Tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số yếu tố liên quan tới lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng năm 2012 – Vũ Đức Long: Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
68
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH CỦA 
CÁC BÀ MẸ ĐẾN SINH CON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG NĂM 2012 
VŨ ĐỨC LONG - Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu trên 996 các bà mẹ đến sinh con tại 
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng về một số yếu tố liên 
quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh, kết quả cho 
thấy: Có mối liên quan về trình độ học vấn của các bà 
mẹ tới việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR =1,3, 
P<0,05); yếu tố về huyết thống tới việc giới tính khi 
sinh(OR =2,0, P <0,05); yếu tố do chưa sinh được con 
trai tới việc sinh con thứ 3 (OR = 3,8, P < 0,05); có 1,4 
các bà mẹ phá thai khi biết giới tính thai nhi không 
mong muốn; gần 10% các bà mẹ bị ảnh hưởng tâm lý 
trong cuộc sống gia đình (ngược đãi, ly hôn) khi sinh 
con có giới tính không mong muốn. 
Từ khóa: giới tính. 
SUMMARY 
RESEARCH OF FACTORS RELATED TO SEX 
SELECTION OF MOTHERS WHO GAVE BIRTH 
AT HAI PHONG ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 3 trang
3 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 599 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số yếu tố liên quan tới lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng năm 2012 – Vũ Đức Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
68
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH CỦA 
CÁC BÀ MẸ ĐẾN SINH CON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG NĂM 2012 
VŨ ĐỨC LONG - Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu trên 996 các bà mẹ đến sinh con tại 
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng về một số yếu tố liên 
quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh, kết quả cho 
thấy: Có mối liên quan về trình độ học vấn của các bà 
mẹ tới việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR =1,3, 
P<0,05); yếu tố về huyết thống tới việc giới tính khi 
sinh(OR =2,0, P <0,05); yếu tố do chưa sinh được con 
trai tới việc sinh con thứ 3 (OR = 3,8, P < 0,05); có 1,4 
các bà mẹ phá thai khi biết giới tính thai nhi không 
mong muốn; gần 10% các bà mẹ bị ảnh hưởng tâm lý 
trong cuộc sống gia đình (ngược đãi, ly hôn) khi sinh 
con có giới tính không mong muốn. 
Từ khóa: giới tính. 
SUMMARY 
RESEARCH OF FACTORS RELATED TO SEX 
SELECTION OF MOTHERS WHO GAVE BIRTH 
AT HAI PHONG MATERNITY HOSPITAL IN 2012 
Research on 996 mothers who gave birth in Hai 
Phong Maternity Hospital on a number of factors 
related to sex selection at birth, results showed that: 
There is an relationship between education 
background of mothers and the sex selection at birth 
(OR = 1.3, P < 0.05); elements of blood to the sex ratio 
at birth (OR = 2.0, P < 0.05), the factors of bearing 
without son to the 3rd parturition (OR = 3.8, P < 0.05), 
there is 1.4% of mothers having abortions when they 
know the undesirable sex of their fetuses; nearly 10% 
of mothers suffer psychologically in family life (abuse, 
divorce) when their children have unwanted gender. 
Keywords: sex. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tại Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) năm 
2000 vẫn ở mức bình thường nhưng trong những năm 
gần đây (từ 2006) đã có biểu hiện tăng đạt mức 110,6 
năm 2009, tương đương mức năm 1990 của Trung 
Quốc. Mất cân bằng giới tính khi sinh đang là tình 
trạng phổ biến ở các địa phương trong cả nước[5]. 
Theo điều tra biến động dân số ngày 1-4-2012, tỷ số 
giới tính khi sinh của nước ta đã đạt tới 112,3 bé 
trai/100 bé gái. Nếu không có sự can thiệp tích cực 
nhằm giảm tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi 
sinh, thì tình trạng này sẽ dẫn đến những hệ lụy khó 
lường ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội và sự phát 
triển bền vững của đất nước. Theo dự báo của Quỹ 
dân số liên hiệp quốc (UNFPA), nếu TSGTKS tiếp tục 
tăng như vậy trong các năm tiếp theo nó sẽ tác động 
nặng nề đến thế hệ nam thanh niên được sinh ra sau 
năm 2005 vì khi bước vào độ tuổi lập gia đình vào 
những năm 2030 thì nhóm nam giới này sẽ dư thừa so 
với phụ nữ cùng lứa tuổi 10%[6].Tại Hải Phòng theo 
số liệu báo cáo của Chi cục dân số kế hoạch hóa gia 
đình thì TSGTKS đều cao hơn mức bình thường trong 
những năm gần đây: năm 2007 là 117,8, năm 2008 là 
112,7, năm 2010 là 116,3[2]. Để tìm hiểu một số yếu tố 
liên quan tới mất cân bằng giới tính khi sinh, chúng tôi 
nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: Mô tả một số 
yếu tố liên quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh của 
các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản Hải 
Phòng năm 2012. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu: Các bà mẹ đến sinh 
con tại Bệnh viện Phụ sản – Hải Phòng trong năm 
2012. 
2. Địa điểm nghiên cứu: Tại bệnh viện phụ sản 
Hải Phòng. 
3.Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5 đến tháng 9 
năm 2012. 
4. Cỡ mẫu nghiên cứu 
n = Z
2
1-
ỏ/2. 
p.q 
d2 
n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu. 
Z21-ỏ/2: Hệ số tin cậy = 1,96. 
p: 0,5 (Tỷ lệ các bà mẹ có lựa chọn giới tính khi 
sinh). 
q = 1-p. 
d = 0,05 (sai số tuyệt đối). 
Cỡ mẫu tính được n = 384 (Thực tế chúng tôi 
nghiên cứu trên 996 bà mẹ). 
5. Kỹ thuật chọn mẫu: Sử dụng cách chọn mẫu 
ngẫu nhiên thuận tiện. Nhóm nghiên cứu tiến hành 
phỏng vấn ngẫu nhiên tất cả các bà mẹ tính từ thời 
điểm điều tra: lấy từ bà mẹ bắt đầu thứ nhất (số 1) đến 
đủ cỡ mẫu nghiên cứu (số 996). 
6. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp 
nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
7. Phương pháp thu thập số liệu: Nhóm nghiên 
cứu: Gồm 3 bác sỹ là cán bộ giáo viên của bộ môn 
chăm sóc sức khoẻ sinh sản của trường Cao đẳng y tế 
Hải Phòng cùng 15 em học sinh lớp hộ sinh đang học 
năm thứ 2 tại trường được tập huấn về mục đích, các 
nội dung nghiên cứu để thu thập thông tin.Thông tin 
được thu thập qua phiếu điều tra được lập sẵn. 
8. Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu 
được xử lý bằng phần mềm thống kê y học EPIINPO. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Bảng 1: Liên quan giữa trình độ học vấn tới việc 
lưạ chọn giới tính khi sinh 
KQNC* 
ĐTNC** 
Có lựa chọn 
giới tính khi 
sinh 
Không lựa chọn 
giới tính khi sinh  
n % n % 
Đại học/ 
Cao đẳng 245 41,3 239 59,3 484 
Trình độ 
khác*** 348 58,7 164 40,7 512 
 593 59,5 403 40,5 996 
P < 0,05; OR =1,3 
* =Kết quả nghiên cứu **= Đối tượng nghiên cứu 
***Trình độ khác: Từ trung cấp trở xuống. 
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy số các bà mẹ 
có trình độ từ trung cấp trở xuống có tỷ lệ lựa chọn 
giới tính khi sinh cao hơn so với các bà mẹ có trình độ 
đại học và cao đẳng (58,7 % và 41,3 %). Sự khác biệt 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
69
có ý nghĩa thống kê với (OR= 1,3; P < 0,05). Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu của Vũ 
Tài Anh (2011-Nam Định) [1], có thể là do địa bàn 
nghiên cứu khác nhau hoặc đối tượng nghiên cứu của 
chúng tôi chỉ khu trú trong một phạm vị hẹp hơn. 
Chúng tôi cho rằng trình độ học vấn của các bà mẹ là 
yếu tố tác động tới tư duy của người phụ nữ và khả 
năng tiếp cận các thông tin truyền thông, những người 
có trình độ học vấn thấp thường chịu những áp lực 
trong gia đình về việc lựa chọn sinh con theo giới tính 
cao hơn những người có trình độ học vấn cao. 
Bảng 2. Liên quan về yếu tố huyết thống tới việc 
sinh con theo giới tính 
KQNC 
ĐTNC 
Sinh con trai Sinh con gái 
 n % n % 
Anh chị em sinh 
con 1 bề là con 
trai 
79 56,8 43 72,9 122 
Anh chị em sinh 
con 1 bề là con 
gái 
60 43,2 16 27,1 76 
 139 70,2 59 29,8 198 
 P< 0,05; OR=2,0 
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy các bà mẹ có 
anh chị em sinh con một bề là trai có tỷ lệ đẻ con trai 
cao hơn 2 lần so với nhóm các bà mẹ có anh chị em 
sinh con một bề là gái, sự khác biệt có ý nghĩa (P < 
0,05). 
Bảng 3. Liên quan của việc chưa sinh được con 
trai tới việc sinh con thứ 3 
KQNC 
ĐTNC 
Sinh con thứ 
3 
Không sinh con 
thứ 3  
n % n % 
Chưa sinh con 
trai 43 61,4 142 15,3 185 
Đã sinh con trai 27 88,6 784 84,7 811 
 70 7,0 926 93,0 996 
OR =3,8; P <0,05 
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ các bà 
mẹ chưa sinh con trai sẽ sinh con thứ 3 cao hơn 3,8 
lần so với bà mẹ đã sinh con trai, sự khác biệt có ý 
nghĩa (P<0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù 
hợp với nghiên cứu của Trần Thị Bích Ngọc (2009)) 
[3], qua đó cho thấy các cặp vợ chồng vẫn mong muốn 
và quyết tâm để sinh con trai và khi chưa sinh được 
con trai họ phải chịu áp lực trong việc sinh con thứ 3, 
điều đó cũng được thể hiện rõ trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy không có trường hợp nào sinh con 
thứ 3 khi đã sinh được con trai. 
Bảng 4. Liên quan của việc nạo phá thai tới việc 
giới tính thai nhi không theo ý muốn. 
KQNC 
ĐTNC 
Biết giới tính thai nhi không theo ý muốn 
n % 
Không phá 
thai 794 98,6 
Nạo phá thai 11 1,4 
 805 100 
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy trong số các 
bà mẹ biết giới tính thai nhi không theo ý muốn có 
1,4% trường hợp các bà mẹ đã nạo phá thai. Đây là 
kết quả qua điều tra cắt ngang, phỏng vấn trực tiếp 
các bà mẹ, chúng tôi cho rằng con số thực tế có thể 
còn cao hơn. Như vậy cho thấy yếu tố giới tính thai nhi 
không mong muốn của các bà mẹ là một trong những 
nguyên nhân làm tăng tỷ lệ nạo phá thai, tăng tỷ lệ tai 
biến trong sản phụ khoa ảnh hưởng tới sức khỏe 
người phụ nữ, là hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi 
sinh. 
Bảng 5. Liên quan trong cuộc sống gia đình khi các 
bà mẹ sinh con có giới tính không theo ý muốn 
KQNC 
ĐTNC 
Các ảnh hưởng về mặt 
tâm lý trong cuộc sống 
gia đình 
n % 
Chồng ruồng bỏ, ngược đãi 81 8,1 
Ly hôn 14 1,4 
Cuộc sống gia đình 
 không bị ảnh hưởng 901 90,5 
 996 100,0 
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy trên 996 đối 
tượng nghiên cứu có 1,4% các bà mẹ phải ly hôn do 
không sinh được con trai, có 8,1% bị chồng ruồng bỏ, 
ngược đãi, gần 10% các bà mẹ khi không sinh được 
con trai phải chịu yếu tố tâm lý trong gia đình,kết quả 
của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Vũ Thành (2009)) [4].Qua kết quả đó cho thấy rõ 
những hệ lụy của việc mất cân bằng giới tính trong 
cộng đồng là vấn đề xã hội cần hết sức quan tâm đòi 
hỏi các tổ chức xã hội phải cùng chung tay thì tình 
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh mới dần được 
giải quyết,sức khỏe người phụ nữ cũng như của cộng 
đồng mới được cải thiện. 
KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu về một số yếu tố liên quan 
tới việc lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến 
sinh con tại bệnh viện Phụ sản Hải Phòng, chúng tôi 
có một số kết luận sau: 
- Có mối liên quan giữa yếu tố trình độ học vấn tới 
việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR = 1,3, P < 0,05); 
- Yếu tố về huyết thống gia đình có mối liên quan 
tới giới tính khi sinh (OR=2, P <0,05); 
- Các bà mẹ chưa sinh được con trai có liên quan 
tới việc sinh con thứ 3 (OR=3,8,P < 0,05); 
- Có 1,4 % các bà mẹ nạo phá thai do giới tính thai 
nhi không như mong muốn; 
- Có gần 10% các bà mẹ bị yếu tố tâm lý nặng nề 
trong cuộc sống gia đình (chồng ruồng bỏ, ngược đãi, 
ly hôn) do sinh con có giới tính không như mong 
muốn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Tài Anh (2011), Thực trạng tỷ số giới tính khi 
sinh và kiến thức,thái độ,thực hành của các cặp vợ chồng 
trong độ tuổi sinh đẻ tại Nam Định năm 2010-2011, Luận 
văn thạc sỹ y tế công cộng, Trường Đại học Y Thái Bình, 
Thái Bình. 
2. Chi cục Dân số - KHHGĐ Hải Phòng (2010), Kết 
quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009, Hội 
nghị Công bố kết quả sơ bộ Tổng diều tra dân số và nhà 
ở năm 2010, Hải Phòng. 
3. Trần Thị Bích Ngọc (2009), Nghiên cứu các yếu tố 
liên quan đến việc quyết định sinh con thứ 3 trở lên của 
các cặp vợ chồng, Đề tài cơ sở, Viện Nghiên cứu Dân số 
và Phát triển, Hà Nội. 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
70
4. Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cựu Linh (2009), Tìm 
hiểu một số yếu tố ảnh hưởng tới sinh con thứ 3 trở lên ở 
Hà Nội - Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội, Hà Nội. 
5. Tổng cục thống kê (2011), Tổng điều tra dân số và 
nhà ở Việt Nam 2009. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 
6. UNFPA(2009) Recentchange in the sex ratio at 
birth in Vietnam. 
NHËN XÐT CHUÈN T¢N Cæ §IÓN ë MéT NHãM SINH VI£N 18-25 TUæI 
 Cã KHU¤N MÆT HµI HßA TR£N ¶NH Kü THUËT Sè CHUÈN HãA 
Vâ Tr¬ng Nh Ngäc, Tr¬ng M¹nh Dòng, Tèng Minh S¬n, TrÞnh ThÞ Th¸i Hµ 
 Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu được tiến hành trên 143 sinh viên tuổi 18-
25, bao gồm 63 nam và 80 nữ nhằm mục tiêu: (1) xác 
định các chuẩn tân cổ điển trên khuôn mặt ở một nhóm 
người Việt bình thường độ tuổi 18-25 bằng phương pháp 
đo trên ảnh kỹ thuật số chuẩn hóa. (2) xác định các chuẩn 
tân cổ điển ở một nhóm người Việt có khuôn mặt được 
cho là hài hòa trong nhóm nghiên cứu trên. Phương pháp 
nghiên cứu: mô tả cắt ngang trên ảnh chuẩn hóa kỹ thuật 
số. Kết quả: - Chuẩn al-al / en-en: nam và nữ có al-al = 
en-en rất thấp (nam: 4,7%, nữ: 1,2%, chuẩn en-en/en-ex : 
không có trường hợp nào en-en = en-exKết luận: cả 
nam và nữ, giữa nhóm hài hòa và không hài hòa không 
có sự khác biệt về các chuẩn tân cổ điển. Xu hướng thẩm 
mỹ của nhóm hài hòa giống với xu hướng thẩm mỹ của 
châu Âu mặc dù các số đo phần lớn rất khác nhau. 
Từ khóa: Chuẩn tân cổ điển, thẩm mỹ mặt 
SUMMARY 
Neoclassical canon in a group of 
students aged 18-25 which have a 
harmonized face on standardized digital 
photo. 
The study was conducted on 143 students aged 18-
25, including 63 male and 80 female with aims: (1) define 
the neoclassical canon of normal face in a group of 
Vietnamese people aged 18-25 by measurements on 
standardized digital photos. (2) determine the neoclassical 
canon of harmonized faces in the study group. 
Methodology: cross-sectional description on 
standardized digital photographs. Results: canon al-al = 
en-en: men and women have al-al = en-en is very low 
(male: 4.7%, female: 1.2%), canon en-en = en-ex: no 
case en-en = en-ex 
Conclusions: both men and women, between 
harmonized group and not harmonized group, there are 
not the difference in the neoclassical canon. The Aesthetic 
tendance of harmony groups is like with aesthetic 
tendance of Europe, although most measurements are 
different. 
Keywords: Neoclassical canon, aesthetic of face. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ngày nay nhu cầu thẩm mỹ khuôn mặt và nghiên cứu 
vẻ đẹp đã trở thành vấn đề cần thiết của xã hội. Việc các 
bác sü chØnh nha, phÉu thuËt t¹o hình áp dông mét cách 
phæ biÕn, cøng nh¾c các tiêu chuẩn của người Caucasian 
ví dụ như tiêu chuẩn tân cổ điển để điều trị cho bệnh 
nhân người Việt Nam liệu có lập lại được nét đẹp thuần 
Việt phù hợp với đa số dân chúng hay không? §Ó gi¶i 
quyết vấn đề này chúng ta cần phải cú cỏc nghiờn cứu 
điều tra về quan điểm thẩm mỹ khuôn mặt của người Việt 
Nam [1],[2]. Do vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề 
tài này với các mục tiêu sau: (1) Xác định các chuẩn tân 
cổ điển trên khuôn mặt ở một nhóm người Việt bình 
thường độ tuổi 18-25 bằng phương pháp đo trên ảnh kỹ 
thuật số chuẩn hóa. (2) Xác định các chuẩn tân cổ điển ở 
một nhóm người Việt có khuôn mặt được cho là hài hòa 
trong nhãm nghiªn cøu trªn. 
Phân tích trên ảnh chụp được thực hiện trên ảnh chụp 
tư thế thẳng và nghiêng. Đây là phương pháp được sử 
dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân 
trắc, hình sự với ưu điểm: rẻ tiền và có thể giúp đánh giá 
tốt hơn về tương quan của các cấu trúc ngoài sọ gồm cơ 
và mô mềm. Khi phân tích thẩm mỹ khuôn mặt nên quan 
sát trực tiếp và phân tích qua ảnh. Hai phương pháp này 
có tác dụng bổ trợ cho nhau. Phép đo ảnh chụp dễ đánh 
giá về sự cân xứng của vùng mặt, cũng như dễ trao đổi 
thông tin hơn. Đo đạc trên máy ảnh kỹ thuật số với phần 
mềm đo thích hợp sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, 
nhân lực và đỡ phức tạp hơn nhiều so với đo trực tiếp 
trên người, có nhiều ưu điểm về khả năng thông tin, lưu 
trữ và bảo quản. Qua ảnh, có thể đánh giá định tính đẹp 
hay không đẹp, từ đó chúng ta có thể yêu cầu một 
phương pháp khoa học để đánh giá định lượng. Có 
nhiều tác giả đã phân tích khuôn mặt qua ảnh và đã đưa 
ra các tiêu chuẩn để chụp mặt với các tư thế khác nhau 
như Bishara, Farkas [3],[4],[5],[6], mục đích để chuẩn 
hoá kỹ thuật chụp ảnh nhằm đánh giá và so sánh dễ 
dàng hơn. 
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Sinh viên độ tuổi 18-25 đang học tại trường Đại học 
Răng Hàm Mặt nay là Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt-
Trường Đại Học Y Hà Nội. 
 Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng nghiên cứu là các 
sinh viên, học viên khỏe mạnh, ở độ tuổi 18 - 25 tuổi của 
Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt. Có bố mẹ, ông bà nội 
ngoại là người Việt. Không mắc các dị tật bẩm sinh, các 
chấn thương hàm mặt nghiêm trọng, chưa từng trải qua 
phẫu thuật thẩm mỹ hàm mặt, chưa điều trị nắn chỉnh 
răng. Không có các biến dạng xương hàm. Có đầy đủ các 
răng. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Các đối tượng không đạt được 
tiêu chuẩn lựa chọn. 
 Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả 
cắt ngang. Cỡ mẫu được xác định theo công thức tính cỡ 
mẫu của nghiên cứu mô tả để xác định giá trị trung bình: 
n = Z21- ỏ/2 x SD
2/ d2 (n: cỡ mẫu tối thiểu (đối với mỗi giới), 
Z21- ỏ/2: là hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì hệ số tin 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_mot_so_yeu_to_lien_quan_toi_lua_chon_gioi_tinh_kh.pdf nghien_cuu_mot_so_yeu_to_lien_quan_toi_lua_chon_gioi_tinh_kh.pdf