Đề tài Những phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Những phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam: NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN : LÊ HÙNG SINH VIÊN : TRẦN THANH THẾ LỚP : CĐ 19 E1 TP. HỒ CHÍ MINH 2005 dc Nông nghiệp là ngành sản xuất kinh tế ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Nông nghiệp không chỉ là một cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, đất đai, lao động, tiền vốn, thị trường cho công nghiệp nhẹ và dịch vụ). Trái lại, nông nghiệp hiện đại là một loại công nghiệp và dịch vụ có năng suất và hiệu quả cao, có giá trị sử dụng thiết yếu không gì thay thế được, tạo ra giá trị gia tăng lớn, có thể cần phải và đang trở thành một ngành rất quan trọng của kinh tế tri thức . . . Còn nông thôn không phải là một địa bàn thứ yếu và h...

doc49 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1019 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN : LÊ HÙNG SINH VIÊN : TRẦN THANH THẾ LỚP : CĐ 19 E1 TP. HỒ CHÍ MINH 2005 dc Nông nghiệp là ngành sản xuất kinh tế ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Nông nghiệp không chỉ là một cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, đất đai, lao động, tiền vốn, thị trường cho công nghiệp nhẹ và dịch vụ). Trái lại, nông nghiệp hiện đại là một loại công nghiệp và dịch vụ có năng suất và hiệu quả cao, có giá trị sử dụng thiết yếu không gì thay thế được, tạo ra giá trị gia tăng lớn, có thể cần phải và đang trở thành một ngành rất quan trọng của kinh tế tri thức . . . Còn nông thôn không phải là một địa bàn thứ yếu và hậu phương phụ thuộc vào thành thị, có trình độ phát triển về các mặt đều thấp hẳn so với thành thị, cổ hủ, lỗi thời, lạc hậu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nơi con người, nhất là lớp trẻ luôn hướng ra thành thị. Trái lại, nông thôn hiện đại là một dạng của thành thị, sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn đang mất dần, trong nông thôn có các thành phố và thị trấn văn minh, sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn là ưu việt hơn cho nông thôn, chứ không phải cho thành thị. * Nông thôn hiện đại là một địa bàn để giữ gìn và tô điểm môi trường sinh thái của loài người, chứa đựng “lá phổi và trái tim” của sự sống trên thế giới. * Nông thôn hiện đại là một không gian rộng lớn mà tại đó con người được sống, gắn bó hài hòa với thiên nhiên, cây cỏ, chim muông, sông núi, đất trời, không ngột ngạt trong những thành phố đầy nhà chọc trời, bê tông, sắt thép và kính. * Nông thôn hiện đại là nơi nghỉ mát trong lành, giải trí phong phú, là vùng du lịch sinh thái đa dạng, yên tĩnh, thanh bình … Vì vậy mà việc đề ra “Những phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam” là hết sức quan trọng và cần thiết. Nói đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (VN) là nói đến toàn bộ những phương hướng của Nhà nước ta đề ra để phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngoài ra, còn nói đến những thành phần kinh tế nào tác động chính đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn. Những vấn đề lớn về các biện pháp tiên tiến trên thế giới đã và đang và sẽ được áp dụng vào Việt Nam như thế nào để phát triển nông nghiệp và nông thôn một cách hiệu quả tốt nhất. Để thực hiện tốt nhất các phạm vi trên, thì chúng ta phải có những cách thức thế nào? Để thực hiện một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để đưa nông nghiệp và nông thôn ở nước ta phát triển mạnh mẽ. Ví dụ như : làm sao để đưa khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới vào nền nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, làm sao để chọn một thành phần kinh tế phù hợp nhất để phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, làm sao có phương hướng nhanh nhất để thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở nước nhà … Để sử dụng và áp dụng thành công các phương pháp và mục tiêu sẽ được đề ra dưới đây ta phải tích cực tham khảo các tài liệu về phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhưng thành phần kinh tế chính tác động đến nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam và trên thế giới, nhưng phương hướng chỉ đạo mới nhất của Đảng và Nhà nước tác động đến nông nghiệp và nông thôn nói chung … PHẦN I LÝ THUYẾT VỀ NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN 1 – Vài nét về quan điểm về việc thực hiện phát triển nền nông nghiệp và nông thôn a) Quan điểm về nền nông nghiệp bền vững : Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích : Nông nghiệp hiện đại không đóng vai trò thụ động, cung cấp nguồn lực, phương tiện và điều kiện cho công việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà có một vai trò rất chủ động là động cơ phát lực cho toàn bộ nềnh kinh tế xã hội. Từ 1992 đến nay, dần dần khái niệm phát triển bền vững được mở rộng ngoài việc mở rộng môi trường, còn bao hàm việc tăng trưởng kinh tế vững chắc với tốc độ cao thỏa đáng và thực hiện công bằng xã hội. Một nền nông nghiệp bền vững phải đạt được 3 mục đích : - Giữ gìn và làm phong phú môi trường. - Đạt hiệu quả kinh tế cao. - Bảo đảm công bằng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy tại phiên họp 8, từ tháng 4 đến tháng 5/2000, Liên Hiệp Quốc đã nêu lên 4 đặc trưng của nền nông nghiệp bền vững : 1) Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên của toàn thế giới cho thế hệ ngày nay và mai sau. 2) Áp dụng mỗi địa phương những cách làm nông nghiệp của địa phương. 3) Bảo đảm vai trò đích đáng của nông dân trong mọi khâu của quá trình ra quyết định. 4) Phân phối quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp một cách công bằng. Ngoài ra còn chú ý đến 4 nhân tố là : 1) Sự tham gia chủ động, tích cực của các cộng đồng nông thôn, bao gồm các nông hội, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân và các cơ quan nhà nước. 2) Môi trưòng chính sách quốc gia thuận lợi, giàu tính khuyến khích, hỗ trợ. 3) Thông tin minh bạch, thông suốt và có hiệu quả giữa các tác nhân có liên quan. 4) Tập trung hoạt động nghiên cứu ứng dụng vào những cách làm những kỹ thuật thích đáng của những địa phương. b) Phát triển kinh tế nông thôn và phát triển nông thôn toàn diện Từ rất sớm, ở nhiều nước, người ta xác định tầm quan trọng của kinh tế nông thôn, bao gồm cả hoạt động nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp rất phong phú, đa dạng tại nông thôn. Những hoạt động phi nông nghiệp này từ các loại ngành, nghề, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, công nghiệp nhỏ và vừa đến các loại dịch vụ kinh tế, khoa học công nghệ và văn hóa, xã hội, cung ứng đầu vào cho nông nghiệp, giúp nâng cao cho năng suất lao động và hiệu quả sản xuất nông nghiệp chế biến nâng cao giá trị của nông sản, khơi luồng tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp. Kinh tế nông thôn tạo thêm nhiều việc làm ngay tại địa bàn làng xã, nâng cao đời sống của nông thôn, cư dân bản địa, làm nên sự giàu có và thay đổi bộ mặt của nông thôn nhờ sự gắn kết của nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, gắn kết giữa nông nghiệp với thành thị tạo ra quá trình đô thị hóa hiện đại không dồn dân vào một số ít thành phố, thực hiện phân công lao động mới, phân bổ lại sản xuất, quy hoạch kinh tế, xã hội, tổ chức đời sống dân chủ, công bằng, văn minh. Ngày nay, chúng ta nhận thức sáng tỏ và sâu sắc hơn điều vốn được phát hiện từ hàng trăm năm trước là : nếu chỉ dựa vào nông nghiệp thuần túy, thì nông thôn không thể là cơ sở, là bàn đạp của công cuộc công nghiệp hóa đất nước, nông dân khó có sức tái sản xuất mở rộng, khó giàu lên, cũng như khó xóa bỏ được đói nghèo. Vì vậy mà việc phát triển nông nghiệp và nông thôn thật là khó khăn, gian khổ nhưng ta vẫn phải làm và từng bước làm một cách triệt để nhất. c) Những vấn đề cần phát triển mà nông nghiệp và nông thôn quan tâm : * An ninh lương thực : Đầu thế kỷ 21, nếu sản lượng lương thực, thực phẩm của thế giới chia bình quân cho dân số toàn cầu, thì mỗi người ngày nhận được 300 calo, tức là một mức dinh dưỡng hơn cả no đủ. Còn thực tế hiện nay do sự phân bố bất công nên gần 1 tỷ người thiếu ăn, hàng trăm triệu người bị đói, tập trung ở nông thôn các nước kém và đang phát triển. Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu nhận định nền nông nghiệp thế giới bắt đầu diễn ra cuộc cách mạng xanh mới gọi là :”Cách mạng xanh kép” với 3 kiểu hiểu là : 1) Là cuộc cách mạng xanh về kỹ thuật, về môi trường. 2) Cách mạng xanh về giống cây trồng, về nước cho nông nghiệp (cấp tiêu đầy đủ, đúng cách, kịp thời), mà chủ yếu ở các nước nghèo đói. 3) Là cuộc cách mạng xanh về kinh tế xã hội (nội dung là công bằng xã hội, tiến bộ xã hội trong phân phối sản xuất nông nghiệp, tổ chức đời sống ở nông thôn). Trong trường hợp tính chung cả nước thì an ninh lương thực được đảm bảo, nhưng do có sự phân phối không đều, một số vùng và một bộ phận dân cư thường bị thiếu hoặc bị đe dọa thiếu lương thực. Như vậy, an ninh lương thực cho mọi người chỉ có thể đảm bảo được nhờ thành công của công cuộc “xóa đói giảm nghèo”. * Phát triển nông nghiệp bền vững : Ở phần trên, chúng ta đã phân tích về những đặc trưng và nhân tố của nền nông nghiệp bền vững. Phần này chỉ nêu cụ thể hơn một số việc quan trọng cần làm là : 1) Đảm bảo an ninh lương thực, phát triển các loại nông sản thế mạnh. Là vấn đề tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài nước bằng cách : tổ chức quản lý tiên tiến những công nghệ cao thích hợp, chính sách đúng đắn của nhà nước, sự chủ động sáng tạo của nông dân, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả. 2) Phát triển công nghiệp& dịch vụ nông thôn Ở đây là công nghiệp dịch vụ ở “nông thôn” chứ không phải ở thành thị, các khu kinh tế, các khu công nghiệp. Nghĩa là cái gì? Đó là luôn gắn bó với nông thôn, dùng nguồn lực của nông thôn, đáp ứng nhu cầu của nông thôn và nhu cầu cả nước, nhu cầu xuất khẩu, coi trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ cao, kinh nghiệm thực tiễn với kiến thức, kỹ năng hiện đại của thế giới. * Phát triển dân chủ trong nông nghiệp & nông thôn. Từ giữa thế kỷ 20 và có thể nói cho đến nay, nói đến vấn đề này là ta thường nhắc đến : 1- Tổ chức đời sống xã hội nông thôn lành mạnh, con người đoàn kết, bản sắc văn hóa phát huy, kết hợp hài hòa thành tựu văn hóa, văn minh hiện đại. 2- Cung cấp dễ dàng thông tin cho nhân dân, thực hiện minh bạch, công khai mọi hoạt động của chính quyền. 3- Giải trình, báo cáo của chính quyền một cách định kỳ, bất thường khi cần, tạo mọi điều kiện cho sự kiểm tra, phê bình của nhân dân với các hoạt động của chính quyền cơ sở. 4- Giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo lao động nông nghiệp, thực hiện xã hội học tập ở nông thôn. 5- Phát triển dân chủ (vừa đại diện vừa trực tiếp), dành trọng lượng lớn cho vai trò của quần chúng nông dân quyết định, thực hiện quyết định. 6- Phân cấp thẩm quyền, hoạt động của nhà nước, mở rộng quyền hạn cho cơ sở nông thôn đích đáng. 7- Thiết lập quan hệ đối tác, công tác giữa các tổ chức nước ngoài và chính quyền cơ sở. 2 – Những tác động, cơ hội, thách thức của nông nghiệp và nông thôn. a) Cách mạng khoa học và công nghệ Đó là : thủy lợi hóa, hóa học hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa. Ngày nay, 4 hóa trong nông nghiệp so với hồi đầu thế kỷ 20 khác biệt rất lớn, hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, hiện đại hơn nhờ tác động của công nghệ mới, cao mang lại mà chỉ 50 – 60 năm trước không một nhà khoa học nào dự báo được. Như vậy vận dụng công nghệ sinh học (sinh sản vô tính, biến đổi gen, …) rất nhanh chóng, năng suất nhưng vô cùng nguy hại về chất lượng. Ở đây ta cũng có thể nói thêm là có sự phân bố rất không đồng đều về công nghệ ở các nước. Vì vậy, đứng trước những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, nước nào kết hợp khéo các khả năng của các chặng đường công nghiệp hóa nông nghiệp trong 100 năm qua thì thành công lớn. Trái lại vào đầu thế kỷ 21 mà vẫn khư khư bám lấy cách nghĩ, cách làm của đầu thế kỷ 20 hay vội vã, hồ đồ áp dụng công nghệ cao nhất ngày một cách sai lầm sẽ lãng phí công của, thời gian dẫn đến thất bại là điều tất yếu. b) Toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế, khu vực. Có thể nói gọn là : một quốc gia, dẫu là nước đang phát triển có sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Lúc đầu không cao, nếu có một chính sách, cách làm đúng hoàn toàn có cơ hội tranh thủ được nguồn vốn, thiết bị, vật tư, công nghệ, kỹ năng quản lý từ bên ngoài để nâng cao năng suấr, chất lượng và hiệu quả nông nghiệp, phát huy các thế mạnh đã có hoặc tiềm tàng tạo thêm nhiều công ăn việc làm, gắn bó công nghiệp với nông nghiệp để tinh chế nông sản mở rộng thị trường xuất khẩu ở khu vực và thế giới. Theo nhịp tiến triển của toàn cầu hóa thì nguồn ODA ở nước ngoài vào các nước đang phát triển (ở VN) tăng lên nhưng cũng làm cho sản xuất ở trong nước gặp nhiều rủi ro là nông sản bị chi phối bởi các công ty đa quốc gia dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ nhà nước phá sản, kinh tế hộ gia đình thua thiệt, mất công ăn việc làm … khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ … Đó là những thách thức mà đất nước ta nói riêng, các quốc gia khác có cách thích hợp để ứng phó có hiệu quả nhất. c) Vai trò nhà nước, của các cộng đồng nông thôn phi chính phủ và quần chúng nông dân. Qua thực tản người ta nhận ra rằng làm sao cho nhà nước càng nhỏ, càng tốt, làm sao cho nhà nước có hiệu lực, hiệu quả, không ôm đồm về công việc, không cồng kềnh về tổ chức. Về nông nghiệp vai trò nhà nước thể hiện rõ ở 3 điểm sau : 1- Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng (nhưng không phải là tất cả) công việc xây dựng kết cấu kỹ thuật hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn. 2- Nhà nước hướng dẫn (nhưng không can thiệt sâu vào) hoạt động nông nghiệp từ cung ứng đầu vào tiến hành sản xuất, đến tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Trong thời gian và mức độ hợp lý, Nhà nước không chỉ hướng dẫn mà còn trợ cấp, giúp đỡ hoạt động nông nghiệp bằng những cơ chế, phương pháp thích hợp. 3- Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng (nhưng không phải là tất cả) công việc tổ chức cung ứng các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa … cho nông dân. Nói tóm lại là :”Do quy tắc tổ chức thương mại quốc tế nên hình thành hệ thống giá trên thị trường, vì vậy để đảm bảo thị trường trong nước ổn định thì nhà nước là người giữ “luật chơi”, sửa chữa những khuyết điểm, thất bại của chính sách, của thị trường đi đôi với “hướng dẫn, trợ giúp, tiếp thị, xây dựng hạ tầng” nhưng có chọn lọc. Quan trọng không kém gì việc đổi mới, tăng hiệu quả của vai trò nhà nước, là nâng cao tác dụng của tổ chức phi chính phủ trong mọi khâu soạn thảo, quyết định, hoạt động liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Điều đầu tiên là bảo đảm cho những tổ chức đó, từ các hội nông dân, các hợp tác xã đến các loại hiệp hội khác ở nông thôn thực sự không phải là những tổ chức nửa nhà nước hoặc gần như nhà nước mà thực sự là tổ chức của nông dân. KẾT LUẬN PHẦN I : Qua toàn bộ những vấn đề được đặt ra trong phần này, ta thấy để có một nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển thì : “Tăng cường sự chỉ đạo, huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thủy lợi hóa, điện khí hóa. Quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa, đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân, dân cư ở nông thôn.” (Báo cáo chính trị của Đại hội IX của Đảng). PHẦN II SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1- Vài nét về những thành tựu của cả nước nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng trong thời gian đổi mới đạt được. Nhờ có động lực to lớn của chính sách đổi mới, trong thập kỷ 90 đánh dấu một bước nhảy vọt của nền kinh tế Việt Nam. Về công nghiệp là rất mừng khi trong những năm gần đây (2004). Công nghiệp khu vực dân doanh đã tăng 24,1% (2003)lên 26,1%, công nghiệp chế biến tăng từ 82% (2003) lên 83% (2004), kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm có thêm điện tử, máy tính, sản phẩm gỗ … Nói chung cả năm nền công nghiệp nước ta tăng 16%. Về nông nghiệp nông thôn là có bước tiến mạnh hơn cả. Tỷ trọng các sản phẩm cây công nghiệp, ăn quả tăng từ 19,5% (1987) tới 21,8% (1997), các ngành phi nông nghiệp tăng từ 10% (1989) đến 30% (1999) trong GDP ở nông thôn … Vì vậy đã giảm mức đói nghèo từ 58% (1993) xuống 37% (1998) ở nông dân. Kim ngạch xuất khẩu của ngư nghiệp tăng từ 971 triệu USD/1999 đến 1,4 tỷ USD/2000. Về lâm nghiệp thực hiện quyết định 327, 661 … với dự án 5 triệu ha rừng. Trường học, y tế, diện tích tưới tiêu, điện ngày càng hoàn thiện. Đây chỉ là 2 ngành quan trọng trong việc đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, nó đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế Việt Nam trong những năm trước tới nay. Chẳng vậy mà từ thập kỷ 90 (những năm từ 1990 đến nay) đa số nền kinh tế nước ta vẫn giữ vững mức độ tăng trưởng trung bình từ trên 7% trở lên. 2- Phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong thập kỷ 21. Sự phát triển này chủ yếu ở 2 điểm chính là : 1. Trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn, để xác định chủ trương, chính sách thực sự tiến hành mọi công việc, nói một cách giản đơn, nguồn căn cứ của chúng ta gồm 2 phần : * Những kiến thức, kinh nghiệm của loài người nhất là thời đại ngày nay, trước hết là của những nước có điều kiện gần với điều kiện của ta. Đây là kho tàng kinh nghiệm vô giá, rất phong phú mà ta chưa tìm hiểu, vận dụng nhiều, chưa biết tiếp thu áp dụng sao cho trở thành tri thức của chính chúng ta. * Những kinh nghiệm, kiến thức do ông cha ta để lại qua mấy nghìn năm, những hiểu biết tích lũy được thêm từ khi ta xây dựng một xã hội mới. Đó là kho tàng phong phú ta vẫn chưa hoàn toàn làm chủ được, chưa kiểm kê và tổng hợp được đầy đủ, chưa vận dụng và phát huy như mong muốn. 2. Đảng và Nhà nước ta chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Phát tiển nông nghiệp là phát triển một bộ phận rất quan trọng của kinh tế nông thôn chứ không phải tất cả. Còn phát triển nông thôn thì bao quát rộng lớn hơn, chẳng những về kinh tế mà cả về chính trị, văn hóa, xã hội con người. Phát triển nông nghiệp tạo ra một cơ sở tiền đề thiết yếu để phát triển nông thôn; mặt khác phát triển nông thôn có tác động có tác động quyết định đến phát triển nông nghiệp. Nếu nông thôn kém phát triển thì không thể có nông nghiệp phát triển. Vì vậy mà nếu quá chú tâm phát triển nông nghiệp, coi nhẹ phát triển nông thôn thi ngay chỉ riêng về nông nghiệp cũng không thể có thành công một cách bền vững được. 3- Các nhận thức về sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ở đây ta chỉ chú trọng đến sự lý luận, nhận thức thông qua các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, chủ yếu ở 3 mặt là : 1) Về quan điểm phát triển : Các văn kiện của Đảng trong 15 năm đổi mới từng bước xác định ngày càng rõ hơn vai trò quan trọng của lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa suốt giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng IX vào 4/2001 đã nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo, huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn như một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự xác định vị trí phát triển này là tối cần thiết để quốc hội xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, chính phủ ban hành chính sách, phân bổ đầu tư đủ mức tiếp thêm sức lực, đáp ứng nhu cầu cần thết và vai trò quan trọng của lĩnh vực nền tảng này. 2) Về lý luận để phát triển : Đúc kết từ thực tiễn đổi mới, các chủ trương của Đảng làm sáng tỏ dần mô hình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ coi một mô thức quan hệ sản xuất nhất định là thước đo của CNXH ngay cả trong thời kỳ quá độ, đến nay, báo cáo chính trị của Đại hội IX 4/2001 khẳng định :”Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất định hướng XHCN là thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”. Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân là tiêu chuẩn đánh giá quan hệ sản xuất có phù hợp hay không. Ttrong quá trình đổi mới nông nghiệp, quan hệ sản xuất, bao gồm quan hệ sở hữu, quản lý tư liệu sản xuất, tài nguyên, quan hệ phân phối sản phẩm, thu nhập đã và đang từng bước thay đổi, ngày càng đa dạng càng phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất. 3) Về giải pháp phát triển : Các chính sách đổi mới về căn bản đã từng bước mở rộng việc sử dụng cơ chế thị trường xử lý các vướng mắc trong quá trình phát triển sử dụng ngày càng hiệu quả mọi nguồn lực. Việc tháo gỡ các rào cản trói buộc trong quản lý sản xuất, quản lý thị trường từng bước thiết lập các thị trường chưa có hoặc còn sơ khai cho phép hình thành các thị trường, giúp thị trường vận hành thuận lợi. Việc đa dạng hóa các thành phần kinh tế, pháp luật hóa các mối quan hệ kinh tế, xã hội đã góp phần từng bước tạo môi trường cạnh tranh công bằng, cho phép huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào xây dựng kinh tế. Sự trưởng thành về tư duy trên, đi từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao khi được cụ thể hóa trong luật pháp, chính sách. Sự điều hành của nhà nước đã tạo nên động lực của công cuộc đổi mới, khôi nên sức mạnh toàn dân. Như vậy, động lực mà đổi mới cho đến nay tạo ra cho nhân dân, về thực chất là động lực của việc giao quyền làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ quản lý sản xuất kinh doanh, làm chủ phân phối sản phẩm cho nhân dân, là hiệu quả có được từ việc giao trách nhiệm đều tiết tài nguyên cho cơ chế thị trường là sự tiếp sức của nhà nước về vốn, công nghệ, đảm bảo môi trường pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong cơ chế thị trường. 4. Môi trường kinh tế tác động đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. * Thuận lợi : Đảng và Nhà nước ta đã tích cực có những tác động vô cùng lớn đối với việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp nông thôn như : Ngày càng nới lỏng bộ luật cho nông nghiệp, nông thôn, tạo mọi điều kiện có thể được để đưa nông nghiệp nông thôn phát triển như : quan hệ ngày càng rộng với các nước, các tổ chức trên thế giới để có thể tiêu thụ nông sản một cách ổn định của nước ta ra thị trường nước bạn … Có thể tóm gọn bằng 7 chính sách là : chính sách ruộng đất với nguyên tắc chủ yếu là “khoán” và “nông dân làm chủ”; chính sách đầu tư; chính sách thuế theo từng địa bàn; chính sách khoa học công nghệ theo phương pháp tuyên truyền và hướng dẫn từng bước; chính sách giá cả sản lượng; chính sách tín dụng : tạo mọi điều kiện thật dễ dàng để nông dân vay vốn làm ăn; cuối cùng là chính sách xã hội như : xóa đói, giảm nghèo, chính sách y tế giáo dục … Ngoài ra, còn vô số những điều kiện rất thuận lợi khác. * Khó khăn : Bên cạnh những điểm lợi như vậy, nhưng tại sao nước ta vẫn chưa đưa nền nông nghiệp nông thôn trở nên tiên tiến được? Song song với những điều kiện thuận lợi là hàng loạt những khó khăn đặt ra :điều kiện tự nhiên thì khắc nghiệt (chỉ thuận lợi cho một số cây trồng nhất định), gia nhập với quốc tế tức là phải cạnh tranh để mà phát triển, cơ sở hạ tầng rất là thấp kém, … 5. Những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển đến nông nghiệp, nông thôn nước ta. 1- Những thách thức và khó khăn mới. Ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam đã đi được một chặng đường dài thành công trên con đường đổi mới, tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới toàn nền kinh tế. Bước vào giai đoạn phát triển mới, trước mắt chúng ta xuất hiện những thời cơ và thách thức thới, bên cạnh đó, nhiều nhược điểm, thiếu sót trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp phát triển kinh tế nông thôn vẫn tiếp tục tồn tại, đòi hỏi tiếp tục đề ra chủ trương, chính sách đưa sự nghiệp đổi mới đi lên. Một số trở ngại chính là : - Sức cạnh tranh của nông sản kém Sản xuất nông, lâm, ngư đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, qui mô tuy lớn nhưng trình độ tổ chức còn yếu kém, sản xuất phân tán, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và uy tín hàng hóa Việt Nam còn yếu, không xứng với khối lượng sản phẩm trên thị trường, tạo nên mâu thuẫn giữa yêu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh và cách tổ chức chỉ đạo thiên về khuyến khích tăng sản lượng. Có rất nhiều mặt hàng hiện nay cung đã vượt cầu trong nước và xuất khẩu là giải pháp duy nhất để nâng giá nông sản, tuy nhiên, chất lượng thấp, giá thành cao, qui cách và phẩm cấp không phù hợp thị hiếu tiêu dùng đang làm nông sản Việt Nam kém sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tổ chức tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển sản xuất hàng hoá, xảy ra dư thừa, ứ đọng, người sản xuất kinh doanh bị động trước biến động giá cả, chi phí buôn bán cao, ảnh hưởng xấu đến thu nhập và đời sống của người làm nghề nông. Cánh kéo giá tiếp tục diễn biến bất lợi cho nông dân. Kinh doanh nông sản vẫn là ngành rủi ro cao, lợi nhuận thấp. Một trong những biểu hiện của yếu kém này là sự non yếu của lĩnh vực chế biến nông sản. Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp, mới chỉ đạt 30% sản lượng mía, gần 60% chè, 5% rau quả, 1% thịt hơi, 25% sản phẩn thủy sản… Số lượng các cơ sở mới được xây dựng có máy móc, thiết bị tương đối hiện đại chưa nhiều. Phần lớn các cơ sở chế biến lúa gạo, chè, rau quả… được xây dựng đã lâu, thiết bị và qui trình công nghệ lạc hậu. Nhìn chung năng lực công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch chưa theo kịp tốc độ phát triển sản xuất nguyên liệu và có khoảng cách xa so với yêu cầu về nâng cao chất lượng và hiệu quả nông sản. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp đều được tiêu thụ dưới dạng thô hoặc sơ chế. Công nghiệp chế biến nói chung và ngành, nghề công nghiệp nông thôn phát triển chậm. Một biểu hiện khác là công tác quản lý Nhà nước vẫn nặng về cầm tay chỉ việc, lo đốc thúc tiến độ, qui mô sản xuất nhưng chưa chú ý đúng mức đến tạo dựng và duy trì một môi trường thuận lợi cho một nền sản xuất chất lượng và hiệu quả cao. Việc ban hành chính sách, tiêu chuẩn chất lượng chậm và thiếu, công tác tổ chức giám sát kỹ thuật, kiểm tra chất lượng thiếu và yếu, không huy động được sức mạnh toàn dân tham gia quản lý và giám sát. Bởi vậy tình trạng gian lận trong sản xuất và thương mại diễn ra kéo dài và nghiêm trọng, như buôn lậu, khai thác và buôn bán trái phép sinh vật hoang dã, làm hàng giả, kém vệ sinh, cân thiếu… Tình trạng tiêu cực trong các cơ quan công quyền chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát kỹ thuật có điều kiện tiếp tục tồn tại. Việt Nam đã cam kết thực hiện giảm thuế nhập khẩu và cắt giảm các biện pháp phi quan thuế cho phần lớn hàng hoá các nước ASEAN vào năm 2003. Những cam kết khác cũng đang được thực hiện với thành viên APEC, đã được ký kết với Mỹ hoặc đang thảo thuận với WTO. Cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp trong tương lai đã bắt đầu và sẽ diễn ra quyết liệt ngay trong thị trường nội địa. Nhiều mặt hàng liên quan đến nông nghiệp mà Việt Nam có thể sản xuất được hiện vẫn vất vả đương đầu với hàng nhập như đường, muối, trứng, hoa quả, ván nhân tạo, bột giấy, máy nông nghiệp… Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, nhưng sự yếu kém trong đầu tư và tổ chức quản lý của các doannh nghiệp Nhà nước và một môi trường kém hấp dẫn để hình thành các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác là một trong những nguyên nhân quan trọng. Tiến độ và nội dung quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước chậm, không gắn bó với nhu cầu tăng cường năng lực cạnh tranh để ứng phó với tiến trình hội nhập, vì vậy không tạo nên động lực chủ động từ phía người lao động, người quản lý của các doanh nghiệp. Thiếu động lực nội tại cũng làm cho hầu hết doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài của ngành nông nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ phải phá sản hoặc phải chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Để chủ động ứng phó với thị trường, đối đầu với cạnh tranh, người sản xuất kinh doanh cần có thông tin thị trường kịp thời và chính xác, các doanh nghiệp khi gia nhập thị trường quốc tế cần có sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước về xúc tiến thương mại. Hiện nay, các hoạt động này mới ở trạng thái manh nha, bởi vậy người kinh doanh và tiếp theo là người sản xuất phải gánh chịu nhiều rủi ro không đáng có. Công tác nghiên cứu kinh tế theo quan điểm thị trường còn mới mẻ và hạn hẹp, chưa hình thành tổ chức tham mưu đáng tin cậy cho công tác quản lý Nhà nước về định hướng đầu tư, đàm phán hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng chính sách thương mại. - Cạnh tranh trên thị trường nông sản ngày càng gay gắt : Việt Nam sản xuất nhiều nông sản giống như các nước trong vùng. Gạo cạnh tranh với Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Mianma; cao su với Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Srilanca; chè với Srilanca, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia; đường với Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc; rau quả với Trung Quốc, Thái Lan… Ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, các nước trong khu vực Châu Á tăng cường sản xuất, thu hẹp nhập khẩu. So với mức gạo nhập khẩu năm 1999, Indonesia năm 2000 giảm hơn 2 triệu tấn, Philipin giảm 0,6 triệu tấn. Trung Quốc tháng 3/2000 xuất khẩu phá giá gạo với mức thấp hơn gạo Việt Nam 10 USD và thấp hơn gạo Thái Lan 25 USD, tăng xuất khẩu 48% so với 5 năm trước. Các nước trong vùng ráo riết đổi mới chính sách nhằm khuyến khích sản xuất và đầu tư hiệu quả. Chỉ tính từ năm 2000 trở lại đây, Indonesia đánh thuế 30% với gạo nhập khẩu, mức thuế này đang tăng dần và được điều chỉnh 6 tháng/lần để bảo vệ sản xuất; chuyển từ trực tiếp kiểm soát ngành đường sang đánh thuế nhập khẩu và mua mía của dân theo giá qui định. Thái Lan mua hàng trăm ngàn tấn gạo tạm trữ, áp dụng chương trình trợ giá gạo, hỗ trợ người trồng mía và triển khai chương trình đầu tư để tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu 12 nông sản chủ lực, trợ giá cao su, giảm diện tích cao su thay thế bằng cọ dầu, đổi cao su lấy phân bón; Trung Quốc tiến hành giảm thuế nhập khẩu, thuế thu nhập, thu hút đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất bằng giảm giá thu mua mía, giảm diện tích mía, đóng cửa 143 nhà máy đường, giảm trợ giá, giảm sản xuất lương thực, khuyến khích trồng cây có giá trị cao; Ấn Độ tăng thuế nhập khẩu lương thực… Nhìn chung các nước vừa tăng cường bảo vệ các mặt hàng có lợi thế, vừa mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu, loại bỏ các hàng hoá kém lợi thế, khiến khả năng cạnh tranh của họ tăng lên rõ rệt. Trong tương lai sau 5 năm nữa, với phần lớn các hàng hoá, do thực hiện các cam kết với AFTA, thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm xuống 0 -5% và các hình thức bảo vệ phi quan thuế cũng cắt giảm theo, tuy nhiên đối với nông sản, cuộc đấu quyết liệt nhất sẽ là 8 – 10 năm sau, khi công nghiệp chế biến nông sản non trẻ và các mặt hàng yếu thế của Việt Nam (đường, dầu ăn,…) bước vào áp dụng cam kết. Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ, đang đàm phán gia nhập WTO, mức độ tham gia thị trường thế giới sẽ rộng lớn hơn rất nhiều. - Kết cấu hạ tầng kém phát triển : Kết cấu hạ tầng nông thôn như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc và các kết cấu hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, còn thấp kém. Dịch vụ phục vụ sản xuất như thú y, sản xuất giống, tín dụng… và phục vụ đời sống như giáo dục, y tế, tư pháp, văn hoá, thể thao… còn rất thiếu và yếu. Còn vắng bóng các công trình phục vụ tiếp thị và thương mại như kho tàng, chợ bán buôn, cảng, thông tin thị trường. Nông thôn vẫn là địa bàn đầu tư kém thuận lợi và lợi nhuận thấp. Mưc đầu tư hạn hẹp kéo dài làm kết cấu hạ tầng nông thôn kém phát triển, chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp, chủ yếu phục vụ ngành trồng lúa, nhiều vùng, nhiều loại cây trồng còn thiếu nước tưới, việc sử dụng nước còn lãng phí, quản lý nước và công trình thủy lợi hiệu quả thấp. Hệ thống giao thông nông thôn còn thiếu thốn và lạc hậu ở nhiều vùng, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, miền núi… gây ách tắc về giao lưu hàng hoá và chia cắt vùng sản xuất với thị trường. Mức độ cơ giới hoá và điện khí hoá trong nông nghiệp tăng chậm. 51% số hộ đã có điện để dùng nhưng điện sử dụng trong khu vực nông thôn mới chiếm gần 8,7% tổng sản lượng điện phát ra. Ở nông thôn, điện dùng cho sản xuất còn ít, chủ yếu phục vụ bơm nước, các cơ sở chế biến và thắp sáng, chất lượng điện cho nông thôn kém. Trong nông nghiệp, lao động thủ công vẫn phổ biến, trang bị cơ giới cho 1 ha gieo trồng mới khoảng dưới 0,25 mã lực. Tỷ lệ cơ giới hoá trong các khâu sản xuất nông nghiệp, chế biến… mới đạt trên 30%, còn lại chủ yếu do lao động thủ công đảm nhiệm. - Trình độ khoa học và công nghệ thấp. Các Viện nghiên cứu và trường Đại học được đầu tư thấp, phối hợp hoạt động kém. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, tổng chi phi cho 1 cán bộ nghiên cứu của Việt Nam 1 năm chỉ bằng 9% suất đầu tư của Indonesia và Thái Lan, 2,5% suất đầu tư của Malaysia. Với mức đầu tư quá ít cho khoa học hiện nay, thì phần chi lương, hoạt động bộ máy đã chiếm gần 60% tổng kinh phí, thực chi cho đề tài chỉ còn 37%. Thiết bị, máy móc, cơ sở vật chất lạc hậu, cũ kỹ, thông tin khoa học ít ỏi, trình độ cán bộ thấp dần và mất dần nhân tài. Công tác thông tin khoa học còn yếu kém. Nguồn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới chưa được thu thập, phân tích và chuyển giao đầy đủ, kịp thời cho người sản xuất. Trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học thấp. Trừ một vài loại sản phẩm như cà phê, lúa, ngô, phần lớn các cây trồng, vật nuôi năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Nhiều loại sản phẩm dù Việt Nam có tiềm năng, nhưng sự thua kém về khoa học kỹ thuật làm cho hàng hoá kém khả năng cạnh tranh. Nghiên cứu khoa học yếu, đầu tư áp dụng công nghệ mới cũng rất kém. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và hộ ngành, nghề ở nông thôn rất thấp, chỉ có 18,6% các cơ sở có nhà xưởng kiên cố; 85% có sử dụng điện; 37% công việc được cơ khí hoá, còn 63% làm bằng tay. Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp, chủ yếu là vốn tự có. Bình quân 1 cơ sở có 370 triệu đồng, 1 hộ chuyên : 36 triệu đồng, 1 hộ kiêm : 19 triệu đồng, trong đó, vốn vay chiếm khoảng 20%. Sản phẩm của ngành, nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thị trường trong nước, chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ có tham gia xuất khẩu đạt giá trị cao. Nhìn chung mặt hàng đơn điệu, chất lượng thấp, mẫu mã, bao bì kém. - Thu nhập của nông dân tăng chậm, khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành phố tiếp tục tăng. Mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng liên tục nhưng thu nhập của nông dân tăng rất chậm so với mức tăng sản lượng. Cuộc điều tra Mức sống dân cư Việt Nam 1997 – 1998 cho thấy thu nhập bình quân thực của người dân nông thôn chỉ bằng 35% so với mức thu trung bình ở thành thị, trong đó thu nhập bình quân của dân nông thôn ở vùng miền núi phía Bắc còn thấp hơn mức trung bình của dân cư nông thôn 16%. GDP đầu người ở nông thôn chưa bằng ½ thu nhập bình quân của cả nước. Chênh lệch thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi, giữa các nhóm giàu, nghèo ở nông thôn tiếp tục dãn ra. Thu nhập của nông dân rất thấp làm khả năng tiêu dùng của nông dân thấp khiến nông thôn bao la chưa trở thành thị trường đáng kể cho kinh tế đô thị. Tỷ lệ đói nghèo còn cao. Theo các tiêu chí đánh giá cũ thì năm 1999 còn 13,3%, năm 2000 còn 11,4%, trong đó ở nông thôn năm 1999 còn gần 16%, năm 2000 : 14,3% hộ nghèo (theo tiêu chí mới thì số hộ nghèo năm 2000 là 17%). Cuộc sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa, miền núi vẫn rất khó khăn. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng và đã đạt được kết quả to lớn, tới nay vẫn còn khoảng 2,5 triệu người thuộc 52 dân tộc trong diện vận động định canh, định cư, trong đó có 10 vạn hộ đặc biệt khó khăn. Hàng năm vẫn còn 30 vạn hộ thường xuyên bị đói, 40 vạn hộ du canh, du cư. - Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm phát triển. Mặc dù trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp đã đa dạng và từng bước đổi mới cơ cấu, tuy nhiên , quá trình chuyển đổi diễn ra chậm. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng thấp trong sản xuất nông nghiệp và chưa trở thành ngành chính. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn phát triển rất chậm. Sự gắn bó giữa kinh tế nông thôn với kinh tế đô thị về lao động, thu nhập, đầu tư chưa đủ mạnh để thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn. Ở những vùng sâu, vùng xa phổ biến vẫn là kinh tế thuần nông. - Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn cao. Dân số Việt Nam hiện có khoảng 77 triệu người và từ nay đến năm 2005, hàng năm có hơn 1 triệu bước vào độ tuổi lao động cần có việc làm. Trong 30 triệu lao động nông thôn có tới hơn 85% không có chuyên môn kỹ thuật và 28% không có hoặc thiếu việc làm. Số lao động dôi dư tiếp tục tăng nhanh hơn mức tăng việc làm. Tay nghề và trình độ kỹ năng lao động nông thôn thấp. Nông thôn thừa lao động, thiếu chất xám, trí thức không muốn về nông thôn làm việc. - Môi trường bị phá hoại, thiên tai diễn biến phức tạp. Phương thức tăng trưởng sản xuất theo chiều rộng hiện đang khai thác các tài nguyên tự nhiên đến mức giới hạn. Hiện nay bình quân 1 hộ nông nghiệp chỉ hơn 5000m2 đất nông nghiệp, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng : 2.277m2. Qui mô sản xuất manh mún như vậy chỉ phù hợp với sản xuất lao động thủ công, nhất làở đồng bằng sông Hồng và miền Trung. Nước tứơi, nước sinh hoạt cũng bị khai thác nhiều và sử dụng lãng phí. Các địa phương đầu nguồn, gần nguồn được hưởng lợi tối đa của các công trình thủy lợi, đã lựa chọn mọi phương hướng sử dụng đất tiêu tốn nhiều nước và tăng vụ đến mức tối đa trong khi nhiều vùng xa nguồn, hoặc ở hạ lưu thiếu cả nước sinh hoạt trong mùa khô. Nguồn lợi thủy sản cạn kiệt do cách khai thác tận diệt bằng thuốc nổ, hoá chất độc, rà điện hoặc dùng lưới quét mắt nhỏ ven bờ đang làm cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng xấu môi trường sinh thái. Việt Nam có 19,6 triệu ha đất lâm nghiệp, chiếm 2/3 diện tích tự nhiên cả nước, nếu như năm 1943 diện tích rừng tự nhiên là 14 triệu ha chiếm 48% tổng diện tích thì hiện nay diện tích rừng chỉ còn hơn 9 triệu ha chiếm khoảng 28% - 33% tổng diện tích. Trong 1 triệu ha rừng tự nhiên thì 56% là rừng nghèo kiệt. Hơn 10 triệu ha đất hiện chỉ còn đồi núi trọc. Nuôi tôm tràn lan xâm hại sinh cảnh đất ngập nước ven biển rộng lớn ở đồng bằng sông Cửu long. Diện tích cà phê tăng lên nhanh chóng ở Tây nguyên kéo theo tình trạng phá rừng nghiêm trọng trên những khu vực đất dốc hoặc không có đủ nguồn nước tưới. Những tàn phá vô ý thức tương tự làm cho tình hình diễn biến thời tiết và thiên tai trở nên rất phức tạp và nghiêm trọng trong thời gian gần đây. - Chính sách vĩ mô cần tiếp tục hoàn chỉnh. Trong giai đoạn 1995 – 1997, đầu tư chung của xã hội cho nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm khoảng 13,7% tổng đầu tư. Trong đó, ngân sách Nhà nước cho khu vực này chỉ chiếm khoảng 7,4% ngân sách đầu tư cho toàn xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này đến cuối 1998 mới chiếm 1,6% tổng vốn. Tuy chưa có kết quả phân tích thống nhất về mức độ đầu tư cho nông nghiệp, nhưng nhìn chung, các ý kiến nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy mức đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp trong nhiều năm trước còn thấp nhiều so với mức đóng góp của lĩnh vực này cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái là chính sách vĩ mô quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của nông sản Việt Nam. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, 4 năm nay các nước trong vùng liên tục phá giá đồng tiền bản địa, thách thức nghiêm trọng lợi thế cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Nếu liên tục trong thời gian qua Việt Nam không từng bước điều chỉnh tỷ giá thì nhiều mặt hàng nông sản đã không thể cạnh tranh được với các nước trong vùng. Tuy nhiên so với mặt bằng tỷ giá trước khi xảy ra khủng hoảng, nông sản Việt Nam vẫn ở thế khó khăn hơn trong cạnh tranh do mức điều chỉnh tỷ giá của các nước mạnh hơn so với đồng Việt Nam. Liên tiếp 3-4 năm nay, mức độ tăng giá hàng nông sản đặc biệt là nhóm hàng lương thực thấp hơn rất nhiều so với mức tăng giá các mặt hàng công nghiệp, dịch vụ và thấp so với mức tăng giá vật tư nông nghiệp, tình trạng này làm giảm mức tăng thu nhập của nông dân, làm tăng khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị về thu nhập. Các chính sách vĩ mô khác như lãi suất ngân hàng, chi tiêu của Chính phủ, chính sách bảo hộ hàng hoá… cần tiếp tục điều chỉnh thích hợp để chấm dứt tình trạng cánh kéo giá nông sản với giá hàng công nghiệp và dịch vụ dãn ra theo hướng bất lợi cho hàng hoá nông sản. Để thích ứng với sự biến động của thị trường và đáp ứng xu hướng sản xuất hàng hoá, người sản xuất muốn được có khả năng sử dụng nguồn lợi tự nhiên cơ động hơn, đa dạng hơn, vững bền hơn. Các qui định về hạn điền, giao đất, giao rừng, qui hoạch định hướng sử dụng đất, định hướng đầu tư công nghiệp chế biến… phải được điều chỉnh lại để vừa đảm bảo được quyền lợi lâu dài, tổng hợp của quốc gia, vừa phù hợp với qui luật kinh tế khách quan của thị trường, giao quyền và trách nhiệm quyết định về đầu tư và gánh chịu rủi ro cho người trực tiếp sản xuất, kinh doanh. SưÏ bất cập của các chính sách này thể hiện ở nhiều hạn chế khác nhau. Ví dụ quá trình giao đất, giao rừng trong lâm nghiệp diễn ra rất chậm. Tỷ lệ đất rừng được phân bổ ở các tỉnh khác nhau từ 30% đến 80%, tỷ lệ hộ được nhận đất khác nhau từ 1,2% đến 85% tùy theo tỉnh. Chỉ có 13% đất chưa sử dụng của cả nước được phân chia cho ngừơi quản lý, còn hơn 10 triệu ha đất loại này chưa có đối tượng quản lý rõ ràng. Yêu cầu của nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai theo tín hiệu của thị trường trong nhiều trường hợp trở nên mâu thuẫn với cân đối phát triển chung. KẾT LUẬN PHẦN II : Rõ ràng là do tầm quan trọng đặc biệt của nông nghiệp, nông thôn nên việc dành những ưu tiên cho phát triển khu vực này là một điều tất yếu không thể bàn cãi. Theo những phần trên thì cả nước, các tổ chức phi chính phủ, nông dân là người quyết định đến việc phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Nhưng trong đó quan trọng hơn cả là Nhà nước với những chính sách pháp quyền, dân quyền phù hợp sẽ từng bước đưa nền nông nghiệp, nông thôn nước nhà khắc phục những khó khăn trước mắt lâu dài, tiến lên và mục tiêu là một nền “nông nghiệp bền vững” với thu nhập người dân tăng, môi trường xanh, đẹp, … Nhưng để làm được điều đó không phải nhà nước nào cũng làm được, muốn làm được cần có thời gian, có kinh nghiệm, vừa bên trong, vừa bên ngoài, sử dụng một cách chọn lọc cho phù hợp với từng vùng trong đất nước, mà vẫn giữ được bản sắc, bản chất vốn có tốt đẹp của chính mình. PHẦN III MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ ĐƯA NỀN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NƯỚC TA PHÁT TRIỂN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1- Một số quan điểm cần làm rõ : Để đương đầu với những thắng lợi, những khó khăn như phần trên đã nói, đưa sự nghiệp đổi mới của cả nước tiếp tục đi lên cần phải làm rõ những quan điểm giải pháp sau : 1) Tiếp tục khẳng định rõ vai trò quan trọng của nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Thể hiện sự kiên định này chính bằng hệ thống pháp luật, cơ cấu đầu tư đủ mức đáp ứng nhu cầu của lĩnh vực nền tảng này. Nếu chỉ rút đi sức người, sức của, không đầu tư đủ mức lại cho nông nghiệp, nông thôn thì chẳng những quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn không thể diễn ra mà còn xuất hiện những rủi ro về chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường. Tùy hoàn cảnh trong nước, mà có chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Nhưng sự đầu tư này phải ngay từ đầu, liên tục nó như sự khởi động. 2) Tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhà nước nông dân. Điều đáng ngại là ở nước ta hiện nay là chưa hình thành mối liên kết “hữu cơ” giữa đầu tư của nhà nước với nỗ lực phát triển của cư dân nông thôn. Hầu hết việc xây dựng các dự án đầu tư công trình quan trọng, các chiến lược phát triển đều thiếu ý kiếm tham gia trực tiếp của dân. Một khâu quan trọng khác là các thiết kế, thi công quản lý các công trình xây dựng thì đa số bó hẹp trong các viện, các bộ chủ quản chứ không có sự tham gia ý kiến của dân. Vì vậy cần phải biến các tổ chức đại diện cho nông dân như : Liên hiệp các hợp tác xã, Hội nông dân trở thành đại diện thực sự của nhân dân, được nhân dân bầu ra theo từng cấp từ dưới lên, các cán bộ chuyên môn được hợp đồng theo nhu cầu chuyên môn. Nhà nước hỗ trợ kết hợp với nhân dân đóng góp để các tổ chức này có kinh phí, điều kiện hoạt động thật thuận lợi, giao quyền cho các tổ chức này để biến chúng thành cầu nối thực sự giữa nhà nước và nông dân trong công tác phát triển nông thôn. 3) Phải nâng cao mức thu nhập trung bình, khả năng tích lũy của hộ nông dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ tích lũy và sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông dân rất quan trọng. Về tỷ lệ để dành trong nông dân tăng dần : từ 1990 đến 1995 tăng gấp 4 lần (1994 đạt 172.000đ/người). Đến nay lượng vốn đó đã lớn hơn nhưng vẫn chưa được huy động có hiệu quả vào đầu tư sản xuất phát triển nông thôn. Để tạo tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Câu hỏi đầu tiên phải trả lời là : làm sao để từng vùng, từng hộ nông dân có tích lũy tài sản sản xuất mở rộng. 4) Phải mở rộng đúng cánh cửa quan hệ sản xuất thích hợp, giao vai trò lịch sử cho chủ thể mới ở nông thôn. Ở đây ta chỉ bàn 3 hướng chính : * Hướng phát triển các doanh nghiệp tư nhân : là các nông dân giàu sẽ đầu tư vào các ngành khác như : thủ công nghiệp, kinh doanh, dịch vụ … Có thể là một người giàu, hay nhiều người giàu cùng làm hoặc có thể một làng, một xã cùng làm. Mà kinh tế hợp tác là lựa chọn và ưu điểm hơn cả, với hoạt động đa dạng theo nhiều kiểu như : hợp tác máy cày, cung cấp phân bón, vật tư, tiêu thụ nông sản, tín dụng, … điểm cần lưu ý là hợp tác xã cổ phần. * Hướng phát triển nông trại : dần dần với hình thức : trồng rừng, cây ăn quả, chăn nuôi, … theo thời gian các nông trại này sẽ liên kết với nhau theo hướng cũ hay theo hướng khác nhưng với quy mô rộng hơn. * Hướng phát triển hợp tác hóa : là sự liên kết của nông dân với nhau, của các tập đoàn nông hội với nhau theo chuyên môn và dần dần trở nên lớn mạnh trong guồng máy sản xuất lớn. Muốn vậy thì cần 3 yêu cầu chính : Mỗi hộ nông dân phải có nguồn vốn để tích lũy, đầu tư. Có nguồn chuyển giao công nghệ tiên tiến cả về nông nghiệp, phi nông nghiệp để sử dụng vốn có hiệu quả, làm ra giá trị gia tăng. Trong hoàn cảnh một nền kinh tế thị trường, phải có nơi tiêu thụ sản phẩm để dòng vốn được liên tục luân chuyển, quá trình tái sản xuất mở rộng diễn ra nhanh chóng. 5) Phải tìm ra và khơi dậy được động lực, những nguyện vọng và lợi ích chính đáng, thiết thân của nhân dân để khai thác được nội lực khổng lồ trong dân. Điều cốt yếu là phải đưa ra được chủ trương, chính sách tháo gỡ mọi cản trở tăng cường năng lực cần thiết để lực lượng sản xuất phát triển. Khi lực lượng phát triển phải xác định sao cho quan hệ sản xuất hợp lý, chủ động điều chỉnh phù hợp tạo nên động lực cho đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu thiết thân của đông đảo nông dân và cư dân nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. 2- Một số giải pháp cần giải quyết a- Phát triển hệ thống hợp đồng như một hình thức tổ chức sản xuất đưa kinh tế tiểu nông lên sản xuất hàng hóa lớn công nghiệp hóa. Tuy phạm vi áp dụng còn hẹp nhưng mô hình “hệ thống hợp đồng” tỏ ra có sức sống đặc biệt thỏa mãn được yêu cầu về vốn, công nghệ tạo thị trường cho hộ nông dân sản xuất nhỏ nhờ đó duy trì được khả năng tái sản xuất của nông hộ, đóng góp tái sản xuất mở rộng cho cả doanh nghiệp. Có thể áp dụng cho các công ty tư nhân hân nhà nước, nước ngoài hoặc cũng có thể thông qua hình thức liên doanh. Mà hạt nhân là nông trường, công ty kinh doanh, doanh nghiệp tổng hợp. Hình thức này loại bỏ vai trò của các tầng lớp mua bán, làm dịch vụ trung gian như cho vay, cò mồi, … và trực tiếp bảo vệ người nghèo khi bán sản phẩm mình làm ra. Giúp hàng hóa của nông dân không bị chèn ép mà giúp nông dân và người bán (các công ty) cùng chia sẻ lợi nhuận, hai bên cùng có lợi tạo nên cơ hội cùng đầu tư theo chiều sâu, áp dụng đồng bộ, phối hợp các công nghệ mới từ A đến Z. Đây là triển vọng cho hàng triệu triệu hộ nông dân sản xuất chưa có điều kiện tích lũy đất đai có thể áp dụng công nghệ mới làm giá trị tăng, là chìa khóa mở lối thoát cho thị trường nông lâm Việt Nam. Hình thức hoạt động theo tay ba là : doanh nghiệp nhà nước + đối tác nước ngoài + nông dân hợp đồng. Vì vậy mà Nghị quyết 6 của Bộ chính trị về củng cố liên minh công nông phát huy nội lực, tiềm năng lợi thế so sánh của từng vùng, cả nước thực sự “gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết công – nông – dịch vụ, thị trường ngay trong địa bàn nông thôn trong phạm vi cả nước”. Ngoài ra “khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước hợp đồng dài hạn với hộ nông dân, với các hợp tác xã để cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo mối liên kết ổn định lâu dài với nông dân”. - Hợp tác xã và dich vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn : Để thực sự hỗ trợ được cho kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại phát triển một cách có hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong một nền kinh tế sản xuất hàng hoá mở cửa, trong thời gian tới, phải tập trung phát triển hệ thống hợp tác xã và các hình thức hợp tác của nông dân. Mở ra hành lang pháp lý và có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ thích hợp cho các hình thức tổ hợp tác và các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của nhân dân. Ngoài những biện pháp hỗ trợ như tăng cường đào tạo, tạo điều kiện cho vay vốn, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu trình Quốc Hội chỉnh sửa Luật Hợp tác xã để tăng thêm các chức năng khác cho hợp tác xã như kinh doanh, phat triển công nghiệp chế biến, thương mại, xuất nhập khẩu, tín dụng, bảo hiểm… Từng bước gánh bớt vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân. Tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng của các hợp tác xã cũ để tạo điều kiện cho xã viên chuyển đổi, xây dựng hợp tác xã theo luật mới. Các hợp tác xã và các tổ chức nông dân không chỉ làm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà còn đóng vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi của nông dân trong thực hiện và kiến nghị về chính sách, trong việc tham gia hoạch định, giám sát và quản lý các hoạt động đầu tư phát triển nông thôn, thực sự trở thành công cụ hiệu quả để phát triển nông thôn mới. Cải tổ hình thức tổ chức của hợp tác xã từ trung ương đến địa phương để hợp tác xã thực sự là tổ chức của nông dân, do xã viên bầu từ cấp dưới lên trên. Phân rõ vai trò sở hữu và quản lý. Cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý do Ban chủ nhiệm thuê, có đủ trình độ làm nhiệm vụ quản lý hoặc nghiệp vụ chuyên môn. Hoàn thiện và ban hành văn bản pháp qui về hiệp hội nhằm phát huy vai trò của các hiệp hội trong các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như xúc tiến thương mại, thông tin thị trường, xây dựng quĩ bảo hiểm ngành hàng… - Củng cố các doanh nghiệp Nhà nước. Đẩy mạnh tiến độ sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết phải nắm 100% vốn. Giao bán khoán, giải thể, sát nhập… các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, làm ăn kém hiệu quả. Đối với một số doanh nghiệp nòng cốt do Nhà nước quản lý, cần tập trung hỗ trợ đủ mức vốn lưu động, tăng cường năng lực cán bộ… Nghiên cứu hình thành một cơ chế quản lý đề cao quyền tự chủ của doanh nghiệp, gắn chế độ trách nhiệm của cá nhân người quản lý, gắn quyền lợi của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh, gắn mức độ đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp với năng lực của đơn vị phục vụ, hỗ trợ và phối hợp với nông dân, có cơ chế tách bạch quyền sở hữu của Nhà nước khỏi quyền quản lý của người lãnh đạo doanh nghiệp. Thông tin rộng rãi về các cam kết quốc tế để ứng phó với những thách thức và triển vọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng nhanh. Tiến hành các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tiến trình hội nhập đến các đối tượng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương và các doanh nghiệp có khả năng bị thua thiệt trong quá trình hội nhập, để có chủ trương, chính sách thích hợp nhằm khắc phục những rủi ro có thể xuất hiện trong tiến trình hội nhập. Xây dựng chương trình tập trung hỗ trợ (như đào tạo con người, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, cải tiến công nghệ, cải tiến quản lý, hài hoà hoá các qui định…) cho các oanh nghiệp, các ngành hàng có thế mạnh, có lợi thế so sánh. Từng bước nâng các đơn vị này lên ngang tầm các đối tác trong khu vực và thế giới. Tổng kết bài học kinh nghiệm về liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để khắc phục các nhược điểm trước đây và mở rộng, nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn. - Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Hoàn thiện tổ chức của các đoàn thể quần chúng và các tổ chức của cộng đồng để các tổ chức này thực sự đại diện cho quyền lợi và tiếng nói cho các tầng lớp nhân dân. Hoàn chỉnh cơ chế lập và triển khai kế hoạch và dự án để tăng cường khả năng tham gia của người dân một cách trực tiếp hoặc thông qua đại diện của cộng đồng và các đoàn thể quần chúng trong việc xây dựng kế hoạch, giám sát thi công và quản lý công trình, dự án. Xây dựng cơ chế tham gia chủ động của nhân dân ở cơ sở vào các hoạt động hoạch định chính sách, định hướng đầu tư, phản ánh các vướng mắc, khiếu nại của nhân dân và các yêu cầu cung cấp thông tin về kỹ thuật, luật pháp, thị trường… của nông dân với các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan cung cấp dịch vụ công, các cơ quan pháp luật, nhằm khắc phục tình trạng kiện cáo kéo dài, vi phạm quyền khiếu nại tố cáo của dân và thiếu thông tin để người dân tự ra quyết định trong sản xuất, kinh doanh. - Tạo dựng một môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước. Với mục tiêu phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá hướng ra xuất khẩu, cần hình thành cơ chế điều chỉnh tỉ giá hối đoái uyển chuyển theo giá trị thị trường, duy trì lãi suất tiết kiệm hợp lý để tăng khả năng tiết kiệm cho đầu tư, điều chỉnh các chính sách bảo vệ sản xuất nội địa một cách hợp lý trong các lĩnh vực phi nông nghiệp. Kiên quyết chấm dứt tình trạng giá cánh kéo nông sản bất lợi cho nông dân, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa giá nông sản và giá các hàng hoá, dịch vụ khác. Trên cơ sở xác định rõ ràng chức năng của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cơ quan trong ngành và sự phối hợp với các cấp chính quyền địa phương, xây dựng một mô hình tổ chức quản lý thích hợp, gắn với chức năng hoạt động cụ thể để tập trung sức mạnh của các cơ quan Nhà nước vào làm tốt hơn công tác quản lý Nhà nước. Các Cục, Vụ và cơ quan tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng, giám sát, thực hiện, đánh giá hiệu quả chính sách và các qui định chuyên môn của ngành (thanh tra giống, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân hoá học,… vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ cho thú y và cây trồng,…). Làm tốt việc cung cấp các dịch vụ công như khuyến nông, kiểm tra, giám sát chất lượng tiêu chuẩn, thông tin thị trường và khoa học công nghệ, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ… Tiến hành phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền địa phương về lập kế hoạch, quản lý, xét duyệt các dự án đầu tư và viện trợ phát triển, quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng, cung cấp dịch vụ công. Điều phối các hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua việc củng cố hệ thống các viện nghiên cứu chính và đầu tư kinh phí nghiên cứu theo các chương trình khoa học công nghệ có định hướng.. Tổ chức nghiên cứu và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, khoa học công nghệ của cả nền kinh tế và từng lĩnh vực, từng ngành hàng, từng địa phương, phân tích và xây dựng hệ thống chính sách một cách khoa học và đồng bộ với các chiến lược phát triển. Giảm bớt sự can thiệp và trực tiếp quản lý của các Bộ đối với các doanh nghiệp Nhà nước, bỏ chế độ chủ quản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động chủ động theo Luật Doanh nghiệp. - Tạo dựng một môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Với mục tiêu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hướng ra xuất khẩu, cấu hình thành cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái uyển chuyển theo giá trị thị trường, duy trì lãi suất tiết kiệm hợp lý để tăng khả năng tiết kiệm cho đầu tư, điều chỉnh các chính sách bảo vệ sản xuất nội địa một cách hợp lý trong các lĩnh vực phi nông nghiệp. Kiên quyết chấm dứt tình trạng giá cánh kéo nông sản bất lợi cho nông dân, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa giá nông sản và giá các hàng hóa, dịch vụ khác. Trên cơ sở xác định rõ ràng chức năng của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cơ quan trong ngành và sự phối hợp với các cấp chính quyền địa phương, xây dựng một mô hình tổ chức quản lý thích hợp, gắn với chức năng hoạt động cụ thể để tập trung sức mạnh của các cơ quan nhà nước vào làm tốt hơn công tác quản lý Nhà nước. Các Cục, Vụ và cơ quan tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng, giám sát thức hiện, đánh giá hiệu quả chính sách và các qui định chuyên môn của ngành (thanh tra giống, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân hóa học, … vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ cho thú y và cây trồng, …). Làm tốt việc cung cấp các dịch vụ công như khuyến nông, kiểm tra, giám sát chất lượng tiêu chuẩn, thông tin thị trường và khoa học công nghệ, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ … Tiến hành phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền địa phương về lập kế hoạch, quản lý, xét duyệt các dự án đầu tư và viện trợ phát triển, quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng, cung cấp dịch vụ công. Điều phối các hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua việc củng cố hệ thống các viện nghiên cứu chính và đầu tư kinh phí nghiên cứu theo các chương trình khoa học công nghệ có định hướng. Tổ chức nghiên cứu và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, khoa học công nghệ của cả nền kinh tế và từng lĩnh vực, từng ngành hàng, từng địa phương, phân tích và xây dựng hệ thống chính sách một cách khoa học và đồng bộ với các chiến lược phát triển. Giảm bớt sự can thiệp và trực tiếp quản lý của các Bộ đối với các doanh nghiệp Nhà nước, bỏ chế độ chủ quản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động chủ động theo Luật doanh nghiệp. Mặt khác, tăng cường giám sát, kiểm soát về quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Thu gọn và đầu tư cao cho các doanh nghiệp nhà nước trên một số lĩnh vực thật chọn lọc, mang tính sống còn với hoạt động kinh tế, xã hội của nước nhà, mà các thành phần kinh tế khác không có năng lực hoặc không thể kinh doanh. - Phát triển con người phải trở thành trung tâm của quá trình phát triển. Tài nguyên quí nhật của Việt Nam là con người. Nguồn tài nguyên này phải được phát triển và khai thác hợp lý bằng cách đào tạo và rèn luyện tổng hợp cả về văn hóa, khoa học, công nghệ, năng lực sáng tạo, khả năng hoạt động phối hợp … Muốn vậy một hệ thống đồng bộ các biện pháp tổ chức phải được áp dụng, nguồn đào tạo, tuyển chọn học sinh, tuyển chọn, tuyển dụng, điều động cán bộ, chế độ lương bổng và thưởng phạt, cơ chế cất nhắc người tài, phưong pháp tổ chức công việc để phát huy tài năng con người, khuyến khích cán bộ giỏi về công tác ở cơ sở, ở nông thôn … Các cơ chế cụ thể như : cấp học bổng để hỗ trợ nhân tài, cấp kinh phí hỗ trợ các cán bộ có năng lực nghiên cứu, tiêu chuẩn hóa khi lựa chọn, thi tuyển theo đề án để đề bạt, đề bạt theo bầu cử, lãnh đạo theo nhiệm kỳ, trả lương theo đóng góp, trả phụ cấp cao và chế độ nghĩa vụ cho cán bộ công tác ở nông thôn, trợ cấp cho nông trại hoặc doanh nghiệp sử dụng cán bộ khoa học kỹ thuật, khoán quỹ lương, … phải được áp dụng để tạo ra thị trường và nhu cầu cán bộ trình độ cao trong ngành. - Nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ là giải pháp rất quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là tiến trình phát triển về chất, hình thành một phương thức sản xuất mới, một cơ cấu kinh tế mới, một nền sản xuất hàng hóa lớn trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn thông qua việc áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật thủy lợi, năng lượng, cơ khí, hóa học, sinh học, tin học, kinh tế, xã hội … trong sản xuất kinh doanh để tăng năng suất vật nuôi, cây trồng, năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế bảo vệ môi trường. Hay nói gọn, là áp dụng khoa học (kiến thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách vững bền. Rõ ràng, nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống nghiên cứu khoa học nông nghiệp cần được sắp xếp lại và tăng cường năng lực để các viện nghiên cứu gắn với các trường đại học và hệ thống khuyến nông. Trong giai đoạn đầu, tập trung tiếp thu và áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới vào ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh của Việt Nam. Gắn nghiên cứu với chuyển giao và hỗ trợ áp dụng, ưu tiên đầu tư cho các công nghệ phục vụ trực tiếp mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa (như các công nghệ bao bì đóng gói, các công nghệ sơ chế nông sản, các tiến bộ kỹ thuật về giống và về cây ăn quả, các công nghệ chế biến gỗ, công nghệ thông tin, công nghệ giống ưu thế lai …). Trong thời gian dài hạn, phát huy thế mạnh của nông nghiệp và của cán bộ nghiên cứu Việt Nam, hình thành một số chương trình nghiên cứu cơ bản, tập trung vào công nghệ sinh học, tin học và cơ giới hóa. Hình thành cơ quan nghiên cứu chiến lược nông nghiệp để ứng dụng khoa học kinh tế và các khoa học mang tính liên ngành vào việc hoạch định chiến lược, chính sách và tham mưu phát triển. Mức vốn đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ phải tương xứng với mức đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp. Kinh phí đào tạo cho cán bộ khoa học và kỹ thuật phải tăng. Hình thành một số khu công nghệ cao về khoa học công nghệ nông nghiệp cho các vùng sinh tháichính, tạo nên các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho nông thôn. Phải xác định một tỷ trọng đầu tư đáng kể cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và áp dụng công nghệ. Ví dụ : hàng năm, dành hẳn từ 3 – 5% tổng kinh phí đầu tư ngân sách cho ngành (120 – 400 tỷ/năm so với mức hiện nay là 75 – 85 tỷ) để đầu tư cho hoạt động khoa học kỹ thuật, trong đó 50% dành cho đề tài nghiên cứu (so với hơn 30% hiện nay). Khoa học công nghệ chỉ có thể trở thành lực lượng sản xuất của toàn xã hội một khi các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, dịch vụ khoa học được trực tiếp ứng dụng với hình thức tổ chức xã hội hóa một cách cao độ; các thành phần kinh tế được khuyến khích tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ. Tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành thị trường cho hàng hóa khoa học và công nghệ. Các nhà khoa học phải là những người lao động có mức thu nhập cao trong xã hội. Các kết quả nghiên cứu khoa học, phục vụ cho đông đảo người sản xuất, kinh doanh phải được trở thành tài sản công, do Nhà nước đầu tư mua lại và cung cấp thuận tiện, miễn phí cho mọi đối tượng có nhu cầu. - Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn Trong giai đoạn tới, cần có bước chuyển hóa cơ bản về kết cấu đầu tư để đáp ứng những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược mới. Thủy lợi là lĩnh vực được đầu tư lớn nhất từ trước đến nay trong nông nghiệp, cần được điều chỉnh hướng vào phát triển các cây trồng và các hình thức sử dụng nước đa dạng (cây công nghiệp, ăn quả, nuôi trồng thủy sản …) phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng (miền núi, cao nguyên …), dành phần đầu tư thích ứng cho việc bảo trì, bảo dưỡn nâng cấp các công trình thủy lợi để tăng hiệu quả sử dụng nước, hiệu quả đầu tư công trình. Huy động các nguồn vốn đa dạng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng như : giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước ở nông thôn. Kinh phí Nhà nước cấp cần tập trung vào xây dựng các trục giao thông, cầu, cảng quan trọng để kết nối liên vùng và khai thác thế mạnh của từng vùng, nhất là miền núi. Các địa phương và cộng đồng dân cư phối hợp đóng góp sức người sức của đầu tư hạ tầng ở cơ sở. Tập trung đầu tư một số kết cấu hạ tầng quan trọng để phục vụ tiếp thị nông sản ở các vùng chuyên canh và các thị trường chính (như chợ đấu giá, bán buôn, sàn giao dịch cho thị trường giao sau, mạng lưới thông tin thị trường, các trung tâm trưng bày và giới thiệu sản phẩm, các phòng kiểm nghiệm tiêu chuẩn chất lượng …). Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các hệ thống vận tải chuyên dụng (như kho, xe, tàu lạnh, máy bay, các trạm trung chuyển gia súc …) phục vụ vận chuyển nông, lâm, hải sản. - Tổ chức lại sản xuất, gắn kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ Dựa trên quy hoạch về các vùng chuyên canh được xây dựng, căn cứ vào lợi thế so sánh của mỗi vùng và nhu cầu của thị trường, xây dựng các cụm liên hoàn sản xuất – chế biến – thương mại cho các ngành hàng chính mà Việt Nam có thế mạnh. Tại mỗi cụm, nhà nước sẽ hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời đóng vai trò quản lý nhà nước và làm trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các đối tác trong các dây chuyền sản xuất, kinh doanh. Ban hành chính sách ưu tiên để hình thành các hạt nhân động lực cho mỗi vùng (các nhà máy chế biến, các công ty xuất nhập khẩu). Các đơn vị này có trách nhiệm tìm kiếm và phát triển thị trường, dựa trên yêu cầu của thị trường mà đầu tư trang bị, thiết bị cần thiết để hình thành các nhà máy chế biến, sơ chế và thực hiện các hoạt động tiếp thị.Trên cơ sở đó, ký kết hợp đồng với nông dân, tạo thành vùng chuyên canh, gắn bó cung ứng nguyên liệu trực tiếp cho doanh nghiệp theo đúng thời gian, qui mô và yêu cầu của nhà máy và thị trường. Các đơn vị hạt nhân sẽ được vay vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển theo đề án đầu tư, và từ quỹ bảo hiểm của các hiệp hội ngành hàng. Nông dân được vay vốn từ ngân hàng dưới sự bảo trợ, bảo lãnh của doanh nghiệp hạt nhân, hình thành các vùng chuyên canh gắn với các khu công nghiệp – chế xuất nông thôn. Các trung tâm này cần xây dựng tại các cửa khẩu biên giới, các cảng biển, cảng sông, các trục giao thông quan trọng, gắn sản xuất với thương mại. - Tổ chức hoạt động và hình thành hệ thống phát triển thị trường Hình thành một hệ thống các trung tâm thương mại với các hoạt động thị trường hiện đại và đáp ứng tiêu chuẩn chung trong vùng và quốc tế, như thị trường giao sau, chợ đấu giá nông sản … Xây dựng hệ thống thu thập, phân tích và truyền bá thông tin thị trường. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị (kho tàng, bến bãi …). Có chiến lược xác định các mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh hoặc có tiềm năng phát triển trong tương lai, từ đó xây dựng chương trình phối hợp nỗ lực của mọi thành phần kinh tế với sự hỗ trợ của Nhà nước để phát triển từng mặt hàng, tiến vào thị trường tiềm năng. Chương trình này gồm cả chương trình nghiên cứu khoa học, kế hoạch điều chỉnh chính sách, chương trình trợ giá và đầu tư của Nhà nước, biện pháp thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước để chọn ra và hỗ trợ các đơn vị sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo phương châm “chọn ra và hỗ trợ đơn vị mạnh”. - Hình thành các khu kinh tế tập trung, phát triển công nghiệp phân tán ở nông thôn. Lựa chọn một số ngành công nghiệp thích hợp với hoạt động phân tán ở nông thôn, gắn với nguồn tài nguyên tự nhiên, nguồn lao động hoặc địa bàn như công nghiệp hoá chất, vật liệu xây dựng, năng lượng,… để đưa về xây dựng ở nông thôn, hình thành các khu công nghiệp trên mọi vùng của đất nước, chủ động gắn nông nghiệp với công nghiệp trên toàn lãnh thổ. Xây dựng các trung tâm công nghiệp-thương mại tại mỗi vùng. Trong các vùng chuyên canh và ở trung tâm mỗi vùng kinh tế nông thôn, cần hình thành các trung tâm công nghiệp-thương mại để: thứ nhất, thực hiện việc phi tập trung hoá nền công nghiệp của đất nước, phân bố đều lực lượng sản xuất và cùng với nó là thu nhập và việc làm cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi vùng trong cả nước; thứ hai, thực hiện quá trình đô thị hoá một cách phân tán, tránh hiện tượng tập trung cao dân cư và tài nguyên vào các siêu thành phố; thứ ba, tập trung nguồn vốn ít ỏi của đất nước một cách có hiệu quả vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở từng vùng sinh thái chính trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tạo thịt trường lao động cao cấp cho công tác đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Định hướng đầu tư, chủ động hình thành một số khu chế xuất ở nông thôn, tập trung tại đó các nhà máy chế biến có mối quan hệ dây chuyền với nhau về nguyên liệu, vật tư, và các kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị như kho tàng, bến bãi, cảng, sân bay… để tăng giá trị tăng gia của sản phẩm, giảm chi hpí sản xuất và lưu thông, tăng kết nối với thị trường. Ban hành hệ thống chính sách khuyến khích đặc biệt để hình thành một số đặc khu kinh tế ở nông thôn. Các chính sách này phải thu hút được lao động có trình độ, trí thức từ thành phố về nông thôn, từ miền xuôi lên miền núi công tác, phải thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư tại nông thôn và các vùng khó khăn, phải khuyến khích và phát triển kinh doanh trên địa bàn định hướng. Phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp truyền thống, nhất là ở các làng nghề, tạo sản phẩm có hàm lượng văn hoá cao, có đặc thù dân tộc, gắn với hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái, du lịch văn hoá. Nếu như ý tưởng thành lập các khu công nghiệp, các khu chế xuất, thậm chí các đặc khu là nhằm hình thành những khu vực có lợi thế về kết cấu hạ tầng, chính sách và vốn đầu tư để làm đầu tầu kinh tế, kỹ thuật văn hóa cho cả vùng kinh tế của đất nước, thì việc hình thành các trung tâm công nhgiệp – thương mại ở các vùng sinh thái nông nghiệp chính trong cả nước cũng là động lực có hiệu quả để CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Các khu vực này cho phép thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực có tìêm năng nhất trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trên cơ sở đó, tạo tích lũy nội tại để tái đầu tư phát triển các khu vực khác của nền kinh tế. Tại các khu này, nên tập trung vào những trung tâm mạnh đảm nhiệm các hoạt động mang tính động lực cho mỗi vùng như : nghiên cứu khoa học, dịch vụ kỹ thuật, đào tạo nhân lực, công nghiệp địa phương, xúc tiến thương mại. Tất cả các biện pháp được áp dụng ở trên nhằm khơi dậy động lực của nhân dân, đưa nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, nhờ đó, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản, duy trì mức tăng GDP của sản xuất nông nghiệp thông qua nâng cao giá trị và đa dạng hóa sản phẩm mà không làm tăng sản lượng đối với những mặt hàng đã cân đối cung cầu. Mục đích cuối cùng phải đạt được là nâng cao thu nhập của nông dân, từng bước thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, biến địa bàn nông thôn và lĩnh vực nông nghiệp thành lĩnh vực đầu tư có hiệu quả và ít rủi ro. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của các thành phần kinh tế ở nông thôn. Tạo được việc làm tại kinh tế nông thôn và các mặt phát triển nông thôn, tương ứng với mức độ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ ở đô thị. Bảo vệ an toàn sinh thái và giữ gìn ổn định chính trị xã hội. Đấy chính là mục tiêu phải đạt được để triển khai Nghị quyết Đại hội IX và tạo nên bước chuyển biết cơ bản trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, góp vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. KẾT LUẬN PHẦN III Tất cả các biện pháp được áp dụng ở trên nhằm khơi dậy động lực của nhân dân, đưa nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đạon phát triển theo chiều sâu, nhờ đó, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản. Mục đích là tăng thu nhập của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn thành thị, biến địa bàn nông thôn là nơi đầu tư có hiệu quả nhiều rủi ro ít. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. Tạo việc làm ở nông thôn ngang với công nghiệp dịch vụ ở thành thị.. đó là mục tiêu để triển khai Nghị quyết Đại hội IX tạo nên bước phát triển nông nghiệp, nông thôn để góp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. KẾT LUẬN Nói đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nói đến địa bàn mà sản xuất nông nghiệp là chủ yếu về tất cả các mặt như : kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… mà tạo ra vật chất : lương thực, thực phẩm, môi trường, .. là chủ yếu. Khi mà đất nước ta với nền nông nghiệp còn tương đối thấp kém so với thế giới về cả quan niệm lẫn vật chất kỹ thuật. Vậy để làm sao đưa nền nông nghiệp, nông thôn nước nhà phát triển, đưa người dân (nông dân) có việc làm, có thu nhập cao, có một môi trường sản xuất trong lành, có một thế đứng ngang tầm khu vực và thế giới. Muốn vậy phải đi theo, bám sát các văn kiện về tư tưởng trong nông nghiệp nông thôn như : Đại hội VI, VII, VIII, IX của Đảng hay Nghị quyết 6 (10-11/1998) hoặc Báo cáo chính trị lần IX của Đảng. Vì vậy mà từ khi bắt tay vào thực hiện nước ta đã có những thành công nhất định. Đầu tiên phải kể đến hình thức “hợp tác xã” ở Vĩnh Phúc, Hải Phòng, nó xuyên suốt từ kháng chiến chống Pháp đến nay đã ít nhưng vẫn còn tồn tại nhưng phương hướng đã đổi khác. Hình thức này giúp ta giải quyết được lương thực, thực phẩm cho đất nước, xuất khẩu cùng với hình thức khoán đã đưa nền nông nghiệp, nông thôn nước ta thay đổi hẳn về sự tăng trưởng cả về diện tích, thành phần, năng suất, kỹ thuật, … Có thể thành công được khi Nhà nước và nông dân và các tổ chức quốc tế kết hợp, với điều cốt lõi là nhân dân làm chủ theo pháp luật sẽ là tương lai chomột nền nông nghiệp, nông thôn bền vững. Tuy sẽ có thay đổi theo xu thế thời đại nhưng nó vẫn là điều cốt lõi để đưa nông nghiệp, nông thôn nước nhà, đưa nước ta trở thành nước có mức thu về nông nghiệp lớn đóng góp đáng kể vào GDP của đất nước. MỤC LỤC -------- MỞ ĐẦU Trang 1 - 2 PHẦN I : LÝ THUYẾT VỀ NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN 1. Vài nét về quan điểm việc thực hiện phát triển nền nông nghiệp & nông thôn Trang 3 - 6 2. Những tác động, cơ hội, thách thức của nông nghiệp và nông thôn. Trang 6 - 7 Kết luận Phần I Trang 7 – 8 PHẦN II : SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. 1. Vài nét về những thành tựu của cả nước nói chung và nông nghiệp & nông thôn nói riêng trong thời gian đổi mới đạt được. Trang 9 2. Phát triển nông nghiệp & nông thôn ở nước ta trong thập kỷ XXI Trang 9 - 10 3. Các nhận thức về sự phát triển nông nghiệp & nông thôn. Trang 10 - 11 4. Môi trường kinh tế tác động đến sự phát triển của nông nghiệp & nông thôn. Trang 11 - 12 5. Những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển đến nông nghiệp & nông thôn ở nước ta. Trang 12 – 19 Kết luận Phần II Trang 19 PHẦN III : MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ ĐƯA NỀN NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN NƯỚC TA PHÁT TRIỂN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1. Một số quan điểm cẩn làm rõ. Trang 20 - 21 2. Một số giải pháp cần giải quyết Trang 22 – 31 Kết lận Phần III Trang 31 KẾT LUẬN Trang 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthanh the.doc
Tài liệu liên quan