cho các Ngân hàng. Ngân hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư và kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư thường khá ổn định. Huy động vốn từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế Đây là nguồn huy động được đánh giá rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong Ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán được hàng hóa đều gửi tiền vào Ngân hàng và rút ra khi cần. Chu kỳ rút tiền của doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội không giống nhau. Vì vậy, Ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, độ lớn của khoản tiền này phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà Ngân hàng mang lại khi khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ Ngân hàng. Huy động vốn từ Ngân hàng và các Tổ chức tín dụng khác Trong quá trình hoạt động, các Ngân hàng thường có các khoản tiền gửi lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán… Ngoài ra việc vay lẫn nhau giữa các Ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe dọa… các Ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình vay là một thỏa thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy động này có thể được thực hiện trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại tệ. Trong số những người cho Ngân hàng vay có 1 người đặc biệt đó là Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để cứu các Ngân hàng thương mại thoát khỏi các trục trặc xảy ra. Huy động vốn từ các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ dàng nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy, hình thức huy động này các Ngân hàng sử dụng không nhiều. Phân loại theo nghiệp vụ huy động Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các Ngân hàng thương mại sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng tạo sự thuận tiện cho Ngân hàng khi tiến hành huy động, bao gồm: Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi Huy động tiền gửi không kỳ hạn Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toán bằng séc. Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến Ngân hàng lấy mà có thể rút qua các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên hai tài khoản: Tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có. Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng Ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ Ngân hàng nên mức lãi suất mà Ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt thấp (trong đó có Việt Nam) và để tăng mức động viên tiền gửi, Ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này (có những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn). Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu Ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm Ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của người gửi tiền. Huy động tiền gửi có kỳ hạn Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào Ngân hàng và rút ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, ít có sự biến động. Phần tiền gửi này Ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi suất mà Ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ Ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng... ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai trò hay việc tạo vốn cho các Ngân hàng. Huy động tiền gửi tiết kiệm Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các Ngân hàng thương mại. Bao gồm các loại sau: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là một loại sản phẩm mà Ngân hàng cung ứng để giúp khách hàng tích lũy dần những khoản tiền nhỏ để đáp ứng một khoản chi tiêu nào đó trong tương lai mà vẫn được hưởng lãi. Khi mở tài khoản này khách hàng có thể tùy ý gửi tiền hoặc rút tiền. Do các giao dịch này không thường xuyên, chủ yếu là giao dịch gửi tiền và rút tiền trực tiếp nên chi phí của Ngân hàng thấp. Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít biến động hơn nên Ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn. Khi khách hàng gửi tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng sẽ được Ngân hàng cấp một sổ tiền gửi. Sổ tiền gửi này sẽ phản ánh tất cả các giao dịch gửi tiền, rút tiền, số dư hiện có, tiền lãi được hưởng hoặc khách hàng được cung cấp một báo cáo tài khoản sau mỗi lần giao dịch thay cho sổ tiền gửi. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào Ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3 tháng, 6 tháng... Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên Ngân hàng phải trả khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các Ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có Ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ hạn, có Ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế... Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát triển nhưng ở nước ta còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút ra khi đến hạn (thời hạn tương đối dài). Loại hình này giúp cho Ngân hàng có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các Ngân hàng thương mại có thể vay từ nhiều nguồn: Vay từ các Tổ chức tín dụng Đó là các khoản vay thông thường mà các Ngân hàng vay lẫn nhau trên thị trường liên Ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các Ngân hàng thường xây dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay Ngân hàng Trung ương. Vay từ Ngân hàng Trung ương Khi Ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các Ngân hàng có thể cầu cứu là Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương cho vay dưới hình thức tái chiết khấu thương phiếu. Các Ngân hàng thương mại có thể mang các thương phiếu lên Ngân hàng Trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn do Ngân hàng Trung ương chỉ cho Ngân hàng thương mại một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung vốn cho Ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất định. Huy động vốn qua phát hành các công cụ nợ Ngân hàng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (Điều 46 – Luật các tổ chức tín dụng). Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của Ngân hàng thương mại. Trong quá trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, Ngân hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô huy động vốn, loại tiền huy động và đưa ra mức hợp lý làm cho việc tạo vốn của Ngân hàng thành công nhanh chóng. Giấy tờ có giá là chứng nhận của Ngân hàng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa Ngân hàng và người mua. Phân loại giấy tờ có giá Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá bao gồm Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Kỳ phiếu Ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do Ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ những kế hoạch kinh doanh xác định của Ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ 12 tháng trở lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác. Trái phiếu của Ngân hàng là một loại giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của Ngân hàng đối với người chủ của Ngân hàng với những cam kết thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước. Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, chủ yếu là huy động vốn trung và dài hạn. Căn cứ vào phương thức trả lãi, giấy tờ có giá bao gồm Giấy tờ có giá tính lãi trước là các giấy tờ có giá Ngân hàng tính lãi ngay khi phát hành, khi đáo hạn khách hàng nhận tiền bằng mệnh giá. Giấy tờ có giá trả lãi một lần khi đến hạn thanh toán là các giấy tờ có giá Ngân hàng phát hành chỉ thanh toán lãi khi đáo hạn cùng mệnh giá. Giấy tờ có giá trả lãi theo định kỳ là các giấy tờ có giá Ngân hàng phát hành căn cứ vào phiếu trả lãi theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm đối với các giấy tờ có giá dài hạn. Các trường hợp phát hành giấy tờ có giá Có các trường hợp phát hành giấy tờ có giá sau: Phát hành giấy tờ có giá ngang giá (phát hành bằng mệnh giá) là phát hành giấy tờ có giá đúng bằng mệnh giá. Phát hành giấy tờ có giá có chiết khấu (giá phát hành nhỏ hơn mệnh giá) là phát hành giấy tờ có giá với giá nhỏ hơn mệnh giá. Phần chênh lệch giữa giá phát hành nhỏ hơn mệnh giá gọi là chiết khấu giấy tờ có giá. Phát hành giấy tờ có giá có phụ trội (giá phát hành lớn hơn mệnh giá) là phát hành giấy tờ có giá với giá lớn hơn mệnh giá. Phần chênh lệch giữa giá phát hành lớn hơn mệnh giá gọi là phụ trội giấy tờ có giá. Huy động vốn qua các hình thức khác Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các Ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ... Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho Ngân hàng những nguồn huy động lớn giúp cho Ngân hàng có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả. Các phương pháp xác định chi phí huy động vốn Phương pháp chi phí trung bình theo nguyên giá Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất, có ưu điểm là đánh giá được nguồn vốn trong quá khứ. Để bù đắp được chi phí trả lãi Để đạt được mức lãi cổ phần a% (với mức thuế T%) Chi phí biên tập hợp Phương pháp chi phí dự kiến bình quân gia quyền Phương pháp này sử dụng chi phí dự kiến bình quân gia quyền của tất cả các loại nguồn vốn làm kết quả ước đoán chi phí biên. Với giả thuyết rằng: Ngân hàng đã tài trợ được với mức chi phí huy động chung thấp nhất thì chi phí huy động biên phải bằng với chi phí dự kiến bình quân gia quyền. Đánh giá các phương pháp Tùy theo mục đích sử dụng của con số huy động vốn tính toán được mà người ta lựa chọn phương pháp tính toán. Chi phí huy động trung bình theo nguyên giá có tác dụng đánh giá được tình hình hoạt động trước đó của Ngân hàng, từ đó làm căn cứ định giá đối với các sản phẩm của Ngân hàng trong tương lai. Chi phí biên của mội loại nghiệp vụ cụ thể được sử dụng khi Ngân hàng muốn quyết định nên huy động loại nguồn vốn nào trong một tập hợp các sản phẩm, dịch vụ mà nhà hoạch định dự định huy động. Ngoài việc hàng ngày theo dõi tính toán chi phí huy động vốn, các nhà làm Ngân hàng hiện đại cũng theo dõi sát xao xu hướng vận động của các nguồn vốn riêng lẻ thông qua sự trợ giúp của công nghệ tin học hiện đại để có thể kịp thời đưa ra các quyết định đúng đắn về vốn của Ngân hàng mình. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Các nhân tố khách quan Đây là các yếu tố mà khi tác động đến Ngân hàng sẽ không thể chống được, đó là các rủi ro không thể tránh. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra. Yếu tố pháp lý Kinh doanh Ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Hoạt động Ngân hàng được điều chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý đem lại cho Ngân hàng hàng loạt các cơ hội và thách thức. Ngoài ra Ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật : luật dân sự, luật NHTƯ, các quy định của Chính phủ... Do đó hoạt động huy động vốn của Ngân hàng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của Nhà nước, chính sách của NHTƯ như: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng... Sự thay đổi của những chính sách này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn của NHTM. Yếu tố kinh tế Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thu nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và gửi tiền của dân cư và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động của Ngân hàng. Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thu nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ... sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Yếu tố chính trị Một quốc gia có tình hình chính trị ổn định, an toàn sẽ tạo sự an tâm cho người dân làm ăn, sinh sống, do đó không phải tích lũy dự trữ tiền nhiều cho những trường hợp đặc biệt. Nhờ vậy, Ngân hàng thương mại có khả năng huy động được nhiều vốn hơn. Trái lại, một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn như Thái Lan, Campuchia… sẽ gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân, do vậy họ sẽ tích trữ nhiều của cải, tiền bạc bên người đề phòng trường hợp bất trắc nên sẽ hạn chế gửi tiền vào Ngân hàng, từ đó khả năng huy động vốn của Ngân hàng giảm. Yếu tố văn hóa, xã hội, dân cư Mỗi quốc gia có nền văn hóa riêng, văn hóa chính là yếu tố tạo nên bản sắc của các dân tộc như: Tập quán, thói quen, tâm lý… Đối với Ngân hàng, hoạt động huy động vốn là hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường văn hóa. Cụ thể ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng những tiện ích thanh toán, hưởng lãi, trong tiềm thức họ, Ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là một phần tất yếu của nền kinh tế. Do vậy, Ngân hàng không gặp mấy khó khăn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại, ở những nước đang phát triển như Việt Nam, huy động vốn của Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ Ngân hàng. Quy mô dân cư, chất lượng đời sống của người dân không chỉ là yếu tố ảnh hưởng đến số lượng kết cấu các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng thương mại mà còn là yếu tố rất quan trọng để xây dựng và điều chỉnh hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Yếu tố tâm lý và thói quen tiêu dùng Yếu tố tâm lý Với những nền kinh tế chịu tình trạng Dollar hóa cao như Việt Nam thì việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn. Người dân lo sợ sự mất giá của nội tệ, ưa chuộng cất trữ ngoại tệ nên các Ngân hàng thương mại sẽ gặp khó khăn khi huy động nguồn vốn bằng nội tệ. Khi mức thu nhập người dân tăng lên, họ cũng có tâm lý tăng tích lũy, do vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng thương mại trong việc huy động thêm nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân cư. Thói quen tiêu dùng Ở các nước phát triển thì tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán chỉ chiếm khoảng 2% đến 3%, thói quen tiêu dùng và thanh toán của họ chủ yếu thông qua Ngân hàng và hầu hết khoản tiền của họ đều được Ngân hàng quản lý thông qua tài khoản cá nhân, do đó Ngân hàng thương mại có thể tăng khả năng huy động vốn để đầu tư, sử dụng… Nhưng với những nước đang phát triển như Việt Nam vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán (chiếm tới 14% trong tổng phương tiện thanh toán) thì sẽ hạn chế khả năng huy động vốn từ người dân hơn. Các nhân tố chủ quan Các sản phẩm và mạng lưới Sản phẩm dịch vụ phải phong phú, đa dạng, ngày càng nâng cao, cải thiện các chất lượng dịch vụ để cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt nhất. Một Ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các Ngân hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các Ngân hàng phải phấn đấu nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tăng thu nhập của Ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng không có giới hạn do vậy đây chính là điểm mạnh để các Ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh. Lãi suất và các dịch vụ gia tăng Chính sách lãi suất cạnh tranh bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi suất cạnh tranh cho vay là một chính sách quan trọng của Ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động là đặc biệt quan trọng khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các Ngân hàng thương mại không chỉ cạnh tranh về vốn với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ, dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy những người tiết kiệm và đầu tư chuyển vốn từ công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm và đầu tư tại các tổ chức tiết kiệm hoặc từ tổ chức tiết kiệm này sang tổ chức tiết kiệm khác. Chất lượng phục vụ, dịch vụ Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả nên chiến lược phục vụ và quảng cáo trở thành yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo là điều kiện để thu hút khách hàng, chiến lược quảng cáo phù hợp sẽ giúp Ngân hàng có nhiều khách hàng mới. Do đó, để có uy tín trên thị trường, giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống và thu hút nhiều khách hàng mới, Ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, có chiến lược quảng cáo hợp lý để nhiều người biết đến Ngân hàng và sản phẩm dịch vụ do Ngân hàng cung ứng. Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong chiến lược kinh doanh đó, Ngân hàng quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô huy động vốn, thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, lãi suất huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn Ngân hàng sẽ khai thác được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả cao. Trong công tác khách hàng, Ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều nhóm để có cách phục vụ phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, gây được tín nhiệm với Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ có chính sách phù hợp về thời hạn và lãi suất. Cơ sở vật chất và công nghệ hạ tầng Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của Ngân hàng, nó mang lại cho Ngân hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt thách thức mới. Công nghệ mới cho phép Ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới… nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động vốn được cải tiến, phát triển và rút ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác… giúp Ngân hàng có khả năng thu hút được nhiều vốn, nhiều khách hàng và tăng thu nhập và uy tín của Ngân hàng. Cơ sở hạ tầng cũng quyết định một phần khả năng huy động vốn của Ngân hàng thương mại, với những Ngân hàng lớn, có tầm cỡ với hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ, tiện nghi và hệ thống mạng lưới lớn rộng khắp trên đất nước thì sẽ tạo được lòng tin của khách hàng cũng như cung cấp cho khách hàng các dịch vụ một cách tốt nhất. Đội ngũ nhân sự Một đội ngũ nhân sự giỏi, chuyên nghiệp cũng ảnh hưởng phần nào đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Danh tiếng và uy tín của Ngân hàng Khi các Ngân hàng xây dựng thương hiệu mạnh, có uy tín từ lâu thì sẽ có lợi thế hơn trong việc huy động vốn. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn Tỷ số vốn huy động trên tổng nguồn vốn Tỷ số này cho biết mức độ tham gia của vốn huy động trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Tỷ số này càng cao thì vốn huy động càng ổn định và sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc cho vay Tỷ số huy động vốn có kỳ hạn trên tổng nguồn vốn huy động Tỷ số này cho biết 100 đồng vốn huy động sẽ có bao nhiêu đồng vốn huy động có kỳ hạn huy động được từ bên ngoài. Chỉ tiêu này thể hiện tính ổn định của nguồn vốn huy động của Ngân hàng, nếu tỷ lệ này lớn sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng nhưng nếu tỷ số này quá nhỏ thì Ngân hàng không thể chủ động trong việc cấp tín dụng. Tỷ số huy động vốn không kỳ hạn trên tổng nguồn vốn huy động Tỷ số này cho biết 100 đồng vốn huy động sẽ có bao nhiêu đồng vốn huy động không kỳ hạn huy động được từ bên ngoài. Chỉ số này cho biết vốn huy động không kỳ hạn sẽ chiếm bao nhiêu % tổng vốn huy động. Nếu tỷ số này càng cao thì lợi nhuận Ngân hàng sẽ cao do chênh lệch khá cao giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Tuy nhiên, nếu tỷ số này quá cao sẽ làm cho Ngân hàng không thể chủ động được nguồn vốn huy động để cho vay vì tiền gửi không kỳ hạn là tiền gửi không ổn định, nếu cho vay sẽ có nhiều rủi ro hơn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG SÀI GÒN THƯƠNG TÍN - CHI NHÁNH TÂY NINH Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Tóm lượt quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín được thành lập ngày 21/12/1991 trên cơ sở hợp nhất 4 Tổ chức tín dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Ngân hàng phát triển kinh tế quận Gò Vấp và 3 hợp tác xã tín dụng Thành Công, Tân Bình, Lữ Gia với số vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng. Qua hơn 20 năm hoạt động và phát triển, đến nay Sacombank đã đạt số vốn điều lệ khoảng 9.179 tỷ đồng và được xem là một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu ở Việt Nam với 366 điểm giao dịch, trong đó có 67 Chi nhánh/Sở Giao dịch, 295 Phòng giao dịch và 01 tại Lào và 01 chi nhánh tại Campuchia (tính đến thời điểm 31/12/2010). Ngày 12/7/2006 Sacombank là Ngân hàng đầu tiên chính thức niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM (nay là Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh), đây là một sự kiện rất quan trọng và có ý nghĩa cho sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam, cũng như tạo tiền đề cho việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP khác. Đến năm 2008, Sacombank cũng là Ngân hàng Việt Nam tiên phong công bố hình thành và hoạt động theo mô hình Tập đoàn tài chính tư nhân với 5 công ty trực thuộc và 5 công ty liên kết. Với việc khai trương Chi nhánh Lào vào năm 2008, Chi nhánh Campuchia năm 2009, Sacombank trở thành Ngân hàng Việt Nam đầu tiên thành lập chi nhánh tại nước ngoài. Đây được xem là bước ngoặt trong quá trình mở rộng mạng lưới của Sacombank với mục tiêu tạo ra cầu nối trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tài chính của khu vực Đông Dương. Sacombank cũng nhận được rất nhiều bằng khen và giải thưởng có uy tín: “Ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại hối tốt nhất Việt Nam năm 2009” do Global Finance bình chọn “Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2008” do Asian Banking & Finance bình chọn “Ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam 2008” do Asset bình chọn “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Global Finance bình chọn “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Finance Asia bình chọn “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007” do Euromoney bình chọn “Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2007” do Asia Banking & Finance bình chọn “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam về cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ 2007” do Global Finance bình chọn Được đánh giá và xếp loại A (loại cao nhất) trong bảng xếp loại của Ngân hàng Nhà nước cho năm 2006 và xếp thứ 4 trong ngành Tài chính Ngân hàng tại Việt Nam do chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP đánh giá cho năm 2007 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ 2008 vì có những đóng góp tích cực vào các hoạt động kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ về những thành tích dẫn đầu phong trào thi đua ngành Ngân hàng trong năm 2007 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ dành cho các hoạt động từ thiện trong suốt các năm qua Giới thiệu về Sacombank Tên tổ chức: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN THƯƠNG TÍN Tên giao dịch quốc tế: SAI GON THUONG TIN COMMERCIAL JOINT STOCK BANK Tên viết tắt: SACOMBANK Trụ sở chính: 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh Điện thoại: (84-8) 39 320 420 Fax: (84-8) 39 320 424 Website: www.sacombank.com.vn Logo: Vốn điều lệ: 9.179.000.000.000 đồng Giấy phép thành lập: Số 05/GP-UB ngày 03/01/1992 của UBND TP.HCM Giấy phép hoạt động: Số 0006/GP-NH ngày 05/12/1991 của NHNN Việt Nam Giấy phép CNĐKKD: Số 059002 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư TP.HCM cấp Tài khoản: Số 4531.00.804 tại NHNN Chi nhánh TP.HCM Mã số thuế: 0301103908 Ngành nghề kinh doanh Huy động ngắn hạn, trung và dài hạn dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá Hùn vốn và liên doanh theo pháp luật Làm dịch vụ thanh toán giữa khách hàng Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế Huy động vốn từ nước ngoài và các dịch vụ khác Hoạt động bao thanh toán Quá trình tăng vốn điều lệ của Sacombank Bảng 2.1: Vốn điều lệ của Sacombank qua các năm Nguồn: Bản cáo bạch của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (2010) Cơ cấu sở hữu Bảng 2.2: Cơ cấu cổ đông của Sacombank tính đến ngày 22/10/2010 Nguồn: Bản cáo bạch của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (2010) Cơ cấu tổ chức Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Nguồn: Bản cáo bạch của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (2010) Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh Ngân hàng thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – chi nhánh Tây Ninh được thành lập vào ngày 21/5/2003, là Ngân hàng thương mại Cổ phần đầu tiên trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Mạng lưới hoạt động của Sacombank Tây Ninh hiện có chi nhánh tỉnh cùng 5 phòng giao dịch tại các huyện Tân Châu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trãng Bàng và Tân Biên với tổng số 105 cán bộ nhân viên. Hoạt động gần 8 năm trên địa bàn tỉnh, Sacombank tự hào là Ngân hàng thương mại Cổ phần đầu tiên mang nguồn vốn tín dụng về cho bà con nông dân, đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp, hỗ trợ phát triển công nghiệp, dịch vụ ở những vùng xa. Tổng số khách hàng vay vốn đạt 12.706 người, đây là hệ khách hàng hiện hữu luôn được chăm sóc chu đáo từ doanh nghiệp lớn đến từng cá nhân vay vốn vài triệu đồng phục vụ nhu cầu tiêu dùng của bản thân. Sacombank là Ngân hàng đứng thứ ba trên địa bàn Tây Ninh về huy động với 15% thị phần vốn. Với nhiều loại hình sản phẩm chuyển tiền nhanh, chất lượng dịch vụ đảm bảo, các điểm giao dịch của Sacombank Tây Ninh phục vụ bình quân 600 lượt khách/ngày với doanh số lưu thông đạt 40.000 triệu đồng. Dịch vụ thanh toán, đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trên địa bàn cũng như tư vấn tài chính du học, chuyển tiền ra nước ngoài là một trong những điểm mạnh của Sacombank Tây Ninh. Chương trình phát triển hệ khách hàng giao dịch qua Campuchia luôn được Sacombank Tây Ninh quan tâm. Với lợi thế địa hình sát biên giới với nước bạn, có chi nhánh Campuchia trực thuộc trong hệ thống cũng như thị trường nông sản khá lớn, đầy tiềm năng, Sacombank đã và đang phục vụ các doanh nghiệp Việt Nam cũng như Campuchia giao thương ngày càng nhiều qua hệ thống Ngân hàng của mình. Các thành tích và hoạt động xã hội Năm 2004 tới nay thực hiện chương trình “Sacombank ươm mầm cho những ước mơ” tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh với 40 suất học bổng/1 năm trị giá 1 triệu đồng/suất. Năm 2009 tới nay, chi nhánh kết hợp với Sở VH-TT&DL tỉnh Tây Ninh tổ chức giải việt dã “Sacombank chạy vì sức khỏe cộng đồng”. Trong năm 2010, chi nhánh đã đóng góp 100 triệu đồng cho chương trình “Xây dựng nhà đại đoàn kết” do UBND và UBMTTQ tỉnh Tây Ninh phát động. Chi nhánh xuất sắc 2006, 2007, 2008 trong hệ thống 67 chi nhánh trên toàn quốc. Giới thiệu về Sacombank – chi nhánh Tây Ninh Tên gọi đầy đủ: NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN CHI NHÁNH TÂY NINH Tên viết tắt: SACOMBANK – CHI NHÁNH TÂY NINH Địa chỉ: 149 G đường 30/4, khu phố 1, phường I, Thị xã Tây Ninh Bộ máy tổ chức và quản lý của Sacombank Tây Ninh BAN GIÁM ĐỐC Phòng doanh nghiệp Phòng cá nhân Phòng hỗ trợ kinh doanh Phòng kế toán và quỹ Phòng hành chánh Sơ đồ Sơ đồ 2.2: Bộ máy tổ chức và quản lý của Sacombank Tây Ninh Nguồn: Phòng hành chánh Sacombank Tây Ninh Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban Ban Giám đốc Giám đốc: Là người phụ trách và chịu trách nhiệm với Tổng giám đốc về kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Giám đốc Chi nhánh là chức danh thuộc thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm của Hội đồng Quản trị Ngân hàng. Giám đốc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chức danh theo sự ủy quyền của tổng giám đốc và được phép ủy quyền lại một phần nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện do người ủy quyền thực hiện. Phó giám đốc: Có chức năng giúp Giám đốc điều hành hoạt động của Chi nhánh theo sự ủy quyền của Giám đốc. Chức danh này thuộc thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm của Tổng Giám đốc. Phòng doanh nghiệp: Quản lý thực hiện chỉ tiêu bán hàng theo sản phẩm, tiếp thị và quản lý khách hàng, chăm sóc khách hàng doanh nghiệp. Hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Xây dựng kế hoạch hoạt động của chi nhánh. Đề xuất cho Giám đốc chi nhánh các biện pháp cải tiến, tăng cường sự cạnh tranh và phát triển thị phần. Phòng cá nhân: Quản lý thực hiện chỉ tiêu bán hàng theo sản phẩm, tiếp thị và quản lý khách hàng, chăm sóc khách hàng cá nhân. Hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Xây dựng kế hoạch hoạt động của chi nhánh. Đề xuất cho Giám đốc chi nhánh các biện pháp cải tiến, tăng cường sự cạnh tranh và phát triển thị phần. Phòng hỗ trợ kinh doanh: Bộ phận xử lý giao dịch: Thực hiện các nghiệp vụ tiền gửi thanh toán và các loại tiền gửi có liên quan đến tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm... Bộ phận quản lý tín dụng: Hỗ trợ công tác tín dụng, kiểm soát tín dụng, quản lý nợ, lưu trữ các giấy tờ liên quan đến hợp đồng tín dụng, thông báo nhắc nợ cho các phòng ban có liên quan. Bộ phận thanh toán quốc tế: Xử lý các giao dịch thanh toán quốc tế, xử lý giao dịch chuyển tiền quốc tế, các chức năng khác liên quan đến thanh toán quốc tế. Phòng kế toán và quỹ: Bộ phận kế toán: Quản lý công tác kế toán của chi nhánh Bộ phận quỹ: Thu, chi, xuất nhập, bốc xếp, vận chuyển và bảo quản tiền mặt, tài sản quý, giấy tờ có giá, phân loại, đóng bó tiền theo quy định. Phòng hành chánh: Quản lý công tác hành chánh, quản lý công tác nhân sự và công tác IT. Khái quát tình hình kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh qua 3 năm 2008 - 2010 Quá trình đổi mới và phát triển của Sacombank nói chung và Sacombank Tây Ninh nói riêng gắn liền với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam, nằm trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và chỉ đạo thực hiện. Sacombank Tây Ninh đã chú trọng đổi mới trong mọi lĩnh vực hoạt động, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, vừa phát huy các nghiệp vụ cổ truyền của Ngân hàng, đồng thời mở rộng các nghiệp vụ mới. Trong những năm qua tình trạng lạm phát kéo dài đã tác động rất lớn đến nền kinh tế, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, Nhà nước liên tục đưa ra các chính sách như ấn định mức lãi suất tiền gửi, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc... để điều chỉnh khối lượng tiền trong lưu thông. Những thay đổi đó đã tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng trong đó có Sacombank Tây Ninh. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của Ban lãnh đạo Ngân hàng và sự nỗ lực của tập thể nhân viên trong Ngân hàng đưa Ngân hàng vượt qua những khó khăn trước mắt, quy mô và kết quả kinh doanh của Ngân hàng ngày càng được nâng cao, lợi nhuận tăng qua các năm. Lợi nhuận gia tăng là một minh chứng cho việc sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả được thể hiện qua bảng 2.3: Bảng 2.3: Tổng hợp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009 và 2010 Nguồn: Phòng kế toán của Sacombank Tây Ninh Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008, 2009 và 2010 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Chênh lệch 2009/2008 2010/2009 Số tiền % Số tiền % I. Tổng thu nhập 112.741 117.390 160.458 4.649 4 43.068 37 1. Thu từ lãi 109.984 112.944 152.474 2.960 3 39.530 35 2. Thu ngoài lãi 2.757 4.446 7.984 1.689 61 3.538 80 II. Tổng chi phí 105.909 106.115 143.545 206 0,2 37.430 35 1. Chi trả lãi 97.699 93.457 125.232 (4.212) Giảm 4,3% 31.775 34 2. Chi phí ngoài lãi 8.210 12.630 18.313 4.420 54 5.683 45 III. Lợi nhuận 6.832 11.275 16.913 4.443 65 5.683 50 Theo bảng 2.3 thì kết quả kinh doanh của Ngân hàng qua 3 năm được biểu diễn theo sơ đồ 2.3 như sau: Sơ đồ 2.3: Kết quả kinh doanh của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009 và 2010 Tổng thu nhập Các doanh nghiệp hoạt động nói chung và Ngân hàng nói riêng, mục tiêu chủ yếu trong kinh doanh là nhằm sinh lợi hoạt động kinh doanh của mình. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, Ngân hàng cần biện pháp tăng thu nhập và quản lý chi phí hợp lý. Thu nhập của NHTM bao gồm: Thu từ lãi và thu không phải từ lãi. Đối với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín thu nhập bao gồm: Thu từ lãi và thu ngoài lãi như thu từ nghiệp vụ bảo lãnh, thu phí dịch vụ thanh toán, thu phí dịch vụ ngân quỹ... Qua bảng số liệu ta thấy khoản mục thu nhập của Ngân hàng đều tăng qua các năm. Năm 2009 đạt 117.390 triệu đồng, tăng nhẹ 4.649 triệu đồng tương đương 4% so với năm 2008. Đến năm 2010 thu nhập tăng 43.068 triệu đồng đạt mức thu nhập 160.458 triệu đồng, tăng 37% so với năm 2009. Sau khi vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, chính sách tiền tệ và hoạt động của các Ngân hàng thương mại trong năm 2009 có phần ổn định hơn, nền kinh tế đang dần phục hồi, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư, nhu cầu vay vốn tăng, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã khởi sắc trở lại. Với đà phát triển đó, hoạt động của Ngân hàng năm 2010 đã đi vào ổn định và tăng trưởng mạnh so với năm 2009. Trong tổng nguồn thu ta thấy Ngân hàng thu chủ yếu từ lãi, năm 2010 thu nhập từ lãi chiếm đến 92% trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Điều đó cho thấy hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Mặc dù vậy, cơ cấu thu nhập của chi nhánh cũng dần được thay đổi cho phù hợp với tiêu chuẩn của một Ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại thể hiện qua việc thu nhập ngoài lãi tăng nhanh qua các năm cụ thể năm 2009 đạt 4.446 triệu đồng tăng 61% so với năm 2008, năm 2010 đạt 3.538 triệu đồng tăng 80% so với năm 2009. Tóm lại, khoản thu nhập từ lãi đóng vai trò quan trọng đối với Sacombank Tây Ninh và là kết quả tài chính quan trọng được Ngân hàng quan tâm hàng đầu. Tổng chi phí Các khoản mục chi phí của Sacombank bao gồm: Chi trả lãi và chi phí ngoài lãi. Tổng chi phí năm 2010 là 143.545 triệu đồng tăng 35% so với năm 2009. Trong các khoản mục chi phí thì thì chi trả lãi có quy mô, cơ cấu lớn nhất chiếm từ 87% - 88% tương ứng với mức thu nhập từ lãi. Thông thường cùng với sự tăng lên của thu nhập thì các khoản chi phí cũng tăng lên để đáp ứng nhu cầu hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên khi nhìn vào bảng 2.3 ta dễ dàng nhận ra thu nhập từ lãi năm 2009 tăng so với năm 2008 nhưng chi phí lại hầu như không tăng đáng kể so với năm 2008, nếu xét riêng chi phí lãi thì lại giảm 4,3% so với năm 2008. Điều này không khó giải thích nếu như ta nắm rõ tình hình kinh tế nói chung và tình hình Ngân hàng nói riêng trong năm 2008. Đây là năm lãi suất huy động và lãi suất cho vay lên đến mức kỷ lục, lãi suất cho vay trong năm này ghi nhận mức cao nhất là 43%/năm và huy động trong dân cư lên đến 20%. Do đó mức thu nhập từ lãi trong năm 2008 rất cao nhưng chi phí lãi trong năm này cũng cao không kém. Ngoài ra trong năm còn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến nợ xấu gia tăng và việc thay đổi chính sách liên tục nhằm kiềm chế lạm phát của Ngân hàng Nhà nước đã làm cho Ngân hàng gánh thêm một khoản chi phí không nhỏ. Bước sang năm 2009 lãi suất huy động đã ổn định hơn, chính sách tiền tệ cũng dần ổn định, các doanh nghiệp tái đầu tư sản xuất nên việc chi phí huy động bớt được gánh nặng và phù hợp hơn với thu nhập Ngân hàng. Việc thu nhập tăng nhưng chi phí không tăng thậm chí có xu hướng giảm và ổn định hơn điều này phần nào đã phản ánh được sự phát triển, nỗ lực của Ngân hàng và việc sử dụng nguồn vốn huy động một cách hiệu quả với mức chi phí tính toán sao cho thấp nhất. Lợi nhuận Tuy lĩnh vực Ngân hàng có nhiều nghiệp vụ kinh doanh với những đánh giá khác nhau nhưng tựu chung thì chúng cùng thể hiện thông qua chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận mà chi nhánh Tây Ninh đạt được trong 3 năm qua liên tục tăng, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước rất nhiều. Nếu như năm 2008 ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm phát và lãi suất tăng cao, nhiều Ngân hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận đề ra từ đầu năm trong đó có Sacombank Tây Ninh, điều này khiến cho Sacombamk Tây Ninh thận trọng hơn trong việc xác định mục tiêu lợi nhuận năm 2009, cũng như từ bối cảnh vẫn còn nhiều khó khăn của nền kinh tế. Tuy nhiên, năm 2009 lợi nhuận của Ngân hàng đã cải thiện, không những ổn định trở lại mà còn tăng trưởng mạnh so với năm đặc biệt 2008. Cụ thể lợi nhuận năm 2009 là 11.275 triệu đồng tăng 65% so với năm 2008. Năm 2010 tốc độ tăng của lợi nhuận có phần giảm lại nhưng cũng đạt mức lợi nhuận 16.913 triệu đồng tăng 50% so với năm 2009. Để có được kết quả này, Sacombank Tây Ninh đã phải nỗ lực rất lớn từ Ban lãnh đạo đến các nhân viên của chi nhánh cũng như các phòng giao dịch của tỉnh. Mặt khác, trong những năm gần đây Ngân hàng đã có nhiều sản phẩm dịch vụ mới lạ, sản phẩm tiền gửi với nhiều kỳ hạn, sản phẩm tiết kiệm tích lũy theo số tiền góp hàng kỳ phù hợp với mỗi cá nhân, sản phẩm cho vay góp chợ... Những sản phẩm này đã góp phần thu hút và giữ chân khách hàng dẫn đến khách hàng giao dịch với Sacombank ngày càng nhiều. Từ tình hình trên cho thấy hoạt động kinh doanh của chi nhánh luôn tăng đều qua các năm và ổn định.Với những lợi thế của riêng mình, Sacombank Tây Ninh đang nỗ lực không ngừng, chính vì vậy hoạt động kinh doanh ngày càng được nâng cao và phát triển. Thuận lợi, khó khăn và định hướng phát triển sắp tới của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh Thuận lợi Là Ngân hàng TMCP đầu tiên có chi nhánh ở Tây Ninh là một điều kiện thuận lợi để hoạt động. Tây Ninh là một tỉnh nông nghiệp khá mạnh và đang đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh của người dân rất lớn, là Ngân hàng TMCP đầu tiên khai phá mảnh đất màu mỡ này nên Ngân hàng đã chiếm được thị phần rất lớn ở tỉnh. Chất lượng đội ngũ, cán bộ công nhân viên đã ngày được củng cố và hoàn thiện về trình độ tay nghề cũng như kỹ năng chăm sóc khách hàng. Mạng lưới hoạt động phân bổ rộng khắp tỉnh. Cùng với Việc tổ chức các chương trình: Marketing trực tuyến, tài trợ các chương trình thể thao như cuộc thi chạy việt dã, học bổng cho học sinh các trường THPT trong tỉnh , các chương trình từ thiện khác... đã tạo điều kiện cho Sacombank nói chung và Sacombank Tây Ninh nói riêng thu hút được khách hàng đến giao dịch ngày càng nhiều. Trong nhiều năm qua Sacombank không ngừng phát triển và vươn lên trở thành một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam. Điều này tạo niềm tin cho khách hàng của Sacombank Tây Ninh khi đến giao dịch với Ngân hàng. Hiện nay Sacombank đang sử dụng phần mềm Corebanking- T24 trị giá 4 triệu USD do công ty Têmnos của Thụy Sỹ thực hiện, công nghệ này sẽ tạo điều kiện để triển khai sản phẩm dịch vụ hiện đại hơn, tạo sự an toàn chính xác trong giao dịch. Điểm mạnh để đưa Sacombank phát triển mạnh và có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh khác là Sacombank được chính thức lên sàn giao dịch chứng khoán vào năm 2006 cũng là Ngân hàng đầu tiên lên sàn chứng khoán Hoạt động của Sacombank ngày được chuẩn hóa bằng các quy định quy chế ban hành dựa trên cơ sở pháp luật. chính sách chủ chương của NHNN tạo điều kiện chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cán bộ nhân viên. Hơn 75% cán bộ nhân viên của Sacombank Tây Ninh có trình độ đại học có nhiệt huyết với công việc và năng động. Đây là điền kiện khá tốt cho hoạt động của Sacombank trong thời điểm cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Khó khăn Cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng tại Tây Ninh ngày một gay gắt. Hiện nay có rất nhiều TCTD có trụ sở hoạt động tại tỉnh Tây Ninh, trong khi điều kiện kinh tế xã hội của Tây Ninh chưa đáp ứng yêu cầu. Mặt khác thu nhập của người dân chưa cao và việc giao dịch với Ngân hàng chưa được người dân quan tâm thích đáng. Hệ thống rút tiền tự động ATM phát triển mạnh nhưng chưa đồng đều ở các huyện xa. Lãi suất thường xuyên biến động do áp lực cạnh tranh, lạm phát, biến động giá vàng, ngoại tệ. Thiên tai dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm cho người dân gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng ảnh hưởng đến kết quả của các đơn vị vay vốn, một số khách hàng không trả được nợ vay. Định hướng phát triển Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta bị lạm phát với tỷ lệ rất cao. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển, đồng thời để nâng cao thế cạnh tranh so với các NH trong khu vực thì Sacombank Tây Ninh cần có những chiến lược phát triển riêng, những định hướng trong những năm sắp tới đây. Tiếp tục mở rộng và hình thành các mối quan hệ liên minh - liên kết - hợp tác, đẩy mạnh hoạt động của các công ty liên doanh và trực thuộc, đồng thời phát huy cao nhất tác dụng của mối quan hệ liên minh - liên kết - hợp tác, thu hút ngày càng nhiều các nguồn nhân lực từ bên ngoài. Do đó, Sacombank Tây Ninh sẽ hoàn tất cơ bản kế hoạch mở rộng mạng lưới khắp tỉnh Tây Ninh nhằm đưa sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng. Mặt khác Ngân hàng còn tập trung tăng nhanh năng lực tài chính, không ngừng phát hành thêm cổ phiếu ra thị trường nhằm bổ sung vốn điều lệ phục vụ cho việc mở rộng mạng lưới hoạt động. Tiếp tục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là công tác chăm sóc khách hàng, nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ nhân viên và tăng cường trình độ quản lý tập trung. Đồng thời nâng cao nghiệp vụ đội ngũ nhân viên tín dụng và thẩm định. Tiếp tục đầu tư hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, hoàn tất việc triển khai phần mềm lõi T24 trên toàn hệ thống mạng lưới, giúp tăng cường khả năng quản lý, điều hành cũng như tạo điều kiện cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng ứng dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại. Qua đó Ngân hàng thực hiện tốt chức năng Ngân hàng bán lẻ hàng đầu. Nghiên cứu, đánh giá thị trường theo ngành, theo mô hình sản xuất kinh doanh từng địa phương. Trên cơ sở đó Sacombank Tây Ninh xây dựng các đề án đề xuất Hội sở đưa ra các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hoạt động cho vay hỗ trợ vốn cho các ngành nghề tiềm năng. Đồng thời Ngân hàng cần phải duy trì, củng cố và mở rộng thị phần đối với sản phẩm dịch vụ truyền thống; giới thiệu, xâm nhập, mở rộng các sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đa dạng hóa hoạt động của Sacombank Tây Ninh. Đẩy mạnh mở rộng thị phần với sự tăng trưởng tín dụng một cách hợp lý, thận trọng nhằm giảm thiểu rủi ro. Với các biện pháp: Xây dựng chính sách khách hàng vay vốn theo định hướng Ngân hàng bán lẻ, hoàn thiện chính sách và quy trình tín dụng, xây dựng danh mục cho vay, cải tiến, phát triển sản phẩm cho vay phù hợp với từng địa bàn, tầng lớp dân cư. Thu hút và trọng dụng nhân tài tại chỗ thông qua việc liên kết với các THPT ở các địa phương bằng chương trình học bổng Sacombank. Sacombank Tây Ninh cố gắng nâng cao lợi nhuận, duy trì ở mức lợi nhuận trên 10 tỷ trong những năm tiếp theo. Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động bằng các giải pháp chủ yếu như xây dựng chính sách thu hút tiền gửi thanh toán, cải tiến và hoàn thiện các sản phẩm tiền gửi hiện có. Tiếp tục duy trì và gia tăng tỷ lệ thu nhập phi tín dụng trên tổng thu nhập của Ngân hàng, bao gồm: thu dịch vụ, thu phi tín dụng và thu khác thông qua chất lượng dịch vụ ngày càng nâng cao. Tập trung đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn lực. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên năng động, chuyên nghiệp, gắn bó với Ngân hàng thông qua chính sách tuyển dụng tiên tiến, đào tạo và tái đào tạo, cùng chính sách đãi ngộ thích hợp, mang tính cạnh tranh. Thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh Khái quát tình hình nguồn vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Tây Ninh Trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nó quyết định đến khả năng hoạt động cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu từ 4 nguồn đó là vốn huy động, vốn tự có, vốn đi vay và vốn khác. Riêng đối với chi nhánh thì có vốn huy động và vốn tự có. Đối với nguồn vốn huy động: Ngân hàng được toàn quyền sử dụng sau khi đã trích lại một phần theo tỷ lệ đảm bảo do Ngân hàng Nhà nước quy định, đồng thời có trách nhiệm trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho khách hàng. Đối với nguồn vốn tự có: Bao gồm tài sản nợ khác và quỹ của Chi nhánh Để hiểu rõ hơn tình hình của Ngân hàng trong 3 năm qua chúng ta sẽ tiến hành xem xét cơ cấu nguồn vốn của Samcombank Tây Ninh. Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Sacombank chi nhánh Tây Ninh qua 3 năm cụ thể: Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009 và 2010 Cơ cấu nguồn vốn năm 2008, 2009, 2010 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Chênh lệch 2009/2008 2009/2010 Số tiền % Số tiền % Vốn huy động 934.926 1.155.297 1.685.990 220.371 24 530.693 46 Vốn tự có 30.477 40.140 47.393 9.663 32 7.253 18 Tổng nguồn vốn 965.403 1.195.437 1.733.383 230.034 24 537.946 45 Nguồn: Phòng kế toán của Sacombank Tây Ninh Vốn huy động Sơ đồ 2.4: Vốn huy động của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009 và 2010 Năm 2008 Ngân hàng huy động được 934.926 triệu đồng, đến năm 2009 là 1.155.297 triệu đồng, tăng 220.371 triệu đồng so với năm 2008 tương đương tăng 24%. Năm 2010 nguồn vốn huy động được là 1.685.990 triệu đồng, tăng 530.693 triệu đồng so với 2009 tương đương tăng 46%. Tây Ninh là một tỉnh phát triển nông nghiệp rất mạnh đặc biệt là cao su, mì và mía. Trong năm 2008 ngoài việc phải đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế chung, người dân Tây Ninh càng lâm vào khó khăn hơn nữa do sự kiện bê bối của công ty bột ngọt Vedan, nhiều doanh nghiệp tư nhân bị tồn đọng mì, mía, không có nguồn tiêu thụ, xoay vòng vốn không kịp dẫn đến phá sản, đời sống nhân dân đã khó nay càng khó hơn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trên địa bàn tỉnh. Năm 2009 với sự khuyến khích, hỗ trợ từ ban lãnh đạo của tỉnh, nhiều doanh nghiệp đã bắt tay gầy dựng lại việc kinh doanh, tái đầu tư, sản xuất vì vậy nhu cầu vay vốn rất lớn do đó nguồn vốn huy động trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy còn chịu nhiều ảnh hưởng từ năm 2008 nhưng trong năm 2009 với những nổ lực của mình, chi nhánh đã cố gắng đẩy mạnh công tác huy động vốn bằng nhiều cách như tuyên truyền marketing, mở ra những hạn mục tiền gửi mới…, hoạt động huy động vốn không những được cải thiện mà còn tăng rõ rệt so với năm 2008. Với đà đó sang năm 2010, các doanh nghiệp làm ăn ổn định, đời sống nhân dân có phần ổn định hơn và đặc biệt là sự tăng giá trở lại của cao su sau thời gian rớt giá trầm trọng do không xuất khẩu được sang Trung Quốc đã làm cho nguồn vốn huy động đã tăng mạnh so với năm 2009. Vốn tự có: Sơ đồ 2.5: Vốn tự có của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009 và 2010 Vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn Ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng tăng qua các năm. Năm 2008 là 30.477 triệu đồng. Năm 2009 là 40.140 triệu đồng, tăng 9.663 triệu đồng tương đương tăng 32% so với năm 2008 và năm 2010 là 47.393 triệu đồng, tăng 7.253 triệu đồng tương đương tăng 18% so với năm 2009. Qua bảng số liệu ta thấy vốn huy động rất ổn định qua các năm và chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn. Năm 2008 nguồn vốn huy động chiếm 96,8% trong tổng nguồn vốn, năm 2009 là 96,6% và năm 2010 là 97,3%. Nhờ duy trì được tỷ trọng cao của vốn huy động trong tổng nguồn vốn giúp Ngân hàng luôn luôn chủ động trong công tác sử dụng vốn, đáp ứng được tốt nhất nhu cầu vốn của khách hàng và tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Sự tăng trưởng của tổng nguồn vốn hàng năm của Chi nhánh xuất phát từ nhu cầu về vốn của các đơn vị kinh tế trong Tỉnh ngày càng tăng và Chi nhánh ngày càng mở rộng phạm vi cho vay. Do đó, Chi nhánh phải có chiến lược kinh doanh phù hợp để khơi tăng nguồn vốn huy động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị hoạt động. Phân tích tình hình huy động vốn của Sacombank Tây Ninh qua 3 năm (2008 - 2010) Đối với NHTM, nguồn vốn huy động tại địa phương là nguồn vốn quan trọng nhất và luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn. Việc các NHTM đảm bảo huy động đủ nguồn vốn cho công tác sử dụng vốn vừa đảm bảo thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vừa đảm bảo cho hoạt động của NHTM được ổn định và đạt được hiệu quả cao. Không giống các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế hoạt động của NHTM chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động. Do đó, Ngân hàng cần tạo cho được nguồn vốn ổn định, phù hợp với yêu cầu về vốn. Mỗi một khoản nguồn vốn đều có nhu cầu khác nhau về chi phí, tính thanh khoản, thời hạn hoàn trả khác nhau… Do đó, Ngân hàng cần phải quan sát, đánh giá chính xác từng loại nguồn vốn để kịp thời có những chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ nhất định để hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí đầu vào cho Ngân hàng. Chúng ta sẽ đi vào phân tích từng loại nguồn vốn huy động của Ngân hàng qua 3 năm từ năm 2008 – 2010. Phân tích theo đối tượng huy động và bản chất nghiệp vụ huy động Bảng 2.5: Hoạt động huy động vốn năm 2008, 2009, 2010 Hoạt động huy động vốn năm 2008, năm 2009, năm 2010 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tiền gửi của DN - TCXH 208.832 22,3 286.871 24,8 434.051 25,7 Tiền gửi không kỳ hạn 58.923 6,3 75.543 6,5 121.534 7,2 Tiền gửi có kỳ hạn 149.909 16 211.328 18,3 312.517 18,5 Tiền gửi của cá nhân 633.588 67,8 669.369 57,9 1.012.784 60,1 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 609.699 65,2 635.091 55 960.698 57 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn 23.889 2,56 33.468 2,9 52.086 3,1 Phát hành giấy tờ có giá 89.835 9,6 197.142 17,1 236.570 14 Tiền gửi của TCTD khác 2.671 0,3 1.915 0,2 2.585 0,2 Tổng nguồn vốn huy động 934.926 100 1.155.297 100 1.685.990 100 Nguồn: Phòng kế toán của Sacombank Tây Ninh Từ bảng 2.5 ta quan sát các sơ đồ tình hình huy động vốn của Sacombank qua các năm Sơ đồ 2.6: Hoạt động huy động vốn của Sacombank Tây Ninh năm 2008 Năm 2008, tiền gửi của các DN - TCKT là 208.832 triệu đồng chiếm 22,3% trong tổng nguồn vốn huy động, tiền gửi của cá nhân là 633.588 triệu đồng chiếm 67,8%, phát hành giấy tờ có giá là 89.835 triệu đồng chiếm 9,6% và cuối cùng là tiền gửi của TCTD khác chỉ chiếm 0,3% tương đương 2.671 triệu đồng. Sơ đồ 2.7: Hoạt động huy động vốn của Sacombank Tây Ninh năm 2009 Năm 2009 tiền gửi của các DN - TCKT là 286.871 triệu đồng chiếm 24,8% trong tổng nguồn vốn huy động, tiền gửi của cá nhân là 669.369 triệu đồng chiếm 57,9%, phát hành giấy tờ có giá là 197.142 triệu đồng chiếm 17,1% và cuối cùng là tiền gửi của TCTD khác chỉ chiếm 0,2% tương đương 1.915 triệu đồng. Sơ đồ 2.8: Hoạt động huy động vốn của Sacombank Tây Ninh năm 2010 Năm 2010 tiền gửi của các DN - TCKT là 434.051 triệu đồng chiếm 25,7% trong tổng nguồn vốn huy động, tiền gửi của cá nhân là 1.012.784 triệu đồng chiếm 60,1%, phát hành giấy tờ có giá là 236.570 triệu đồng chiếm 14% và cuối cùng là tiền gửi của TCTD khác chỉ chiếm 0,2% tương đương 2.585 triệu đồng. Quan sát bảng 2.5 và các sơ đồ 2.6, 2.7 và 2.8 ta thấy nguồn tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong nguồn tiền gửi của dân cư nguồn tiền gửi có kỳ hạn chiếm phần lớn. Đây là nguồn vốn quan trọng, có tính ổn định cao tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong quá trình sử dụng vốn. Ngân hàng cần duy trì tỷ trọng cao của nguồn vốn này và không ngừng phát triển nó. Nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế luôn chiếm một vị chí quan trọng trong tổng nguồn vốn vì đây là nguồn vốn có chi phí thấp tạo điều kiện cho Ngân hàng giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Trong những năm gần đây tỷ trọng của nguồn vốn này lại có xu hướng tăng nhưng rất ít. Ngân hàng cần chú ý tăng tỷ trọng của nguồn vốn này. Nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá của Ngân hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ mặc dù đây là nguồn vốn có chi phí cao nhưng nó là nguồn vốn mà Ngân hàng có thể chủ động về lãi suất, số lượng, thời hạn, Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này cho đầu tư trung và dài hạn. Vì vậy Ngân hàng nên theo dõi nguồn vốn này, xác định một mức tỷ trọng hợp lý để có thể chủ động trong đầu tư trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn tại địa phương. Để hiểu rõ hơn tình hình huy động vốn của Ngân hàng, chúng ta đi xem xét từng thành phần của vốn huy động Tiền gửi của DN - TCKT Để thấy rõ hơn tốc độ tăng trưởng tiền gửi của các TCKT qua 3 năm 2008 - 2010 ta quan sát sơ đồ 2.9: Sơ đồ 2.9: Tiền gửi của DN – TCKT năm 2008, 2009 và 2010 Qua sơ đồ ta thấy khoản mục tiền gửi của DN - TCKT đều tăng qua các năm. Năm 2009 tăng 37% so với năm 2008, năm 2010 tăng mạnh 51% so với 2009. Năm 2008 tác động của cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc làm ăn của các doanh nghiệp. Bước sang năm 2009 doanh nghiệp có điều kiện phát triển hơn, nền kinh tế dần phục hồi lại, tiền gửi vào Ngân hàng tăng nhưng vẫn còn ở mức tương đối. Sang năm 2010 với điều kiện thuận lợi và bước đà năm 2009, tiền gửi của DN đã tăng mạnh. Các DN - TCKT gửi tiền vào Ngân hàng gồm những khoản tiền không kỳ hạn để thanh toán cho đối tác và những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi nhằm đảm bảo tiền sinh lời hằng ngày cho doanh nghiệp. Tiền gửi không kỳ hạn Sơ đồ 2.10: Tiền gửi không kỳ hạn của DN – TCKT năm 2008, 2009, 2010 Như chúng ta đã biết , đặc điểm của tiền gửi loại này là nhằm mục tiêu hưởng các tiện ích trong thanh toán chứ không phải vì mục tiêu hưởng lãi. Do vậy, trong tất cả các loại nguồn mà Ngân hàng có khả năng huy động thì đây là nguồn có chi phí huy động thấp nhất, tính ổn định thấp nhất vì Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên của khách hàng. Qua bảng số liệu ta thấy khoản tiền gửi không kỳ hạn của DN - TCKT chiếm tỷ trọng rất thấp tuy tỷ trọng này có gia tăng qua các năm nhưng không nhiều. Tuy nhiên, số lượng tiền gửi vẫn gia tăng mạnh qua các năm, năm 2009 tăng 28% so với 2009, sang năm 2010 đã tăng mạnh 61% so với 2009. Sự gia tăng của tiền gửi không kỳ hạn cho thấy hệ thống thanh toán đã có những bước tiến nhất định và đã thu hút nhiều doanh nghiệp hơn. Tiền gửi có kỳ hạn Sơ đồ 2.11: Tiền gửi có kỳ hạn của DN – TCKT năm 2008, 2009, 2010 Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức doanh nghiệp năm 2009 tăng 41% so với năm 2008, năm 2010 tăng 48% so với 2009. Với mức tăng trưởng đó cho thấy những khách hàng doanh nghiệp của Sacombank đã xác định được chu kỳ kinh doanh ổn định để ngoài việc gửi tiền vào Ngân hàng với nhu cầu thanh toán, các Doanh nghiệp còn lấy lãi từ lãi suất tiền gửi có kỳ hạn của Ngân hàng, thậm chí số dư tiền gửi có kỳ hạn còn chiếm tỷ trọng cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Bên cạnh đó cho thấy được hiệu quả của chính sách điều chỉnh lãi suất tiền gửi có kỳ hạn nhằm thu hút vốn huy động từ đối tượng này. Tiền gửi tiết kiệm Sơ đồ 2.12: Tiền gửi tiết kiệm của dân cư năm 2008, 2009 và 2010 Khoản mục kế tiếp nguồn vốn huy động của Sacombank Tây Ninh là tiền gửi tiết kiệm. Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của dân cư chưa sử dụng cho tiêu dùng. Đây là nguồn vốn rất quan trọng của Ngân hàng, huy động vốn này ngoài tác dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thu hút tối đa các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư nhằm phát triển kinh tế cũng như đối với chính sách ổn định tiền tệ của đất nước. Trong 3 năm qua, tình hình huy động vốn của Chi nhánh từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư liên tục tăng và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động, năm 2008 là 633.588 triệu đồng, năm 2009 là 669.369 triệu đồng tăng 5,6% so với năm 2008, năm 2009 huy động được 1.012.784 triệu đồng tăng 51% so với năm 2009. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Trong khoản mục tiền gửi của dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Sơ đồ 2.13: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư năm 2008, 2009, 2010 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn chiếm vị trí cao và được khách hàng ưa chuộng do lãi suất cao và khá ổn định. Đây là sản phẩm truyền thống của các Ngân hàng thương mại. Năm 2008 tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là 609.699 triệu đồng, năm 2009 đạt mức 635.994 triệu đồng tăng nhẹ 4,3% so với năm 2008, năm 2010 tăng mạnh 51% so với năm 2009 đạt mức 960.698 triệu đồng. Tuy tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đều tăng qua các năm nhưng tỷ trọng năm 2009 giảm 10,2% so với năm 2008, sang năm 2010 tỷ trọng tiền gửi tăng trở lại nhưng chỉ tăng nhẹ khoảng 2%. Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn giúp cho Ngân hàng có thể chủ động trong đầu tư nên cần chú trọng đến tỷ trọng của nguồn vốn này. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn Sơ đồ 2.14: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư năm 2008, 2009 và 2010 Như chúng ta đã biết, theo thói quen tích lũy của người Việt Nam thì việc gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn để thanh toán qua Ngân hàng là chưa cao bởi họ xem tiền mặt là công cụ thanh toán chính cho mọi giao dịch. Chính vì thế mà khoản gửi tiết kiệm không kỳ hạn chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động huy động vốn. Tuy vậy, tỷ trọng và số tiền gửi không kỳ hạn đều tăng đều qua các năm mặc dù tăng không nhiều. Năm 2008 tiền gửi huy động được là 23.889 triệu đồng chiếm tỷ trọng 2,56%, năm 2009 là 33.468 triệu đồng chiếm 2,9%, năm 2010 huy động được 52.086 triệu đồng chiếm 3,1%. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã có những biện pháp tích cực đưa sản phẩm này đến với người dân. Mặc dù lãi suất không cao như tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng do nhiều tiện ích và có thể rút bất kỳ lúc nào khi khách hàng cần để thanh toán, giao dịch nên cá nhân đến Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ngày càng nhiều hơn. Phát hành giấy tờ có giá Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang phát triển, nhu cầu về vốn trung và dài hạn để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa sản xuất… ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn các Ngân hàng cũng cần có hình thức huy động tương ứng để có đủ vốn đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, các Ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá. Đây là hình thức huy động vốn linh hoạt giúp các NHTM có thể chủ động về khối lượng vốn, lãi suất và thời hạn.... Tuy nhiên việc phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu hay trái phiếu thường có chi phí cao hơn các nguồn vốn huy động khác. Vì vậy, khi thực hiện huy động vốn từ nguồn này Ngân hàng rất thận trọng và cân nhắc, thông thường Ngân hàng phát hành loại giấy tờ này trong những thời điểm nhất định khi Ngân hàng cần vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Tình hình huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá của Sacombank được thể hiện qua sơ đồ 2.15 Sơ đồ 2.15: Phát hành giấy tờ có giá năm 2008, 2009, 2010 Qua biểu đồ 2.15 ta thấy lượng phát hành giấy tờ có giá tăng khá rõ rệt qua các năm, đặc biệt là năm 2009 vì trong năm này nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp rất lớn cụ thể năm 2009 huy động 197.142 triệu đồng, tăng 121% so với năm 2008. Song song với việc số lượng phát hành giấy tờ có giá tăng, tỷ trọng năm 2009 cũng tăng rất cao, tăng 7,5% so với năm 2008. Sang năm 2010 do kinh tế đã có phần ổn định trở lại, việc huy động bằng tiền gửi của DN, dân cư có phần ổn định hơn, lượng vốn huy động bằng việc phát hành giấy tờ chỉ tăng 20% so với năm 2009, tỷ trọng trong năm này cũng giảm 3,1% so với 2009. Tiền gửi của các TCTD khác Sơ đồ 2.16: Tiền gửi của TCTD khác năm 2008, 2009, 2010 Tuy tiền gửi của TCTD khác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh nhưng để thực hiện việc thanh toán qua lại giữa các Ngân hàng với nhau trên địa bàn thì Chi nhánh cũng đã có những nổ lực lớn trong việc tạo ra những mối quan hệ hợp tác với các Tổ chức tín dụng khác nhằm gia tăng khoản huy động này. Năm 2009 tiền gửi của TCTD giảm rõ rệt so với năm 2008, giảm 28% so với năm 2008, điều này cũng khá dễ hiểu, khi năm 2009 nhu cầu vay vốn các DN rất lớn, rất nhiều Ngân hàng đã phát huy tối đa nguồn huy động vốn của mình để đáp ứng nhu cầu này và rút tiền gửi tại các Ngân hàng khác là một trong những biện pháp một số Ngân hàng sử dụng. Năm 2010, tiền gửi của các TCTD đã tăng trở lại gần bằng mức của năm 2008, tăng 35% so với 2009. Trên địa bàn tỉnh uy tín của Sacombank rất lớn, quan hệ hợp tác với các Ngân hàng thương mại khác trong khu vực là khá tốt, chưa tính đến việc Sacombank có mối quan hệ rộng rãi trên nhiều lĩnh việc. Sacombank cần tận dụng những ưu thế này để càng ngày càng đẩy mạnh nguồn huy động vốn này. Phân tích theo thời gian huy động Bảng 2.6: Hoạt động huy động vốn theo thời gian huy động của Sacombank Tây Ninh năm 2008, 2009, 2010 HUY ĐỘNG VỐN THEO THỜI GIAN HUY ĐỘNG NĂM 2008, 2009 và 2010 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Vốn huy động không kỳ hạn 82.812 8,86% 109.011 9,43% 173.620 10,3% Vốn huy động ngắn hạn 720.462 77,06% 914.513 79,16% 1.285.515 76,25% Vốn huy động trung và dài hạn 131.652 14,08% 131.773 11,41% 226.855 13,45% Tổng 934.926 100% 1.155.297 100% 1.685.990 100% Nguồn: Phòng kế toán của Sacombank Tây Ninh Như đã phân tích theo đối tượng huy động và nghiệp vụ huy động, vốn huy động không kỳ hạn là nguồn vốn có tính ổn định thấp, lãi suất thấp, vì vậy nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn huy động. Ta thấy nguồn vốn huy động không kỳ hạn chủ yếu là từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, nguồn tiền gửi của dân cư rất ít. Nó phản ánh đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích phục vụ cho việc thanh toán. Còn đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ hạn. Tuy khoản mục này tỷ trọng thấp nhưng cũng đã có sự gia tăng qua các năm. Cụ thể năm 2009 tăng 0,57% so với năm 2008, năm 2010 tăng 0,87% so với năm 2009. Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với bất cứ Ngân hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân hàng kiếm được nhiều lợi nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn là một cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. Trong tổng nguồn vốn huy động tính theo thời gian, ta thấy hạn mục vốn huy động trung và dài hạn chiếm tỷ trọng tương đối thấp và khoản mục này vào năm 2009 bị sụt giảm so với năm 2008, năm 2010 tuy có tăng lại nhưng tỷ trọng vẫn chưa đạt mức 2008. Khủng hoảng kinh tế, thua lỗ hàng loạt của doanh nghiệp, lạm phát tăng, đồng tiền mất giá, giá vàng tăng cao là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc này. Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao nhưng ta dễ dàng nhận ra nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Doanh nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được dùng để sản xuất kinh doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân hàng lấy lãi. Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của Ngân hàng. Đối với cá nhân thì việc lạm phát đã ảnh hưởng tới tâm lý của khách hàng rất nhiều, sự trượt giá đồng tiền, sự biến động của giá vàng khiến cho khách hàng không muốn gửi tiền vào những kỳ hạn dài. Chi phí huy động vốn Vì sao phải xác định chi phí huy động vốn? Có ba lí do buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc xác định chi phí huy động vốn. Thứ nhất: Ngân hàng bao giờ cũng cố gắng tìm kiếm cho mình một tổ hợp các nguồn vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất. Nếu giả thiết coi tất cả các yếu tố khác là như nhau thì Ngân hàng nào có mức chi phí huy động vốn thấp nhất mà không phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn thì Ngân hàng đó sẽ có mức lợi nhuận cao hơn. Thứ hai: Việc tính toán chính xác chi phí huy động vốn được coi là mọt yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà Ngân hàng sẽ thu được,và căn cứ vào đó Ngân hàng sẽ định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ của mình. Thứ ba: Loại hình nghiệp vụ mà Ngân hàng sử dụng cũng như việc sử dụng các loại nghiệp vụ này ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Bảng 2.7: Bảng tổng hợp chi phí lãi và tiền gửi năm 2008, 2009 và 2010 CHI PHÍ LÃI VÀ TIỀN GỬI NĂM 2008, 2009, 2010 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Chi trả lãi 97.699 93.457 125.232 Chi trả lãi tiền gửi 96.765 91.319 122.677 Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá 934 2.138 2.555 Tổng tiền gửi 934.926 1.155.297 1.685.990 Tiền gửi của DN, TCKT, TCTD khác, cá nhân 845.091 958.155 1.449.420 Phát hành giấy tờ có giá 89.835 197.142 236.570 Ở đây chúng ta chỉ đi vào tính toán chi phí huy động vốn bằng phương pháp chi phí bình quân gia quyền theo nguyên giá qua các năm. Năm 2008 chi phí lãi bình quân gia quyền là 10,45%, năm 2009 là 8,09%, năm 2010 là 7,43%. Ta nhận thấy mức chi phí huy động vốn của năm 2008 khá cao so với năm 2009 và năm 2010. Như đã phân tích ở những phần trước năm 2008 là một năm đầy sóng gió của các Ngân hàng, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và lạm phát cao, Ngân hàng nhà nước đã liên tục thay đổi chính sách tiền tệ và các Ngân hàng thương mại cũng đã gặp nhiều khó khăn vì cũng phải liên tục thay đổi cho phù hợp. Để duy trì hoạt động một cách trơn tru, các Ngân hàng đã liên tục tăng lãi suất huy động vốn dẫn đến việc lãi suất huy động leo thang chưa từng có trong lịch sử. Việc này đã dẫn đến chi phí huy động vốn tăng rất đáng kể, chưa kể đến việc sự khó khăn của nền kinh tế dẫn đến việc nợ xấu gia tăng, nhiều Ngân hàng đã không đạt được mục tiêu lợi nhuận và Sacombank Tây Ninh cũng không ngoại lệ. Bước sang năm 2009 và năm 2010 chi phí huy động vốn đã giảm đáng kể theo đó lợi nhuận Ngân hàng cũng được cải thiện. Đây chính là tín hiệu đáng mừng và cho thấy những hiệu quả trong hoạt động của Sacombank. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn Việc sử dụng chỉ tiêu đánh giá hoạt động huy động vốn là hết sức quan trọng đối với Ngân hàng. Từ những kết quả đó, Ngân hàng sẽ biết được thực tế tình hình hoạt động nói chung và tình hình huy động vốn nói riêng của mình để tìm thấy những vấn đề cần quan tâm. Từ đó đề ra những giải pháp khắc phục khó khăn đồng thời để nâng cao vốn huy động của Ngân hàng, góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín dụng và cuối cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Bảng 2.8: Hiệu quả của hoạt động huy động vốn năm 2008, 2009, 2010 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2008 2009 2010 Tổng nguồn vốn Triệu đồng 965.403 1.195.437 1.733.383 Tổng nguồn vốn huy động Triệu đồng 934.926 1.155.297 1.685.990 Vốn huy động có kỳ hạn Triệu đồng 852.114 1.046.286 1.512.370 Vốn huy động không kỳ hạn Triệu đồng 82.812 109.011 173.620 VHĐ/TNV % 96,84 96,64 97,27 VHĐCKH/TVHĐ % 91,14 90,56 89,7 VHĐKKH/TVHĐ % 8,86 9,44 10,3 Tỷ số vốn huy động có kỳ hạn trên tổng vốn huy động (VHĐCKH/TVHĐ) Theo bảng 2.8 ta thấy tỷ số vốn huy động có kỳ hạn trên tổng vốn huy động chiếm đến 91,14% trong tổng vốn huy động trong năm 2008, năm 2009 là 90,56% và 89,7% trong năm 2010. Từ tỷ số này cho ta biết vốn huy động có kỳ hạn chiếm rất cao và là thành phần chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng sẽ dễ dàng chủ động trong việc cho vay nhưng tỷ lệ này quá cao lên đến 91% nên Ngân hàng phải tốn nhiều chi phí hơn để trả lãi cho khách hàng vì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, điều đó có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nhìn chung, vốn huy động có kỳ hạn chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động của Sacombank Tây Ninh nên Ngân hàng có thể chủ động hơn trong việc cung cấp tín dụng, việc còn lại là Ngân hàng làm sao để đẩy mạnh thu hút khách hàng đến vay nhằm nâng cao lợi nhuận của Ngân hàng. Tỷ số vốn huy động không kỳ hạn trên tổng nguồn vốn huy động Qua bảng 2.8 ta thấy tỷ số này cũng đã có sự gia tăng qua 3 năm nhưng không đáng kể. Nhìn chung, tỷ số này của Ngân hàng còn thấp, tuy nó giúp Ngân hàng chủ động được nguồn vốn trong việc cấp tín dụng nhưng xét về phương diện khác thì nó chưa mang lại nhiều lợi ích cho Ngân hàng vì vốn huy động từ tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn có chi phí sử dụng tương đối thấp nên nếu Ngân hàng tận dụng tối đa từ nguồn này sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn. Tỷ số vốn huy động trên tổng nguồn vốn Theo bảng 2.8 tỷ số huy động vốn trên tổng nguồn vốn là khá cao trong cả 3 năm ổn định với mức khoảng 97%. Tỷ số này cho biết hoạt động huy động vốn của Sacombank Tây Ninh cực kỳ hiệu quả và ổn định. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng nên tiếp tục cố gắng để duy trì tỷ số này, đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Qua phân tích ta thấy trong 3 năm vừa qua 2008 – 2010, nguồn vốn huy động của Sacombank rất cao và tương đối ổn định cho thấy hoạt động huy động vốn của Ngân hàng đang tiến hành theo đúng hướng, hiệu quả và ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng trên địa bàn Tây Ninh. Đánh giá chung về tình hình huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín trong thời gian qua Kết quả đạt được Chỉ với 8 năm hoạt động trên địa bàn tỉnh song Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Tây Ninh khách hàng biết đến như một nơi đáng tin cậy để gửi tiền, đáp ứng mọi nhu cầu về vốn, các dịch vụ Ngân hàng phong phú và đa dạng. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng ngày càng được coi trọng và có những kết quả đáng khích lệ. Nguồn vốn huy động luôn tăng, năm sau cao hơn năm trước. Không những vậy mức huy động vốn luôn chiếm tỷ trọng cao và rất ổn định qua 3 năm xấp xỉ 97% kể cả năm 2008 đầy khó khăn cho ngành Ngân hàng. Trong năm 2009 và năm 2010 hoàn thành vượt mức dự kiến huy động đã đề ra. Cụ thể trong năm 2009 dự kiến huy động là 1.050 tỷ đồng nhưng Ngân hàng đã vượt mức huy động được 1.155 tỷ đồng, năm 2010 huy động được 1.685 tỷ đồng trong khi dự kiến là 1.403 tỷ đồng. Vốn huy động có kỳ hạn của 3 năm chiếm tỷ trọng rất lớn, đây là điều kiện thuận lợi để Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn. Để đạt được kết quả này là sự nổ lực, phấn đấu của toàn bộ nhân viên và Ban lãnh đạo chi nhánh. Với những chiến lược huy động của mình, Sacombank thu hút rất nhiều doanh nghiệp lớn trong tỉnh như Công ty cổ phần Bourbon, Xổ số kiến thiết Tây Ninh, công ty cao su Tây Ninh… Ngoài ra, Ngân hàng còn thu hút khá nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong địa bàn tỉnh. Điều này giúp cho Ngân hàng ít bị phụ thuộc vào những khách hàng lớn. Khách hàng nhiều, đa dạng, Ngân hàng có thể chủ động đề ra mức lãi suất, các chi phí đầu vào từ đó cũng chủ động được lãi suất đầu ra. Tuy chi nhánh Sacombank Tây Ninh đạt được những thành công nhất định nhưng cũng không tránh khỏi một số thiếu xót sau cần sớm được khắc phục. Những mặt còn hạn chế Trong tổng nguồn vốn huy động tỷ trọng các nguồn vốn có một số điểm chưa hợp lý: Tỷ trọng tiền gửi của DN, TCKT chiếm tỷ trọng nhỏ, năm 2008 là 22,3%, năm 2009 là 24,8%, năm 2010 là 25,7%. Đây là một trong những bất lợi lớn của chi nhánh vì nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế là nguồn vốn có chi phí thấp giúp Ngân hàng giảm chi phí huy động vốn. Do đó chi nhánh nên đẩy mạnh công tác tiếp thị, công tác khách hàng để tăng khả năng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế qua đó tăng khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp. Trong tổng nguồn vốn huy động nguồn phát hành giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng khá thấp trong khi điều kiện chi nhánh đang thiếu nguồn vốn trung và dài hạn là biểu hiện không tốt. Vì thế chi nhánh nên tăng cường phát hành giấy tờ có giá để tăng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn. Ta dễ dàng nhận thấy nguồn tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất thấp. Nguồn vốn huy động này làm cho Ngân hàng khó chủ động trong việc cấp tín dụng nhưng đây lại là nguồn vốn có chi phí huy động thấp, vì vậy tỷ trọng nguồn tiền gửi không kỳ hạn thấp có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Do đó, cũng phải có biện pháp hợp lý để tăng tỷ trọng hạn mức tiền gửi này. Tỷ trọng tiền gửi trung và dài hạn chiếm rất thấp (năm 2008 là 14,08%, năm 2009 là 11,41%, năm 2010 là 13,45%), điều này gây khó khăn rất lớn khi Ngân hàng cho vay trung và dài hạn. Nguyên nhân Khủng hoảng kinh tế cùng với lạm phát dẫn đến sự thua lỗ của các doanh nghiệp. Sự mất giá của đồng tiền và giá vàng ngày càng tăng gây nhiều khó khăn trong hoạt động huy động vốn trung và dài hạn. Nguồn thông tin,nhất là các thông tin dự báo dài hạn vĩ mô về định hướng phát triển theo ngành, vùng còn thiếu, chưa kịp thời để xây dựng các kế hoạch, giải pháp mang tính trung, dài hạn. Thời gian giao dịch của sở với khách hàng chủ yếu là trong giờ hành chính, chưa chủ động phục vụ khách hàng ngoài giờ, trong các ngày nghỉ. Trình độ cán bộ nhân viên ở một số bộ phận chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Những thuận lợi và khó khăn trên ảnh hưởng lớn đến kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy trong năm 2011 và các năm tới Ngân hàng phải biết tận dụng cơ hội để đẩy mạnh huy động vốn trên cơ sở đó giải quyết những khó khăn, tạo điều kiện để chi nhánh tăng lợi nhuận , tạo uy tín đối với khách hàng. Muốn vậy chi nhánh cần xem xét và đưa ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu qủa hoạt động của mình. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN THƯƠNG TÍN Ngân hàng hoạt động chủ yếu là phải nhờ vào nguồn vốn huy động được, để nâng cao tỷ trọng vốn huy động với chi phí thấp nhất, Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp như sau: Đối với những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NH như nhân tố kinh tế, chính trị, pháp luật,... thì NH cần dự báo tình hình tương lai nền kinh tế để có những chiến lược chống đỡ và đối phó kịp thời với những biến động của nền kinh tế. Còn đối với những nhân tố chủ quan thì NH có thể kiểm soát được và có thể có những chiến lược, chính sách riêng để thu hút nguồn vốn huy động . Giải pháp về lãi suất Lãi suất của NH phải cạnh tranh được với các NH khác nhưng không được vượt khung lãi suất của NHNN đó là mức trần lãi suất. Chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với điều kiện tiền tệ ổn định, giá cả ít biến động hay nói cách khác là lạm phát ở mức vừa phải và không biến động bất thường. Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lí để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội vừa kích thích các đơn vị , tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy ban lãnh đạo Ngân hàng cần có những biện pháp về lãi suất thích hợp cụ thể: Có đội ngũ cán bộ thường xuyên theo dõi biến động lãi suất của các Ngân hàng trên địa bàn. Cần thu thập thông tin về sự biến động lãi suất để có giải pháp ứng phó kịp thời. Áp dụng lãi suất huy động một cách linh hoạt kịp thời, đảm bảo với tình hình huy động của các TCTD khác trên địa bàn. Cần huấn luyện cho các cán bộ làm công tác huy động vốn một cách chuyên nghiệp về cách giải thích biểu lãi suất cho khách hàng để thuyết phục họ. Cần nghiên cứu đưa ra thêm các hình thức trả lãi phù hợp theo nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp hạn chế vấn đề cạnh tranh lãi suất Ngân hàng cũng cần đưa ra các giải pháp khác để nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trên địa bàn. Công nghệ Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là Ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gửi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối. Xem xét thay đổi các thiết bị, máy móc đã lỗi thời, lạc hậu thay vào đó là các máy móc hiện đại đẩy nhanh tốc độ làm việc của các nhân viên trong Ngân hàng vừa tiết kiệm thời gian cho khách hàng vừa tiết kiệm thời gian cho Ngân hàng. Tận dụng tối đa những ưu thế mà công nghệ mới mang lại. Đồng thời mỗi nhân viên Ngân hàng cần có thời gian nhất định để thích ứng với công nghệ mới, giới chức lãnh đạo các Ngân hàng cần có những biện pháp động viên, khuyến khích giúp đỡ, thậm chí cả đòi hỏi, từng nhân viên phải nỗ lực hết khả năng để sớm thích nghi. Máy móc thực hiện cho dịch vụ thanh toán cần phải thường xuyên được kiểm tra và sửa chữa kịp thời. Cần bổ sung thêm các máy ATM cho tương xứng với số lượng thẻ phát hành cho khách hàng. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và dịch vụ Tăng cường công tác huy động trên địa bàn, đặc biệt là huy động tiền gửi có kỳ hạn nhằm tạo sự chủ động hơn cho Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán mặc dù nguồn tiền này không ổn định như tiền gửi có kỳ hạn nhưng bù lại chi phí huy động thấp. Để lôi kéo khách hàng, Ngân hàng không chỉ thu hút bằng lãi suất mà còn tạo sự thuận lợi, an toàn, đồng thời kết hợp với nhiều hình thức huy động vốn mới. Cần đưa ra một số sản phẩm dịch vụ để xoá bỏ thói quen để tiền ở nhà của người dân. Người dân có thói quen để tiền ở nhà một mặt xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống hàng ngày, mặt khác là do có tiền ở nhà sử dụng chủ động hơn, sau cùng là do ngại đi gửi tiền. Vì vậy Ngân hàng cần phát triển những tiện ích về việc thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội sao cho mọi người thấy thanh toán không dùng tiền mặt có phần trội hơn, tiện lợi hơn và ít nguy hiểm hơn là thanh toán dùng tiền mặt. Cần cải tiến thời gian làm thủ tục gửi tiền, làm các dịch vụ ngân quỹ cho khách hàng, cần kết hợp song hành giữa khâu kế toán và khâu ngân quỹ để rút ngắn thời gian thực hiện nghiệp vụ nhằm tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Ngân hàng cần đa dạng hoá các hình thức trả lãi cho khách hàng. Ví dụ như Ngân hàng có thể chuyển lãi qua tài khoản thẻ của khách hàng giúp cho khách hàng giảm bớt thủ tục, tiết kiệm thời gian hoặc khách hàng có thể nhận lãi ngoài giờ làm việc của Ngân hàng. Đào tạo nguồn nhân lực Bố trí đội ngũ cán bộ nhiệt tình, ngoài khả năng chuyên môn vững vàng còn phải có tính quần chúng để làm việc tại các bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng . Tăng cường kiểm tra việc đặt các bảng chỉ dẫn phòng ban, nghiệp vụ, các bảng thông báo hướng dẫn chi tiết mọi thủ tục cần thiết liên quan đến việc gửi tiền, rút tiền, làm giấy uỷ nhiệm lãnh tiền, báo mất sổ…. để khách hàng tự tìm hiểu, nắm vững và chuẩn bị trước cho tốt, tránh cho khách hàng yêu cầu giải thích nhiều, đỡ tốn thời gian cho cả Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng cần cải thiện các tờ bướm giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, trên các tờ bướm cần đưa ra các biểu phí dịch vụ giúp cho khách hàng dễ dàng tìm hiểu, so sánh và chọn lựa dịch vụ. Mỗi khi Ngân hàng đưa ra hình thức huy động vốn mới Ngân hàng nên thông báo rõ mọi yếu tố liên quan trong đó có thời hạn, lãi suất, các thủ tục rút vốn, lĩnh lãi….và phải niêm yết ở những nơi mà mọi người có thể đọc thấy, đồng thời nên bố trí một cán bộ thường xuyên túc trực để giải đáp những khúc mắc, hướng dẫn hoặc trực tiếp làm một số việc để giúp khách hàng nhanh chóng được phục vụ. Thường xuyên mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác huy động vốn để họ có thể nắm vững các khía cạnh một cách sâu sắc để lí giải cho khách hàng những vấn đề mà họ chưa hiểu. Với sự hướng dẫn nhiệt tình của các nhân viên Ngân hàng sẽ giúp cho khách hàng cảm thấy mình được quan tâm giải toả được tâm lí e ngại và khiến họ đến Ngân hàng một cách tự nhiên, cởi mở và thân thiện hơn. Ngân hàng cũng cần có những chính sách khuyến khích toàn bộ các nhân viên trong Ngân hàng tham gia vào việc tìm kiếm khách hàng mới cho Ngân hàng trên thị trường sẵn có của mình. Ngân hàng cần tạo ra nguồn động lực thúc đẩy nhân viên nhiệt tình trong công tác huy động vốn. Để nhân viên trong Ngân hàng có động lực thì cần đảm bảo nhu cầu cuộc sống của họ, có những chính sách động viên nhân viên như khen thưởng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân viên. Marketing Ngân hàng Đối với các khách hàng có quan hệ lâu năm với Ngân hàng thì: Giữ tốt mối quan hệ với khách hàng thông qua các hoạt động tín dụng, tạo mối quan hệ hai chiều thân thiết giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế. Ngân hàng cho các tổ chức vay vốn kinh doanh khi thu được kết quả ngoài việc thanh toán nợ cho Ngân hàng, họ sẽ sử dụng thêm các dịch vụ của Ngân hàng như thanh toán quốc tế, chi trả lương cho công nhân, mua bán ngoại tệ… Thường xuyên tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu khách hàng, nhằm đưa ra các sản phẩm mới lạ, hấp dẫn nhưng không quá phức tạp. Trong các dịp lễ, tết, kỷ niệm Ngân hàng cần tặng quà, hoa để chúc mừng nhằm củng cố mối quan hệ ngày càng bền chặt hơn. Đây cũng là cử chỉ thể hiện sự quan tâm, hiếu khách của Ngân hàng đối với khách hàng. Đối với những khách hàng lần đầu tiên đến giao dịch với Ngân hàng thì việc tạo ấn tượng khởi đầu tốt đối với khách hàng là hết sức cần thiết. Những nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng đòi hỏi phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp, nhiệt tình vui vẻ, tận tâm đối với khách hàng. Tuy có một số nghiệp vụ không mang lại lợi ích cho Ngân hàng ở hiện tại nhưng nó có thể sẽ mang lại lợi ích cho Ngân hàng trong tương lai. Chẳng hạn như, trong dịp tết nhu cầu đổi tiền cũ lấy tiền mới của khách hàng là rất lớn, trong số những khách hàng này có những người chưa từng đến Ngân hàng giao dịch bao giờ. Do đó việc gây ấn tượng đầu tiên với khách hàng là rất cần thiết nó là nhân tố ảnh hưởng lớn đế công tác huy động vốn của Ngân hàng trong tương lai. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, giới thiệu nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvantotnghiep.doc
Tài liệu liên quan