Đề tài Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hoá của một công đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt Nam đều nằm trong dòng chảy văn hoá thống nhất nhưng nó vẫn mang nét riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ hội Việt Nam phong phú và đa dạng. Hà Nam là một vùng đất cổ và là vùng gần trung tâm Đồng bằng Sông Hồng hiện nay. Do vậy lễ hội nơi đây mang đậm nét văn hoá chung của vùng hoà quyện với những nét riêng của văn hoá cư dân vùng trũng quanh năm ngập úng tạo nên một sắc thái văn hoá độc đáo. Nói đến lễ hội ở Hà Nam ta không thể không nhắc đến lễ hội chùa Long Đọi Sơn như một trung tâm hội tụ văn hoá truyền thống của cư dân vùng này. Chùa Long Đọi Sơn còn có tên là Diên Linh Tự không chỉ là biểu tượng của Hà Nam (núi Đọi-sông Châu), là một danh thắng trấn Sơn Nam xưa mà lễ hội chùa Đọi và những lễ hộ...

doc122 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hoá của một công đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt Nam đều nằm trong dòng chảy văn hoá thống nhất nhưng nó vẫn mang nét riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ hội Việt Nam phong phú và đa dạng. Hà Nam là một vùng đất cổ và là vùng gần trung tâm Đồng bằng Sông Hồng hiện nay. Do vậy lễ hội nơi đây mang đậm nét văn hoá chung của vùng hoà quyện với những nét riêng của văn hoá cư dân vùng trũng quanh năm ngập úng tạo nên một sắc thái văn hoá độc đáo. Nói đến lễ hội ở Hà Nam ta không thể không nhắc đến lễ hội chùa Long Đọi Sơn như một trung tâm hội tụ văn hoá truyền thống của cư dân vùng này. Chùa Long Đọi Sơn còn có tên là Diên Linh Tự không chỉ là biểu tượng của Hà Nam (núi Đọi-sông Châu), là một danh thắng trấn Sơn Nam xưa mà lễ hội chùa Đọi và những lễ hội khác trong vùng còn là nơi lưu giữ những gía trị văn hoá truyền thống, là dịp để con người gửi gắm bao ước mơ khát vọng về một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Tìm về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi là chúng ta tìm đến chìa khoá để giải mã phần nào đó con người và truyền thống văn hoá nơi đây. Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm làm rõ vai trò và vị trí của nó trong đời sống văn hoá của cư dân trong vùng. Đây không chỉ là nơi để cho mọi người về đây hành hương lễ Phật, nơi các con nhang đệ tử tìm về chốn tùng lâm đất tổ, trung tâm Phật giáo xưa kia mà còn là nơi để du khách có thể tham quan vãng cảnh chùa, tìm hiểu di tích, lịch sử, chiêm ngưỡng ngôi chùa bề thế hay để thưởng thức vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của thiên nhiên hoà quyện nơi đây. Lễ hội chùa Đọi ngoài là ngày giỗ của vị cao tăng đắc đạo nơi đây (Hoà thượng Thích Chiếu Thường) còn là nơi tưởng niệm những người có công với đất nước, có công xây dựng ngôi chùa như Lý Thường Kiệt, Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Nhân Tông, mẫu Liễu Hạnh…Đây vừa là nơi thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta vừa là môi trường giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ. Lễ hội chùa Đọi như một sự hội tụ văn hoá đặc trưng của Hà Nam-vùng chiêm trũng quanh năm ngập úng. Lễ hội nơi đây không duy yếu tố tâm linh mà còn là cách ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện hoàn cảnh đó họ phải đoàn kết nhau lại chống chọi với thiên tai và địch hoạ. Từ đó tinh thần đoàn kết đã trở thành sức mạnh giúp con người nơi đây chiến đấu và chiến thắng. Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm mục đích góp phần khắc hoạ toàn cảnh về đời sống vật chất cũng như đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Đó chính là động lực to lớn, là sức mạnh tinh thần của nhân dân Đọi Sơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời Đọi Sơn còn là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, một trung tâm tôn giáo của trấn Sơn Nam xưa. Nghiên cứu về di tích và lễ hội chùa Đọi như một biểu tượng tiêu biểu nhất của văn hoá nơi đây, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của lễ hội vùng này đang bị biến đổi mạnh mẽ trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời qua đó phát huy giá trị văn hoá và thắng cảnh của khu di tích lịch sử nổi tiếng này nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân trong vùng và hoạt động du lịch của địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Quần thể di tích và lễ hội chùa Long Đọi Sơn là một thắng cảnh đẹp và là một lễ hội lớn trong vùng. Do vậy, đã từ lâu nó đã được nhiều người biết đến. Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư - bộ chính sử thời phong kiến có chép về sự tích vua Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền dưới chân núi Đọi, sách Việt Sử lược, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thống nhất chí có nói đến ngày, tháng xây dựng ngôi chùa và ngọn bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng, những nhân vật quan trọng trong quá trình xây dựng chúng. Đặc biệt hiện nay tại chùa còn lưu giữ một tấm bia đá lớn trong đó có bài văn bia của Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn vào năm 1122 theo lệnh của vua Lý Nhân Tông nhân ngày khánh thành cây bảo tháp. Tấm bia cho ta biết rất nhiều về lịch sử, danh thắng và vị thế của chùa Đọi, kiến trúc chùa Đọi, về cây bảo tháp và về vua Lý Nhân Tông. Năm 1992 Bảo tàng tổng hợp Hà Nam Ninh đã có hồ sơ về di tích này. Từ ngày Hà Nam tái lập tỉnh (1997) núi Đọi, sông Châu được chọn là biểu tượng của văn hoá Hà Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về di tích Đọi Sơn như: Danh thắng chùa Đọi, Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa của tác giả Lương Hiền, Lịch sử chùa Đọi của Duy Phương đã giới thiệu về lịch sử chùa Đọi, danh thắng Long Đọi Sơn và những truyền thuyết quanh nó. Gần đây trong Những phát hiện mới của Khảo cổ học thì chùa Đọi đuợc nhắc đến như một địa danh có bề dầy lịch sử và là nơi lưu giữ nhiều di vật cổ và quý giá. Bên cạnh đó còn có nhiều bài viết nghiên cứu sưu tầm của các tác giả đăng trên Tạp chí Sông Châu: GS Trần Quốc Vượng có bài: Địa linh nhân kiệt Hà Nam, Núi Đọi–sông Châu-biểu tượng của Hà Nam quê tôi (số 19-1/2000); Chùa Đọi Sơn của Trần Đăng Ngọc (số 1-1997); Hà Nam ngũ sắc của Lương Hiền, Kí ức Sông Châu của Phương Thuỷ ( số 1-1997) và một số bài viết khác. Ngoài ra, trên Website của Hà Nam cũng có trang giới thiệu về di tích chùa Đọi….. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đi trước mới đề cập và đề cao danh thắng, di tích cũng như bề dày lịch sử của chùa Long Đọi Sơn. Như vậy, nó mới chỉ là một mặt của giá trị văn hoá tổng thể nơi đây. Mảng nghiên cứu về lễ hội chùa Long Đọi Sơn vẫn còn bỏ trống. Lễ hội chùa Đọi là một hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá của người dân nơi đây trong ứng xử với tự nhiên và xã hội, nó là chìa khoá để giải mã văn hoá truyền thống của vùng. Do vậy trong khuôn khổ của khoá luận này mục đích của chúng tôi là đi sâu vào tìm hiểu lễ hội chùa Đọi cùng với việc so sánh một số lễ hội khác của Đọi Sơn để thấy được sự phong phú và đa dạng trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của người dân nơi đây. Đồng thời qua đó ta thấy được quá trình biến đổi, xu hướng biến đổi và hội nhập của lễ hội chùa Đọi trong truyền thống và hiện đại. Chúng tôi cố gắng để có cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ nhất về tổng thể văn hoá của trấn Sơn Nam thượng xưa. 3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện khoá luận này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong phương pháp nghiên cứu chung của ngành khoa học xã hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành dân tộc học. Đó bao gồm những phương pháp như: khảo sát thực địa, điều tra hồi cố, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu, xử lí tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Ngoài việc tham khảo những công trình nghiên cứu khoa học về chùa Đọi và di tích chùa Đọi như đã nêu trên, trong khoá luận này chúng tôi đặc biệt sử dụng nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình đi điền dã thực địa hơn một tháng tại xã Đọi Sơn như nguồn tài liệu quan trọng chủ yếu. Đó chính là những văn bia, hoành phi, câu đối, truyền thuyết và những lời kể của các cụ già cao tuổi ở địa phương…May mắn cho chúng tôi là người con của quê hương từ nhỏ rất hay đi xem lễ hội chùa Đọi và trong thời gian làm khoá luận này được tham dự lễ hội chùa Đọi tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch ( vào 27, 28,29 tháng 4). Do vậy chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tái hiện lại một cách sinh động và đầy đủ nhất về lễ hội chùa Đọi đồng thời nêu bật văn hoá truyền thống cũng như sự biến đổi của lễ hội chùa Đọi trong đời sống xã hội hiện đại. 4. Bố cục của khoá luận Ngoài những phần dẫn luận, kết luận, mục lục sách, báo tham khảo, phụ lục… khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Đọi Sơn và di tích chùa Đọi. Chương 2 : Lễ hội chùa Đọi. Chương 3: Lễ hội chùa Đọi trong đời sống của cư dân trong vùng CHƯƠNG I ĐỌI SƠN VÀ DI TÍCH CHÙA ĐỌI I. ĐỌI SƠN 1. Vài nét về Hà Nam Sơn Nam là vùng địa danh chỉ vùng núi phía nam núi Ngũ Lĩnh (Phú Thọ- thời Hùng Vương), phía nam thành Cổ Loa (thời An Dương Vương), phía nam Kinh Bắc, nam Long Biên, nam Thăng Long, Hà Nội. Sách Lịch triều hiến chương loại chí có ghi: “Sơn Nam đời cổ là nước Lạc Long. Đời Tần thuộc về quận Nam Hải, Hán đặt là quận Giao Chỉ. Tuỳ theo như thế. Đường đổi là Giao Châu. Nhà Đinh, Lê đặt là đạo hay đặt là lộ, là phủ. Những nơi là Đỗ Động, Đường Lâm, Phù Liệt, Đăng Châu đều là đất Sơn Nam cả. Triều Lý đổi gọi là các lộ, nhà Trần đổi thành những lộ: Thiên Trường, Kiến Xương, Ứng Thiên, Lý Nhân, Tân Hưng, Khoái Phủ,Trường An, Long Hưng, Đại Hoàng, An Tiêm. Triều nhà Lê cũng theo như thế. Trong năm Quang Thuận (1466) đặt là thừa tuyên Thiên Trường thống trị các phủ, huyện. Đến khi định bản đồ, mới đổi thành thừa tuyên Sơn Nam, có 9 phủ 36 huyện. Trấn Sơn Nam, phía Tây ven theo núi, phía Đông gần biển lớn, Kinh Bắc, Hải Dương ở về phía Bắc, Thanh Hoá ở về phía Nam. Địa thế trấn này rộng, xa, người nhiều, cảnh tốt, là bậc thứ nhất trong 4 thừa tuyên. Hai đạo thượng, hạ phong vật khác nhau. Đạo Thượng lịch sự hơn nhưng có vẻ đơn bạc, đạo Hạ thì quê kệch nhưng có phần thật thà. Văn vật thì thượng lộ thịnh hơn, của cải thì hạ lộ nhiều hơn; tóm lại đều là đất tụ khí tinh hoa, tục gọi là văn nhã, thực là cái bình phong phiên chắn của trung đô và kho tàng của nhà vua”. Như vậy Hà Nam là phủ Lý Nhân xưa (1 trong 9 phủ của trấn Sơn Nam và thuộc trấn Sơn Nam thượng) với diện tích 849,5 km2, dân số là 811.126 người với mật độ 941người/km2 gồm 5 huyện là Duy Tiên, Kim Bảng, Lí Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục và thị xã Phủ Lý là thủ phủ của Hà Nam. Địa thế đất này rất linh thiêng, phong cảnh hữu tình lại là mảnh đất ngàn năm văn vật. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, những gì còn lại ở nơi đây hiện nay đủ để khẳng định Hà Nam là mảnh đất địa linh nhân kiệt (dẫn lời của GS Trần Quốc Vượng). Hà Nam–một vùng đất của nền văn minh Việt cổ có từ thời Hùng Vương vào thế kỉ III trước công nguyên. Những ngôi mộ quan tài hình thuyền, những di vật cổ như trống đồng Ngọc Lũ … đã chứng minh điều đó. Sự thay đổi các thể chế chính trị đã kéo theo sự thay đổi hành chính nơi đây. Từ thời Hùng Vương đến năm 1741 dù có thay đổi thế nào, được gọi là trấn, lộ, phủ thì Hà Nam vẫn thuộc trấn Sơn Nam. Dưới thời Minh Mạng, Hà Nam được tách ra thành một tỉnh mới là tỉnh Hà Nam. Đến năm 1890 Hà Nam lại được nhập vào tỉnh Hà Nội, đến 1923 Hà Nam lại được tách ra thành một tỉnh riêng. Năm 1965 Hà Nam được sát nhập với tỉnh Nam Định thành lập ra tỉnh Nam Hà. Đến năm 1976 Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1992 tỉnh Hà Nam Ninh lại tách ra thành tỉnh Nam Hà và Ninh Bình, Hà Nam thuộc tỉnh Nam Hà. Năm 1997 tỉnh Nam Hà lại tách thành Nam Định và Hà Nam và ngày nay Hà Nam cơ bản lại trở về địa giới hành chính vốn có ban đầu của nó. Đây là một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập úng lấy nông nghiệp làm nền kinh tế chủ đạo nên kinh tế Hà Nam không có gì nổi bật. Tuy là một mảnh đất nghèo nhưng người Hà Nam hiếu học, họ đã xây dựng một nền văn hoá bề dầy mang đậm bản sắc văn hoá của con người nơi đây. Đây không chỉ là những giá trị văn hoá truyền thống mà trong xã hội ngày nay nó đã trở thành một động lực to lớn giúp Hà Nam xây dựng và phát triển vươn lên. 2. Đọi Sơn – một danh lam thắng cảnh trấn Nam Sơn. 2.1. Vị thế của Đọi Sơn Đọi Sơn là một xã nằm phía Đông Nam của huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Phía Bắc giáp xã Yên Nam, phía Tây Bắc giáp xã Tiên Ngoại, phía Tây giáp xã Tiên Hiệp, phía Nam giáp xã Châu Sơn, Tiên Phong, phía Đông giáp sông Châu Giang và xã Văn Lý (huyện Lý Nhân-Hà Nam). Hiện nay, xã Đọi Sơn về hành chính gồm 7 thôn hợp thành. Đó là các thôn Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín và Sơn Hà sống tập trung xung quanh núi Đọi. Đó là khối cộng đồng dân cư đã sinh sống ở đây rất lâu đời và họ có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong sản xuất kinh tế đặc biệt là trong các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng. Trung tâm xã Đọi Sơn có một quả núi cao khoảng 80m với diện tích 23,9 ha mọc giữa đồng bằng bát ngát lúa ngô. Đây là một kì quan mà thiên nhiên đã ban tặng cho người dân nơi đây. Chính cảnh đẹp đó đã thu hút và là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhiều danh nhân đã từng đặt chân đến nơi này. Năm 1476 vua Lê Thánh Tông–người đứng đầu phái Tao đàn nhị thập bát tú một lần dừng chân tại chùa Long Đọi Sơn đã có cảm nhận: Lên cao tầm mắt nhìn bao quát Muôn dặm cây xanh một dải mờ. (Đề bia chùa Đọi) Đọi Sơn không chỉ có phong cảnh đẹp sơn thuỷ hữu tình mà còn nằm trên một thế đất thiêng theo quan niệm phong thuỷ của người xưa. Do vậy đã từ lâu trong vùng đã truyền tụng câu ca dao: Đầu gối núi Đọi Chân dọi Tuần Vường Phát tích đế vương Lưu truyền van đại. Tuần Vường là ngã ba sông Hồng, sông Ninh Giang, và sông Đáy (gần cống Hữu Bị-Lý Nhân hiện nay). Ngày xưa khi chưa có đê đập thì đây là vùng có dòng nước xoáy cực kì nguy hiểm, nơi người ta thường nói là chỗ ở của Hà Bá Long Vương cai quản thuỷ quốc. Đó cũng là vực nước sâu nhất của sông Hồng mà từ xưa đã có câu: Nhất cao là núi Tản Viên Nhất sâu là vũng Thuỷ Tiên Tuần Vường. Sông Châu trước đây gọi là sông Kinh nối giữa sông Nhị Hà (sông Hồng) và sông Sinh Quyết (sông Đáy). Ngày xưa khi dòng Nhị Hà còn và chưa có bờ như bây giờ và dòng Châu Giang chưa đổi thì nó là một con sông ôm sát chân núi Đọi. Chẳng vậy mà khi vua Lí Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long bằng đường thuỷ, nhân dân Đọi Tam tổ chức múa trống, múa rồng chào mừng nhà vua đi qua. Vào thời Trần nó là con đường huyết mạch nối giữa Thăng Long với hành cung nhà Trần ở Tức Mặc. Ngày nay Châu Giang đã đổi dòng chỉ còn lại rất nhỏ và đã lùi xa chân núi tiến về phía đông. Tuy nhiên với vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho nó, sông Châu đã được chọn làm biểu tượng của Hà Nam: núi Đọi–sông Châu. Hiện nay đường thuỷ qua đây không còn tấp nập như xưa nhưng Đọi Sơn lại rất phát triển về giao thông đường bộ. Trên địa bàn xã có hai trục tỉnh lộ là 9710 và 9711 là trục giao thông huyết mạch nối Đọi Sơn với các xã trong huyện và với các vùng trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Đây là một lợi thế quan trọng trong việc thúc đẩy và giao lưu kinh tế-văn hoá của Đọi Sơn. Là một xã thuộc ĐBBB lại rất gần các con sông lớn nên đây là một vùng đất phù xa màu mỡ. Trong diện tích 611,48 ha đất tự nhiên thì đất nông nghiệp ở đây là 356,4 ha chiếm 58,28%. Đây là điều kiện thuận lợi cho Đọi Sơn phát triển nông nghiệp.Tuy có núi nhưng là núi nhỏ đá lẫn đất nên chỉ có thể trồng được chè xanh và một số cây gỗ nhỏ. Khí hậu ở Đọi Sơn thuận lợi cho trồng trọt và cuộc sống con người. Ngay từ thế kỉ XII khi vua Lý Nhân Tông cho xây dựng và mở mang chùa Đọi Sơn và tháp Sùng Thiện Diên Linh nơi đây đã nhận thấy “mùa xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân”. Đọi Sơn mang đặc trưng của vùng ĐBBB là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm khá cao khoảng từ 23-240C, lượng mưa là 1900mm, độ ẩm 85%, giờ nắng là từ 1300-1500h/năm và khá ổn định. Với điều kiện như vậy, Đọi Sơn được thiên nhiên ưu đãi nhiều. Nơi đây có khí hậu ôn hoà, tài nguyên phong phú, cảnh sắc tươi đẹp là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, thiên nhiên cũng không quá ưu ái đối với vùng đất này. Là vùng trũng nhất của ĐBSH lại rất gần các con sông lớn nên trước đây nó là rốn nước trong mùa lũ, khi hệ thống đê điều chưa được kiên cố như bây giờ thì vùng liên tục bị lụt lội hoành hành. Những năm trở lại đây vùng này không còn xảy ra tình trạng ấy. Dòng Châu Giang đã hi sinh tự cắt mình ở đoạn đầu qua Duy Tiên để ngăn lũ ở cửa Tuần Vường nên đoạn sông dưới đó mới có tên Tắc Giang là vậy. 2.2. Lịch sử Đọi Sơn. Đọi Sơn là một địa danh xuất hiện từ bao giờ? Tên chính thức của xã này là Đọi sơn hay là Đội Sơn? Đọi Sơn là một xã lấy tên núi đặt làm tên gọi cho mình. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi đó. Ở xung quanh chân núi Đọi có 9 cái giếng tự nhiên đã xuất hiện từ lâu. Nước giếng này rất trong và không bao giờ cạn, theo truyền thuyết dân gian đó là 9 mắt rồng thiêng. Phía Bắc núi có một cái hang rất rộng ăn sâu vào trong lòng núi trông rất giống miệng con rồng nên nhân dân nơi đây gọi là Hàm Rồng. Lại thêm sự tích vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (năm Canh Tuất-1010) theo con đường thuỷ qua sông Châu Giang để ra Phố Hiến về Thăng Long. Được tin, nhân dân Đọi Tam chuẩn bị một màn độc đáo đón chào đoàn thuyền của nhà vua đi qua. Khi đoàn thuyền của nhà vua đến gần vùng núi Đọi bỗng nhiên thấy xuất hiện một đoàn múa rồng, múa trống. Một con rồng lớn với cờ quạt phấp phới, hàng trăm chiếc trống to nhỏ các loại ầm ầm như tiếng sấm dậy đất trời. Đoàn múa rước đi từ chân núi uốn lượn lên đỉnh núi cao đón chào nhà vua đi qua. Cảnh tượng đó trông giống như một con rồng khổng lồ đang đội núi bay lên, nhân đó nhà vua đổi tên núi thành Long Đội Sơn (tức là rồng đội núi-ý muốn ban phúc cho nhân dân vùng này có sức mạnh phi thường như rồng đội núi bay lên ấm no hạnh phúc). Do vậy xã Đọi Sơn đã từng mang tên là xã Đội Sơn. Tên Đội Sơn chỉ có thể xuấn hiện vào đầu thế kỉ XI. Tuy nhiên, người dân ở đây từ xưa đến nay vẫn thường gọi là xã Đọi Sơn, núi Đọi, chùa Đọi. Vậy thì từ Đọi xuất phát từ đâu và có từ bao giờ? Theo cách giải thích của các cụ già cao tuổi trong vùng thì Đọi ở đây là một từ Việt cổ chỉ chiếc bát như người Việt ở nhiều vùng quê ĐBSH hiện nay vẫn còn dùng. Người ta thường nói ăn mấy đọi cơm thay cho việc nói ăn mấy bát cơm. Nói như vậy cũng có cái lý của các cụ. Nhìn từ xa núi Đọi có ba trái núi nằm kế tiếp nhau như 3 chiếc bát úp liền kề. Do vậy từ Long Đọi Sơn có thể hiểu như những chiếc bát úp những con rồng. Đó cũng là một cách giải thích địa danh vùng này rất thú vị. Còn theo như ý kiến của PGS. TS Hoàng Lương thì có cách giải thích khác về từ Đọi. Chữ Đọi có thể bắt nguồn từ tiếng Thái và có thể ở nơi đây có dấu tích sinh sống của người Thái hay sự giao lưu văn hoá Việt-Thái. Chữ Đọi trong tiếng Thái có nghĩa là đồi. Điều này có liên quan gì đến tục thờ Cao Sơn Đại Vương- một vị thần núi làm thành hoàng làng chung của 6 làng Đọi. Theo trí nhớ của các cụ cao tuổi trong vùng thì trong lễ hội đền Đức Thánh Cả là ngày hội làng chung của 6 làng Đọi, ngày xưa được tổ chức rất long trọng có những người đóng giả Hổ và ăn vận giả theo trang phục Mường cùng tham gia đoàn rước lễ. Tuy nhiên hiện nay thì tục này không còn nữa nhưng đó là một tục lệ có từ lâu đời truyền lại mà trong lần tổ chức vào năm 1946 vẫn duy trì. Đây cũng là một giả thiết cần được chú ý. Dù là Đội Sơn hay là Đọi Sơn thì đối với người dân nơi đây cũng không có gì khác biệt và hiện nay họ hay dùng cả hai cách gọi trên. Tuy nhiên, từ cổ đến nay nhân dân vùng này vẫn thường gọi là Đọi Sơn, trong các văn bản chính thức về mặt hành chính thì vẫn dùng tên gọi là xã Đọi Sơn, chùa Long Đọi Sơn, núi Đọi Sơn. Xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam xưa. Đây là vùng đất cổ nơi sinh sống của cư dân là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn được khẳng định qua những di vật còn để lại ở nơi đây như những ngôi mộ quan tài hình thuyền, mộ kè đá và mộ giát tre được phát hiện ở những khu vực xung quanh núi Đọi. Đồng thời xung quanh núi Đọi và núi Điệp (thuộc xã Yên Nam) còn phát hiện thấy rất nhiều ngôi mộ mang phong cách kiến trúc của mộ Hán. Do vậy ta có thể suy luận rằng từ rất sớm nơi này là nơi cư trú của người Việt cổ và vào một thời kì nào đấy trong lịch sử thuộc Hán, Đọi Sơn có thể là một trị sở hay một khu thương mại sầm uất trên bờ sông Kinh xưa. Đến trước Cách mạng tháng Tám–1945, xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tổng Đọi Sơn lúc đó gồm 8 làng xã: xã Đọi Sơn, làng Trung Tín, làng Đọi Lĩnh, làng Đọi Trung, xã Câu Tử, xã Thọ Cầu, xã Lê Xá, xã Dưỡng Mông. Lúc đó Đọi Sơn chỉ có 3 thôn: Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam. Sau này làng Trung Tín, Đọi Lĩnh, Đọi Trung sát nhập vào xã Đọi Sơn. Cách đây 180 năm, thôn Đọi Tam do sự phát triển về mặt dân cư nên đã chuyển một bộ phận dân cư thành lập thôn Sơn Hà. Khoảng gần 100 năm trở lại đây thôn Đọi Trung và Đọi Lĩnh tách một bộ phận dân cư thành lập thêm hai thôn trại là trại Trung và trại Lĩnh, nhưng sau đó hai thôn này lại sát nhập lại như cũ. Từ đó, đơn vị hành chính này ổn định cho đến ngày nay. Trong kháng chiến chống Pháp, khi giặc về Đọi Sơn định lập đồn bốt nơi đây, nhân dân Đọi Sơn thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá huỷ những nơi mà địch có thể lấy để đóng đồn bốt như chùa Long Đọi Sơn, đền Đức Thánh Cả… do vậy địch không thể ở lại Đọi Sơn mà phải quay về đóng bốt ở núi Điệp (xã Yên Nam) cách đó 2km. Nhân dân Đọi Sơn đã đóng góp một phần công sức vào thắng lợi của đất nước qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ngày nay trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, Đọi Sơn đang từng bước chuyển mình tìm cách thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu, đưa nền kinh tế của xã đi lên, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm bản sắc dân tộc 2.3 . Dân cư. Truyền thuyết trong dân gian kể rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 18 có một vị nhân thần là tướng đồng thời là em họ của thánh Tản Viên, người đã có công rất lớn trong việc giúp vua Hùng chống lại Thuỷ Tinh và giặc Thục Phán được vua Hùng phong là Cao Sơn Đại Vương. Khi đất nước thanh bình, Cao Sơn Đại Vương chu du thiên hạ xuống mảnh đất trấn Sơn Nam. Đến vùng Đọi Sơn, ông thấy phong cảnh nơi đây đẹp, địa thế linh thiêng, nhân dân hiền lành nhưng thưa thớt. Ông bèn dừng chân nơi đây cùng 6 người con của mình giúp dân khai khẩn trồng trọt và lập ra 6 làng Đọi là: Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín. Để tưởng nhớ công ơn của Cao Sơn Đại Vương và các người con của ông, nhân dân nơi đây đã tôn ông làm Đức Thánh Cả và 6 người con của ông là thành hoàng của 6 làng. Từ đó về sau, vùng Đọi Sơn dân cư ngày càng trù phú. Vào năm 1983 trong khi đắp nền nhà, nhân dân nơi đây đã đào được 11 ngôi mộ cổ. Trong 11 ngôi mộ ấy có 3 ngôi mộ quan tài hình thuyền làm bằng thân cây khoét rỗng, 2 ngôi mộ kè đá, 4 ngôi mộ có áo quan làm bằng những thanh tre ken lại như tấm giát giường và 2 ngôi mộ không rõ cấu trúc có thể là những ngôi mộ chôn trực tiếp không có áo quan. Hiện vật tìm thấy trong những ngôi mộ cổ này chủ yếu là những công cụ hay vũ khí là đồ đồng thời Đông Sơn. Bên cạnh đó còn có tiền Bán Lạng và đỉnh đồng 3 chân mang phong cách của thời Đông Hán (25-220 SCN). Trong 11 ngôi mộ đó có 5 ngôi mộ không có hiện vật. Điều đó chứng tỏ rằng từ thời đó Đọi Sơn đã là một vùng dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và bước đầu có sự phân hoá giàu nghèo. Đọi Sơn là một xã có diện tích tự nhiên không rộng chỉ có 611,48 ha nhưng có tới 1601 hộ định cư sinh sống với 6368 nhân khẩu, do vậy mật độ dân số rất đông lên tới 1007người/km2. Đây cũng là tình hình phân bố dân cư chung của một xã nông nghiệp vùng ĐBSH. Nhận thức được những khó khăn do mật độ dân số quá đông đem lại nên từ lâu Đọi Sơn luôn vận động để giảm tốc độ tăng dân số đưa nền kinh tế đi lên. Hiện nay Đọi Sơn đang duy trì được mức tăng dân số thấp và dần ổn định ở mức 0,8%. Trong tổng dân số là 6368 người của xã thì số người trong độ tuổi lao động là 3630 người chiếm 57%. Đây là nguồn lao động dồi dào cho Đọi Sơn phát triển đi lên trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, những khó khăn của vùng đồng chiêm trũng vẫn còn bám lấy cuộc sống của người dân Đọi Sơn. Mặc dù đời sống vật chất đạm bạc nhưng người dân nơi đây chất phác và rất hiếu khách. Hàng năm cứ vào mùa lễ hội chùa Long Đọi Sơn tháng 3 hay hội làng của 6 làng vào tháng 7 hoặc lễ hội làng nghề vào tháng Giêng của làng trống Đọi Tam, khách thập phương về đây dự hội sẽ được đón tiếp nồng nhiệt bởi người dân nơi đây làm cho lễ hội trong vùng càng sôi động. Tích tụ từ ngàn năm bởi nền văn minh vật chất sông Hồng, bằng bàn tay tài hoa và trí óc sáng tạo với tâm trong sáng, người dân Đọi Sơn đã xây dựng nên những sắc thái văn hoá mang đậm bản sắc của quê hương mình trong tổng thể văn hoá chung của vùng ĐBBB. 2.4. Đời sống kinh tế. Nằm trong ĐBSH được bồi đắp phù sa bởi nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Châu, Đọi Sơn là một xã nông nghiệp trù phú, quanh năm được bao phủ bởi một màu xanh của lúa, ngô và hoa màu. Bãi dâu ven sông Châu quanh năm tươi tốt đã nổi tiếng với nghề trồng dâu nuôi tằm cổ truyền. Nghề này ngay từ thế kỉ I SCN đã phát triển mạnh và được lưu truyền cho đến ngày nay ở xã Tiên Phong kế bên (Trước đây xã này thuộc tổng Đọi Sơn). Bà tổ nghề trồng dâu nuôi tằm là Nguyệt Nga công chúa–một danh tướng dưới thời Hai Bà Trưng nhưng là người con của mảnh đất nơi đây. Trong thời gian làm quan dưới thời Hai Bà, bà thường về quê căn dặn nhân dân chăm chỉ nghề nông và trồng dâu nuôi tằm. Tơ kén làm ra được bán cho làng dệt lụa Nha Xá nổi tiếng cách đó không xa mà đã được Lê Quý Đôn nhận xét: Lụa Nha Xá bền, đẹp mà nổi tiếng. Ở Tiên Phong có chợ nổi tiếng là chợ Dâu họp trọn 30 ngày một tháng do nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển mạnh nên nhu cầu trao đổi lá dâu rất nhiều. Xưa kia Đọi Sơn cũng là một vùng chuyên trồng và cung cấp lá dâu cho Tiên Phong trên vùng đất bãi bồi ven sông của quê hương mình. Nông nghiệp Đọi Sơn được hình thành trên vùng đất phù xa màu mỡ là một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà ngay những năm đầu của nền độc lập dân tộc, vào năm Đinh Hợi (987) vua Lê Đại Hành đã chọn mảnh đất vùng chân núi Đọi để cày ruộng tịch điền mở đầu cho việc các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm và khuyến khích phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện đất chật người đông như hiện nay thì diện tích đất canh tác nông nghiệp của Đọi Sơn không nhiều. Chỉ với 356,4 ha đất nông nghiệp nên bình quân ruộng chia cho người dân nơi đây chỉ được 1,2sào/người. Với số ruộng ít ỏi như vậy, để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân là một việc không dễ dàng đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở một xã thuần nông như Đọi Sơn hiện nay. Với bản chất cần cù lại rất năng động nên người dân nơi đây đã khai thác một cách tốt nhất vốn đất ít ỏi để đảm bảo nhu cầu về lương thực và để phát triển kinh tế. Ngoài lúa là cây lương thực chính Đọi Sơn còn có khoảng 20% đất bãi trồng hoa màu và bên sườn núi Đọi còn trồng chè xanh và sắn. Đất chật người đông, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên với người dân nơi đây khi cày ruộng không cày được hũ vàng hũ bạc nhưng đối với họ chỗ nào cũng là ruộng kim ngân. Hiện nay, Đọi Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo. Trong xã có khoảng 800 hộ gia đình thuần nông có mức thu nhập khoảng 2,5 triệu đồng/năm. Đây là một mức thu nhập không cao trong thời đại hiện nay vì là vùng đồng trũng quanh năm ngập úng nên năng suất rất bấp bênh. Bên cạnh đó Đọi Sơn có hệ thống sông ngòi, mương máng, ao hồ dầy đặc là một điều kiện thuận lợi để phát triển thuỷ sản và cũng là một lối thoát hữu hiệu cho nhiều gia đình trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay. Người dân nơi đây nhận thức rất rõ rằng không thể phát triển quê hương tiến kịp tốc độ phát triển chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay mà chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do vậy họ đã học hỏi và tiếp thu nhiều nghề thủ công khác nhằm tạo thêm thu nhập trong lúc nông nhàn. Hiện tại trong xã có khoảng 450 hộ gia đình làm thêm nghề phụ như nghề mây giang đan, thêu ren, thợ nề, thợ mộc, sản xuất vật liệu xây dựng…đặc biệt là làng Đọi Tam có nghề bưng trống truyền thống. Với sự tham gia của nghề thủ công nên thu nhập của những hộ gia đình này cao hơn hẳn bình quân 4,5-5triệu đồng/năm. Riêng nghề làm trống ở Đọi Tam có thể cho thu nhập cao từ 10-50 triệu đồng/năm. Nghề bưng trống ở thôn Đọi Tam đã xuất hiện từ rất lâu. Tương truyền vào thế kỉ X có 2 anh em họ Nguyễn là Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Đạt không rõ là người ở đâu đi qua vùng Đọi Sơn thấy phong cảnh nơi đây đẹp, nhân dân Đọi Tam hiền lành, trong vùng lại có nhiều cây mít. Hai anh em có nghề bưng trống quyết định ở lại đây hành nghề và truyền nghề trống cho trai làng Đọi Tam. Từ ngày có nghề trống không khí làng Đọi Tam rộn rã hẳn lên. Một hôm nhân dân Đọi Tam nghe tin vua Lê Đại Hành về đây cày ruộng tịch điền để khuyến khích phát triển nông nghiệp, hai anh em ông Năng quyết định làm một chiếc trống to đặc biệt để đón vua. Chiếc trống hoàn thành vào mùa xuân năm 987. Tiếng trống vang như tiếng sấm nên người ta gọi ông là trạng Sấm. Sau khi ông mất nhân dân Đọi Tam tôn ông làm ông tổ làng trống và lập miếu thờ ông ở chân núi Đọi, hướng nhìn ra cánh đồng. Năm 1010 được tin vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đi qua Đọi Sơn, dân làng Đọi Tam đã tổ chức một đoàn múa rồng, múa trống rước lên núi Đọi như một con rồng khổng lồ đội núi bay lên để đón chào đoàn thuyền nhà vua, đựơc vua khen tặng và cho người về kinh đô làm trống, lập ra phố Hàng Trống ngày nay. Để tưởng nhớ công đức của hai ông nên cứ hàng năm vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch nhân dân Đọi Tam lại mở hội làng để tôn vinh nghề trống của làng mình. Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, nghề làm trống và nghệ nhân trống Đọi Tam đã có mặt ở rất nhiều nơi trên đất nước ta. Trong những giai đoạn thăng trầm, làng nghề tưởng như bị tan vỡ nhưng với tâm huyết và sự cố gắng của dân làng nên nghề này đã trụ vững và phát triển như ngày nay. Với dàn trống hội gồm 200 quả to nhỏ trong dịp lễ hội kỉ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, làng trống Đọi Tam đã nổi tiếng trong và ngoài nước, có rất nhiều đơn đặt hàng khắp nơi về đến tận thôn. Nhân dân Đọi Tam đang có được vinh dự lớn được chọn là nơi sản xuất 1000 quả trống lớn nhỏ nhân dịp lễ hội kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Năm 2004 làng trống Đọi Tam được UBND tỉnh Hà Nam công nhận là làng nghề thủ công truyền thống. Hiện nay, trong làng Đọi Tam hầu như gia đình nào cũng tham gia sản xuất trống. Nhiều gia đình có xưởng sản xuất trống được trang bị máy móc hiện đại đặc biệt là khâu sản xuất tang trống. Đây là một nghề thủ công truyền thống nhưng có sự chuyên môn hoá sâu sắc đến từng công đoạn như thuộc da, làm tang, bưng trống. Thu nhập của người dân từ nghề này cũng khá cao từ 5 triệu đến 50 triệu đồng/năm. Đời sống kinh tế ở Đọi Tam trên mặt bằng chung là khá giả. Điều đó được khẳng định thêm trên phương diện văn hoá tinh thần. Đọi Tam là một thôn nhưng hàng năm thôn này đều tham gia tổ chức 3 lễ hội lớn: Lễ hội chùa Đọi, lễ hội làng (lễ hội đền Đức Thánh Cả) và lễ hội làng nghề trống với qui mô bao giờ cũng linh đình, sôi động và phong phú nhất so với các làng khác trong xã. Tuy nhiên, đây là một nghề truyền thống mà chỉ có riêng ở làng Đọi Tam chứ các làng lân cận khác như Đọi Nhất, Đọi Nhì …không thấy một gia đình nào tham gia. Đó là một hiện tượng mà người ta gọi là bí kíp làng nghề hay một lí do nào khác mà nghề trống không phổ biến rộng rãi thì chưa rõ cần phải tìm hiểu thêm. Ngoài trồng lúa và làm nghề thủ công khác thì trong xã có khoảng trên 200 hộ gia đình tham gia kinh doanh dịch vụ kết hợp với sản xuất nông nghiệp nên cũng cho thu nhập khá từ 5-10 triệu đồng/năm. Đây chủ yếu là những gia đình kinh doanh tổng hợp nằm dọc theo tuyến tỉnh lộ 7910 nhưng không có gia đình nào buôn bán lớn. Ngày nay, mặt bằng kinh tế chung của Đọi Sơn đang ngày một khởi sắc.Tuy không có gì nổi bật nhưng Đọi Sơn cũng là một xã có nền kinh tế phát triển khá trong huyện Duy Tiên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Cơ sở vật chất, hạ tầng được phát triển, nhà cửa của nhân dân đã xây dựng kiên cố, nhiều nhà cao tầng đã mọc lên tạo nên một diện mạo mới cho Đọi Sơn. Toàn xã hiện có 650 xe máy, 1400 ti vi, 250 điện thoại … Những con số đó đã chứng minh sự phát triển kinh tế-văn hoá và dân trí ở đây. Là một xã nông nghiệp đặc biệt là trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, Đọi Sơn gặp không ít khó khăn, nhân dân nơi đây đang cố gắng từng bước khắc phục khó khăn đó để hội nhập cùng với tiến trình phát triển chung của đất nước. 2.5. Văn hoá-Xã hội. Đọi Sơn là một vùng đất cổ. Họ là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và biến đổi nền văn hoá đó đã tích tụ và lắng đọng để hình thành nên những giá trị văn hoá truyền thống vừa mang dáng nét chung của văn hoá cư dân vùng ĐBSH vừa mang nét riêng biệt của người dân vùng rốn nước. Hà Nam là một tỉnh thuộc ĐBSH nhưng lại là địa bàn trũng nhất nên xưa kia khi hệ thống đê điều chưa hoàn chỉnh thì hầu như năm nào nơi đây cũng bị úng lụt, đời sống nhân dân bị đe doạ. Khi mà sức con người chưa thắng nổi thiên nhiên họ đã phản ứng lại điều đó bằng các hoạt động mang tính chất tôn giáo thể hiện rõ trong đời sống tâm linh, trong hoạt động lễ hội nơi đây như tục thờ thành hoàng làng, tục thờ thần nông nghiệp và tục thờ thần nước. Có thể nói rằng khắp vùng Hà Nam không có nơi nào mà lễ hội lại diễn ra thường xuyên và độc đáo như ở Đọi Sơn. Xuân thu nhị kì họ đều tổ chức lễ hội mang đặc thù của cư dân nông nghiệp vùng chiêm trũng quanh năm sống ngâm da, chết ngâm xương. Đó là những giá trị văn hoá truyền thống đã trở thành một phần máu thịt của họ. Đọi Sơn như một ngôi làng lớn lấy núi Đọi làm trung tâm và người dân 7 thôn sống quây quần bên ngọn núi đó. Núi Đọi không chỉ là trung tâm về mặt địa lý hành chính mà còn là trung tâm văn hoá tâm linh của cả cộng đồng vì trên núi có một ngôi chùa cổ và dưới chân núi có ngôi đền Thánh linh thiêng là cơ sở thờ tự chung của cả 7 làng từ xưa đến nay. Toàn xã có trên 20 cơ sở thờ tự trong đó gồm 2 ngôi chùa (chùa Long Đọi Sơn trên núi và chùa Hạ ở làng Đọi Tam), 6 ngôi đình của 6 làng (vì thôn Sơn Hà mới tách từ thôn Đọi Tam nên không có đình riêng), còn lại là lăng, miếu, đền, phủ. Trong mỗi làng đều có cơ sở thờ tự riêng là các miếu, đền bản thổ thể hiện ranh giới nhưng dân trong toàn xã lại có những ngày thờ tự, lễ hội chung được tổ chức hàng năm đựơc lưu truyền từ ngàn xưa. Đó là lễ hội chùa Đọi (tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch), lễ hội đền Đức Thánh Cả (ngày10,11,12 tháng 7 âm lịch). Lễ hội đền Đức Thánh Cả là ngày hội của cả 6 làng. Những ngày đó Đọi Sơn tưng bừng không khí lễ hội làng để tưởng nhớ công ơn cha con thần Cao Sơn Đại Vương. Đồng thời lúc này đang vào mùa mưa bão nhân dân Đọi Sơn tổ chức lễ hội cầu mong thần linh che chở cho nhân dân trong vùng tránh được lụt lội- điều khủng khiếp nhất của người dân vùng trũng để có một mùa màng bội thu, đời sống no ấm. Người xưa thường có câu để chỉ tính chất khép kín của làng quê Bắc Bộ: Trống làng nào làng ấy đánh Thánh làng nào làng ấy thờ. Tuy nhiên chùa và đình làng ở Đọi Sơn lại là cơ sở thờ tự chung. Do vậy lễ hội ở đây rất độc đáo tuy không phải là duy nhất. Sự tôn thờ Cao Sơn Đại Vương ở đây cũng có điều đặc biệt vì cư dân một vùng đồng bằng lấy một vị sơn thần làm thánh chung. Đó là tín ngưỡng thờ thần núi của cư dân Việt cổ đồng thời là tục thờ thánh Tản Viên và tướng lĩnh của ông mong Thánh phù hộ cho dân trong vùng tránh được lũ lụt, bảo vệ mùa màng. Đặc biệt riêng làng Đọi Tam ngoài việc tham gia trong hoạt động của hai lễ hội chung lớn trên, họ còn tổ chức ngày hội riêng của làng trống vào mồng 7 tháng Giêng hàng năm để tưởng nhớ công ơn của người đã đem nghề về cho dân làng. Trong ngày lễ đó, lễ vật mà nhân dân Đọi Tam cúng tế không thể thiếu được hai món đó là bánh dày và chè kho. Đây không phải là món đặc sản của địa phương nhưng trong ngày đó lại là những lễ vật bắt buộc đối với từng gia đình làm trống. Lễ hội làng trống Đọi Tam được tổ chức rất lớn với hoạt động rước sách linh đình và nhiều trò chơi dân gian được diễn ra trong đó có nhiều hoạt động mang đặc trưng nghề trống như cuộc thi bưng trống dành cho người dân làng nghề và trò bịt mắt đánh trống dành cho người đi hội. Trong đình làng Đọi Tam hiện nay có một chiếc trống đại mà nó chỉ được sử dụng trong dịp lễ hội hay việc quan trọng trong làng hoặc ngày kị của ông tổ (17-4). Trước khi có chiếc trống lớn trong dàn trống hội Thăng Long kỉ niệm 990 năm (đường kính cao 2.05m cao 2.75m và là chiếc trống lớn thứ 2 thế giới sau Trung Quốc) thì đây là một chiếc trống cổ và lớn nhất cả nước được làm từ năm 1989 với đường kính mặt trống là 1.5m, chiều cao 1.8m. Ngoài những lễ hội và các hoạt động văn hoá cổ truyền ra thì xã Đọi Sơn cũng thường tổ chức những hoạt động giao lưu văn hoá, thể dục thể thao hiện đại để tạo nên một sự giao thoa hài hoà giữa các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại trong đời sống mới. Bên cạnh đó Đọi Sơn còn chú trọng đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền lối sống lành mạnh để vừa bảo lưu được những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống kết hợp với những giá trị văn hoá hiện đại, biến nó thành một sức mạnh thời đại, làm động lực cho mảnh đất Đọi Sơn phát triển toàn diện đi lên trong cuộc sống hôm nay II. DI TÍCH CHÙA ĐỌI 1. Vị thế ngôi chùa Long Đọi Sơn. Chùa Long Đọi Sơn có tên chữ là Diên Linh Tự là một ngôi chùa xây dựng ngay trên đỉnh núi Đọi Sơn xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Ngôi chùa nằm ở toạ độ 20035/ vĩ độ Bắc, 105058/ kinh độ Đông nay thuộc địa phận hành chính thôn Đọi Nhất. Núi Đọi gồm 3 quả núi cao gần 80m nổi giữa đồng bằng trù phú nằm cách sông Châu 500m về phía Tây. Nhìn từ phía Bắc núi tựa dáng rồng phục. Nhìn từ phía Tây hai ngọn núi hai bên nhô ra như hai chiếc tay ngai, ngọn ở giữa lùi lại như một chiếc án. Theo quan niệm địa lí xưa thì núi Đọi nằm ở thế Cửu Long-một thế đất đẹp và linh thiêng. Toàn bộ ngôi chùa được xây dựng trên đỉnh núi Đọi Sơn trong khuôn viên 2 ha vườn rừng. Chính diện của chùa quay về hướng Nam theo quan niệm của nhà Phật đó là hướng đức Phật quay về nghe nỗi thống khổ của nhân gian mà cứu nhân độ thế. Phía Bắc hướng về Thăng Long đất kinh kì, đứng trước là núi Điệp như một tiền đồn chống giặc phương Bắc ngày xưa và như một tiền cảnh đón chào khách du lịch ngày nay. Phía Đông là thị xã Hưng Yên đất Phố Hiến xưa. Gần sát chân núi là dòng sông Châu. Phía Tây hướng về chùa Hương Tích và con đường huyết mạch Bắc Nam 1A. Toàn cảnh núi Đọi trông từ xa giống như một con rồng rất lớn nằm phục giữa đồng bằng đầu nhô cao hướng về phía Thăng Long. Ngoài ra, Đọi Sơn còn là một vùng núi non tiên cảnh từ xưa đã được biết đến như một sự kì lạ của tạo hoá và con người nơi đây: Giữa cánh đồng bằng một trái non Kìa chùa Long Đọi đứng chon von Công trình kiến trúc khen ai khéo Phong cảnh xưa nay dậy tiếng đồn. (khuyết danh) 2. Lịch sử chùa Long Đọi Sơn Chùa thoạt đầu là nơi truyền bá và tu luyện theo lí tưởng Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên của Phật giáo, sau đó nó biến thành nơi thờ Phật, mỗi thời thêm nhiều vị Phật được đúc tượng và được đưa lên thờ trên các bệ cao theo một trật tự nhất định….rồi thêm các nhà sư có công với xã hội…..không ít ngôi chùa đã trở thành nơi tiền Phật hậu Mẫu. Phật giáo là một tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ và được truyền bá vào nước ta khá sớm với trung tâm là Luy Lâu (Thuận Thành-Bắc Ninh). Đạo Phật được du nhập vào nước ta một cách hoà bình, tự thân nó biến đổi và hoà nhập với tín ngưỡng dân gian bản địa nên nó nhanh chóng có chỗ đứng vững và trở thành một tôn giáo quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Do vậy, trước thế kỉ X ở nước ta đã có rất nhiều nơi dựng chùa thờ Phật mặc dù đó mới chỉ là những am thiền nhỏ. Đạo Phật là tôn giáo có xu hướng thoát tục lên cõi niết bàn nên thường chọn những nơi yên tĩnh, hoà mình vào núi non cây cỏ, sống thanh tịnh và xa lánh cuộc đời trần tục. Phật giáo được truyền bá vào vùng Sơn Nam (Hà Nam) từ rất sớm. Không biết từ bao giờ nhưng từ những năm 40 phủ Đọi Sơn đã có chùa và trên núi có am thiền nhỏ. Quân Tô Định đã đồn trú trên núi. Nghĩa quan của bà Cao Thị Liên (21-43) ở Thạch Tổ-Thanh Liêm đã nhiều lần đem quân đến đánh và hiện nay còn di tích mả Tàu nhiều đời để lại. Do vậy từ những năm đầu sau công nguyên ở vùng Đọi Sơn, Phật giáo đã có mặt nơi đây mặc dù chưa phổ biến. Đến đời nhà Lý, đạo Phật đã phát triển mạnh và trở thành quốc giáo. Sau khi dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng và phát triển chùa chiền ở kinh đô đồng thời ra lệnh cho các hương ấp khắp nơi “ nơi nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa chữa lại”. Nhân dân Đọi Sơn đã cho tu sửa am thiền thành sơ thiền bằng tre, gỗ. Đến năm 1054 vua Lý Thánh Tông cùng Vương phi Ỷ Lan thăm thú đầu xuân thấy cảnh sắc nơi đây rất đẹp lại thêm những di tích lịch sử (vua Lê Hoàn cày ruộng tịch điền và là nơi Lý Thái Tổ dời đô đi qua) nên vua cùng vương phi quyết định cho xây dựng chùa Đọi với quy mô lớn, giao cho tể tướng Dương Đại Gia chỉ huy xây dựng và mời thiền sư Đàm Cứu Chỉ đang trụ trì một ngôi chùa ở Tiên Du-Bắc Ninh về trụ trì cùng tể tướng tham gia xây dựng chùa. Qua đây ta có thể hình dung được quy mô và vị thế của chùa Đọi dưới thời Lý. Đến giai đoạn này chùa Long Đọi Sơn là một trung tâm Phật giáo lớn của trấn Sơn Nam xưa. Tiếp đó vào năm 1118 vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh cho xây dựng và mở mang chùa Đọi to đẹp hơn và cho xây dựng bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng. Sách Đại Nam thống nhất chí có ghi: “Ở xã Đọi Sơn đông nam huyện Duy Tiên….đời vua Lý Nhân Tông dựng chùa và cho xây bảo tháp Diên Linh”, sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng chép tương tự. Việt sử lược còn cho biết cụ thể hơn: “Năm Nhâm Dần hiệu Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 3(1122), mùa xuân, tháng 2, Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh được xây dựng xong”. Xây dựng xong chùa tháp vua Lý cho mở hội mừng mấy ngày liền và giao cho Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn văn bia kỉ niệm ngày khánh thành ngôi chùa và ngọn bảo tháp đề niên hiệu “Thiên Phù Duệ Vũ”(1121). Hiện nay tấm bia đá này vẫn còn và là nguồn cung cấp nhiều thông tin quý giá. Chùa Đọi Sơn và cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh đứng vững được trên 300 năm. Đầu thế kỉ XV khi giặc Minh sang xâm lược nước ta ngôi chùa bị phá huỷ và cây bảo tháp cao 13 tầng cũng bị đánh sập hoàn toàn, các tượng đá cũng bị huỷ hoại. Năm 1467 vua Lê Thánh Tông một lần đi du xuân có lên thăm núi Đọi, đã phong cho núi Đọi là Nam thiên đệ tam động (Đệ nhất là động Hương Tích, đệ nhị là động Bích Đào) và có đề thơ trên đó (ở mặt sau của tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh): Lý triều quái đản bia không tại Minh tặc hung tàn tự dĩ canh. Nghĩa là: Hoang đường vua Lý bia còn đó Tàn bạo quân Minh chùa tháp khác xưa. Từ đó ngôi chùa bị hoang phế gần 200 năm. Cuối thế kỉ XVI (1591) đời Mạc Mậu Hợp, ngôi chùa này được chính quyền phong kiến và nhân dân trong vùng xây dựng lại với công lao to lớn của Đại đức Thích Hải Triều “Dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và làm lại những chỗ tường bị hư hỏng khiến cho hơn 500 năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại đựơc mới mẻ”. Tuy ngôi chùa được khôi phục nhưng cây bảo tháp thì không đựơc dựng lại. Dưới thời nhà Nguyễn, chùa Đọi Sơn có sửa lại thượng điện, tiền đường, nhà tổ, gác hương, nghi môn…ngôi chùa đã dần được khôi phục và mở rộng, đúc tượng Di Lặc nặng 1000kg bằng đồng. Đến đời sư tổ thứ 5 là Thích Chiếu Thường trụ trì đã xây dựng hoàn chỉnh ngôi chùa 125 gian. Hoà thượng là người có pháp tăng quảng đại, có nhỡn thông cao cường, một đêm nhìn thấy một bóng nữ nhân nhưng không có hình từ phía hang động vào chùa ăn mày cửa Phật. Sư tổ liền sai tiểu sang cúng chúng sinh rồi bí mật rình ở phía sau, bỗng cửa hang lộ ra những chiếc chĩnh. Nhà sư chỉ kịp viết vội chữ Tam Bảo lên những chiếc chĩnh. Nữ nhân đó trở về thấy chữ nhà Phật nên không dám đóng cửa hang liền nộp lên nhầ chùa và xin ăn mày lộc Phật mãi mãi. Đó là những chiếc chĩnh vàng của bọn giặc Minh. Chúng sang cướp nước ta, vơ vét của cải rồi tìm thầy địa lí chọn đất xây mả để của và chôn theo một cô gái đẹp còn trinh để làm thần giữa của. Thời gian đã quá lâu, nữ thần giữa của không còn linh ứng nữa và chết biến thành con ma đói đêm đêm vào chùa để xin ăn. Sư tổ dùng những chĩnh vàng đó để xây dựng chùa, hoàn thành những ván in sách và lưu hành những bộ kinh: Kinh Di Đà, kinh Dược Sư, kinh A Hàm, kinh Bảo Huấn, kinh Hộ Pháp, kinh Nhật Tụng. Lúc đó chùa là một trong số ít những ngôi chùa lớn trong nước và trở thành trường Bắc Kỳ Phật Giáo, là nơi tùng lâm chốn tổ, giáo dục tăng ni trong 3 tháng hè gọi là trường Hạ. Đến năm 1947 do chủ trương tiêu thổ kháng chiến, chùa lại bị phá một lần nữa. Sau ngày hoà bình lập lại vào năm 1957 tăng ni phật tử và nhân dân trong vùng đã sửa chữa và tôn tạo di tích, từng bước khôi phục lại diện mạo và không gian chùa. Hiện nay trong chùa vẫn còn lưu giữa nhiều di vật quý đặc biệt là những di vật có niên đại từ thời Lý. Do lịch sử và ảnh hưởng của ngôi chùa này đối với đời sống tôn giáo không chỉ với nhân dân trong vùng mà còn cả các bà con của khu vực lân cận, ngày 10-4-1992 Bộ Văn hoá thông tin đã có quyết định 519/CP công nhận chùa Long Đọi Sơn là di tích lịch sử văn hoá quốc gia cần được bảo vệ và tôn tạo. Hiện nay, nhà nước đã cấp kinh phí cho chùa xây dựng đúng 125 gian nhằm khôi phục diện mạo vốn có xưa kia của nó. Hiện nay, với những gì đã và đang có, Chùa Long Đọi Sơn không chỉ là niềm tự hào của người dân Đọi Sơn mà cả vùng trấn Sơn Nam xưa (Hà Nam ngày nay). 3.Kiến trúc và quy mô của chùa Long Đọi Sơn. Trải qua thăng trầm của lịch sử, kiến trúc và quy mô của chùa Long Đọi Sơn hiện nay đã biến đổi nhiều so với nguyên thuỷ của nó. Qua bài văn trên tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh còn lại ta có thể thấy được quy mô to lớn và kiến trúc của chùa Long Đọi Sơn lúc ban đầu: “Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng mặt sông như lụa biếc dải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sóng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông tới luỹ Càn Hưng, bên tả men theo sông nhỏ quanh Hán Thuỷ để ra khơi …chuyển gỗ rừng hết sức thần kì, sai thợ mộc giỏi để trổ tài khéo léo. Lấy đá Mân làm đấu, dùng đá Vũ dựng hiên, xây 13 tầng chọc trời, 40 của hứng gió. Vách chạm rồng ổ, chùa treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá lị, toả tường quang cho đời thịnh sau này, đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia 8 tướng khôi ngô đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm, chính giữa đặt tượng Đà Bảo Như Lai… treo phướn vàng rực rỡ, cám lọng tía long lanh. Sân thềm có bậc, lang vũ hai bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ giác, ngậm hai mân trấn đất, đội 8 tướng chầu trời….Bên hữu chùa dựng nhà khám nhọn vuông… tầng dưới xây đài lăng Hán, treo đỉnh khí Thú Sơn, buộc chày kình Bích Hải… xây tường bảo vệ, dựng hiên phô trương, bắc cầu mở rộng đường thông, trồng bách thành hàng hai dãy…” Ngôi chùa đã bị phá huỷ và xây dựng lại nhiều lần nên không còn giữ được nhiều kiến trúc như ban đầu. Trước năm 1945 chùa được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc với hơn 100 gian bao gồm một chùa chính với nhà bái đường, thiên hương và thượng điện. Hai bên có hai dãy hành làng thờ 18 vị La Hán. Từ ngõ chùa vào có hai dãy nhà đắp sự tích Thập điện, phía sau là nhà tổ, nhà khách. Trước của chùa có một nhà bia trong đó có lưu giữ tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh. Ngôi chùa Đọi đã từ lâu được viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp liệt vào hạng các cổ tích danh thắng cần bảo vệ. Sau quá trình bị tàn phá chùa được xây dựng lại, kiến trúc không gian chùa có bị xê dịch. Chính diện chùa vẫn quay về hướng nam. Hình ảnh đầu tiên mà ta nhìn thấy khi lên chùa là toà Tam Quan 5 gian mới được xây dựng năm 2004 mang phong cách triều Nguyễn với kiểu kiến trúc chồng diêm 8 mái hoàn toàn làm bằng gỗ lim. Tiếp sau là một bàn cờ người rộng 50m2 dùng làm nơi đấu cờ khi mở hội. Phía trên bàn cờ hai bên là hai cổng của Tam quan cũ, ở giữa trước đây là toà Tam quan nhưng sau này nó là nhà bia theo kiểu kiến trúc chồng diêm 8 mái. Phía trên nhà bia, leo qua 24 bậc đá tới sân chùa thoáng tĩnh đặt tượng đài Quan Âm. Hai bên sân chùa dọc theo hành lang là hai dãy nhà đồng tội đắp cảnh Thập điện Diêm Vương với thế giới của 10 cửa ngục như nhắc nhở con người ta luôn làm điều thiện, tránh điều ác để không bị rơi vào thế giới địa ngục khủng khiếp đó sau khi đã sang thế giới bên kia. Lại mấy bậc đá nữa là dẫn chúng ta đến ngôi chùa chính. Đầu tiên là toà Tam Bảo gồm 7 gian bái đường và 3 gian thượng điện thờ các vị Đức Phật, đức Di Lặc,và đức Hộ Pháp theo một trật tự quy định của nhà Phật. Hệ thống vì kèo của ngôi chùa được làm theo kiểu chồng đấu giá chiêng, chân cột kê đá cổ bồng, cột được làm bằng gỗ lim và đá. Cửa chùa cũng được lắp hoàn toàn bằng gỗ lim. Phía sau toà Tam bảo là hai dãy hành lang song song thờ tượng Thập bát La Hán với 18 tư thế và sắc thái khác nhau thể hiện những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống đời thường một cách sinh động. Sau chùa chính và trước cửa nhà hậu điện trước đây là vườn hoa nay là một hố sâu chừng 2m nơi đoàn khảo cổ đào thám sát để xác định móng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Hậu điện nối thông với hành lang hai dãy nhà thờ các vị La Hán theo kiểu chữ U. Hậu điện thờ Đức Thánh Ông (vua Lý Nhân Tông), Quận công Lý Thường Kiệt cùng ngồi chung trên ban Đức Thánh. Tiếp đó theo về hướng Đông là nơi thờ tượng Nam Hải bồ tát nghìn tay nghìn mắt, Quan Âm Tống Tử, Vương phi Ỷ Lan, Đức Át Nan, Đức Địa Tạng và một số bia hậu của những nhà cúng tiền của để xây dựng chùa. Bên trái chùa song song với thượng điện là 5 gian nhà tổ nơi thờ 10 đời sư tổ, 1 thượng toạ, một sư cụ, một sư thầy đã viên tịch nơi đây. Nhà tổ được xây dựng có cột bằng đá vuông, có tường gạch và lợp ngói ta. Đồng thời nhà tổ cũng là khu giảng đường nơi các sư sãi học tập. Đối diện với nhà tổ là nhà khách là nơi tiếp khách thập phương về lễ chùa. Nhà tổ, nhà khách, thiền chủ, tăng phòng… là một quần thể kiến trúc theo hình chữ U. Phía Tây cùng nơi dốc thoải của núi là khu vườn tháp đặt lăng mộ của nhiều nhà sư trụ trì cũng như tăng ni nơi đây. Bên phải chùa là một am phủ 3 gian thờ mẫu Liễu Hạnh (Mẫu nhân gian). Đây cũng là nơi thường xuyên tổ chức hầu bóng của nhân dân và khách thập phương về đây lễ Phật, cầu xin Mẫu phù hộ và che chở. Với hệ thống thờ tự như vậy chùa Đọi Sơn mang đậm nét kiến trúc của chùa Việt Nam truyền thống là kiểu kiến trúc không gian tiền Phật hậu Thánh. Từ truyền thống đến hiện đại chùa Long Đọi Sơn đã bao đổi thay. Ngày nay mặc dù ngôi chùa không còn giữ nhiều nét kiến trúc cổ độc đáo nhưng đây vẫn là ngôi chùa lớn, là ngôi trường Bắc Kì Phật Giáo với cảnh sách thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện, sinh hoạt văn hoá phong phú trong ngày lễ hội được tổ chức hàng năm vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch hàng năm như một lời mời thân thiện và lôi cuốn khác thập phương về đây tham dự lễ hội cầu Phật phù hộ và thăm quan thắng cảnh sông núi nơi đây. 4. Những di tích và di vật quý ở chùa Long Đọi Sơn. Chùa Đọi không chỉ là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng của trấn Sơn Nam thượng đã làm nức lòng tao nhân mặc khách nhiều thế kỷ khi du ngoạn nơi đây mà còn là ngôi chùa cổ kính đó còn lưu giữ nhiều dấu ấn lịch sử có chỗ đã minh bạch nhưng có chỗ vẫn là điều bí ẩn. Hiện nay tại ngôi chùa và khu vực xung quanh còn lưu giữa được nhiều dấu tích lịch sử và văn hoá. 4.1. Những chiếc giếng cổ. Theo truyền thuyết thì núi Đọi là một trái núi thiêng được nâng lên bởi 9 con rồng (cửu long). Từ 9 con mắt rồng đó có 9 cái giếng ở xung quanh núi Đọi bắt nguồn từ một cái hang lớn gọi là Hàm Rồng (cửu tỉnh). Trên thực tế thì xung quanh núi Đọi hiện nay rải rác có 9 chiếc giếng nước cổ xếp hoàn toàn bằng đá. Những chiếc giếng này khá rộng đường kính trung bình độ 3m không sâu lắm nhưng nước rất trong và quanh năm không bao giờ cạn dù thời tiết thế nào đi chăng nữa. Từ lâu nó là nơi cung cấp nước ăn cho người dân nơi đây và hiện nay họ vẫn dùng nước giếng này trong sinh hoạt hàng ngày. Qua thời gian 2 chiếc đã bị lấp đi và 7 chiếc còn lại đang được bảo vệ. Truyền thuyết về thế đất linh thiêng là vậy nhưng qua đây nó cũng biểu hiện rất rõ văn hoá truyền thống của làng người Việt với biểu tượng cây đa, giếng nước, sân đình.Với đặc thù địa hình nên những chiếc giếng này được hoàn toàn xếp bằng đá chứ không phải là xây bằng gạch như thường thấy ở các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. 4.2. Di tích ruộng Tịch Điền. Đọi Sơn được coi là thế đất phát tích đế vương. Nơi đây, ngay trong những buổi đầu độc lập, vua Lê Đại Hành đã cày ruộng tịch điền ở chân núi Đọi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Đinh Hợi/Thiên Phúc năm thứ 8, mùa xuân, vua lần đầu tiên đi cày ruộng tịch điền ở chân núi Đọi được một hũ nhỏ vàng, lại cày ở núi Ban Hải được một hũ nhỏ bạc nhân đó đặt tên là ruộng kim ngân”. Đây là ông vua đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam đi cày ruộng tịch điền để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Trong đền vua Lê ở Hoa Lư-Ninh Bình còn giữ được câu đối ca ngợi Lê Hoàn cày ruộng: Thuỵ vân, cam vũ thiên hữu ngưỡng Tạc tỉnh, canh điền đế lực chi. Nghĩa là: Mây lành mưa ngọt ơn tiên đế, Đào giếng, cày ruộng sức của vua. Hiện nay khu ruộng tịch điền này vẫn còn dấu tích, nhân dân trong vùng quen gọi là ruộng làng Lê chạy dài suốt từ đình làng Đọi Tam đến chân núi Đọi Nhất. Giữa khu ruộng rộng còn dấu vết của một nền nhà vuông vắn rộng 6 sào cao hơn các ruộng xung quanh 30cm gọi là nhà hiến nơi dâng của ngon vật lạ của nhân dân trong vùng khi vua đến đây cày ruộng. Cách nhà Hiến 200m về phía Đông Nam còn có dấu vết của một nền nhà vuông vắn nữa rộng độ 3 mẫu cao hơn xung quanh 40cm mà nhân dân quen gọi là Dinh ngoài. Cách Dinh ngoài 50m về phía Đông là Dinh trong nằm sát chân núi cũng rộng khoảng 3 mẫu. Giữa Dinh ngoài và Dinh trong có một nơi gọi là Tàu ngựa nơi nhốt ngựa của nhà vua. 4.3. Các di vật thời Lý. Chùa Đọi là một ngôi chùa mang đậm dấu ấn của vương tôn triều Lý trong quá trình xây dựng và hiện nay nó còn lưu giữ rất nhiều di vật quý từ thời Lý để lại. *. Bia đá Sùng Thiện Diên Linh. Hiện nay trong nhà bia của chùa còn lưu giữ một tấm bia đá lớn khắc bài văn nhân dịp khánh thành cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh. Qua bài văn trên bia này chúng ta có thể biết được quy mô và phong cách kiến trúc của ngôi chùa và cây bảo tháp 13 tầng đó. Tấm bia hình chữ nhật cao 2,88m, rộng 1,80m, dày 0,50m hai mặt kín chữ. Mặt trước là bài văn bia do Nguyễn Công Bật soạn, mặt sau là những bút tích hậu thế khắc thêm vào. Đây là tấm bia rất đẹp. Trán, diềm và cạnh bia đều lấy hình rồng làm đối tượng trang trí. Những con rồng ở đây tuy kích thước và bố cục có khác nhau nhưng đó là một sự kết hợp hài hoà đến từng chi tiết tạo ra sự thống nhất và linh hoạt. Hai diềm bia hai bên có khắc hình rồng chạy nối tiếp nhau. Ở trán tấm bia lớn này có khắc hình hai con rồng chầu vào giữa nhưng không phải là chầu vào hình mặt trăng như thường thấy mà là hai con rồng chầu vào dòng chữ khắc nổi trên bia đề: “ĐẠI VIỆT QUỐC ĐƯƠNG GIA ĐỆ TỨ, SÙNG THIỆN DIÊN LINH THÁP BI”. Bệ bia là một khối đá lớn hình chữ nhật dài 2m40, rộng 1m50, cao 50cm được chia làm hai phần: Một phần nằm tiếp xúc với đất là khối đá vuông, phần trên chạm khắc sóng nước. Sóng nước có 2 lớp, lớp trên cao, lớp dưới thấp. Tấm bia chia bệ làm 2 phần mỗi phần đều chạm một đôi rồng nước đang quấn lấy nhau. Mỗi con rồng có 4 chân, đầu rồng có bờm. Rồng ở đây được đôi bàn tay khéo léo của người thợ đá chạm trổ một cách tinh xảo và sinh động. Hình tượng rồng đội bia (4 con) thay cho rùa đội bia là một hình tượng độc đáo chỉ nơi đây mới có. Nó vừa thể hiện thế đất thiêng của ngôi chùa này vừa thể hiện tín ngưỡng trong nghi lễ nông nghiệp của vùng trấn Sơn Nam quanh năm ngập úng. Rồng ở đây là những con rồng nước, là chúa tể trấn ngự cửa Tuần Vường. Tục thờ rồng ở đây mang ý nghĩa cầu mong cho vùng này tránh đựoc lũ lụt, mùa màng tươi tốt, nhân dân yên ổn làm ăn sinh sống. * Tượng Kim Cương. Di vật từ thời nhà Lý còn để lại đến ngày nay nhiều nhất là những pho tượng Kim Cương. Hiện nay tại chùa còn có 6 pho tượng Kim Cương được tạc bằng đá tảng trong đó có những pho bị mất đầu, gẫy chân hay bị hư hại một số bộ phận được đắp lại bằng xi măng. Theo Phật học thì tượng Kim Cương bao giờ cũng có 8 vị. Đó là những thần tướng nhà trời đi hộ vệ Đức Phật gọi là Bát vị Kim Cương. Trong bài văn trên tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh có ghi rõ: “Tầng dưới chia 8 tướng khôi ngô, đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm”. Từ đây ta có thể biết rằng 8 pho tượng này lúc đầu được đặt quanh ngôi bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh. Trong di tích thời Lý để lại thì số tượng Kim Cương ở đây nhiều nhất và hoàn chỉnh nhất. Các pho tượng Kim Cương ở chùa Đọi có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thật. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan có lá chắn che trước ngực, áo giáp được trang trí tỉ mỉ bằng những hình hoa, hình xoắn. Trên toàn thân còn được trang trí những bông hoa nhỏ nhiều cánh mà chúng ta rất hay gặp trong hoa văn thời Lý. Tại cán gươm có trang trí hoa văn hình hoa cúc dây. Tượng tạc nổi theo kiểu phù điêu về phía trước còn phía sau lưng ẩn luôn vào tảng đá. Tượng đứng thẳng, hai chân dạng ra theo thế đứng vững chãi của một người lính, hai tay khuỳnh ra cầm gươm chống trước bụng. Đầu đội mũ, bộ mặt được diễn tả tròn trịa, nhẹ nhõm như những con người bình thường chứ không phải là một khuôn mặt dữ tợn, mắt xếch, môi mím chặt, gò má cao như những tượng võ tướng thời xưa mà ta thường gặp trong các di tích cổ. Qua 6 pho tượng Kim Cương này chúng ta biết thêm nhiều về trang phục, con người và phong cách nghệ thuật thời Lý. Đó là sự giao hoà giữ con người và con người, con người với thiên nhiên trong một xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Đồng thời đó cũng là bộ phận không thể thiếu được, càng tôn lên vẻ đẹp uy nghiêm, hùng vĩ của cây tháp chọc trời cao 13 tầng Sùng Thiện Diên Linh. Hiện nay cây bảo tháp không còn nữa nên 6 pho tượng này được đặt ở trong hai dãy nhà Đồng tội để du khách có thể tham quan và chiêm ngưỡng một cách thuận tiện. * Tượng đầu người mình chim. Trong số di vật điêu khắc bằng đá được phát hiện ở chùa Đọi có 4 pho tượng đầu người mình chim mang hình tượng thần thoại nghệ thuật Ân Độ-ChămPa gọi là tượng chim thần Kinari, hai pho tượng đã bị mất chỉ còn lại 2 tiêu bản. Tượng được tạc từ đá ráp cao 40cm rộng 30cm hình thành nên một pho tượng nửa trên là người, nửa dưới là chim mà ngón chân và đuôi nhiều lông được thể hiện rất rõ. Trên đầu tượng tóc tết thành hình cầu, vắt ngang trán là một chiếc khăn rủ xuống ngang vai. Trên hai cánh chim là những đường cong khắc chìm vòng quanh vành ngoài, bên trong có những đường xoáy trôn ốc được cách điệu thành hình hoa lá chạm nổi, hai tay đang đánh não hạt ở phía đằng trước ngực. Phong cách nghệ thuật của tượng mang nhiều yếu tố hiện thực.Vẻ mặt trầm tư vừa có vẻ đẹp dịu dàng vừa rạng rỡ, đôi lông mày dài, cặp mắt hơi xếch, môi thoáng có nụ cười, bộ tóc búi gọn tạo thành một búi tóc rất đẹp trên đỉnh đầu. Toàn bộ pho tượng thần thoại này được thể hiện khá công phu, độc đáo, kì dị nhưng rất thoải mái. Đây là loại tượng có vai trò làm vật trang trí trên các đầu cột thường gặp trong kiến trúc triều Lý mang dáng dấp là một nhạc công. Đó là một tác phẩm thể hiện sự giao thoa văn hoá giữa nền kiến trúc điêu khắc cổ Đông Sơn và kiến trúc, nghệ thuật Chămpa. 4.4. Pho tượng Di Lặc bằng đồng Chùa Đọi Sơn trước đây có nhiều pho tượng Phật nhưng do chiến tranh và thời gian phá huỷ nhiều nên đến nay không còn lại là bao nhiêu. Hiện nay chùa còn một pho tượng Di Lặc bằng đồng được đúc vào năm 1864. Toàn bộ pho tượng được đặt ở tư thế ngồi thoải mái, chân phải chống lên, chân trái xếp vào lòng, áo mặc nhưng chỉ xỏ vừa hai ống tay và để hở cả ngực và bụng. Đây là một người to béo bệ vệ thể hiện sự no đủ vui tươi của thế giới trần tục. Tượng Di Lặc là biểu tượng cho một tương lai tươi sáng. Thành công của pho tượng này là thể hiện được một cách sinh động ý đồ tư tưởng qua hình tượng nghệ thuật. Đó cũng là một nét đặc trưng của Phật giáo Việt Nam là tôn giáo nhập thế và có sự dung điệu với tín ngưỡng dân gian bản địa. Ngoài ra, khu phía tây chùa còn có khu vườn tháp gồm hơn 200 ngôi mộ của các vị sư tổ, tăng ni đã viên tịch tại đây. Có lẽ đây là quần thể kiến trúc ít bị phá huỷ nhất trong chiến tranh và còn giữ nguyên được kiến trúc xây dựng qua các triều đại đặc biệt là kiến trúc mộ tháp dưới triều Nguyễn. Tất cả mọi ngôi mộ đều quay về hướng Tây-nơi Tây Phương cực lạc và cũng là nơi các nhà tu hành gửi linh hồn mình sau khi siêu thoát cuộc đời trần tục. Đây là nơi đáng để tham quan khi du khách đã về đến chùa Đọi. Ngoài những di vật và những di tích kể trên, chùa Đọi còn lưu giữ nhiều di vật quý như: những mảnh gốm trang trí hình vũ nữ đang múa hay khắc trọn hình một con rồng có từ thời Lý, một chiếc chuông cổ và một chiếc khánh cổ được treo dưới nhà tổ hay nhưng chiếc lư hương bằng đồng chạm nổi lưỡng long chầu nguyệt, hệ thống tượng thập bát La Hán, tượng Phật, tượng Thánh rất phong phú và đa dạng trong tiền đường và hậu điện có cả tượng mới và cũ. 5. Những nhân vật được thờ tự trong chùa Long Đọi Sơn. Việt Nam không phải là quê hương của bất kì một tôn giáo lớn nào nhưng lại là nơi tiếp thu và dung hoà nhiều tôn giáo lớn trên thế giới với tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên một màu sắc tôn giáo độc đáo và đa dạng.Do vậy, một hiện tượng thường thấy là trong bất cứ một ngôi chùa nào đó ở miền Bắc Việt Nam hiện nay không đơn thuần chỉ thờ Phật mà bên cạnh đó còn có phủ thờ Mẫu, ban thờ Đức Thánh, Đức Hoàng Hậu. Chùa Long Đọi Sơn cũng là một ngôi chùa như vậy. Ngay từ thời nhà Lý nơi đây đã được coi là nơi tùng lâm chốn tổ, nơi đất Phật nên trong chùa là thờ tượng Phật là chủ yếu. Đây là nơi ngự thiền của các vị Bồ Tát, Đức Phật Di Lặc, các vị La Hán và Hộ pháp trong các gian chùa chính. Tuy nhiên, trong hậu điện của chùa có thờ nhị vị đức chúa (Lý Thường Kiệt, Lý Nhân Tông), Nguyên phi Ỷ Lan, phía phải ngôi chùa còn có phủ để thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, phía trái là nhà thờ tổ thờ 10 đời sư tổ đã trụ trì nơi đây. Nhị vị Đức Chúa là Lý Thường Kiệt-một danh tướng nhà Lý đã có công lớn trong các cuộc phá Tống bình Chiêm năm xưa và đựơc nhân dân tôn là vị anh hùng dân tộc. Đây là nhân vật có tầm quan trọng lớn đối với sự tồn vong của đất nước cũng như triều Lý trong buổi đầu độc lập. Nhớ ơn to lớn đó, triều Lý cùng nhân dân nhiều nơi đắp tượng thờ vọng ông-một vị công thần khai quốc. Do vậy khi nhà Lý cho xây dựng ngôi chùa này đã lập điện thờ ông. Bên cạnh tượng Lý Thường Kiệt là tượng vua Lý Nhân Tông ngồi song hành trên ban Đức Chúa. Đây là vị vua thứ 4 triều Lý con của vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan. Là một đấng minh quân, cả đời ông luôn chăm lo cho cuộc sống của muôn dân trăm họ nên trong thời gian trị vì của ông cũng là lúc Đại Việt triều Lý thanh bình thịnh vượng. Công đức của ông đã được Lê Quý Đôn ca ngợi “Xứng đáng là vị anh quân đời Lý”. Là một vị vua tôn sùng đạo Phật trong thời gian trị vì ông đã cho xây dựng chùa tháp ở khắp nơi như xây chùa Diên Hựu (Hà Nội), tháp Vạn Phong Thành Thiên ở núi Chương Sơn (Ý Yên- Nam Định), Chùa Phật Tích ở núi Lạn Kha (Tiên Sơn-Bắc Ninh)... Chính ông là người cho mở mang chùa Long Đọi Sơn, xây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh với mong muốn cầu mãi điều thiện, kéo dài tuổi thọ và phúc lộc cho muôn dân. Từ đó vị thế của ngôi chùa được khẳng định, nhân dân trong vùng và khách thập phương về đây lễ Phật quanh năm. Trong hậu điện có thờ Thái hậu Phù Thánh Linh Nhân (Vương phi Ỷ Lan). Đây là một vị hoàng hậu được sử sách ca ngợi rất nhiều công lao to lớn của bà trong nội trị trên vai trò nhiếp chính thay cho vua Lý Thánh Tông đang đi dẹp loạn ở phương Nam. Trong thời gian bà thay quyền chồng, nội bộ triều Lý được yên ổn, đoàn kết, đời sống nhân dân được chăm lo, mùa màng tươi tốt, nhân dân hưởng thái bình. Đây cũng là một động lực rất lớn cho vua Lý Thánh Tông quyết tâm dẹp yên loạn giặc phương Nam khải hoàn trở về cho xứng đáng với công lao của bà. Bà là mẹ của vua Lý Nhân Tông và là một người rất tôn sùng đạo Phật. Trong cuộc đời bà đã cho xây dựng chùa tháp trên một trăm nơi trong đó có chùa Long Đọi Sơn. Tuy là người phụ nữ tài đức nhưng trong vai trò người nhiếp chính khi đất nước đang loạn lạc, bà đã không tránh khỏi một số sai lầm. Tương truyền Thái hậu hối hận việc Dương thái hậu và nhiều cung nữ khác vô tội mà bị giết nên bà đã xây nhiều chùa để sám hối và giải oan. Tuy vậy, điều đó cũng không làm giảm đi công lao của bà đối với đất nước. Bà đã cúng vào chùa Đọi 72 mẫu ruộng thờ tự được ghi rất rõ ở mặt sau của tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh. Với công lao với đất nước, đối với nhân dân và với chùa Long Đọi Sơn, nhân dân nơi đây đã thờ phụng bà ngay trong hậu cung của nhà chùa quanh năm hương khói. Ngoài Đức Phật, Đức Chúa, Đức Hoàng Hậu thì chùa Long Đọi Sơn còn thờ nhiều danh nhân đất nước. Đó vừa là biểu hiện của bức tranh tôn giáo đa dạng nơi đây(Nho-Phật-Đạo) vừa thể hiện đạo lí Uống nước nhớ nguồn của dân tộc như một thành tố quan trọng hình thành nên bản sắc văn hoá và sức mạnh khối đoàn kết dân tộc của nhân dân nơi đây. Tiểu kết Trên đây là những nét tổng quan về Đọi Sơn và di tích chùa Đọi. Đó là môi trường hình thành nên lễ hội chùa Long Đọi Sơn.Trong môi trường ấy con người nơi đây đã xây dựng cho mình một sắc thái văn hoá mang đặc trưng của vùng đồng trũng. Thiên nhiên ưu đãi nơi đây nhiều cảnh đẹp nhưng cũng đem lại không ít khó khăn cho cuộc sống con người với nạn lụt lội luôn thường trực. Thế ứng sử của con người với tự nhiên và con người với con người đã tạo nên một phong cách riêng biệt của người dân nơi đây. Tìm hiểu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi ta hiểu được văn hoá và đời sống tâm linh của người dân vùng này. Mặt khác, chùa Đọi không chỉ là một trung tâm sinh hoạt tôn giáo tâm linh của nhân dân vùng này mà còn là một ngôi chùa cổ lưu giữ rất nhiều di vật cổ quý giá lại toạ lạc trong một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Đến với chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi, chúng ta không chỉ để lễ Phật cầu may mà còn được chiêm ngưỡng những di vật của ông cha để lại, đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên nơi cửa Phật tìm lại giây phút thanh thản trong cuộc sống. Điều đó làm cho chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi mang một giá trị nhân văn sâu sắc. CHƯƠNG II LỄ HỘI CHÙA ĐỌI Chùa Đọi là một ngôi chùa dựng trên núi Đọi. Núi lấy tên chùa, chùa lấy vẻ đẹp của núi. Đây là một ngôi chùa đã xuất hiện có lẽ ngay từ buổi đầu khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Trong lịch sử tồn tại chùa đã lưu giữ dấu ấn của nhiều thế hệ các cao tăng và những người xây dựng nên ngôi chùa này. Lễ hội chùa Đọi bắt đầu tổ chức vào năm 1840 mà có thể trước đó nó cũng được tổ chức vào một ngày nào đó nhưng quy mô nhỏ hơn. Đây là lễ hội ngoài việc tham quan vãn cảnh và lễ Phật ra thì còn là dịp tưởng nhớ ngày mất của Hoà thượng Thích Chiếu Thường Nhục Thân Bồ Tát - người có công lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển chùa vào ngày 21-3 âm lịch. Hoà thượng Thích Chiếu Thường sinh năm 1765 mất năm 1840 quê ở Đọi Lĩnh-Đọi Sơn-Duy Tiên-Hà Nam. Là một vị chân tu đức cao vọng trọng nên một lúc hoà thượng trụ trì tại 3 chùa: chùa Thọ ở Thường Tín (Hà Tây), chùa Đa Bảo ở Phú Xuyên (Hà Tây) nhưng nơi chính vẫn là chùa Đọi ở Đọi Sơn (Duy Tiên-Hà Nam). Sách nhà Phật có ghi “ Vị chân tu đạo cao đức trọng này đã có lần vào trong Thanh Hoá cầu nguyện cho mẹ vua (Quốc Mẫu) khỏi được bệnh khi ra về được vua ban cho một đôi đũa Kim giao và một chén ngọc (hiện vật này bị mất vào năm 1947 do chủ trương tiêu thổ kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta) I. CHUẨN BỊ LỄ HỘI Chùa Đọi là trung tâm hoạt động văn hoá tâm linh của cả vùng xứ Nam chứ không riêng của nhân dân Đọi Sơn. Mặc dù xã Đọi Sơn có 2 ngôi chùa nhưng cơ sở tâm linh thờ Phật của nhân dân trong vùng chủ yếu là tại ngôi chùa trên núi Đọi (còn gọi là chùa Thượng). Do vậy, hàng năm gần đến tháng 3 âm lịch, nhân dân cả 6 làng thuộc xã Đọi Sơn nô nức chuẩn bị lễ hội. Từ lâu chùa và lễ hội chùa Long Đọi Sơn không chỉ là lễ hội của nhân dân Đọi Sơn mà nó đã vượt khỏi không gian đó trở thành một lễ hội vùng và là một lễ hội lớn của đất nước. Với vai trò, vị trí và quy mô của ngôi chùa và lễ hội truyền thống nơi đây, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Sở VH-TT tỉnh Hà Nam, phòng Văn hoá-Thể thao huyện Duy Tiên đã kết hợp với UBND xã Đọi Sơn và nhân dân trong vùng chuẩn bị tổ chức lễ hội chùa Đọi một cách cẩn thận và chu đáo với quy mô phù hợp với vị thế của nó. Đó không chỉ đơn thuần là lòng thành kính của nhân dân dâng lên thần linh cầu mong được sự che chở trong cuộc sống mà còn là nơi thể hiện “bộ mặt” của người dân nơi đây trước đông đảo nhân dân khắp nơi về đây lễ Phật, thể hiện thịnh tình chu đáo và lòng mến khách của người Đọi Sơn. Đó cũng là phẩm chất cao quý trong truyền thống văn hoá của người dân nơi đây. Để lễ hội diễn ra một cách thuận lợi và tốt đẹp thể hiện bản sắc văn hoá của con người nơi đây, các cấp chính quyền, các ban, ngành cùng nhân dân trong vùng đã xây dựng kế hoạch và chương trình lễ hội từ 2-3 tháng trước đó. Phòng Văn hoá-Thể thao huyện Duy Tiên kết hợp với Ban tuyên giáo Huyện uỷ đề ra kể hoạch tổ chức lễ hội và xã Đọi Sơn là nơi triển khai kế hoạch đó. UBND xã đã cùng nhà chùa (trụ trì chùa hiện nay là Đại đức Thích Thanh Vũ) có lời mời tới các đội rồng, đội trống, đội sư tử, đội bát âm, đội kiệu, đội dâng hương, đội tế nam quan và nữ quan của 6 thôn Đọi trong xã cùng nhân dân tổ chức buổi rước từ sân uỷ ban xã lên chùa làm lễ dâng hương khai hội diễn ra vào sáng 19-3 âm lịch tại sân Tam Bảo. Gần đến ngày lễ hội không khí ở Đọi Sơn bỗng bận rộn tấp nập hẳn lên. Tại UBND xã các đồng chí cán bộ xã đang hoàn thành nốt công tác chuẩn bị mọi mặt cho lễ hội như: công tác an ninh trật tự, treo băng dôn, khẩu hiệu chào mừng trên những ngả đường du khách thập phương về dự lễ hội; quy hoạch những khu dịch vụ phục vụ người dân về dự lễ hội sao cho đáp ứng được nhu cầu mà không làm ảnh hưởng đến không gian linh thiêng của lễ hội; chuẩn bị nơi đón quan khách các cấp cùng tín đồ và khách thập phương về dự. Còn tại sân đình làng của các thôn các đội rồng, đội trống, đội tế…tổ chức những buổi luyện tập vào chiều tối nội dung của lễ dâng hương làm sao cho bài bản và đẹp nhất để khi vào lễ hội họ không còn bỡ ngỡ và thể hiện một màn lễ hội hoàn hảo trước thần linh, trước quan khách và khách thập phương về dự lễ hội. Còn ở chùa trên núi cao-nơi mà ngày thường rất thanh tĩnh cũng có phần tấp nập. Các nhà sư, các chú tiểu, bà vãi ai nấy mỗi người một việc chuẩn bị hoàn tất công việc cho lễ hội và đón khách thập phương về đây lễ Phật vì lúc này đã có nhiều tín đồ nơi xa về lễ Phật trước hội vài ngày. Những ngày cận hội, nhà chùa nhờ các già ở các thôn Đọi và con hương đệ tử đến giúp nhà chùa chuẩn bị lễ vật dâng lên Đức Phật, dọn dẹp, cơm nước, chỗ ăn nghỉ cho các đoàn khách nơi xa về với lễ hội chùa. Trước ngày diễn ra lễ hội, tại chùa Long Đọi Sơn không diễn ra lễ “mộc dục”(lễ tắm tượng) như một số lễ hội khác mà lễ mộc dục ở đây được tổ chức trọng thể vào ngày Phật Đản mồng 8-4. Tuy nhiên cứ một tháng hai lần nhà chùa lại làm lễ bao tượng (lau bụi). Mặc dù không làm lễ mộc dục nhưng hoạt động bao tượng vẫn được diễn ra trước ngày cận lễ hội thể hiện sự thoát tục trần ai của nhà Phật. Sự chuẩn bị chu đáo của nhân dân và các cấp chính quyền cùng nhà chùa đã thể hiện vai trò to lớn của lễ hội này đối với người dân nơi đây và đó cũng là một yếu tố quan trọng làm nên thành công của lễ hội. II. DIỄN BIẾN LỄ HỘI CHÙA ĐỌI 1. Phần lễ Lễ hội chùa Đọi chính thức được khai mạc vào sáng 19-3 âm lịch và kéo dài đến hết ngày 21-3. Tuy nhiên ngay từ ngày rằm tháng 3 khách lễ thập phương và nhân dân trong vùng đã đến dây lễ Phật rất đông cầu mong đức Phật và các bậc thánh thần phù hộ độ trì cho bản thân, gia đình và bè bạn. Phần lớn trong những ngày này đi lễ chùa chủ yếu là các cụ già vì tuổi cao sức yếu các cụ rất ngại không khí đông người của ngày lễ hội. Cũng từ các ngày này trở đi các cơ sơ thờ tự như đình, chùa, miếu, mạo của các thôn trong xã Đọi Sơn đều mở cửa cho đến hết ngày tan hội để phục vụ nhân dân về lễ Thánh và cũng là lời mời các bậc thần linh bản thổ khác trong vùng cùng về tham dự lễ hội trên chùa Thượng. Thường thì khi mọi người về lễ Phật trên chùa họ đều đến lễ ở đền Đức Thánh Cả tại chân núi như một địa điểm không thể bỏ qua. Theo tâm linh của mọi người thì ngôi đền Thánh đó rất linh thiêng vì đó là thành hoàng làng của cả vùng. Lễ hội chùa Đọi không hoàn toàn là lễ hội của một tôn giáo nhất định là đạo Phật mà nó thể hiện sự dung hoà của đạo Phật với các tín ngưỡng dân gian bản địa của người dân nơi đây mà rõ nhất sự tồn tại của ban Đức Thánh và phủ Mẫu trong quần thể di tích của chùa. Văn hoá tín ngưỡng nơi đây rất phong phú và đa dạng thể hiện ở sự đa dạng lễ hội trong vùng. Dù là lễ hội chùa hay lễ hội đình diễn ra trên mảnh đất Đọi Sơn đều có nghi thức là những ngày trước khi diễn ra lễ hội nhân vật chủ trì đi mời tất cả các thần linh được thờ tự trong vùng cùng về dự lễ hội. Đó là một nét văn hoá đẹp thể hiện sự hoà hợp tôn giáo, sự giao hảo của các thần linh và ước vọng được sống trong hoà bình, đoàn kết của nhân dân Đọi Sơn. Đồng thời mặt khác nó cũng thể hiện đặc điểm tư tưởng mở và hoà đồng trong tôn giáo tín ngưỡng của người dân nơi đây. Trong những năm gần đây vào ngày 18-3 (trước ngày lễ hội chùa Đọi khai hội một hôm) tại đền Trình hay còn gọi là đền Cổ Bồng ở lưng chừng núi trên con đường lên chùa Đọi (đền này không thuộc quản lí của chùa Đọi mà là đền thờ thần bản thổ của thôn Đọi Nhất), nhân dân thôn Đọi Nhất tổ chức một buổi tế lễ khá quy mô. Ngôi đền này là một địa điểm mà khi về lễ hội chùa Đọi người đi lễ hay tham quan vãng cảnh không thể không qua và nó cũng là một phần trong khu quần thể di tích chùa Đọi. Hiện nay ngôi đền đó đang tu sửa lại nên chưa kịp đưa vào phục vụ lễ hội năm nay. Do đó buổi tế thường xuyên vào buổi chiều ngày 18-3 của dân làng Đọi Nhất tạm thời bị hoãn Sáng 18-3, để tưởng nhớ công đức của các đời sư tổ đã xây dựng và phát triển ngôi chùa này đặc biệt là sư tổ Thích Chiếu Thường, đoàn con hương Phật tử và đội tế nữ quan từ Nam Định đã kết hợp cùng nhà chùa và nhân dân nơi đây tổ chức một buổi tế lễ tại nhà tổ. Buổi tế này được tổ chức rất long trọng và quy củ như trình tự của buổi tế lễ truyền thống khác. Đây là lòng thành kính của các tín đồ phật tử khắp nơi dâng lên Đức Phật và các vị sư tổ đã xây dựng chùa đồng thời cũng là dịp họ gửi lời cầu mong thần Phật che chở và phù hộ trong cuộc sống, giúp họ thực hiện những ước mơ khát vọng hoặc tìm ra con đường siêu thoát ngay trong cuộc đời trần tục để hành đạo và sống theo triết lí cao đẹp của nhà Phật, giáo dục bản thân và xây nhân quả đẹp cho thế hệ mai sau. Buổi tế lễ này có sự tham gia của nhà chùa và đông đảo nhân dân địa phương cũng như du khách thập phương về đây dự hội. Trong những ngày này nhân dân trong vùng nhiều người lên chùa lễ Phật khi lễ hội chưa khai mạc, đồng thời dưới phủ Mẫu trong ngày 18-3 nhiều đồng cô, đồng cậu khắp nơi đã tổ chức hầu bóng cả ngày. Ngày 19-3 lễ hội bắt đầu khai mạc. Sáng sớm tinh mơ từ các nẻo đường dòng người tấp nập về chùa Đọi để dâng hương lễ Phật và tham gia vào lễ khai mạc hội chùa. Đứng trên núi cao nơi có ngôi chùa Long Đọi nhìn xuống ta thấy được cảnh dòng người tấp nập trên 9 con đuờng từ 4 hướng đổ về chùa Đọi. Nhân dân, du khách cùng tín đồ Phật tử các nơi nô nức về đây khi vệt cỏ ven lối lên chùa vẫn còn ướt đẫm sương đêm. Người về dự lễ hội chùa Đọi đủ già trẻ gái trai, đủ các loại phương tiện giao thông, đủ các thành phần xã hội trong không khí sôi động của ngày hội. Không khí lễ hội linh thiêng nhưng lại rất thân mật và hoà đồng giữ những con người làm cho họ thân thiện và gần nhau hơn mặc dù có thể họ là những người xa lạ. Còn tại các ngả đường từ các thôn trong xã Đọi Sơn các đội rồng, đội trống, đội sư tử, đội tế, đội bát âm và đoàn dâng hương cùng nhân dân trang phục đủ màu sắc xuất phát từ các đình làng của 6 thôn Đọi trống dong cờ mở hướng về trụ sở UBND xã là điểm xuất phát của lễ dâng hương lên chùa Long Đọi. Không khí rộn rã của lễ hội bao trùm một không gian rộng lớn mà tâm quy tụ là ngôi chùa trên núi Đọi Sơn Khoảng 7h30’ sáng các đội trong đội hình dâng hương từ các thôn đã tề tựu đông đủ tại sân UBND xã Đọi Sơn. Đội rồng, đội sư tử và kì lân biểu diễn những màn múa để cổ động chào mừng lễ hội. Một con rồng dài (được 10 người thôn Đọi Tín đảm nhiệm) múa lượn trong sân cùng với hai con sư tử (của thôn Đọi Nhì và Đọi Lĩnh) trình diễn những điệu múa đẹp mắt, hai con mèo làm trò chạy lăng xăng xung quanh. Đội trống của làng Đọi Tam cũng cổ động không kém phần nhiệt tình với tiếng trống rộn rã của ngày hội.Thêm vào đó là 3 người đàn ông ăn mặc giả gái trang điểm loè loẹt, uốn éo làm trò “con đĩ đánh bồng” cũng tham gia góp vui làm cho trẻ con cười thích chí, người lớn thì trầm trồ thán phục những màn cổ động đẹp mắt của đội rồng, đội sư tử và kì lân. Múa rồng, sư tử và kì lân là những chàng trai khoẻ mạnh và vui tính với trang phục truyền thống màu đỏ thắt đai vàng, đầu chít khăn đỏ cùng với màu đỏ của rồng và sư tử tạo nên màu sắc vui tươi của lễ hội. Tất cả đội hình dâng hương đều mặc trang phục truyền thống. Sự tham gia cổ động nhiệt tình của nhân dân địa phương như một màn chào mừng thân thiết du khách về với lễ hội chùa Đọi cũng là thể hiện văn hoá hiếu khách và thân thiện của con người nơi đây. Đúng 8h sáng 19-3 lễ dâng hương bắt đầu tiến hành xuất phát từ sân UBND xã Đọi Sơn. Tại đây, đội hình dâng hương đã tề tựu đông đủ. Một chiếc kiệu Long đình được chuẩn bị săn trên đó không phải là bát hương hay ngai thứ của một vị thần thánh mà là ảnh của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đây là yếu tố mới được đưa vào lễ hội nơi đây khi lễ hội được tổ chức lại nhưng nó thể hiện rõ truyền thống uống nước nhớ nguồn của nhân dân trong vùng đồng thời đó cũng là một hoạt động để tỏ lòng kính yêu vô hạn đối với người Cha của nhân dân Việt Nam. Người dân nơi đây đón Bác về cùng dự vui lễ hội truyền thống trong vùng đồng thời mong muốn Bác về đây chứng kiến sự đổi thay và từng bước phát triển của Đọi Sơn ngày nay. Đội hình dâng hương cũng đã vào vị trí để bắt đầu buổi dâng hương lên chùa lễ Phật. Đi đầu đoàn dâng hương là hai con mèo (do hai người đàn ông đóng giả) lăng xăng đi dẹp đường cho đoàn dâng hương lên núi. Đây chỉ là hình thức tượng trưng thôi vì công tác này đội bảo vệ an ninh của xã và huyện đã làm từ trước đó. Tiếp theo là đội cờ gồm 8 chiếc cờ thần do 8 thiếu nữ xinh đẹp khoẻ mạnh đi hàng hai rước lên chùa. Sau đó là đội trống của thôn Đọi Tam gồm 5 người (hai người khiêng chiếc trống to, một người đánh) và 2 người khác gõ hai chiếc trống con để cổ động cho thêm phần sôi động. Theo sau đội trống là hai đội múa sư tử vừa đi vừa trình diễn những điệu múa đẹp mắt nhưng uy nghi thể hiện tài hoa cũng như tinh thần thượng võ vủa nhân dân nơi đây. Đặc biệt là chàng trai đảm nhận vị trí múa đầu sư tử không chỉ phải là những chàng trai khoẻ mạnh mà con phải là những người khéo léo mới thể hiện hết sự oai hùng của chúa sơn lâm. Bám sát đội múa sư tử là đội múa rồng. Một con rồng dài khoảng 30m uốn lượn từ từ tiến lên núi. Múa rồng rất phổ biến ở nước ta. Rồng là con vật huyền thoại linh thiêng theo quan niệm tâm linh và đó cũng là một biểu hiện của tín ngưỡng cầu mùa phổ biến của cư dân nông nghiệp và cư dân vùng ven sông với tục thờ thần nước đặc biệt là vùng Hà Nam- nơi có rất nhiều con sông và hiện tượng lụt lội xảy ra thường xuyên. Tín ngưỡng này còn được thể hiện rất rõ trong hình tượng rồng chạm khắc trên thân bia và 4 con rồng đội tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh. Rồng ở nơi đây hình thù đặc trưng giống những con rắn và theo quan niệm dân gian đó là con vật chúa tể của sông nước.Thờ rồng tại chùa và múa rồng tại lễ hội chùa Đọi thể hiện rõ văn hoá tín ngưỡng cổ truyền của người dân nơi đây nói riêng và cư dân nông nghiệp nói chung cầu mong mưa thuận gió hoà để phát triển sản xuất nông nghiệp, cũng như cầu mong vị thuỷ thần này phù hộ và không làm ra nhưng trận lũ lụt tàn phá vùng trũng này. Đó chính là nỗi lo thường trực trong cuộc sống của người dân khi mà hệ thông thuỷ lợi chưa đảm bảo như hiện nay. Vừa đi đội rồng vừa múa cổ động những điệu múa đẹp mắt theo nhịp trống phách và thanh la rộn rã trên con đường lên chùa. Theo sau đội rồng là đội bát âm. Đội này sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc hoà tấu lên những âm thanh vui nhộn, tao nhã trong lễ hội truyền thống. Các loại hình nhạc cụ này thường xuất hiện trong các chiếu chèo hay trong các cuộc tế lễ truyền thống mà nó đang dần vắng bóng do nhu cầu thưởng thức âm nhạc hiện đại trong nhân dân. Đó là mảnh hồn của dân tộc còn lưu giữ được qua hoạt động của các lễ hội và sân khấu truyền thống thể hiện phong cách và nghệ thuật thưởng thức âm nhạc tinh tuý của cha ông ta ngày xưa. Vừa đi đội bát âm cũng tạo thêm không khí vui nhộn trong lễ dâng hương lên chùa cao. Tiếp đó là đội bát bửu được rước bởi 8 cô gái thanh tân. Bát bửu là 8 đồ vật quý mang tính chất tượng trưng thể hiện khát vọng của nhân dân, được sử dụng trong lễ rước làm tăng thêm vẻ uy nghi. Tiếp đến là vị trí của chiếc kiệu trên đó thờ ảnh Chủ tịch kính yêu của chúng ta. Kiệu này do 4 người khiêng nhưng do địa hình lên chùa khá xa và dốc nên luôn thường trực thêm một đội 4 người nữa thay thế trên đường rước. Sau đó là 2 mâm lễ do xã chuẩn bị sẵn từ trước đại diện cho nhân dân và chính quyền xã Đọi Sơn tiến dâng Đức Phật do hai cô gái trẻ đẹp, có học thức đặc biệt là phải chưa có chồng mặc trang phục áo dài trắng đội lên chùa để làm lễ dâng hương tới cửa Phật. Đây là lễ hội chùa nên lễ vật dâng lên Đức Phật cũng đơn giản chủ yếu là các lễ vật chay như hoa quả, hương đăng, bánh kẹo, xôi oản. Đó cũng là những quy định chung về lễ vật dâng lên của Phật. Con người lên đây lấy thành tâm là chính chứ không phụ thuộc vào lễ vật to hay nhỏ. Có nhiều năm chùa mở hội dùng hai đội kiệu để khiêng hai mâm lễ lên chùa nhưng năm nay do chùa đang tu sửa và kiến thiết nên mâm lễ chỉ do hai người đội lên. Sau đó là các đoàn đại biểu là khách mời của xã và nhà chùa từ tỉnh uỷ, huyện uỷ và một số các sở ban ngành cùng với các cán bộ xã thay mặt chính quyền dâng hương lễ Phật trong ngày lễ hội thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến hoạt động lễ hội như một “địa chỉ” lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của vùng. Họ tham gia lễ hội không chỉ với tư cách là những quan chức chính quyền mà còn với vai trò của những người hành hương lễ Phật và tham dự lễ hội của quê hương. Đi sau là đội tế của 6 thôn trong xã đi thành hàng hai mỗi đội tế có hai người múa sênh tiền tạo nên những âm thanh réo rắt, các đội dâng hương của khách thập phương cùng nhân dân cũng nhập đoàn rước. Họ đi vừa để cổ vũ lễ hội vừa để tham gia đoàn dâng hương lên Đức Phật từ bi mong được phù hộ cho cuộc sống luôn gặp nhiều may mắn. Đoàn dâng hương nối tiếp thành hàng dài mấy trăm mét chầm chậm tiến lên đỉnh núi nơi có ngôi chùa Long Đọi. Từ bên núi Rồng quan sát đội hình dâng hương đủ màu sắc như một con rồng khổng lồ đang từ từ đội trái núi có ngôi chùa thiêng bay lên. Cảnh tượng đó như tái hiện lại cảnh gần 1000 năm về trước khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long qua địa phận tổng Đọi Sơn xưa được nhân dân nơi đây chào mừng cổ động bằng màn múa rồng, múa trống khi nhà vua đi qua. Hình ảnh đó không chỉ thể hiện không khí đông vui của lễ hội, sự trù phú nơi đây mà còn thể sự thanh bình của đất nước. Dọc đường lên chùa các loại cờ tế, cờ thần và quốc kỳ được cắm xen kẽ tạo màu sắc đặc trưng của không gian lễ hội. Dòng người dâng hương lên chùa tưởng như không dứt vì người về với lễ hội ngày một đông. Đến khoảng 9h đoàn dâng hương tập trung tại sân Tam Bảo trước cửa chùa. Đây là địa điểm tổ chức các nghi lễ của lễ dâng hương. Tại đó nhà chùa đã chuẩn bị sãn hương án để làm lễ dâng hương và đặt lễ vật trong lễ khai hội này. Khi đội hình dâng hương đã ổn định tại sân Tam Bảo, nhà sư trụ trì ngôi chùa cùng tăng ni, phật tử trong chùa và các ngôi chùa xung quanh với trang phục của nhà tu hành, tay lần tràng hạt miệng đọc kinh có một chú tiểu thỉnh chuông đi trước từ phía nhà thờ Tổ đi lên cùng đoàn dâng hương và nhân dân tiến hành khai mạc lễ hội chùa Long Đọi Sơn. Mở đầu buổi khai mạc lễ hội chùa Long Đọi Sơn, ban tổ chức lễ hội làm lễ chào cờ. Đây là một yếu tố mới được đưa vào trong buổi lễ dâng hương thể hiện sự kết hợp giữ yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại trong lễ hội ngày nay. Sự trang nghiêm của lễ chào cờ lại càng làm cho lễ hội tăng thêm phần linh thiêng. Sau đó ban tổ chức giới thiệu các đoàn đại biểu tham gia lễ dâng hương và đọc giấy phép mở lễ hội. Tiếp theo, vị chủ tịch UBND xã Đọi Sơn đồng thời cũng là trưởng ban tổ chức lễ hội thay mặt cho chính quyền địa phương xã lên đọc diễn văn khai mạc lễ hội chùa Long Đọi Sơn. Bài diễn văn đã giới thiệu một cách chung nhất về phong cảnh, lịch sử của ngôi chùa cũng như hoạt động lễ hội truyền thống nơi đây. Sau đó, ông trưởng ban tổ chức đọc lời khai mạc lễ hội chùa Long Đọi Sơn. Ba hồi chín tiếng trống hội vang lên. Đồng thời lúc đó bên trong ngôi chùa cũng vang lên những hồi chuông điểm xen kẽ với tiếng trống hội. Đây chính là âm thanh lễ hội như lời báo cáo cung kính đối với Đức Phật và các bậc thánh thần cũng là một lời tuyên bố với nhân dân và du khách thập phương lễ hội đã bắt đầu. Đó như một lời mời lớn tới mọi người về đây lễ Phật trong không khí lễ hội mùa xuân. Tiếp theo là phát biểu ý kiến của các vị đại diện cơ quan các cấp. Sự quan tâm của các cấp chính quyền đến lễ hội chùa Long Đọi Sơn thật đáng quý đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Nó vừa thể hiện chính sách khuyến khích phục hồi lễ hội văn hoá truyền thống vừa thể hiện sự quản lí trực tiếp của Đảng và Nhà nước nhằm kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống và hiện đại trong lễ hội để phục vụ sự nghiệp phát triển chung của vùng tránh sự lai căng và phản văn hoá trong hoạt động lễ hội cổ truyền. Một nghi thức không thể thiếu được là việc nhà chùa thỉnh kinh làm lễ. Vị sư trụ trì chùa Long Đọi cùng các đệ tử của mình dâng lên đức Phật 3 nén nhang thơm và đọc bài kinh lễ với nội dung thành tâm cầu khấn đức Phật hãy phù hộ độ trì và cứu nhân độ thế cho chúng giới trong cuộc đời trần tục.Tiếng đọc kinh đều đều, thỉnh thoảng vang lên tiếng mõ như một âm thanh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ mỗi buổi sớm mai hay lúc chiều về. Công việc thỉnh kinh của nhà chùa kéo dài khoảng 30 phút. Lúc này hai mâm lễ của đoàn dâng hương được đặt lên trên hương án. Một vị chủ tế đại diện cho tất cả mọi người trong đoàn thắp 3 nén hương để dâng lễ vật lên Đức Phật với tất cả tấm lòng tôn kính và cầu xin các bậc thánh thần phù hộ độ trì cho cuộc sống của nhân dân nơi đây gặp nhiều thuận lợi và may mắn. Sau các thủ tục của một lễ khai mạc, các nhà sư rời vị trí đi trước, sau là hai cô gái đội lễ vật chuyển sang bê bằng tay từ hương án ngoài sân đặt vào thượng điện trong Tam Bảo. Tiếp đó là các đoàn đại biểu và đội hình dâng hương cùng nhân dân vào chùa lễ Phật. Đoàn dâng hương vào chùa đặt lễ và thỉnh kinh trước toà Tam Bảo nơi thờ các vị Phật, Pháp, Tăng trong ngôi chùa chính. Sau đó theo dọc hành lang thờ thập bát vị La Hán để vào hậu cung tiến hành dâng lễ tại ban Đức Chúa, ban Hoàng Hâu, các ban Quan Âm và Địa Tạng…. Sau đó đoàn dâng hương theo cửa hậu đi xuống đặt lễ dâng hương tại nhà tổ nơi thờ 10 đời sư tổ đã tu hành đắc đạo nơi đây và là những nhà sư đã khôi phục và xây dụng ngôi chùa bề thế này trong lịch sử tạo nên một danh lam thắng cảnh đẹp mang đậm nét văn hoá truyền thống, trong đó có vị sư tổ Thích Chiếu Thường mà ngày mất của ông cũng là ngày mở lễ hội. Đền thờ mẫu Liễu Hạnh cũng là một địa điểm của hành trình dâng hương. Chùa là nơi tu hành, là nơi thờ Phật nhưng đặc điểm chung của ngôi chùa và Phật giáo Việt Nam là có sự dung hoà của 3 tôn giáo Nho-Phật-Đạo với những tín ngưỡng của cư dân bản địa tạo nên một bức tranh tôn giáo tín ngưỡng nơi đây phong phú nhưng không hề phức tạp. Sự dung hoà tôn giáo nơi đây không mang nội dung thể hiện người dân nơi đây quá tin tưởng và tôn sùng các bậc thần thánh hay tôn giáo tín ngưỡng của họ quá phức tạp mà nó thể hiện khát vọng của người dân nơi đây muốn sống trong hoà bình để xây dựng quê hương đất nước và được phù hộ để thực hiện mong muốn đó. Đồng thời nó cũng phản ánh văn hoá tâm linh truyền thống của cư dân đồng bằng sông Hồng đặc biệt là cư dân nơi đây. Vì là vùng trũng nhất nên cuộc sống của người dân Hà Nam nói chung rất bấp bênh và luôn bị đe doạ bởi thiên tai và lũ lụt. Do vậy họ thờ tự và cầu khấn tất cả mọi bậc thần linh hãy phù hộ và che chở cho cuộc sống. Cho nên cơ sở thờ tự và lễ hội nơi đây không chỉ đơn thuần là biểu hiện của một tôn giáo nhất định mà nó là sự dung hoà của nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Chùa Đọi không chỉ thờ Phật mà trong đó là tiền Phật hậu Thánh bên cạnh là phủ Mẫu. Mọi người về với chùa và lễ hội chùa Đọi đều đi thắp hương tất cả các nơi thờ tự trong quần thể di tích của chùa và cầu xin tất cả các bậc thần linh phù hộ và giúp đỡ cho họ và cuộc sống của nhân dân nơi đây. Sau lễ dâng hương đội múa rồng, lân, sư tử quay múa mấy vòng quanh sân Tam Bảo như thay lời chào cung kính Đức Phật. Đoàn dâng hương tiến vào thượng điện làm nghi lễ cuối cùng. Mỗi người vái đức Phật 3 vái. Sau đó họ xuống núi về trụ sở UBND xã Đọi Sơn. Lúc này các cửa chùa, phủ mẫu mở rộng của cho nhân dân và khách thập phương về đây lễ Phật, lễ Thánh. Ngày 20,21-3. Những ngày sau đó ngôi chùa mở rộng cửa đón tiếp mọi người gần xa về đây lễ Phật và những du khách tham quan vãng cảnh chùa.Trong những ngày này tại các đền thờ Thánh xung quanh núi Đọi và tại đền thờ Mẫu trên núi, các con nhang đệ tử, đồng cô, đồng cậu khắp nơi đổ về đây tổ chức hầu bóng đặc biệt là ở phủ Mẫu. Những buổi hầu được tổ chức từ sáng sớm đến tận đêm khuya. Đây là một biểu hiện của một loại hình tín ngưỡng bản địa (Saman giáo) kết hợp với Đạo giáo. Đó là một biểu hiện của tín ngưỡng tâm linh đặc thù thường diễn ra trước điện Mẫu. Loại hình nghệ thuật xướng diễn dân gian này gồm âm nhạc, hát chầu văn, múa thiêng thể hiện ở 36 giá đồng. Thường thì đến hết chiều 21-3 là rã hội mọi người tự động xuống núi trở về nhà. Tuy nhiên đến tối ngày 21-3 số người lền chùa lễ Phật vẫn còn nhiều và rất đông nam nữ thanh niên vẫn còn lưu luyến và muốn kéo dài ngày hội cuối cùng đến nửa đêm nên đã chiều tối nhưng còn rất đông người đổ về chùa Đọi. Thường rất nhiều năm trước đây cứ đến tối ngày 17-3 và chiều tối ngày21-3 ở khu vực này thường xảy ra những trận mưa rất lớn mà nhân dân nơi đây gọi là mưa thiêng. Trận mưa tối ngày 17 là mưa Mẫu giáng về đền (Vì Mẫu ở đền Phủ Giầy-Nam Định) và trận mưa chiều 21 là mưa rửa hội để trả lại sự trong sạch thanh tịnh nơi cửa chùa sau 3 ngày hội ồn ào náo nhiệt. Trước kia thường năm nào cũng xảy ra hiện tượng đó nên người ta tin vào sự linh thiêng của ngôi chùa và hàng năm vào mùa lễ hội dòng người từ rất nhiều nơi đổ về chùa Đọi. Tuy nhiên một vài năm nay do thời tiết thay đổi nên hiện tượng đó xảy ra không đều nhưng không vì vậy mà làm giảm lòng tin vào sự linh thiêng của ngôi chùa và lượng người về đây với lễ hội. Ngày 22-3. Thường thì đến chiều 21-3 nhân dân Đọi Sơn và nhà chùa làm lễ tạ hội và làm lễ giỗ sư tổ Thích Chiếu Thường. Tuy nhiên do lượng người về đây quá đông trong 3 ngày hội nên không đủ không gian và thời gian để tổ chức buổi tạ hội và giỗ tổ một cách chu đáo. Do vậy các nghi thức này được nhà chùa tiến hành một cách đơn giản vào chiều ngày 21. Sáng ngày 22-3. Từ 7h sáng, các già và nhiều gia đình các thôn trong xã Đọi Sơn lên chùa làm lễ giỗ tổ và lễ tạ hội. Lễ giỗ tổ được tổ chức rất cẩn thận đầy đủ những nghi thức của một lễ giỗ tổ và bây giờ mới đủ thời gian và không gian cho một buổi giỗ tổ chu đáo. Các già và các gia đình trong các thôn dâng lễ lên sư tổ cầu mong các bậc sư tổ phù hộ độ trì cho bản thân, gia đình, và bè bạn. Đây là một hoạt động mang đậm nét văn hoá bản địa của người Việt với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sau khi làm lễ giỗ tổ xong nhà chùa và các già cùng những gia đình hạ lễ và tạ lễ. Lúc này còn bao nhiêu lộc Phật và lộc Thánh còn lại từ 3 ngày hội nhà chùa chia đều để mọi người cùng được hưởng với niềm tin “Một ít lộc thánh bằng một gánh lộc trần”. Tại phủ Mẫu ngày 22-3 cũng diễn ra một buổi tế tạ hội với nghi thức đầy đủ của hoạt động tế tại cửa Mẫu. Đó là đội tế nữ quan do bà thủ nhang ở đền Mẫu làm chủ tế. Nội dung tế nó hơi khác vì đây là một buổi tế tạ. “Hôm nay là ngày 22-3 năm Ất Dậu, con thay mặt cho đội tế nữ và các tín đồ có chút lễ vật dâng lên Thánh Mẫu làm lễ tạ hội, tạ ơn Đức Thánh Mẫu đã ban phát ân lộc cho chúng dân và các tín đồ đã về đây kêu cầu nơi cửa Mẫu. Trong những ngày qua chúng con có điều gì sơ xuất hay thất lễ, con xin kêu thay lạy đỡ cho các tín đồ và chúng dân mong Đức Mẹ ban ơn, mở lượng hải hà đại xá và dạy bảo cho chúng con. Nam Mô A Di Đà Phật”. Đến trưa ngày 22-3 lễ hội mới thật sự kết thúc. Mọi người thu dọn lại chùa và ngôi chùa trở lại không khí thanh tịnh thuờng nhật. 2. Phần hội Lễ hội là một từ ghép để chỉ chung hoạt động lễ và hội ở nước ta. Đây là hai hoạt động được tổ chức đồng thời và gắn kết với nhau trong một không gian, thời gian nhất định. Lễ là phần con người giao cảm với thần linh diễn ra rất tôn nghiêm, hội là phần giao cảm giữa con người với con người thường được tổ chức sôi động, đầy tính nhân văn. Thường thì có lễ mới có hội và cũng nhiều trường hợp có lễ mà không có hội. Tuy nhiên hai hoạt động này ít khi tách khỏi nhau. Mặc dù phần lễ được coi là phần quan trọng và bắt buộc nhưng trên thực tế trong cuộc sống hội lại có phần hấp dẫn hơn. Phần lễ thường diễn ra ngắn và thu hút những người cao tuổi còn đa phần thời gian dành cho phần hội được đông đảo lớp trẻ tham gia nhiệt tình. Đến với lễ hội người ta bao giờ cũng dành thời gian đầu tiên để thắp hương lễ Phật, lễ Thánh tuy nhiên thời gian đó không nhiều.Thu hút nhiều người vẫn là những địa điểm tổ chức hội tại khu vực xung quanh. Đó là hoạt động giúp cho con người lấy lại thăng bằng trong cuộc sống, giải toả mệt mỏi, tiếp thêm sức lực để bước vào một vụ sản xuất mới hăng say hơn và chắc chắn hiệu quả sẽ tốt hơn. Lễ hội chùa Đọi là một lễ hội lớn của vùng nên phần hội khá phong phú và đa dạng. Nhiều trò chơi truyền thống được tổ chức để ca ngợi công lao của các vị anh hùng dân tộc hay tái hiện lại cảnh sống thanh bình dưới thời vua Lý Nhân Tông như: đấu vật, cờ người, chọi gà, hát giao duyên, thi nấu cơm, dệt vải…Trong qúa trình phát triển của lịch sử, các trò chơi truyền thống trong lễ hội chùa Đọi đã bị mai một dần và thay thế bằng các trò chơi hiện đại như: cầu lông, bóng bàn, và một số trò chơi may rủi như sốc thẻ, bắn súng lĩnh thưởng… Tuy nhiên lễ hội chùa Đọi ngày nay vẫn còn duy trì được nhiều các trò chơi dân gian truyền thống. 2.1. Đấu cờ. Đây là một trò chơi dân gian truyền thống đựơc lưu giữ đến ngày nay thể hiện trí tuệ và tài năng của con người nơi đây. Chơi cờ là một môn đấu trí tuệ và thường thu hút sự chú ý tham gia của các bậc cao tuổi và những người biết chơi tuy nhiên trò chơi này không phân biệt lứa tuổi. Những du khách đi hội ai cũng có quyền đựơc tham gia đấu cờ và cống hiến cho người xem nhiều nước cờ đẹp Chơi cờ ở đây có nhiều hình thức như: Cờ tướng, cờ người, cờ bỏi, cờ thế, tổ tôm điếm, tam cúc điếm…Tuy nhiên các trò chơi này có luật chơi và hình thức chơi hơi khác nhau một chút. * : Cờ người. Cờ người là một môn cờ truyền thống thường được tổ chức trong các dịp lễ hội. Đây là hình thức chơi cờ khá độc đáo thể hiện cuộc đấu trí giữa những người tham gia nhưng nó là một môn chơi khá độc đáo và phức tạp. Cờ người được tổ chức tại sân cờ trước Tam quan. Tại đó có một chiếc sân rộng chừng 50m2 hai bên xây hai chiếc lầu cao là nơi ngồi của tướng ông và tướng bà. Người tham gia phục vụ đội cờ được chọn từ 6 thôn. Đó phải là những chàng trai cô gái khoẻ mạnh, đẹp và đặc biệt là người được chọn làm tướng ông và tướng bà. Trang phục của những người trong đội cờ giống như trang phục của các quân cờ mà ta thường thấy ở trong bộ cờ tam cúc. Ngày xưa, khi chọn những người để phục vụ đội cờ người tại hội chùa Đọi ngoài những yếu tố như khoẻ mạnh, đẹp thì phải thêm một yếu tố khác nữa phải là con nhà giầu. Các thành viên trong đội cờ người phải tự sắm trang phục của mình và không phải nhà nào cũng có điều kiện may sắm các bộ trang phục đó. Hội cờ người được tổ chức liên tục trong 3 ngày hội thu hút nhiều người tham gia đặc biệt là các cụ cao tuổi thạo cờ từ khắp nơi về đây dự lễ hội. Ai có khả năng chơi cờ thì thoải mái đăng kí tham gia thi đấu. Khi vào trận đấu cờ thì cuộc đọ trí giữa hai người chơi khá căng thẳng. Mỗi bên chơi cờ có một người cầm chiếc trống bỏi đánh thúc liên hồi nhằm là cho đối phương không kịp suy nghĩ. Bình thường trong các cuộc đấu cờ rất cần sự yên tĩnh để hai người đấu trí đưa ra những nước cờ hiểm nhưng trong cuộc đấu cờ tại lễ hội vì nó không chịu ảnh hưởng nhiều của tâm lí thắng thua mà mục đích vui chơi là chính nên người ta đưa trống vào cho thêm phần sôi động. Tuy nhiên sau bao nhiêu năm gián đoạn, hội cờ người hiện nay không còn được tổ chức tại lễ hội chùa Đọi nữa mà thay thế vào đó là nhưng trò chơi hiện đại khác. Hiện nay ban tổ chức lễ hội chùa Long Đọi Sơn đang có dự định khôi phục lại hội cờ người sẽ được đưa vào trong các lần tổ chức lễ hội sắp tới nhằm khôi phục diện mạo truyền thống của lễ hội nơi đây. *: Cờ tướng. Hội chùa Đọi hàng năm vẫn tổ chức thi đấu cờ tướng tại sân cờ người trước đây. Hiện nay hội cờ tướng thu hút chủ yếu các cụ cao tuổi đến đây chơi cờ giải trí và tìm đối thủ đánh cờ với mình là chính (thường thì hiện nay lớp trẻ ít tham gia chơi cờ nữa). Bất cứ người nào cũng có thể tham gia thi đấu và chơi trong suốt 3 ngày. Nhiều người tìm được đối thủ của mình chơi một lúc mấy ván cờ mà vẫn còn rất hào hứng. Cờ tướng được gắn trên một chiếc gậy cao khoảng 1m50 và nó được di chuyển trong khi chơi cắm vào các lỗ đã có sẵn dưới mặt sân. Người tham gia chơi cờ tướng gồm hai người chơi, hai người phục vụ (nhổ và cắm cờ thay thế vị trí khi hai người chơi điều khiển) và một trọng tài đôi khi trọng tài là những khán giả. Người xem chơi cờ không reo hò ầm ĩ mà trầm lắng theo dõi và trầm trồ thán phục khi hai bên trình diễn những nước cờ cao đẹp mắt. Cờ tướng đựơc tổ chức thi đấu trong suốt 3 ngày hội. Do vậy trò chơi này không thu hút khán giả một cách xô bồ đông đảo chốc lát như những trò chơi khác mà người tham gia cũng như khán giả phải là những người kiên nhẫn và trầm lặng. Tuy không đông nhưng tại nơi thi đấu cờ lúc nào cũng có người chơi và khán giả cổ vũ. Người chơi cờ ở đây chơi hết mình không phải là vì phần thưởng mà là vì ở đây họ đã tìm thấy bạn chơi và là nơi họ có thể thể hiện tài năng của mình một cách thoải mái nhất trước đông đảo bàn dân thiên hạ. 2.2. Đấu vật. Đấu vật là một môn võ dân tộc được tổ chức tại lễ hội chùa Đọi thể hiện rõ tinh thần thượng võ của nhân dân ta đặc biệt là vùng Hà Nam quê hương vật Liễu Đôi. Đấu vật tái hiện lại cảnh thanh bình của đất nước thời vua Lý Nhân Tông đồng thời cũng là niềm tự hào của ngưòi dân nơi đây khi vùng Đọi Sơn cách Liễu Đôi không xa. Sân tổ chức đấu vật là một bãi cỏ rộng trước cửa Tam Quan. Trò chơi đấu vật thường được tổ chức vào ngày 20-3. Có năm hội đấu vật được tổ chức khá lớn và có giấy mời tới các đội vật của huyện Lý Nhân, Thanh Liêm và đội vật của huyện Duy Tiên đến đây thi đấu giao hữu. Đấu vật ở đây không nặng về thi đấu mà chủ yếu là thể hiện những thế võ đẹp mắt khi uyển chuyển, khi mạnh mẽ của môn vật dân tộc và thế võ truyền thống của quê hương Hà Nam. Khán giả nào muốn tham gia thi đấu thì đăng kí với ban tổ chức. Họ có thể đấu với những khán giả khác hoặc thi đấu với các thành viên của một đội vật. Trang phục của các thành viên trong đội vật là cởi trần đóng khố còn khán giả tham gia đấu vật thì có thể mặc trang phục tự do hoặc có thể mặc nguyên quần áo mà họ mặc khi tham gia lễ hội. Nhưng võ sĩ nghiệp dư tuy không đem lại cho khán giả những thế võ đẹp mắt nhưng lại đem lại cho người xem những tiếng cười sảng khoái. Họ vật theo lối tự do với tinh thần giao hữu là chính. Họ có thể vật hết mình hay chỉ tiêu khiển để tìm giây phút thư giãn trong cuộc sống. Sau khi tham gia các võ sĩ nghiệp dư mặc dù bị bẩn hết quần áo mà họ dành để đi hội nhưng họ vẫn vui vẻ và tự hào vì họ đã được tham gia những trò chơi đó. Những tiếng cổ vũ, hò reo vang lên sôi động một khu vực lễ hội. 2.3. Cầu lông. Đây là một hoạt động thể thao mới được đưa vào lễ hội chùa Đọi trong những năm gần đây. Đây là một sự kết hợp giữa các hoạt động truyền thống và hiện đại nhưng nó không làm cho lễ hội mất đi nét xưa mà vẫn phù hợp trong điều kiện cuộc sống hiện. Địa điểm thi đấu cầu lông được tổ chức tại sân UBND xã Đọi Sơn và được diễn ra vào chiều 19-3. Ban tổ chức lễ hội mời đội thi đấu cầu lông của các xã bên cạnh về đây thi đấu giao hữu. Thông thường thì các đội thi đấu với nhau nhưng các khán giả hoàn toàn có thể tham gia để tạo phần không khí vui vẻ trong lễ hội. 2.4. Cờ thế. Cờ thế không phải là một trò chơi có trong kế hoạch hoạt động lễ hội do ban tổ chức đề ra mà do những người dân đi hội mang đến. Đó là những bàn cờ nhỏ trên đó để bày sãn những thế cờ để mời những người đi hội tham gia giải nó. Đây là một hoạt động văn hoá truyền thống nhưng do tác động của nền kinh tế thị trường nên tại lễ hội chùa Đọi nhiều người mang bàn cờ thế đến đó chơi với một mục đích thương mại làm ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 154.doc
Tài liệu liên quan