Tài liệu Đề tài Nghiên cứu sử dụng độc tố botulinum A điều trị lác liệt dây thần kinh vi giai đoạn sớm – Nguyễn Chí Hưng: 73
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘC TỐ BOTULINUM A 
ĐIỀU TRỊ LÁC LIỆT DÂY THẦN KINH VI GIAI ĐOẠN SỚM 
NGUYỄN CHÍ HƯNG 
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị tiêm độc tố Botulinum A (BTA) những 
trường hợp liệt dây TK VI giai đoạn đang tiến triển. Đối tượng và phương pháp: Là 
nghiên cứu tiến cứu tại bệnh viện Mắt THCM, theo kiểu mô tả cắt ngang, kết hợp theo 
dõi dọc. Bệnh nhân (BN) được chia 2 nhóm có tiêm và không được tiêm BTA, BN được 
theo dõi song thị, độ lác, hoạt trường cơ trực ngoài và các biến chứng có thể có do tiêm 
BTA. Kết quả: Tiêm độc tố BTA vào cơ đối vận (trực trong) trong thời kỳ liệt đang tiến 
triển làm cải thiện rõ rệt song thị và độ lác của BN. Tác dụng của thuốc sau khi tiêm 
cao nhất vào ngày thứ ba và kéo dài bốn tháng. Tỷ lệ giảm song thị là 80,5%, tỷ lệ giảm 
lác là 73,1% (tỷ lệ hết lác ở tư thế nhìn thẳng là 56,1%). Hoạt trường cơ trực ngoài 
được cải thiện chậm hơn so với độ lác. Hoạt trường được cải thiện nhiều ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 614 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu sử dụng độc tố botulinum A điều trị lác liệt dây thần kinh vi giai đoạn sớm – Nguyễn Chí Hưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 73
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘC TỐ BOTULINUM A 
ĐIỀU TRỊ LÁC LIỆT DÂY THẦN KINH VI GIAI ĐOẠN SỚM 
NGUYỄN CHÍ HƯNG 
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị tiêm độc tố Botulinum A (BTA) những 
trường hợp liệt dây TK VI giai đoạn đang tiến triển. Đối tượng và phương pháp: Là 
nghiên cứu tiến cứu tại bệnh viện Mắt THCM, theo kiểu mô tả cắt ngang, kết hợp theo 
dõi dọc. Bệnh nhân (BN) được chia 2 nhóm có tiêm và không được tiêm BTA, BN được 
theo dõi song thị, độ lác, hoạt trường cơ trực ngoài và các biến chứng có thể có do tiêm 
BTA. Kết quả: Tiêm độc tố BTA vào cơ đối vận (trực trong) trong thời kỳ liệt đang tiến 
triển làm cải thiện rõ rệt song thị và độ lác của BN. Tác dụng của thuốc sau khi tiêm 
cao nhất vào ngày thứ ba và kéo dài bốn tháng. Tỷ lệ giảm song thị là 80,5%, tỷ lệ giảm 
lác là 73,1% (tỷ lệ hết lác ở tư thế nhìn thẳng là 56,1%). Hoạt trường cơ trực ngoài 
được cải thiện chậm hơn so với độ lác. Hoạt trường được cải thiện nhiều nhất vào tuần 
thứ hai và cải thiện dần cho đến tháng thứ tám. Biến chứng khi tiêm độc tố BTA: sụp mi 
19,5%, xuất huyết dưới kết mạc nhẹ và vừa là 17%. Các biến chứng tự hết sau 2 đến 4 
tuần. Không có trường hợp nào bị thủng nhãn cầu khi tiêm và không có biến chứng toàn 
thân. Kết luận: Sử dụng độc tố BTA điều trị lác liệt dây thần kinh VI giai đoạn sớm cải 
thiện được tình trạng song thị, độ lác và hoạt trường cơ trực ngoài liệt, trả lại sức lao 
động sớm cho xã hội. 
Từ khoá: Botulinum, liệt dây VI 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Liệt dây thần kinh VI thường gặp 
nhất trong các liệt vận nhãn. Theo đa số 
các tác giả (Richards, Bajandas, Holmes, 
Von Noorden) bệnh lý này chiếm tỷ lệ từ 
40 đến 43,9% trong tổng số các liệt vận 
nhãn. 
 Trong hai thập kỷ vừa qua có những 
tác giả đã nghiên cứu về các phương pháp 
điều trị mới cả về nội khoa và ngoại khoa, 
trong đó đáng chú ý nhất là các công trình 
nghiên cứu của Alan Scott [11], của Metz 
[8] của Quah [9] về độc tố BTA có nhiều 
triển vọng đối với liệt dây thần kinh VI ở 
giai đoạn đang tiến triển. 
 Liệt dây thần kinh VI ở giai đoạn 
đang tiến triển nếu không xử lí đúng sẽ 
để lại không ít di chứng như co cứng thứ 
phát cơ trực trong, gây khó khăn cho 
phẫu thuật ở giai đoạn ổn định. Liệt dây 
thần kinh VI xử lí đúng sẽ giảm cho BN 
tình trạng song thị gây ảnh hưởng nhiều 
đến công tác và sinh hoạt. 
 Mục tiêu nghiên cứu 
 Đánh giá hiệu quả điều trị tiêm độc 
tố Botulinum A những trường hợp liệt 
 74
dây thần kinh VI giai đoạn đang tiến 
triển. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
 Là những BN được điều trị và 
theo dõi tại Bệnh viện Mắt TP. HCM từ 
2001 đến 2006 với chẩn đoán là liệt dây 
thần kinh VI đơn thuần hoặc phối hợp, 
giai đoạn đang tiến triển kể từ khi BN bị 
liệt đến thời điểm được khám ≤9 tháng. 
Không phân biệt nam nữ, không giới hạn 
tuổi. 
 Tiêu chuẩn loại trừ: các trường 
hợp giả liệt dây thần kinh VI [4]: Bệnh 
mắt tuyến giáp, bệnh nhược cơ, hội 
chứng Duane, co thắt phản xạ nhìn gần, 
vỡ hợp thị trong lác ẩn bẩm sinh, vỡ 
thành xương hốc mắt gây hạn chế vận 
nhãn phía ngoài. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
 Nghiên cứu lâm sàng tiến cứu, BN 
được khám lần đầu và theo dõi 2 đến 3 
năm. 
 Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu là 35 
BN. 
 Bệnh nhân được chia 2 nhóm: 
 Nhóm 1: Được điều trị bằng 
vitamin B1, B6, B12, phối hợp với tập 
vận động nhãn cầu trong không gian và 
máy synoptophor, không tiêm độc tố 
BTA. 
 Nhóm 2: Được điều trị bằng thuốc 
(vitamin B1, B6, B12), phối hợp với tập 
vận động nhãn cầu trong không gian và 
máy synoptophor, có tiêm BTA vào cơ 
trực trong bên mắt bị liệt. 
 BN được ghi nhận trước và sau khi 
tiêm độc tố BTA: (1) Song thị; (2) độ 
lác; (3) Hoạt trường cơ trực ngoài được đánh 
giá theo 6 mức độ: 0, -1, -2, -3, -4, -5. 
 BN được theo dõi các biến chứng: 
thủng nhãn cầu, xuất huyết duới kết mạc, 
sụp mi, lác đứng, tụ máu hốc mắt. 
 Kỹ thuật tiêm độc tố Botulinum 
A 
 Nhỏ thuốc tê: Novesine hai lần, 
sau đó rửa mắt bằng nước muối 0,9%. 
BTA (Dysport) sau khi pha đuợc sử dụng 
trong vòng 4 giờ ngoài thời gian này 
chúng tôi không sử dụng. 
 Dùng kẹp có mấu bắt chỗ bám cơ 
trực trong qua kết mạc, kéo nhãn cầu về 
phía đường giữa sao cho tâm đồng tử 
trùng với trục trước sau. Dùng ống tiêm 
1ml gắn kim số 30 chứa 0,05ml dung dịch 
pha (10 đơn vị), tiêm qua kết mạc, đầu vát 
về phía mũi, cách chỗ bám cơ 5-6mm [1]. 
Kim hướng về xích đạo nhãn cầu, lúc này 
kim đã vào thân cơ, đầu kim ra sau xích 
đạo một ít bơm thuốc chậm đều. 
 Sau khi được tiêm BN được ngồi 
hoặc nằm nghỉ vài giờ, tránh vận động 
mạnh và sau đó ra về và được hẹn tái 
khám. 
Hình 1. Cách tiêm độc tố Botulinum vào 
cơ trực trong 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 
 75
 - Tổng số 96 BN, 100 mắt; nam 65 
(62,5%); nữ 52 (37,5%). 
 - Thấp nhất là 7 tháng tuổi, cao nhất 
là 77 tuổi. Trung bình 36,5 ± 3,15 tuổi. 
 Lứa tuổi từ 16 đến 55 có 67 trường 
hợp (69,8%) là tuổi lao động. 
 - Mắt phải 46, mắt trái 50 mắt, (có 4 
BN liệt hai mắt). Khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (P>0,05). 
- Thời gian theo dõi thấp nhất 10 tuần 
lâu nhất là 36 tháng, trung bình 12,85 ± 
1,14 tháng. 
 Tiền sử bệnh toàn thân: Có 
10 BN bị đái tháo đường típ 2, 22 BN 
đang điều trị tăng huyết áp trong đó có 
8/10 người bị đái tháo đường và tăng 
huyết áp. Có 2 BN viêm màng não, 1 BN 
nhiễm HIV. Không có trường hợp nào bị 
ngộ độc rượu, chì và hội chứng cường 
giáp. 
 Tiền sử bệnh mắt: Có 4 BN chấn 
thương đụng dập nhãn cầu, thời gian 
chấn thương trên hai năm trong đó 2 
trường hợp bị tổn hại thị lực (còn 4/10); 
6 BN được phẫu thuật đục thể thuỷ tinh 
có đặt kính nội nhãn. Không có BN nào 
lác cơ năng trước đó hoặc có tổn hại các 
dây thần kinh sọ III, IV, V, VI, VII, VIII, 
IX, XII. Không có BN bị sụp mi bẩm 
sinh hay mắc phải. 
3.2. Nguyên nhân gây liệt 
Bảng 1: Phân bố liệt theo nguyên nhân 
Nguyên 
nhân 
Không 
xác định 
Chấn 
thươn
g đầu 
Thiế
u 
máu 
Khối 
u 
Vị trí 
xoang 
hang 
Viêm 
màng 
não 
Nghi 
nhiễm 
vi rút 
Tổng 
Số BN 
(%) 
21 
21.8% 
38 
39,6% 
6 
6,25
% 
6 
6,25% 
5 
5,2% 
2 
2,1% 
18 
18,8% 
96 
100% 
Độ lác 19 32 23 23 23 20 18 
Hoạt 
trường 
-3 -3,5 -3 -3 -3 -3 -3 
 Trong nguyên nhân chấn thương 
đầu, do tai nạn giao thông có 25 BN 
(65,8%), chiếm tỷ lệ cao nhất 39,6%, kế 
tiếp là nghi nhiễm vi rút 18,8%, có đến 
21,8% không xác định được nguyên 
nhân. 
 Ở nhóm nguyên nhân chấn thương 
đầu độ lác cao nhất: 32 . 
 Trong nhóm nguyên nhân khối u có 
4 BN do ung thư vòm hầu, 2 do ung thư 
thân não. 
 Liệt đơn độc có 84 BN, chiếm 
87,5%; liệt phối hợp với các dây sọ khác 
có 12 BN, chiếm 12,5%. Trong 84 BN 
liệt đơn độc có 4 BN liệt VI 2 bên (2 
trường hợp do nguyên nhân nghi nhiễm 
vi rút và 2 trường hợp không xác định 
được nguyên nhân). 
 Tần suất liệt phối hợp dây thần 
kinh sọ với thần kinh VI cao nhất là dây 
 76
thần kinh III: 6/12; sau đó là dây: III+ 
IV: 8/12; dây: VII 1/12; dây VIII: 1/12. 
II:1/12; V1:1/12 
3.3. Khảo sát theo hình thái 6 hội chứng 
Bảng 2: Phân bố liệt dây thần kinh VI theo phân đoạn thần kinh 
Hội 
chứng 
thân não 
(VI 1) 
Hội chứng 
khoang 
dưới nhện 
(VI 2) 
Hội 
chứng 
đỉnh 
xương đá 
(VI 3) 
Hội chứng 
xoang 
hang(*) 
(VI 4) 
Hội 
chứng 
hốc mắt 
(VI 5) 
Hội chứng 
liệt dây VI 
biệt lập 
(VI 6) 
Tổng 
2 
2,1% 
2 
2,1% 
3 
3,1% 
11 
11,5% 
39 
40,6 
39 
40,6% 
96 
100% 
 Chú thích (*) hội chứng xoang hang ở bảng 2 gồm 5 trường hợp tổn thương tại 
xoang hang ở bảng 1 và 6 trường hợp ung thư vòm hầu. 
 Nhiều nhất là hội chứng hốc mắt 
(VI 5) và hội chứng liệt dây VI biệt lập 
(VI 6) 40,6%, rồi đến hội chứng xoang 
hang (VI 4) 11,5%. 
 Những trường hợp thuộc nhóm 
không xác định và nhóm nghi nhiễm virút 
được xếp vào VI 6. 93% BN liệt ở giai 
đoạn đang tiến triển có độ lác nhỏ hơn hoặc 
bằng 30 chỉ có 7% có độ lác trên 30 . Độ 
lác trung bình là 20 ± 2. 
 BN có hoạt trường ở mức -3 chiếm 
tỷ lệ cao nhất: 41%, kế đến ở mức -2: 
28%; mức độ -4 và -1 có tỷ lệ bằng nhau 
13%; thấp nhất là mức -5 chỉ chiếm 5 %. 
Không có trường hợp nào có hoạt trường 
bình thường. Hoạt trường trung bình 
nhóm liệt giai đoạn đang tiến triển là: -3. 
 Hệ số tương quan giữa hoạt 
trường và đô lác nguyên phát là: R = - 
0,63 (độ tin cậy 95%). 
3.4. Kết quả điều trị 
 Có 96 BN, 10 trường hợp phải 
chuyển viện (2 u não, 4 ung thư vòm 
hầu, 2: viêm màng não, 1 nhiễm HIV, 1 
chấn thương sọ não nặng) còn lại 86 BN, 
90 mắt. 
 Số BN có chỉ định và đồng ý tiêm 
độc tố BTA là 41 BN, 41 mắt. 
 Số BN còn lại là 45, có 12 BN có 
liệt phối hợp và 1 BN dưới 9 tuổi không 
có chỉ định tiêm trong nghiên cứu này, 
32 BN (36 mắt) không đồng ý tiêm BTA 
(8 không xác địnhnguyên nhân, 21 chấn 
thương đầu, 3 nghi nhiễm vi rút). 
 Không có sự khác biệt về thị lực 
trước và sau tiêm BTA (P>0,05, test 2). 
 Tình trạng đáy mắt: không có 
trường hợp nào xuất huyết đáy mắt hoặc 
các thay đổi khác sau khi tiêm. 
 Hiệu quả của BTA đối với song 
thị và độ lác mắt bị liệt 
 Trước khi được tiêm tất cả BN đều 
có song thị. Sau khi được tiêm tái khám 
ngày thứ ba (72 giờ) có 33 BN giảm song 
thị, chiếm tỷ lệ 80,5%. Những BN thuộc 
nhóm không tiêm BTA (có 45 trường 
hợp) tình trạng song thị không có gì thay 
đổi. 
 Ngày thứ bảy sau tiêm: 30 BN hết 
lác hoặc độ lác còn dưới 10 chiếm tỷ lệ 
73,1% (trong đó có 23 BN hết lác chiếm 
56,1%), 11 BN còn lác từ 10 đến 15 . 
 77
a: độ lác chưa tiêm 
BTA 
b: sau khi tiêm 3 
ngày 
c: sau khi tiêm 7 
ngày 
d: sau khi tiêm 2 tuần 
e: sau khi tiêm 1 
tháng 
f: sau khi tiêm 2 
tháng 
Tại nhóm không được tiêm trình trạng 
lác không thay đổi. 
 Tại thời điểm tháng thứ tư độ lác 
của cả hai nhóm không tiêm và có tiêm 
BTA tương đương nhau (p>0,05). 
 Độ lác của BN giảm nhiều từ ngày 
thứ ba sau tiêm BTA và kéo dài đến thời 
điểm tháng thứ tư. Độ lác của BN không 
được tiêm BTA cũng có xu hướng giảm 
dần theo thời gian nhưng độ giảm rất ít. 
Trên đồ thị so sánh độ lác của hai nhóm 
giảm gần vị trí cân bằng và gặp nhau tại 
thời điểm tháng thứ tư. 
Biểu đồ 1: So sánh độ lác thay đổi theo thời gian sau khi tiêm BTA và không tiêm BTA 
 Hiệu quả của BTA đối với hoạt 
trường cơ trực ngoài mắt bị liệt 
Hoạt trường của BN sau tiêm bắt 
đầu tăng vào ngày thứ bảy, tăng nhiều 
nhất từ tuần thứ hai sau đó hoạt trường 
tăng dần cho đến tháng thứ sáu và thứ 
tám gần đạt mức bình thường. ở nhóm 
không tiêm BTA hoạt trừơng tăng dần 
đều, không có sự đột biến như nhóm được 
tiêm BTA và trên đồ thị hai hoạt trường 
của hai nhóm gần về bình thường và gặp 
nhau tại tháng thứ tám. So với độ lác hoạt 
trường hồi phục chậm hơn. 
 78
Biểu đồ 2: So sánh mức hoạt trường thay đổi theo thời gian 
sau khi tiêm BTA và không tiêm BTA 
Biến chứng tiêm BTA vào cơ trực 
trong 
Xuất huyết dưới kết mạc: 17,1% 
(7/41), thủng củng mạc 0%, sụp mi 
19,5% (8/41), (nhẹ và vừa chiếm 18%), 
lác đứng 14,5% (6/41), dãn đồng tử: 0%. 
Xuất huyết dưới kết mạc 17,1% (6/41). 
Không có trường hợp nào khô nước mắt 
hoặc cảm giác có dị vật do giảm tiết 
nước mắt. 
 Ảnh 3.1 Ảnh 3.2 Ảnh 3.3 
Ảnh 3.1: BN N.V.Th bị lác trong MP +30 sau một đợt nghi nhiễm virut. 
Ảnh 3.2: BN liếc phải, mắt P bị giới hạn phía ngoài, hoạt trường trực ngoài ở mức -3. 
Ảnh 3.3: Sau 7 ngày, hoạt trường trực ngoài hồi phục hoàn toàn, dấu xuất huyết kết 
mạc vẫn còn. 
IV. BÀN LUẬN 
 Tuổi trung bình của BN là 36,5 
tuổi, 70 % ở lứa tuổi từ 16 đến 55 là 
lứa tuổi lao động dễ gây viêm nhiễm 
cho dây thần kinh VI. 
 Nổi trội lên hàng đầu là nguyên 
nhân chấn thương chiếm đến 39,6 % cao 
hơn hẳn so với các tác giả nước ngoài 
(Richards 14,96 %, Chaddan 3,74%), tỷ 
lệ này có ý nghĩa với P<0,01 (U-test). 
Tác giả Vũ Bích Thuỷ (2004)[2] ở Viện 
Mắt trung ương trước đây cũng đã gặp tỷ 
lệ 41,6% liệt VI do chấn thương. 
 Khối u cũng là một nguyên nhân 
quan trọng gây liệt dây thần kinh VI. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi đã có tỷ 
lệ 6,25% do khối u. Tỷ lệ này quá thấp 
so với các tác giả nước ngoài: Richards 
21,53%, Chaddan 25,66% (P<0,01 với 
T-test) lý do có thể là do phương tiện 
thăm khám chẩn đoán của chúng tôi chưa 
được hoàn chỉnh, có đến 21,8% trường 
hợp không xác định được nguyên nhân. 
 79
 Hội chứng xoang hang cũng là một 
trong các nguyên nhân dẫn đến liệt dây 
thần kinh VI. 
 Theo Richards và Chaddan thì 
nhóm này thuộc nguyên nhân mạch máu. 
Nhưng theo cách phân chia của Kline [7] 
thành sáu hội chứng thì nhóm này được 
xếp vào hội chứng thứ tư vì vị trí tổn 
thương thần kinh VI nằm ở xoang hang. 
Theo nhiều tác giả nước ngoài, tổn 
thương ở xoang hang ít gây liệt thần kinh 
VI đơn độc mà thường đi kèm với liệt 
các dây thần kinh vận nhãn khác (dây III 
dây IV), dây V1. 
 Chỉ định tiêm độc tố Botulinum 
A 
 Độc tố Botulinum A đã được Scott 
(1980) [11], ứng dụng trong lâm sàng 
như là một liệu pháp thay thế phẫu thuật 
lác vào những năm 1980 và sau đó nhiều 
tác giả khác tiếp tục nghiên cứu trong 
điều trị chứng co giật mi: Jordan 1988 
[6], Scott (1987). Hiện nay BTA được sử 
dụng rộng rãi trong loạn trương lực cơ 
(dystonia): Morton (2001) và Jean (1997) 
ứng dụng BTA trong bệnh bại não, BTA 
còn được sử dụng để xoá các nếp nhăn 
của mặt: Brin (2000)[5]. 
 Trong điều trị lác liệt VI giai đoạn 
đang tiến triển, BTA được tiêm vào cơ 
trực trong cùng bên với mắt liệt để làm 
liệt tạm thời cơ này. Khi cơ trực trong bị 
liệt, cơ bị teo nhẹ, bị căng dài ra do đó 
làm giảm lác trong. Cơ trực trong bị yếu 
liệt cũng làm cơ trực ngoài (nếu liệt 
không hoàn toàn) tăng hoạt trường tương 
đối và hạn chế co cứng cơ trực trong. 
 Thời gian gây liệt sau khi tiêm từ 
hai đến bốn tháng, theo Good có thể đến 
sáu hoặc chín tháng. Việc tiêm BTA vào 
cơ trực trong trong giai đoạn này làm mắt 
được cân bằng ở tư thế nhìn thẳng và sau 
đó do tiến trình lành bệnh tự nhiên như 
trong liệt VI nghi do nhiễm vi rút, chấn 
thương sọ não gây liệt dây thần kinh VI 
một phần tạm thời, BN không cần điều trị 
gì thêm. Do vậy, chúng tôi nghiên cứu áp 
dụng tiêm BTA cho các trường hợp lác 
liệt dây thần kinh VI đơn thuần giai đoạn 
đang tiến triển không kèm liệt phối hợp 
các dây thần kinh khác để dễ đánh giá. 
 BTA không có chống chỉ định với 
trẻ em tuy nhiên trong nghiên cứu này 
dựa vào tác giả Helveston (1992), chúng 
tôi chỉ tiêm cho những BN trên 9 tuổi vì 
ở tuổi này trẻ có thể hợp tác tốt khi tiêm 
và liều tiêm bằng liều tiêm của người 
lớn. Liều tiêm là 10 đơn vị Dysport. 
 Kỹ thuật tiêm 
 Các tác giả nước ngoài, như 
Danielle Ranoux (2002)[12], Quah 
(1999)[9] sử dụng hai kỹ thuật sau đây: 
 a) Sử dụng cho người lớn và trẻ 
lớn có thể hợp tác tốt: Dùng máy ghi 
điện cơ (electromyography) có bộ 
khuyếch đại và phát âm thanh khi kim 
được đâm xuyên qua kết mạc vào đúng 
cơ trực trong, sau đó thuốc được tiêm 
nhẹ nhàng qua kim. Kỹ thuật này chỉ cần 
nhỏ thuốc tê tại chỗ và có thể thực hiện 
tại phòng khám, BN không phải nhập 
viện. Nhờ máy ghi điện cơ nên thầy 
thuốc có thể tiêm nhiều vị trí khó như cơ 
trực dưới, cơ chéo dưới (rất khó). 
 b) Dùng cho trẻ em nhỏ, hoặc 
trong khi phẫu thuật phối hợp tiêm BTA: 
Tiêm trực tiếp vào cơ trực trong sau khi 
gây mê hoặc gây tê, kỹ thuật này đòi hỏi 
mở kết mạc phía cơ được tiêm. 
 80
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, 
không có máy ghi điện cơ, hơn nữa mẫu 
lựa chọn của chúng tôi là những BN 
người lớn hoặc trẻ em trên 9 tuổi hợp tác 
tốt và chúng tôi chỉ tiêm duy nhất vào cơ 
trực trong, một vị trí dễ tiêm, không gần 
chỗ bám các cơ chéo như vị trí cơ trực 
ngoài nên chúng tôi cải tiến cách tiêm 
không dùng điện cơ, tiêm trực tiếp vào cơ 
trực trong xuyên qua kết mạc. 
 Thực tế cách tiêm này cũng đã 
được tác giả Lê Minh Thông [1] thực 
hiện, đã đạt được kết quả tương tự như 
kết quả của các tác giả nước ngoài, tuy 
cũng có một vài hạn chế sẽ bàn ở phần 
sau. 
 Kết quả tiêm 
 Kết quả đối với tình trạng song thị 
của bệnh nhân: 
 Sau 72 giờ tình trạng song thị của 
BN giảm 80,5% không khác biệt 
(P>0,05) so với kết quả của Metz (1991) 
[8] là 82,7% (24/29). 
 Tình trạng song thị là thông số 
được đánh giá đầu tiên mang một phần 
chủ quan của BN, nó thể hiện độ lác đã 
bắt đầu được cải thiện. Song thị giảm 
làm BN cảm thấy dễ chịu nên các hiện 
tượng chóng mặt, buồn nôn giảm theo. 
 So sánh với nhóm BN không được 
tiêm BTA chỉ được điều trị hỗ trợ 
vitamin nhóm B và tập luyện trong 
không gian thì tình trạng song thị hầu 
như không thay đổi. 
Kết quả đối với độ lác của bệnh nhân: 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi 
thời gian bắt đầu giảm lác từ ngày thứ ba 
và đạt tối đa vào ngày thứ tư hoặc ngày 
thứ năm, thời gian tác dụng kéo dài ba 
đến bốn tháng (biểu đồ 1). Điều này phù 
hợp với lí thuyết cũng như nghiên cứu 
của Brin [5]. 
 Tại thời điểm ngày thứ bẩy chúng 
tôi ghi nhận được 23 BN hết lác chiếm tỷ 
lệ 56,1%. Có 30 BN hết lác hoặc độ 
lác còn dưới 9 , chiếm tỉ lệ 73,1%, 11 
BN còn lác độ lác từ 9 đến 15 . Độ lác 
trung bình là 12 . 
 Tại nhóm không được tiêm độ lác 
không thay đổi. Độ lác trung bình cho 
nhóm này là 17 . 
 Tỷ lệ giảm lác sau tiêm BTA để 
điều trị liệt dây thần kinh VI trong 
nghiên cứu của Metz (1991)[8] là 76% 
(22/29) cao hơn so với kết quả của chúng 
tôi là 56,1% (23/41) (P<0,05). Tuy nhiên 
số liệu trên của tác giả Metz là kết quả 
sau 14 tháng theo dõi đã có góp phần của 
yếu tố khỏi bệnh tự nhiên của bệnh. 
 Tỷ lệ giảm độ lác trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 56,1% cao hơn kết quả 
của Quah (1999)[9] là 36,8% (7/19) 
(P<0,05). Nghiên cứu của Quah và cộng 
sự trên mẫu BN gồm những trường hợp 
liệt giai đoạn đang diễn tiến và giai đoạn 
ổn định vốn có ít hiệu quả khi điều trị 
bằng BTA. 
 Độ lác trung bình trong nhóm liệt 
dây thần kinh VI giai đoạn đang diễn tiến 
có tiêm BTA giảm mạnh bắt đầu từ ngày 
thứ ba sau tiêm và tương đối ổn định cho 
đến hết tháng thứ hai. So sánh từng thời 
điểm sau tiêm 3 ngày, 7 ngày, 2 tuần, 1 
tháng, thì độ lác trung bình của nhóm có 
tiêm BTA thấp hơn so với độ lác của 
nhóm không tiêm BTA (P<0,05 với U-
test). 
 Tại thời điểm tháng thứ tư độ lác 
trung bình hai nhóm khác biệt không rõ 
 81
rệt (P>0,05). Có nghĩa là BTA đã hết tác 
dụng. 
 Trên đồ thị cả hai nhóm đều có độ 
lác giảm dần cho đến tháng thứ 6 với độ 
lác trung bình dưới +8 , trên thực tế với 
độ lác +8 BN không còn song thị nhờ 
tư thế bù trù và được xem là thời điểm 
hết lác. Điều này phù hợp với đa số các 
tác giả H.H.Tiến, Helveston, Quéré [12] 
đã nhận thấy thời gian hồi phục lác liệt là 
từ 3 đến 6 tháng. 
 Hoạt trường sau khi tiêm tăng từ 
thời điểm sau 1 tuần, tăng rõ rệt vào tuần 
thứ hai. 
Hoạt trường tăng chậm hơn so với độ lác 
giảm. Trên biểu đồ 2 biểu diễn tác động 
của BTA lên hoạt trường cơ trực ngoài. 
Mức hoạt trường hai nhóm có tiêm và 
không tiêm BTA gặp nhau tại thời điểm 
tháng thứ tám với mức hoạt trường cải 
thiện hơn mức -1. 
 Các biến chứng sau tiêm BTA 
 Chúng tôi ghi nhận có 8 trường 
hợp (19,5%) bị sụp mi sau tiêm 3 ngày 
và kéo dài 2 tuần, trong đó có một trường 
hợp sụp mi mức độ nặng. 
 Tỷ lệ biến chứng sụp mi của chúng 
tôi tương tự như số liệu 20% của Metz 
[8]. Theo Hiệp hội Nhãn khoa Hoa Kỳ 
(1998) [3] biến chứng sụp mi dao động 
từ 17% đến 25%, số liệu của chúng tôi 
cũng nằm trong giới hạn này. 
 Tỷ lệ lác đứng 14,6% (6/41) tương 
tự như số liệu 17% của Hiệp hội Nhãn 
khoa của Hoa Kỳ [3]. Các biến chứng 
sụp mi và lác đứng là do BTA lan đến 
các mô kế cận [3], [8], [11]. 
 Biến chứng xuất huyết dưới kết 
mạc trong nghiên cứu của chúng tôi có 7 
trường hợp (17,1%) trong đó có 5 BN 
xuất huyết ngay sau tiêm 2 BN sau 3 
ngày, trong đó có 1 BN xuất huyết nặng 
kéo dài, biến chứng này nhiều hơn hẳn so 
với số liệu của Hiệp Hội Nhãn Khoa của 
Hoa Kỳ là 0,13 %. Chúng tôi cho rằng do 
kẹp, kéo cơ trực trong qua kết mạc và do 
cố gắng tìm tiêm đúng vào trong cơ nên 
làm xuất huyết kết mạc, trong nghiên cứu 
này có 5 BN xuất huyết ngay sau tiêm, 
đây cũng là khía cạnh hạn chế và bất lợi 
do không dùng máy ghi điện cơ để tiêm. 
Tuy nhiên, hạn chế này không lớn so với 
hiệu quả rõ ràng của BTA, hơn nữa khi 
đã quen bắt cơ trực trong từ sau đợt tiêm 
đầu tiên chúng tôi nhạn thấy số BN bị 
biến chứng này giảm. 
 Gần đây hai tác giả Reeck J. B. và 
Alexander L. Ramirez (2002) [10] đang 
nghiên cứu sử dụng độc tố Botulinum B 
(BTB) trong điều trị các nếp nhăn vùng 
mặt và ứng dụng vào điều trị trong nhãn 
khoa, đặc biệt dùng cho những trường 
hợp mà độc tố BTA đã kém tác dụng do 
tiêm nhiều lần. Độc tố BTB bền vững ở 
nhiệt độ phòng, và dung dịch đã pha có 
thể giữ trong tủ lạnh vài ngày, thuận lợi 
hơn độc tố BTA rất nhiều vì độc tố BTA 
phải sử dụng ngay trong ngày. Sau khi 
tiêm độc tố BTB sẽ có kết quả sau 48 
giờ, nhanh hơn độc tố BTA. Liều tiêm 
độc tố BTB còn đang được nghiên cứu. 
 Nghiên cứu này cũng đã mở ra một 
hướng nghiên cứu mới trong điều trị lác 
nói chung và lác liệt VI nói riêng. 
 Như vậy qua nghiên cứu này, 
chúng tôi đã xác định được hiệu quả của 
độc tố BTA và chỉ định ứng dụng trong 
thực tế. Chúng ta đã có thêm một biện 
pháp để điều trị lác liệt ở thời kỳ đang 
tiến triển. Chúng tôi thấy đây là một 
 82
phương pháp điều trị mới có kết quả tốt, 
nhất là đối với những trường hợp liệt nhẹ 
và vừa, độ lác thấp, hoạt trường vận nhãn 
hạn chế ít. Trong nhiều trường hợp nó có 
thể giúp tránh được phẫu thuật, rất tốt đối 
với BN trẻ em (tránh được gây mê). 
V. KẾT LUẬN 
 Tiêm độc tố Botulinum A vào cơ 
đối vận (trực trong) trong thời kỳ liệt 
đang tiến triển làm cải thiện rõ rệt song 
thị và độ lác của BN. Tác dụng của độc 
tố BTA sau khi tiêm cao nhất vào ngày 
thứ ba và kéo dài bốn tháng. Tỷ lệ giảm 
song thị là 80,5%, tỷ lệ giảm lác là 73,1. 
Hoạt trừơng cơ trực ngoài được cải thiện 
chậm hơn so với độ lác. Hoạt trường 
được cải thiện nhiều nhất vào tuần thứ 
hai và cải thiện dần cho đến tháng thứ 
tám. 
 Biến chứng khi tiêm độc tố 
Botulinum A: sụp mi 19,5%, xuất huyết 
dưới kết mạc nhẹ và vừa là 17%. Các 
biến chứng tự hết sau 2 đến 4 tuần. 
 Không có trường hợp nào bị thủng 
nhãn cầu khi tiêm và không có biến 
chứng toàn thân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. LÊ MINH THÔNG, NGUYỄN THUÝ HẰNG, NGUYỄN THANH NAM, VÕ 
NGUYÊN UYÊN THẢO (2004),” Kết quả bước đầu của sử dụng Dysport trong 
điều trị”, Bản tin Nhãn khoa, Hội Nhãn khoa TP. HCM, số 2, tr. 2-8. 
2. VŨ BÍCH THUỶ, TRẦN THỊ CHU QUÝ (2004),”Nhận xét về đặc điểm lâm 
sàng và kết qủa điều trị liệt dây VI”, Kỷ yếu hội nghị khoa học kỹ thuật ngành 
nhãn khoa toàn quốc 2002-2004, Hội Nhãn khoa Việt Nam, tr. 147. 
3. AMERICAN ACADEMY OF OPHTHALMOLOGY (1999), “ 
Chemodenervation treatment of strabismus and blepharospasm using Botulinum 
toxin” in Pediatric ophthalmology and strabismus, section 6, p. 159. 
4. BAJANDAS F. J. (1977), “The six syndromes of the sixth nerve”, Neuro-
ophthalmology update, J. Lawton Smith, Mansson publishing, pp. 49-71. 
5. BRIN M. F. (2000),” Botulinum toxin therapy: Basic science and overview of 
other therapeutic applications”, in Management of facial lines and wrinkles, 
Andrew Blitzer, Lippincott Williams & Wilkins, pp. 279-293. 
6. JORDAN D. R., RICHARD L. ANDERSON (1988), “Essential blepharospasm”, 
American Academy of Ophhalmology, Vol. 6, pp. 1-4. 
7. KLINE L. B., FRANK J. BAJANDAS (2001), “ The six syndromes of the VI nerve 
(abducens)”, in Neuro-opthalmology, Slack incorporated, pp. 93-102. 
8. METZ H. S., CAROL F. DICKEY (1991), “ Treatment of unilateral acute sixth-
nerve palsy with Botulinum toxin”, American journal of Ophthalmology, vol. 
112, pp. 381-383. 
9. QUAH B.L., Y.L. F. LING, P.Y.Y. CHEONG, V. BALAKRISHMAN (1999), 
“A review of 5 years “, Experience in the use of Botulinum toxin A in the 
 83
treatment of sixth cranial nerve palsy at Singapore national eye centre”, 
Singapore Medical journal, vol. 40, p. 06. 
10. REECK JAY B., RAMIREZ AL. (2002), “A second type of Botulinum toxin, 
BTX-B may be effective for treating face wrinkles”, Science daily, 
11. SCOTT A. B. (1980), “Botulinum toxin injection in extraocular as an alternative 
to strabismus surgery”, in Ophthalmology, vol. 87 (10), pp. 1044-1049. 
12. DANIELLE RANOUX ET CHARLES GURY (2002), “Troubles oculomoteurs”, 
Manuel d’utilisation pratique de la Toxine Botulique, Solal e’diteur, Marseille, 
pp. 133-143. 
13. QUÉRÉ M.A., F LAVENANT, P.J. TOULEMONT (1989), ”Chirurgie des 
paralysies du VI”, Ophtalmology, tome 3, Numéro 2, pp. 150-153. 
SUMMARY 
STUDYING OF USING BOTULINUM TOXIN A 
FOR TREATMENT OF ACUTE SIXTH NERVE PALSY 
 Objectives: to evaluate the result of Botulinum Toxin A (BTA) injection to treat 
acute sixth nerve palsy. Methods: this is prospective study, including cross-sectional 
study combine with longitudinal study for three years in Ho Chi Minh City Eye 
Hospital. The patients were devided into two groups, the first was injected BTA and the 
second was not injected BTA. Patients were followed up diplopia, strabismus degree, 
action field of lateral rectus muscle and complications after injection. Results: patients 
with acute sixth nerve palsy injected BTA into antagonist (medial rectus muscles) have 
been improved diplopia and strabismal degree. The maximum time of paralysis 
(antagonist) occurred three or four days following the injection. The results: 80.5% got 
diplopic improvement; 73.1% achieved decrease of deviation in which 56.1% got 
orthotropia at primary gaze. The recovery of action field was slower than that of 
strabismal degree. 
 The complications included: 19.5% ptosis, 17% subconjunctival hemorrhage, just 
temporary and self-recovery within severals weeks. There was no case of scleral 
perforation, no toxic systemic effect. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 de_tai_nghien_cuu_su_dung_doc_to_botulinum_a_dieu_tri_lac_li.pdf de_tai_nghien_cuu_su_dung_doc_to_botulinum_a_dieu_tri_lac_li.pdf