Đề tài Nghiên cứu phân tích mối quan hệchính giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Việt Nam

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu phân tích mối quan hệchính giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Việt Nam: 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, từ năm cuối năm 2006 đến nay, Việt Nam chúng ta đang dần gỡ bỏ những rào cản thương mại cho phù hợp với điều kiện gia nhập WTO, cơ chế điều hành tỷ giá cũng phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế hội nhập và phải đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Chính phủ. Cơ chế và những chính sách điều hành tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên cán cân thương mại của Việt Nam. Chúng ta phải công nhận rằng cơ chế và chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian về sau càng linh hoạt và theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài nước và đã đạt được nhiều thành công rất đáng khích lệ, đặc biệt là những tác động tích cực của tỷ giá lên cán cân thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh thương mại cũng như luôn phải đối diện với “căn bệnh” nhập siêu. Đã có rất nhiều tranh luận đề cập về nguyên nhân của căn bệnh này...

pdf69 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1106 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu phân tích mối quan hệchính giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, từ năm cuối năm 2006 đến nay, Việt Nam chúng ta đang dần gỡ bỏ những rào cản thương mại cho phù hợp với điều kiện gia nhập WTO, cơ chế điều hành tỷ giá cũng phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế hội nhập và phải đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Chính phủ. Cơ chế và những chính sách điều hành tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên cán cân thương mại của Việt Nam. Chúng ta phải công nhận rằng cơ chế và chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian về sau càng linh hoạt và theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài nước và đã đạt được nhiều thành công rất đáng khích lệ, đặc biệt là những tác động tích cực của tỷ giá lên cán cân thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh thương mại cũng như luôn phải đối diện với “căn bệnh” nhập siêu. Đã có rất nhiều tranh luận đề cập về nguyên nhân của căn bệnh này. Trong đó, có đề cập đến nguyên nhân là do chính sách tỷ giá chưa thật sự hợp lý?!. Để hiểu rõ cụ thể tác động tỷ giá hối đoái có mối tương quan như thế nào với cán cân thương mại thì chúng ta cần phải phân tích thật rõ về nó. Và đó cũng là lý do Tôi lựa chọn đề tài này. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu phân tích mối quan hệ chính giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Việt Nam. Phản ánh cơ chế, chính sách điều hành tỷ giá Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, và nêu lên một số gợi ý những chính sách liên quan nhằm cải thiện cán cân thương mại. Ngoài ra đề tài còn nêu lên một số ý kiến của chuyên gia, những quan điểm khác nhau về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế hiện nay 2 3. Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu sử dụng phương pháp liệt kê, mô tả, so sánh, phân tích số liệu thực tiễn, đối chiếu,… kết hợp về mặt lý thuyết, các học thuyết kinh tế, kinh nghiệm điều hành; lấy mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiển làm phương pháp chủ đạo để phân tích. 4. Định hướng phân tích dữ liệu: Phân tích định tính: - Lấy cơ sở dữ liệu từ những tài liệu chính quy liên quan đến đề tài - Từ những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến đề tài (nghị định, thông tư, hướng dẫn, quy chế,…) - Từ những nhận định của các chuyên gia kinh tế Phân tích định lượng: - Phân tích số liệu sơ cấp: chạy số liệu thực tiễn trên những mô hình được xây dựng phù hợp với đề tài. - Phân tích số liệu thứ cấp (lấy từ các nguồn thống kê, báo đài, tạp chí, các số liệu phân tích nội bộ, số liệu phân tích của các Ngân hàng, của các chuyên gia kinh tế,…) 5. Cấu trúc đề tài: Đề tài được chia thành 04 chương: CHƯƠNG 1: CÁC QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT VÀ MỐT SỐ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CẤN CÂN THƯƠNG MẠI CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ LÊN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHƯƠNG 3: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 3 CHƯƠNG 1: CÁC QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT VÀ MỐT SỐ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CẤN CÂN THƯƠNG MẠI: 1.1. Các quan điểm chủ đạo trong mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại: 1.1.1. Các loại tỷ giá được ứng dụng trong phân tích tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại: 1.1.1.1. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal Exchange Rate) Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được sử dụng (niêm yết) hàng ngày trong giao dịch trên thị trường ngoại hối, nó chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương là giá cả của một đồng tiền so với một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá danh nghĩa đa phương (NEER–Nominal Efective Exchange rate): NEER không phải là tỷ giá, nó là một chỉ số được tính bằng cách chọn ra một số loại ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính tỷ giá trung bình các tỷ giá danh nghĩa của các đồng tiền có tham gia vào rổ tiền tệ với tỷ trọng tỷ giá tương ứng. Tỷ trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của nước có đồng nội tệ đem tính NEER so các nước có đồng tiền trong rổ được chọn. 1.1.1.2. Tỷ giá hối đoái thực (Real Exchange Rate) Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa hai đồng tiền được điều chỉnh bởi chỉ số giá cả giữa hai nước. Tỷ giá thực phản ảnh tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa hai quốc gia. Tỷ giá thực song phương (RER) là tỷ giá danh nghĩa1 đã được điều chỉnh theo mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là chỉ số thể hiện sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Vì thế có thể xem tỷ giá thực là thước đo sức cạnh tranh trong mậu dịch quốc tế của một quốc gia so với một quốc gia khác. 4 Tỷ giá thực đa phương hay tỷ giá thực hiệu lực (REER): Tỷ giá thực song phương chỉ cho chúng ta biết được sự lên giá hay xuống giá của đồng nội tệ so với một đồng ngoại tệ. Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ buôn bán với rất nhiều nước trên thế giới. Vấn đề được đặt ra là tại một thời điểm nhất định làm sao có thể biết được đồng nội tệ lên giá hay giảm giá so với các đồng tiền của các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, hay nói cách khác là làm sao để có thể biết được tương quan sức mua hàng hóa của đồng nội tệ với các đồng ngoại tệ để làm cơ sở đánh giá tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại của quốc gia? Để có cái nhìn toàn diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình). Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp. Chỉ số này rất hữu ích cho việc đạt được mục tiêu thích hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa linh hoạt và cố định. Vì vậy, nó được nhìn nhận như là dữ liệu cơ bản cho quá trình thực thi chính sách. Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra giá trị thực của đồng nội tệ so với các ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so với lạm phát các đối tác tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng ngoại tệ. Sau đó xác định quyền số (mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ trọng thương mại của từng đối tác với quốc gia có đồng tiền tính REER). Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định thấp, ngược lại REER nhỏ hơn 100 bị định giá cao, REER bằng 100 đồng nội tệ có ngang giá sức mua so với “rổ tiền tệ” 1.1.2. Các kiểu thương mại được ứng dụng để phân tích: 1.1.2.1. Thương mại song phương: là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa hai bên (phía), hai quốc gia trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận song phương. 1.1.2.2. Thương mại đa phương: Là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ nhiều bên (phía), nhiều quốc gia. Việc trao đổi mua bán đa phương phải tuân thủ những thỏa thuận chung của tổ chức (hiệp hội) đa phương đó. Hệ thống thương mại đa 5 phương trước hết được quy ước chung. Điều này đối lập với các mối quan hệ thương mại song phương, trong đó chỉ có hai nước tự thoả thuận những quy tắc điều chỉnh thương mại giữa hai nước đó với nhau. Trong WTO, từ "đa phương" có ý nghĩa phân định rõ rệt hơn. Hệ thống thương mại đa phương dùng để chỉ hệ thống thương mại do WTO điều chỉnh. Do không phải toàn bộ các nước trên thế giới đều là thành viên WTO nên "đa phương" sẽ chỉ phạm vi hẹp hơn "toàn cầu". Mặt khác, "đa phương" cũng không đồng nghĩa với những thoả thuận của từng nhóm nước tại một khu vực nhất định trên thế giới, ví dụ như EU, ASEAN, NAFTA, v.v... Như vậy, "đa phương" là khái niệm đứng giữa "toàn cầu" và "khu vực". Cần lưu ý rằng trong quan hệ quốc tế nói chung, "đa phương" có thể chỉ bất kỳ mối quan hệ nào có hơn hai nước trở lên tham gia. 1.1.3. Lý thuyết về các nhân tố tác động lên cán cân thương mại: 1.1.3.1. Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại: Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng. Cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội hơn. Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẳn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. 6 Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng nội hay trong nước chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay. Thâm hụt (-) Thặng dư (+) Cán cân vãng lai Thời gian Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng nhập cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi. Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 – 1987, thì ban đầu cán cân vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện. 7 Hình 1.1: Hiệu ứng đường cong J Cán cân vãng lai Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài hạn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J: Tuy nhiên, có nhiều đề tài nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh được sự tồn tại của đường cong J khi tiến hành phá giá đồng nội tệ như Grassman (1973), Razin (1981), Dr. Alireza Rahimiboroujerdi (2004). Bên cạnh đó vẫn có một số nghiên cứu chứng minh được không có sự hiện diện của đường cong J trong nghiên cứu của họ như: Ahmad and Yang (2004), Ng Yuen – Ling, Har Wai – Mun, Tan Geoi – Mei (2008). Thêm một phát hiện thứ ba theo nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep Ramesh (2005) chứng minh được sự tồn tại của đường cong M, lập luận trên cơ sở (khi tỷ giá tăng, ngay tức thì lượng nhập khẩu sẽ giảm và xuất khẩu sẽ không giảm dẫn đến sự thặng dư tức thì cán cân thương mại do nhập khẩu giảm, giai đoạn tiếp theo là hiệu Thặng dư (+) Thâm hụt (-) Thời gian 8 ứng giá cả từ việc phá giá làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt, giai đoạn kế tiếp là ảnh hưởng của hiệu ứng khối lượng (gia tăng xuất khẩu) làm cán cân thương mại thặng dư, đến thời điểm tiếp theo nữa là giai đoạn tự điều tiết của thị trường và hoạt động thương mại sẽ trở lại bình thường dẫn đến xét trong dài hạn thì hiệu ứng đường cong J là không tồn tại. Hình 1.2: Đường cong M ở Ấn Độ trong nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep Ramesh (2005) Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J là: Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả. 9 Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước phát triển tỷ lệ hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời gian tác động lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển tỷ trọng loại hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển. Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ. Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước: Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài. 1.1.3.2. Chi phí thương mại: theo nghiên cứu thực tiễn của Baldwin and Krugman(1989), Nunn (2007), Levchenko (2007), Antoine Berthou (2008) và một số chuyên gia khác về sự tác động của chi phí thương mại lên hoạt động xuất khẩu đồng thời gián tiếp tác động lên cán cân thương mại của quốc gia với một độ trễ nhất định. Nghiên cứu nói rằng độ co giãn của xuất khẩu theo tỷ giá sẽ giảm khi: 10 (i) chất lượng kém về thể chế (cơ chế quản lý) của các quốc gia đến làm phát sinh chi phí chìm (quan liêu, tham nhũng, chính sách không ổn định, quyền lợi dân chủ, pháp luật và trật tự, chính sách đầu tư, hàng rào thuế quan). Sự không ổn định càng cao sẽ làm tăng những khoảng chi phí chìm rất lớn (ii) khoảng cách xa hơn về mặt địa lý (iii) hiệu quả của hải quan là thấp ở cả các nước nhập khẩu và xuất khẩu(chủ yếu là thủ tục khai báo hải quan) 1.1.3.3. Cơ chế điều hành tỷ giá và chính sách bảo hộ của Chính phủ: Trong các cuộc nghiên cứu thực nghiệm gần đây của các chuyên gia trên thế giới thì hầu hết đã tìm ra được tầm quan trọng cũng như vay trò của tỷ giá đối với hàng hóa xuất nhẩu nói riêng và cán cân thương mại nói chung. Các nhà hoạch định kinh tế ngoài việc dùng công cụ tỷ giá để cân đối các mục tiêu quốc gia còn có thể dùng nó để làm công cụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của hàng hóa trong nước nhằm gia tăng thặng dư cán cân thương mại. Việc tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước đã được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc,… và đang trở thành xu hướng (cũng có thể là lạm dụng) toàn cầu trong giai đoạn hiện nay và các chuyên gia trên thế giới cảnh báo rằng có thể nó sẽ gây ra một hình thức chiến tranh mới trong lịch sử đó là “chiến tranh tỷ giá”. Viễn cảnh này sẽ dẫn đến nhiều hậu quả rất khác nhau, có thể làm giảm uy tín của một quốc gia trên thế giới, một cơ chế phòng thủ thương mại (trừng phạt thương mại) sẽ được hình thành cho mỗi quốc gia, làm mất dần tính bình đẳng và lành mạnh trong thương mại quốc tế, tệ hơn hết là thế giới sẽ đối diện với các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới. Trong một xu thế thương mại toàn cầu thì chính sách bảo hộ thương mại không phải là một lựa chọn tối ưu cho một quốc gia, cần phải giảm bớt và gỡ bỏ trong thời gian tới. Một chính sách bảo hộ thương mại của quốc gia này thì sẽ được xem là rào cản thương mại đối với quốc gia khác và chắc chắn họ sẽ phản ứng lại bằng cách này hay cách khác. Chính sách bảo hộ có thể là ưu đãi thuế xuất khẩu, tăng thuế nhập khẩu, 11 trợ cấp xuất khẩu, các chính sách ưu đãi nói chung cho các công ty xuất khẩu nội địa,… sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước so với các nước khác nhưng về lâu dài thì đây không phải là lựa chọn tối ưu mà cần có những chính sách khôn ngoan hơn để thay thế. 1.1.3.4. Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall – Lerner: Phương pháp hệ số co giãn do 2 tác giả Alfred Marshall và Abba Lerner áp dụng lần đầu và được Joan Robinson (1973), Fritz Machlup (1955) mở rộng. Phương pháp này dựa trên một số giả thiết: Cung và cầu hàng hóa có hệ số co giãn hoàn hảo, nghĩa là ứng với mỗi mức giá nhất định thì nhu cầu hàng hóa xuất nhập khẩu luôn luôn được thỏa mãn. Nội dung của phương pháp này chủ yếu phân tích những tác động của phá giá lên cán cân vãng lai. Hệ số co giãn xuất khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dX/X ηx = dE/E Hệ số co giãn nhập khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dM/M ηm = dE/E Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1, (ηx + ηm>1). Điều kiện này đặt theo tên của hai học giả kinh tế đã phát hiện ra nó, đó là Alfred Marshall và Abba Lerner. 12 Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn như Yue and Hua (2002), Bénassy – Quéré and Lahrèche – Révil (2003), Lau et al (2004), Marquez and Schindler (2006), Shu and Yip (2006) cho thấy rằng trong dài hạn (từ hai đến ba năm) tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1, tức phá giá có tác động đến xuất nhập khẩu. Theo khảo sát thực nghiệm của Goldstein và Kahn (1985) thì tổng hệ số co giãn trong dài hạn (dài hơn hai năm) luôn lớn hơn 1, trong khi trong ngắn hạn (dưới 6 tháng) nó có xu hướng tiến gần đến 1. Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ số co giãn xuất khẩu và hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong dài hạn. Vì vậy, điều kiện Marshall-Lerner chỉ có thể được duy trì trong dài hạn. Có quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu nên độ co giãn giá của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập khẩu sẽ không giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường xuất khẩu tương đối có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu có thể lớn hơn (tức giá trị xuất khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý rằng phá giá ở các nước phát triển sẽ có tác động cải thiện cán cân thương mại mạnh hơn so với các nước đang phát triển hay nói cách khác, việc phá giá là một giải pháp có thể cải thiện thâm hụt thương mại ở quốc gia này nhưng có thể sẽ không có tác động ở quốc gia khác. Nó cũng khuyến cáo các quốc gia đang phát triển nên thận trọng khi sử dụng biện pháp phá giá mạnh đồng nội tệ của mình nhằm kích thích xuất khẩu. 1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tỷ giá và cán cân thương mại trên thế giới: Đã có rất nhiều tranh luận lý thuyết lẫn nghiên cứu thực tiễn về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại trên thế giới. Từ việc nghiên cứu độc lập mối tương quan giữa tỷ giá và cán cân thương mại đến các nghiên cứu tổng hợp thêm các yếu tố tác động đồng thời khác lên cán cân thương mại. Kết quả chứng minh thực tiễn trên từng quốc gia, từng khung thời gian và trên từng quốc gia lại đưa ra rất nhiều kết quả khác nhau. Phương pháp, cách tiếp cận đa dạng của các nhà kinh tế học đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện, đa chiều về mối quan hệ này. 13 Các nhà kinh tế học dần dần chuyển hóa các cơ sở lý thuyết thành nghiên cứu ứng dụng cho thực tiễn, tìm nguyên nhân và giải pháp nhằm cải thiện cán cân thương mại cho từng quốc gia với đặc thù riêng của từng quốc gia đó. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả như Viaence and de Vries (1992), Franke (1991), Sercu and Vanhulle (1992), Hook and Boon (2000), Vergil (2002), Das (2003), Berdin et al. (2003), Baak (2004), Arize et al. (2005), Hwang and Lee (2005), Lee and Saucier (2005), Alicia García - Herrero and Tuuli Koivu (2007), Ng Yuen – Ling, Har Wai – Mun, Tan Geoi – Mei (2008) Alicia García - Herrero and Tuuli Koivu (2007), Ng Yuen – Ling, Har Wai – Mun, Tan Geoi – Mei (2008) vẫn tập trung trả lời một câu hỏi là: sự biến động của tỷ giá sẽ làm thay đổi cán cân thương mại như thế nào? Kết quả đưa là một khuynh hướng từ không tác động đến có tác động đồng biến đến hoạt động xuất khẩu; nghĩa là tăng tỷ giá sẽ làm cải thiện được cán cân thương mại hay nói cách khác là làm giảm giá trị đồng nội tệ có khuynh hướng có lợi cho xuất khẩu. Như vậy, mỗi điều kiện cụ thể của từng quốc gia thì sẽ cho ra những kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác nhau và nguyên nhân cũng khác nhau. Nhưng có một điểm chung nhất là việc tăng tỷ giá hay nói cách khác là làm giảm giá trị đồng nội tệ ít nhiều có ảnh hưởng tích cực lên hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Còn việc cán cân thương mại có được cải thiện hay không thì còn phải xét đến một số yếu tố tác động như độ co giãn của xuất khẩu – nhập khẩu theo tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá, chính sách bảo hộ thương mại, chi phí thương mại, cơ cấu xuất nhập khẩu và một số yếu tố khác và có một xu hướng là các quốc gia trên thế giới đang có khuynh hướng định giá thấp đồng nội tệ để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. 1.3. Cảnh báo nguy cơ về một khả năng chiến tranh tỷ giá toàn cầu trả đũa thương mại: Gần đây chúng ta đã thấy rằng có rất nhiều tranh cãi trên thế giới phê phán về chính sách định giá thấp đồng nội tệ của một số quốc gia trên thế giới để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, điểm nhấn là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, 14 Brasil,… các quốc gia bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên để chịu phần thiệt thòi về mình và chắc chắn họ sẽ có những biện pháp phản ứng lại là điều tất yếu, có thể họ phá giá đồng bản tệ nếu điều kiện vĩ mô cho phép hoặc sẽ xây dựng nên các bức tường phòng thủ như trừng phạt thương mại, rào cản thuế quan, chính sách hỗ trợ hàng xuất khẩu trong nước, hoặc tạo ra các áp lực về ngoại giao để bắt buộc các nước định giá thấp đồng bản tệ phải định giá lại. Nếu các nước trên thế giới cứ mạnh ai nấy làm theo cách riêng của mình mà không có một thỏa thuận chung thì nguy cơ về một cuộc chiến tranh tỷ giá hoàn toàn có thể xảy ra trên thế giới. Kết luận chương 1: Trong phần trình bày của chương đã nêu lên những quan điểm về lý thuyết cũng như những nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả trên thế giới mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại. Các kết quả thực nghiệm đã nêu lên được rằng sự tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại là rất khác nhau cho mỗi quốc gia, thậm chí đối với một quốc gia nếu chọn khung thời gian kiểm chứng khác nhau cũng có những kết quả khác nhau vì tỷ giá và cán cân thương mại còn phải chịu sự chi phối của những nhân tố khác như: GDP, FDI, Thuế bảo hộ, cơ chế điều hành, chi phí thương mại, chi phí nhân công, tập quán thương mại quốc tế, độ co giãn của xuất khẩu nhập khẩu đối với tỷ giá của từng quốc gia, nợ quốc gia,… Trong chương tiếp theo chúng ta sẽ phân tích mối quan hệ tác động giữa tỷ giá lên cán cân thương mại như thế nào ở Việt Nam? 15 CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ LÊN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Trong phần trình bày này với kiến thức phân tích kỹ thuật ứng dụng còn hạn chế, Tôi xin chạy mô hình hồi quy cơ bản trên phần mềm EVIEW để phân tích. Rất mong nhận được sự cảm thông của Thầy cô và những đọc giả xem được phần trình bày này. 2.1. Các bước tính tỷ giá thực song phương và tỷ giá thực đa phương (REER) Chọn năm cơ sở: năm cơ sở là năm được sử dụng làm năm gốc cho việc tính toán tỷ giá thực đa phương. Việc lựa chọn năm cơ sở này rất quan trọng vì tương ứng với mốc thời gian khác nhau sẽ cho ra kết quả tính tỷ giá thực đa phương khác nhau. Năm cơ sở tốt nhất là không quá xa vì nếu thời gian phân tích quá xa sẽ không sát với thực tế. Theo quan điểm của chúng tôi có 3 mốc thời gian có thể lựa chọn làm năm cơ sở là: 1992, 2000, 2001. Mỗi năm sẽ có từng đặc điểm khác nhau. Năm 1992 là năm kinh tế Việt Nam thực hiện chương trình “đổi mới” , xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa và cho phép tự do giá cả nhiều mặt hàng đã làm cho tỷ giá trong năm này gần như đạt được trạng thái cân bằng thực, các chỉ tiêu về vĩ mô tương đối ổn định. Năm 2000, 2001 là hai năm khá lý tưởng cho việc chọn làm năm gốc vì các năm 2000, 2001 có tỷ lệ thâm hụt cán mậu dịch là rất thấp và ổn định chỉ số giá tiêu dùng các năm này cũng được đánh giá là ổn định. Chúng ta sẽ sử dụng mốc thời gian là năm 2000 để dễ có cơ sở nhận định khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam hơn và với quy mô mẫu cũng tương đối vừa và phù hợp. Chọn rổ tiền tệ đặc trưng: Đồng tiền được đưa vào “rổ tiền” để tham gia tính tỷ giá thực đa phương sẽ căn cứ và ưu tiên theo một số tiêu chí là những đối tác thương mại truyền thống với Việt Nam có tỷ trọng thương mại lớn, các đối tác có sự cạnh tranh trong xuất khẩu với Việt Nam, các đồng tiền mạnh, đại diện các đối tác tiềm năng trong thời gian tới. 16 Đô la Mỹ (USD) là đồng tiền đầu tiên có mặt trong rổ tiền vì đây là đồng tiền mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất thế giới hiện nay. Đồng EURO (EUR) tiếp theo sẽ tham gia rổ tiền vì nó là một trong những đồng tiền mạnh nhất thế giới, khu vực sử dụng đồng EURO có giao thương rất lớn với Việt Nam, chúng ta sẽ chọn hai quốc gia Châu Âu làm đại diện là Đức và Pháp Đồng Yen Nhật (JPY) cũng là một lựa chọn hợp lý, do đây là đồng tiền có nền kinh tế đứng thứ 2 trên thế giới, đồng thời cũng là đối tác thương mại lớn của Việt Nam Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc (CND) không thể thiếu trong “rổ tiền” , vì đây là Quốc gia đông dân nhất thế giới, được dự đoán là sẽ thay thế vị trí thứ 2 của Nhật Bản trong thời gian tới, đồng thời Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, trao đổi thương mại song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam luôn có tỷ trọng rất lớn và Việt Nam luôn chịu cảnh nhập siêu với Trung Quốc. Các đồng tiền của các nước ASEAN như Thái Lan (THB), Singapore(SGD) được chọn vì đây là những đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong giao thương quốc tế. Đồng tiền của hai quốc gia Đài Loan (TWD), Hàn Quốc (KRW) đại diện cho các quốc gia phát triển Châu Á được lựa chọn do kim ngạch xuất nhập khẩu với Việt Nam tương đối lớn Đồng Đôla Úc (AUD) được đưa vào rổ tiền do AUD là đồng tiền có thể chuyển đổi được và cũng là một trong những đồng tiền mạnh, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Úc trong những năm gần đây đã tăng lên rất cao Thu thập dữ liệu: - Tỷ giá danh nghĩa: tỷ giá giữa Việt Nam đồng và các đồng tiền trong rổ tiền vào cuối kỳ. Hai nước Châu Âu (Đức, Pháp) sẽ chọn tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng EURO. - Chỉ số lạm phát: lấy chỉ số giá tiêu dùng(CPI) của kỳ này so với kỳ trước 17 - Kim ngạch xuất nhập khẩu: lấy theo từng thời kỳ (cuối quý) giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại. Giá trị xuất nhập khẩu được quy đổi thành đơn vị là triệu USD thống nhất cho các đối tác giao dịch với Việt Nam Tính tỷ giá thực song phương và tỷ giá thực đa phương - Tỷ trọng thương mại (Wi): đầu tiên, cộng tất cả các giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam và các đối tác ở từng thời kỳ. Lấy giá trị xuất nhập khẩu của từng đối tác chia cho tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của tất cả các đối tác ta được tỷ trọng thương mại của từng đối tác. Tổng các tỷ trọng thương mại này bằng 1 - Điều chỉnh chỉ số CPI của từng quốc gia về kỳ gốc: chọn kỳ gốc Quý 1 năm 2000 thì chỉ số CPI kỳ gốc là 100. CPI điều chỉnh thời điểm t được tính theo công thức: CPIt CPIt0 = ---------- x 100 CPI0 Với: CPIt0 : là chỉ số CPI điều chỉnh thời điểm t CPIt : là chỉ số CPI thực tế thời điểm t CPI0 : là chỉ số CPI thực tế thời kỳ gốc (Quý 1 năm 2000) - Điều chỉnh chỉ số tỷ giá của từng quốc gia về kỳ gốc: tương tự như cách điều chỉnh chỉ số CPI, tính theo công thức sau: Et et0 = x 100 E0 Với: et0 : là chỉ số tỷ giá danh nghĩa điều chỉnh thời điểm t Et : là tỷ giá danh nghĩa thời điểm t E0 : là tỷ giá danh nghĩa kỳ gốc (Quý 1 năm 2000) 18 - Tính tỷ giá thực song phương của Việt Nam đồng với từng đồng tiền trong “rổ tiền”, theo công thức sau: CPIft0 et0r = e t 0 100% CPIht0 Với: et0 : là chỉ số tỷ giá danh nghĩa điều chỉnh thời điểm t CPIft0 : là chỉ số CPI điều chỉnh nước ngoài thời điểm t CPIht0 : là chỉ số CPI điều chỉnh trong nước thời điểm t et0r : là chỉ số tỷ giá thực thời điểm t - Chỉ số tỷ giá thực đa phương được tính theo công thức sau: n CPIij REER = ∑eij.wj. J=1 CPIi Bảng 2.1: Tính tỷ giá thực đa phương từ năm 2000 – 2009 (năm gốc 2000) 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Giá trị xuất khẩu 1 Singapore 1,024.00 1,370.01 1,808.54 1,811.70 2,201.99 2,659.73 2,076.25 2 Thái Lan 335.40 518.10 863.00 930.20 1,033.90 1,348.90 1,266.00 3 Đài Loan 749.00 905.86 936.15 978.70 1,139.40 1,401.39 1,120.64 4 Hàn Quốc 492.10 608.10 663.60 842.90 1,252.70 1,784.40 2,064.00 5 Nhật Bản 2,909.00 3,502.36 4,411.19 5,240.09 6,069.80 8,537.94 6,291.81 6 Trung Quốc 1,748.00 2,735.50 2,961.01 3,242.79 3,356.70 4,535.67 4,909.03 7 Đức 855.00 1,066.19 1,086.70 1,445.29 1,855.10 2,073.42 1,885.41 8 Pháp 496.00 556.99 652.70 797.20 884.41 970.84 808.55 9 Mỹ 4,554.90 4,992.32 5,930.61 7,845.10 10,089.10 11,868.51 11,355.76 10 Úc 1,420.90 1,884.70 2,722.80 3,744.70 3,556.90 4,225.20 2,276.72 Tổng 14,584.30 18,140.13 22,036.30 26,878.67 31,440.00 39,406.00 34,054.17 Giá trị nhập khẩu 1 Singapore 2,878.00 3,618.46 4,482.92 6,273.90 7,608.60 9,422.53 4,248.36 2 Thái Lan 1,282.20 1,858.60 2,374.10 3,034.40 3,737.20 4,905.60 4,514.00 3 Đài Loan 2,916.00 3,698.01 4,303.98 4,824.90 6,916.60 8,362.64 6,252.56 4 Hàn Quốc 2,625.40 3,359.40 3,594.10 3,908.40 5,334.00 7,066.30 6,976.36 5 Nhật Bản 2,994.00 3,552.60 4,074.34 4,702.10 6,177.70 8,240.66 7,468.09 6 Trung Quốc 3,122.00 4,456.45 5,899.67 7,391.30 12,502.00 15,652.13 16,440.95 7 Đức 610.00 594.35 662.77 914.50 1,308.50 1,480.01 1,587.30 19 8 Pháp 492.00 616.97 447.90 421.43 1,164.30 829.45 864.40 9 Mỹ 1,324.40 1,127.40 863.38 987.00 1,699.70 2,635.29 3,009.39 10 Úc 278.00 458.80 498.50 1,099.70 1,059.40 1,360.50 1,050.03 Tổng 18,522.00 23,341.05 27,201.66 33,557.63 47,508.00 59,955.10 52,411.43 Tỷ trọng (Wi) 1 Singapore 0.118 0.120 0.128 0.134 0.124 0.122 0.073 2 Thái Lan 0.049 0.057 0.066 0.066 0.060 0.063 0.067 3 Đài Loan 0.111 0.111 0.106 0.096 0.102 0.098 0.085 4 Hàn Quốc 0.094 0.096 0.086 0.079 0.083 0.089 0.105 5 Nhật Bản 0.178 0.170 0.172 0.165 0.155 0.169 0.159 6 Trung Quốc 0.147 0.173 0.180 0.176 0.201 0.203 0.247 7 Đức 0.044 0.040 0.036 0.039 0.040 0.036 0.040 8 Pháp 0.030 0.028 0.022 0.020 0.026 0.018 0.019 9 Mỹ 0.178 0.148 0.138 0.146 0.149 0.146 0.166 10 Úc 0.051 0.056 0.065 0.080 0.058 0.056 0.038 Tổng 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 1 Singapore 100.50 101.70 100.50 101.00 102.10 106.50 108.95 2 Thái Lan 101.80 102.80 104.50 104.70 102.30 105.50 99.10 3 Đài Loan 99.70 101.60 102.30 100.60 101.80 103.50 100.24 4 Hàn Quốc 103.50 103.60 102.80 102.20 102.50 104.67 102.80 5 Nhật Bản 99.70 100.00 99.70 100.30 100.00 101.38 96.79 6 Trung Quốc 101.20 103.90 101.80 101.50 104.80 105.90 135.67 7 Đức 101.04 101.67 101.56 101.58 102.29 102.63 100.43 8 Pháp 102.11 102.13 101.74 101.68 101.49 102.81 99.84 9 Mỹ 102.30 102.70 103.40 103.20 102.80 103.84 95.82 10 Úc 103.10 102.40 102.40 103.20 102.90 104.35 101.82 11 Việt Nam 103.10 107.80 108.30 107.50 108.30 122.97 106.88 Điều chỉnh CPI về năm gốc 1 Singapore 101.10 102.82 103.33 104.37 106.56 113.48 123.63 2 Thái Lan 104.05 106.96 111.78 117.03 119.72 126.31 125.17 3 Đài Loan 99.50 101.09 103.42 104.04 105.91 109.62 109.88 4 Hàn Quốc 110.76 114.75 117.96 120.56 123.57 129.34 132.96 5 Nhật Bản 98.11 98.11 97.82 98.11 98.11 99.46 96.28 6 Trung Quốc 101.09 105.04 106.93 108.53 113.74 120.45 163.42 7 Đức 104.48 106.23 107.89 109.59 112.10 115.05 115.55 8 Pháp 105.77 108.02 109.90 111.75 113.41 116.60 116.41 9 Mỹ 106.85 109.73 113.46 117.09 120.37 124.99 119.77 10 Úc 112.46 115.15 117.92 121.69 125.22 130.67 133.05 11 Việt Nam 106.69 115.01 124.56 133.90 145.02 178.33 190.60 Tỷ giá(đồng/đơn vị ngoại tệ) 1 Singapore 9,264.62 9,721.98 9,637.32 10,550.00 11,190.63 12,279.10 13,387.93 2 Thái Lan 402.80 412.52 396.00 460.00 567.32 519.35 572.51 3 Đài Loan 474.06 493.92 484.10 511.91 500.89 539.80 554.33 20 4 Hàn Quốc 13.53 15.40 15.98 18.19 17.42 14.06 17.86 5 Nhật Bản 147.42 154.64 136.08 136.00 143.96 195.66 203.29 6 Trung Quốc 1,954.35 1,909.88 1,971.60 2,138.89 2,231.80 2,596.05 2,627.45 7 Đức 19,744.10 21,604.50 18,961.63 21,234.00 23,784.54 25,000.88 26,963.03 8 Pháp 19,744.10 21,604.50 18,961.63 21,234.00 23,784.54 25,000.88 26,963.03 9 Mỹ 15,617.00 15,763.00 15,905.00 16,071.00 16,062.00 16,538.00 17,376.00 10 Úc 11,768.00 12,353.32 11,699.30 12,773.00 14,198.88 12,208.01 16,855.73 Chỉ số tỷ giá điều chỉnh 1 Singapore 110.23 115.67 114.66 125.52 133.14 146.09 159.28 2 Thái Lan 119.88 122.77 117.85 136.90 168.84 154.56 170.38 3 Đài Loan 107.27 111.76 109.54 115.84 113.34 122.15 125.43 4 Hàn Quốc 117.35 133.56 138.59 157.76 151.08 121.94 154.90 5 Nhật Bản 115.77 121.44 106.86 106.80 113.05 153.65 159.64 6 Trung Quốc 111.06 108.53 112.04 121.55 126.83 147.53 149.31 7 Đức 143.88 157.44 138.18 154.74 173.32 182.19 196.49 8 Pháp 143.88 157.44 138.18 154.74 173.32 182.19 196.49 9 Mỹ 108.29 109.31 110.29 111.44 111.38 114.68 120.49 10 Úc 144.30 151.47 143.45 156.62 174.10 149.69 206.68 Tỷ giá thực song phương 1 Singapore 104.45 103.40 95.12 97.83 97.83 92.97 103.32 2 Thái Lan 116.91 114.18 105.76 119.65 139.39 109.47 111.90 3 Đài Loan 100.04 98.24 90.95 90.00 82.78 75.08 72.32 4 Hàn Quốc 121.82 133.25 131.25 142.04 128.74 88.44 108.06 5 Nhật Bản 106.46 103.59 83.92 78.25 76.48 85.70 80.64 6 Trung Quốc 105.23 99.12 96.18 98.52 99.47 99.65 128.02 7 Đức 140.90 145.41 119.68 126.64 133.98 117.54 119.12 8 Pháp 142.63 147.86 121.91 129.13 135.55 119.12 120.01 9 Mỹ 108.45 104.29 100.46 97.45 92.45 80.38 75.72 10 Úc 152.09 151.66 135.80 142.34 150.34 109.68 144.27 12.31 12.43 12.15 13.09 12.16 11.30 7.56 5.71 6.54 6.95 7.85 8.42 6.89 7.48 11.07 10.90 9.68 8.64 8.45 7.38 6.17 11.47 12.75 11.35 11.17 10.74 7.88 11.30 18.98 17.62 14.46 12.87 11.87 14.47 12.83 15.48 17.18 17.31 17.33 19.98 20.25 31.61 6.24 5.82 4.25 4.94 5.37 4.20 4.78 4.26 4.18 2.73 2.60 3.52 2.16 2.32 19.26 15.39 13.86 14.24 13.81 11.73 12.58 7.80 8.57 8.88 11.41 8.79 6.17 5.55 REER 112.59 111.39 101.63 104.15 103.10 92.43 102.18 CPIi Wi × × Ei CPIvn 21 Nguồn: số liệu này được trích một phần từ Bảng 1 của phụ lục, Toàn bộ số liệu tính toán đầy đủ được trình bày ở phần phụ lục. 2.2. Các hạn chế và đánh giá kết quả tính REER: 2.2.1. Các hạn chế trong tính toán tỷ giá thực đa phương (REER): REER là tỷ giá thực hiệu lực được điều chỉnh theo lạm phát so với các đối tác thương mại có tính đến trọng số thương mại của các đối tác trong vai trò là thước đo mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia, là một trong những cơ sở có thể chỉ ra đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp so với đồng tiền của các đối tác. Tuy nhiên, có một số vấn đề làm cho việc xác định REER trở nên không chắc chắn. 2.2.1.1. Các hạn chế về mặt kỹ thuật: Trước tiên, đó là việc lựa chọn năm cơ sở. Như đã xác định trong phần lựa chọn năm cơ sở cho việc tính REER, khi chọn năm cơ sở khác nhau sẽ cho kết quả tính REER khác nhau. Thứ hai, vấn đề lựa chọn chỉ số giá. (có thể chọn chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất hay lấy mẫu giá…) mỗi chỉ số khác nhau cũng cho kết quả tính REER khác nhau. Thứ ba, trọng số thương mại. Số lượng các đối tác thương mại khác nhau sẽ cũng cho REER khác nhau. Thứ tư, là rổ hàng hóa tính chỉ số giá ở các nước cũng có sự khác nhau làm ảnh hưởng đến REER. Thứ năm, vấn đề chất lượng nguồn dữ liệu, sự khó khăn trong việc tìm kiếm dữ liệu… có thể sẽ ảnh hưởng đến chỉ số này. 2.2.1.2. Các hạn chế khác - Ý định chủ quan của người nghiên cứu cũng tác động đến kết quả. - Thực trạng của nền kinh tế: Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập thấp, cho nên về cấu trúc thương mại, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu là hàng thô (nông sản, thủy sản…), hàng sản xuất theo dây 22 chuyền (dệt may, giày dép, thiết bị điện…) thị trường chính của các sản phẩm này là Mỹ, EU, Nhật. Đối thủ cạnh tranh của Việt Nam không phải là các quốc gia này, mà là các nước đang phát triển giống Việt Nam như ASEAN, Trung Quốc… Tuy nhiên, tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các đối thủ này có thể sẽ không đủ để đại diện cho tầm quan trọng của họ trong việc tính chỉ số REER. Tiếp theo, Việt Nam là nước bị đô la hóa rất cao, có nhiều hàng hóa ở Việt Nam thường được định giá bằng USD dù rằng có thể giao dịch bằng tiền đồng, các hàng hóa thô và sản xuất dây chuyền như nói ở trên thường được định danh bằng USD. Sức mạnh của đồng USD còn quá lớn, cho nên ảnh hưởng thật sự của nó trong rổ tiền sẽ lớn hơn nhiều so với tỷ trọng thương mại giữa Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, tỷ giá ngoài việc chịu ảnh hưởng của lạm phát, nó còn phụ thuộc vào nhiều biến số vĩ mô khác của nền kinh tế như lãi suất, thu nhập, kỳ vọng, can thiệp của chính phủ, môi trường kinh tế toàn cầu… Các nhân tố này tác động qua lại lẫn nhau vô cùng phức tạp góp phần tạo ra thêm sự mơ hồ của tỷ giá thựcDo đó, vấn đề tỷ giá cân bằng là không rõ ràng. Vì những lý do trên, tỷ giá được điều chỉnh ở một mức nào đó cũng sẽ có ít có ý nghĩa hơn hay nói cách khác REER là một chỉ số không hoàn hảo của sự cạnh tranh. 2.2.2. Đánh giá kết quả tính REER Bảng 2.2: Số liệu REER và tỷ trọng xuất khẩu trên nhập khẩu Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 REER 100.00 103.69 106.67 112.59 111.39 101.63 104.15 103.10 92.43 102.18 X/M 104.97 118.59 101.09 94.10 83.61 86.02 87.76 83.54 77.67 81.63 Nguồn: lấy từ bảng 1 và bảng 2 của Phụ lục Hình 2.1: Đồ thị biểu diễn REER và tỷ trọng xuất khẩu trên nhập khẩu 23 0.00 20.00 40.00 60.00 80.00 100.00 120.00 140.00 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 REER XK/NK Nhìn từ Bảng 2.2: Ta thấy REER từ năm 2001 đến 2007 REER luôn lớn hơn 100, năm 2008 REER nhỏ hơn 100 và đến năm 2009 quay trở lại lớn hơn 100. Nhìn chung đồng tiền Việt Nam được định giá thấp trong suốt khoảng thời gian nghiên cứu, chỉ riêng năm 2008 là đồng tiền bị định giá cao so với rổ tiền vì lý do lạm phát trong năm 2008 tăng quá cao (lên đến gần 22.97% so với năm 2007) và cao gấp 3 lần so với nước tăng cao thứ hai là Singapore gấp 3,5 lần.(22.97% so với 6.5%). Bắt đầu từ năm 2000 tỷ giá thực bắt đầu tăng lên vào đạt đỉnh cao nhất vào năm 2003, sau đó giảm dần về mốc 100 cho đến năm 2007 (đồng tiền bị định giá thấp suốt 7 năm liên tiếp, tuy nhiên do tác động của lạm phát đến năm 2008 tỷ giá thực dưới mức 100 (đồng tiền bị định giá cao) và đến năm 2009 đã quay lại sát trên mức 100. Có một điều đáng chú ý là giữa tỷ giá thực và tỷ trọng thương mại xuất khẩu/nhập khẩu từ năm 2005 đang có sự đồng biến nhất định trong giai đoạn này, mặc dù tốc độ thay đổi hai nhân tố không đồng đều nhau, khoảng cách ngày càng được duy trì, qua đó ít nhiều ta thấy được nổ lực của Chính phủ trong điều hành chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại trong những năm gần đây. 24 2.3. Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu và tỷ giá 2.3.1. Tác động của tỷ giá danh nghĩa USD/VND đối với hoạt động xuất nhập khẩu Bảng 2.3: Số liệu về tình hình xuất nhập khẩu tỷ giá từ Quý 1-2000 đến Quý 4-2009 Kỳ Xuất khẩu Nhập khẩu tỷ số xuất khẩu/nhập khẩu Tỷ giá VND/USD thâm hụt Q1 2000 2,944 3,104 0.95 14,053 -160 Q2 2000 3,380 3,720 0.91 14,074 -340 Q3 2000 3,960 2,600 1.52 14,118 1,360 Q4 2000 3,900 4,088 0.95 14,421 -188 Q1 2001 3,532 3,582 0.99 14,548 -50 Q2 2001 4,000 4,280 0.93 14,643 -280 Q3 2001 4,460 2,820 1.58 14,964 1,640 Q4 2001 4,041 2,838 1.42 15,047 1,203 Q1 2002 3,680 3,770 0.98 15,130 -90 Q2 2002 4,140 4,490 0.92 15,237 -350 Q3 2002 4,510 3,200 1.41 15,321 1,310 Q4 2002 4,560 5,248 0.87 15,374 -688 Q1 2003 4,465 4,694 0.95 15,429 -229 Q2 2003 4,880 6,050 0.81 15,467 -1,170 Q3 2003 5,300 3,900 1.36 15,520 1,400 Q4 2003 4,989 6,220 0.80 15,617 -1,231 Q1 2004 5,272 5,890 0.90 15,715 -618 Q2 2004 5,900 7,330 0.80 15,733 -1,430 Q3 2004 6,660 7,780 0.86 15,750 -1,120 Q4 2004 6,750 8,400 0.80 15,763 -1,650 Q1 2005 6,814 7,994 0.85 15,797 -1,180 Q2 2005 7,700 9,600 0.80 15,844 -1,900 Q3 2005 8,350 9,350 0.89 15,875 -1,000 Q4 2005 8,570 9,600 0.89 15,905 -1,030 Q1 2006 8,400 9,150 0.92 15,917 -750 Q2 2006 9,800 11,100 0.88 15,961 -1,300 Q3 2006 10,360 11,950 0.87 16,014 -1,590 Q4 2006 10,360 12,150 0.85 16,071 -1,790 25 Q1 2007 10,100 10,900 0.93 16,020 -800 Q2 2007 11,950 14,150 0.84 16,069 -2,200 Q3 2007 12,750 15,350 0.83 16,182 -2,600 Q4 2007 13,400 17,300 0.77 16,062 -3,900 Q1 2008 13,160 21,510 0.61 16,060 -8,350 Q2 2008 17,470 23,330 0.75 16,107 -5,860 Q3 2008 18,070 19,420 0.93 16,504 -1,350 Q4 2008 13,990 16,450 0.85 16,538 -2,460 Q1 2009 14,140 12,630 1.12 16,974 1,510 Q2 2009 13,460 17,100 0.79 16,942 -3,640 Q3 2009 14,000 18,740 0.75 16,971 -4,740 Q4 2009 15,500 21,480 0.72 17,376 -5,980 Cơ sở dữ liệu được lấy từ Quý 1 năm 2000 đến Quý 4 năm 2009, trị giá xuất khẩu, nhập khẩu(đơn vị tính là triệu USD), lấy số liệu ở Bảng 2.3 Mô hình hồi quy tổng quát có dạng: y = b + ax Số quan sát: 40 Phương pháp hồi quy: phương pháp bình phương bé nhất Chạy dữ liệu trên EVIEW 5.1 chạy dữ liệu từ năm Quý 1/2000 – Quý 4/2009 kết quả mô hình như sau: Bảng 2.4: Kết quả hồi quy xuất khẩu theo tỷ giá (USD/VND) Dependent Variable: XK Method: Least Squares Date: 09/14/10 Time: 15:27 Sample: 1 40 Included observations: 40 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C -65340.50 7739.438 -8.442538 0.0000 26 TYGIA 4.693392 0.493050 9.519097 0.0000 R-squared 0.704540 Mean dependent var 8241.675 Adjusted R-squared 0.696765 S.D. dependent var 4399.343 S.E. of regression 2422.576 Akaike info criterion 18.47176 Sum squared resid 2.23E+08 Schwarz criterion 18.55620 Log likelihood -367.4351 F-statistic 90.61321 Durbin-Watson stat 0.243904 Prob(F-statistic) 0.000000 Bảng: 2.5 : Kết quả hồi quy nhập khẩu theo tỷ giá(USD/VND) Dependent Variable: NK Method: Least Squares Date: 09/14/10 Time: 15:28 Sample: 1 40 Included observations: 40 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C -88266.92 11494.24 -7.679233 0.0000 TYGIA 6.241195 0.732254 8.523265 0.0000 R-squared 0.656563 Mean dependent var 9581.450 Adjusted R-squared 0.647525 S.D. dependent var 6060.155 S.E. of regression 3597.892 Akaike info criterion 19.26279 Sum squared resid 4.92E+08 Schwarz criterion 19.34723 Log likelihood -383.2558 F-statistic 72.64605 Durbin-Watson stat 0.401528 Prob(F-statistic) 0.000000 27 Mô hình hồi quy giữa tỷ giá và xuất khẩu: XK = - 65340.50+ 4.693392* TYGIA R2 = 0.704540 Mô hình hồi quy giữa tỷ giá và nhập khẩu NK = -88266.92+ 6.241195* TYGIA R2 = 0.656563 Đánh giá độ phù hợp của hai mô hình: Cả hai mô hình đều có mức ý nghĩa 0%, tức cả hai mô hình đều có độ tin cậy gần 100%. R2 của mô hình xuất khẩu bằng 0.704540 có nghĩa là 70,4% sự biến thiên của xuất khẩu được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số tỷ giá. R2 của mô hình nhập khẩu bằng 0.656563 có nghĩa là 65,7% sự biến thiên của nhập khẩu được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số tỷ giá. Kiềm định giả thuyết về ý nghĩa của các hệ số hồi quy Giả thuyết: H0 : hệ số (a) = 0 (x và y không có quan hệ tuyến tính) H1 : hệ số (a) ≠ 0 (x và y có quan hệ tuyến tính) Giá trị kiểm định: đối với kiểm định cả 2 phía với mức ý nghĩa α, bác bỏ H0 nếu: t-stat tn-2, α/2, tức là │t-stat│> tn-2, α/2 nhìn vào kết quả thống kê trên, ta thấy │t-stat│ của 2 mô hình lần lượt là 9.519097 và 8.523265 lớn hơn tn-2, α/2 = 2.024394 (dùng hàm TINV trong Excel với n = 40 và mức ý nghĩa α = 5%). Như vậy dựa trên mô hình đã xây dựng được, ta bác bỏ giả thuyết H0 (tức là xuất nhập khẩu của Việt Nam có quan hệ tuyến tính với tỷ giá) 2.3.1.1. Đánh giá kết quả của hai mô hình: - Tỷ giá có mối quan hệ tỷ lệ thuận với xuất nhập khẩu - Khi tỷ giá tăng 1 đồng(nội tệ mất giá) thì xuất khẩu sẽ tăng 4.693392(triệu USD) và nhập khẩu tăng 6.241195(triệu USD) 28 Trong nhiều năm qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng nhưng cán cân thương mại vẫn thâm hụt, nguyên nhân là do khi tỷ giá tăng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng nhưng nhập khẩu lại tăng cao hơn xuất khẩu. Hình 2.2: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với xuất khẩu 29 Hình 2.3: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với nhập khẩu 2.3.1.2. Mối quan hệ giữa tỷ giá và thặng dư/thâm hụt mậu dịch Bảng 2.6: Kết quả hồi quy thặng dư/thâm hụt mậu dịch theo tỷ giá (USD/VND) Dependent Variable: THAMHUT Method: Least Squares Date: 08/27/10 Time: 15:46 Sample: 1 40 Included observations: 40 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 22926.42 5639.647 4.065222 0.0002 TYGIA -1.547804 0.359280 -4.308065 0.0001 R-squared 0.328140 Mean dependent var -1339.775 30 Adjusted R-squared 0.310460 S.D. dependent var 2125.886 S.E. of regression 1765.306 Akaike info criterion 17.83874 Sum squared resid 1.18E+08 Schwarz criterion 17.92319 Log likelihood -354.7748 F-statistic 18.55942 Durbin-Watson stat 1.225533 Prob(F-statistic) 0.000112 Mô hình hồi quy là: THAMHUT = 22926.42-1.547804*TYGIA R2 = 0.328140 Đánh giá độ phù hợp của mô hình: Căn cứ vào mức ý nghĩa thống kê t, ta thấy (Prob. = 0.0001) là rất nhỏ so với mức ý nghĩa α = 5%, nên ta kết luận mô hình hồi quy tuyến tính được xây dựng phù hợp với tổng thể R2 của mô hình bằng 0.328140 thể hiện rằng có 32,8140% sự biến thiên của thặng dư/thâm hụt của xuất nhập khẩu được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số tỷ giá Kiểm định giả thuyết về ý nghĩa của các hệ số hồi quy: Giả thuyết: H0 : hệ số (a) = 0 (thặng dư/thâm hụt xuất nhập khẩu không quan hệ tuyến tính với tỷ giá) H1 : hệ số (a) ≠ 0 (thặng dư/thâm hụt xuất nhập khẩu có quan hệ tuyến tính với tỷ giá) Giá trị kiểm định: đối với kiểm định cả 2 phía với mức ý nghĩa α, bác bỏ H0 nếu: t-stat tn-2, α/2, tức là │t-stat│> tn-2, α/2 │t-stat│ của mô hình là 4.308065 lớn hơn tn-2, α/2 = 2.024394 (dùng hàm TINV trong Excel với n = 40 và mức ý nghĩa α = 5%). Dựa trên mô hình đã xây dựng được, ta bác bỏ giả thuyết H0 (thặng dư/thâm hụt xuất nhập khẩu có quan hệ tuyến tính với tỷ giá) Hình 2.4: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với thâm hụt mậu dịch 31 2.3.2. Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực đa phương đối với xuất nhập khẩu: Mô hình hồi quy của Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong có dạng: Ln(EXM)t = a + b Ln(GDPvn)t + c Ln(GDPw)t + d Ln(REER)t + Ɛ t Trong đó: Ln là Logarit tự nhiên EXM là tỷ trọng xuất nhập khẩu (tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu) GDPw, GDPvn lần lượt là chỉ số GDP trung bình của các quốc gia tham gia rổ tiền và chỉ số GDP của Việt Nam thời điểm từ Quý 1 năm 2000 đến Quý 4 năm 2009. REER: chỉ số tỷ giá thực đa phương a, b, c, d: là các hệ số hồi quy Ɛ: sai số Hồi quy chuỗi dữ liệu từ năm 2000 đến năm 2009 theo Quý(40 quan sát) trên Eview, ta có kết quả như sau: 32 Bảng 2.7: Kết quả hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo chỉ số GDP và REER Dependent Variable: LNEXM Method: Least Squares Date: 09/13/10 Time: 16:32 Sample: 1 40 Included observations: 40 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 13.75975 11.77639 1.168419 0.2503 LNGDPVN 0.969146 3.699633 0.261957 0.7948 LNGDPW -5.31598 2.223018 -2.39133 0.0221 LNREER 1.376128 0.362916 3.791864 0.0006 R-squared 0.325447 Mean dependent var -0.08482 Adjusted R-squared 0.269235 S.D. dependent var 0.204516 S.E. of regression 0.174831 Akaike info criterion -0.55536 Sum squared resid 1.100366 Schwarz criterion -0.38647 Log likelihood 15.1072 F-statistic 5.789565 Durbin-Watson stat 2.180344 Prob(F-statistic) 0.002452 Mô hình hồi quy có dạng: Ln(EXM)t = 13.75975+ 0.969146Ln(GDPvn)t - 5.31598Ln(GDPw)t + 1.376128Ln(REER)t R2 = 0.325447 33 Căn cứ vào mức ý nghĩa thống kê t, ta loại bỏ biến GDPvn (Prob. = 0.7948) do không có ý nghĩa (lớn hơn mức ý nghĩa 5%) ra khỏi mô hình. Mô hình hồi quy tiếp theo được xem xét sẽ là: Ln(EXM)t = a + c Ln(GDPw)t + d Ln(REER)t + Ɛ t Tiếp tục chạy số liệu hồi quy trên phần mềm eview, kết quả như sau: Bảng 2.8: Kết quả mô hình hồi quy giới hạn Dependent Variable: LNEXM Method: Least Squares Date: 09/13/10 Time: 16:34 Sample: 1 40 Included observations: 40 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 16.31972 6.488096 2.515333 0.0164 LNGDPW -4.89568 1.519198 -3.22254 0.0027 LNREER 1.380992 0.35785 3.859136 0.0004 R-squared 0.324161 Mean dependent var -0.08482 Adjusted R-squared 0.28763 S.D. dependent var 0.204516 S.E. of regression 0.172616 Akaike info criterion -0.60346 Sum squared resid 1.102463 Schwarz criterion -0.47679 Log likelihood 15.06911 F-statistic 8.873401 Durbin-Watson stat 2.173935 Prob(F-statistic) 0.000711 Mô hình hồi quy có dạng: Ln(EXM)t = 16.31972- 4.89568Ln(GDPw)t + 1.380992Ln(REER)t 34 R2 = 0.324161 Sử dụng kiểm định Wald để kiểm tra khả năng giải thích của mô hình: Giả thiết: H0 : c = d = 0 H1: ít nhất c hoặc d ≠ 0 Ta có F = 8.873401> F(0.05, 3, 39) = 2.845068 (dùng hàm FINV trong excel) vì vậy ta bác bỏ giả thiết H0, tức mô hình có biến giải thích hay mô hình được chấp nhận. Giải thích mô hình: Mô hình giải thích được 32,4161% sự phụ thuộc của tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu vào sự biến động của tỷ giá thực đa phương và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân trung bình của các đối tác tham gia rổ tiền. Tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu nghịch biến với GDP trung bình và đồng biến với tỷ giá thực đa phương Khi REER tăng 1% thì tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu tăng 1.380992% Khi chỉ số GDP trung bình tăng 1% thì tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm 4.89568% (chỉ số GDP trung bình của các đối tác tăng lên đã làm nhập khẩu của Việt Nam tăng lên). Theo nhận định chủ quan của bản thân, GDP trung bình của các đối tác thương mại tham gia rổ tiền với Việt Nam tăng, có thể đã làm tăng đầu tư nói chung vào Việt Nam. Đây cũng là những đối tác thương mại lớn có mức đầu tư và Việt Nam rất mạnh, cho nên việc tăng GDP của các đối tác có thể đã làm tăng nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, kéo theo nhu cầu nhập khẩu máy móc, trang thiết bị tăng lên và làm thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam. Kết luận chương 2: Kết quả phân tích cho thấy hoàn toàn có sự tác động của tỷ giá lên xuất nhập khẩu ở Việt Nam bao gồm cả tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực đa phương. 35 Kết quả trên đã tuy đã chứng minh được vai trò của tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong nước cũng như cán cân thương mại. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta vội vàng ra quyết định phá giá ngay tiền đồng để gia tăng lợi thế hàng hóa xuất khẩu trong nước. Nhất thiết phải cân nhắc đến điều kiện cho phép hiện tại của nền kinh tế trong nước, những mục tiêu vĩ mô khác chứ không đơn thuần xây dựng chính sách tỷ giá chỉ phục vụ duy nhất cho mục tiêu gia tăng xuất khẩu nhằm cải thiện cán cân thương mại. Chương tiếp theo sẽ phân tích kỹ hơn tình hình thực tế của quốc gia và đề xuất có nên sử dụng tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu hay không? 36 CHƯƠNG 3: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM: 3.1. Các điều kiện cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: 3.1.1. Tình hình về xuất nhập khẩu: Hình 3.1: Biểu đồ biểu diễn cán cân thương mại từ Quý 1/2000 đến Quý 2/2010 -15,000 -10,000 -5,000 0 5,000 10,000 15,000 20,000 25,000 30,000 Q1 20 00 Q3 20 00 Q1 20 01 Q3 20 01 Q1 20 02 Q3 20 02 Q1 20 03 Q3 20 03 Q1 20 04 Q3 20 04 Q1 20 05 Q3 20 05 Q1 20 06 Q3 20 06 Q1 20 07 Q3 20 07 Q1 20 08 Q3 20 08 Q1 20 09 Q3 20 09 Q1 20 10 Q3 20 10 (tri ệ u U SD ) Xuất khẩu Nhập khẩu Thâm hụt 37 Nguồn số liệu: trích từ bảng 2 của phụ lục 3.1.2. Tình hình xuất nhập khẩu của một số mặt hàng chủ yếu trong thời gian qua: Bảng 3.1: Số liệu hàng xuất khẩu năm 2009: Xuất khẩu năm 2009 Trị giá (triệu USD) Tỷ trọng Hạt điều 847.00 1.48% Cao su 1,230.00 2.15% Than đá 1,320.00 2.31% Cà phê 1,730.00 3.03% Máy móc thiết bị & dụng cụ & phụ tùng 2,060.00 3.61% Gạo 2,660.00 4.66% Máy vi tính & linh kiện điện tử 2,760.00 4.83% Giầy dép 4,070.00 7.13% Hàng thủy sản 4,251.00 7.44% Dầu thô 6,190.00 10.84% Hàng dệt may 9,060.00 15.87% Khác 20,922.00 36.64% Tổng 57,100.00 100.00% Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam 38 Hình 3.2: Biểu đồ biểu diễn hàng xuất khẩu năm 2009 Hạt điều Cao su Than đá Cà phê Máy móc thiết bị & dụng cụ & phụ tùng Gạo Máy vi tính & linh kiện điện tử Giầy dép Hàng thủy sản Dầu thô Hàng dệt may Khác Bảng 3.2: số liệu hàng nhập khẩu chính năm 2009 Nhập khẩu năm 2009 Trị giá (triệu USD) Tỷ trọng Phân bón 417.00 0.60% Sắt thép các loại 1,000.00 1.43% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 1,030.00 1.47% Dược phẩm 1,100.00 1.57% Kim loại thường 1,620.00 2.32% Ô tô và linh kiện, phụ tùng ô tô 1,800.00 2.57% Chất dẻo nguyên liệu 2,800.00 4.00% Máy vi tính & linh kiện điện tử 3,950.00 5.65% Xăng dầu 6,300.00 9.01% Nguyên liệu dệt may, da giày 7,360.00 10.52% Máy móc thiết bị & dụng cụ & phụ tùng 12,670.00 18.11% Khác 29,903.00 42.75% Tổng 69,950.00 100.00% Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam 39 Hình 3.3: Biểu đồ biểu diễn hàng nhập khẩu năm 2009 Phân bón Sắt thép các loại Thức ăn gia súc và nguyên liệu Dược phẩm Kim loại thường Ô tô và linh kiện, phụ tùng ô tô Chất dẻo nguyên liệu Máy vi tính & linh kiện điện tử Xăng dầu Nguyên liệu dệt may, da giày Máy móc thiết bị & dụng cụ & phụ tùng Khác Hình 3.4 : Lượng cao su xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009 Hình 3.5: Lượng gạo xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009 Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam 40 Hình 3.6: Lượng và đơn giá dầu thô xuất khẩu từ năm 1999- 2009 Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam Hình 3.7: Kim ngạch xuất khẩu hàng đệt may theo tháng từ năm 2005 đến tháng 5/2010 41 Hình 3.8: Thống kê kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2005-6 tháng/2010 Hình 3.9: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam kể từ năm 2005 (triệu USD) Nguồn: GSO 42 Hình 3.10: Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam (triệu USD, Số liệu hàng tháng) Nguồn: GSO Hình 3.11: Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2009 Chúng ta thấy rằng sự phụ thuộc vào các hàng hóa nhập khẩu vẫn tăng đều theo thời gian cho dù tỷ giá có thay đổi theo chiều hướng có lợi cho xuất khẩu. Sự phụ thuộc này chủ yếu vào các mặt hàng mà trong nước không thể đáp ứng nổi nên bắt buột 43 phải nhập từ bên ngoài như máy móc thiết bị, dụng cụ chế tạo, phụ tùng, xăng dầu, phân bón, vải nguyên liệu, sắt thép, kim loại, ô tô,… 3.2. Tình hình nợ quốc gia: Hình 3.12: Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm: Nguồn số liệu:Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ đang tăng ngày càng nhanh: 33,8% GDP năm 2007, năm 2008 tăng lên 36,2% và 2009 là 41,9%. Như cảnh báo của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, dự kiến dư nợ Chính phủ năm nay có thể lên tới 44,6%. Có hai nguyên nhân dẫn đến nguy cơ này, đó là việc tăng phát hành trái phiếu Chính phủ và điều chỉnh mức tăng bội chi ngân sách đột biến lên trên 5% GDP. Theo thông tin của Bộ tài chính công bố, tính đến ngày 31/12/2009, tổng dư nợ nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ. 44 Hình 3.13: Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ Nguồn số liệu:Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%. Không kể nợ được Chính phủ bảo lãnh, trong tổng số dư nợ nước ngoài Chính phủ gần 23,943 tỷ USD, có đến 19,325 tỷ USD lãi suất từ 1-2,99%; trên 1,5 tỷ USD lãi suất từ 3-5,99%; 281,7 triệu USD lãi suất 0-99% và 919 triệu USD ở mức lãi suất 6-10%. Ngoài ra, hơn 1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo LIBOR 6 tháng và LIBOR Euro 6 tháng. Cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; quyền vay đặc biệt SDR chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ. 45 Hình 3.14: Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền: Nguồn số liệu:Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội Hình 3.15: Cơ cấu dư nợ Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh phân theo điều kiện tín dụng: Nguồn số liệu:Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính): giới hạn an toàn nợ quốc gia ở mỗi nước khác nhau, chẳng hạn với Nhật Bản trên 100% GDP vẫn có thể ở mức an toàn, các nước khác có thể 60% là rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công. Tại Việt Nam, theo quy định hiện hành, nợ công phải dưới 50 % GDP. Như vậy, mức dư nợ Chính phủ và nợ quốc gia tăng sát mức an toàn cho phép. Vay nợ trong nước và nước ngoài gặp khó khăn, phải vay với lãi suất cao, dẫn đến việc đảm bảo an 46 ninh tài chính quốc gia đứng trước những khó khăn cho nhiều năm sau, Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhận định. Theo đó, việc điều hành ngân sách và đảm bảo an ninh tài chính trong năm nay sẽ khó khăn. Đây chính là một thách thức cho việc thực hiện nhiệm vụ thu, chi và giữ vững an ninh tài chính 3.3. Tình hình bội chi ngân sách và dự trữ quốc gia 3.3.1. Tình hình bội chi ngân sách: Hình 3.16: Bội chi ngân sách 2005-2009 3.3.2. Dự trữ quốc gia: Hình 3.17: Tình hình dự trữ Quốc gia: Nguồn số liệu:IMF 47 Hãng thông tấn Reuters dẫn nguồn Thời báo Kinh tế Việt Nam đưa ra con số này Thực ra, ngay tại Đại hội Đảng XI họp hồi tháng 1/2011, Bộ trưởng Phúc đã đưa ra cảnh báo về mức dự trữ ngoại hối. Lúc đó, ông Võ Hồng Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, nói: “Năm 2010, tăng tưởng của nước ta đạt 6,8%, nhưng lạm phát cao, dự trữ ngoại hối chỉ khoảng 10 tỷ đôla”. “Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện; cân đối vĩ mô chưa thực sự vững chắc.” Như vậy, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã sụt dần trong mấy năm trở lại đây, gây quan ngại lớn. Kinh tế gia kỳ cựu Lê Đăng Doanh nhận xét: “Dự trữ ngoại tệ thấp như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm vì chỉ còn tương đương khoảng 5-6 tuần nhập khẩu, trong khi mức tối thiểu phải có là 12 tuần theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF”. Dự dữ ngoại tệ của Việt Nam tính đến cuối năm 2009 đạt 15,2 tỷ đôla tương đương với 9 tuần nhập khẩu. Theo đánh giá của IMF thì mức dự dữ của Việt Nam hiện tại chỉ vừa đủ chứ không cao. 3.4. Cơ chế điều hành tỷ giá: 3.4.1. Diễn biến tỷ giá: Vai trò của đồng USD trên thị trường ngoại hối của Việt Nam là rất lớn, hầu hết các giao dịch liên quan đến ngoại tệ tại Việt Nam đều sử dụng đồng USD và được xem là một loại ngoại tệ có thể đại diện nhằm để theo dõi sự biến động của các ngoại tệ khác. Bảng theo dõi diễn biến tỷ giá trong giai đoạn 2000 – 2009: Bảng 3.3: Bảng số liệu tỷ giá bình quân liên Ngân hàng và Tỷ giá Ngân hàng Thương mại: TỶ GIÁ BÌNH QUÂN LIÊN NGÂN HÀNG VÀ TỶ GIÁ BÁN CỦA NHTM Thời kỳ Tỷ giá bình quân LNH Tỷ giá NHTM Chênh lệch Q1 2000 14,049 14,062 13 Q2 2000 14,071 14,085 14 Q3 2000 14,202 14,215 13 48 Q4 2000 14,501 14,514 13 Q1 2001 14,531 14,545 14 Q2 2001 14,831 14,845 14 Q3 2001 14,990 15,003 13 Q4 2001 15,070 15,084 14 Q1 2002 15,176 15,250 74 Q2 2002 15,260 15,321 61 Q3 2002 15,310 15,347 37 Q4 2002 15,368 15,403 35 Q1 2003 15,418 15,443 25 Q2 2003 15,463 15,499 36 Q3 2003 15,520 15,557 37 Q4 2003 15,608 15,646 38 Q1 2004 15,686 15,724 38 Q2 2004 15,685 15,723 38 Q3 2004 15,717 15,755 38 Q4 2004 15,736 15,777 41 Q1 2005 15,785 15,823 38 Q2 2005 15,816 15,857 41 Q3 2005 15,854 15,895 41 Q4 2005 15,875 15,910 35 Q1 2006 15,910 15,932 22 Q2 2006 15,957 15,997 40 Q3 2006 16,016 16,009 -7 Q4 2006 16,101 16,051 -50 Q1 2007 16,100 16,025 -75 Q2 2007 16,132 16,136 4 Q3 2007 16,163 16,100 -63 Q4 2007 16,114 16,030 -84 Q1 2008 15,960 16,120 160 Q2 2008 16,514 16,844 330 Q3 2008 16,517 16,610 93 Q4 2008 16,977 17,486 509 Q1 2009 16,954 17,802 848 Q2 2009 16,953 17,801 848 Q3 2009 16,991 17,841 850 Q4 2009 17,941 18,479 538 Q1 2010 18,544 19,100 556 Q2 2010 18,544 19,095 551 Q3 2010 18,932 19,500 568 Q4 2010 18,932 19,500 568 Nguồn: NHNN Việt Nam, Ngân hàng VietcomBank 49 Hình 3.18: Đồ thị biểu diễn biến động tỷ giá Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2000 - 2010 -5,000 0 5,000 10,000 15,000 20,000 25,000 Q1 20 00 Q4 20 00 Q3 20 01 Q2 20 02 Q1 20 03 Q4 20 03 Q3 20 04 Q2 20 05 Q1 20 06 Q4 20 06 Q3 20 07 Q2 20 08 Q1 20 09 Q4 20 09 Q3 20 10 Tỷ giá bình quân LNH Tỷ giá NHTM Chênh lệch Nguồn: lấy từ bảng 3.3 Từ số liệu trên ta có thể thấy được rằng: Thứ nhất, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007 tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá do NHTM niêm yết luôn gần sát nhau và chênh lệch rất ít (chênh lệch lớn nhất là 84đ) thể hiện dãi băng tỷ giá là quá hẹp, điều này được lý giải là do biên độ tỷ giá trong thời gian này biên độ tỷ giá do NHNN công bố là rất nhỏ. Giai đoạn 2008 – cuối quý 3 năm 2009 có sự chênh lệch tỷ giá giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá NHTM(chênh lệch lớn nhất là 850đ) vì trong giai đoạn này biên độ tỷ giá công bố của NHNN đã có sự điều chỉnh tăng. Đến Quý 4 năm 2009 chênh lệch tỷ giá đã giảm xuống 538đ vì biên độ tỷ giá đã giảm xuống. Thứ hai, tỷ giá do NHTM niêm yết luôn có xu hướng tăng lên theo thời gian(tiền đồng mất giá liên tục) và tốc độ tăng ngày càng nhanh. Thứ ba, trên thị trường tự do tỷ giá USD/VND luôn cao hơn tỷ giá chính thức, Tỉ giá thị trường tự do tăng mạnh dẫn đến găm giữ ngoại tệ, làm méo mó tỉ giá và đóng băng thị trường ngoại tệ tại. Có thời điểm chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do với tỷ giá 50 NHTM niêm yết cả ngàn đồng/USD, khách hàng muốn mua USD trong thời gian năm 2009 rất khó khăn, các ngân hàng chỉ ưu tiên những khách hàng thân thiết, khách hàng đặc biệt. Đa phần những khách hàng còn lại phải tự tìm nguồn USD riêng cho mình từ thị trường tự do. Điều đó làm ảnh hưởng xấu đến tình hình nhập khẩu, càng củng cố tâm lý găm giữ ngoại tệ, tạo ra một áp lực tăng tỷ giá. 3.4.2. Biên độ tỷ giá: Theo NHNN, cơ chế tỷ giá của Việt Nam là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý vận hành theo các quy luật thị trường và hướng về tỷ giá mục tiêu tức là mức tỷ giá mà phản ánh chính xác các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia, là mức tỷ giá mà tại đó các nguồn lực tài chính được phân bổ một cách hiệu quả nhất. Bảng 3.4: Biên độ tỷ giá qua từng giai đoạn giai đoạn Feb-99 Jul-02 Dec-06 Dec-07 Mar-08 Jun-08 Nov-08 Mar-09 Nov-09 Feb-11 biên độ +0.1% ± 0.25% ± 0.5% ± 0.75% ± 1% ± 2% ± 3% ± 5% ± 3% ± 1% Nguồn: NHNN Việt Nam Hình 3.19: Biểu đồ diễn biến biên độ dao động của tỷ giá Biểu đồ biểu diễn biên độ tỷ giá từ 1999 - 2011 -6.00 -4.00 -2.00 0.00 2.00 4.00 6.00 th án g 01 /1 99 9 th án g 07 /1 99 9 th án g 01 /2 00 0 th án g 07 /2 00 0 th án g 01 /2 00 1 th án g 07 /2 00 1 th án g 01 /2 00 2 th án g 07 /2 00 2 th án g 01 /2 00 3 th án g 07 /2 00 3 th án g 01 /2 00 4 th án g 07 /2 00 4 th án g 01 /2 00 5 th án g 07 /2 00 5 th án g 01 /2 00 6 th án g 07 /2 00 6 th án g 01 /2 00 7 th án g 07 /2 00 7 th án g 01 /2 00 8 th án g 07 /2 00 8 th án g 01 /2 00 9 th án g 07 /2 00 9 th án g 01 /2 01 0 th án g 07 /2 01 0 th án g 01 /2 01 1 mốc thời gian bi ên đ ộ (% ) 51 Nguồn: lấy từ bảng 3.4 Giai đoạn từ tháng 2/1999 trở về trước, cơ chế tỷ giá của Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức như là một tỷ giá trung tâm cùng với việc định ra biên độ tỷ giá. Năm 1997, thời đểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á5, mặc dù không bị tấn công trực tiếp bởi cơn khủng hoảng này, nhưng tỷ giá VND/USD diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng nhanh. Tiền đồng ngày càng trở nên bị định giá cao so với các đồng tiền khác trong vùng, nhất là các nước Đông Nam Á do đồng tiền của các nước này đã rớt giá quá mạnh. Tình thế buộc NHNN phải nới rộng biên độ giao dịch và điều chỉnh tỷ giá, tiến hành phá giá tiền đồng. Cụ thể, NHNN đã nâng biên độ từ ± 5% vào ngày 27/2/1997 lên ± 10% vào ngày 13/10/1997. Tiếp đó, tháng 8/1998 giảm biên độ còn ± 7%, nhưng lại nâng tỷ giá chính thức từ 11.815 đồng/USD lên 12.980 đồng/USD. Tiền đồng giảm giá nằm trong xu hướng chung của thời kỳ này là đồng tiền của các nước trong khu vực giảm mạnh, thậm chí các đồng tiền mạnh như Yen Nhật, DEM Đức, đồng FRF Pháp, bảng Anh,… đều bị mất giá so với USD. Đến tháng hai năm 1999, NHNN đã đưa ra một cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái mới thay thế cho cơ chế can thiệp trực tiếp vào tỷ giá. Cơ chế tỷ giá mới được NHNN lựa chọn là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Đó là lựa chọn hợp lý cho trường hợp Việt Nam. Theo cơ chế này, hàng ngày NHNN công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng và các NHTM được niêm yết giá trong một biên độ cũng do NHNN quy định. Đây có thể xem như là tỷ giá trung tâm và tỷ giá thực tế giao động xung quanh biên độ khá hẹp là +0,1%. Với dải băng hẹp và quy định biến động một chiều như thế, tỷ giá VND/USD có biến động rất ít và luôn theo xu hướng đi lên làm cho tiền đồng luôn bị áp lực giảm giá (nhất là so với USD) trong thời gian khá dài. Với quy định biên độ giao động một chiều +0,1%, phát ra tín hiệu cho thị trường rằng tỷ giá chỉ có tăng không có giảm, khuyến khích hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Sau đó, để khắc phục các hạn chế này, ngày 1 tháng 7 năm 2002, NHNN mở rộng biên độ tỷ giá lên ±0,25%, tỷ giá biến động theo. Biên độ tỷ giá ±0,25%, được NHNN giữ khá lâu và đến ngày 31/12/2006, NHNN 52 đã mở rộng biên độ từ ±0,25% lên ±0,5%. Như vậy, trong vòng năm năm từ sau 1/7/2002 đến 31/12/2006 chỉ có duy nhất một lần điều chỉnh biên độ tỷ giá. Trong vài năm trở lại đây, theo một số quan chức NHNN thì tỷ giá đang ngày càng linh hoạt hơn. Động thái cụ thể của NHNN là liên tục mở rộng biên độ giao động của tỷ giá. Ngày 24/12/2007, NHNN đã mở rộng biên độ tỷ giá USD/VND từ ±0,5% lên ± 0,75%. Đến ngày 10/3/2008, nâng biên độ lên ±1%; tiếp đó, ngày 27/6/2008 NHNN nới biên độ lên ±2%; ngày 7/11/2008, chỉ hơn bốn tháng sau đó, NHNN đã tiếp tục nâng biên độ lên ±3%. Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một năm, biên độ giao động của tỷ giá đã có bốn lần thay đổi theo hướng tăng mạnh. Ngày 24/3/2009 một lần nữa NHNN nâng biên độ lên ±5%. Đây là lần tăng biên độ lớn nhất từ khi NHNN áp dụng cơ chế công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng và ấn định biên độ giao dịch tỷ giá. Điều này cho thấy một mặt, NHNN đã thực hiện mạnh mẽ các cam kết của mình về chính sách tỷ giá linh hoạt hơn, mặt khác nó cũng phát đi tín hiệu là tiền đồng có thể sẽ còn tiếp tục bị để cho mất giá, NHNN với chính sách nới rộng biên độ linh hoạt này sẽ cải thiện được cán cân thương mại và những hạn chế của thị trường ngoại hối vào thời điểm này. Tuy nhiên chính sách linh hoạt nới rộng biên độ tỷ giá này đã bị lạm dụng quá mức, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do quá lớn, làm mất cân bằng cung – cầu ngoại tệ gây tâm lý găm giữ ngoại tệ làm khan hiếm ngoại tệ gây bất ổn cho nền kinh tế và biên độ đã được điều chỉnh biên độ từ 5% xuống 3% vào ngày 29 tháng 11 năm 2009, và đến tháng 02/2011 NHNN lại tiếp tục thu hẹp biên độ từ 3% xuống 1%, đồng thời NHNN cũng tăng tỷ giá liên ngân hàng nhằm kiểm soát lại tình hình bất ổn của thị trường. Tuy nhiên, khi nhìn vào đường đi của tỷ giá thì khoảng cách giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá ngân hàng thương mại phụ thuộc vào biên độ. Tỷ giá ngân hàng thương mại luôn đụng trần và luôn sử dụng hết biên độ cho phép, tỷ giá trên thị trường tự do luôn cao hơn thị trường chính thức đã tạo áp lực giảm giá lên tiền đồng rất lớn. 53 Hiện ngân hàng nhà nước điều hành tỷ giá thông qua tỷ giá bình quân liên ngân hàng được công bố hằng ngày và biên độ biến động tỷ giá. Khi biên độ càng tăng thì thực tế thấy được rằng tỷ giá trên thị trường chính thức tăng hết cỡ cho phép, thị trường không chính thức cũng tăng mạnh hơn dẫn đến tâm lý găm giữ ngoại tệ làm méo mó thị trường. Như vậy việc giảm biên độ không phải hướng đến cố định tỷ giá mà là giúp NHNN chủ động hơn trong điều hành tỷ giá để đảm bảo được các mục tiêu chung của quốc gia. Thu hẹp biên độ biến động tỷ giá đồng thời NHNN sẽ cho tỷ giá liên ngân hàng biến động mạnh hơn tùy theo mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Tỷ giá có lên có xuống doanh nghiệp thôi găm giữ ngoại tệ vì không còn nghĩ đến việc nới biên độ nữa. 3.5. Các mục tiêu cân bằng cụ thể: Đối với bất kỳ một quốc gia nào chính sách tỷ giá dùng để điều hành một nền kinh tế đều phải gắn với một nhiệm vụ, mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế gắn với từng giai đoạn. Với thực trạng nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng thế giới liên tục xảy ra, sự cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với các nước khác trên thế giới còn kém, việc lựa chọn chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát của chính phủ Việt Nam phải luôn hướng đến việc xây dựng một nền kinh tế ổn định và phát triển bền vững. Mục tiêu của chính sách tỷ giá là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước và ổn định môi trường vĩ mô trong nước, những mục tiêu này luôn có mối quan hệ hữu cơ tương tác lẫn nhau trong việc định hướng của một chính sách tỷ giá: Sau đây xin giới thiệu một vài mục tiêu cụ thể: (1) Đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa. (2) Ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng bản tệ, ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. 54 (3) Thị trường ngoại hối nói riêng và thị trường tài chính nói chung phải tương đối ổn định không có những biến động lớn để ít có những tác động tiêu cực đến hoạt xuất khẩu, nhập khẩu cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. (4) Bảo đảm có thể kiểm soát được nợ công. (5) Ngăn ngừa khủng hoảng tiền tệ. (6) Hạn chế tác động của những cú sốc từ bên ngoài. (7) Thúc đẩy tăng trưởng, khuyến khích đầu tư nước ngoài đúng mức, qua đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa quốc gia. (8) Tạo những điều kiện tiền đề để Việt Nam đồng có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi, chống hiện tượng đô la hóa quá mức nền kinh tế. Trong các mục tiêu nêu trên, hai mục tiêu đầu là các mục tiêu cơ bản. Mục tiêu thứ ba thực ra là kết quả từ việc thực hiện tốt hai mục tiêu đầu. Các mục tiêu 4, 5, 6: chính sách tỷ giá được điều hành vì mục tiêu phòng ngừa và tránh để xảy ra khủng hoảng. Nếu các mục tiêu từ 1 đến 6 được thực hiện tốt sẽ cung cấp một nền tảng cho tăng trưởng và nâng cao vị thế tiền đồng (mục tiêu 7, 8) Kết luận chương 3: Với những điều kiện cụ thể của nền kinh tế như trên thì khả năng phá giá để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước trong thời điểm hiện tại thì thật sự chưa cần thiết vì diễn biến rất phức tạp của nền kinh tế, việc làm cho đồng nội tệ mất giá liên tục sẽ làm mất lòng tin vào giá trị của đồng nội tệ, tâm lý kỳ vọng, đầu cơ, găm giữ ngoại tệ,… sẽ làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Thêm vào đó, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện tại chưa đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi có biến cố liên quan đến đồng nội tệ mất giá, áp lực lạm phát gia tăng, nợ quốc gia đang tiến sát ngưỡng giới hạn cho phép, sự lệ thuộc vào các hàng hóa nhập khẩu tất yếu vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cán cân thương mại. 55 Vì vậy, một giải pháp phá giá tiền đồng trong thời điểm hiện tại không phải là phương pháp tối ưu và cần phải ưu tiên ổn định kinh tế, và cần phải chuẩn bị kỹ các phương án phòng ngừa rủi ro trước khi đưa ra quyết định cụ thể. Bên cạnh đó chính phủ nên có những giải pháp khác hỗ trợ doanh nghiệp như tung thêm những ưu đãi về tiếp cận vốn vay, hỗ trợ lãi suất, ưu đãi thuế, các gói kích cầu, … để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu. 56 CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI: 4.1. Chính sách tỷ giá đảm bảo ngang sức mua của đồng nội tệ: 4.1.1. Neo đồng tiền vào một rổ tiền tệ: Việt Nam có quan hệ ngoại thương với rất nhiều đối tác trên thế giới nên việc neo tiền đồng vào một rổ tiền tệ của các nước là những đối tác thương mại truyền thống, những đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam là cần thiết, điều đó giúp Việt Nam có những lợi ích sau: Thứ nhất, phép đánh giá chính xác hơn sức mua của tiền đồng và tác động của của nó đối với sức cạnh tranh xuất nhập khẩu với các đối tác thương mại chủ yếu. thứ hai, giảm bớt sự lệ thuộc vào một loại ngoại tệ mạnh như USD, khi neo vào một rổ tiền có thể hạn chế những rủi ro về tỷ giá tốt hơn là biện pháp neo vào một loại ngoại tệ duy nhất thứ ba, việc neo vào rổ tiền tệ này sẽ khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu có thể lựa chọn các loại tiền thanh toán khác trong rổ tiền (như Euro, Yên nhật, Bảng Anh,…) nhằm tránh những khan hiếm quá mức khi lựa chọn một loại ngoại tệ duy nhất là USD như hiện nay, từ đó giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong thanh toán quốc tế 4.1.2. Sử dụng REER như là dụng cụ để đo lường mức độ định giá của tỷ giá hiện tại: Tỷ giá thực đa phương (REER) là một chỉ số được điều chỉnh theo chênh lệch lạm phát so với các đối tác thương mại và từ kết quả phân tích hồi quy cho thấy sự phụ thuộc của tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu vào chỉ số này (tuy mức độ giải thích tương đối thấp R2 =32,4161%). So với tỷ giá thực song phương thì tỷ giá thực đa phương phản ánh đầy đủ hơn về ngang giá sức mua so với rổ tiền tệ và mang tính chất toàn diện hơn, có thể làm thước đo múc độ đáp ứng khả năng cạnh canh của hàng hóa Việt nam và đảm bảo cho tiền đồng có ngang giá sức mua trong mậu dịch quốc tế thay vì chọn tỷ giá thực song phương. 57 Tỷ giá thực đa phương cũng nên được sử dụng để xem xét mức tỷ giá danh nghĩa hiện tại có đạt được ngang giá sức mua hay không. REER được coi là thước đo để đo lường giá trị của đồng nội tệ so với rổ tiền tệ để biết được tiền đồng đang bị định giá cao hay thấp. Từ đó, NHNN sẽ có những biện pháp can thiệp vào thị trường phù hợp để hướng đến mức tỷ giá mục tiêu, hướng về vùng ngang bằng sức mua hay mức tỷ giá cân bằng dài hạn. Tuy nhiên, với những hạn chế và khó khăn trong việc tính REER chúng ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng và chính xác hơn trong việc sử dụng chỉ số này. Trong quá trình tìm mức REER thích hợp cho thị trường thì NHNN nên dò tìm, thử nghiệm nhiều lần và kết hợp với những nhân tố khác để tìm ra một mức REER hợp lý chứ không phải hoàn toàn lệ thuộc vào chỉ số REER để ra quyết định mức tỷ giá cho thị trường. Theo nhận định của PGS. TS Trần Ngọc Thơ và các thành viên (2006) trong “Phương pháp tiếp cận cơ chế điều hành tỷ giá” thì “ trong thực tế rất khó xác định tỷ giá đã lệch khỏi cân bằng dài hạn là bao nhiêu để can thiệp. Tiếp cận về phương diện lý thuyết, tỷ giá cân bằng dài hạn trước hết phải được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và quốc tế và cùng với chúng là các mối quan hệ khác phù hợp với đặc thù của từng quốc gia. Nhưng trong thực tế, cho đến này vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào khẳng định tính đúng đắn của tỷ giá cân bằng dài hạn. tỷ giá cân bằng dài hạn dường như chỉ là một ý niệm của nghệ thuật quản lý hơn là một định lượng cụ thể.” REER chỉ là một chỉ số tương đối hỗ trợ một phần cho các nhà hoạch định chính sách tìm ra chính sách điều hành tỷ giá hợp lý với điều kiện vĩ mô của đất nước, REER chỉ giúp xác định được vùng lân cận của tỷ giá mục tiêu mà thôi, còn để xác định chính xác 100% thì cần phải có một nghiên cứu khoa học khác. Theo nhận định chủ quan của bản thân, giữ mức biên độ tỷ giá tại thời điểm hiện tại 3% và linh hoạt tỷ giá liên ngân hàng (nâng cao tính năng động của thị trường liên ngân hàng) là hợp lý, vì trong giai đoạn hiện nay tình hình kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, nguy cơ lạm phát, sự méo mó thị trường từ việc găm 58 giữ ngoại tệ làm khan hiếm ngoại tệ gây áp lực giảm giá lên tiền đồng, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hóa được nhập khẩu từ nước ngoài là rất lớn, nguy cơ về tăng giá cả hàng hóa và làm phát là rất lớn. Nợ quốc gia tuy vẫn còn trong mức an toàn nhưng thực tế đang tăng rất nhanh và tiến sát giới hạn an toàn nên việc điều chỉnh tỷ giá phải được cân nhắc một cách tổng thể phù hợp hơn với nền kinh tế chứ không phải chỉ nhắm đến một chiều là làm gia tăng sự cạnh tranh của hàng hóa trong nước. 4.1.3 Bề rộng của dải băng tỷ giá Về lý thuyết, độ rộng của dải băng tỷ giá càng lớn thì chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. Ví dụ để kích cầu phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, NHNN có thể sử dụng công cụ chính sách tiền tệ như chính sách hạ lãi suất tiền đồng chẳng hạn. Động thái này của NHNN sẽ làm tiền đồng mất giá. Để giữ giá tiền đồng NHNN phải can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ra dự trữ bắt buộc hay hạn chế các giao dịch trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, hiện tại dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ vừa đủ theo tiêu chuẩn IFM, nếu liên tục can thiệp vào thị trường theo hướng bán ra ngoại tệ có thể quốc gia sẽ không đảm bảo nhu cầu dự trự ngoại hối. Đối với việc hạn chế các giao dịch trên thị trường ngoại hối có thể làm cho Việt Nam vi phạm các cam kết quốc tế. Nhìn chung, về độ rộng của dải băng tỷ giá hiện nay, theo quan điểm của Tôi, vẫn tiếp tục điều hành tỷ giá theo biên độ như hiện nay của NHNN, tỷ giá giao động xung quanh dải băng đã định ra với bề rộng hiện tại (±3%) là thích hợp trong thời điểm hiện tại. Với độ rộng như hiện tại, đòi hỏi thị trường liên ngân hàng phải hoạt động mạnh hơn để phản ảnh tốt theo tín hiệu của thị trường và nên xem xét khả năng thả nổi biên độ khi điều kiện vĩ mô cho phép trong thời gian tới. 4.1.4. Chống hiện tượng đôla hóa: Hầu hết trong chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng việc sử dụng đồng USD trong niêm yết giá, trong giao dịch ngoại thương, trong giao dịch ngoại tệ trong và ngoài nước rất phổ biến. Nếu nói đến giao dịch mua bán, thanh toán thương mại có liên quan 59 đến ngoại tệ thì USD chiếm tỷ lệ rất lớn, ngân hàng nhà nước khi niêm thông báo tỷ giá liên ngân hàng cũng sử dụng đồng USD để niêm yết. Chúng ta công nhận đồng USD là một đồng tiền mạnh và phổ biến, được hầu hết các nước trên thế giới sử dụng trong thanh toán. Tuy nhiên, sự lệ thuộc quá nhiều vào một loại ngoại tệ trong thanh toán không phải là một giải pháp tối ưu. Một khi có bất kỳ biến cố nào liên quan đến USD thì hậu quả của nó sẽ rất lớn. Việc khan hiếm USD trên thị trường ngoại hối đã làm méo mó thị trường và gây khó khăn cho các doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian qua là rất lớn, làm tăng áp lực giảm giá lên tiền đồng, làm tăng chi phí cho các mặt hàng nhập khẩu, ảnh hưởng đến giá cả và gây áp lực lên lạm phát. Việc khuyến khích các doanh nghiệp đưa các ngoại tệ khác như đồng EURO, Yên Nhật, Bảng Anh,… tham gia mạnh hơn vào thị trường ngoại hối của Việt Nam là cần thiết để giảm bớt những áp lực, rủi ro tiềm ẩn từ hiện tượng đôla hóa gây ra ở nước ta như hiện nay. 4.1.5. Xây dựng một hệ thống giám sát tài chính hiệu quả: Thường xuyên giám sát các hoạt động trên thị trường tiền tệ để kịp thời ngăn chặn các hành vi lũng đoạn thị trường, đầu cơ… và cảnh báo nguy cơ xảy ra khủng hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó. Phải xây dựng một cơ chế quản lý tỷ giá để hoạt động trong điều kiện bình thường và một cơ chế được sử dụng khi có các cú sốc từ bên ngoài hay khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra. 4.2. Xây dựng cơ chế quản lý tỷ giá phù hợp với giai đoạn hội nhập: 4.2.1. Lựa chọn cơ chế quản lý tỷ giá và thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối: Tỷ giá hối đoái luôn là một yếu tố vô cùng nhạy cảm đối với một nền kinh tế của đất nước, chỉ cần một sai lầm nhỏ sẽ dẫn đến những hậu quả rất lớn. Vì vậy, việc lựa chọn cơ chế tỷ giá để đưa vào thực tiễn là điều hết sức quan trọng của mỗi quốc gia. Lựa chọn cơ chế tỷ giá phải gắn liền với điều kiện cụ thể của từng quốc gia tương 60 ứng với từng giai đoạn. Có ba kiểu điều hành tỷ giá là: cố định, thả nổi hoàn toàn, thả nổi có kiểm soát. Cơ chế tỷ giá cố định đòi hỏi NHTW phải có dự trữ ngoại hối đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi có sự biến động về tỷ giá, tỷ giá cố định không phản ảnh được thông tin thị trường, cơ chế này không khuyến khích các doanh nghiệp tự bảo vệ mình trước những rủi ro có độ nhạy cảm với tỷ giá do không có bất ổn tỷ giá, từ đó làm trì trệ sự phát triển và hoàn thiện của thị trường các sản phẩm phòng ngừa rủi ro biến động giá trị tiền tệ, với cơ chế này nguy cơ lây nhiễm lạm phát và thất nghiệp từ quốc gia này sang quốc gia khác là rất lớn. Cơ chế tỷ giá thả nổi hay còn gọi là cơ chế tỷ giá linh hoạt là một cơ chế trong đó tỷ giá do các lực thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của chính phủ. Theo cơ chế này các doanh nghiệp phải dành thời gian và tiềm lực để quản lý rủi ro do giao động tỷ giá. Trong cơ chế tỷ giá thả nổi giá, tỷ giá tự do thay đổi theo cung cầu ngoại tệ, chính phủ không can thiệp vào thị trường ngoại hối. Trong cơ chế này, khi tỷ giá hối đoái tăng thì đồng nội tệ giảm giá và ngược lại. Đồng tiền của quốc gia có lạm phát thấp sẽ tăng giá và ngược lại, đồng tiền của nước có lạm phát cao hơn sẽ giảm giá. Điều này đã làm cho cán cân thương mại giữa hai quốc gia cân bằng trở lại và đảm bảo có ngang giá sức mua giữa các quốc gia có tham gia thương mại quốc tế. Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết là một cơ chế tỷ giá hối đoái hỗn hợp giữa thả nổi và cố định. Trong thực tế rất ít quốc gia thả nổi hoàn toàn đồng tiền của mình do quá bất ổn. Trong cơ chế thả nổi có quản lý, ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ công bố một mức tỷ giá nào đó và thường xuyên điều chỉnh theo những thay đổi trong cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối quốc gia, sự phát triển của thị trường ngoại hối không chính thức. Ngoài ra, tỷ giá cũng sẽ được điều chỉnh theo quan điểm của NHTW nhằm phục vụ cho các mục tiêu đã được định trước, ví dụ như mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu hay mục tiêu ổn định giá cả và lạm phát… 61 Trong cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát, tỷ giá được điều tiết theo quan hệ cung cầu ngoại tệ nhưng nếu tăng vượt mức giới hạn cho phép, có khả năng ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế, chính phủ sẽ dùng dự trữ ngoại hối và các chính sách kinh tế khác để can thiệp. Như vậy, để lựa chọn một chính sách nào là phù hợp thì chúng ta cần phải xem xét thực tế tình hình kinh tế của Việt Nam: Hiện tại, thị trường ngoại hối của Việt Nam còn rất thô sơ, thiếu các hoạt động trao đổi, mua bán, giao dịch liên quan đến tiền tệ chính thức và chuyên nghiệp. Cung cầu ngoại tệ luôn không gặp nhau, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và không chính thức luôn lệch pha, hiện tượng khan hiếm ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, khả năng thích nghi của các doanh nghiệp trong nước trước biến động tỷ giá là rất kém, thị trường phái sinh còn quá thô sơ, những biến động thất thường về tỷ giá trong thời gian qua làm mất đi lòng tin của người nắm giữ tiền đồng và có xu hướng nắm giữ ngoại tệ là rất lớn dẫn đến tình trạng bong bóng tỷ giá, đầu cơ, tâm lý bầy đàn làm méo mó thị trường. Trong điều kiện thực tế thì Việt Nam không đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu về một cơ chế thả nổi hoàn toàn vì còn rất nhiều bất cập như đã nêu trên nên việc lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát là hoàn toàn phù hợp với điều kiện nước ta như hiện nay. Trước tiên là phải định hướng thả nổi theo cơ chế thị trường để đi đúng với những quy luật khách quan của thị trường cũng như tiến gần hơn một cơ chế hội nhập quốc tế. Kiểm soát cơ chế là nhằm kiểm soát và đối phó với những bất cập, những rủi ro, yếu kém khi vận hành một cơ chế để tránh những tác động xấu ở bên trong lẫn bên ngoài quốc gia. Kiểm soát không chỉ đơn thuần là hạn chế hay bó buột các quy luật của thị trường mà là kiểm soát theo định hướng ổn định và phát triển nhằm đạt được các mục tiêu cân bằng vĩ mô dài hạn. 62 4.2.2. Xây dựng kênh thông tin minh bạch về tỷ giá: Trong nền kinh tế thị trường, thông tin là một vấn đề rất được quan tâm, thông tin nhanh và tốt cũng được xem là một lợi thế không nhỏ trong quy luật cạnh tranh. Nhưng riêng đối với thông tin tỷ giá thì mức độ ảnh hưởng sâu hơn cả về vi mô lẫn vĩ mô. Khi người dân và doanh nghiệp không nắm rõ được tình hình tỷ giá như thế nào thì họ thường rất dễ bị lung lay trước những quan điểm phiến diện vì họ thiếu cơ sở để kiểm chứng và đặt lòng tin, đó là yếu tố không chắc chắn về niềm tin và dẫn đến tâm lý ăn theo hay còn gọi là tâm lý bầy đàn, ứng xử của những người này sẽ hành xử theo tâm lý số đông. Tình trạng tâm lý bầy đàn đã thường xuyên diễn ra rất thường xuyên ở Việt Nam, có thể nói nó cũng đã trở thành một “bản chất mới” ở Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tác hại của tâm lý này đã ảnh hưởng như thế nào; bong bóng chứng khoán năm 2006, 2007, USD, vàng năm 2009, 2010,… đã làm méo mó thị trường và phải nhờ đến sự can thiệp của nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng một kênh thông tin chính thức về tỷ giá để tạo lòng tin là rất cần thiết; một mặt phản ánh được mức độ thông tin rõ ràng, minh bạch trong dân chúng tránh những nguy cơ đầu cơ làm lũng đoạn thị trường, một mặt thể hiện được lòng tin vào chính sách điều hành tỷ giá của Chính phủ, cũng là nơi cung cấp thông tin chính xác để các cá nhân, tổ chức căn cứ vào đó mà lập kế hoạch làm ăn, định hướng chính sách phát triển kinh doanh phù hợp với thực tế, ổn định và chắc chắn hơn. 4.2.3. Không lạm dụng vai trò tỷ giá để tạo lợi lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa: Chính sách tỷ giá phải được đặt trong một bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam, vì tỷ giá có liên quan đến tất các các yếu tố vi mô, vĩ mô của nền kinh tế. Tỷ giá ảnh hưởng lên nợ quốc gia, lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán, GDP,…Vì vậy, tỷ giá không đơn thuần chỉ sử dụng cho việc làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước mà phải gắn với sự ổn định và phát triển chung của nền kinh tế. . Chính phủ cần phối hợp đồng bộ các chính sách giá cả, tiền tệ và tài khóa, tập 63 trung cho dự báo kinh tế, phản ứng kịp thời trước những biến động của nền kinh tế. Thay vì sử dụng công cụ tỷ giá để hỗ trợ cho hàng hóa xuất khẩu, cái mà chính phủ cần làm hiện nay là có các biện pháp nhằm tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, cải cách cơ cấu mạnh mẽ hơn nữa, tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cải thiện chỉ số hiệu quả sử dụng vốn... Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của tỷ giá trong việc hỗ trợ cho hàng hóa xuất khẩu. Việc định giá đồng tiền quá cao sẽ làm giảm đi khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, cho nên cần phải xây dựng một mức tỷ giá mục tiêu mà ở đó có thể hỗ trợ được cho hàng hóa xuất khẩu một mặt nó vẫn có thể đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô khác. 4.3. Giải pháp khác nhằm hỗ trợ cán cân thương mại: 4.3.1. Chính phủ thực hiện các chính sách hố trợ cho các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn như hiện nay: Hiện nay việc tiếp cận vốn vay phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, lãi suất cho vay của các ngân hàng rất cao do lãi suất huy động của các ngân hàng vốn đã tăng cao từ đầu năm 2009. Hầu hết các doanh nghiệp khi đi vay với lãi suất cao không đảm bảo khả năng sinh lời cho chi phí tăng làm giá thành hàng hóa cũng tăng dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp, do khả năng sinh lời thấp và làm ăn khó khăn nên có rất nhiều doanh nghiệp phải co cụm lại, thu hẹp quy mô để giảm bớt gánh nặng chi phí, hoạt động cầm cự để chờ cơ hội. Năm 2009, chính phủ đã có nhiều gói kích cầu hỗ trợ doanh nghiệp, thì đến năm 2010 vẫn chưa thấy có tín hiệu nào rõ ràng. Các hoạt động xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng truyền thống như nông thủy hải sản, cao su, dầu thô còn riêng các lĩnh vực khác thì vẫn gặp nhiều khó khăn do cơ chế điều hành lãi suất vẫn còn nhiều bất cập, tiếp cận vốn thực sự rất khó. Mục tiêu vĩ mô ổn định nền kinh tế là quan trọng, tuy nhiên việc cân nhắc một chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất là không thể bỏ qua, việc giảm lãi 64 suất huy động VND, bình ổn tỷ giá để đạt ngang bằng sức mua, và các chính sách ưu đãi kích cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh để phục hồi nền kinh tế cần phải được cân nhắc trong thời điểm hiện tại. 4.3.2. Thêm giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu: Theo kết quả phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại cũng như vay trò của tỷ giá trong việc gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là có hạn, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước không thể trông chờ hoàn toàn vào chính sách tỷ giá của Chính phủ mà bản thân doanh nghiệp cũng phải biết tự tạo lợi thế cạnh tranh cho bản thân hàng hóa của mình. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là các mặt hàng thô sơ, nông sản, thủy hải sản, nguyên nhiên liệu chưa qua chế biến,… có hàm lượng giá trị gia tăng rất ít nên ít có khả năng cạnh tranh với các mặt hàng khác trên thế giới. Mức độ đầu tư về mặt kỹ thuật công nghệ để tạo ra một sản phẩm có giá trị cạnh tranh còn kém nên mặc dù sản lượng xuất khẩu nhiều nhưng xét về mặt giá trị thì vẫn còn thấp. Mức độ đầu tư kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp trong nước còn yếu và chúng ta sẽ dễ dàng thấy một sản phẩm công nghệ giống nhau giữa Việt Nam và các nước cạnh tranh khác thường thì ta bị thu thiệt ở hai khoảng; chất lượng kém hơn đối thủ hoặc chi phí giá thành để một sản phẩm ra đời thường cao hơn đối thủ từ đó làm yếu đi tính cạnh tranh của hàng hóa, có thể nói xét về cạnh tranh thậm chí ta còn thua ngay trên sân nhà chứ đừng nói đến trên sân khách. Nói chung, Chính phủ có mục tiêu vĩ mô của Chính phủ, tỷ giá là một yếu tố vĩ mô quan trọng, việc cân nhắc chính sách tỷ giá đễ hỗ trợ cho hàng hóa xuất khẩu chỉ là một phần trong chính sách tổng thể, phần còn lại bản thân doanh nghiệp phải biết nổ lực trong điều hành hoạt động kinh doanh, biết tự tìm phương án để gia tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. 65 4.3.3. Khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá: Khi tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế, việc giao thương quốc tế là điều thường xuyên xảy ra và những rủi ro về tỷ giá là không thể tránh khỏi. Vì vậy, chính phủ cần phải tạo điều kiện hoàn thiện thị trường các sản phẩm phái sinh như quyền chọnngoại tệ, hoán đổi, kỳ hạn, tỷ giá giao sau… Hiện nay các sản phẩm này do các ngân hàng thương mại cung cấp trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Vì dung lượng thị trường rất nhỏ bé, lại hoạt động phi tập trung không chuyên nghiệp, thiếu các cơ sở pháp lý và đặc biệt tỷ giá được kiểm soát quá chặt chẽ… nên nó hạn chế nhu cầu của khách hàng. Chính phủ cần có các hoạt động tuyên truyền phổ biến các sản phẩm phái sinh tiền tệ cho doanh nghiệp, ngân hàng và các nhà đầu tư khác… Cần làm thay đổi nhận thức rằng các sản phẩm phái sinh mang tính đầu cơ, cờ bạc. Sản phẩm phái sinh vừa là công cụ phòng ngừa rủi ro vừa là công cụ để đầu cơ. Nhà đầu cơ chính là nhà đầu tư rủi ro, họ sử dụng các phân tích đánh giá thị trường và chấp nhận rủi ro để ra quyết định mua bán những giá trị trong tương lai, nếu những dự đoán của họ đúng thị họ lời, ngược lại phải gánh chịu thua lỗ. Tuy nhiên, thị trường các sản phẩm phái sinh là một loại thị trường cao cấp, rất phức tạp, dễ bị lợi dụng để đầu cơ lũng đoạn thị trường nên rất cần các nhà quản lý tài giỏi nhiều kinh nghiệm và phải được quản lý chặt chẽ, thường xuyên cập nhập số liệu để quản lý và phát hiện các biểu hiện không bình thường của thị trường để có chính sách can thiệp cần thiết, không để nó trở thành sòng bài lớn. 4.3.4. Chiến lược lựa chọn thị trường mục tiêu và đầu tư linh hoạt theo tỷ giá: Khi nghiên cứu một số chính sách đầu tư của một số quốc gia đặc biệt là Trung Quốc, chúng ta phát hiện ra được sự linh hoạt trong chính sách đầu tư và sự thích nghi rất cao trong cạnh tranh quốc tế của họ. Họ thường biết khai thác tối đa cơ hội thị trường để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa của họ; ngoài lợi thế về cơ chế tỷ giá hiện tại, bản thân các nhà đầu tư Trung Quốc tăng cường nhập khẩu những hàng hóa 66 thô sơ, hoặc sản phẩm bổ sung (để tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm của họ) ở nơi có giá rẻ (đặc biệt là từ các nước Đông Nam Á) sau đó chế biến thêm (tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm) để xuất lại thị trường mục tiêu là Mỹ và Châu Âu hay bản thân các nước mà họ đã nhập khẩu. Trừ việc bắt buộc nhập khẩu các loại mặt hàng mà Trung Quốc đang thiếu hoặc không có như: Nguyên nhiên liệu, các linh kiện điện tử, chất bán dẫn, ô tô để phục vụ sản xuất và tiêu dùng nội địa thì hầu hết các sản phẩm khác Trung Quốc đều có lợi thế cạnh tranh. Mức độ chuyên nghiệp trong đầu tư quốc tế của Trung Quốc rất cao. 4.3.5. Kêu gọi chính sách tiêu dùng hàng nội địa của người dân: Sự ưu tiên tiêu dùng hàng nội địa không phải là một vấn đề mới mẻ gì trên thế giới. Các nước đã kêu gọi thành công trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thụy sĩ, Hà Lan,…là những bài học về ý thức dân tộc, ý thức về tầm quan trọng trong cách tiêu dùng của mỗi người dân góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế của đất nước. Một người Hàn Quốc dù đi bất cứ nơi đâu họ vẫn ưu tiên sử dụng hàng hóa có xuất sứ từ chính quốc gia họ dù giá cả có thể mắc hơn, tính dân tộc rất cao. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên thấy tâm lý chuộng giá rẻ của những người có thu nhập trung bình trở xuống, còn có thu nhập khá hơn thì lại chuộng hàng ngoại nhập, còn thu nhập cao thì hầu hết ta thấy gần như mọi thứ xung quanh họ đều là hàng hiệu xuất sứ từ những thương hiệu trên thế giới để thể hiện bản thân. “ Chỉ cần quan sát thì chúng ta có thể nhận ra điều đó?” Tuy nhiên, chúng ta không thể đổ lỗi cho bất kỳ một tổ chức hay một cá nhân nào cả, mà cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, các nhà sản xuất trong nước, và mỗi người dân phải hiểu được vai trò, trách nhiệm, tầm quan trọng của mình. Thứ nhất, về phía chính phủ, các tổ chức tuyên truyền từ trung ương đến địa phương phải thường xuyên có những hoạt động tuyên truyền, những chính sách kêu gọi, những ưu đãi, những hành động biểu dương thiết thực hơn cho mỗi người dân, hộ 67 gia đình, tổ chức khi họ sử dụng hàng hóa được sản xuất trong nước, giúp mọi người nhận thức và hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của họ trong việc sử dụng hàng Việt. Thứ hai, về phía doanh nghiệp sản xuất phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đáng tin cậy, giá thành hợp lý, tạo sự sẵn có trên thị trường (mở rộng kênh phân phối) – tránh tình huống người mua muốn mua nhưng mà hàng hóa thì không thấy đâu. Các doanh nghiệp phải hiểu rằng Việt Nam có hơn 80 triệu dân và có mức độ tiêu dùng được các nước trên thế giới đánh giá là có tiềm năm lớn. Nếu ngay trên sân nhà với rất nhiều lợi thế mà các doanh nghiệp còn không cạnh tranh nổi thì việc thắng bạn trên sân khách lại là một điều khó khăn. Về phía mọi người dân, bản thân mọi người cần phải ý thức nhiều hơn nữa trong hành vi tiêu dùng của mình, ưu tiên sử dụng hàng Việt để cùng nhau “góp gió thành bão” góp sức mình vào công cuộc phát triển nền kinh tế của đất nước. Kết luận chương 4: Điều hành chính sách tỷ giá sao cho tiền đồng có thể đáp ứng được ngang giá sức mua so với một rổ tiền tệ là một trong những gợi ý của bản thân đối với chính sách tỷ giá hiện nay. Neo tỷ giá vào một rổ tiền và sử dụng REER như là công cụ để đo lường mức độ định giá cao hay thấp của tiền đồng, từ đó có các biện pháp thích hợp để điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt được mục tiêu hỗ trợ khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Năm 2008, VND đã định giá cao so với rổ tiền và đến cuối năm 2009 tiền đồng đã bị phá giá và dư âm của đợt phá giá vẫn đang diễn ra tiếp tục trong năm 2010, bên cạnh đó kết quả tính REER của năm 2009 đã đạt cân bằng sức mua so với rổ tiền. Mặc dù, phá giá hay làm giảm giá trị tiền đồng có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước nhưng theo ý kiến chủ quan của Tôi trong thời điểm này không nên phá giá tiền đồng mà tiến hành ổn định tỷ giá và các mục tiêu vĩ mô Nhằm hỗ trợ cho việc ổn định tỷ giá, Tôi cũng có gợi ý NHNN nên sử dụng nhiều hơn công cụ chính sách tiền tệ. Mặc dù tỷ giá có tác động nhất định đến cán cân thương mại, nhưng mức độ tác động này nhỏ. Điều này cho thấy khả năng cạnh tranh 68 của hàng hóa Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, cách điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ và cả môi trường kinh tế thế giới... Vì vậy, không nên quá kỳ vọng vào tỷ giá để giải quyết các vấn đề của nền kinh tế, trong đó có mục tiêu hỗ trợ khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết cùng với gia tăng hoạt động mạnh hơn nữa của thị trường tỷ giá liên ngân hàng. NHNN cần có các biện pháp tiếp tục bám sát diễn biến thị trường tài chính trên thế giới và trong nước để có những biện pháp dự báo, dự phòng thích hợp để dễ dàng ứng phó với những rủi ro khủng hoảng trên thế giới. KẾT LUẬN Mục tiêu của nghi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_gia_hoi_doai_va_can_can_thuong_mai_cua_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan