Tài liệu Đề tài Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội, tìm hiểu một số yếu tố liên quan: NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HPV Ở CỘNG ĐỒNG PHỤ NỮ HÀ 
NỘI, TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TÓM TẮT 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 1500 phụ 
nữ tuổi từ 18-69, sống tại Quận Hoàng Mai và Đông Anh – Hà Nội. Những 
người phụ nữ này được khám phụ khoa, lấy tế bào cổ tử cung và làm xét 
nghiệm PCR. 
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội xác định bằng kỹ thuật 
sinh học phân tử là 5,13%. Tỷ lệ nhiễm HPVC cao ở nhóm tuổi từ 20-39 
(18,47%). Nhìn tổng quát, tỷ lệ nhiễm HPV thấp ở tuổi <20, cao ở khoảng tuổi 
20-39 và giảm dần sau 40 tuổi; khong gặp ở tuổi ≥60. Các typ HPV nguy cơ 
cao có tỷ lệ 68,95%; các typ hay gặp là 18 (31,3%), tiếp đến typ 58 (16,37%) 
và typ 16 (14,66%).Các typ nguy cơ thấp chiếm 27,27%. Số người nhiễm 1 typ 
chiếm 72,72%, số nhiễm 2 typ chiếm 14,28%, số nhiễm 3 typ trở lên rất ít gặp. 
Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HPV khác nhau giữa các khu vực và nghề nghiệp. 
Nhiễm HPV là bệnh lây truyền qua đường tình dục, người c...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội, tìm hiểu một số yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HPV Ở CỘNG ĐỒNG PHỤ NỮ HÀ 
NỘI, TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TÓM TẮT 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 1500 phụ 
nữ tuổi từ 18-69, sống tại Quận Hoàng Mai và Đông Anh – Hà Nội. Những 
người phụ nữ này được khám phụ khoa, lấy tế bào cổ tử cung và làm xét 
nghiệm PCR. 
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội xác định bằng kỹ thuật 
sinh học phân tử là 5,13%. Tỷ lệ nhiễm HPVC cao ở nhóm tuổi từ 20-39 
(18,47%). Nhìn tổng quát, tỷ lệ nhiễm HPV thấp ở tuổi <20, cao ở khoảng tuổi 
20-39 và giảm dần sau 40 tuổi; khong gặp ở tuổi ≥60. Các typ HPV nguy cơ 
cao có tỷ lệ 68,95%; các typ hay gặp là 18 (31,3%), tiếp đến typ 58 (16,37%) 
và typ 16 (14,66%).Các typ nguy cơ thấp chiếm 27,27%. Số người nhiễm 1 typ 
chiếm 72,72%, số nhiễm 2 typ chiếm 14,28%, số nhiễm 3 typ trở lên rất ít gặp. 
Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HPV khác nhau giữa các khu vực và nghề nghiệp. 
Nhiễm HPV là bệnh lây truyền qua đường tình dục, người có quan hệ nhiều 
bạn tình có tỷ lệ nhiễm cao gấp 12,47% so với nhóm phụ nữ chỉ quan hệ tình 
dục với một người.Cần có những nghiên cứu rộng hơn nữa ở nhiều địa phương 
nhằm làm cơ sở cho việc sử dụng vacxin. 
ABSTRACT 
STUDY ON THE TYPES OF HPV (HUMAN PAPILLOMA VIRUS) 
INFECTION DETECTED BY PCR AMONG WOMEN IN HA NOI CITY 
Le Trung Tho, Tran Van Hop* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – 
Supplement of No 1 - 2009: 185 – 189 
Study subject: women aged from 18-69 in districts Hoang Mai, Dong Anh in 
Ha Noi City. 
Methodology: cross- sectional study 
Inclusion criteria: Married women or women had gynecology examination. 
Exclusion criteria: Having vaginal bleeding, acute vaginal infection, using 
vaginal ovulve 
Sample size:1500 
Results: HPV infection detected with PCR technique: 5.13%. Age group 20 - 
39 is the most: 18.47%. In general, the rate of HPV infection in group under 20 
is lower than over 20 and decreasing gradually with group over 40. High risk: 
68.95%, the most common: 18 (31.0.3%), then 58 (16.37%) and 16 (14.66%). 
Low risk: 27.27%. One-type infected: 72.72%, co-infected with 2 types: 
14.28%. Co-infected with low and high risk: 10.38%. The infection of different 
HPV types differs in region. HPV is STD: women who had many partners were 
12.47 (60.0% vs 4.812%) times higher risk of HPV infection than those who 
had only 1 partner. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý cổ tử cung âm đạo khá phổ biến, nó bao gồm hai nhóm chính: Tổn 
thương viêm và ung thư. Ở các nước phát triển, do sự hiểu biết về vệ sinh sinh 
dục, vệ sinh tình dục được giáo dục ngay từ khi còn học trong trường phổ 
thông cũng như sự ô nhiễm môi trường đã được khống chế ở mức độ nhất định 
nên viêm cổ tử cung - âm đạo không vượt quá tỷ lệ 15% - 20%, còn lại chủ yếu 
là các bệnh lây truyền qua đường tình dục, trong đó nhiễm HPV là hay gặp 
nhất của cơ quan sinh dục(Error! Reference source not found.). HPV ngày càng đóng vai 
trò quan trọng trong các bệnh viêm đường sinh dục nữ, kể cả tiến triển thành 
ung thư cổ tử cung xâm nhập và theo thống kê chưa thật đầy đủ, chính xác, chỉ 
riêng số tử vong do ung thư cổ tử cung hàng năm (do HPV có nguy cơ cao gây 
ra) đã gấp hàng chục lần số tử cung do HIV/ AIDS(Error! Reference source not found.). 
Nhiều thống kê có uy tín trên phạm vi toàn cầu cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV ở 
phụ nữ giao động từ 10 - 40% tuỳ nước. Rất may là đại đa số người nhiễm 
HPV (kể cả với 3 nhóm gây bệnh) tự khỏi bệnh do cơ chế tự bảo vệ miễn dịch 
nếu tình trạng sức khoẻ bình thường. Ở Việt nam, tình trạng ô nhiễm môi 
trường đang gia tăng mạnh do tốc độ đô thị hoá nhanh, do công nghiệp hoá trên 
diện rộng, trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là nhóm phụ nữ có học vấn thấp 
hoặc phụ nữ nông thôn còn nhiều hạn chế; do vậy, viêm CTC-ÂĐ nói chung 
đều rất cao, trong đó tỷ lệ nhiễm HPV vào khoảng 12% phụ nữ thành phố Hồ 
Chí Minh(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Ở Hà Nội, cũng 
mới chỉ có 1 đề tài phát hiện tỷ lệ nhiễm HPV bằng DNA test ở một huyện 
ngoại thành cách đây ít năm với tỷ lệ rất thấp (1,8%)(Error! Reference source not found.), 
chưa có công trình nào nghiên cứu chung cả phụ nữ nội và ngoại thành. Xuất 
phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm các mục tiêu 
sau: 
1. Điều tra và xác định tỷ lệ nhiễm HPV, các typ nguy cơ cao. 
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới tỷ lệ nhiễm HPV của phụ nữ ở địa bàn 
Hà Nội. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Số lượng nghiên cứu 
Bao gồm 1500 phụ nữ tuổi từ 18- 69, được phỏng vấn và khám phụ khoa. 
Phạm vi điều tra 
- 1100 phụ nữ ở ngoại thành Hà Nội (khu vực nông thôn) với 9 xã. 
- 400 phụ nữ ở nội thành Hà Nội với 6 phường của quận Hoàng Mai. 
Thời gian 
Từ tháng 4/2007 đến hết 6/2008. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang. 
- Các đối tượng nghiên cứu trả lời đầy đủ các mục sau: Tuổi, nơi sinh sống, 
nghề nghiệp, trình độ văn hóa, số lần mang thai, số con, số bạn tình. 
 Phương pháp xét nghiệm: 
Cỡ mãu nghiên cứu 
 Tính theo công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính tỷ lệ phần trăm (%) trong 
nghiên cứu dịch tễ học. 
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu, : hệ số tin cậy . Với = 0,05 ta có 1,962 ; ε: là 
độ chính xác tương đối, chọn ε = 0,4 ; p: Chọn p = 0,0332. Thay vào công thức 
tính mẫu, ta được n = 726 đối tượng nghiên cứu. Vì cỡ mãu chọn theo cụm nên 
cần gấp đôi, vậy n= 1500. 
Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu 
- Phụ nữ tuổi từ 18-60, đã có quan hệ tình dục. 
- Không có thai. 
- Không rửa sâu vào âm đạo trước khi xét nghiệm 
- Không điều trị bệnh phụ khoa trước đó ít nhất 7 ngày. 
- Khi xét nghiệm không vào thời kỳ hành kinh. 
- Không quan hệ tình dục trước xét nghiệm 3 ngày. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
- Chọn ngẫu nhiên 9 xã và 6 phường. Bốc thăm ngẫu nhiên để chọn các xã, 
phường. 
- Lập danh sách phụ nữ trong diện xét nghiệm và chọn ngẫu nhiên 100 phụ nữ 
mỗi phường, xã để mời khám phụ khoa. 
Định typ HPV tại Labo Trung tâm trường ĐHYHN theo quy trình sau: 
- Thu nhận bệnh phẩm 
- Tách chiết DNA tổng số 
- Thực hiện phản ứng PCR với cặp mồi 
- Tinh sạch sản phẩm PCR, dòng hóa sản phẩm PCR 
- Giải trình tự DNA trực tiếp và giải trình tự DNA plassmid tách dòng 
- Truy cập ngân hàng gen 
- Phân tích, so sánh, đối chiếu kết quả 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
 Kết quả xét nghiệm PCR và định typ HPV 
Số phụ nữ có HPV-DNA (+) là 77 trường hợp (5,13%), tổng số 116 chủng 
với 26 typ được tìm thấy. Typ 18 chiếm tỷ lệ cao nhất (31,3%). Kết quả định 
typ HPV được thể hiện ở bảng 1 dưới đây. 
Bảng 1. Kết quả xét nghiệm PCR và định typ HPV 
Số phụ nữ HPV-
DNA (+) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tổng số 
chung 
77/1500 5,13 
Nguy 
cơ 
thấp 
11, 40, 42, 54, 61, 
70, 71, 72, 81, 90, 
91 
Tổng 
số 
HPV 
phân 
lập 
được 
Nguy 
cơ 
cao 
16, 18, 31, 33, 35, 
39, 45, 51, 52, 53, 
58, 59, 66, 68, 82. 
Số phụ nữ HPV-
DNA (+) 
Tỷ lệ 
(%) 
16 17 14,66 
18 36 31,03 
39 8 6,89 
58 19 16,37 
Những 
typ 
HPV 
chiếm 
đa số 81 12 10,34 
Các typ 
khác 
 24 20,69 
Sự phối hợp các nhóm HPV trên một người và liên quan nhiều bạn tình 
Số bị nhiễm 1 typ là chủ yếu (72,72%), số nhiễm 2 typ là 14,28%, số nhiễm từ 
3 typ trở lên rất thấp. Có 5 người cho biết có nhiều bạn tình thì có tới 3 người 
nhiễm HPV, số người nhiễm typ HPV nguy cơ cao là 68,95%. Sự phối hợp các 
typ thể hiện ở bảng 2 dưới đây. 
Bảng 2. Sự phối hợp các nhóm HPV trên một người và liên quan nhiều bạn 
tình 
Số typ phối hợp Số phụ 
nữ HPV-
Tỷ lệ 
(%) 
DNA (+) 
1 56 72,72 
2 11 14,28 
3 5 6,49 
4 3 3,89 
5 1 1,29 
6 1 1,29 
Tổng 77 100,0 
Nhóm nguy cơ thấp 21 27,27 
Nhóm nguy cơ cao 48 62,33 
Nhiễm cả 2 nhóm 8 10,38 
Số có nhiều bạn tình 3/5 60,0 
Số chỉ quan hệ tình dục 
1 người 
72/1495 4,81 
Liên quan giữa nhiễm HPV với địa dư 
Khu vực nông thôn có tỷ lệ nhiễm HPV là 4,25% (thấp nhất), thứ đến khu vực 
thị trấn với 6,0% và cao nhất là khu vực nội thành với 6,25%. Tỷ lệ nhiễm 
HPV theo địa dư được thể hiện ở bảng 3 dưới đây. 
Bảng 3 Liên quan giữa nhiễm HPV với địa dư 
Số phụ nữ 
HPV-DNA (+) 
Âm tính Khu 
vực sinh 
sống n % n % 
Nông 
thôn 
34/800 4,25 766 95,75 
Thị tứ, 
thị trấn 
18/300 6,0 282 94,0 
Nội 
thành 
 25
 /4
00 
6,25 375 93,75 
Tổng 77/1500 1423/1500 
Liên quan nhiễm HPV với nghề nghiệp 
Nhóm phụ nữ nông dân có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (2,42%), nhóm cán bộ, 
công nhân có tỷ lệ nhiễm HPV tương đương mức trung bình, đặc biệt các nhóm 
đối tượng làm nghề tự do có tỷ lệ nhiễm HPV rất cao, hơn gấp đôi mức trung 
bình (11,25%). Tỷ lệ nhiễm liên quan nghề nghiệp được thể hiện ở bảng 4 dưới 
đây. 
Bảng 4. Liên quan nhiễm HPV với nghề nghiệp 
Nghề nghiệp Số phụ nữ HPV-DNA (+)/tổng số 
phụ nữ 
Tỷ lệ (%) 
Nông dân 17/700 2,42 
Tiểu thương 19/220 8,63 
Cán bộ, công 
chức 
10/180 5,55 
Công nhân 13/240 5,41 
Khác 18/160 11,25 
Tổng 77/1500 100,0 
Liên quan giữa nhiễm HPV với nhóm tuổi 
Số người nhiễm HPV trải ra trong khoảng tuổi từ 18-59, trong đó nhóm tuổi từ 
20-39 chiếm tỷ lệ cao nhất (18,47%), không gặp ở tuổi ≥ 60. 
Bảng 5: Liên quan giữa nhiễm HPV với nhóm tuổi 
Nhóm tuổi Số lượng HPV (+)/% Số lượng HPV (-) 
<20 6/ 3,92 147 
20-29 23/ 9,62 216 
30-39 27/ 8,85 278 
40- 49 15/ 5,13 277 
50-59 6/ 1,91 307 
60- 69 0 198 
Tổng 77 1423 
BÀN LUẬN 
Về tỷ lệ nhiễm HPV 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng kỹ thuật sinh 
học phân tử là 5,13%. So với kết quả nghiên cứu của Lê Minh Nguyệt (2002), 
tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ bình thường là 9,2%(Error! Reference source not found.), một 
kết quả khác của tác giả Vũ Thị Nhung khi khảo sát tại Thành phố Hồ Chí 
Minh năm 2007 cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV là 12%(Error! Reference source not found.). 
Những kết quả về tỷ lệ nhiễm HPV của các tác giả khảo sát tại thành phố Hồ 
Chí Minh đều cao hơn của chúng tôi khá nhiều. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm HPV 
của chúng tôi cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu tại huyện ngoại thành 
Sóc Sơn - Hà Nội của Nguyến Bá Đức (1,8%)(Error! Reference source not found.). Tỷ lệ 
nhiễm HPV trong nghiên cứu này thấp hơn so với ước đoán của TCYTTG về 
tỷ lệ nhiễm HPV ở các nước đang phát triển (khoảng 15%)(Error! Reference source not 
found.). 
Về phân bố nhiễm HPV theo tuổi 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phụ nữ nhiễm HPV trẻ nhất là 18, lớn tuổi 
nhất là 58. Khoảng tuổi có tỷ lệ nhiễm HPV nhiều nhất là 20-29 (9,62%), tiếp 
đến là khoảng tuổi 30-39 với 8,85% (tuy nhiên không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê ở hai nhóm tuổi này). Khoảng tuổi 50-59 gặp rất ít (chỉ gần 2%) 
và không gặp ở nhóm tuổi >60. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự khác 
biệt với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Nhung. Theo tác giả này, tỷ lệ 
nhiễm HPV cao nhất ở khoảng tuổi <20 (20%) và khoảng tuổi 35-49, ở nhóm 
tuổi trên 60 vẫn gặp nhưng với tần suất thấp(Error! Reference source not found.). 
Về tỷ lệ các typ HPV nguy cơ cao và thấp 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy 11 typ HPV nguy cơ thấp và 15 typ 
HPV nguy cơ cao, trong đó nhóm nguy cơ cao chiếm đa số với 68,95%. Trong 
nhóm nguy cơ cao, typ 18 gặp nhiều nhất với 31,03%. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Nhung (các 
typ nguy cơ cao chiếm 77,78%, riêng typ 18 chiếm tỷ lệ cao nhất với 52,23%). 
Theo các tác giả trong nước và nước ngoài, có >30 typ HPV gây nhiễm khuẩn 
đường sinh dục và 15 trong số các typ HPV được coi là gây ung thư cổ tử cung 
và có các tổn thương nội biểu mô độ cao (typ 16, 18, 31, 33, 45)(Error! Reference 
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not 
found.,Error! Reference source not found.). Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ phụ nữ ở 
Hà Nội nhiễm các typ HPV nguy cơ cao là khá phổ biến, đặc biệt là các typ 16, 
18 và 58 và nguy cơ ung thư cổ tử cung ở những phụ nữ này rất lớn vì theo các 
tác giả trong và ngoài nước, các typ HPV nguy cơ cao là nguyên nhân trực tiếp 
gây ung thư cổ tử cung(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). 
Về một số yếu tố liên quan 
Trong nghiên cứu này, hầu hết số phụ nữ bị nhiễm HPV chỉ có 1 typ đơn thuần 
(72,72%). Kết quả này cao hơn chút ít so với kết quả nghiên cứu của Vũ Thị 
Nhung năm 2007 (66,12%)(Error! Reference source not found.). Số phụ nữ nhiễm 3 typ trở 
lên rất hiếm. Trong khi thực hiện phỏng vấn những phụ nữ đến khám phụ khoa, 
chúng tôi chỉ ghi nhận được 5 trường hợp có quan hệ tình dục với nhiều người, 
3 trong số 5 người này nhiễm HPV (tỷ lệ nhiễm lên tới 60%, có nghĩa là cao 
gấp >10 lần so với những phụ nữ quan hệ tình dục với một người). Kết quả này 
cao hơn so với kết quả của Vũ Thị Nhung (47,5%)(Error! Reference source not found.). 
Điều này cho thấy khả năng lây nhiễm HPV rất cao bằng con đường qua hệ 
tình dục và tỷ lệ nhiễm HPV rất thấp ở những phụ nữ chỉ quan hệ tình dục với 
một người. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt không lớn về tỷ lệ nhiễm 
HPV ở các nhóm đối tượng nông thôn, thị tứ, thị trấn và nội thành. Đây là điểm 
khác biệt so với một số nghiên cứu trước đây ở miền Bắc. Những nghiên cứu ở 
thập niên 90 trở về trước (chỉ xác định nhiễm HPV bằng tế bào học phụ khoa, 
chưa xét nghiệm sinh học phân tử) đều chó thấy có trỷ lệ nhiễm HPV rất thấp ở 
khu vực nông thôn và tỷ lệ nhiễm HPV cao ở nhóm phụ nữ thành phố. Theo 
chúng tôi, sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu ở các thời điểm khác nhau 
là có thể lý giải được.Trước đây, khu vực nông thôn mang tính thuần nông, thời 
gian người nông dân sống và làm việc tại thôn quê là chính, còn hiện tại, do tốc 
độ đô thị hóa nhanh, làm việc theo cơ chế thị trường nên nhiều người ở nông 
thôn nhưng lại có nhiều thời gian làm ăn buôn bán ở thành phố. Bởi vậy, bên 
cạnh những yếu tố tích cực, chính họ cũng nhiễm phải những lối sống, hoạt 
động tình dục không lành mạnh, lại thiếu hiểu biết về vệ sinh, cùng với tình 
trạng ô nhiễm môi trường gia tăng khiến cho tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục 
nói chung, nhiễm HPV nói riêng tăng lên đáng kể. Đây có lẽ cũng là nguyên 
nhân của sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm HPV ở những nhóm nghề nghiệp khác 
nhau: Những phụ nữ là nông dân có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (2,42%), nhóm 
phụ nữ buôn bán và làm nghề tự do có tỷ lệ nhiễm HPV cao nhất (8,63% và 11, 
25%). 
KẾT LUẬN 
Qua xét nghiệm HPV bằng kỹ thuật sinh học phân tử cho 1500 phụ nữ Hà Nội 
cả ở nội thành và ngoại thành, chúng tôi rút ra kết luận sau : 
1. Tỷ lệ nhiễm HPV chiếm 5, 13%, trong đó chủ yếu nhiễm 1 typ (72,72%). 
Trong 116 chủng với 26 typ HPV được tìm thấy, nhóm nguy cơ cao chiếm đa 
số với 68,95%, đặc biệt là các typ 18, 16 và 58. 
2. Nhóm tuổi có tỷ lệ nhiễm HPV cao là từ 20-39, sau tuổi 50 ít gặp và không 
gặp trường hợp nào ở nhóm tuổi >60. Không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm 
HPV ở các khu vực nông thôn, thị trấn và thành phố. Tỷ lệ nhiễm HPV cao ở 
nhóm phụ nữ làm nghề tự do, buôn bán, rất thấp ở nhóm phụ nữ làm ruộng. Tỷ 
lệ nhiễm HPV gấp >10 lần ở những phụ nữ có quan hệ tình dục với nhiều 
người so với nhóm phụ nữ chỉ quan hệ tình dục với một người. 
3. Cần có những nghiên cứu rộng hơn nữa ở nhiều địa phương nhằm làm cơ sở 
cho việc sử dụng vacxin. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 29_5174.pdf 29_5174.pdf