Đề tài Phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp: trường hợp nghiên cứu ngành dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Đề tài Phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp: trường hợp nghiên cứu ngành dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1.1 Đặt vấn đề Cải tiến là cần thiết và rất quan trọng đối với hầu hết doanh nghiệp để nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Nguồn lực cần thiết cho tiến trình cải tiến thường được biết đến là vốn vật chất và trình độ công nghệ, là những nguồn lực hữu hình, rất hạn chế đối với các doanh nghiệp Việt Nam - phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp luôn đối diện với tình trạng thiếu vốn nhưng lại ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng và rơi vào vòng lẩn quẩn của sự thiếu nguồn lực cải tiến. Vòng lẩn quẩn xuất phát từ việc thiếu vốn vật thể, dẫn đến không có tài sản thế chấp vay vốn từ các tổ chức tín dụng để đầu tư cho cải tiến. Khi không cải tiến được thì năng lực cạnh tranh kém, dẫn đến lợi nhuận thấp rồi tiếp tục đối mặt với tình trạng thiếu vốn. Mặt dù vòng lẩn quẩn đó là chung đối với các chủ doanh nghiệp, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp đã phá vỡ “vòng dây” để tìm lối thoát và thực hiện tốt việc cải tiến và nâng ...

doc63 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 990 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp: trường hợp nghiên cứu ngành dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1.1 Đặt vấn đề Cải tiến là cần thiết và rất quan trọng đối với hầu hết doanh nghiệp để nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Nguồn lực cần thiết cho tiến trình cải tiến thường được biết đến là vốn vật chất và trình độ công nghệ, là những nguồn lực hữu hình, rất hạn chế đối với các doanh nghiệp Việt Nam - phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp luôn đối diện với tình trạng thiếu vốn nhưng lại ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng và rơi vào vòng lẩn quẩn của sự thiếu nguồn lực cải tiến. Vòng lẩn quẩn xuất phát từ việc thiếu vốn vật thể, dẫn đến không có tài sản thế chấp vay vốn từ các tổ chức tín dụng để đầu tư cho cải tiến. Khi không cải tiến được thì năng lực cạnh tranh kém, dẫn đến lợi nhuận thấp rồi tiếp tục đối mặt với tình trạng thiếu vốn. Mặt dù vòng lẩn quẩn đó là chung đối với các chủ doanh nghiệp, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp đã phá vỡ “vòng dây” để tìm lối thoát và thực hiện tốt việc cải tiến và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Để truy tìm những giải pháp cải tiến, trước hết ta xem xét đến các nguồn lực hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm vốn vật thể (thiết bị, nhà xưởng, tiền mặt và các nguồn tài nguyên hữu hình khác) và trình độ công nghệ (theo lý thuyết tân cổ điển). Những nguồn lực đó được đến từ hai nguồn chính: nguồn thứ nhất, do chủ doanh nghiệp huy động từ các nhà đầu tư khác; nguồn thứ hai, doanh nghiệp tiếp cận với các tổ chức tín dụng. Nghĩa là chủ doanh nghiệp phải có khả năng huy động nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đó là khả năng tiếp cận nguồn lực của các doanh nghiệp, phần nhiều là nhờ vào nắm bắt được xu thế thị trường, công nghệ, nhu cầu và dự báo được hành vi của các đối thủ cạnh tranh. . Hình 1.1: Sơ đồ vòng lẩn quẩn cải tiến doanh nghiệp Thiếu vốn vật thể Khó tiếp cận nguồn tín dụng Thiếu nguồn lực cải tiến Kém lợi thế cạnh tranh Để nắm bắt được những xu thế trên, đòi hỏi doanh nghiệp nói chung và lãnh đạo doanh nghiệp nói riêng phải có mạng lưới các mối quan hệ với các chủ thể khác trong môi trường kinh doanh: trước hết là mối quan hệ với các chủ thể tạo ra năm áp lực cạnh tranh(() Năm áp lực cạnh tranh theo Porter (1999) là: nhà cung cấp, khách hàng, nội bộ, đối thủ cạnh tranh và đối thủ tiềm ẩn. ) đối với doanh nghiệp; sau đó là mối quan hệ tốt với các cơ quan đơn vị có khả năng giúp doanh nghiệp cải tiến về mặt công nghệ, bao gồm viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan quản lý vĩ mô và cộng đồng. Các mối quan hệ này cần phải duy trì bằng “sự tín cẩn” lẫn nhau và hành sử với nhau theo “chuẩn mực” văn hoá kinh doanh và xã hội. Ba yếu tố mạng lưới kinh doanh, sự tín cẩn và chuẩn mực cấu thành một loại vốn gọi là “vốn xã hội”. Theo thảo luận trên, vốn xã hội được giả thuyết như là một nguồn lực “vô hình” tác động đến sự cải tiến và giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có sự kiểm định giả thuyết này và chưa có một khung lý thuyết chung cho các doanh nghiệp quan tâm đầu tư hợp lý vốn xã hội. Việc xây dựng một khung lý thuyết về vốn xã hội trong doanh nghiệp là một việc làm rất cần thiết để giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ hơn ngoài vốn vật chất và trình độ công nghệ (theo lý thuyết tân cổ điển) còn có vốn xã hội; và điều này thật sự rất cần thiết cho một nền kinh tế như Việt Nam – đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ - vốn dĩ hạn chế về vốn vật chất và trình độ công nghệ. Hơn nữa, ngay cả khi đạt được dồi dào về vốn vật chất và trình độ công nghệ hiện đại, thì cũng có thể giới hạn 3 vấn đề nêu ở bên trên. 1.1.2 Nêu tên đề tài Vấn đề cấp thiết hiện nay là xác định đầy đủ các nguồn lực giải thích sự cải tiến, mà trước đây chỉ được biết đến là vốn vật chất và trình độ công nghệ - vốn dĩ hạn chế đối với phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Đề tài “phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp: trường hợp nghiên cứu ngành dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” nhằm nổ lực tìm kiếm một nguồn lực mới đóng góp vào tiến trình cải tiến của doanh nghiệp. 1.1.3 Câu hỏi nghiên cứu Đề tài được thực hiện nhằm trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau: Vốn xã hội có tác động đến quyết định cải tiến của doanh nghiệp không? Vốn xã hội ảnh hưởng đến mức độ cải tiến của doanh nghiệp như thế nào? MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đo lường vốn xã hội và mức độ cải tiến của doanh nghiệp. Kiểm định thang đo vốn xã hội trong doanh nghiệp. Phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến doanh nghiệp. Phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến của doanh nghiệp. Gợi ý một số giải pháp vĩ mô và vi mô giúp cho doanh nghiệp thực hiện cải tiến thành công bằng các biện pháp sử dụng vốn hội. 1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài trong các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Việc lựa chọn nhóm đối tượng nghiên cứu có cùng ngành nghề và địa bàn hoạt động sẽ hạn chế nhiều yếu tố tác động ngoại vi đến biến nghiên cứu, giúp việc phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến thêm sâu sắc hơn. Một yếu tố khác cũng được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu là thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc đối tượng nghiên cứu có thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh từ 5 năm trở lên, nghĩa là được thành lập từ năm 2001 trở về trước. Bởi vì, sự cải tiến là một quá trình, khoảng thời gian 5 năm là đủ để doanh nghiệp thực hiện xong kế hoạch trung hạn, có thể nhận diện được những vấn đề tồn tại cần phải cải tiến. Hơn nữa, từ năm 2001 đến nay, môi trường kinh doanh đã có nhiều biến động từ các chính sách vĩ mô như Việt Nam gia nhập WTO, hệ thống pháp luật đã sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với các thông lệ quốc tế, tiến trình cổ phần hóa đang được đẩy mạnh, thị trường tài chính phát triển nhanh. Những thay đổi này sẽ tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện cải tiến để tồn tại. 1.3.2 Phạm vi lý thuyết Cải tiến là khái niệm rất rộng thể hiện trên nhiều phương diện của doanh nghiệp, bao gồm cải tiến đầu vào (Input innovation), cải tiến quy trình (Process innovation), cải tiến sản phẩm mới (New-product innovation) và cải tiến chiến lược (Strategy innovation)(() Xem Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop, 2001; Roger, 1998 và Porter, Stern, 1999. ). Để phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến sự cải tiến được sâu sắc, đề tài chỉ giới hạn trong xem xét cải tiến sản phẩm. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được tiến hành thông qua hai giai đoạn chính: (1) nghiên cứu định tính nhằm xây dựng và hoàn thiện bản câu hỏi; (2) nghiên cứu định lượng nhằm thu thập, phân tích dữ liệu khảo sát, cũng như ước lượng và kiểm định các mô hình. Đề tài sử dụng nhiều công cụ và phần mềm hỗ trợ phân tích dữ liệu: các thống kê mô tả, kiểm định thang đo (Cronbach’s alpha) với phần mềm SPSS for Windows 15.0; các ước lượng và kiểm định mô hình kinh tế lượng với phần mềm Eviews 4.1. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Đề tài được thực hiện nhằm truy tìm và chứng minh nguồn lực vốn xã hội đóng góp vào sự cải tiến doanh nghiệp. Qua đó giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với vốn xã hội để bổ sung vào chính sách kinh doanh. Phát hiện đóng góp của vốn xã hội vào tiến trình cải tiến doanh nghiệp là một phát hiện mang tính cách mạng giúp các doanh nghiệp thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn thiếu vốn vật chất và trình độ công nghệ phục vụ cho cải tiến. Việc cụ thể hóa các tiêu chí đo lường vốn xã hội và phân tích tác động của chúng đến sự cải tiến doanh nghiệp không những góp phần tạo ra một khung lý thuyết giúp phân tích chính sách kinh doanh, mà còn gợi ý cho chính phủ đề ra nhiều chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng vốn xã hội để thực hiện cải tiến. KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU Kết cấu báo cáo nghiên cứu bao gồm 6 chương. Chương 1 là giới thiệu chung về sự cần thiết của đề tài, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Chương 2 sẽ trình bày cơ sở lý thuyết, định nghĩa các biến nghiên cứu và phát triển mô hình nghiên cứu. Chương 3 sẽ trình bày thiết kế nghiên cứu, bao gồm: quy trình nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu và những kỹ thuật phân tích dữ liệu. Chương 4 là phân tích mô tả để cung cấp tổng quan về tổng thể nghiên cứu và kiểm định thang đo (Cronbach’s alpha) nhằm xem xét độ tin cậy của các biến định tính đo lường các khái niệm nghiên cứu. Chương 5 là phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp bằng hai mô hình kinh tế lượng: (1) mô hình logit phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến; (2) mô hình hồi quy bội nhằm xem xét ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến doanh nghiệp.Chương 6 sẽ rút ra những kết luận từ kết quả phân tích ở các chương trước, qua đó gợi ý chính sách ở cấp độ quản lý nhà nước và cấp độ doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp sử dụng vốn xã hội phục vụ cải tiến. CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1 GIỚI THIỆU Mục tiêu của Chương 2 là nhằm thiết lập được mô hình nghiên cứu để trả lời hai câu hỏi vốn xã hội có ảnh hưởng đến quyết định cải tiến doanh nghiệp không? và ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến như thế nào? Để trả lời hai câu hỏi đó, chương này sẽ hệ thống các nội dung cơ bản về lý thuyết sự cải tiến và vốn xã hội nhằm phát triển thang đo lường các biến nghiên cứu. Từ đó làm cơ sở để phát triển giả thuyết và xây dựng mô hình nghiên cứu. LÝ THUYẾT VỀ SỰ CẢI TIẾN Để truy tìm các biến đo lường sự cải tiến sản phẩm nhằm phân tích mối quan hệ của chúng với vốn xã hội, cần tiếp cận lý thuyết về sự cải tiến trên hai phương diện cơ bản sau: thứ nhất là tìm hiểu về các khía cạnh cải tiến trong doanh nghiệp và vai trò của chúng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh; thứ hai là hệ thống các lý thuyết nhằm truy tìm động lực và nguồn lực cho cải tiến. Khái niệm và các khía cạnh của sự cải tiến Khái niệm về sự cải tiến được mở ra mạnh mẽ hơn bốn mươi năm qua. Trong suốt những năm của thập niên 1950, khái niệm về sự cải tiến được xem như là kết quả của sự phát triển tri thức riêng lẻ bởi những nhà nghiên cứu và phát minh độc lập. Ngày nay, sự cải tiến được xem như là kết quả của tiến trình tương tác và trao đổi kiến thức lẫn nhau giữa các chủ thể phụ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế. Sự tiến triển khái niệm cải tiến nhìn chung dẫn đến hai hệ quả sau: thứ nhất, sự cải tiến không chỉ là một sự kiện riêng lẻ trong các giải pháp phát triển kỹ thuật mà còn là một quá trình tương tác của toàn xã hội; thứ hai, sự cải tiến không chỉ được đo lường bằng các loại vốn hữu hình (vốn vật thể, vốn tài chính, lao động) mà còn bởi những loại vốn vô hình, đặt biệt là vốn xã hội. Theo Porter and Stern (1999:12) cho rằng sự cải tiến là phép biến đổi trí thức trong sản phẩm mới, quy trình mới, và dịch vụ mới - chứa đựng nhiều hàm lượng công nghệ và khoa học hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Có năm loại biểu hiện sự cải tiến (Rogers, 1998:6): sản phẩm mới hoặc thay đổi sản phẩm cũ; phương pháp sản xuất mới; mở cửa thị trường mới; nguồn lực đầu vào mới; đổi mới tổ chức. Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop (2001) kế thừa tư tưởng của Roger (1998) và Porter, Stern (1999) đã tổng kết sự cải tiến biểu hiện trên bốn phương diện(() Xem phụ lục 3 trình bày chi tiết các phương diện cải tiến doanh nghiệp được tổng kết bởi Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop (2001). ): cải tiến đầu vào (Input innovation), cải tiến quy trình (Process innovation), cải tiến sản phẩm mới (New- product innovation), cải tiến chiến lược (Strategy innovation). Cải tiến sản phẩm nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua được những rủi ro về chu kỳ sản phẩm, đồng thời tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trên thị trường. Nếu không có cải tiến doanh nghiệp sẽ không đáp ứng được các thay đổi đa dạng về nhu cầu của khách hàng, sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh. Vì lẽ đó, cải tiến là điều rất cần thiết đối với hầu hết các doanh nghiệp. Nguồn lực phục vụ cải tiến doanh nghiệp Để truy tìm nguồn lực cho sự cải tiến, Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000) đã tổng kết các nguồn lực cải tiến qua năm lý thuyết cải tiến như sau: (1) sự cải tiến kiến thức kỹ thuật; (2) sự cải tiến nhờ vào lực kéo thị trường; (3) sự cải tiến trong chuỗi liên kết; (4) sự cải tiến trong mạng lưới công nghệ; (5) sự cải tiến trong mạng lưới xã hội. Lý thuyết sự cải tiến kiến thức kỹ thuật (the engineering theories of innovation) cho rằng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển (R&D) trong sản xuất là nguồn gốc nâng cao chất lượng và cải tiến sản phẩm hoặc quy trình sản xuất. Nguồn lực thực hiện cải tiến sản phẩm (Vannevar Bush, 1945 xem Rosenbgerg. N, 1982) là các hình thức vốn hữu hình: vốn công nghệ, vật thể, nhân sự và các hình thức vốn tài chính. Lý thuyết sự cải tiến nhờ vào lực kéo thị trường (the market pull theories of innovation) cho rằng những cải tiến về công nghệ được xem là điều kiện cần nhưng chưa đủ cho việc cải tiến mà cần xem xét đến những vấn đề trong tổ chức như một khoản đảm bảo sự thành công trong cải tiến (Carter và Williams, 1957; Schmoolker, 1966; Myers và Marquis, 1996). Động cơ thiết lập tổ chức quản lý tương thích với những cải tiến về kỹ thuật là những dữ liệu về thị trường. Nói cách khác, lý thuyết này cho rằng sự cải tiến được giải thích bởi những bộ phận cấu thành từ vốn hữu hình và một loại vốn vô hình là dữ liệu thị trường. Lý thuyết sự cải tiến trong chuỗi liên kết (the chain – link theories of innovation): Để tìm cách khắc phục một thực tế cho rằng mối nối giữa tri thức và thị trường không phải tự động và tức thời được giả định trong lý thuyết cải tiến nhờ lực kéo thị trường và kỹ thuật. Một lý thuyết xuất hiện trong hai giai đoạn: bắt đầu những năm 1980, các nhà nghiên cứu như Mowery và Rosenberg (1978) đề nghị rằng cần chú ý hơn nữa mối nối giữa nghiên cứu khoa học với thị trường công nghệ, sản xuất, marketing và bán hàng. Cuối những năm 1980, Von Hippel (1988) đã nhấn mạnh sự chú ý về những thông tin được phát sinh thông qua mối nối giữa doanh nghiệp với người cung cấp và khách hàng của họ. Trong những lý thuyết này, sự cải tiến được giải thích bởi bộ phận cấu thành là các hình thức vốn vật thể kết hợp với một hình thức vốn vô hình là: dữ liệu về khách hàng và nhà cung cấp được thiết lập để trở thành thông tin phục vụ cho những nhà cải cách. Lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới công nghệ (the technological network theories of innovation): Vào cuối những năm 1980 và trong suốt những năm 1990, lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới công nghệ đã được phát triển bởi một nhóm các học giả với tên gọi “sự cải tiến hệ thống (Systems of innovations)” (Lundvall, 1988, 1992, 1995; Nelson, 1993; Noisi et al, 1993; Rothwell, 1992; Edquits, 1997). Những người ủng hộ lý thuyết này giả định rằng sự cải tiến của doanh nghiệp được liên kết đa dạng với các chủ thể khác thông qua mạng lưới cộng tác và trao đổi thông tin. Quan điểm này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nguồn thông tin bên ngoài công ty: khách hàng, nhà cung cấp, nhà tư vấn, cơ quan chính phủ, viện nghiên cứu chính phủ, trường đại học, nghĩa là nhấn mạnh đến sự tương tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và những nguồn thông tin bên ngoài. Ở một khía cạnh khác, sự phát triển và cải thiện quá trình sản xuất và sản phẩm phải tiến hành đồng thời với tiêu chuẩn hoá công nghệ (lý thuyết sự cải tiến kiến thức kỹ thuật), tương thích với thị trường và mạng lưới kinh doanh. Với lý thuyết về mạng lưới công nghệ, sự cải tiến được giải thích bởi sự kết hợp giữa các hình thức vốn hữu hình với một hình thức của vốn vô hình là mạng lưới công nghệ. Lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới xã hội (the social network theories of innovation): Lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới xã hội dựa vào hai quan điểm cũ và một quan điểm mới. Quan điểm cũ cho rằng sự cải tiến được xác định bởi nghiên cứu trong khoa học kỹ thuật (lý thuyết kiến thức khoa học kỹ thuật) và trong quá trình tương tác giữa doanh nghiệp và các chủ thể khác (lý thuyết cải tiến mạng lưới công nghệ). Quan điểm mới cho rằng trí thức là yếu tố cốt yếu thúc đẩy sự cải tiến. Tầm quan trọng của trí thức tăng từ yếu tố sản xuất và xác định sự cải tiến qua quá trình tích luỹ tri thức công nghệ theo thời gian và sử dụng những công nghệ mới được công bố trên toàn thế giới (Arundel et al, 1998; Cowan and Foray, 1998). So với lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới công nghệ, lý thuyết mạng lưới xã hội về sự cải tiến nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hơn công cụ kỹ thuật và tầm quan trọng của tri thức hơn mạng lưới công nghệ như những yếu tố vô hình cốt yếu. Phát triển sự cải tiến dựa trên tri thức phụ thuộc vào khả năng sử dụng công nghệ và công cụ quan hệ (Lengrand và Chatrie, 1999). Những công cụ công nghệ không tạo được khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp vì nó dễ dàng có được. Lợi thế cạnh tranh nằm trong những công cụ quan hệ: đó là phương pháp kinh doanh cả môi trường bên trong và bên ngoài công ty. Cùng một mạng lưới hợp tác, Lengrand và Chatrie (1999) cho rằng mạng lưới kiến thức xuất hiện như một hình thức mới của mạng lưới hợp tác - nó làm tăng thêm và cao hơn mạng lưới công nghệ, chúng được định nghĩa như một hình thức mạng lưới hợp tác đầu tiên. Sự tiến hoá từ lý thuyết mạng lưới công nghệ đến mạng lưới xã hội của sự cải tiến đã dẫn đến thúc đẩy chuyển thông tin thành kiến thức, thông tin kết nối với sự phát triển hoặc cải thiện sản phẩm hoặc quá trình sản xuất. Sự cải tiến dựa vào kiến thức không phụ thuộc vào một mà nhiều loại tri thức. Hơn nữa nó phụ thuộc vào sự hội tụ của nhiều loại tri thức đã bị cản trở bởi nhiều loại chủ thể khác nhau. Theo Lengrand và Chatrie (1999:14) cho rằng khả năng sản xuất không còn xem như một “khả năng sản xuất cộng thêm của hoạt động” mà đúng hơn là “hệ thống khả năng sản xuất của các hoạt động” ở đó khả năng cạnh tranh của một công ty phụ thuộc vào khả năng sản xuất của “bề mặt chung” hoặc sự tương tác của nó. Những tiêu chuẩn mới này phụ thuộc vào sự tổ chức mới và chức năng mô hình, ở đó sự hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào mật độ và sự thích hợp của các quan hệ và sự hợp tác giữa các chủ thể trong hệ thống sản xuất (những công ty khác, nhà cung cấp, nhà tài chính, viện nghiên cứu, giáo dục, các cơ quan phát triển vùng) và thông qua mạng lưới hợp tác. Như vậy, các nguồn lực phục vụ cải tiến ban đầu chỉ được hiểu là vốn hữu hình (vốn vật chất và trình độ công nghệ) đã được các nhà kinh tế phát triển và bổ sung bởi các nguồn vốn vô hình, đặc biệt là vốn xã hội được tổng kết ở bảng 2.1. Bảng 2.1: Tổng kết lý thuyết về nguồn lực phục vụ cải tiến Lý thuyết cải tiến Nguồn lực cải tiến Đại diện tiêu biểu Lý thuyết sự cải tiến kiến thức kỹ thuật (the engineering theories of innovation). Vốn hữu hình, bao gồm công nghệ, lao động và tài chính. Vannevar Bush, 1945 Lý thuyết sự cải tiến nhờ vào lực kéo thị trường (the market pull theories of innovation). Vốn hữu hình kết hợp với một hình thức vốn vô hình là dữ liệu thị trường. Carter và Williams, 1957; Schmoolker, 1966; Myers và Marquis, 1996 Lý thuyết sự cải tiến trong chuỗi liên kết (the chain – link theories of innovation). Vốn hữu hình kết hợp với một hình thức vốn vô hình là dữ liệu về khách hàng và nhà cung cấp. Mowery và Rosenberg (1978); Von Hippel (1988) Lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới cộng nghệ (the technological network theories of innovation). Sự kết hợp giữa các hình thức vốn hữu hình với một hình thức của vốn vô hình là mạng lưới công nghệ. Lundvall (1988, 1992, 1995); Nelson (1993); Noisi (1993); Rothwell (1992); Edquits (1997); Lý thuyết sự cải tiến trong mạng lưới xã hội (the social network theories of innovation). Sự kết hợp giữa vốn hữu hình và vốn vô hình là mạng lưới xã hội. Lengrand và Chatrie (1999). 2.2.3 Đo lường sự cải tiến trong nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xem xét khía cạnh cải tiến sản phẩm mới của doanh nghiệp. Theo Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop (2001) cải tiến sản phẩm mới được đo lường bằng các chỉ tiêu sau: Chi tiêu cho R&D được tính bằng phần trăm (%) trên tổng chi phí - chỉ ra mức độ cam kết của doanh nghiệp phải cải tiến. Chi phí nghiên cứu thị trường được tính bằng phần trăm (%) trên tổng chi phí - chỉ ra mức độ mà một doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tìm kiếm dữ liệu về nhu cầu khách hàng. Số loại công nghệ mà doanh nghiệp áp dụng – chỉ ra mức độ đầu tư cho công tác cải tiến sản phẩm của doanh nghiệp được đề xuất bởi Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000), bao gồm 21 công nghệ đang được áp dụng trong các ngành công nghiệp nhẹ (trong đó có ngành dệt may) trên thế giới hiện nay (sẽ được trình bày chi tiết tại mục 2.4.2). Phần trăm doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên tổng doanh thu của doanh nghiệp - biểu hiện kết quả của sự cải tiến sản phẩm. Trong số các biến số đo lường sự cải tiến do Mllé Terziovski và cộng sự (2000) đề xuất hai biến tỷ lệ chi phí cho nghiên cứu phát trển và chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí chưa biểu hiện được kết quả cải tiến, mà chúng chỉ biểu hiện một phần nổ lực của doanh nghiệp thực hiện cải tiến. Biến tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên tổng doanh thu là biểu hiện rõ nhất về kết quả cải tiến, nên chúng được chọn để đo lường mức độ cải tiến trong mô hình nghiên cứu của đề tài. 2.3 LÝ THUẾT VỀ VỐN XÃ HỘI 2.3.1 Hệ thống lý thuyết về vốn xã hội Vốn xã hội trong doanh nghiệp tồn tại với những hình thức khác nhau như sự tín cẩn (trust), sự có đi có lại hay sự hỗ tương (reciprocity), quy tắc (norms) và mạng lưới xã hội (networks) (Colleman, 2000; Dasgupta và Serageldin, 2000; Fountain, 1998; Lesser, 2000; Putnam, 1995). Sự tín cẩn (trust) được phát triển qua thời gian trên cở sở nhiều lần làm ăn với nhau. Khi doanh nghiệp được sự tín cẩn cao từ các đối tác kinh doanh, khi làm ăn với nhau họ sẽ không mất công sức, thời giờ (vốn là tài nguyên không nên phí phạm) để theo dõi và kiểm tra nhau, thay vào đó họ dành nhiều thời gian, công sức để tập trung nghiên cứu các giải pháp cải tiến. Nhờ vào sự tín cẩn lẫn nhau nên doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ (reciprocity) và hành xử (norms) theo chuẩn mực từ các chủ thể khác, tạo nên nghĩa vụ lâu dài với đối tác. Vốn xã hội còn biểu hiện dưới dạng mạng lưới (networks) liên kết của doanh nghiệp với các chủ thể khác trong môi trường kinh doanh, nhờ mạng lưới này giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các thông tin để thực hiện cải tiến doanh nghiệp. Giống như các loại vốn khác, vốn xã hội cần thiết cho sản xuất, không phải dễ dàng thuyên chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác mà chỉ có thể chuyên biệt một hoạt động nhất định, mỗi loại chỉ có ích cho hoạt động này mà có hại cho hoạt động khác. Song vốn xã hội có nhiều khác biệt, vốn vật thể thì hoàn toàn hữu hình bởi nó nằm trong những hình thức vật thể trước mắt; vốn con người thì khó thấy hơn bởi nó nằm trong những kỹ năng và tri thức cá nhân; vốn xã hội thì khó thấy nhất bởi nó tìm tàng trong các mối liên hệ giữa người với người. Đóng góp của vốn xã hội trong tiến trình cải tiến là cắt giảm chi phí giao dịch giữa các doanh nghiệp làm ăn với nhau và giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác trong nền kinh tế, đáng kể nhất là chi phí thông tin, sự mặt cả, chi phí thủ tục hành chính (Maskell, 1999). Vì vậy, nếu doanh nghiệp có hàm lượng vốn xã hội lớn sẽ nâng cao sức cạnh trạnh, mở rộng qui mô sản xuất. Vốn xã hội sẽ giúp giảm những hành động phi pháp, thông tin chính xác tạo ra sự tình nguyện gia nhập các hiệp hội, hỗ trợ thông tin trong cộng đồng doanh nghiệp. Vốn xã hội được cải thiện sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá và phân công lao động (Maskell, 1999). Đo lường vốn xã hội trong nghiên cứu Trong nghiên cứu này, khái niệm vốn xã hội được đo lường bằng các đặc trưng trong khái niệm vốn xã hội (như đã trình bày ở mục 2.3.1) là sự tín cẩn, mạng lưới và sự tương hỗ lẫn nhau của doanh nghiệp với các chủ thể trong môi trường hoạt động kinh doanh. Khái niệm vốn xã hội trước hết được đo lường bằng các nhân tố thể hiện cấu trúc xã hội(() Thang đo được đề xuất bởi Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000). ) như: tài sản mạng lưới (network assets), tài sản tham gia (participation assets), tài sản quan hệ (relational assets); kế đến là xác định những nhân tố đặc trưng tiềm ẩn của khái niệm vốn xã hội như: tài sản tín cẩn (trust assets), áp lực cạnh tranh (pressure competition), tài sản thị trường (market assets) và tín dụng doanh nghiệp. Tài sản mạng lưới: Được phát triển từ đặc trưng mạng lưới của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bằng nhận thức của doanh nghiệp về mức độ quan trọng của mạng lưới kinh doanh (nguồn thông tin về khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, đơn vị tư vấn, các đơn vị kinh doanh trong cùng tập đoàn), mạng lưới nghiên cứu (nguồn thông tin từ hội chợ/triển lãm, hội thảo chuyên đề với các chuyên gia và tạp chí chuyên ngành, internet và dữ liệu ngân hàng máy tính, thông tin về các chương trình của chính phủ, tài liệu về bằng phát minh sáng chế) và mạng lưới thông tin (nguồn thông tin từ các tổ chức nghiên cứu, tổ chức chuyển giao công nghệ, các trường đại học, cao đẳng). Đơn vị đo lường là thang đo thứ bậc, số 1 gán với mức độ không quan trọng đến 5 là rất quan trọng. Tài sản tham gia: được phát triển từ đặc trưng mạng lưới của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bởi mức độ tham gia các cuộc họp, hội thảo, hiệp hội và mạng lưới kinh doanh ở các cấp độ không gian. Đơn vị đo lường là thang đo thứ bậc, số 1 gán với mức độ rất ít tham gia đến số 5 rất thường xuyên tham gia. Tài sản quan hệ: được phát triển dựa trên đặc trưng mạng lưới của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bởi mức độ quan hệ với các chủ thể trong mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp như các chuyên gia, nhà cung cấp, viện nghiên cứu và các trường đại học. Đơn vị đo lường là thang đo thứ bậc, số 1 gán với mức độ không thường xuyên đến 5 là quan hệ rất thường xuyên. Tài sản tín cẩn: được phát triển từ đặc trưng tín cẩn và sự tương hỗ của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bằng sự nhận thức của doanh nghiệp về mức độ quan trọng của sự tín cẩn với khách hàng, nhà cung cấp, các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. Đơn vị đo lường là thang đo thứ bậc, số 1 gán với mức độ không quan trọng đến 5 là rất quan trọng. Tài sản cạnh tranh: được phát triển dựa trên đặc trưng mạng lưới của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bởi mức độ nhận thức của doanh nghiệp về nhận dạng các áp lực cạnh tranh để thúc đẩy cải tiến, bao gồm khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp gia nhập ngành. Đơn vị đo lường là thang đo thứ bậc, số 1 gán với mức độ không đồng ý đến 5 là rất đồng ý cho rằng các áp lực cạnh tranh trên ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tín dụng doanh nghiệp: được phát triển từ đặc trưng của tín cẩn và sự tương hỗ của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bằng tỷ lệ vốn vay trên tổng tài sản. Tỷ số này cho biết khả năng vay vốn của doanh nghiệp hay khả năng huy động vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư. Tỷ số này nhằm đánh giá mức độ tiếp cận với các tổ chức tín dụng của doanh nghiệp. Tài sản thị trường: được phát triển từ đặc trưng mạng lưới của khái niệm vốn xã hội, được đo lường bằng chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm doanh thu xuất khẩu từ hàng FOB. Hàng FOB (freight on board) là hàng xuất khẩu theo điều kiện giao hàng ngay trên tàu, nhằm chỉ những hàng hóa do doanh nghiệp tự sản xuất từ khâu thiết kế mẫu, mua nguyên vật liệu và bán trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các đại lý nước ngoài. Việc một doanh nghiệp dệt may Việt Nam tăng được tỷ trọng doanh số xuất khẩu hàng FOB là một biểu hiện cho mạng lưới kinh doanh rộng và nhận được nhiều sự tín cẩn của các khách hàng quốc tế. Do vậy, chúng được xem như một thành phần của vốn xã hội. 2.4 CÁC THANG ĐO LƯỜNG BIẾN NGHIÊN CỨU 2.4.1 Thang đo vốn xã hội Dựa vào cơ sở lý thuyết đã trình bày, thang đo vốn xã hội được đo lường bằng các tài sản tham gia, tài sản mạng lưới, tài sản tín cẩn, tài sản quan hệ,tài sản cạnh tranh, tín dụng doanh nghiệp và tài sản thị trường. Trong đó có hai biến tài sản thị trường và tín dụng doanh nghiệp đo bằng thang đo tỷ lệ, các biến còn lại đo bằng thang đo thứ bậc. Tài sản tham gia (TG) - Mức độ tham gia các cuộc họp, hội thảo, triển lãm hoặc mạng lưới sản xuất ở các cấp độ: Cấp độ quận/huyện TG1 Cấp độ tỉnh, thành phố TG2 Cấp độ quốc gia TG3 Cấp độ quốc tế TG4 Tài sản mạng lưới (ML) - Mức độ quan trọng của các nguồn thông tin sau đây phục vụ cho sự cải tiến sản phẩm, quy trình sản xuất mới: Khách hàng ML1 Nhà cung cấp ML2 Đối thủ cạnh tranh ML3 Công ty tư vấn ML4 Các công ty khác trong cùng tập đoàn ML5 Hội chợ/ triển lãm ML6 Hội họp, hội thảo với chuyên gia và tạp chí chuyên ngành ML7 Internet và dữ liệu của ngân hàng máy tính ML8 Thông tin về các chương trình của chính phủ ML9 Tài liệu về bằng phát minh sáng chế ML10 Tổ chức nghiên cứu công ML11 Tổ chức chuyển giao công nghệ ML12 Các trường đại học, cao đẳng ML13 Tài sản tín cẩn (TC) - Mức độ quan trọng của sự tín cẩn các mối quan hệ: Với khách hàng và nhà cung cấp TC1 Với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ với các vấn đề liên quan đến sự cải tiến doanh nghiệp TC2 Tài sản quan hệ (QH) - Mức độ quan hệ thường xuyên với các chủ thể sau: Với các chuyên gia và các nhà quản lý ở địa phương QH1 Với các chuyên gia và các nhà quản lý trong các cơ quan chính phủ về phát triển kinh tế QH2 Với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học và chính phủ trong lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp QH3 Với các khách hàng và các nhà cung cấp QH4 Tài sản cạnh tranh (CT) - Mức độ đồng ý của lãnh đạo doanh nghiệp với các câu phát biểu sau: Khách hàng của tôi có thể dễ dàng tìm kiếm một sự thay thế sản phẩm từ đối thủ cạnh tranh của tôi CT1 Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới là một nguy cơ liên tục đối với doanh nghiệp CT2 Cố gắng giữ nhân viên và công nhân làm việc đủ năng lực CT3 Sản phẩm của chúng tôi nhanh chóng lỗi thời CT4 Công nghệ sản xuất tiến hoá nhanh chóng CT5 Tín dụng doanh nghiệp (TD) - Tỷ lệ phần trăm vốn vay trên tổng tài sản doanh nghiệp. Tài sản thị trường (TT) - Tỷ lệ phần trăm doanh số xuất khẩu từ hàng FOB năm 2007. 2.4.2. Thang đo sự cải tiến Dựa vào lý thuyết cải tiến, thang đo mức độ cải tiến sản phẩm thể hiện qua các chỉ tiêu sau: Tỷ lệ % chi phí Nghiên cứu & Phát triển (R&D) trên tổng chi phí RD Tỷ lệ % chi phí nghiên cứu thị trường trên doanh thu NCTT Phần trăm doanh số từ sản phẩm mới trên tổng doanh số DTCT Tổng số nhân viên làm việc cho bộ phận R&D NVRD Số công nghệ doanh nghiệp đang áp dụng SCN (1)  Dùng máy vi tính hỗ trợ cho thiết kế/kỹ thuật (Computer Aided Design/Engineering (CAD/CAE)). (2)  Dùng máy tính hỗ trợ cho thiết kế/sản xuất (Computer Aided Design /Manufacturing (CAD/CAM)). (3)  Công nghệ đồng tiến hoá (Modeling or simulation technologies). (4)  Điều khiển điện tử các File CAD. (5)  Công nghệ sản xuất linh hoạt từng phần/hệ thống (FMC/FMS) (Flexible manufacturing cells or systems). (6)  Cơ chế hoặc quy trình sản xuất theo chương trình điều khiển logic (PLC) (Programmable logic Control machines or processes). (7)  Sử dụng kỹ thuật la-de. (8)  Kết hợp Robot với khả năng con người. (9)  Robot thay thế toàn bộ con người. (10) Hệ thống khởi động nhanh. (11) Gia công cơ khí tốc độ cao. (12) Công nghệ khuôn mẫu hệ thống chính xác (Near net shape technology). (13) Công nghệ kiểm sóat quá trình sản xuất. (14) Hệ thống bảo quản và phục hồi tự động. (15) Hệ thống tự động kiểm tra/thử nghiệm trước đầu vào và đầu ra. (16) Hệ thống cảm biến tự động kiểm tra/thử nghiệm đầu vào và đầu ra. (17) Kết nối mạng nội bộ (LAN) trong kỹ thuật và sản xuất. (18) Mạng máy tính trên diện rộng toàn công ty (Intranet và WAN). (19) Mạng máy tính liên kết giữa các doanh nghiệp (Extranet và EDI). (20) Kế hoạch sản xuất (PRPII) và kế hoạch kinh doanh (ERP). (Manufacturing Resource Planning and Entreprise Resource Planning). (21) Dùng máy tính để điều khiển sàn nhà máy (control of the factory floor). 2.4.3. Các thang đo khác thể hiện quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Ngoài ra đề tài còn sử dụng các tiêu thức đo lường quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: doanh thu, lợi nhuận, tổng tài sản, lợi nhuận trên tổng tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và tổng số nhân viên. 2.5 PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.5.1 Quy trình phát triển giả thuyết nghiên cứu Hai câu hỏi nghiên cứu của đề tài là vốn xã hội có tác động đến quyết định cải tiến doanh nghiệp không? Nếu có, thì vốn xã hội ảnh hưởng đến mức độ cải tiến như thế nào? Để trả lời hai câu hỏi này, hai giả thuyết được đặt ra: (1) Giả thuyết 1 là vốn xã hội có tác động đến quyết định cải tiến của doanh nghiệp; (2) Giả thuyết 2 là vốn xã hội có ảnh hưởng đến mức độ cải tiến trên tổng thể doanh nghiệp. Quy trình phát triển và kiểm định hai giả thuyết nghiên cứu trên được thực hiện theo sơ đồ hình 2.1. Trước hết, từ tổng thể nghiên cứu (N), tiến hành điều tra với tổng thể mẫu (n) bao gồm những doanh nghiệp có thực hiện cải tiến (n1) và những doanh nghiệp không thực hiện cải tiến (n2), thực hiện phép kiểm định giả thuyết 1 vốn xã hội có tác động đến quyết định cải tiến. Nếu giả thuyết 1 sai, nghĩa là vốn xã hội không có tác động đến quyết định cải tiến doanh nghiệp, tiến trình phân tích sẽ kết thúc. Nếu giả thuyết 1 đúng (nghĩa là vốn xã hội có tác động đến quyết định cải tiến), tiến trình phân tích sẽ được thực hiện tiếp theo bằng cách chọn ra những doanh nghiệp có thực hiện cải tiến (n1) và xem xét ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến sản phẩm. Từ đó rút ra kết luận và gợi ý chính sách cải tiến doanh nghiệp dưới góc độ vốn xã hội. Hình 2.1: Quy trình phát triển và kiểm định giả thuyết nghiên cứu Kiểm định giả thuyết 1: Vốn xã hội có ảnh hưởng đến quyết định cải tiến (mô hình logit). Số quan sát n = n1 + n2 Kiểm định giả thuyết 2: Vốn xã hội có ảnh hưởng đến mức độ cải tiến sản phẩm (mô hình hội quy bội). Số quan sát n1 Kết luận và gợi ý chính sách Đúng Sai Ghi chú: n là tổng thể mẫu nghiên cứu, n1 là số doanh nghiệp có thực hiện cải tiến, n2 là số các doanh nghiệp không cải tiến (n=n1+n2). 2.5.2 Mô hình nghiên cứu (1) Mô hình kiểm định giả thuyết 1 xem xét ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến như sau: Trong đó: Logit(Pi/(1-Pi)) là logarít cơ số e của tỷ lệ xác suất doanh nghiệp cải tiến trên xác suất không cải tiến; là các hệ số hồi quy; Các biến độc lập TC là tài sản tham gia, ML là tài sản mạng lưới, TC là tài sản tín cẩn, TT là tài sản thị trường, QH là tài sản quan hệ, TD là tín dụng doanh nghiệp, CT là tài sản cạnh tranh được đo lường như đã định nghĩa ở mục 2.4. Dấu kỳ vọng đều của các hệ số hồi quy đứng trước các biến độc lập đều dương, tức dấu “+”. (2) Mô hình kiểm định giả thuyết 2 là vốn xã hội có ảnh hưởng đến mức độ cải tiến sản phẩm là mô hình hồi quy bội được thiết kế như sau: + ei Doanh thu từ bán sản phẩm cải tiến Tổng doanh thu của toàn doanh nghiệp DTCT = Trong đó: Biến phụ thuộc là tỷ lệ doanh thu cải tiến trên tổng doanh thu được xác định bởi công thức sau: Các biến độc lập ML, TT, CT,TG, QH, TD, TC là các biến thuộc thành phần của vốn xã hội như định nghĩa ở bên trên. Các biến NVRD là số nhân viên làm việc trong bộ phận nghiên cứu phát triển, NCTT là tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí, RD là tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí là những biến đo lường nguồn lực hữu hình tác động trực tiếp vào sự cải tiến. Dầu kỳ vọng của tất cả các biến độc lập đều dương, tức dấu “+”. Các biến nghiên cứu của hai mô hình hình được tóm tắt ở bảng 2.2. Bảng 2.2: Tóm tắt các biến nghiên cứu chủ yếu Biến nghiên cứu Ký hiệu Loại thang đo Đơn vị tính Dấu kỳ vọng(a) Thang đo gốc Tài sản mạng lưới ML Thứ bậc Bậc + Réjean. L (2000). Tài sản tín cẩn TC Thứ bậc Bậc + Réjean. L (2000). Tài sản tham gia TG Thứ bậc Bậc + Réjean. L, (2000). Tài sản quan hệ QH Thứ bậc Bậc + Réjean. L, (2000). Tài sản cạnh tranh CT Thứ bậc Bậc + Réjean. L, (2000). Tín dụng doanh nghiệp TD Tỷ lệ % + Biến mới đưa vào Tài sản thị trường TT Tỷ lệ % + Biến mới bổ sung Số công nghệ SCN Số lượng Loại + Réjean. L (2000); Tỷ lệ doanh thu cải tiến trên tổng doanh thu(b) DTCT Tỷ lệ % Milé Terziovski, (2001). Tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí NCTT Tỷ lệ % + Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop (2001). Tổng số nhân viên nghiên cứu phát triển NVRD Số lượng người + Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000). Tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí RD Tỷ lệ % + Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000). Ghi chú: (a) Dấu kỳ vọng chung cho cả hai mô hình logit và mô hình hội quy bội. (b) Là biến phụ thuộc mô hình hội quy bội. 2.6 TÓM TẮT Hệ thống lý thuyết về sự cải tiến đã cho thấy vai trò đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến. Từ việc bàn luận các lý thuyết về sự cải tiến đã chọn ra được các biến đo lường sự cải tiến sản phẩm là tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên doanh thu. Việc thảo luận các lý thuyết về vốn xã hội đã xây dựng được các thang đo lường khái niệm vốn xã hội là tài sản mạng lưới, tham gia, tín cẩn, thị trường, tín dụng doanh nghiệp và tài sản cạnh tranh. Để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu của đề tài là vốn xã hội có ảnh hưởng đến quyết định cải tiến không? và vốn xã hội ảnh hưởng đến mức độ cải tiến sản phẩm như thế nào? Hai giả thuyết được đặt ra: (1) vốn xã hội có ảnh hưởng đến quyết định cải tiến; (2) vốn xã hội có ảnh hưởng đến mức độ cải tiến. Việc kiểm định giả thuyết 1 được tiến hành trên toàn bộ tổng thể mẫu bằng mô hình logit với biến phụ thuộc là tỷ lệ xác suất doanh nghiệp có cải tiến trên doanh nghiệp không cải tiến, biến độc lập là các thành phần (nhân tố) đo lường vốn xã hội. Giả thuyết 2 chỉ được kiểm định khi giả thuyết 1 đúng, được tiến hành trên những doanh nghiệp (quan sát) có thực hiện cải tiến bằng mô hình hồi quy bội với biến phụ thuộc là tỷ lệ doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên tổng doanh thu và biến độc lập là các thành phần của vốn xã hội và các biến số khác có vai trò làm đòn bẩy cho sự cải tiến là tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí, tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí và số nhân viên làm công tác nghiên cứu phát triển. Dấu kỳ vọng của các hệ số hồi quy đứng trước biến độc lập trong cả hai mô hình đều dương (dấu “+”). CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 3.1 GIỚI THIỆU Chương 2 đã phân tích các lý thuyết về mối tương quan giữa sự cải tiến và vốn xã hội, qua đó phát triển các thang đo lường khái niệm sự cải tiến và vốn xã hội. Chương này sẽ trình bày quy trình nghiên cứu, từ thiết kế bản câu hỏi sơ bộ đến hòan chỉnh bản câu hỏi, tính toán cỡ mẫu, kỹ thuật chọn mẫu và phương pháp phân tích dữ liệu. 3.2 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU Từ mục tiêu nghiên cứu và cơ sở lý thuyết, tác giả xây dựng bản phỏng vấn sơ bộ lần 1 (xem phụ lục 1). Tuy nhiên, bản phỏng vấn sơ bộ lần 1 với các thang đo được kế thừa từ các trường hợp nghiên tương tự(() Kế thừa thang đo được đề xuất bởi Réjean. L, Nabil. A và Moketar (2000) trường hợp nghiên cứu các doanh nghiệp ở Canada. ) và các thang đo mới được bổ sung chưa qua khảo sát thực nghiệm nên có thể chưa phù hợp đối với tình hình của Việt Nam. Vì vậy, bước tiếp theo là nghiên cứu định tính với kỹ thuật thảo luận tay đôi với 10 nhà quản lý doanh nghiệp trong ngành dệt may. Sau khi nghiên cứu định tính bản phỏng vấn sơ bộ lần 2 được phát triển và sử dụng phỏng vấn thử 20 doanh nghiệp để tiếp tục hiệu chỉnh. Kết quả bước này là xây dựng bản phỏng vấn chính thức (xem phụ lục 2) dùng cho nghiên cứu định lượng. Quy trình nghiên cứu được phác họa ở hình 3.1. Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu Cơ sở lý thuyết ( Vốn xã hội và sự cải tiến) Bản phỏng vấn sơ bộ 1 Nghiên cứu định tính (Thảo luận tay đôi, n=10) Bản phỏng vấn sơ bộ 2 Khảo sát thử (Để hiệu chỉnh bản phỏng vấn, n=20) Bản phỏng vấn chính thức Nghiên cứu định lượng (n=170): Khảo sát 170 giám đốc doanh nghiệp. Mã hóa và nhập liệu. - Làm sạch dữ liệu. Kiểm định Cronbach’s Alpha. Mô hình kinh tế lượng (mô hình logit, hồi quy bội). Viết báo cáo 3.3 ĐIỀU TRA CHỌN MẪU Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 905 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có đơn đặt hàng thường xuyên(() Doanh nghiệp hoạt động có đơn đặt hàng thường xuyên nhằm phân biệt với doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhưng ít có đơn đặt hàng. Nguồn tin trên do Trường Đào tạo Dệt may Quốc tế (IGTC) cung cấp tháng 11 năm 2007. ). Nếu căn cứ vào tổng tài sản của doanh nghiệp thì có 107 doanh nghiệp lớn và 795 doanh nghiệp vừa và nhỏ(() Phân loại doanh nghiệp dựa vào tổng tài sản: Doanh nghiệp được gọi là lớn nếu có tổng tài sản trên 100 tỷ, doanh nghiệp nhỏ có tổng tài sản thấp hơn 100 tỷ (phân loại của Hiệp hội Dêt may Việt Nam năm 2006). ). Mẫu điều tra được chọn ra từ tổng thể 905 doanh nghiệp dựa trên những đặc trưng sau: Thứ nhất, đơn vị của mẫu phải được chọn từ tổng thể 905 doanh nghiệp có đại diện của hai nhóm doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai, số cá thể thuộc các nhóm doanh nghiệp trong mẫu được lấy theo tỷ lệ cá thể trong tổng thể. Tỷ lệ này được tính toán như sau: Bảng 3.1: Tỷ lệ các nhóm doanh nghiệp Phân loại doanh nghiệp Số doanh nghiệp Tỷ lệ Doanh nghiệp lớn 107 12% Doanh nghiệp vừa và nhỏ 795 88% Tổng 905 100% Nguồn: Thống kê của trường Đào tạo Dệt may Quốc tế -IGTC. Thứ ba, kỹ thuật chọn mẫu được thực hiện bằng cách gửi bản câu hỏi cho lãnh đạo doanh nghiệp (Tổng Giám đốc, hoặc Phó Tổng Giám đốc doanh nghiệp) trước một vài ngày bằng thư điện tử (email) hoặc gửi trực tiếp. Sau đó phỏng vấn viên sẽ hẹn gặp để nhận lại thông tin phản hồi và kiểm tra hoàn chỉnh bản câu hỏi. Thư tư, mục tiêu nghiên cứu nhằm ước lượng tỷ lệ, đề tài thực hiện điều tra thử nghiệm 50 doanh nghiệp để tính tỷ lệ doanh nghiệp có cải tiến (p) và phạm vi sai số cho phép sai số chuẩn (SEp). Số quan sát tối thiểu được tính bởi công thức sau: Nguồn: Paul Newbold, 1995, Satistics for Business and Economics, Prentice Hall International, Inc. Trong đó: n là cỡ mẫu. là hệ số tin cậy với mức ý nghĩa =5%. p là tỷ lệ doanh nghiệp có thực hiện cải tiến, q là tỷ lệ doanh nghiệp không thực hiện cải tiến (q=1-p), N là tổng thể (N=905). (SEp)2 là phạm vi sai số có thể chấp nhận được. Với phạm vi sai số nhỏ hơn 8%, độ tin cậy 95% và kết quả điều tra thử nghiệm 50 doanh nghiệp ta xác định được tỷ lệ doanh nghiệp có thực hiện cải tiến là 47%. Cỡ mẫu tối thiểu cần phải điều tra là: (doanh nghiệp). Đề tài điều tra 170 doanh nghiệp lớn hơn cỡ mẫu tối thiểu cần phải điều tra. Thứ năm, tính toán số đơn vị mẫu từ tổng thể mẫu phân theo các nhóm doanh nghiệp như bảng 3.2. Trong 170 doanh nghiệp điều tra có 20 doanh nghiệp lớn và 150 doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bảng 3.2: Số mẫu và tỷ lệ chọn mẫu phân theo các nhóm Loại doanh nghiệp (1) Số doanh nghiệp (2) Tỷ lệ (3) Tổng số mẫu (4) Số đơn vị mẫu (5)=(3)x(4) Doanh nghiệp lớn 107 12% 170 20 Doanh nghiệp vừa và nhỏ 795 88% 170 150 Tổng 905 100% 170 Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên mục tiêu nghiên cứu. 3.4 KỸ THUẬT PHÂN TÍCH DỮ LIỆU Sau khi thu thập thông tin, các bản phỏng vấn được xem xét và loại đi những bản phỏng vấn không đạt yêu cầu; sau đó mã hóa, nhập liệu và làm sạch dữ liệu bằng phần mềm SPSS for Windows 15.0 Với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS, thực hiện phân tích dữ liệu thông qua các công cụ thống kê mô tả, bảng tần số, đồ thị và kiểm định thang đo (Cronbach’s alpha). Các ước lượng và kiểm định mô hình kinh tế lượng với sự hỗ trợ của phần mềm Eview 4.1. 3.5 TÓM TẮT Quy trình nghiên cứu được tiến hành từ cơ sở lý thuyết về vốn xã hội và sự cải tiến để xây dựng bản câu hỏi sơ bộ lần 1, kế tiếp là thảo luận tay đôi với 10 lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng bản câu hỏi sơ bộ lần 2, sau đó phỏng vấn thử 20 doanh nghiệp để hoàn chỉnh bản câu hỏi. Để xác định cỡ mẫu, đề tài thực hiện điều tra trước 50 doanh nghiệp nhằm xác định tỷ lệ doanh nghiệp có thực hiện cải tiến là 47%, với phạm vi sai số là 8%, độ tin cậy là 95% thì cỡ mẫu yêu cầu tối thiểu là 149 doanh nghiệp. Đề tài thực hiện điều tra 170 doanh nghiệp là lớn hơn cỡ mẫu tối thiểu yêu cầu, trong đó có 20 doanh nghiệp lớn và 150 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kỹ thuật chọn mẫu bằng phương pháp gửi trước bản câu hỏi và nhận lại thông tin sau. Số liệu thu thập được mã hóa, nhập liệu, làm sạch dữ liệu, phân tích thống kê mô tả và kiểm định thang đo (Cronbach’s alpha) bằng phần mềm SPSS for Windows 15.0. Các ước lượng và kiểm định mô hình kinh tế lượng bằng phần mềm Eview 4.1. CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH MÔ TẢ VÀ KIỂM ĐỊNH THANG ĐO 4.1. GIỚI THIỆU Trước khi sử dụng kết quả dữ liệu thu thập để phân tích mối tương quan giữa vốn xã hội và sự cải tiến doanh nghiệp. Chương này sẽ phân tích thống kê mô tả dữ liệu để cung cấp tổng quan về tổng thể nghiên cứu, đồng thời kiểm định thang đo để đảm bảo độ tin cậy các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội. 4.2. DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH MÔ TẢ Qua 200 bản câu hỏi phát đi, có 20 doanh nghiệp từ chối trả lời (chiếm 10%), có 10 bản câu hỏi chưa trả lời hoàn thành (chiếm 5%), có 170 bản câu hỏi trả lời hoàn thành và được sử dụng, đạt tỷ lệ 85%. Trong số các doanh nghiệp tham gia trả lời có 12% thuộc nhóm doanh nghiệp lớn và 88% thuộc nhóm nhỏ và vừa. Trong số 170 doanh nghiệp tham gia trả lời, có 79 doanh nghiệp (chiếm 46,47%) có thực hiện cải tiến trong suốt 3 năm qua. Thống kê mô tả của các biến sử dụng trong nghiên cứu này được đính kèm ở phụ lục 4, cho thấy tổng quan về các doanh nghiệp dệt may trên những phương diện sau: Thứ nhất, ngành dệt may Việt Nam là ngành thâm dụng lao động với số lượng trung bình trên một doanh nghiệp là 827,29 người, con số này cao hơn mức trung bình của các ngành khác. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, ngành dệt may thu hút khoảng 1,8 triệu lao động, chiếm khoảng 25% trong tổng số công nhân của các ngành công nghiệp cả nước, trong đó hầu hết 80% là phụ nữ đến từ các tỉnh vùng sâu, vùng xa của cả nước. Thứ ha, tỷ lệ xuất khẩu hàng FOB của các doanh nghiệp trung bình là 14% trong cơ cấu doanh thu xuất khẩu (thấp hơn số liệu ước tính của Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam-VCCI năm 2007, con số này là 20%). Hầu hết các công ty sản xuất hàng gia công (CMT – Cut, Make, Trim), với lợi nhuận thấp. Khách hàng cung cấp tất cả nguyên vật liệu, mẫu thiết kế và những thứ cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia trong chuỗi sản xuất chỉ là lao động với giá trị gia tăng rất hạn chế. Thứ ba, các doanh nghiệp chưa đầu tư nhiều cho công tác cải tiến sản phẩm để chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu từ gia công sang sản xuất hàng FOB và xây dựng thương hiệu. Điều này thể hiện qua tỷ trọng chi phí nghiên cứu phát triển (chỉ chiếm 0,6% trên tổng chi phí) và nghiên cứu thị trường (chỉ chiếm 0,51% trên tổng chi phí) còn thấp, tỷ lệ này ở các doanh nghiệp dệt may của các nước Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ trung bình khoảng 10% (nguồn tin từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2007). Bên cạnh đó, trung bình các doanh nghiệp chỉ sử dụng khoảng 3,7 loại công nghệ (trong tổng số 21 công nghệ tiên tiến) trong quy trình sản xuất, con số này trong nghiên cứu của Rejean Landry và cộng sự (2000) của các doanh nghiệp ở Canada là 4,67; trung bình mỗi doanh nghiệp có khoảng 5,11 lao động làm công tác nghiên cứu phát triển, chủ yếu là thiết kế mẫu và tìm kiếm nguyên vật liệu. Do sự đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển còn hạn chế, nên tiến trình cải tiến của doanh nghiệp diễn ra chậm chạp, biểu hiện doanh thu từ những sản phẩm cải tiến chiếm khoảng 6,53% trên tổng doanh thu. Thứ tư, có sự khác biệt lớn giữa các biến thành phần của khái niệm vốn xã hội với các biến biểu hiện quy mô, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và mức độ cải tiến. Các biến thành phần của khái niệm vốn xã hội có hệ số biến thiên nhỏ (biến có hệ số biến thiên lớn nhất là tài sản thị trường bằng 0,77) cho thấy sự nhận thức về vốn xã hội giữa các doanh nghiệp là không chênh lệch nhiều. Trong khi các biến đo lường quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có hệ số biến thiên lớn (lớn hơn 1,7), chẳng hạn như biến tổng số nhân viên, lợi nhuận, tổng tài sản và doanh thu lần lượt có hệ số biến thiên là 2,42, 2,23, 2,42 và 1,73, nghĩa là có sự khác biệt lớn về các tiêu chí này giữa các doanh nghiệp. Biến đo lường mức độ cải tiến sản phẩm là tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên tổng doanh thu có hệ số biến 1,1 lớn hơn hệ số biến thiên của các biến đo lường vốn xã hội. Sự khác biệt này được minh họa ở hình 4.1. Các biến đo lường quy mô hoạt động và mức độ cải tiến sản phẩm. Các biến đo lường vốn xã hội Hình 4.1: Mô tả hệ số biến thiên của các biến nghiên cứu Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu điều tra. 4.3 KIỂM ĐỊNH THANG ĐO Để đánh giá tính nhất quán nội tại của các biến quan sát thang đo lường khái niệm nghiên cứu, phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s alpha được thực hiện. Các biến quan sát có hệ số tương quan biến - tổng (Corrected Item-Total Correlation) nhỏ hơn 0,30 sẽ bị loại và tiêu chuẩn chọn thang đo khi độ tin cậy Cronbach’s alpha từ 0,60 trở lên(() Xem Nunnally & Burnstein (1994) Pschy chometric Theory, 3rd edition, NewYork, McGraw Hill. ). Bảng 4.1 cho thấy các khái niệm đo lường vốn xã hội đều có hệ số tin cậy Cronbach’s alpha lớn hơn 0,6 và các hệ số tương quan biến - tổng (Corrected Item-Total Correlation) đều lớn hơn 0,3 (xem phụ lục 4). Điều này cho thấy thang đo lường các nhân tố (thành phần) của khái niệm vốn xã hội đều đáng tin cậy. Các nhân tố đó là: Nhân tố 1, tài sản tham gia bao gồm những mục hỏi về mức độ tham gia của doanh nghiệp vào cuộc họp, hội thảo, hiệp hội, triển lãm và mạng lưới sản xuất kinh doanh ở các cấp độ: quận/ huyện (tg1), tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (tg2), quốc gia (tg5), quốc tế (tg4). Nhân tố này có độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,89 và các biến tg1, tg2, tg3, tg4 có tính nhất quán nội tại trong đo lường khái niệm tài sản tham gia, biểu hiện qua hệ số tương quan biến - tổng đều lớn hơn 0,3 (tối thiểu là 0,64). Nhân tố 2, tài sản quan hệ đo lường mức độ quan hệ thường xuyên của doanh nghiệp với các chủ thể, cá nhân: chuyên gia và các nhà quản lý trong các cơ quan ở địa phương (qh1), chuyên gia và các nhà quản lý trong các cơ quan chính phủ về phát triển kinh tế (qh2), các nhà nghiên cứu ở các trường đại học và chính phủ trong lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp (qh3), các khách hàng và nhà cung cấp (qh4). Nhân tố này có độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,68 và các biến qh1, qh2, qh3, qh4 có tính nhất quán nội tại trong đo lường khái niệm tài sản quan hệ, biểu hiện qua hệ số tương quan biến - tổng của các biến tối thiểu là 0,396. Bảng 4.1: Hệ số tin cậy nhất quán nội tại (Cronbach’s alpha) của các nhân tố đo lường khái niệm vốn xã hội Biến quan sát Các nhân tố chính Số câu hỏi đo lường Cronbach's alpha TG Tài sản tham gia - mức độ tham gia của doanh nghiệp vào cuộc họp, hội thảo, hiệp hội, triển lãm và mạng lưới sản xuất kinh doanh 4 0,89 QH Tài sản quan hệ - mức độ quan hệ thường xuyên của doanh nghiệp với các chủ thể, cá nhân trong môi trường kinh doanh 4 0,68 TC Tài sản tín cẩn: mức độ nhận thức của doanh nghiệp về tầm quan trọng của sự tín cẩn trong các mối quan hệ với các chủ thể trong môi trường kinh doanh 2 0,84 CT Tài sản cạnh tranh - mức độ nhận thức của doanh nghiệp về các áp lực cạnh tranh 5 0,88 ML Tài sản mạng lưới - mức độ nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của mạng lưới liên kết để có được thông tin phục vụ cho cải tiến 13 0,95 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu điều tra. Nhân tố 3, tài sản tín cẩn mức độ nhận thức của doanh nghiệp về tầm quan trọng của sự tín cẩn trong các mối quan hệ với: khách hàng và nhà cung cấp (tc1), các tổ chức chính phủ và phi chính phủ với các vấn đề liên quan đến sự cải tiến doanh nghiệp (tc2). Nhân tố này có độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,84 và các biến tc1, tc2 có tính nhất quán nội tại trong đo lường khái niệm tài sản tín cẩn, biểu hiện qua hệ số tương quan biến - tổng đồng thời bằng 0,72. Nhân tố 4, tài sản cạnh tranh đo lường mức độ nhận thức của doanh nghiệp về các nguy cơ mất khách hàng (ct1), xuất hiện đối thủ cạnh tranh (ct2), sự biến động nhân viên (ct3), tính lỗi thời của sản phẩm (ct4) và sự tiến hoá nhanh chóng về công nghệ (ct5). Nhân tố này có độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,88 và các biến ct1, ct2, ct3, ct4 có tính nhất quán nội tại trong đo lường khái niệm tài sản cạnh tranh, biểu hiện qua hệ số tương quan biến - tổng tối thiểu là 0,513. Nhân tố 5, tài sản mạng lưới thể hiện mức độ nhận thức của doanh nghiệp từ mạng lưới thông tin phục vụ cho cải tiến. Chúng bao gồm thông tin từ mạng lưới kinh doanh: khách hàng (ml1), nhà cung cấp (ml2), đối thủ cạnh tranh (ml3), các công ty tư vấn (ml4), những công ty trong cùng tập đoàn (ml5); thông tin từ mạng lưới truyền thông: hội chợ/triển lãm (ml6), các cuộc họp/hội thảo với chuyên gia (ml7), dữ liệu từ ngân hàng máy tính và internet (ml8), các chương trình của chính phủ (ml9), tài liệu về bằng phát minh sáng chế (ml10); những thông tin từ mạng lưới nghiên cứu: các tổ chức nghiên cứu công (ml11), tổ chức chuyển giao công nghệ (ml112), các trường đại học, cao đẳng (ml13). Nhân tố này có độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,95 và các biến ml1, ml2, ml3, ml4, ml5, ml6, ml7, ml8, ml9, ml10, ml11, ml12, ml13 đều đo lường được khái niệm tài sản mạng lưới, biểu hiện qua hệ số tương quan biến - tổng tối thiểu là 0,454. 4.4 TÓM TẮT Kỹ thuật thống kê mô tả cho thấy ngành dệt may là ngành thâm dụng lao động (chiếm 25% tổng số lao động trong các ngành công nghiệp của cả nước), các doanh nghiệp chủ yếu tham gia vào chuỗi sản xuất là lao động với giá trị gia tăng thấp (chủ yếu là làm hàng gia công). Trong cơ cấu xuất khẩu, trung bình hàng FOB chỉ chiếm 14% là thấp hơn so với các doanh nghiệp thuộc các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia. Những hạn chế đó là do các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư cho cải tiến, thể hiện qua các chỉ tiêu tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường và nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí rất thấp, lần lượt là 0,51% và 0,6%, điều này dẫn đến hậu quả là tỷ trọng trung bình doanh thu từ sản phẩm cải tiến chỉ chiếm 6,53% trên tổng doanh thu. Trong tổng thể nghiên cứu có sự khác biệt lớn về quy mô và hiệu quả sản xuất kinh doanh (thể hiện qua hệ số biến thiên cao) mặt dù sự nhận thức về vốn xã hội có sự tương đồng nhau (hệ số biến thiên của các biến đo lường vốn xã hội thấp). Để tiến đến phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp, phương pháp kiểm định thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach’s alpha đã được thực hiện. Kết quả cho thấy các thành phần của khái niệm vốn xã hội đều có hệ số Cronbach’s alpha lớn hơn 0,6 và các hệ số tương quan biến - tổng (Corrected Item – Total Correction) đều nhỏ hơn 0,3. Điều này cho thấy các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội đều đáng tin cây. CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH ĐÓNG GÓP CỦA VỐN XÃ HỘI VÀO SỰ CẢI TIẾN DOANH NGHIỆP 5.1. GIỚI THIỆU Chương 4 đã kiểm định thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội là đáng tin cậy. Chương 5 sẽ phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến qua hai mô hình. Thứ nhất là sử dụng mô hình logit để phân tích vốn xã hội ảnh hưởng đến quyết định cải tiến trên toàn bộ tổng thể mẫu (bao gồm cả những doanh nghiệp có quyết định cải tiến và không cải tiến). Nếu mô hình logit có ý nghĩa thì sử dụng mô hình hồi quy bội để đánh giá ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến trên những doanh nghiêp (quan sát) có thực hiện cải tiến. Mục tiêu của những phân tích này là nhằm phát hiện những nhân tố thuộc vốn xã hội tác động đến quyết định và mức độ cải tiến sản phẩm. Kết quả của chương này sẽ giúp rút ra những kết luận quan trọng về đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp. 5.2. VỐN XÃ HỘI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐỂN SỰ CẢI TIẾN KHÔNG? 5.2.1. Ước lượng và lựa chọn mô hình Để trả lời câu hỏi vốn xã hội có ảnh hưởng đến sự cải tiến không? Mô hình kinh tế lượng được thiết kế sau: + ei (U) Trong đó: Logit(Pi/(1-Pi)) là logarít cơ số e của tỷ lệ xác suất doanh nghiệp cải tiến trên xác suất không cải tiến. là các hệ số hồi quy. Các biến độc lập là các thành phần của khái niệm vốn xã hội, bao gồm TG là tài sản tham gia, ML là tài sản mạng lưới, TC là tài sản tín cẩn, TT là tài sản thị trường, QH là tài sản quan hệ, TD là tín dụng doanh nghiệp và CT là tài sản cạnh tranh, được trình bày ở chương 2 và kiểm định độ tin cậy của thang đo được trình bày ở chương 4. Kết quả ước lượng mô hình không áp đặt (U) thể hiện trong bảng 5.1 Bảng 5.1: Mô hình hồi quy logit không áp đặt (U) Biến độc lập: logit xác suất cải/không cải tiến [logit(Pi/(1-Pi))] Log likelihood (LUR): – 26,071 Số quan sát: 170 c2(7) : 182,68 Tên biến Hệ số hồi quy (β) Mức ý nghĩa (p) Khoảng chắn -29,117*** 0,000 TG - Tài sản tham gia 0,630*** 0,000 ML - Tài sản mạng lưới 0,087** 0,036 TC - Tài sản tín cẩn 0,407 0,120 TT - Tài sản thị trường 0,381*** 0,009 QH - Tài sản quan hệ 0,523* 0,061 TD – Tín dụng doanh nghiệp 0,073 0,104 CT - Tài sản cạnh tranh 0,079 0,306 Nguồn: Tính tóan của tác giả từ dữ liệu điều tra. Ghi chú: (*), (**), (***) là các hệ số hồi quy lần lượt có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. Mô hình hồi quy không áp đặt (U) cho thấy có 4 biến có ý nghĩa thống kê và 3 biến không có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của các biến tài sản tham gia (TG) và tài sản thị trường (TT) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%; biến tài sản mạng lưới (ML) có ý nghĩa thống kế tại mức ý nghĩa 5% và biến tài sản quan hệ (QH) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%. Biến tín dụng doanh nghiệp (TD) và biến tài sản cạnh tranh (CT) không có ý nghĩa thống kê nên loại chúng ra khỏi mô hình nhằm lựa chọn mô hình giải thích tốt. Mô hình sau khi loại biến TD và CT được gọi là mô hình áp đặt (R) như sau: (R) Kết quả ước lượng mô hình hồi quy áp đặt (R) thể hiện trong bảng 5.2. Bảng 5.2: Mô hình hồi quy logit sau khi loại biến không cần thiết (mô hình áp đặt R) Biến độc lập: Logit của xác suất cải/không cải tiến [logit(Pi/(1-Pi))] Log likelihood (LR): – 27,942 Số quan sát: 170 Hệ số xác định R2: 0,76 c2(7): 178,938 Tên biến Hệ số hồi quy (α) Mức ý nghĩa (p) Khoảng chắn -2,637*** 0,000 TG - Tài sản tham gia 0,603*** 0,000 ML - Tài sản mạng lưới 0,089** 0,026 TC - Tài sản tín cẩn 0,433* 0,054 TT – Tài sản thị trường 0,460*** 0,001 QH - Tài sản quan hệ 0,597** 0,014 Nguồn: Tính tóan của tác giả từ dữ liệu điều tra. Ghi chú: (*), (**), (***) là các hệ số hồi quy lần lượt có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. Việc loại bỏ biến CT và TD ra khỏi mô hình U, nghĩa là áp đặt giả thuyết hai hệ số hồi quy đứng trước biến TD và CT đồng thời bằng 0 (giả thuyết H0: ). Giá trị kiểm định chi - bình phương với bậc tự do bằng 2 (c2(2) ) được tính toán như sau: c2(2) = –2ln(LR/LUR) = –2(lnLR – lnLUR) = –2(-27,942 + 26,071) = 3,552 (() Việc tính toán giá trị c2(2) được thực hiện dễ dàng với sự hỗ trợ của phần mềm Eview 4.1 với kiểm định wald (xem phụ lục 5). ) Với mức ý nghĩa α = 5%, giá trị c2(α,m) = 5,99 (() Với m là số biến áp đặt, trong phần mềm Excel c2(α,m) được tính bằng công thức Chiinv(5%;2). ) Ta thấy, giá trị kiểm định c2(2) < c2(α,m) nên giả thuyết H0 được chấp nhận, nghĩa là mô hình (R) giải thích ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến doanh nghiệp tốt hơn mô hình (U). Mặt khác khi loại hai biến tín dụng doanh nghiệp (TD) và tài sản cạnh tranh (CT) ta thấy hệ số hội quy trong mô hình biến thiên nhỏ, được minh họa ở bảng 5.3. Bảng 5.3: So sánh hệ số hội quy trong hai mô hình logit (U) và (R) Tên biến Hệ số hồi quy mô hình (U) Hệ số hồi quy mô hình (R) Khoảng chắn -29,117*** -2,637*** TG - Tài sản tham gia 0,630*** 0,603*** ML - Tài sản mạng lưới 0,087** 0,089** TC - Tài sản tín cẩn 0,407 0,433* TT - Tài sản thị trường 0,381*** 0,460*** QH - Tài sản quan hệ 0,523* 0,597** TD – Tín dụng doanh nghiệp 0,073 - CT - Tài sản cạnh tranh 0,079 - Nguồn: Tính tóan của tác giả từ dữ liệu điều tra. Như vậy mô hình giải thích tốt nhất ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến doanh nghiệp là mô hình (R) với tất cả các hệ số hồi quy trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của hai biến tài sản tham gia (TG) và tài sản thị trường (TT) có ý nghĩa thống kế tại mức ý nghĩa 1%; biến tài sản mạng lưới (ML) và tài sản quan hệ (QH) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5% và biến tín cẩn (TC) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%. Mô hình (R) có hệ số xác định (McFadden R2 ) là 0,76. Điều này có nghĩa là tất cả các biến giải thích, bao gồm tài sản tham gia, mạng lưới, tín cẩn, tài sản thị trường và quan hệ có thể giải thích 76% quyết định cải tiến của doanh nghiệp. Hai biến tín dụng doanh nghiệp (tỷ lệ phần trăm nợ trên tổng tài sản) và tài sản cạnh tranh không có ý nghĩa thống kê nên không có ý nghĩa trong việc giải thích quyết định cải tiến của doanh nghiệp. 5.2.2. Mức độ ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến doanh nghiệp Để xem xét mức độ ảnh huởng các thành phần (nhân tố) vốn xã hội đến quyết định cải tiến của doanh nghiệp, ta dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy trong mô hình R. Phụ lục 5 tính tóan những thành phần của vốn xã hội có ý nghĩa thống kê trong mô hình R (bao gồm tài sản tham gia, mạng lưới, tín cẩn, thị trường và quan hệ) ảnh hưởng đến xác suất cải tiến. Chẳng hạn, ứng với xác xuất cải tiến cho trước là 3%, khi tài sản tham gia (TG), mạng lưới kinh doanh (ML), tín cẩn (TC), quan hệ (QH) tăng lên 1 bậc và tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu hàng FOB (tài sản thị trường TT) tăng lên 1% thì xác suất cải tiến mới lần lượt là 5,35%, 3,27%, 4,55%, 5,32% và 4,67%. Hình 5.1 cho thấy tài sản tham gia và quan hệ là hai thành phần của vốn xã hội ảnh hưởng nhiều nhất đến quyết định cải tiến. Ngược lại, tài sản mạng lưới là thành phần của vốn xã hội ảnh hưởng ít nhất đến sự cải tiến. Hai thành phần tài sản tín cẩn và tài sản thị trường tác động ở mức trung bình đến quyết định cải tiến của doanh nghiệp. Hình 5.1: Mức độ ảnh hưởng của các thành phần vốn xã hội đến xác suất Xác suất cải tiến cải tiến doanh nghiệp Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu điều tra. 5.3. ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN MỨC ĐỘ CẢI TIẾN 5.3.1. Ước lượng và lựa chọn mô hình Biến phụ thuộc trong mô hình đo lường mức độ cải tiến sản phẩm là biến tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm cải tiến trên tổng doanh thu (DTCT), được ước lượng theo các biến thành phần của khái niệm vốn xã hội và các biến số có chức năng làm đòn bẩy cho việc cải tiến là tỷ lệ phần trăm chi phí cho nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí (RD), nhân viên bộ phận nghiên cứu phát triển (NVRD), tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí (NCTT). Mô hình thiết kế như sau: Trong đó, là các hệ số hồi quy. Việc lựa chọn mô hình được thực hiện theo nguyên tắc đưa dần từng biến giải thích vào mô hình đến khi xuất hiện những biến mới thêm vào không có ý nghĩa thống kê và làm hệ số hồi quy, hệ số xác định (R2) của các mô hình khác biến thiên nhiều thì ta xem xét và loại trừ những biến đó. Kế tiếp, ta dùng kiểm định giả thuyết áp đặt các biến không có ý nghĩa thống kê để thu được mô hình ước lượng tốt nhất được trình bày ở phụ lục 6. Kết quả của mô hình tốt nhất được trình bày ở bảng 5.4, là mô hình không có sự hiện diện của 5 biến giải thích là tài sản tham gia (TG), tài sản tín cẩn (TC), tài sản quan hệ (QH), tín dụng doanh nghiệp (TD) và tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí (RD). Chỉ còn lại ba biến thuộc vốn xã hội là: tài sản mạng lưới (ML), thị trường (TT), tài sản cạnh tranh (CT), và hai biến không thuộc vốn xã hội là: tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí (NCTT) và số nhân viên nghiên cứu phát triển (RD) ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến sự biến thiên của tỷ lệ doanh thu cải tiến. Bảng 5.4: Mô hình hồi quy bội ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến Biến độc lập: Tỷ lệ phần trăm doanh thu cải tiến trên tổng sản phẩm (DTCT) Số quan sát: 79 Hệ số xác định R2: 75,04% Thống kê F: 43,89 Tên biến Hệ số hồi quy Mức ý nghĩa (p) Khoảng chắn 6,662*** 0,000 ML-Tài sản mạng lưới 0,038*** 0,000 TT -Tài sản thị trường 0,079*** 0,000 CT -Tài sản cạnh tranh 0,049** 0,042 NVRD - Nhân viên nghiên cứu phát triển 0,164*** 0,003 NCTT - Tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí 2,998*** 0,001 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu điều tra. Ghi chú: (*), (**), (***) là các hệ số hồi quy lần lượt có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. Để ước lượng độ tin cậy của mô hình hồi quy ở bảng 5.4, sử dụng các kiểm định hệ số hồi quy (kiểm định T), mức độ giải thích của mô hình (hệ số xác định R2), đa cộng tuyến và phương sai thay đổi. Thứ nhất, tất cả các hệ số hồi quy trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của các biến tài sản mạng lưới (ML) và tài sản thị trường (TT), số nhân viên nghiên cứu phát triển (NVRD), tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí (NCTT) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%; biến tài sản cạnh tranh (CT) có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5%. Thứ hai, kết quả mô hình có hệ số xác định R2 là 75,04%. Điều này có nghĩa là tất cả các biến giải thích, bao gồm tài sản mạng lưới, tài sản thị trường, tài sản cạnh tranh, số nhân viên nghiên cứu phát triển và tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí có thể giải thích 75,04% sự biến thiên của tỷ lệ doanh thu từ sản phẩm cải tiến trong doanh nghiệp. Năm biến tài sản tham gia, tín cẩn, quan hệ, tín dụng doanh nghiệp, và tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu phát triển trên tổng chi phí không có ý nghĩa thống kê nên không có ý nghĩa trong việc giải thích sự thay đổi của mức độ cải tiến sản phẩm. Thứ ba, để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, chúng ta dùng phương pháp nhân tử phóng đại phương sai (VIF), (Gujarati, 1995). Theo Gujarati (1995) mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến khi hệ số nhân tử phóng đại (VIF) của các biến giải thích đều nhỏ hơn 10. Hệ số VIF được tính bởi công thức sau: Trong đó, R2j là giá trị hệ số xác định (R2) trong hàm hồi quy của Xj theo (k-1) biến giải thích còn lại. Kết quả tính toán hệ số nhân tử phóng đại phương sai (VIF) của các biến giải thích đều nhỏ hơn 10, nghĩa là mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến (xem phụ lục 6). Thứ tư, để kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi, chúng ta dùng kiểm định Breusch-Pagan và Glejesr (Ramanathan, 2002, chương 8, trang 347-357). Kết quả kiểm định cho thấy mô hình không có hiện tượng phương sai thay đổi (xem phụ lục 6). 5.3.2. Ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến sản phẩm Để đánh giá ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến sản phẩm, dựa vào hệ số hồi quy đứng trước những biến có ý nghĩa thống kê, chúng biểu hiện mức độ thay đổi của biến tỷ lệ doanh thu cải tiến theo các biến giải thích (xem phụ lục 6). Nhìn vào cột thứ hai của bảng 5.4 cho thấy mức độ giải thích sự cải tiến theo tài sản mạng lưới, thị trường và cạnh tranh lần lượt là 0,038, 0,079 và 0,049 và biến thiên đồng biến. Nghĩa là với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tài sản tham gia, mạng lưới, áp lực cạnh tranh tăng lên 1 bậc thì tỷ lệ doanh thu cải tiến tăng lần lượt là 0,038%, 0,079% và 0,049%. Các biến tỷ lệ phần trăm chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí và số nhân viên nghiên cứu phát triển tỷ lệ thuận và có mức độ ảnh huớng đến sự cải tiến (tỷ lệ phần trăm doanh thu cải tiến trên tổng doanh thu) lần lượt là 2,998 và 0,164. Điều này có nghĩa là với các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường tăng 1% thì mức độ cải tiến tăng 0,164%, nhân viên bộ phận nghiên cứu phát triển tăng lên một người thì mức độ cải tiến tăng 2,998%. 5.4 SO SÁNH ẢNH HƯỞNG CÁC THÀNH PHẦN CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG HAI MÔ HÌNH Ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến và mức độ cải tiến sản phẩm doanh nghiệp, được tổng hợp so sánh ở bảng 5.5. Bảng 5.5: Tổng kết sự ảnh hưởng của các biến đến quyết định và mức độ cải tiến sản phẩm Tên biến ảnh hưởng Mô hình Quyết định cải tiến Mô hình Mức độ cải tiến TG_Tài sản tham gia Có ảnh hưởng Không ảnh hưởng ML_Tài sản mạng lưới Có ảnh hưởng Có ảnh hưởng TC_Tài sản tín cẩn Có ảnh hưởng Không ảnh hưởng TT_Tài sản thị trường Có ảnh hưởng Có ảnh hưởng QH_Tài sản quan hệ Có ảnh hưởng Không ảnh hưởng TD_Tín dụng doanh nghiệp Không ảnh hưởng Không ảnh hưởng CT_Tài sản cạnh tranh Không ảnh hưởng Có ảnh hưởng NVRD_Nhân viên R&D Không xem xét Có ảnh hưởng NCTT_Tỷ lệ chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí Không xem xét Có ảnh hưởng Bảng 5.5, cho thấy hai thành phần của vốn xã hội là tài sản mạng lưới và tài sản thị trường đồng thời ảnh hưởng có ý nghĩa đến quyết định cải tiến và mức độ cải tiến sản phẩm. Nghĩa là hai thành phần này vừa là động lực, vừa là nguồn lực phục vụ cải tiến. Các biến tài sản tham gia, tài sản tín cẩn và tài sản quan hệ chỉ tác động với vai trò là động lực thúc đẩy cải tiến (không phải là nguồn lực cải tiến). Thành phần tài sản cạnh tranh có tác động như là nguồn lực cải tiến (không phải là động lực cải tiến). Hai biến số nhân viên nghiên cứu phát triển và tỷ trọng chi phí nghiên cứu thị trường trên tổng chi phí là hai nguồn lực hữu hình tác động có ý nghĩa đến mức độ cải tiến. 5.5 TÓM TẮT Trong chương này đã phân tích đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến qua hai bước. Bước thứ nhất là phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến quyết định cải tiến doanh nghiệp trên tổng thể mẫu gồm 170 doanh nghiệp (quan sát). Kết quả cho thấy các nhân tố thuộc vốn xã hội bao gồm tài sản tham gia, tài sản mạng lưới, tài sản tín cẩn, tài sản thị trường và quan hệ tác động đồng biến và giải thích quyết định cải tiến của doanh nghiệp là 76%. Trong đó, tài sản tham gia và quan hệ là hai nhân tố của vốn xã hội tác động nhiều nhất đến quyết định cải tiến doanh nghiệp. Hai nhân tố tín dụng doanh nghiệp và tài sản cạnh tranh không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nên chúng không tác động đến sự cải tiến. Bước tiếp theo là phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội đến mức độ cải tiến sản phẩm trên 79 doanh nghiệp (quan sát) có tham gia cải tiến. Kết quả phân tích cho thấy có ba thành phần thuộc về vốn xã hội (bao gồm tài sản mạng lưới, thị trường và cạnh tranh) và hai thành phần không thuộc vốn xã hội (bao gồm tỷ trọng chi phí nghiên cứu thị trường trong tổng chi phí, số nhân viên nghiên cứu phát triển) tác động đồng biến có ý nghĩa thống kê và đồng thời giải thích sự biến thiên của tỷ lệ doanh thu cải tiến (mức độ cải tiến) là 75,04%. CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 6.1. KẾT LUẬN Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới chuyển đổi hình thức sở hữu sang cổ phần từ những doanh nghiệp nhà nước trước đây thực hiện cải tiến rất chậm chạp. Doanh nghiệp rơi vào vòng lẩn quẩn của sự thiếu vốn – khó tiếp cận nguồn tín dụng - thiếu nguồn lực cải tiến - lợi thế cạnh tranh kém – và rồi tiếp tục thiếu vốn. Với tư duy vốn vật chất là nguồn lực duy nhất để thực hiện cải tiến đã đặt doanh nghiệp trong vòng lẩn quẩn và không có lối thoát. Để tìm giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp thực hiện cải tiến thành công, không còn cách nào khác là phải tư duy thoát ra ngoài hệ thống với giả thuyết cho rằng nguồn lực phục vụ cải tiến không chỉ là vốn hữu hình mà còn là vốn vô hình mạng lại cơ hội tiếp cận như nhau đối với tất các doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn lực vô hình ở đây là vốn xã hội, chúng tham gia vào tiến trình cải tiến trước hết với tư cách là động lực thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến, sau đó là nguồn lực trực tiếp tham gia vào tiến trình cải tiến(() Ngoài những kết luận ở nghiên cứu này, sự đóng góp của vốn xã hội vào tiến trình cải tiến còn được tác giả giả thuyết và lý giải tại bài tham luận “ Đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp”, diễn đàn kinh tế www.saga.vn (tháng 09 năm 2007), được đính kèm tại phụ lục 7. ). 6.1.1. Vốn xã hội là động lực thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến Kết quả nghiên cứu cho thấy, trước hết là vốn xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến. Đóng góp này thông qua các nhân tố tài sản tham gia, mạng lưới, tín cẩn, thị trường và quan hệ với mức độ giải thích 76% được phân tích qua mô hình kinh tế lượng logit (trình bày tại mục 5.2, chương 5) đưa đến những kết luận như sau: Thứ nhất, việc doanh nghiệp tham gia vào các cuộc họp, hội thảo, hiệp hội, triển lãm và mạng lưới sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp nhận thấy những động lực và cơ hội cải tiến. Bởi vì khi mức độ tham gia cao sẽ giúp doanh nhận thấy biến đổi về mặt công nghệ cũng như quản lý của các chủ thể trong môi trường kinh doanh để đối chiếu với tình hình hiện tại của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thực hiện cải tiến (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản tham gia đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). Thứ hai, các nguồn thông tin từ mạng lưới kinh doanh là kênh phát tín hiệu và nhận phản hồi về chất lượng sản phẩm, cũng như các chính sách của doanh nghiệp đến/từ khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh và các chủ thể khác trong môi trường kinh doanh. Thông qua các nguồn thông tin đó sẽ giúp doanh nghiệp đề xuất các giải pháp cải tiến sản phẩm, chẳng hạn như các giải pháp chuẩn hóa, đồng nhất và liên tục trong quy trình sản xuất (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản mạng lưới đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). Thứ ba, các trường đại học, cao đẳng và các tổ chức nghiên cứu là nơi cập nhật những kiến thức cải tiến khoa học nhất. Việc doanh nghiệp kết nối với tổ chức này sẽ là một kênh tiếp nhận thông tin giúp doanh nghiệp cải tiến (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản mạng lưới đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). Thứ tư, mức độ tín cẩn của doanh nghiệp được thể hiện qua sự cam kết của doanh nghiệp với khách hàng, nhà cung cấp và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ cũng là động lực giúp doanh nghiệp thực hiện cải tiến. Thông qua sự tín cẩn với các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp nhận được nhiều sự hỗ trợ trong việc được chọn làm thí điểm đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm. Cũng tương tự, sự tín cẩn với khách hàng không những thể hiện qua việc giao hàng đúng mẫu mã, quy cách, số lượng, chất lượng, thời gian và liên tục mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải duy trì mối quan hệ bạn hàng bằng cách nâng cao chất lượng, cải tiến sản phẩm để phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng. Sự tín cẩn đối với nhà cung cấp cũng sẽ tạo ra mối nối cải tiến, nếu nhà cung cấp cải tiến thì doanh nghiệp cũng thực hiện cải tiến tương thích (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản tín cẩn đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). Thứ năm, mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể trong môi trường kinh doanh được thể hiện trên phương diện chiều ngang và chiều dọc. Quan hệ chiều ngang của doanh nghiệp được thiết lập với các doanh nghiệp khác ngành trên cùng địa bàn (trong nghiên cứu này là thành phố Hồ Chí Minh), các cơ quan địa phương và cộng động trong việc cùng nhau tạo ra phúc lợi cho địa phương. Doanh nghiệp luôn giữ vai trò trung tâm trong sự phối hợp này nên thường xuyên nhận sự ưu tiên hỗ trợ nguồn lực từ chính quyền địa phương để cải tiến công nghệ nhằm làm tốt vai trò đó. Quan hệ chiều dọc là mối quan hệ của doanh nghiệp thiết lập với các cơ quan từ trung ương đến địa phương trong nội bộ ngành (trong nghiên cứu là ngành dệt may) sẽ giúp doanh nghiệp nhận được những thông tin từ các chương trình nghiên cứu phát triển ứng dụng trong ngành. Qua đó, sẽ giúp doanh nghiệp nhận diện được những cơ hội để cải tiến (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản quan hệ đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). Thứ sáu, đa phần những doanh nghiệp dệt may có thực hiện cải tiến đều có sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ hàng gia công sang hàng FOB. Đây là một trong những biểu hiện của sự nổ lực tự chủ kinh doanh được bắt nguồn từ việc tiếp nhận thông tin thị trường và các đối thủ cạnh tranh (kết luận rút ra từ phân tích ảnh hưởng của tài sản thị trường đến quyết định cải tiến được trình bày trong mô hình logit, mục 5.2, chương 5). 6.1.2. Vốn xã hội là nguồn lực cho sự cải tiến Mô hình được trình bày ở mục 5.3 của chương 5 cho kết luận vốn xã hội như là một nguồn lực tham gia vào tiến trình cải tiến. Kết quả cho thấy có ba biến thành phần của vốn xã hội trực tiếp tham gia vào quá trình cải tiến, bao gồm tài sản mạng lưới, tài sản thị trường và áp lực cạnh tranh; Có hai nguồn lực thuộc vốn hữu hình là số nhân viên nghiên cứu phát triển và đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển tham gia trực tiếp vào quá trình cải tiến. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tham gia của các biến giải thích có ý nghĩa thống kê, đồng thời giải thích được 75,04% sự biến thiên của tỷ lệ doanh thu từ sản phẩm phẩm cải tiến của doanh nghiệp. 6.2. GỢI Ý CHÍNH SÁCH Kết quả nghiên cứu cho thấy, vốn xã hội không những là động lực mà còn là nguồn lực trực tiếp tham gia vào tiến trình cải tiến doanh nghiệp với mức độ giải thích cao. Để giúp doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng vốn xã hội phục vục cho mục tiêu cải tiến sản phẩm, tác giả gợi ý những chính sách ở cấp độ quản lý nhà nước và doanh nghiệp. 6.2.1 Cấp độ quản lý nhà nước Để các doanh nghiệp tiếp cận với vốn xã hội như là động lực và nguồn lực thực hiện cải tiến. Trước hết, ở cấp độ quốc gia cần phải nhận diện và thừa nhận vốn xã hội như nguồn lực phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế (giống như các nguồn lực vốn vật chất và trình độ cộng nghệ). Việc thừa nhận chúng là nguồn lực quốc gia, nghĩa là chính phủ phải có kế hoạch đầu tư, khai thác bằng các chính sách. Việc xây dựng chính sách nhằm giúp các doanh nghiệp trong việc đầu tư, khai thác vốn xã hội cần hướng đến những khía cạnh sau: Thứ nhất, chính phủ cần tổ chức ngày lễ thường niên nhằm tôn vinh các doanh nghiệp có thành tích trong công tác nghiên cứu phát triển, cải tiến sản phẩm; Tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm, quảng bá thương hiệu ở nước ngoài thông qua các chương trình hợp tác giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước, chẵng hạn như xây Nhà Việt Nam ở nước ngoài (chính sách được đề xuất từ kết luận ảnh hưởng của tài sản tham gia đến quyết định cải tiến). Thứ hai, ở cấp độ quản lý ngành cần tạo điều kiện cho việc phát triển các hiệp hội trong nội bộ ngành, liên ngành và thường xuyên tổ chức đối thoại giữa chính phủ với hiệp hội trong xây dựng các chính sách vĩ mô điều tiết nền kinh tế (chính sách được đề xuất từ kết luận ảnh hưởng của tài sản quan hệ đến quyết định và mức độ cải tiến sản phẩm). Thứ ba, trong sạch hóa cơ chế quản lý vĩ mô nhằm tạo sự tín cẩn cao từ các doanh nghiệp đối với chính phủ. Để thực hiện điều này, chính phủ cần phải minh bạch hóa thông tin về các dự án và chính sách công, đồng thời có chế tài thật nặng với các cơ quan quản lý vĩ mô khi vi phạm “bưng bít thông tin” gây mất lòng tin của doanh nghiệp (chính sách được đề xuất từ kết luận ảnh hưởng của tài sản tín cẩn đến quyết định cải tiến). Thứ tư, chính phủ cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận và học hỏi những tiến bộ trong khoa học công nghệ kỹ thuật và quản lý. Chẳng hạn như quy đinh: “Nhà thầu nước ngoài khi thắng thầu đối với một số công trình nghiên cứu lớn, công nghệ phức tạp phải liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong nước”. Như vậy, sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước học tập và trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng về cải tiến công nghệ cũng như quản lý (chính sách được đề xuất từ kết luận ảnh hưởng của tài sản quan hệ đến quyết định cải tiến). 6.2.2. Cấp độ doanh nghiệp Để thoát khỏi vòng lẩn quẩn của sự thiếu vốn vật thể phục vụ cho cải tiến, doanh nghiệp cần phải suy nghĩ đến nguồn lực bổ sung là vốn xã hội và xem chúng như một nguồn lực quan trọng. Vì lẽ đó, doanh nghiệp cần có kế hoạch đầu tư, khai thác hợp lý vốn xã hội bằng cách xem chúng là một nguồn lực đưa vào hoạch định chiến lược kinh doanh trên những phương diện sau: Thường xuyên quan tâm đến việc tham gia vào các cuộc họp, hội thảo, hiệp hội, triển lãm và mạng lưới sản xuất kinh doanh ở các cấp độ quận/huyện, tỉnh /thành phố trực thuộc trung ương, quốc gia, quốc tế. Thiết lập mạng lưới kinh doanh trên cơ sở giữ vững quan hệ tốt cả chiều ngang (với các đơn vị khác ngành) cũng như chiều dọc (các đơn vị từ trung ương đến địa phương trong nội bộ ngành) nhằm tìm kiếm cơ hội và tranh thủ sự hỗ trợ cho doanh nghiệp cải tiến. Xác định sứ mệnh và các giá trị văn hoá doanh nghiệp(() Xem bài tham luận của tác giả, “Văn hóa doanh nghiệp và vốn xã hội trong doanh nghiệp”, tại diễn đàn kinh tế tại website: www.saga.com.vn (2007), được đính kèm tại phụ lục 6. ) dựa trên sự tín cẩn trong các mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp cũng như các tổ chức chính phủ và phi chính phủ nhằm giữ vững thị phần khi thực hiện cải tiến thí nghiệm (giải pháp giảm rủi ro trong cải tiến). Hình thành đối tác chiến lược biểu hiện qua mức độ quan hệ thường xuyên của doanh nghiệp với các chủ thể, cá nhân là chuyên gia và các nhà quản lý trong các cơ quan ở địa phương, chuyên gia và các nhà quản lý trong các cơ quan chính phủ về phát triển kinh tế, các nhà nghiên cứu ở các trường đại học và chính phủ trong lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp, các khách hàng và nhà cung cấp. 6.3. GỢI Ý NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Bện cạnh những đóng góp đã đề cập ở bên trên, nghiên cứu cũng tồn tại một số hạn chế nhất định cần được nghiên cứu tiếp như sau: Thứ nhất, nghiên cứu chỉ xem xét ảnh hưởng của vốn xã hội đến sự cải tiến sản phẩm. Trong khi cải tiến trong doanh nghiệp được hiểu trên nhiều phương diện như cải tiến đầu vào, cải tiến quy trình, cải tiến chiến lược (theo Milé Terziovski, Professor Danny Samson và Linda Glassop (2001). Do đó, cần có các nghiên cứu về ảnh hưởng của vốn xã hội đến các phương diện cải tiến khác. Thứ hai, mục đích của nghiên cứu tìm ra nguồn lực mới bổ sung vào kế hoạch kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp (không chỉ riêng doanh nghiệp ngành dệt may) để hỗ trợ khung lý thuyết giúp chính phủ ban hành các chính sách phân phối vốn xã hội đến cộng đồng doanh nghiệp. Vì vậy, cần có các nghiên cứu về vốn xã hội thuộc các ngành công nghiệp khác nhau để đảm bảo độ tin cậy của vốn xã hội là nguồn lực quan trọng cần được quan tâm trong hoạch định chính sách vĩ mô. Thứ ba, cải tiến sản phẩm luôn nằm trong giới hạn hệ thống sản xuất cũ có quy luật năng suất biên giảm dần theo thời gian nên không giúp doanh nghiệp tăng trưởng đột phá mà cần thiết phải có sáng tạo và phát minh sản phẩm mới. Vốn vật thể không có thể góp phần là nguồn lực của nhưng không phải là động lực sự sáng tạo. Do vậy, cần có nghiên cứu mối quan hệ của vốn xã hội và sự sáng tạo để hỗ trợ chính sách cho doanh nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Afuah, A. (1998) Innovation Management: Strategies, implementation and profits, Oxford University Press, New York. Amidon Rogers, D.M. (1996) “The Challenge of Fifth Generation R&D” Research-Technology Management, 39(4):33-41. Ashton, W.B. (1997) “Tech Intelligence Survey Finds Few are World-Class” Research-Technology Management, 40(2):3-5. Australian Bureau of Statistics (ABS) (1998) Innovation in Manufacturing, ABS, Canberra. Baptista, R., and Swann, P. (1998) ‘Do Firms in Clusters Innovate More?’ Research Policy, 27:525-540. Braczyk, H.J. et al. Eds. (1998). “Regional Innovation Systerms: The Role of Goverance in a Globalized World”, London, UCL Press. Bourdieu, P. (1983) “Forms of capital” in J. C. Richards (ed.) Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education, New York: Greenwood Press. Carter C. and Williams, B, 1957, “Industry and Technical Progress”, Oxford University Press. Chiesa, V., Coughlan, P., and Voss, C.A. (1996) “Development of a Technical Innovation Audit” Journal of Products Innovation Management, 1996(13):105-136. Christiansen, J. (2000) Building the Innovative Organisation: Management systems that encourage innovation, Macmillian, Basingstoke. Coleman, J. S. (1990) Foundations of Social Theory, Cambridge, Mass.: Harvard University Press. Coleman, J.C (1988), “Social capital in the creation of human capital”, American Journal of Socialogy 44, Phụ trang S95 – S120. Coleman, J.S. (2000). “ Social capital in the Creation of Human Capital”, pp. 13-39 in DASGUPTA, P. AND SERAGELDIN I. ed, Social Capital: A Multifaceted Perspective, Washington, DC. The World Bank. Dasgupta, P. and Serageldin, I, ed., 2000. “Social Capital: A Miltifaceted Perpectives”, Washington, D.C. The World Bank. De la Mothe, J. And Paraquet, G. eds. (1998). “Local and Regional Systems of Inovation” Amsterdam, Kluwer Academic Publisher. De Soto, Hermando, (2000), The Myster of Capital: Why Capitalism Triumphs in the West and Fails Everywhere Else, New York: Basic Books. Dogson, M. (1991). “The Management of Technological Learning: Lesson from a Biotechnology Company”, Berlin, Walter & Gruyter. Drucker, P.F. (1998) “The Discipline of Innovation” Harvard Business Review, 76(6):149-157. Edquist, D. ed (1997). “Systerm of Inovation. Theory and Policy for the Demand Side”, Technology in Society, 21: 63-79. Fukuyama, F. (1999) “The Great Disruption. Human nature and the reconstitution of social order”, London: Profile Books. Fukuyama, F. (1995) “Trust: The Social Virtue and the Creation of Prosperity” NY: Free Press. Fleming (2000) “Intelligence Skills” Mindshifts Matters, August 2000. Fountain, JE. (1998). “Social Capital: Its Relationship to Inovation in Science and Technology”, Science and Public Phlicy, 25-3, pp. 103-115. Gujarati, D.N. (1999) “Basis Econometrics”. Singapore: McGraw-Hill, Inc. Hansen, M.T., Chesbrough, H.W., Nohria, N. and Sull, D.N. (2000) “Networked Incubators: Hothouses of the new economy” Harvard Business Review, 78(5):74-88. Kaplan, S., and Sawhney, M. (2000) “E-Hubs: The new B2B marketplaces” Harvard Business Review, 78(3):97-103. Kim, W.C., and Mauborgne, R. (1999) “Strategy, Value Innovation, and the Knowledge Economy” Sloan Management Review, 1999(Spring): 41-54. Knack S. and Keefer, p. (1997). “Dose Social Capital Have Economic Payoff? A Cross – Country Investigation”, The Quarterly Journal of Economics, November 1997: 1251 – 1288. Kline, S.J and Rosenberg, N. (1986). “ An Overview of Innovation”, pp. 275 – 306 in Landau, R. and Rosenberg, eds, The Positive Sum Strategy. Harnessing Technology for Economic Growth, Washington, D.C, National Academy Press. Lengrand, L. and Chatrie, I. (1999). “Business Networks and the Knowledge-Driven Economy”, Brussels, European Commission. Lesser, E.L. (2000). “Knowledge and Social Capital. Foundations and application”, Boston, Butterworth Heinemann. Lundvall, G-A., ed (1995). “National Systems of Innovation”, Londer, Printer. Maskell, P. (1999). “Social Capital, Innovation and Competiveness”, Forthcoming in “Social Capital” edited by Baron, J. Field and T. Schuller, Oxfor University Press. Milé Terziovski, Professor Danny Samson and Linda Glassop, (2001). “An Overview of Innovation and Social capital” Harvard Business Review, 87(5):64-78. Mowery, D.C. and Rosenberg, N. (1978). “The Influence of Market Demand upon Innavtion: A Dritical Review of Some Recent Empirical Stdies”, Research Policy, 8, April. M. Geen Nah Tiepoh, Bill Reimer, (2004) “Social Capital, Information flows, and Income Creation in Rural Canada: A Cross Community Analysis”, The Journal of Socio-Economics 33(2004), 427-448. Myesry, S. and Marquis, D.G. (1969). “Succefuk Industrial Innovaton”, Washington, DC, National Science Foundation. Nelson R.R and Winter, S.G (1982). “An Evolutionary Theory of Economic Change”. Cambridge, Harvard University Press. Nelson, R.R., ed (1993). “National Innovaton Aystems: A Camparative Analysis”, Oxford, Oxfor University Press. Nosi, J (1993). “National Systems of Innovation in Search of a Workable Concept”, Technology in Society, 15: 207-227. Nunnally & Burnstein (1994) Pschy chometric Theory, 3rd edition, NewYork, McGraw Hill. OECD (2001). The wellbeing of Nations: The Role of Human and social capital, Education and Skills. OECD Centre for Education Research and Innovation, Paris, France. Ovens, A. (2000). “E-procurement at Schlumberger”, Harvard Business Review, 78(3):21-22. Patel, P and Pavitt, K. (1994). “National Innovation Systems: Why they are important, and How They Might Be Measured and Caopare”, Economics of Innovation and New Technology, 3, pp, 77-99. Porter, M. (1999). “Clusters and the New Economics of Competition”, Harvard Business Review, Dec, pp. 77 – 99. Porter, M (2000). “Locatio, Copetition and Development: Local Cluster in an Global Economy”, Economis Development Quarterly, 14-1: 15-34. Porter, M.E., and Stern, S. (1999). The New Challenge to America’s Prosperity: Findings from the Innovation Index, Council on Competitiveness, Washington. Putnam, RD (1993). “Marking Democrecy Work, Princeton” Princeton University Press. Putnam, RD (2000). “Bowling alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon and Schuster”, New York. Putnam, R. D (1995). “Bowling Alone: America's Declining Social Capital”, Journal of Democracy 6:1, Jan, 65-78. Putnam, RD (1995) “Bowling alone: America’s declining social capital”, Journal of Democracy 6:1, January 1995 pp65-78. Paul Newbold (1995) “Satistics for Business and Economics”, Prentice Hall International, Inc, 1995. Ramu Ramanathan (2002). “Introductory econometrics with application”. Chapter 8, pp347 – 357. Réjean.L, Nabil. A and Moketar. L (2000). “Does Social Capital Determine Innovation? To What Extent?”, at 4th International Conference on Technology Policy and Innovation, Curitiba, August 28-31, 2000. Rosenbgerg, N (1982). “Inside the Black Box: Technology and Economics”, New York, Cambrige University Press. Rogers, M. (1998). “The Definition and Measurement of Innovation” Melbourne Institute Working Paper No. 10/98, Melbourne Institute of Applied Economic and Social research, the University of Melbourne, Melbourne. Rothwell, R. (1994). “Towards Fifth-generation Process Innovation”International Marketing Review, 11(1):7-31. Rycroft, R. W., and Kash, D.E. (1999). “Managing Complex Networks – Keys to 21st Century Innovation Success”, Research-Technology Management, 42(3):13-18. Samson, D., and Terziovski, M. (1999). “The Relationship Between Total Quality Management Practices and Operational Performance”, Journal of Operations Management, 1999(17):393-409. Schmookler, J. (1996). “Invention and Economic Growth”, Canbrige, Harvard University Press. Uphoff, N (2000). “Understanding Social Capital: Learning from the Analysis and Experience of Participation”, pp. 215-252 in Dasguspta, P. and Serageldin I. ed, Social Capital: A Multifaceted Perspective, Washington, D.C. The Word bank. Von Hippel, E (1998). “The Sources of Innovaton”, Oxford University Press. Woolcock, M. (2000). “Why should we care about social capital?” Canberra Bulletin of Public Administration, pp17-19. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÁC BÀI BÁO TIẾNG VIỆT Huỳnh Thanh Điền (2007), “Đóng góp của vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp”, Diễn đàn SAGA – www.saga.vn, tháng 09 năm 2007. Huỳnh Thanh Điền (2007), “Vốn xã hội, pháp luật, chế độ chính trị và tăng trưởng kinh tế”, Diễn đàn SAGA – www.saga.vn, tháng 09 năm 2007. Huỳnh Thanh Điền (2007), “Văn hóa doanh nghiệp và vốn xã hội trong doanh nghiệp”, Diễn đàn SAGA – www.saga.vn, tháng 11 năm 2007. Huỳnh Thanh Điền (2007), “Quy trình phát triển dự án kinh doanh bất động sản”, Diễn đàn SAGA – www.saga.vn, tháng 12 năm 2007. CÁC BÀI BÁO BẰNG TIẾNG ANH Dien. Huynh Thanh (2004), “Obstacles to the development of the Eco-Tourism center in Upper U Minh - Kien Giang”, Economics Development Journal, July 2004 (No. 119). Dien. Huynh Thanh (2003), “Some remarks on the plan to develop rural economy in upper U Minh – Kien Giang”, Economics Development Journal, October 2004 (No. 110). Dien. Huynh Thanh (2003), “Resources allocation for development of local economy”, Economics Development Journal, July. 2003 (No. 107). Dien. Huynh Thanh and Trang. Le Thi Thuy (2002), ”Measures to develop tourism industry in Kien Giang”, Economics Development journal, November 2002 (No. 99).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung.doc
Tài liệu liên quan