Đề tài Nghiên cứu về xí nghiệp xây lắp I

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu về xí nghiệp xây lắp I: Mục lục Chương I giới thiệu khái quát chung về xí nghiệp xây lắp i I - Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp xây lắp I. Xí nghiệp xây lắp I là đơn vị xây lắp công nghiệp và dân dụng trực thuộc Công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 250QĐ/TL NSĐT do Bộ công nghiệp ban hành ngày 20/5/1993 và được Uỷ ban Kế hoạch nhà nước cấp giấy phép kinh doanh số 303836 ngày 20/5/1995. Tiền thân của Xí nghiệp xây lắp 1 là công trường thi công xây lắp 1 được thành lập ngày 13/10/1969. Trụ sở giao dịch của Xí nghiệp là số 72/150 Thượng Đình - Thanh Xuân - Hà Nội. Giai đoạn từ trước năm 1975 trong thời kỳ vừa xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xí nghiệp còn có nhiệm vụ phục vụ xây dựng quốc phòng như thi công đường bơm xăng dầu T72, tổng kho Hữu Lũng - Lạng Sơn, sơ tán máy móc thiết bị của nhà máy đến nơi an toàn, cử các cán bộ đi công tác phục vụ chiến trường, sẵn sàng tiếp ứng cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đồn...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu về xí nghiệp xây lắp I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Chương I giới thiệu khái quát chung về xí nghiệp xây lắp i I - Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp xây lắp I. Xí nghiệp xây lắp I là đơn vị xây lắp công nghiệp và dân dụng trực thuộc Công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 250QĐ/TL NSĐT do Bộ công nghiệp ban hành ngày 20/5/1993 và được Uỷ ban Kế hoạch nhà nước cấp giấy phép kinh doanh số 303836 ngày 20/5/1995. Tiền thân của Xí nghiệp xây lắp 1 là công trường thi công xây lắp 1 được thành lập ngày 13/10/1969. Trụ sở giao dịch của Xí nghiệp là số 72/150 Thượng Đình - Thanh Xuân - Hà Nội. Giai đoạn từ trước năm 1975 trong thời kỳ vừa xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xí nghiệp còn có nhiệm vụ phục vụ xây dựng quốc phòng như thi công đường bơm xăng dầu T72, tổng kho Hữu Lũng - Lạng Sơn, sơ tán máy móc thiết bị của nhà máy đến nơi an toàn, cử các cán bộ đi công tác phục vụ chiến trường, sẵn sàng tiếp ứng cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đồng thời được Bộ Công nghiệp nặng giao cho thi công xây dựng các công trình như: Nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy biến thế, nhà máy điện cơ, cơ khí nông nghiệp, trung tâm công nghệ quốc tế... Thời kỳ 1976 - 1986, giai đoạn đầu bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, xí nghiệp vẫn được giao các nhiệm vụ xây dựng các nhà máy, đầu tư chiều sâu và mở rộng trong Bộ. Giai đoạn từ 1987 đến nay, với đường lối đổi mới của Đảng chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, xí nghiệp đã tự tìm kiếm việc làm, tự hạch toán kinh tế theo quy định của pháp luật. XNXLI đã tự khẳng định được vị trí của mình, giải quyết tương đối đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên. Doanh thu hàng năm đều đạt từ 50 đến 60 tỷ đồng, tổng sản lượng đạt từ 55 tỷ đến 65 tỷ đồng, lợi nhuận đạt từ 750 triệu đến 950 triệu đồng, năm sau luôn đạt cao hơn năm trước, đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước và tích luỹ lớn cho xí nghiệp. Hiện nay, xí nghiệp đang thi công xây dựng các công trình trong nước như: Đài phát thanh, trường học, văn phòng Bộ Thuỷ Sản... và cả các công trình nước ngoài tại Việt Nam như: công trình XUMYOU liên doanh quốc tế, liên doanh thép Việt Nam - Uc, nhà máy sơn Thái Lan... II - Sản phẩm chủ yếu của Xí nghiệp xây lắp I. Xí nghiệp xây lắp I là một doanh nghiệp xây lắp nên có hai ngành nghề kinh doanh chủ yếu như sau: - Xây dựng: + Các công trình xây dựng công nghiệp: nhà máy, kho tàng, đường giao thông, đường điện cao, hạ thế, đường ống cấp thoát nước. + Các công trình dân dụng như: nhà ở và khách sạn, trường học... - Sản xuất cơ khí: Khung nhà thép kiểu khung kho Tiệp 720 m2 - 900 m2, các kiểu nhà thép không theo tiêu chuẩn, các bộ phận lẻ của nhà thép theo đơn đặt hàng, tôn tráng kẽm và tôn màu lợp mái, đà giáo thép, cốp pha, cột chống thép. III - Quy trình sản xuất của một số sản phẩm chủ yếu. Sản phẩm của xí nghiệp mang đặc điểm của sản phẩm xây lắp, đó là những sản phẩm xây lắp có quy mô vừa và lớn mang tính chất đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, chủng loại yếu tố đầu vào đa dạng đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư lớn. Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, xí nghiệp phải dựa vào các bản vẽ thiết kế dự toán xây lắp, giá trúng thầu, hạng mục công trình do bên A cung cấp để tiến hành sản xuất thi công. Chi phí, giá thành sản phẩm được tính theo từng giai đoạn và so sánh với giá dự toán, giá trúng thầu. Khi công trình hoàn thành thì giá dự toán, giá trúng thầu là cơ sở để nghiệm thu, xác định giá quyết toán để đối chiếu thanh lý hợp đồng. Quá trình sản xuất của xí nghiệp là quá trình thi công sử dụng các yếu tố vật liệu, nhân công, máy thủ công và các yếu tố chi phí khác để tạo nên công trình. Có thể tóm tắt quy trình sản xuất sản phẩm của XNXLI như sau: Sơ đồ 1.1 Quy trình sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp xây lắp 1. Sử dụng các yếu tố chi phí ( vật tư + chi phí SXC...) để tiến hành tổ chức thi công xây lắp Căn cứ vào dự toán được duyệt, hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, bản vẽ công nghệ quy phạm định mức kinh tế kỹ thuật từng công trình Sản phẩm xây lắp ( công trình + hạng mục công trình) hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng. * Đối với sản phẩm xây lắp: Để sản xuất và hoàn thiện một công trình xây lắp cần phải tiến hành qua các giai đoạn sau: Sơ đồ 1.2 Quy trình sản xuất các sản phẩm xây lắp Giai đoạn chuẩn bị Giai đoạn thi công Nghiệm thu công trình và thanh quyết toán Giải phóng mặt bằng Xây dựng nền, móng ,trụ... Hoàn thành phần nổi của công trình ( Nguồn cung cấp: Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật ) * Đối với sản xuất cơ khí, quy trình sản xuất trải qua các giai đoạn: Sơ đồ 1.3 Quy trình sản xuất các sản xuất các sản phẩm cơ khí Giai đoạn sản xuất, gia công Giai đoạn chuẩn bị lên kế hoạch Kiểm nghiệm sản phẩm Hoàn thành và đưa sản phẩm ra thị trường sơ chế vật liệu Gia công,chế tạo sản phẩm ( Nguồn cung cấp: Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật ) IV - Hình thức tổ chức sản xuất và kết cấu sản xuất của xí nghiệp. 1. Hình thức tổ chức sản xuất ở xí nghiệp. Khi nhận thầu được một công trình, xí nghiệp tiến hành thực hiện cơ chế giao khoán cho các đội trực tiếp thi công. Các đội nhận khoán lập biện pháp thi công, tổ chức thi công, chủ động cung ứng vật tư máy móc thiết bị, nhân công, đảm bảo tiến độ chất lượng, an toàn lao động và các chi phí cần thiết để bảo hành công trình. Các đội nhận khoán được vay vốn của xí nghiệp, thay mặt xí nghiệp quản lý sử dụng vốn đúng mục đích . Hàng tháng, hàng quý đội phảI báo cáo giá trị sản lượng thực hiện về phòng quản lý sản xuất. Khi công trình hoàn thành bàn giao, đội cùng xí nghiệp làm quyết toán với chủ đầu tư quyết toán thuế với nhà nước, thanh lý hợp đồng nội bộ. Xí nghiệp phải tổ chức tốt công tác ban đầu và luân chuyển chứng từ nhằm phản ánh đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời mọi hoạt động kinh tế phát sinh. Cuối mỗi quý phải tiến hành kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang, xây dựng định mức đơn giá, lập kế hoạch tháng về vật tư, máy móc thiết bị, nhân công, tiến độ, biện pháp thi công công trình. Các đội căn cứ vào biện pháp thi công được xét duyệt để tiến hành thi công. 2. Kết cấu sản xuất. Xí nghiệp xây lắp 1 có tất cả 15 đội sản xuất, bao gồm: - 1 xưởng cơ khí - 3 đội chuyên xây lắp điện - 11 đội chuyên xây lắp công nghiệp và dân dụng. Xí nghiệp không tổ chức các đội, các xưởng theo hình thức chính, phụ, phụ trợ mà các đội, các xưởng ở đây hoạt động độc lập với nhau. V - Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp xây lắp 1. XNXL1 là một trong 7 xí nghiệp trực thuộc Công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp, xí nghiệp có trực tiếp 15 đội trực tiếp sản xuất. Toàn xí nghiệp có 270 công nhân viên trong đó nhân viên quản lý là 50 người còn lại là công nhân bao gồm công nhân cơ khí 50 người, công nhân xây lắp điện 50 người, công nhân xây dựng 120 người.Do đặc điểm sản xuất của xí nghiệp và tính chất tổ chức sản xuất mang tính chuyên môn hoá nên mô hình tổ chức sản xuất của xí nghiệp là mô hình trực tuyến tham mưu. Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc xí nghiệp, giám đốc xí nghiệp là người có quyền hạn và trách nhiệm cao nhất, quyết định chỉ đạo xuống các phòng ban. Giám đốc là người đại diện pháp nhân của xí nghiệp về hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý, giúp cho giám đốc là các phó giám đốc. -Phó giám đốc giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động của xí nghiệp theo sự phân công của giám đốc, tham mưu cho giám đốc và trực tiếp quản lý các đội công trình, các phòng ban thuộc trách nhiệm của mình. Cụ thể là: Sơ đồ 1.4 Tổ chức bộ máy quản lý của XNXLI Giám đốc Phó giám đốc phụ trách xưởng cơ khí Phó giám đốc phụ trách phòng QLSX Phòng TC -KT Phòng kế hoạch - kỹ thuật Phòng tổ chức - hành chính Xưởng cơ khí Đội xây lắp điện I Các đội xây dựng (11 đội) Đội xây lắp điện II Đội lắp ráp III ( Nguồn cung cấp: Phòng Tổ chức - Hành chính) + Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật khối sản phẩm cơ khí là đội trưởng trực tiếp chỉ huy một xưởng cơ khí xây dựng, có quyền đề nghị ký hợp đồng lao động thời vụ và chịu trách nhiệm báo cáo kết quả xây dựng với giám đốc. + Phó giám đốc kiêm trưởng phòng quản lý sản xuất phụ trách kỹ thuật khối xây lắp đồng thời là đội trưởng trực tiếp chỉ đạo một đội lắp ráp, phụ trách an toàn kỹ thuật xây lắp của toàn xí nghiệp. - Các phòng ban chức năng của XNXL1 bao gồm: + Phòng tổ chức hành chính: có chức năng tổ chức lao động tiền lương, tuyển dụng đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Chịu trách nhiệm trước lãnh đạo xí nghiệp về công tác quản lý nhân sự, tham mưu cho lãnh đạo xí nghiệp về công tác sắp xếp cán bộ công nhân theo khả năng, năng lực để phát huy tính năng động sáng tạo trong công tác quản lý cũng như trong sản xuất. Hướng dẫn kiểm tra các đội về quản lý, sử dụng lao động theo bộ lao động về chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và của nhà nước. Soạn thảo các văn bản liên quan đến công tác tổ chức các quyết định cung cấp số liệu một cách chính xác và kịp thời. + Phòng kế toán tài chính: có chức năng quản lý tài chính, hạch toán kế toán, kiểm tra và phân tích hoạt đông kinh tế. Chấp hành các chế độ chính sách pháp luật của nhà nước trong xí nghiệp, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nguồn vốn của xí nghiệp. Tổ chức luân chuyển chứng từ, kiểm tra chứng từ cập nhật lên bảng kê và hạch toán kế toán, thông qua số liệu phát sinh để vào các loại sổ sách chi tiết và tổng hợp theo pháp lệnh kế toán thống kê do nhà nước ban hành, đồng thời làm báo cáo kiểm toán hàng quý, hàng năm báo cáo với Nhà nước. Liên hệ với các cấp, các nghành nhằm đảm bảo vốn hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền lương của công nhân xí nghiệp; lập hồ sơ thanh quyết toán vay vốn ngân hàng...cân đối kiểm tra cụ thể các chứng từ hợp pháp để trả thưởng cho công nhân viên chức, trường hợp chứng từ không hợp lệ có yêu cầu theo quy định của nhà nước, giúp giám đốc trong công tác quản lý bảo tồn và phát triển vốn. + Phòng kế hoạch kỹ thuật: có chức năng lập kế hoạch, điều động sản xuất, đấu thầu và chào thầu các công trình, lập hồ sơ nhận thầu, tham mưu cho giám đốc về mặt kỹ thuật, nhận thiết kế trên cơ sở đó lập biện pháp thi công cụ thể cho từng công trình và hạng mục công trình. Lập công nghệ chi tiết phát hiện chỗ sai sót trong thông kê để xử lý đồng thời giám sát công trình thi công, đảm bảo chất lượng công trình. Thanh quyết toán công trình, nghiệm thu, bàn giao giữa xí nghiệp với các chủ đầu tư và đơn vị.Hướng đẫn kiểm tra các đội về công tác xây lắp, lập phương án kỹ thuật an toàn, các yếu tố dự thảo văn bản đấu thầu và các công trình đề giám đốc. Khảo sát điều tra các năng lực, lập dự toán thi công giao cho các đơn vị và tổ chức cung ứng vật tư theo phân công của xí nghiệp. - Các đội trực tiếp sản xuất: có nhiệm vụ thực hiện các công việc được giao, đảm bảo đúng thời gian và tiến độ quy định. Kết quả thi công quyết định sự tồn tại và phát triển của xí nghiệp. Vì vậy việc duy trì hoạt động có hiệu quả là yêu cầu quan trọng và là nhiệm vụ chung cho cả phòng ban trong xí nghiệp. VI - Phân tích một số chỉ tiêu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây lắp 1. Bảng 1.1 Phân tích một số chỉ tiêu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Chỉ tiêu Năm So sánh 2003/2002 2001 2002 2003 () ( % ) 1. Sản lượng ( công trình) + Xây lắp + Sản xuất cơ khí 2. Doanh thu thuần + Xây lắp + Sản xuất cơ khí 3. Giá vốn hàng bán 4. Chi phí QLDN 5.Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh 6. Lợi nhuận sau thuế 110 52 58 48.135 34.925 13.210 51.532 2.102 767 646 128 73 55 57.321 47.504 9.817 54.081 2.317 923 928 125 65 60 62.596 46.822 15.774 59.292 2.588 715 773 (3) (8) 5 5.275 (682) 5.957 5.211 271 (208) (155) 97,66 89,04 109,09 109,20 98,56 160,68 109,64 111,70 77,47 83,30 ĐVT : triệu đồng ( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2001-2002-2003) Từ bảng phân tích trên ta thấy : - Sản lượng tiêu thụ năm 2003 đã giảm so với năm 2002 là 3 công trình, ứng với mức giảm 2,34 %. - Doanh thu thuần tăng 5.275 triệu đồng ứng với 9,2 % trong đó chủ yếu là tăng doanh thu từ hoạt động sản xuất cơ khí tăng đến 60,68% khi mà doanh thu từ hoạt động xây lắp giảm đi là 1,44%. - Giá vốn hàng bán tăng 5.211 triệu đồng ứng với 9,64% - Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 271 triệu đồng ứng với 11,70% - Mặc dù doanh thu thuần tăng 9,2% nhưng giá vốn hàng bán và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng với tỷ lệ khá cao là 9,64% và 11,7% đã dẫn đến lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây lắp 1 giảm bị giảm đi 22,53%. - Lợi nhuận sau thuế của xí nghiệp giảm từ 928 triệu năm 2002 xuống còn 773 triệu năm 2003, ứng với mức giảm 16,7%. Nguyên nhân của điều này là do năm 2003 có nhiều công trình còn đang dang dở hoặc chưa được nghiệm thu. Đồng thời năm vừa qua do sự biến động của thị trường về tiền công lao động cũng như giá cả một số loại vật liệu làm tăng các loại chi phí, tăng giá vốn hàng bán, làm giảm lợi nhuận. Ngoài ra còn công trình nhà máy PS - Plex Việt Trì có giá trị thanh toán 7.300.000 .000 đồng được thanh toán theo giai đoạn, Xí nghiệp mới chỉ tạm tính chi phí quản lý 350.000.000 đồng. Nếu theo cơ chế của Xí nghiệp thì số tính chi phí quản lý là 700.000.000 đồng, như vậy số còn lại là 350.000.000 đồng, Xí nghiệp coi như để dự phòng để có thể tăng tính chủ động cho các hoạt động trong tương lai. Nếu thu đầy đủ từ công trình này thì lợi nhuận đạt được của Xí nghiệp năm 2003 có thể lên đến trên 1 tỷ đồng. Như vậy, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh tại XNXL I đã có sự biến chuyển khá rõ nét, kết quả sản xuất kinh doanh trong các năm vừa qua nhìn chung tương đối tốt và ổn định, doanh thu và lợi nhuận của Xí nghiệp luôn có xu hướng tăng. Tuy nhiên, Xí nghiệp cần tìm cách nâng cao hơn nữa số công trình trúng thầu, tìm biện pháp tiết kiệm chi phí hợp lý để tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Hiện nay, Xí nghiệp xây lắp 1 chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc tổ chức các hoạt động Marketing như nhiều doanh nghiệp khác mà chủ yếu dựa vào uy tín của Công ty, của Xí nghiệp, dựa vào sự tín nhiệm của khách hàng về trình độ, năng suất lao động và sự đảm bảo về tiến độ thi công cũng như chất lượng công trình của bản thân Xí nghiệp. Tuy nhiên, nếu trong các năm tới, Xí nghiệp tiến hành tổ chức thêm một phòng Marketing trong bộ máy hoạt động để quảng bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh và uy tín của mình thì chắc chắn lợi nhuận của Xí nghiệp sẽ được nâng lên nhiều. VII - Đặc điểm tình hình lao động ở Xí nghiệp xây lắp 1. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lao động tác động đến quá trình sản xuất trên hai mặt là số lượng lao động và chất lượng lao động. Trong đó số lượng lao động tác động đến quá trình sản xuất thông qua số lao động và thời gian mà lao động tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm ở doanh nghiệp. Chất lượng lao động thể hiện qua trình độ tay nghề của lao động và ý thức, tinh thần trách nhiệm của người lao động. Do đó, muốn sản xuất phát triển thì doanh nghiệp phải sử dụng tốt các yếu tố lao động, đồng thời phải kết hợp hợp lý giữa các yếu tố lao động với các đối tượng khác như: tư liệu lao động và lực lượng lao động. 1. Cơ cấu lao động. Bảng 1.2 Cơ cấu lao động theo tính chất lao động năm 2003 ĐVT: Người TTT Chỉ tiêu Số người Tỷ trọng ( % ) 1 Cán bộ quản lý 50 18,5 2 2 Công nhân trực tiếp + Công nhân cơ khí + Công nhân xây lắp điện + Công nhân xây dựng 220 50 50 120 81,5 18,5 18,5 44,5 3 Tổng cộng 270 100 ( Nguồn cung cấp: Tổ chức - Hành chính) Với tỷ trọng lao động quản lý 18,5%, lao động trực tiếp chiếm 81,5%, trong đó chủ yếu là công nhân xây dựng 44,5% như trên, ta thấy rằng cơ cấu lao động của xí nghiệp là khá hợp lý, phù hợp với quy mô của Xí nghiệp. 2. Trình độ lao động. Bảng 1.3 Cơ cấu lao động theo trình độ lao động ĐVT: Người Trình độ Số lượng lao động (2002) Số lượng lao động (2003) 1. Trên đại học 2 2 2. Đại học 20 23 3. Cao đẳng 9 9 4. Trung cấp 3 3 5. CN bậc 1 26 24 6. CN bậc 2 30 30 7. CN bậc 3 40 42 8. CN bậc 4 61 55 9. CN bậc 5 50 50 10. CN bậc 6 22 23 11. CN bậc 7 7 8 Tổng cộng 270 270 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tổ chức - Hành chính) Theo bảng cơ cấu lao động được phân theo trình độ lao động, ta thấy rằng tổng số lao động của xí nghiệp vẫn giữ ở 270 người, nhưng số lao động có trình độ và tay nghề cao lại tăng, điều này chứng tỏ rằng chất lượng lao động đã tăng, làm tăng chất lượng sản phẩm, đây là một điểm rất khả quan, sẽ mang lại nhiều lợi thế cho Xí nghiệp. VIII - Đặc điểm tình hình tài sản của Xí nghiệp xây lắp 1. Cơ cấu tài sản của Xí nghiệp xây lắp 1 được thể hiện qua các chỉ số: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tỷ trọng tài sản lưu động = Tổng tài sản Tỷ trọng TSLĐ2002 = = 96,21 % Tỷ trọng TSLĐ2003 = = 95,74 % Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tỷ suất đầu tư = Tổng tài sản Tỷ suất đầu tư2002 = = 3,79 % Tỷ suất đầu tư2003 = = 4,26 % Bảng 1.4: Phân tích cơ cấu tài sản năm 2003 ĐVT: Đồng Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối kỳ Cuối kỳ so với đầu năm Tỷ trọng từng loại ( % ) Chênh lệch % Đầu năm Cuối kỳ A. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 39.283.277.900 38.698.719.388 -584,558,512 98,51 96,21 95,74 1. Tiền 589.760.105 801.333.981 211.573.876 135,87 1,44 1,98 2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0,00 0,00 3. Các khoản phải thu 20.429.635.121 22.940.063.806 2.510.428.685 112,29 50,04 56,76 4. Hàng tồn kho 18.224.885.074 14.953.571.601 -3.271.313.473 82,05 44,64 37,00 5. Tài sản lưu động khác 38.997.600 3.750.000 -35.247.600 9,62 0,10 0,01 6. Chi sự nghiệp 0 0,00 0,00 B. TSCĐ và đầu tư dài hạn 1.546.274.085 1.720.659.149 174.385.064 111,28 3,79 4,26 1. Tài sản cố định 1.537.074.085 1.709.459.149 172.385.064 111,22 3,76 4,23 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 9.200.000 11.200.000 2.000.000 121,74 0,02 0,03 3. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 0 0,00 0,00 4. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 0 0,00 0,00 Tổng cộng tài sản 40.829.551.985 40.419.378.537 -410.173.448 98,99 100,00 100,00 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tài chính - Kế toán ) Như vậy giá trị tổng tài sản năm 2003 giảm so với năm 2002 là 410.173.448 đồng ứng với mức giảm 1,01%. * TSLĐ và đầu tư ngắn hạn giảm 1,49% trong đó: - Tiền tăng 35,87% do: + Tiền mặt tại quỹ giảm từ 4.928.138 đồng xuống 3.302.217 đồng, tức giảm 33%. + Tiền gửi ngân hàng tăng từ 584.831.967 đồng lên 798.031.764 đồng ứng với mức tăng 36,45%. - Các khoản phải thu tăng 12,29% do: + Phải thu của khách hàng tăng từ 20.208.604.566 đồng lên 22.567.139.392 đồng ứng với mức tăng 11,67% vì số công trình đã hoàn thành bàn giao nhưng khách hàng chưa thanh toán xong có xu hướng tăng so với năm 2002, điều này thể hiện khả năng thu hồi vốn chưa cao, xí nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, làm cho việc sử dụng tài sản chưa có hiệu quả. + Các khoản phải thu khác tăng từ 221.030.555 đồng lên 372.924.414 đồng ứng với mức tăng 68,72%. - Hàng tồn kho giảm 17,95% do: + Nguyên liệu, vật liệu tồn kho tăng từ 916.839.006 đồng lên 1.229.439.872 đồng ứng với mức tăng 34,10%. + Công cụ, dụng cụ trong kho giảm từ 96.964.246 đồng xuống 2.527.546 đồng ứng với mức giảm 97,4%. + Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang giảm từ 17.211.081.822 đồng xuống 13.721.604.183 đồng ứng với mức giảm 20,27%. - Tài sản lưu động khác giảm 90,38% do: + Tạm ứng giảm từ 38.997.600 đồng xuống 8.500.000 đồng ứng với mức giảm 78,20%. + Chi phí chờ kết chuyển giảm năm 2003 giảm đi 4.750.000 đồng. * Tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng 11,28 % trong đó: - Tài sản cố định với toàn bộ là tài sản cố định hữu hình tăng 11,22% do: + Nguyên giá TSCĐ hữu hình tăng từ 2.401.756.899 đồng lên 2.550.094.163 đồng ứng với mức tăng 6,18%. + Giá trị hao mòn luỹ kế giảm từ 864.682.814 đồng xuống 840.635.014 đồng ứng với mức giảm 2,78%. - Các khoản đầu tư tài chính dài hạn tăng 21,74% do Đầu tư chứng khoán dài hạn tăng từ 9.200.000 đồng lên 11.200.000 đồng ứng với mức tăng 21,74%. Về tỷ suất đầu tư: tỷ suất đầu tư của Xí nghiệp qua các năm 2002 và 2003 lần lượt là 3,79 % và 4,26%, có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2003 tăng 0,47 % so với năm 2002 chứng tỏ Xí nghiệp đã đổi mới đầu tư thiết bị vào quy trình công nghệ để tăng năng lực sản xuất trong tương lai, nhưng tỷ suất đầu tư của Xí nghiệp như vậy là quá thấp, điều này sẽ dẫn đến sự mất chủ động trong kinh doanh, tình hình tài chính không được đảm bảo, Xí nghiệp phải vay nợ nhiều mới đáp ứng nhu cầu về tài sản. IX - Tính cần thiết của đề tài và mục tiêu nghiên cứu. Tính cần thiết của đề tài: Từ năm 2002, Xí nghiệp xây lắp I đã đầu tư rất nhiều vào tài sản cố định nhằm mở rộng sản xuất, tăng tiến độ thi công và chất lượng công trình. Tuy nhiên, số tài sản cố định này đưa vào sản xuất kinh doanh đã được sử dụng chưa có hiệu quả như tiềm năng vốn có của chúng làm cho hiệu quả sử dụng tài sản nói chung tăng không đáng kể và đặc biệt còn bị giảm đi trong năm 2003, đây là điều rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của Xí nghiệp. Xí nghiệp xây lắp 1 cần phải nhanh chóng tìm ra các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó để tìm cách khắc phục sớm nhất. Như vậy chúng ta nhận thấy rằng việc “ Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định “ là điều hết sức cần thiết đối với Xí nghiệp xây lắp 1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu tình hình quản lý, sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1, những nguyên nhân ảnh hưởng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp. Chương II Cơ sở lý luận về sử dụng tài sản cố định I - Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tài sản cố định. 1. Khái niệm tài sản cố định. Tài sản cố định là tất cả những tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh ( nếu chu kỳ kinh doanh không dưới 1 năm). Phải có giá trị tối thiếu đến một mức quy định, riêng tiêu chuẩn này được thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thời giá của từng thời kỳ, theo quy định hiện hành thì tài sản cố định có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm: + TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất, đó là những tư liệu lao động chủ yếu của doanh nghiệp, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài như nhà xưởng, vật kiến trúc, kho tàng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. + TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị lớn đã đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong một khoảng thời gian dài. Ví dụ như: Giá trị bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu, chi phí lợi thế thương mại... 2. Đặc điểm của tài sản cố định. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sau mỗi chu kỳ sản xuất chúng bị hao mòn một phần song vẫn giữ được hình thức ban đầu của nó. Còn giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị sản phẩm và được thu hồi dần thông qua việc khấu hao của tài sản cố định. Vậy trong quá trình sản xuất, TSCĐ được luân chuyển từng phần tức là khi một bộ phận tài sản cố định còn đang nằm trong quá trình sản xuất dưới hình thức TSCĐ đang sử dụng thì một bộ phận tài sản khác đã trở lại hình thức giá trị ban đầu trong giá trị bán thành phẩm. Do sự mở rộng và gia tăng về nhịp độ tiến bộ khoa học hiện nay, do tính đặc thù về đầu tư trong một số ngành như Nông nghiệp, Xây dựng cơ bản, Giao thông, Mỏ địa chất... nên có một số khoản chi phí đầu tư mà tính chất luân chuyển của nó cũng tương tự như những luân chuyển của vốn cố định. Do đó tài sản cố định không chỉ có hình thức hiện vật mà còn bao gồm cả những tài sản cố định không có hình thức hiện vật. 3. Vai trò của tài sản cố định. Trong nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành sản xuất sản phẩm bao giờ cũng cần phải có các yếu tố sức lao động, tư liệu lao động và vốn. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng sáng chế, các chi phí thuế và cải tạo đất... Các thành phần kinh tế của các doanh nghiệp khác nhau, phải so sánh, cọ xát và thử sức trên thị trường hàng hoá trong nước và nhập ngoại. Nếu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp kém chất lượng, mẫu mã nhãn hiệu không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, giá bán cao so với thị trường...thì sức cạnh tranh sẽ rất kém. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề này thì bên cạnh những giải pháp song phương, phải thay đổi công nghệ, máy móc thiết bị và quy trình sản xuất. Chỉ nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ, đó là cơ sở then chốt để cạnh tranh trên thị trường. Việc đổi mới TSCĐ có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm nhẹ biên chế, giải phóng lao động thủ công nặng nhọc, đảm bảo an toàn cho người lao động, hạn chế độc hại đối với ngành sản xuất có tính độc hại cao như ngành công nghiệp hoá chất, dầu khí, khai thác khoáng sản... và ngoài ra còn tạo tiền đề làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sửa chữa, giảm chi phí tiền lương. Tóm lại: Tài sản cố định chiếm một vị trí cơ bản trong tổng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, đến chất lượng lao động và chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đến yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất phải cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng lực sản xuất hiện có và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp. Tài sản cố định trong đó có máy móc thiết bị sản xuất là điều kiện quan trọng và cần thiết để tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm... tạo điều kiện quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Xét về mặt vốn: Giá trị của TSCĐ nói chung và máy móc thiết bị nói riêng thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do đó đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Tài sản cố định còn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ hiện đại hoá và sự chuyên môn hoá công nghệ sản xuất mà nhìn vào đó người ta có thể đánh giá được một phần nào đó chất lượng sản phẩm. Mức độ hiện đại hoá của máy móc thiết bị nói riêng và tài sản cố định nói chung thể hiện thế mạnh của doanh nghiệp trong sự cạnh tranh trên thị trường. II - Phân loại và cơ cấu tài sản cố định. 1. Phân loại tài sản cố định. Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Do tài sản cố định của doanh nghiệp chiếm một phần lớn trong tổng vốn sản xuất kinh doanh, vì thế việc quản lý và sử dụng tài sản cố định là một việc hết sức quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng của mọi doanh nghiệp. Do đó để quản lý tốt việc sử dụng tài sản cố định chính là mục đích để phân loại tài sản cố định. Có 3 cách phân loại tài sản cố định như sau: 1.1. Phân loại theo hình thức biểu hiện: Theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp sẽ chia làm 2 loại: Tài sản cố định có hình thức vật chất và Tài sản cố định không có hình thức vật chất. * Tài sản cố định có hình thái vật chất ( Tài sản cố định hữu hình): là những tài sản được biểu hiện bằng hiện vật như : Nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, đất canh tác, đất xây dựng... Loại tài sản này được chia làm 6 loại như sau: Loại 1: Nhà cửa vật kiến trúc: Là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, cầu cảng. Loại 2: Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ và các loại máy móc khác. Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải. Loại 4: Thiết bị dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho quản lý, các dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng... Loại 5: Các loại tài sản cố định khác là toàn bộ những tài sản cố định chưa liệt kê vào các loại nêu trên như vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm, tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.. * Tài sản cố định không có hình thái vật chất: Khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, tiến bộ khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp “ hàm lượng chất xám “ trong sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được coi là nhân tố quan trọng, thì khi đó những tài sản cố định không có hình thức vật chất ( Tài sản cố định vô hình ) sẽ ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Hiện nay có một số các nước tư bản phát triển như Nhật, Mỹ, Pháp...có những công ty mà có tài sản cố định vô hình có giá trị lớn hơn cả tổng giá trị tài sản cố định hữu hình vốn đã rất hiện đại. Thông thường người ta chia Tài sản cố định vô hình thành những nhóm sau đây: - Chi phí thành lập doanh nghiệp: là những chi phí đầu tư có liên quan đến việc thành lập hoặc phát triển một tổ chức doanh nghiệp ( chi phí thăm dò, khảo sát thị trường, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, chi phí đào tạo quảng cáo). - Chi phí sưu tầm phát triển: là những khoản chi đầu tư cho việc nghiên cứu cải tiến quy trình công nghệ, chế thử sản phẩm mới, các chi phí cho phát minh sáng chế. - Quyền đặc nhượng, quyền khai thác: được thể hiện bằng hợp đồng giữa Nhà nước với một công ty hoặc giữa hai công ty với nhau về việc Nhà nước cho công ty kia được phép kinh doanh hoặc khai thác tài nguyên. - Bằng phát minh sáng chế: được cung cấp cho người có những sáng chế, phát minh. Các doanh nghiệp có thể mua các bằng phát minh, sáng chế theo giá thoả thuận và được Nhà nước bảo hộ. - Nhãn hiệu thương mại: là những chi phí đầu tư mà doanh nghiệp phải mua của một doanh nghiệp khác với những điều kiện ràng buộc theo quy định để tạo uy tín cho sản phẩm của mình. Nhờ nhãn hiệu mà các doanh nghiệp có thể bán chạy được sản phẩm của mình với giá cao hơn các sản phẩm cùng loại, cùng phẩm cấp nhưng không mang nhãn hiệu đó. - Vị trí của cửa hàng: Vị trí của cửa hàng là một trong những yếu tố rất có lợi thế trong thương mại. Vị trí bán hàng càng thuận lợi thì giá của cửa hàng càng cao, có thể cao hơn nhiều lần so với chi phí xây dựng cửa hàng đó ở những vị trí khác. - Các tài sản cố định vô hình khác: là những tài sản cố định không có hình thức vật chất nằm ngoài những nhóm tài sản đã nêu trên, ví dụ như: Những chi phí đầu tư để cải tạo đất, chi phí đầu tư bóc đất đá, nạo vét lòng sông... Phương pháp phân loại trên giúp cho người quản lý có một nhãn quan tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp, đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng các quy định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác cũng nhờ phương pháp phân loại này có thể đề ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao một cách chính xác và hợp lý. 1.2. Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế. Dựa theo tiêu thức này, toàn bộ tài sản cố định hữu hình và vô hình của doanh nghiệp sẽ được chia thành 2 loại: + Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh + Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh - Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: là những tài sản cố định hữu hình và vô hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp. Thuộc loại này bao gồm các tài sản như: Nhà cửa ( xưởng sản xuất, nhà làm việc, phòng giao dịch, quầy hàng, vật kiến trúc, thiết bị động lực, phương tiện vận tải, công cụ dụng cụ, giá trị canh tác, đất xây dựng. - Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh: là những tài sản dùng cho các hoạt động kinh doanh phụ trợ của doanh nghiệp và những tài sản không mang tính chất sản xuất bao gồm: nhà cửa, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất xây dựng phụ trợ và các máy móc thiết bị cho thuê. Phân loại theo công dụng kinh tế giúp cho người quản lý thấy rõ được kết cấu của tài sản, nắm được trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tài sản và tính khấu hao chính xác. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong công tác tài chính, kế toán, thống kê. Tuy nhiên, phương pháp phân loại này chưa phản ánh được tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp và người ta còn có cách phân loại theo hình thức sử dụng. 1.3. Phân loại tài sản cố định theo hình thức sử dụng: Căn cứ vào hình thức sử dụng của từng thời kỳ, người ta chia toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thành nhiều loại: + Tài sản cố định đang dùng + Tài sản cố định chưa cần dùng + Tài sản cố định không cần dùng chờ thành lý. Cách phân loại này nhằm giúp người quản lý biết được tổng quát về tình hình sử dụng số lượng và chất lượng tài sản cố định hiện có, vốn cố định còn tiềm tàng hoặc ứ đọng và từ đó tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác. Ngoài ra còn có cách phân loại khác như trong Xây dựng cơ bản, Nông nghiệp còn phân loại theo tình hình sở hữu: tài sản cố định tự có và tài sản cố định đi thuê. Trong các tổ hợp nông nghiệp còn phân loại tài sản cố định theo ngành sử dùng và quản lý. 2. Cơ cấu tài sản cố định. Cơ cấu tài sản cố định là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại tài sản cố định nào đó so với nguyên giá toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Cơ cấu tài sản cố định giữa các ngành sản xuất không giống nhau, thậm chí giữa các xí nghiệp trong một ngành nào đó cũng không giống nhau. Sự khác nhau hoặc sự biến động về kết cấu tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp trong các thời kỳ tuỳ thuộc vào các nhân tố như khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng, mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật và quy mô sản xuất. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, có những thông tin chuẩn về cơ cấu tài sản cố định trong từng ngành, thậm chí cho từng loại hình và quy mô xí nghiệp. Dựa vào chuẩn mực này và tình hình thực tế của doanh nghiệp, các nhà doanh nghiệp có thể điều chỉnh cơ cấu tài sản cố định của đơn vị mình để điều chỉnh cho phù hợp. Việc phân loại tài sản cố định và phân tích tình hình cơ cấu của chúng là một căn cứ quan trọng để xem xét quyết định đầu tư cũng như giúp cho việc tính toán chính xác khấu hao tái sản cố định - một trong những khâu cơ bản của công tác quản lý vốn cố định ở một doanh nghiệp. III - Hao mòn và khấu hao tài sản cố định. 1. Hao mòn tài sản cố định. Trong quá trình tham gia vào sản xuất, do chịu tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. * Hao mòn hữu hình tài sản cố định: Là sự giảm dần về mặt giá trị do chúng sử dụng trong sản xuất, hoặc do sự tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra. Tài sản cố định bị hao mòn trước hết là do trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng của chúng. Trong các ngành nông nghiệp, lân nghiệp, xây dựng, khai thác vận tải... tài sản cố định phải hoạt động thường xuyên trong môi trường thiên nhiên, do đó mức độ hao mòn của chúng lớn hơn so với các ngành khác. Khi tài sản cố định không được sử dụng thì do tác động của thiên nhiên nên chúng vẫn bị hao mòn. Những đặc điểm trên có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đưa ra các phương pháp khấu hao chính xác, các biện pháp huy động tối đa năng lực sản xuất hiện có của đơn vị sản xuất kinh doanh cho phù hợp với các đặc điểm, điều kiện của từng ngành. * Hao mòn vô hình tài sản cố định: Là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do có những tài sản cố định cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng được sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất mà do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay, người ta sản xuất ra những thiết bị máy móc cùng loại, cùng thông số kỹ thuật với giá thành hạ hơn hoặc với giá không đổi, nhưng lại có tính năng, tác dụng, công suất cao hơn. Cho nên những thiết bị, máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị mất giá so với hiện tại. Sự “ mất giá “ đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình của tài sản cố định sẽ không liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của chúng. Trên thực tế, máy móc thiết bị còn mới nguyên, chưa sử dụng nhưng đã bị “ mất giá “ vì hao mòn vô hình ( đặc biệt là thiết bị máy móc trong các ngành tin học, điện tử). Có những trường hợp máy móc thiết bị, các quy trình công nghệ... còn mới chỉ nằm trên các dự án, các dự thảo phát minh mà đã trở nên lạc hậu trong chính thời điểm đó. Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới khoa học kỹ thuật, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này tạo ra lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp trong sự cạnh tranh trên thị trường. 2. Khấu hao tài sản cố định. Khấu hao là mức phân bổ chi phí theo năm sử dụng của tài sản cố định vào giá thành nhằm thu hồi chi phí đầu tư cho tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định bị hao mòn dần, một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm được gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền trích khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài sản cố định. Trên thực tế, với điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao cơ bản có khả năng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh. Khả năng này được thực hiện bằng cách các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi ( trên nguyên tắc được hoàn quỹ). Nhờ nguồn này, doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới tài sản cố định ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại hơn.Với ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được gọi là nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Yêu cầu và các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định. 3.1. Yêu cầu khi tính khấu hao tài sản cố định: - Xuất phát từ nội dung kinh tế và tác dụng của tiền trích khấu hao cũng như quỹ khấu hao, đòi hỏi việc tính khấu hao phải chính xác, kịp thời, nghĩa là tiền tính khấu hao được trích phải phù hợp với mức độ hao mòn hữu hình và vô hình của tài sản cố định. - Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo toàn vốn cố định. Nếu tổng số tiền trích khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị mua sắm ban đầu của tài sản cố định thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm hụt, vốn không được bảo toàn. - Việc lựa chọn các phương pháp tính khấu hao thích hợp còn là một biện pháp hữu hiệu để chống hao mòn vô hình. Từ vấn đề này đã đặt ra nhiệm vụ trước những nhà quản lý là phải lựa chọn được phương pháp tính khấu hao vừa chọn thời điểm thích hợp để sử dụng, vừa phản ánh đúng mức độ hao mòn hữu hình gây ra. Ngoài ra, việc lựa chọn phương pháp khấu hao còn là một căn cứ quan trọng để xác định thời gian hoàn vốn đầu tư tài sản cố định. Qua những ý nghĩa và tác dụng được phân tích ở trên cho ta thấy việc xác định phương pháp tính khấu hao tài sản cố định đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý vốn cố định ở các doanh nghiệp. 3.2. Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định. 3.2.1. Phương pháp khấu hao bình quân: Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất được sử dụng phổ biến để tính khấu hao các loại tài sản cố định. Theo phương pháp này, tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định. Công thức tính toán: MKH = x 100 TTH = x 100 Trong đó: MKH: Là mức tính khấu hao trung bình hàng năm MKHi: Là mức khấu hao trung bình năm thứ i Gd: Là nguyên giá tài sản cố định T: Là thời gian sử dụng tài sản cố định. Nếu doanh nghiệp trích khấu hao tháng thì lấy mức khấu hao năm chia cho 12 tháng, có thể biểu diễn trên sơ đồ sau: MKH 1 2 3 4 5 T(Năm) - Nguyên giá tài sản cố định là toàn bộ chi phí thực tế đã bỏ ra để có được tài sản cố định và đưa vào hoạt động. Thông thường khoản chi phí này bao gồm: Chi phí theo giá mua thực tế, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử, các khoản lãi vay đầu tư cho tài sản cố định khi chưa bàn giao và đưa vào sử dụng. - Thời gian sử dụng tài sản cố định là khoảng thời gian mà theo doanh nghiệp dự kiến sử dụng tài sản cố định vào hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường. Nó được xác định và căn cứ vào tuổi thọ kinh tế kỹ thuật. Trong thực tế, phương pháp tính khấu hao bình quân có thể vận dụng với những biến đổi nhất định cho phù hợp với đặc điểm sử dụng trong từng ngành, từng doanh nghiệp như trong một số ngành như Xây dựng cơ bản, Giao thông vận tải, Sản xuất nông nghiệp. Ngoài việc tính khấu hao theo thời gian sử dụng, người ta có thể tính khấu hao theo thời gian ca máy, theo khối lượng vận chuyển...tuy nhiên, mẫu số công thức tính khấu hao phải được đổi theo đơn vị thích hợp. Tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao trên được xác định trong điều kiện sử dụng bình thường. Trong thực tế, nếu tài sản cố định được sử dụng trong điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn hơn mức bình thường thì doanh nghiệp có thể điều chỉnh lại thời gian khấu hao từ số năm sử dụng tối đa đến số năm sử dụng tối thiểu với từng loại tài sản cố định hoặc nhân tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm với hệ số điều chỉnh: TKđ = TKH x Hđ Trong đó: TKđ: Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm Hđ: Hệ số điều chỉnh. Tỷ lệ khấu hao bình quân hàng năm có thể tính cho từng tài sản cố định cá biệt, tính cho từng nhóm, từng loại tài sản cố định hay toàn bộ các nhóm, loại tài sản cố định của doanh nghiệp. Trên thực tế, việc tính khấu hao theo từng loại tài sản cố định cá biệt sẽ làm tăng công tác tính toán và quản lý chi phí khấu hao. Vì vậy, các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp khấu hao bình quân tổng hợp, trong đó mức khấu hao trung bình hàng năm được tính cho từng nhóm - từng loại tài sản cố định. Có 2 cách tính tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp là tính theo tỷ trọng giá trị tài sản cố định của mỗi nhóm ( hoặc tính theo đúng mức khấu hao của từng loại tài sản cố định phải tính khấu hao). Trong cách tính theo tỷ trọng, sau khi phân loại toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thành các nhóm có tỷ lệ khấu hao cá biệt giống nhau, người ta xác định được tỷ trọng của mỗi nhóm trong toàn bộ giá trị của tài sản cố định. Có thể dùng phương pháp bình quân gia quyền để tính ra tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân và mức khấu hao của toàn bộ tài sản cố định trong năm của doanh nghiệp. Công thức tính: = Trong đó: : Tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp fi: Tỷ trọng giá trị mỗi nhóm ti: Tỷ lệ khấu hao cá biệt từng nhóm Căn cứ vào giá trị tài sản cố định từng loại phải tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao để tính ra được mức khấu hao bình quân chung cho toàn bộ các loại tài sản cố định của doanh nghiệp. ưu điểm: Cách tính toán đơn giản, dễ hiểu, mức khấu hao được tính vào giá thành ổn định, khối lượng công việc tính toán giảm đi. Nhược điểm: Không phản ánh chính xác độ hao mòn thực tế của tài sản cố định vào giá trị của sản phẩm. Do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm làm cho tài sản cố định của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của hao mòn vô hình. 3.2.2. Phương pháp tuyến tính cố định ( Phương pháp đường thẳng). Phương pháp tuyến tính cố định là một phương pháp tính khấu hao chung nhất, được sử dụng phổ biến để tính khấu hao cho các loại tài sản cố định có hình thái vật chất. Theo phương pháp này, mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao được tính ở mức không đổi hàng năm và được áp dụng theo công thức sau: MK = Trong đó: MK: Mức khấu hao cơ bản cố định hàng năm T: Thời gian sử dụng định mức của cả đời máy ( năm) NG: Nguyên giá của tài sản cố định. Nguyên giá tài sản cố định bao gồm: Giá mua theo hoá đơn và những chi phí kèm theo trước khi đưa ra sử dụng như: chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử... Nếu là công trình xây dựng cơ bản thì nguyên giá sẽ là dự toán công trình hoàn thành bàn giao kế toán. Nếu là các tài sản cố định không có hình thái vật chất thì nguyên giá của nó sẽ là tổng chi phí đã bỏ ra cho mục đích đầu tư. Thời gian T được xác định bằng cách: Căn cứ vào những chỉ số kỹ thuật bình quân để ước tính thời gian sử dụng bình quân của cả đời máy. 3.2.3. Phương pháp tình khấu hao tổng hợp. * Tính khấu hao tổng hợp bằng phương pháp tỷ trọng. Toàn bộ tài sản cố định của tổ chức doanh nghiệp được chia thành các nhóm tỷ lệ khấu hao cá biệt tương tự, sau khi đã xác định tỷ trọng và tỷ lệ khấu hao của mỗi nhóm, dùng phương pháp bình quân gia quyền để tính ra tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân và mức khấu hao của toàn bộ tài sản cố định trong năm của doanh nghiệp. * Tính khấu hao tổng hợp theo từng loại tài sản cố định. Toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được xếp thành từng loại ( chẳng hạn theo công dụng kinh tế giống nhau ). Sau khi xác định tỷ lệ khấu hao bình quân của từng loại, ta tính tổng mức khấu hao tài sản cố định của từng loại và tỷ lệ khấu hao bình quân chung. = x 100 Trong đó: : Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân MK: Mức khấu hao cơ bản cố định hàng năm NG: Nguyên giá tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân là một chỉ tiêu được sử dụng phổ biến trong công tác lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định của các doanh nghiệp. 3.2.4. Các phương pháp tính khấu hao nhanh. * Phương pháp khấu hoa “ Số dư giảm dần”: - Số khấu hao hàng năm được tính nhờ một tỷ lệ nhất định nhân với giá trị còn lại của tài sản cố định. - Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp này thường lớn hơn so với tỷ lệ của phương pháp tuyến tính cố định, để khuyến khích khấu hao nhanh. Các hệ số điều chỉnh thường được áp dụng: + Đối với tài sản cố định có thời gian sử dụng đến 4 năm thì tỷ lệ khấu hao bằng tỷ lệ khấu hao bình quân thường nhân với hệ số 1. + Tài sản cố định có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 năm thì hệ số đó là 2. + Tài sản cố định có thời gian sử dụng trên 6 năm thì hệ số đó là 2,5. Kết luận: - Trong các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định thì phương pháp “ Số dư giảm dần” có khả năng phòng ngừa hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình. Hạn chế của phương pháp này là số trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ không đủ bù đắp giá trị ban đầu của máy móc thiết bị. - Khi chuyển sang giai đoạn nửa cuối thời gian phục vụ của tài sản cố định, ta có thể sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cố định, bằng cách này ta sẽ thu hồi đủ vốn ban đầu. * Tính khấu hao bằng phương pháp tổng số: - Số trích khấu hao hàng năm được tính trên cơ sở nhân tỷ lệ khấu hao của mỗi năm với giá trị ban đầu của tài sản cố định. - Tỷ lệ khấu hao của mỗi năm là tỷ lệ giảm dần, được xác định bằng cách: Chia số năm còn lại đến khi hết thời gian phục vụ của máy móc thiết bị cho tổng các số trong dãy số thứ tự từ 1 cho đến số hạng bằng thời gian phục vụ của máy. - Phương pháp “ Tổng số “ có ưu điểm hơn phương pháp “ Số dư giảm dần” ở chỗ: Số khấu hao được trích luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ đảm bảo bù đắp giá trị ban đầu của tài sản cố định. Cả 2 phương pháp “ Khấu hao nhanh “ nêu trên đều có cùng một ưu điểm, đó là: Thu hồi vốn nhanh, tránh được sự mất giá trị hao mòn vô hình. Vì thế, phương pháp khấu hao nhanh được áp dụng phổ biến ở các doanh nghiệp có trình độ trang thiết bị máy móc hiện đại. IV- Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định. 1. Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định. 1.1. Phân tích kết cấu của tài sản cố định. Kết cấu tài sản cố định là tỷ trọng của từng loại, từng bộ phận tài sản cố định chiếm trong toàn bộ tài sản cố định xét về mặt giá trị. Phân tích kết cấu tài sản cố định là xem xét, đánh giá tính hợp lý về sự biến động tỷ trọng của từng loại, từng bộ phận của tài sản cố định, trên cơ sở đó xây dựng, đầu tư tài sản cố định theo một cơ cấu hợp lý, nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng chúng. Cần chú ý rằng cơ cấu tài sản cố định phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng ngành, từng doanh nghiệp. Sau mỗi thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm) bằng cách so sánh tỷ trọng từng nhóm tài sản cố định cuối kỳ với đầu kỳ sẽ thấy sự biến động về cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu thực tế của doanh nghiệp để rút ra kết luận về sự biến động cơ cấu tài sản cố định là hợp lý hay không hợp lý. Vì thế, sau mỗi thời kỳ nhất định, tỷ trọng từng nhóm, từng loại tài sản cố định thường có sự thay đổi. Cơ cấu tài sản cố định được coi là hợp lý nếu sự phân bổ tài sản cố định vào mỗi nhóm, mỗi loại đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất một cách hiệu quả nhất. 1.2. Phân tích sự biến động của tài sản cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ của doanh nghiệp thường có sự biến động tăng giảm từng loại TSCĐ, có ảnh hưởng không giống nhau đến tình hình sản xuất. Khi trang bị TSCĐ cho doanh nghiệp, các nhà quản lý cần nghiên cứu tác dụng của từng loại để đầu tư vốn theo hướng có lợi nhất. Để phân tích tình hình tăng giảm và đổi mới tài sản cố định tại doanh nghiệp, ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Giá trị TSCĐ tăng trong kỳ a. Hệ số tăng tài sản cố định = Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ Giá trị TSCĐ tăng trong kỳ bao gồm cả những TSCĐ cũ thuộc nơi khác điều đến. Giá trị TSCĐ giảm trong kỳ b. Hệ số giảm tài sản cố định = Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ Giá trị TSCĐ giảm trong kỳ bao gồm những tài sản cố định hết hạn sử dụng, đã thanh lý hoặc chưa hết hạn sử dụng được điều động đi nơi khác và không bao gồm phần khấu hao. Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ c. Hệ số đổi mới TSCĐ = Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Trong đó: Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ bao gồm cả chi phí hiện đại hoá. Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ d. Hệ số loại bỏ TSCĐ = Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Các hệ số tăng và giảm tài sản cố định phản ánh chung mức độ tăng giảm thuần tuý về quy mô tài sản cố định. Các hệ số đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định ngoài việc phản ánh tăng giảm thuần tuý về mặt quy mô tài sản cố định còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Khi phân tích có thể so sánh các hệ số trên giữa cuối kỳ và đầu kỳ, hoặc giữa thực tế và kế hoạch để thấy được phương hướng đầu tư, đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. 1.3. Phân tích tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định. Nhân tố cơ bản làm thay đổi hiện trạng của tài sản cố định là sự hao mòn. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định hao mòn dần và đến một lúc nào đó sẽ không còn sử dụng được nữa. Mặt khác, quá trình hao mòn tài sản cố định diễn ra đồng thời với quá trình sản xuất, kinh doanh. Nghĩa là sản xuất càng khẩn trương bao nhiêu thì trình độ hao mòn càng nhanh bấy nhiêu. Bởi vậy, việc phân tích tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định là một vấn đề hết sức quan trọng, nhằm đánh giá đúng mức tài sản cố định của doanh nghiệp còn mới hay cũ hoặc mới, cũ ở mức nào, có biện pháp đúng đắn để tái sản xuất tài sản cố định. Để phân tích tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định, cần phân tích chỉ tiêu hệ số hao mòn tài sản cố định, bằng công thức tính: Tổng mức khấu hao TSCĐ Hệ số hao mòn TSCĐ = Nguyên giá tài sản cố định + Nếu hệ số hao mòn tài sản cố định càng gần tới 1, chứng tỏ tài sản cố định càng cũ và doanh nghiệp phải chú trọng đến việc đổi mới và hiện đại hoá tài sản cố định. + Nếu hệ số hao mòn càng nhỏ hơn 1 bao nhiêu, chứng tỏ tài sản cố định của doanh nghiệp đã được đổi mới. 1.4. Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định. Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định là đánh giá mức độ đảm bảo tài sản cố định, đặc biệt là máy móc thiết bị sản xuất cho lao động, cho một đơn vị diện tích sản xuất... trên cơ sở đó có kế hoạch trang bị thêm tài sản cố định, nhằm tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Các chỉ tiêu thường dùng để phân tích: Nguyên giá tài sản cố định Nguyên giá TSCĐbq một = công nhân trong ca lớn nhất Số công nhân trong ca lớn nhất Chỉ tiêu này phản ánh chung trình độ trang bị tài sản cố định cho công nhân. Chỉ tiêu này càng tăng chứng tỏ trình độ cơ giới hoá của doanh nghiệp càng cao. Nguyên giá thiết bị sản xuất Nguyên giá thiết bị sản xuất = bình quân cho một công nhân Số công nhân trong ca lớn nhất Chỉ tiêu này phản ánh trình độ trang bị kỹ thuật cho công nhân. Chỉ tiêu này càng tăng chứng tỏ trình độ trang bị kỹ thuật càng cao. Xu hướng chung, nguyên giá thiết bị sản xuất bình quân cho một công nhân tăng với tốc độ nhanh hơn nguyên giá tài sản cố định bình quân cho một công nhân, có như vậy mới tăng nhanh quy mô năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động. 1.5. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định phản ánh trình độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí về tài sản cố định là nhỏ nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất, hoàn chỉnh kết cấu tài sản cố định, hoàn thiện những khâu yếu kém hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ. Đồng thời, sử dụng có hiệu quả tài sản cố định hiện có là biện pháp tốt nhất để sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả. Sau mỗi kỳ nhất định, cần đánh giá tổng quan tình hình sử dụng TSCĐ ở doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSCĐ, có thể tính chung cho toàn bộ TSCĐ, có thể tính riêng cho TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh hoặc máy móc thiết bị sản xuất. 1.5.1. Phân tích sức sản xuất của tài sản cố định. Công thức xác định như sau: HS = Trong đó: HS : Sức sản xuất của TSCĐ GS : Giá trị sản lượng sản phẩm NG : Nguyên giá bình quân của TSCĐ Chỉ tiêu này phản ánh: cứ 1 đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản lượng sản phẩm. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc quản lý và sử dụng tài sản cố định càng tốt. 1.5.2. Phân tích sức sinh lợi của tài sản cố định. Mặc dù có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, song bất kỳ ở hình thức nào hiệu quả sử dụng tài sản cố định cũng phản ánh một cách tốt nhất chất lượng công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định ở doanh nghiệp. Để đánh giá sức sinh lợi của TSCĐ, người ta dùng công thức sau: Lợi nhuận Sức sinh lợi của TSCĐ (Hq) = Nguyên giá bình quân của TSCĐ Bằng cách so sánh thực tế với kế hoạch, thực tế kỳ này so với thực tế kỳ trước về hiệu quả sử dụng TSCĐ ở doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tốt hay xấu. Mặt khác, so sánh hiệu quả sử dụng TSCĐ giữa doanh nghiệp cùng loại hình có điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự nhau. Công thức tính: Hq = Hqt - Hqk Trong đó: Hqt : Hiệu quả sử dụng TSCĐ thực tế Hqk : Hiệu quả sử dụng TSCĐ kế hoạch Hq : Số tăng giảm về hiệu quả sử dụng TSCĐ - Nếu Hq > 0, chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ tăng, đây là biểu hiện tốt. - Nếu Hq < 0 chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ giảm, đây là biểu hiện không tốt. - Nếu Hq = 0 chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ không thay đổi. * Hiệu quả sử dụng TSCĐ tăng giảm là do các nguyên nhân: + Cơ cấu TSCĐ hợp lý + Tình trạng kỹ thuật TSCĐ mới hay cũ + Tình hình sử dụng về số lượng, thời gian và công suất của thiết bị máy móc tốt hay không tốt. + Tình hình cung ứng vật liệu cho sản xuất đảm bảo hay không đảm bảo. + Trình độ tay nghề của công nhân sản xuất cao hay thấp. + Trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay không tốt. 2. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị sản xuất. Sau khi đánh giá chung tình hình sử dụng TSCĐ cần phải đi sâu phân tích tình hình sử dụng thiết bị máy móc sản xuất bởi vì bất kỳ doanh nghiệp nào thiết bị máy móc sản xuất luôn giữ vị trí quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến năng suất và sản lượng của doanh nghiệp. Phân tích tình hình sử dụng thiết bị máy móc trong sản xuất nhằm phát hiện khả năng tiềm tàng về số lượng, thời gian làm việc và năng lực của thiết bị máy móc. Trên cơ sở đó tìm biện pháp nhằm biến những khả năng ấy thành hoạt động cụ thể của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2.1. Phân tích tình hình sử dụng số lượng máy móc thiết bị sản xuất. Hệ số sử dụng máy móc thiết bị hiện có ( Hs ): Số thiết bị làm việc thực tế bình quân Hs = Số thiết bị hiện có bình quân Hệ số này phản ánh một cách khái quát tình hình sử dụng số lượng máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp. Trong trường hợp này Hs = 1 là tốt nhất. 2.2. Phân tích tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất. Sử dụng tốt thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tăng nhanh khối lượng sản phẩm sản xuất. Để đánh giá, phân tích tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất, cần tính và so sánh các chỉ tiêu sau đây: Thời gian làm việc thực tế của thiết bị Hệ số sử dụng thời gian chế độ = Thời gian làm việc theo chế độ của thiết bị Hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc có ích của thiết bị = Thời gian làm việc thực tế của thiết bị Trong đó: - Thời gian làm việc theo chế độ là thời gian làm việc của máy móc thiết bị theo chế độ quy định. Thời gian làm việc theo chế độ của máy móc thiết bị sản xuất phụ thuộc vào số giờ máy làm việc theo chế độ trong một ca máy, số ca máy làm việc trong một ngày đêm và số ngày làm việc theo chế độ quy định trong kỳ phân tích của máy móc thiết bị sản xuất. - Thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị sản xuất là thời gian máy tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm, bao gồm cả thời gian chuẩn bị cho máy làm việc. - Thời gian hoạt động có ích của máy móc thiết bị sản xuất là thời gian máy dùng vào sản xuất ra sản phẩm hợp cách. 2.3. Phân tích tình hình sử dụng về công suất của máy móc thiết bị. Hệ số sử dụng Công suất thực tế của thiết bị công suất thiết bị = Công suất thiết kế Hệ số này càng cao và tiến dần tới 1 thì càng chứng tỏ rằng doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả, đạt được gần tối đa công suất. 2.4. Phân tích mối quan hệ giữa thiết bị sản xuất và tài sản cố định khác. Cơ cấu tỷ phần trang thiết bị sản xuất trong tài sản cố định hợp lý hay không phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, của từng doanh nghiệp. Phân tích mối quan hệ tỷ phần thiết bị sản xuất trong tài sản cố định, tìm được tỷ phần thiết bị sản xuất trong tài sản cố định, tìm được tỷ phần phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế cao là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với các nhà doanh nghiệp. Tỷ phần cơ cấu thiết bị sản xuất trong tài sản cố định của doanh nghiệp, được tính bằng công thức sau: Giá trị bình quân thiết bị sản xuất đang sử dụng Tỷ lệ thiết bị sản xuất = Giá trị bình quân tài sản cố định đang sử dụng Mối quan hệ giữa tỷ phần thiết bị sản xuất với tài sản cố định đang dùng vào hoạt động sản xuất, được mô tả bằng công thức: Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Hiệu suất sử dụng TBSX x Tỷ phần thiết bị trong TSCĐ Hs = HTB x dTB Như vậy, hiệu suất sử dụng tài sản cố định chịu ảnh hưởng của hai nhân tố có quan hệ tích số. Đó là hiệu suất sử dụng thiết bị sản xuất và tỷ phần thiết bị sản xuất trong tài sản cố định. Có thể vận dụng phương pháp loại trừ để xác định sự ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Đồng thời thấy rằng, muốn nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định, phải đồng thời nâng cao cả hai nhân tố trên. 2.5. Phân tích mức độ ảnh hưởng tổng hợp sử dụng máy móc thiết bị sản xuất đến kết quả sản xuất kinh doanh. Tình hình sử dụng về mặt số lượng, thời gian và năng suất của máy móc thiết bị sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy cần xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố sử dụng thiết bị đến khối lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó, kiến nghị những biện pháp tăng cường sử dụng máy móc thiết bị đạt hiệu quả kinh tế cao. Mối quan hệ giữa tình hình sử dụng máy móc thiết bị sản xuất kinh doanh, được biểu hiện bằng công thức: HTổng hợp = HSố lượng x HThời gian x Hcông suất Bằng phương pháp loại trừ, phân tích mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố sử dụng máy móc thiết bị sản xuất đến khối lượng sản phẩm của doanh nghiệp. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị nói riêng và tài sản cố định nói chung. * Vấn đề cung ứng nguyên vật liệu: Quá trình sản xuất của doanh nghiệp là sự kết hợp đồng bộ của các yếu tố sản xuất, trong quá trình sản xuất muốn máy móc thiết bị làm việc liên tục, sản xuất không bị gián đoạn và có hiệu quả cao thì nguyên liệu phải được cung ứng kịp thời, cần xác định rõ cung ứng và tập hợp các quá trình đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất. Việc mua nguyên vật liệu quá nhiều hoặc quá ít đều gây ra những bất lợi của doanh nghiệp. Do vậy cung ứng vật tư phải đảm bảo đúng chủng loại, số lượng, chất lượng mong muốn. Nguyên vật liệu bao gồm nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ nhưng thiếu một trong hai loại này thì không cấu thành sản phẩm. Bởi vậy cung ứng đủ chủng loại nguyên vật liệu là một yếu tố bắt buộc. + Đúng chất lượng mong muốn + Đúng thời điểm và số lượng mong muốn + Chi phí nhỏ nhất. * Trình độ lao động. Tài sản cố định nói chung và máy móc thiết bị nói riêng cộng với yếu tố con người là quan trọng nhất trong quá trình sản xuất có quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau trong công việc tạo ra của cải vật chất. Trình độ lao động ảnh hưởng trực tiếp đến sử dụng máy móc. Đặc biệt đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều thiết bị vạn năng thì việc khai thác được hết tính năng, tận dụng hết công suất thiết kế thiết bị phụ thuộc vào người sử dụng lao động có tay nghề cao sẽ tiếp cận được nhanh hơn với khoa học kỹ thuật hiện đại và thích nghi được ngay với việc áp dụng chúng trong sản xuất. Đây là một thuận lợi đáng kể trong việc tiếp thu sử dụng công nghệ mới. Thực tế ở nước ta hiện nay, việc chuyển giao công nghệ đang diễn ra sôi nổi. Không ai phủ nhận được tính tích cực của hoạt động này trong việc giúp các nước đang phát triển tận dụng được thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, góp phần rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới. Thế nhưng việc cân nhắc lựa chọn máy móc thiết bị công nghệ phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước để rổi có thể tận dụng tối đa công suất. Thực hiện điều này đòi hỏi phải có chuyên môn vững vàng, có hiểu biết về khoa học kỹ thuật, đồng thời cũng cần có giác quan tinh tế nhạy bén để tránh tình trạng nhập máy móc thiết bị lạc hậu về công nghệ, không đồng bộ... * Tổ chức điều độ sản xuất: Thực chất là toàn bộ các hoạt động xây dựng lịch trình sản xuất, điều phối, phân giao các công việc cho từng nguồn, từng nhóm người, từng máy và sắp xếp thứ tự các công việc ở từng nơi làm việc nhằm đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ đã xác định trong lịch trình sản xuất trên cơ sở sử dụng có hiệu quả, khả năng sản xuất hiện có của doanh nghiệp. Quá trình tổ chức điều phối sản xuất bao gồm nhiều nội dung khác nhau, đó là: + Xây dựng lịch trình sản xuất + Dự định số lượng các nguồn lực + Điều phối - phân giao công việc + Theo dõi, phát hiện những biến động ngoài dự kiến. Chương 3 Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1. I - Phân tích kết cấu và tình hình biến động tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1. Tài sản cố định của doanh nghiệp là cơ sở vật chất kỹ thuật, là nhân tố quan trọng đảm bảo điều kiện sản xuất của doanh nghiệp. Tài sản cố định là thước đo năng lực sản xuất hiện có, trình độ tiên tiến về khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp. Tài sản cố định và đặc biệt là máy móc thiết bị sản xuất là điều kiện quan trọng và cần thiết để tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, việc chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì việc trang bị trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ, đổi mới tài sản cố định trong các doanh nghiệp được đặt ra như một vấn đề thời sự cấp bách. Trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu, hạ tầng cơ sở thiếu thốn, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, nền công nghiệp còn non trẻ chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước. Việc không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định hiện có trong sản xuất kinh doanh là một việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Đó chính là vấn đề sống còn của bất kỳ một doanh nghiệp nào để không ngừng tăng thêm năng lực sản xuất, tức là tăng thêm sự tồn tại và tích luỹ để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Song thực tế hiện nay việc sử dụng tài sản cố định ( nhất là hệ thống máy móc thiết bị trong sản xuất kinh doanh) của các doanh nghiệp đang có chiều hướng giảm sút, chỉ xét riêng về trình độ tận dụng năng lực sản xuất nhiều doanh nghiệp chỉ ở dưới mức 50%. Việc giảm sút và tận dụng không hết năng lực có thể do công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định không hợp lý, kém hiệu quả. Hệ số sử dụng thời gian chưa triệt để, còn thấp, do công tác dự trữ bảo quản, lắp đặt và công tác bảo quản sửa chữa không đúng nơi đúng chỗ, không kịp thời do công tác dự toán và cung cấp vật tư, phụ tùng thay thế. Hiện nay, khi các chủ trương chính sách của Đảng về cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là chủ trương tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì công tác đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định của các doanh nghiệp là một việc làm phù hợp và có vai trò rất quan trọng bởi qua đó ta có thể nhận thấy được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt hay xấu, khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai với điều kiện khắc nghiệt của nền kinh tế với mục tiêu cạnh tranh để tồn tại. Để quản tốt các nguồn lực hiện có, Xí nghiệp xây lắp 1 có nhiều vấn đề cần phải quan tâm, nhưng trong khuôn khổ của đề tài này chỉ xin đề cập đến việc quản lý và sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp. Xí nghiệp xây lắp 1 là một thành viên của Công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp, là doanh nghiệp hạch toán độc lập với số lượng tài sản cố định tính đến 31/12/03 là 2.550.094.160 đồng. Xí nghiệp thường xuyên đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó việc đánh giá trình độ và khả năng sử dụng tài sản cố định. Tỷ trọng và giá trị tài sản cố định biến động theo thời kỳ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được thể hiện qua bảng sau. Bảng 3- 1 Giá trị tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 Đơn vị tính: Đồng STT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 1 Giá trị tài sản bình quân 37.743.778.089 40.624.465.261 2 Giá trị còn lại bình quân của tài sản cố định 942.818.950 1.623.266.617 3 Tỷ trọng ( % ) 2,50 4,00 ( Nguồn: Bảng cân đối kế toán các năm 2002-2003 ) 1. Phân tích kết cấu của tài sản cố định. Kết cấu tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có thể chia thành nhiều thành phần cấu thành, nhưng tỷ trọng của mỗi thành phần chiếm trong tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Nó phù hợp với điều kiện sản xuất cũng như đặc điểm của mỗi doanh nghiệp. Do vậy việc kết cấu tài sản, tỷ trọng mỗi thành phần cấu thành kết cấu tài sản cố định dùng trong sản xuất sao cho có lợi nhất và thu được hiệu quả cao, phù hợp với quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp là điều rất quan trọng và cần thiết, có vai trò quyết định đến hiệu quả sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây lắp 1. Xí nghiệp xây lắp 1 thực hiện quyết định 166/1999/QĐ - BTC ngày 31/12/`1999 của Bộ Tài Chính về việc ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định thì những tài sản có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên được coi là tài sản cố định. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả số tài sản này, Xí nghiệp xây lắp 1 đã phân loại tài sản cố định theo các nhóm như sau: Nhóm I- Nhà xưởng: - Nhà làm việc cơ quan - Xưởng sản xuất - Nhà kho - Nhà để ô tô Nhóm II- Máy móc thiết bị công tác: - Máy trộn - Cốp pha thép - Đầm cóc - Máy cắt thép - Máy biến thế điện Nhóm III- Phương tiện vận tải: - Xe ô tô Nhóm IV- Máy móc thiết bị văn phòng: - Máy phô tô - Máy vi tính - Máy tính - Máy in - Máy fax - Máy điều hoà Nhóm V- Tài sản cố định phúc lợi công cộng: - Vô tuyến - Máy tăng âm - Đầu đĩa, đầu Video Để phân tích kết cấu tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1, ta có bảng 3-2: Bảng 3-2 Kết cấu tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 ĐVT : Đồng TT Tên TSCĐ Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng I TSCĐ hữu hình 1.537.074.085 100 1.709.459.149 100 0 1 Nhà xưởng 1.222.064.893 79,51 1.090.064.893 63,77 - 15,74 2 Máy móc thiết bị công tác 52.290.694 3,40 29.190.694 1,71 - 1,69 3 Phương tiện vận tải 175.966.800 11,45 478.540.857 27,99 + 16,54 4 Máy móc thiết bị văn phòng 77.169.698 5,02 105.700.705 6,18 + 1,16 5 TSCĐ phúc lợi công cộng 9.582.000 0,62 5.962.000 0,88 + 0,26 II TSCĐ thuê tài chính 0 0 0 0 0 III TSCĐ vô hình 0 0 0 0 0 Tổng TSCĐ 1.537.074.085 100 1.709.459.149 100 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tài chính - Kế toán ) Nhìn vào bảng phân tích ta thấy: Giá trị tổng TSCĐ của Xí nghiệp năm 2003 so với năm 2002 tăng 172.385.064 đồng, tương ứng với mức tăng giá trị là 11,22%, trong đó nhóm TSCĐ hữu hình vẫn chiếm tỷ lệ 100%. Tính đến 31/12/2003 tổng nguyên giá tài sản cố định của Xí nghiệp là 2.550.094.163 đồng với tổng giá trị còn lại là 1.709.459.149 đồng. Các nhóm tài sản cố định giảm tỷ trọng: + Nhà xưởng năm 2002 có giá trị 1.222.064.893 đồng, năm 2003 có giá trị 1.090.064.893 đồng, tỷ trọng giảm 15,74% + Máy móc thiết bị công tác năm 2002 có giá trị 52.290.694 đồng, năm 2003 có giá trị 20.190.694 đồng, tỷ trọng giảm 2,22% Các nhóm tài sản cố định tăng tỷ trọng: + Phương tiện vận tải năm 2002 có giá trị 175.966.800 đồng, năm 2003 có giá trị 478.540.857 đồng, tỷ trọng tăng 16,54% + Máy móc thiết bị văn phòng năm 2002 có giá trị 77.169.698 đồng, năm 2003 có giá trị 105.700.705 đồng, tỷ trọng tăng 1,16% + TSCĐ phúc lợi công cộng năm 2002 có giá trị 9.582.000 đồng, năm 2003 có giá trị 5.962.000 đồng, tỷ trọng của nhóm này trong tổng tài sản cố định tăng 0,26%. Như vậy nhóm TSCĐ tăng tỷ trọng nhiều nhất là phương tiện vận tải và nhóm TSCĐ giảm tỷ trọng nhiều nhất là nhóm nhà xưởng. Qua việc phân tích trên cho thấy cơ cấu tài sản cố định của Xí nghiệp năm 2003 so với năm 2002 đã có sự thay đổi. Năm 2003 tổng giá trị tài sản có tăng lên, điều này chứng tỏ Xí nghiệp đã đầu tư đổi mới các tài sản nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh, nhưng việc này chưa được đồng đều, cụ thể như các nhóm máy móc thiết bị trực tiếp tham gia vào sản xuất như nhóm thiết bị máy móc công tác năm 2002 chiếm tỷ trọng 3,4% sang năm 2003 chiếm tỷ trọng 1,71%, giảm đi 1,61%. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu và mức độ quan trọng của nhóm thiết bị này thì nhóm này có kết cấu rất thấp, trong khi đó nhóm nhà xưởng lại chiếm tỷ trọng quá cao. Qua nhận xét trên ta thấy cơ cấu tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 vẫn còn nhiều điều bất cập, không đồng đều, cần phải có sự điều chỉnh. Cụ thể là nhóm thiết bị trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh chính cần phải đầu tư, tu sửa nhiều hơn nữa để phát triển năng lực sản xuất cho xí nghiệp, không nên đầu tư quá nhiều vào nhóm nhà xưởng. Đây là một điểm hạn chế của Xí nghiệp Ta thấy rằng kết cấu tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 trong 2 năm qua có những điểm tốt và chưa tốt cần phải có sự điều chỉnh và phân bổ lại kết cấu tài sản cho hợp lý để đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của xí nghiệp đang ngày càng tăng lên, cụ thể như các nhóm thiết bị trực tiếp tham gia vào sản xuất chính cần phải có tỷ trọng cao hơn nữa trong tổng số tài sản cố định thì mới đáp ứng được tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp hiện nay. 2. Phân tích tình hình tăng giảm tài sản cố định. Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, mỗi loại có vai trò và vị trí khác nhau đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng thường biến động về quy mô, kết cấu và tình trạng kỹ thuật. Để phân tích tình hình tăng giảm tài sản cố định, ta cần tính và phân tích các chỉ tiêu sau: * Hệ số tăng tài sản cố định: Giá trị TSCĐ tăng trong kỳ Htăng TSCĐ = Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ Năm 2002: Htăng TSCĐ = = 0,83 Năm 2003: Htăng TSCĐ = = 0,28 * Hệ số giảm tài sản cố định: Giá trị TSCĐ giảm trong kỳ Hgiảm TSCĐ = Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ Năm 2002: Hgiảm TSCĐ = = 0,12 Năm 2003: Hgiảm TSCĐ = = 0,21 Ta có thể tập hợp các số liệu phân tích thành bảng như sau: Bảng 3-3 Tình hình tăng giảm tài sản cố định của XNXL I năm 2002 - 2003 ĐVT : Đồng TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 1 Giá trị TSCĐ đầu kỳ 1.011.659.914 2.401.756.899 2 Giá trị TSCĐ tăng 1.632.051.733 595.873.064 3 Giá trị TSCĐ giảm 241.954.748 447.535.800 4 Giá trị TSCĐ cuối kỳ 2.401.756.899 2.550.094.163 5 Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ 1.969.415.492 2.129.776.656 6 Hệ số tăng TSCĐ 0,83 0,28 7 Hệ số giảm TSCĐ 0,12 0,21 ( Nguồn: Báo cáo kiểm kê TSCĐ năm 2002-2003- Phòng Tài chính - Kế toán ) Qua bảng phân tích tình hình tăng, giảm tài sản cố định, ta thấy tổng nguyên giá tài sản cố định năm 2003 cuối kỳ so với đầu kỳ tăng 595.873.064 đồng là do Xí nghiệp đã đầu tư mua thêm máy phô tô và máy vi tính ( Máy móc thiết bị văn phòng) là 62.332.204 đồng; mua ô tô mới hết 533.540.857 đồng. Nguồn vốn tăng tài sản cố định này được huy động từ: + Nguồn bán ô tô cũ là 175.966.800 đồng + Từ quỹ phát triển sản xuất là 204.319.857 đồng + Từ nguồn khấu hao cơ bản năm 2003 là 215.586.404 đồng Tổng nguyên giá giảm so với đầu kỳ là 447.535.800 đồng. Trong đó giảm phương tiện vận tải do bán xe ô tô cũ là 415.370.800 đồng, giảm máy móc thiết bị văn phòng do thanh lý máy phô tô Nhật 23.100.000 đồng và thanh lý máy in laze 9.065.000 đồng. Việc tăng giảm tài sản cố định này của Xí nghiệp xây lắp 1 là phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, không ảnh hưởng gì đến các hoạt động của xí nghiệp. II - Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định của xí nghiệp xây lắp 1. Ta cần phân tích chỉ tiêu này để đánh giá mức độ sử dụng tài sản cố định, đặc biệt là tình trạng máy móc thiết bị sản xuất trên số lượng lao động hay trên m2 diện tích sản xuất... nhằm trang bị hợp lý tài sản cố định đảm bảo năng suất, hiệu quả. Để đánh giá tình hình trang bị tài sản cố định, ta cần phân tích các chỉ tiêu sau: Nguyên giá TSCĐ bình quân cho 1 công nhân Nguyên giá TSCĐ bình quân = Tổng số công nhân Nguyên giá TBMM bình quân cho 1 công nhân Nguyên giá TBMM bình quân = Tổng số công nhân sản xuất Bảng 3-4 Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định của XNXL I ĐVT: Đồng Năm Tổng số công nhân sản xuất ( người ) Nguyên giá TSCĐ bình quân Nguyên giá TBMM bình quân 2001 210 1.130.725.648 184.583.047 2002 220 1.706.709.000 215.922.511 2003 232 2.475.925.531 233.487.808 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tài chính - Kế toán ) Năm 2001: HTSCĐ 1 CN = = 5.384.408 (Đồng) HTBMM 1 CN = = 878.967 (Đồng) Năm 2002: HTSCĐ 1 CN = = 7.757.768 (Đồng) HTBMM 1 CN = = 981.466 (Đồng) Năm 2003: HTSCĐ 1 CN = = 10.672.093 (Đồng) HTBMM 1 CN = = 1.006.413 (Đồng) Trong đó: HTSCĐ 1 CN là hệ số trang bị tài sản cố định cho 1 công nhân HTBMM 1 CN là hệ số trang bị máy móc thiết bị cho 1 công nhân Các kết quả phân tích trên đã phản ánh: Năm 2001: Cứ 1 công nhân được trang bị 5.384.408 đồng TSCĐ và 878.967 đồng thiết bị máy móc sản xuất. Năm 2002: Cứ 1 công nhân được trang bị 7.757.768 đồng TSCĐ và 981.466 đồng thiết bị máy móc sản xuất. Năm 2003: Cứ 1 công nhân được trang bị 10.672.093 đồng TSCĐ và 1.006.413 đồng thiết bị máy móc sản xuất. Như vậy ta thấy rằng mức độ trang bị tài sản cố định và máy móc thiết bị của Xí nghiệp xây lắp 1 là khá thấp, nguyên nhân của điều này bắt nguồn từ đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, do thực tế là các đội thi công đều sở hữu và tự quản lý một lượng máy móc khá lớn để có thể độc lập, chủ động thi công các công trình và các máy móc đó không thuộc quyền sở hữu của Xí nghiệp. Ta cũng thấy rằng tình hình trang bị về thiết bị máy móc nói riêng và tài sản cố định nói chung của Xí nghiệp luôn có xu hướng tăng qua các năm, đây là dấu hiệu tốt và là một trong những yếu tố rất quan trọng nhằm tăng sức cạnh tranh của Xí nghiệp xây lắp 1. II - Phân tích tình hình hao mòn và khấu hao tài sản cố định. 1. Tình hình hao mòn tài sản cố định. Nhân tố cơ bản làm thay đổi hiện trạng tài sản cố định là sự hao mòn, quá trình hao mòn tài sản cố định diễn ra đồng thời với quá trình tài sản tham gia vào sản xuất kinh doanh. Nếu sản xuất càng nhiều, càng tăng nhanh bao nhiêu thì mức độ hao mòn càng tăng nhanh bấy nhiêu. Hao mòn làm thay đổi hiện trạng tài sản cố định, trong quá trình sử dụng, tài sản bị hao mòn dần và đến một lúc nào đó tài sản không còn sử dụng được nữa. Bởi vậy, cần đánh giá đúng mức tài sản cố định của doanh nghiệp đang sử dụng mới hay cũ, hoạt động tốt hay xấu, ở mức độ nào để có biện pháp đúng đắn tái sản xuất tài sản cố định của doanh nghiệp. Để đánh giá tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định, ta tiến hành phân tích hệ số hao mòn: Tổng mức khấu hao TSCĐ Hệ số hao mòn TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ Hệ số hao mòn càng cao và tiến dần đến 1 thì chứng tỏ tài sản cố định của doanh nghiệp đã cũ và doanh nghiệp cần có kế hoạch chuẩn bị tái đầu tư tài sản mới. + Hệ số hao mòn TSCĐ năm 2002 = = 0,36 + Hệ số hao mòn TSCĐ năm 2003 = = 0,33 Ta thấy hệ số hao mòn của Xí nghiệp xây lắp 1 là tương đối thấp. Hệ số hao mòn năm 2003 giảm so với hệ số hao mòn 2002 là 0,03. Con số này phản ánh là trong năm 2003, Xí nghiệp đã có sự đầu tư đổi mới tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh, mặc dù sự đầu tư này không phải là lớn. Hệ số hao mòn thấp như vậy chứng tỏ rằng tài sản cố định của Xí nghiệp còn mới, giá trị sử dụng vẫn còn nhiều. Để phân tích chi tiết hơn về tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định ở Xí nghiệp xây lắp 1, ta xem bảng sau: Bảng 3.5 Tình trạng kỹ thuật tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 ĐVT: Đồng TT Nhóm tài sản Năm 2002 Năm 2003 Tỷ lệ (%) đã hao mòn Nguyên giá Hao mòn luỹ kế Nguyên giá Hao mòn luỹ kế 2002 2003 1 Nhà xưởng 1.513.951.893 291.887.000 1.513.951.893 423.887.000 19,28 28,00 2 Máy móc thiết bị công tác 233.487.808 181.197.114 233.487.808 204.297.114 77,61 87,50 3 Phương tiện vận tải dùng trong quản lý 415.370.800 239.404.000 533.540.857 55.000.000 57,64 10,31 4 Máy móc thiết bị văn phòng 216.398.798 139.229.100 246.566.005 140.865.300 64,34 57,13 5 TSCĐ phúc lợi công cộng 22.547.600 12.965.600 22.547.600 16.585.600 57,50 73,56 Tổng TSCĐ 2.401.756.899 864.682.814 2.550.094.163 840.635.014 36,00 32,97 ( Nguồn: Báo cáo kiểm kê tài sản cố định các năm 2002 - 2003) Qua bảng phân tích tình trạng kỹ thuật tài sản cố định như trên, ta thấy rằng hệ số hao mòn tài sản cố định năm 2002 là 36%, năm 2003 là 32,97%. Các tỷ lệ này khá thấp chứng tỏ tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 nói chung vẫn còn tương đối mới, tình trạng kỹ thuật vẫn khá tốt. Trong đó nhóm tài sản cố định còn mới nhất là nhà xưởng với hệ số hao mòn 19,28%% năm 2002; 28,00% năm 2003 và nhóm tài sản cố định rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại cũ nhất, tình trạng kỹ thuật kém nhất là máy móc thiết bị công tác do hầu hết máy móc thiết bị công tác của Xí nghiệp mua từ những năm 1990 đã trở nên cũ nát, lạc hậu. Hệ số hao mòn của nhóm này năm 2002 là 77,61% và năm 2003 là 87,50%. Tỷ lệ này ngày càng tăng nhanh và đang dần dần tiến tới 1, chứng tỏ nhóm thiết bị này đã hao mòn gần hết giá trị, chúng đã quá cũ kỹ, tình trạng kỹ thuật rất kém, khó có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh đang phát triển của Xí nghiệp. Nhóm phương tiện vận tải dùng trong quản lý có tỷ lệ đã hao mòn năm 2002 khá cao là 57,64% tức là giá trị sử dụng còn lại chưa được một nửa nhưng sang năm 2002, Xí nghiệp đã thanh lý ô tô cũ để đầu tư mua ô tô mới và mới trích khấu hao năm 2003 là 55.000.000 đồng, do đó tỷ lệ % đã hao mòn của phương tiện vận tải dùng trong quản lý giảm xuống rất thấp, chỉ còn 10,31% và tình trạng kỹ thuật của nhóm này còn rất tốt. 2. Tình hình khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình tham gia vào sản xuất, do chịu tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn. Một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn được chuyển dịch dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành- sản phẩm. Chính vì vậy, quản lý và sử dụng tốt tài sản cố định sẽ góp phần lớn vào việc giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Phương pháp khấu hao tài sản cố định mà hiện nay Xí nghiệp xây lắp 1 đang áp dụng là phương pháp khấu hao đều. Mức khấu hao trung bình hàng năm của tài sản cố định được tính theo công thức sau: Mức khấu hao TSCĐ hàng năm = Thời gian sử dụng: chính là thời gian sử dụng theo quy định cho từng nhóm, loại tài sản đã được quy định theo quyết định số 166/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của Bộ Tài Chính để áp dụng tính khấu hao cho các doanh nghiệp. Từ ngày 1 -1 - 2004, Bộ Tài Chính có ra văn bản mới về hướng dẫn sử dụng tài sản cố định cụ thể cho các máy móc thiết bị sản xuất, quy định lại tuổi thọ của từng nhóm máy móc thiết của tài sản cố định. Để phân tích tình hình khấu hao tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1, ta xét bảng sau đây: Bảng 3.6 Phân tích tình hình khấu hao tài sản cố định ĐVT: Đồng STT Nhóm tài sản Năm 2002 Năm 2003 Tỷ lệ khấu hao bình quân ( % ) Nguyên giá Mức khấu hao Nguyên giá Mức khấu hao 2002 2003 1 Nhà xưởng 1.513.951.893 75.000.000 1.513.951.893 132.000.000 4,95 8,72 2 Máy móc thiết bị công tác 233.487.808 31.199.514 233.487.808 23.100.000 13,36 9,89 3 Phương tiện vận tải dùng trong quản lý 415.370.800 60.000.000 533.540.857 55.000.000 14,44 10,31 4 Máy móc thiết bị văn phòng 216.398.798 38.916.000 246.566.005 33.801.200 17,98 13,71 5 TSCĐ phúc lợi công cộng 22.547.600 3.280.000 22.547.600 3.620.000 14,55 16,05 Tổng TSCĐ 2.401.756.899 208.395.514 2.550.094.163 247.521.200 8,68 9,71 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tài chính - Kế toán) Qua bảng phân tích 3.6 ta thấy mức khấu hao qua từng năm của từng nhóm tài sản cố định của Xí nghiệp được trích đều theo hàng năm. Mức trích khấu hao tài sản cố định năm 2003 tăng so với năm 2002 là: 247.521.200 - 208.395.514 = 39.125.686 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng mức trích khấu hao là 18,77% và ta thấy rằng tỷ lệ khấu hao bình quân năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1,03%. Phần tăng này là do sự thay đổi mức khấu hao của các nhóm tài sản cố định trong năm 2003. * Nhóm nhà xưởng: Xưởng sản xuất, nhà để ô tô của Xí nghiệp hầu hết đều được xây dựng từ lâu, tuy rằng được duy trì bảo dưỡng khá thường xuyên nhưng đồng thời với sự phát triển của Xí nghiệp 1 thì chúng cũng ngày càng cũ kỹ, đã gần hết khấu hao. Vài năm gần đây, Xí nghiệp mới đầu tư vào nhóm nhà xưởng, cụ thể là đã xây dựng nhà làm việc cơ quan và công trình này có nguyên giá chiếm đến trên 70% nguyên giá của toàn bộ nhà xưởng. Mức trích khấu hao nhà xưởng năm 2002 là 75.000.000 đồng đến năm 2003 lên đến 132.000.000 đồng tức là tăng 57.000.000 đồng ứng với tỷ lệ tăng 76% so với năm 2002. Điều này là hợp lý, chủ yếu do đến khoảng tháng 6 năm 2002, Xí nghiệp xây lắp 1 mới bắt đầu đưa vào tính khấu hao công trình nhà làm việc mới xây dựng xong, đồng thời sang năm 2003 Xí nghiệp đã thực sự bắt đầu khai thác, sử dụng triệt để nhà làm việc mới và ngoài ra còn một nguyên nhân đáng kể nữa là năm 2003, giá trị các công trình sản xuất cơ khí tăng lên, Xí nghiệp có thể trích tăng mức khấu hao của nhà xưởng sản xuất cơ khí mà vẫn ổn định được lợi nhuận của mình. Ngoài ra mức trích khấu hao như vậy cũng phù hợp với quy định về khấu hao của Nhà nước. * Nhóm máy móc thiết bị công tác: Mức trích khấu hao năm 2003 của nhóm tài sản này giảm so với năm 2002 là 31.199.514 - 23.100.000 = 8.099.514 đồng ứng với tỷ lệ giảm là 25,96%. Nguyên nhân của điều này là có nhiều loại máy móc thiết bị công tác của Xí nghiệp đã quá cũ kỹ, lạc hậu được sử dụng từ năm 1990 như dàn giáo, đầm cóc... nên giá trị sử dụng không còn nhiều, tình trạng kỹ thuật ngày càng kém, Xí nghiệp đã tiến hành bán, thanh lý một số loại máy đó. Mức trích khấu hao nhóm máy móc thiết bị công tác của Xí nghiệp xây lắp 1 như vậy là hợp với quyết định 166 của Bộ Tài Chính và hợp với khả năng và thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. * Nhóm máy móc thiết bị văn phòng: Năm 2002 mức trích khấu hao của máy móc thiết bị văn phòng là 38.916.000 đồng, năm 2003 là 33.801.200 đồng, giảm so với năm 2002 là 5.114.800 đồng ứng với tỷ lệ giảm là 13,14%. Nguyên nhân là do một số loại máy móc dùng trong công tác quản lý đã lạc hậu, cũ kỹ, hao mòn nhiều, chất lượng làm việc kém hiệu quả như máy phô tô, máy in, máy fax, máy tính... do đó Xí nghiệp đã bán thanh lý để đầu tư mua sắm một số máy móc thiết bị văn phòng mới. * Nhóm TSCĐ phúc lợi công cộng: Mức trích khấu hao nhóm TSCĐ phúc lợi công cộng tăng từ 3.280.000 đồng năm 2002 lên 3.620.000 đồng năm 2003, tức tăng 340.000 đồng ứng với tỷ lệ tăng 10,37%. Năm 2003 Xí nghiệp xây lắp 1 không đầu tư thêm vào nhóm TSCĐ phúc lợi công cộng nhưng mức trích khấu hao lại tăng lên 10,37% là vì trong năm 2002 Xí nghiệp mới mua thêm Vô tuyến Golstart 29 in nhưng vì tháng 4 mới đưa vào trích khấu hao nên đã không trích khấu hao đủ 12 tháng mà sang năm 2003 thiết bị này mới được trích khấu hao đủ 12 tháng, do đó mà mức trích khấu hao năm 2003 tăng so với năm 2002 và mức trích khấu hao này là hợp lý so với quyết định 166 của Bộ Tài Chính đã ban hành. III - Phân tích tình hình sử dụng số lượng, thời gian làm việc và công suất của máy móc thiết bị của Xí nghiệp xây lắp 1. Sau khi đánh giá chung tình hình sử dụng TSCĐ tại Xí nghiệp xây lắp 1, ta cần phải đi sâu phân tích tình hình sử dụng thiết bị máy móc sản xuất bởi vì bất kỳ doanh nghiệp nào thiết bị máy móc sản xuất luôn giữ vị trí quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến năng suất và sản lượng của doanh nghiệp. Phân tích tình hình sử dụng thiết bị máy móc trong sản xuất nhằm phát hiện khả năng tiềm tàng về số lượng, thời gian làm việc và năng lực của thiết bị máy móc, trên cơ sở đó tìm biện pháp nhằm biến những khả năng ấy thành hoạt động cụ thể của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1. Phân tích tình hình sử dụng số lượng máy móc thiết bị. Để đánh giá về số lượng máy móc thiết bị hiện có, ta sử dụng công thức sau: Số lượng thiết bị đã lắp đặt Hệ số lắp đặt MMTB hiện có ( Hlđ ) = Số lượng thiết bị hiện có Năm 2002: Hlđ 2002 = = 1 Năm 2003: Hlđ 2003 = = 1 Kết quả phản ánh năm 2002 và 2003 tình hình lắp đặt máy móc thiết bị hiện có của Xí nghiệp xây lắp 1 là kịp thời. Hệ số lắp đặt số máy hiện có là 1, không bị dư thừa máy móc . Để đánh giá quá trình sử dụng số lượng thiết bị đã lắp đặt vào sản xuất, ta sử dụng công thức sau: Hệ số sử dụng máy móc thiết bị đã lắp đặt ( HTBSX ) Số lượng MMTB làm việc thực tế = Số lượng MMTB đã lắp đặt bình quân Năm 2002: HTBSX 2002 = = 1 Năm 2003: HTBSX 2003 = = 1 Như vậy, tình hình sử dụng thiết bị máy móc hiện có đã lắp đặt vào sản xuất của Xí nghiệp trong các năm gần đây là đều đảm bảo 100%, không để xảy ra tình trạng máy móc thiết bị đã lắp đặt nhưng không được sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Để tìm hiểu chi tiết tình hình sử dụng máy móc thiết bị tham gia vào sản xuất của Xí nghiệp xây lắp 1, ta xem xét số liệu phân tích tổng hợp trong các bảng sau: Bảng 3.6 Tổng số máy móc thiết bị dùng trong sản xuất ĐVT: Cái Năm Máy trộn Dàn giáo Đầm Máy cắt Máy biến thế MMTB khác Tổng cộng 2002 7 3 2 3 1 2 18 2003 7 3 2 3 1 2 18 So sánh (%) 100 100 100 100 100 100 100 ( Nguồn cung cấp: Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật ) Như vậy ta thấy rằng số lượng máy móc thiết bị chính của Xí nghiệp xây lắp 1 dùng trong sản xuất năm 2003 không có gì thay đổi so với năm 2002 do trong năm 2002, Xí nghiệp chỉ đầu tư xây dựng, đổi mới nhà xưởng, phương tiện vận tải dùng trong quản lý, các loại máy móc thiết bị văn phòng và TSCĐ phúc lợi công cộng chứ chưa tập trung đổi mới nhóm máy móc thiết bị trực tiếp tham gia sản xuất. Bảng 3.7 Tổng hợp tình hình sử dụng và hệ số sử dụng máy móc thiết bị sản xuất của Xí nghiệp xây lắp 1. Năm Đơn vị tính Số máy hiện có bình quân Số máy đã lắp đặt bình quân Số máy sử dụng vào sản xuất Hệ số lắp đặt Hệ số sử dụng 2002 Cái 18 18 18 100 % 100% 2003 Cái 18 18 18 100 % 100% ( Nguồn cung cấp: Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật ) Qua các số liệu phân tích trong bảng Tổng hợp tình hình sử dụng và hệ số sử dụng máy móc thiết bị sản xuất cho ta thấy: - Hệ số lắp đặt máy móc thiết bị hiện có của cả hai năm gần đây là 100% do Xí nghiệp đã cung ứng vừa đủ thiết bị so với kế hoạch lắp đặt, không để dư thừa cũng không để thiếu thiết bị. - Hệ số sử dụng máy móc thiết bị năm 2002 và năm 2003 đều là 100%. Có được kết quả này là do bản thân Xí nghiệp xây lắp 1 có một lượng máy móc khá khiêm tốn nên Xí nghiệp luôn tận dụng triệt để số máy móc mà mình có, góp phần tiết kiệm chi phí thuê thêm máy bên ngoài. 2. Phân tích tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Sử dụng tốt thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tăng nhanh khối lượng sản phẩm sản xuất. Bảng 3.8 Tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất Đơn vị tính: Giờ TT Diễn giải Năm 2002 Năm 2003 Ngày Giờ Tỷ trọng (%) Ngày Giờ Tỷ trọng (%) 1 Ngày dương lịch 365 8.760 100,00 365 8.760 100,00 2 Ngày lễ, chủ nhật 60 1.440 16,44 60 1.440 16,44 3 Ngày làm việc chế độ 305 7.320 83,56 305 7.320 83,56 4 Ngày công sửa chữa 42 1.008 11,51 42 1.008 11,51 5 Ngày công không làm ra SP 45 1.080 12,34 42 1.080 11,51 6 Ngày công làm việc thực tế 218 5.232 59,74 221 5.304 60,55 7 Ngày công làm việc có ích 218 5.232 59,74 221 5.304 60,55 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tổ chức - Hành chính ) Xí nghiệp xây lắp 1 áp dụng chế độ nghỉ ngày lễ và ngày chủ nhật. Ngày công làm ra sản phẩm của năm 2003 tăng hơn năm 2002 là 3 công, do Xí nghiệp đã cố gắng tăng được công suất lao động của máy móc thiết bị cho nên số ngày công làm việc có ích năm 2003 là 221 ngày, dẫn đến thời gian làm việc có ích tăng lên đến 5.304 giờ/năm, tỷ trọng ngày công làm việc có ích tăng hơn so với năm 2002 là 0,81%. Để đánh giá tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất, ta có chỉ tiêu sau: Hệ số sử dụng thời gian chế độ (Htgcđ ) Thời gian làm việc thực tế = Thời gian làm việc theo chế độ Theo số liệu trình bày trên bảng 3-8, ta có: Htgcđ 2002 = = 0,71 Htgcđ 2003 = = 0,72 Như vậy hệ số sử dụng thời gian chế độ của máy móc thiết bị sản xuất năm 2003 cao hơn năm 2002 do số ngày máy móc thiết bị không sản xuất giảm xuống 4 ngày, đạt được điều này là do Xí nghiệp đã phấn đấu rút ngắn thời gian máy không sản xuất nhằm tránh lãng phí thời gian sản xuất. Ta phân tích hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị sản xuất: Hệ số sử dụng thời gian thực tế (Htgtt ) Thời gian làm việc có ích = Thời gian làm việc thực tế Như vậy: Htgtt 2002 = = 1 Htgtt 2003 = = 1 Ta thấy hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị sản xuất năm 2002 và năm 2003 đều là 1. Hệ số này cao đến như vậy là do Xí nghiệp xây lắp 1 không phân biệt thời gian làm việc thực tế với thời gian làm việc có ích bởi theo cách thức sử dụng máy móc của Xí nghiệp thì cứ mỗi khi các đội bắt đầu thuê máy đến khi các đội trả máy thì đó là khoảng thời gian làm việc thực tế và cũng chính là khoảng thời gian làm việc có ích của máy móc thiết bị bởi đều mang lại một khoản thu cho Xí nghiệp từ việc cho thuê máy móc đó. Số ngày công máy móc không sản xuất năm 2003 giảm 0,83% so với năm 2002. Để đảm bảo cho sản xuất luôn được thuận lợi, Xí nghiệp cần có kế hoạch bảo dưỡng và sửa chữa hợp lý đối với các thiết bị máy móc cũ, tránh tình trạng hỏng hóc gây gián đoạn sản xuất. Đây là một biện pháp quan trọng vì nó phản ánh trực tiếp năng suất, hiệu quả của công việc và tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị. 3. Tình hình sử dụng công suất của máy móc thiết bị sản xuất. Công suất của máy móc thiết bị sản xuất là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực sản xuất của thiết bị, là chỉ tiêu phản ánh sản lượng bình quân cho một đơn vị thời gian của máy móc thiết bị. Chỉ tiêu này nói rõ trình độ sử dụng một cách tổng hợp và là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sử dụng công suất máy móc thiết bị sản xuất hợp lý và có hiệu quả thì vừa giảm được sức lao động của con người, giảm được thời gian lại tăng được kết quả sản xuất. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả chỉ tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả cán bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp, từ người trực tiếp vận hành, các cấp chỉ đạo đến các nhà quản lý. Với đặc điểm hoạt động của Xí nghiệp xây lắp 1, khi nói đến hệ số sử dụng công suất là nói đến tỷ lệ giữa doanh thu thực tế của hoạt động cho thuê máy móc đối với doanh thu tối đa theo kế hoạch mà Xí nghiệp dự toán. Trước khi phân tích tình hình sử dụng công suất của toàn bộ máy móc thiết bị của Xí nghiệp xây lắp 1, ta tìm hiểu sơ qua về một số loại máy móc thiết bị điển hình: Bảng 3.9 Tình hình sử dụng công suất máy trộn ĐVT: Đồng Máy trộn Số ngày cho thuê thực tế Số ngày cho thuê theo kế hoạch Doanh thu thực tế Doanh thu kế hoạch Hệ số sử dụng công suất ( % ) 200 L 180 330 103.680.000 132.480.000 78,26 250 L 240 290 39.600.000 47.850.000 82,76 400 L 270 330 129.600.000 158.400.000 81,82 Tổng 690 950 272.880.000 338.730.000 80,56 Bảng 3.10 Tình hình sử dụng công suất của cốp pha thép ĐVT: Đồng Đơn giá cho thuê cốp pha ( đ/m2/tháng ) Lượng cốp pha cho thuê thực tế ( m2 ) Lượng cốp pha cho thuê theo kế hoạch ( m2 ) Doanh thu thực tế Doanh thu theo kế hoạch Hệ số công suất ( % ) 10.000 1.200 1.600 108.000.000 144.000.000 75 Để phân tích và đánh giá tình hình sử dụng công suất của toàn bộ máy móc thiết bị sản xuất tại Xí nghiệp xây lắp 1, ta phân tích bảng sau: Bảng 3-11 Tình hình sử dụng công suất của máy móc thiết bị ĐVT: Đồng STT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 1 Doanh thu theo kế hoạch 689.730.000 689.730.000 2 Doanh thu thực tế 496.420.000 533.880.000 3 Hệ số sử dụng công suất ( % ) 71,97 77,40 ( Nguồn cung cấp: Phòng Tài chính - Kế toán và Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật ) Qua bảng 3-11, ta thấy năm 2002 hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị của Xí nghiệp chỉ đạt 62% nguyên nhân là do máy móc thiết bị đã già cỗi, lạc hậu, trình độ kỹ thuật yếu kém. Bước sang năm 2002, Xí nghiệp đã đầu tư khá nhiều vào tài sản cố định trong đó có các thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất nên hệ số sử dụng công suất đã tăng lên 71,97% trong năm 2002 và 77,40% trong năm 2003. Tuy nhiên nếu so với năng lực sản xuất hiện có của Xí nghiệp thì có thể nói rằng hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị như vậy chỉ là tương đối chứ chưa phải là quá cao, Xí nghiệp cần phát huy tốt hơn nữa tiềm năng của mình, đặc biệt là trong công tác quản lý và cho thuê các máy móc thiết bị như máy trộn bê tông, dàn giáo, cốp pha thép... Như vậy ta thấy rằng Xí nghiệp xây lắp 1 đã cố gắng sắp xếp lại công tác quản lý, sử dụng máy móc thiết bị, khắc phục được điểm yếu là đa phần thiết bị của Xí nghiệp đã lạc hậu, cũ kỹ, đã qua nhiều năm sử dụng nên hoạt động cũng kém hiệu quả. Do đó, Xí nghiệp đã nâng cấp, bảo dưỡng thiết bị để nâng cao công suất sử dụng máy móc thiết bị sản xuất, tránh lãng phí năng lực sản xuất của Xí nghiệp. 4. Phân tích mối quan hệ giữa máy móc thiết bị sản xuất với tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1. Cơ cấu tỷ phần trang thiết bị sản xuất trong tài sản cố định có hợp lý hay không phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, của từng doanh nghiệp. Phân tích mối quan hệ tỷ phần thiết bị sản xuất trong tài sản cố định, tìm được tỷ phần thiết bị sản xuất trong tài sản cố định, tìm được tỷ phần phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế cao là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với các nhà doanh nghiệp. Tỷ phần cơ cấu thiết bị sản xuất trong tài sản cố định của doanh nghiệp được xác định theo công thức sau: Giá trị bình quân thiết bị sản xuất đang sử dụng Tỷ lệ thiết bị sản xuất = Giá trị bình quân tài sản cố định đang sử dụng Ta có: 142.889.251 Tỷ lệ TBSX năm 2002 = = 7,26 % 1.969.415.492 131.339.206 Tỷ lệ TBSX năm 2003 = = 6,17 % 2.129.776.656 Như vậy tỷ lệ thiết bị sản xuất trong TSCĐ năm 2002 là 7,26% và năm 2003 là 6,17% giảm so với năm 2002 là 1,09% do năm 2003, giá trị bình quân của thiết bị máy móc đang sử dụng giảm 11.550.045 đồng trong khi giá trị bình quân của TSCĐ đang sử dụng tăng lên 160.361.164 đồng. Đặc điểm của Xí nghiệp xây lắp 1 là nhận thầu các công trình xây lắp trên phạm vi toàn quốc, do vậy nếu chỉ nhìn vào tỷ lệ thiết bị sản xuất trong tài sản cố định như phân tích ở trên thì có thể đánh giá ngay rằng tỷ lệ này là rất thấp chứng tỏ rằng khả năng về máy móc thiết bị để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp là rất kém. Lý do làm cho tỷ lệ này thấp là vì Xí nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn đi vay ngân hàng để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, mà lượng vốn này cũng không được nhiều nên số lượng máy móc thiết bị của Xí nghiệp khá khiêm tốn, điều này cũng là một trong những điểm hạn chế của Xí nghiệp xây lắp 1. Nhưng cũng có một điểm rất quan trọng trong đặc điểm sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp là tuy Xí nghiệp không có nhiều máy móc thiết bị nhưng tại các đội thì họ lại có một lượng máy móc thiết bị khá phong phú, dồi dào, đủ để chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, có thể nói rằng tỷ lệ máy móc thiết bị trong tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1 tuy thấp nhưng cũng không phản ánh được khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp là cao hay thấp và nó phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của Xí nghiệp. V - Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp xây lắp 1. Trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi mục tiêu của sản xuất đều phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản lượng phải đạt được trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Chính vì thế, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định sẽ được coi là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, ta cần phân tích một số chỉ tiêu: Doanh thu thuần + Sức sản xuất của TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Lợi nhuận thuần + Sức sinh lợi của TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSCĐ cho biết bình quân 1 đồng TSCĐ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ( hoặc giá trị sản lượng xây lắp ). Như vậy, muốn xác định được các chỉ tiêu này cần thông qua các chỉ tiêu chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh như: doanh thu, lợi nhuận và nguyên giá bình quân tài sản cố định trong kỳ. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định sẽ được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng quản lý và sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Bảng 3-12 Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp xây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24332.DOC
Tài liệu liên quan