Đề tài Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên: Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên PHẦN THỨ NHẤT CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT 1.1. ĐIỀU TRA CƠ BẢN 1.1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1.1. Vị trí địa lý Trại giống gia cầm Thịnh Đán là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Trung tâm vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn, nằm trên địa bàn phường Thịnh Đán – Thành phố Thỏi Nguyờn trờn tuyến đường đi Hồ Núi Cốc, cách trung tâm thành phố 4 km về phía tây, ranh giới của phường Thịnh Đán được xác định như sau:       Phía đông nam giáp phường Tân Lập - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía tây nam giáp với xã Thịnh Đức - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía tây giáp với xã Quyết Thắng - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía bắc giáp với phường Tõn Thịnh - thành phố Thỏi Nguyờn. Do đó giao thông thuận lợi, tạo điều kiện tốt cho việc đi lại vận chuyển các sản phẩm nông nghiệp giữa các phường xã với nhau cũng như tới cỏc vựng miền khác. Trại giống gia cầm Thịnh Đán cũng được nằm trong khu vực thuận l...

doc88 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên PHẦN THỨ NHẤT CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT 1.1. ĐIỀU TRA CƠ BẢN 1.1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1.1. Vị trí địa lý Trại giống gia cầm Thịnh Đán là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Trung tâm vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn, nằm trên địa bàn phường Thịnh Đán – Thành phố Thỏi Nguyờn trờn tuyến đường đi Hồ Núi Cốc, cách trung tâm thành phố 4 km về phía tây, ranh giới của phường Thịnh Đán được xác định như sau:       Phía đông nam giáp phường Tân Lập - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía tây nam giáp với xã Thịnh Đức - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía tây giáp với xã Quyết Thắng - thành phố Thỏi Nguyờn; Phía bắc giáp với phường Tõn Thịnh - thành phố Thỏi Nguyờn. Do đó giao thông thuận lợi, tạo điều kiện tốt cho việc đi lại vận chuyển các sản phẩm nông nghiệp giữa các phường xã với nhau cũng như tới cỏc vựng miền khác. Trại giống gia cầm Thịnh Đán cũng được nằm trong khu vực thuận lợi này. 1.1.1.2. Điều kiện đất đai Phường Thịnh Đỏn cú địa hình chủ yếu là đồi núi, thể hiện ở diện tích đất sử dụng với diện tích đất của phường là 4,7 km2 trong đó: - Diện tích đất trồng lúa 97 ha;       - Diện tích hoa màu 162 ha; - Diện tích đất trồng cây ăn quả 52 ha; - Diện tích đất ở 86 ha; - Diện tích đất lâm nghiệp 96 ha; - Còn lại là các loại đất khác.       Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng chăn nuôi. Tuy nhiên do địa hình phức tạp, khó tập trung. 1.1.1.3. Điều kiện khí hậu thuỷ văn Phường Thịnh Đán nằm ở phía tây của Thành phố Thỏi Nguyờn, tỉnh Thỏi Nguyờn, nằm trong vùng khí hậu chung của miền núi phía bắc Việt Nam, do vậy nó chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa. Mựa đụng: khí hậu lạnh, khô hanh. Mùa hè: khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Dao động nhiệt độ và độ ẩm bình quân của cỏc mựa trong năm tương đối cao thể hiện qua 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình dao động từ 21-290C, độ ẩm trung bình từ 80-86 %, lượng mưa trung bình biến động từ 120,6-283,9 mm/thỏng, nhưng tập trung chủ yếu vào cỏc thỏng 6, 7, 8. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Thời gian này khí hậu thường khô hanh và lạnh, ẩm độ, nhiệt độ giảm đáng kể. Nhiệt độ trung bình dao động từ 13,7-24,80C (có những ngày xuống dưới 100C), ẩm độ thấp. Ngoài ra trong mùa đông còn có gió mùa đông bắc, giá rét và có sương muối, kéo dài 6-10 ngày, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển và sức chống đỡ bệnh của cây trồng và vật nuôi. 1.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của phường Thịnh Đán. 1.1.2.1. Điều kiện kinh tế Phường Thịnh Đán có cơ cấu kinh tế đa dạng, nhiều thành phần kinh tế cùng hoạt động: Nông - Công nghiệp, lâm nghiệp và dịch vụ, tạo mối quan hệ hữu cơ hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong đó sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm trên 50%, bao gồm cả ngành trồng trọt và chăn nuôi cùng nhau phát triển đồng đều. Dịch vụ là một nghề mới trong giai đoạn hiện nay đang được chú trọng và phát triển một cách mạnh mẽ bởi nó mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Đối với các hộ sản xuất nông nghiệp thu nhập bình quân là 700kg thúc/người/năm. Thu nhập bình quân đầu người của phường năm 2010 là 1.300.000 đ /người/thỏng. Trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng của phường xó đó được chú ý đầu tư phát triển, trong đó giao thông, thuỷ lợi được ưu tiên hàng đầu tạo điều kiện thuận lợi cho dân đi lại, làm ăn, buụn bỏn… Trồng trọt, chăn nuôi phát triển là yếu tố góp phần thúc đẩy kinh tế của phường phát triển. Chăn nuôi với quy mô nhỏ mang tính chất tận dụng là chủ yếu, phường đang chủ trương xây dựng mô hình chăn nuôi có quy mô lớn trang thiết bị hiện đại để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng như mô hình chăn nuôi lợn ngoại, trang trại gia cầm, bò thịt...v.v. 1.1.2.2. Điều kiện văn hoá xã hội - Tình hình xã hội + Dân cư Theo số liệu của UBND phường vào thời điểm tháng năm 2010 thì dân số của phường là 16.500 người, với 2.950 hộ, trong đó có 810 hộ sản xuất nông nghiệp, số còn lại là hộ phi nông nghiệp. Là phường nằm trên địa bàn thành phố có rất nhiều dân tộc cùng tham gia sinh sống, đại đa số là người Kinh, Nựng, Sỏn dỡu, Tày… Đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân trong những năm gần đây được nâng lên rõ rệt, hầu hết các hộ gia đình đều có phương tiện nghe nhìn như: Đài, TV, sách báo. Đây là điều kiện thuận lợi để người dân trong phường nắm bắt kịp thời chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các thông tin khoa học kĩ thuật để phục vụ đời sống hàng ngày.Ngoài ra, phong trào xây dựng nếp sống văn hoá trong phường được đẩy mạnh như: xây dựng gia đình văn hoá, làng xóm văn hoá. + Y tế:Địa bàn phường là nơi tập trung nhiều bệnh viện lớn của tỉnh: bệnh viện A Thỏi Nguyờn, bệnh viện Y học cổ truyền dân tộc, bệnh viện Tâm thần. Ở phường còn có hệ thống y tế cơ sở hoạt động khá hiệu quả. Các y bác sỹ và cán bộ y tế luôn tận tụy với công việc, thường xuyên quan tâm chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân. Mọi trẻ em dưới 6 tuổi đều được tiêm phòng vaccine đầy đủ. + Giáo dục: Đây là một phường có trình độ dân trí khá cao, có rất nhiều cơ quan trường học đúng trờn địa bàn phường như: Trường Cao đẳng Sư phạm Thỏi Nguyờn, trường Cao đẳng Kinh tế, trường Trung cấp Y, trường Cao đẳng Kinh tế -Kỹ thuật, trường Phổ thông trung học Ngô Quyền… Trong những năm qua phường đã hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập trung học cơ sở. + An ninh chính trị: Do tập trung nhiều nhà máy, trường học, dân cư đông, lượng người giao lưu nhiều nên công tác quản lý xã hội của phường khá phức tạp. Do đó, hoạt động của các ban ngành trong phường phải thường xuyên, liên tục, tích cực và đồng bộ. Phường đã tích cực xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân, đẩy mạnh sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người dân nhằm từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội như: nghiện hút, trộm cắp, cờ bạc… 1.1.3. Tình hình sản xuất 1.1.3.1. Ngành trồng trọt Ngành trồng trọt đóng vai trò quan trọng và là nguồn thu chủ yếu của nhân dân. Do vậy, sản phẩm của ngành trồng trọt được người dân quan tâm và phát triển. Cây nông nghiệp chủ yếu và là cây trồng mũi nhọn trên địa bàn của phường là cây lúa với diện tích trồng khá lớn (105ha). Để nâng cao hiệu quả sản xuất, phường đã thực hiện thâm canh tăng vụ (2 vụ/năm) đưa các giống lúa mới có năng suất cao vào sản xuất. Ngoài ra cũn cú một số cõy khỏc được trồng khá nhiều như: khoai lang, lạc, đỗ, ngô... và một số cây rau màu khác được trồng xen giữa các vụ lúa nhưng chủ yếu là trồng vào mùa đông. Để cây trồng đạt năng suất cao thì không thể thiếu vai trò của hệ thống thuỷ lợi, những năm trước đây hệ thống thuỷ lợi chưa được cải thiện nên diện tích lúa thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa, khô hạn về mùa đông, đồng ruộng chỉ cấy được một vụ. Hiện nay, nhờ kiên cố kênh mương hoỏ trờn đồng ruộng, số diện tích ngập ỳng, khụ hạn đã được sử dụng có hiệu quả (2 vụ/năm). Người dân đã biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất, mạnh dạn đưa các giống mới có năng suất cao nhờ đó đã cơ bản giải quyết được nhu cầu lương thực cho người dân. - Diện tích trồng cây ăn quả khá lớn, song vườn tạp vẫn nhiều, cây trồng thiếu tập trung lại chưa thâm canh nên năng suất thấp, sản phẩm chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, chưa mang tính chất hàng hoá cao, cây ăn quả chủ yếu là: na, cam, quýt, nhãn, vải... - Cây lâm nghiệp: Với đặc điểm của vùng trung du miền núi, do đó diện tích đất đồi núi chiếm khá lớn. Phường đã thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân nên diện tích cây lâm nghiệp đã được nâng lên, phủ xanh gần hết diện tích đất trống, đồi núi trọc và diện tích rừng mới trồng, tạo điều kiện cho việc quản lý, khai thác hợp lý. 1.1.3.2. Ngành chăn nuôi      Song song với sự phát triển của ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi cũng phát triển không ngừng. Chăn nuôi cung cấp sức kéo, phân bón cho trồng trọt, đồng thời cung cấp thực phẩm và nguồn thu nhập kinh tế không nhỏ cho các hộ nông dân. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi ở phường chủ yếu là tự cung tự cấp, sản phẩm hàng hoá đưa ra ở thị trường cũn ớt. Trong những năm gần đây người dân đã biết áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, từ các hộ sản xuất manh mún, quy mô nhỏ người dân đã mạnh dạn đầu tư vốn, kỹ thuật, con giống mới có năng suất cao, trang thiết bị hiện đại vào chăn nuôi nên sản phẩm của ngành chăn nuôi từng bước được nâng cao và đáp ứng được nhu cầu của thị trường tiêu thụ cụ thể như sau: + Chăn nuôi trâu bò Tổng đàn trâu bò của phường có khoảng 600 con, trong đó chủ yếu là trâu, trung bình mỗi hộ nông dân có một trâu hoặc bò cày kéo. Hình thức chăn nuôi trâu bò là tận dụng cỏc bói thả tự nhiên và sản phẩm phụ của ngành trồng trọt, nên thức ăn cung cấp cho đàn trâu bò chưa thật đầy đủ cả số lượng và chất lượng. Việc dữ trữ các loại thức ăn cho trâu bò vào vụ đông chưa được quan tâm đầy đủ, vì vậy về mùa đông trâu bò thường có sức khỏe kộm nờn hay mắc bệnh. Chuồng trại và công tác vệ sinh thú y chưa được chú trọng nhiều. Công tác tiêm phòng chưa triệt để, nên trâu bò thường xuyên bị mắc các bệnh ký sinh trùng và một số bệnh khác. + Chăn nuôi lợn Hầu hết các hộ dân đều chăn nuôi lợn, nhưng số lượng nuụi cũn ớt. Thức ăn sử dụng cho chăn nuôi lợn chủ yếu là tận dụng các phế phụ phẩm của ngành trồng trọt như: lỳa, ngụ, khoai, sắn,... Vì vậy năng suất chăn nuôi lợn chưa cao. Tuy nhiên, một số hộ gia đình mạnh dạn đầu tư vốn cho chăn nuôi, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi như: Sử dụng các loại thức ăn hỗn hợp ngoài thị trường để rút ngắn thời gian chăn nuôi, tăng năng suất đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi. Công tác giống lợn đã được quan tâm, nhiều hộ gia đình chăn nuôi lợn nái móng cái hay nái F1 (Múng cái x Landrace) hoặc nái ngoại thuần để chủ động con giống và cung cấp một phần sản phẩm ra thị trường. Công tác vệ sinh thú y còn hạn chế, việc tiêm phòng hàng năm chưa triệt để nên bệnh lác đác vẫn xẩy ra gây thiệt hại cho người chăn nuôi, đồng thời ảnh hưởng đến sản phẩm chăn nuôi cung cấp ra thị trường. Trong những năm tới, mục tiêu là phải đưa được năng suất sản phẩm, chất lượng thịt đạt tiêu chuẩn xuất khẩu cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc chăn nuôi theo hình thức chăn nuôi công nghiệp. + Chăn nuôi gia cầm Nhìn chung chăn nuôi gia cầm trong toàn phường Thịnh Đỏn khỏ phát triển, chủ yếu là chăn nuôi gà, vịt theo phương thức chăn thả tự nhiên. Ngoài ra trên địa bàn phường cũn cú trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn. Đây là nơi cung cấp con giống cho nhân dân trong vùng và một số địa phương khác. Nhờ các tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào chăn nuôi, đó cú một số hộ gia đình chăn nuôi theo phương thức công nghiệp và bán công nghiệp, mua các con giống mới có năng suất cao về nuôi như: gà Lương Phượng, Sacsso, Isa, AA, Ross 508, Hyline, vịt Khaki Cambell, vịt Super meat,... Kết quả đã đem lại thu nhập khá cao cho những hộ chăn nuôi. Đa số các hộ chăn nuôi gia cầm đã ý thức được tầm quan trọng của việc tiêm phòng và chữa bệnh, nhất là sử dụng các loại vắc xin tiêm chủng cho gà như: Vắc xin Cúm gia cầm, Gumboro, Newcastle, Đậu, IB,... Song vẫn còn một số hộ chăn nuôi chưa ý thức được công tác phòng bệnh cho vật nuôi, đó cũng là điều đáng lo ngại vì đó là điểm cư trú và phát tán mầm bệnh gây tác hại cho đàn gia cầm trên địa bàn phường. 1.1.3.3. Công tác thú y Công tác vệ sinh thú y là một khâu then chốt trong chăn nuôi nó quyết định thành công hay thất bại của người chăn nuôi, đặc biệt trong điều kiện chăn nuôi quảng canh. Đa số các hộ chăn nuôi gia cầm đã ý thức được tầm quan trọng của việc tiêm phòng và chữa bệnh, nhất là sử dụng các loại vaccine Gumboro, vaccine Newcastle, vaccine đậu… Song vẫn còn một số hộ chăn nuôi chưa ý thức được công tác phòng bệnh cho vật nuôi. Đó cũng là điều đáng lo ngại vì đây là điểm cư trú và phát tán mầm bệnh, gây tác hại cho đàn gia cầm trên địa bàn phường. Ngoài ra, nú cũn ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của người dân. Nhận thức được điều đó nên trong những năm gần đây công tác thú y được lãnh đạo phường chú trọng quan tâm bằng nhiều biện pháp: + Tập trung chỉ đạo tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn; + Tuyên truyền lợi ích của công tác vệ sinh phòng dịch bệnh cho con người và vật nuôi; + Tuyên truyền người dân chấp hành pháp lệnh thú y; + Quan tâm đến lực lượng thú y cơ sở. Chính vì vậy, trong những năm gần đây đàn gia súc, gia cầm ở khu vực đã và đang phát triển đảm bảo an toàn kể cả giai đoạn dịch cúm gia cầm xảy ra hầu hết ở các địa phương trong toàn quốc. 1.1.4. Quỏ trỡnh thành lập và phát triển của Trại gia cầm Thịnh Đán 1.1.4.1. Quá trình thành lập Trại gà Đán được thành lập vào tháng 4 năm 1995 trên cơ sở tiếp quản cơ sở vật chất của Chi cục thú y tỉnh Bắc Thái. Năm 2001 tỉnh Thỏi Nguyờn nâng cấp và đổi tên thành trại giống gia cầm Thỡnh Đỏn. Trại có diện tích 5.200 m2 với tường bao bọc xung quanh thành hệ thống khép kín. Cơ sở vật chất cụ thể như sau: - 1 dãy nhà hành chính (văn phòng làm việc); - 1 dãy nhà ở cho công nhân ở và trực kỹ thuật; - 1 chuồng gà cho gà con mới nở, chờ xuất; - 1 dãy chuồng gà nuôi gà thịt, hậu bị; - 1 dãy chuồng nuôi gà sinh sản; - 1 chuồng khảo nghiệm giống; - 1 kho đựng thức ăn, đựng trứng; - 1 phòng ấp trứng. Trại có hệ thống lưới B40 để quây khi chăn thả đảm bảo cho gà được nuôi nhốt trong quõy cú khoảng không để vận, sân chơi phục vụ cho công tác phối giống. Trại có hệ thống tường rào bảo vệ bao quanh đảm bảo vệ sinh thú y. Về thiết bị, máy móc phục vụ cho chăn nuôi gồm có: 2 máy ấp trứng, 1 máy nở, 1 máy phun thuốc sát trùng, máy bơm nước, hệ thống giếng khoan và các trang thiết bị khác đảm bảo phục vụ chăn nuôi. 1.1.4.2. Cơ cấu tổ chức Bộ máy tổ chức của Trại bao gồm: - 1 trại trưởng; - 1 lái xe; - 1 cán bộ kỹ thuật; - 1 kế toán; - 2 công nhân. 1.1.4.3. Chức năng nhiệm vụ của Trại       * Chức năng + Trại giống gia cầm Thịnh Đán là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn. + Trại giống hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu, có con dấu riêng để giao dịch. * Nhiệm vụ + Nuôi giữ các giống gia cầm gốc được tỉnh cho phép nhập. + Nuôi khảo nghiệm các giống gia cầm thuần, con lai, sản xuất con giống tới tận tay người chăn nuôi. + Áp dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật về chăn nuôi gia cầm cho người dân. + Là nơi để thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về chăn nuôi gia cầm. 1.1.4.4. Tình hình sản xuất của Trại       * Ngành trồng trọt       Do điều kiện đất đai của trại còn nhỏ hẹp nên ngành trồng trọt của trại chưa có điều kiện phát triển.       * Ngành chăn nuôi       Năm 2003-2004, Trại chủ yếu chăn nuôi 3 dòng gà chính là: ISA-JA57, gà Lương Phượng, gà Sacsso. Ngoài ra, cũn cú ngan Pháp bố mẹ dòng R51.        Năm 2005, Trại đã nhập giống gà Sao của Hungari về nuôi thích nghi và sản xuất thử nghiệm.       Năm 2006, Trại đã nhập 40 con thỏ giống Newzealand tại trung tâm nghiên cứu dê thỏ Sơn Tõy nuụi thử nghiệm.       Năm 2009, trại chăn nuôi chủ yếu cỏc dũng gà chính: gà Lương Phượng, gà Sacsso. Đặc biệt trại đã nhập giống gà WA về nuôi thích nghi và sản xuất thử nghiệm. Năm 2010, trại nuôi chủ yếu các dòng chính: gà Lương Phượng, gà Sacsso. Ngoài ra, trại cũng nhập thêm giống gà Mía về nuôi để tạo giống gà Mía lai Lương Phượng bán con giống. * Công tác thú y Công tác thú y hết sức được quan tâm. Với phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh", trại giống gia cầm đã triệt để thực hiện tốt quy trình vệ sinh thú y đồng thời công tác chăm sóc, nuôi dưỡng cũng chú ý đúng mức nên dịch bệnh không xảy ra, đàn gia cầm tiếp tục duy trì, số lượng đầu con không ngừng tăng lên. Hệ thống chuồng nuôi được đảm bảo thông thoáng về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Mùa hè có hệ thống làm mát bằng quạt và vòi phun nước, mùa đông có hệ thống chắn gió... Trại có hàng rào chắn xây bao xung quanh đảm bảo ngăn cách, biệt lập với khu dân cư, cổng ra vào có hố sát trùng, khu vực chăn nuôi có hàng rào barie và hố vôi sát trùng. Hàng ngày chuồng trại, máng ăn, máng uống, dụng cụ cho ăn được quét dọn, cọ rửa sạch sẽ trước khi cho gà ăn. Quy trình tiêm phòng cho đàn gia cầm được thực hiện nghiêm túc với loại vắc xin như: Cúm gia cầm, Gumboro, Newcastle, Đậu, Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm. Chuồng trại thường xuyên thay chất độn và định kỳ tổng vệ sinh toàn bộ khu vực trại. Hàng ngày cán bộ kỹ thuật theo dõi, phát hiện gia cầm nhiễm bệnh và tiến hành điều trị hoặc loại thải kịp thời. Ngoài công tác sản xuất và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người chăn nuôi, Trại còn tiếp nhận sinh viên của trường Đại học Nông Lâm đến thực tập làm luận văn tốt nghiệp và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất và nâng cao tay nghề cho sinh viên. 1.2. NHẬN ĐỊNH CHUNG TRẠI GÀ GIỐNG THỊNH ĐÁN Thông qua quá trình sống, học tập và làm việc tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán, chúng tôi có nhận xét chung như sau: 1.2.1. Thuận lợi - Trại luôn được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, trung tâm Giống vật nuôi, chi cục thú Y tỉnh Thỏi Nguyờn và các cơ quan liên quan. - Ban lãnh đạo trại thường xuyên quan tâm, chú ý đến phát triển sản xuất và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên của Trại. - Trại có đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, nhiệt tình, năng động sáng tạo, sẵn sàng tiếp nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là luụn cú sự đoàn kết, thống nhất cao. - Trại nằm trong địa bàn thành phố Thỏi Nguyờn, cú vị trí gần các trung tâm khoa học kỹ thuật và trục đường giao thông - là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, tiếp nhận và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. 1.2.2. Khó khăn - Trại được xây dựng gần khu dân cư, đường giao thông: không có khu vực vành đai, vùng đệm, nên công tác phòng bệnh còn gặp nhiều khó khăn. - Do đất đai bạc màu, nghèo dinh dưừng và khí hậu ở một số tháng trong năm không được thuận lợi, nên việc sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, khả năng sinh trưởng, phát triển ở vật nuôi, cây trồng bị hạn chế. - Trại mới được thành lập và nâng cấp nên không tránh khỏi những khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý chưa nhiều. 1.3. NỘI DUNG THỰC TẬP TỐT NGHIỆP VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1.3.1. Nội dung thực tập tốt nghiệp Để đảm bảo tốt nhiệm vụ thực tập tốt nghiệp theo yêu cầu của trường, khoa cũng như của thầy giáo hướng dẫn, chúng tôi đã đưa ra một số nội dung trong thời gian thực tập tại cơ sở như sau: 1.3.1.1. Công tác phục vụ sản xuất * Công tác ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về chăn nuôi - Công tác giống; - Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng.       * Công tác thú y Công tác thú y là công tác quan trọng liên quan đến thành bại trong chăn nuôi, nhất là tình hình dịch bệnh đối với gia cầm đang tiềm ẩn ở khắp mọi nơi. Vì vậy, trong thời gian thực tập chúng tôi luôn tuân thủ công tác vệ sinh thú y: - Ra vào trại đúng nội quy quy định; - Làm tốt công tác vệ sinh môi trường, chuồng trại xung quanh chuồng trại; - Thực hiện nghiêm túc quy trình tiêm phòng; - Phát hiện và điều trị bệnh kịp thời cho vật nuôi; - Tích cực tham gia các phong trào vệ sinh, phòng bệnh. 1.3.1.2. Công tác nghiên cứu khoa học Thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: "Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà Sasso nuôi tại trại giống gia cầm Thịnh Đán Thành phố Thỏi Nguyờn" 1.3.2. Biện pháp thực hiện Để thực hiện tốt nội dung trong thời gian thực tập bản than đã đề ra một số biện pháp thực hiện như sau: - Tìm hiểu kỹ tình hình sản xuất chăn nuôi ở cơ sở thực tập và khu vực vành đai. - Tham gia tích cực vào công tác tiêm phòng, chẩn đoán và điều trị bệnh cho gia cầm. - Tham gia hoạt động chuyển giao con giống và kỹ thuật. - Tích cực tham gia các hoạt động tại cơ sở, lắng nghe ý kiến và tiếp thu mọi sự chỉ đạo hướng dẫn của thầy, cô giáo, cán bộ lãnh đạo để thực hiện đề tài tốt nghiệp một cách nghiêm túc và đạt hiệu quả cao. - Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới mà bản thân tụi đó được học và tìm hiểu vào thực tiễn sản xuất. 1.4. KẾT QUẢ CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT Trong quá trình thực tập tại Trại Giống gia cầm Thịnh Đán, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và cán bộ công nhân viên của trại, kết hợp với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tụi đó lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn sản xuất và đã đạt được một số kết quả sau: 1.4.1. Công tác chăn nuôi 1.4.1.1. Công tác chọn giống Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng, công tác chọn giống là một vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định đến hiệu quả chăn nuôi. Trong quá trình chăn nuôi tại cơ sở chúng tôi đã tiến hành công tác chọn giống gà ở các giai đoạn phát triển khác nhau, đáp ứng theo yêu cầu của người chăn nuôi. - Đối với gà mái sinh sản: trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, quan sát, tôi tiến hành chọn lọc những con mái đẻ tốt loại đi những con mái không đạt tiêu chuẩn như: bị khuyết tật, mào tích kém phát triển, xương háng hẹp, lỗ huyệt nhỏ, màu sắc lụng khụng đặc trưng của giống, lụng xự… - Đối với trứng giống: để sản xuất gà con giống tốt đạt tiêu chuẩn về chất lượng, trứng ấp phải được chọn lọc kiểm tra kỹ lưỡng trước khi đưa vào ấp. Trứng ấp phải được chọn lọc ở đàn gia cầm khoẻ mạnh và nuôi dưỡng theo quy trình nhất định, không mắc bệnh truyền nhiễm (sạch bệnh), có tỷ lệ trống, mỏi đỳng quy định. Mỗi ngày thu nhặt trứng 2-4 lần, sau đó chọn lọc và phân loại sơ bộ, loại bỏ những quả trứng bẩn, dập, vỡ, dị hỡnh… Tiếp đến đưa trứng vào phũng xụng trứng, tiến hành xông trứng thời gian khoảng 15-20 phút (sử dụng thuốc tím + Formol) rồi cho trứng vào kho bảo quản 3-5 ngày khi đủ số lượng cần thiết thì cho trứng vào máy ấp. + Ấp trứng: chọn trứng vào ấp phải đạt tiêu chuẩn chất lượng Chất lượng bên ngoài: trứng có hình dạng bình thường (ô van). Chia làm 2 đầu rõ rệt - đầu to và đầu nhỏ. Trứng không dài quá hoặc trũn quỏ. Vỏ trứng sạch, dầy đều. Khối lượng trứng phải đạt quy định, nhìn chung từ 40 - 60 g (đối với gà). Khối lượng trứng đưa vào ấp có thể biến đổi 5 - 10 gr, cần loại bỏ những quả trứng có khối lượng nhỏ hoặc to hơn quy định. Chất lượng bên trong: phải đảm bảo yêu cầu chất lượng, cụ thể là khi soi kiểm tra bằng đèn thấy lòng đỏ nằm ở trung tâm, ít di động, lòng trắng sáng đều không có vết đục và vệt máu, màng dưới vỏ không bị rách, buồng khí ở đúng vị trí. + Kiểm tra trứng ấp: Sau khi đưa trứng vào ấp một thời gian phải soi trứng kiểm tra phôi, ở các giai đoạn 7, 13, 18 ngày để kịp thời loại bỏ những trứng khụng phụi, chết phôi, đồng thời qua đó cũng đánh giá được chất lượng trứng đưa vào ấp để kịp thời điều chỉnh chế độ ấp hoặc chế độ chăm sóc nuôi dưỡng của đàn gà sinh sản sao cho đạt hiệu quả cao nhất. - Chọn phân loại gà con mới nở ra: Gà con mới nở ra phải tiến hành phân loại. Gà loại I là những con nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, khối lượng kích thước bình thường theo yêu cầu của từng giống, chân đứng thẳng, ngón thẳng, hai mắt sáng, mỏ thẳng và khép kín, lụng khụ, bụng mượt, màu sắc đặc trưng cho giống, bụng thon, gọn, mềm, rốn khô khép kín hoàn toàn, lỗ huyệt bình thường. Có thể nói công tác chọn giống nói chung và gia cầm nói riêng đều có chung nhiệm vụ là lựa chọn một cách cẩn thận những cá thể tốt, những con giống tốt có những đặc tính mong muốn trong thời gian ngắn nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngoài ra, nú cũn tạo ra và hoàn thiện những dòng, giống mới thích nghi phù hợp với từng vùng sản xuất. 1.4.1.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng Tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của gà và tuỳ từng loại gà mà ta áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho phù hợp. - Giai đoạn úm gà con (1 - 21 ngày tuổi) Khi chuyển gà con từ khu ấp trứng về chúng tôi tiến hành cho gà con vào quây và cho uống nước ngay. Nước uống cho gà phải sạch và pha B.Complex + vitamin + đường glucose 5% cho gà uống hết lượt sau 2-3 giờ mới cho gà ăn bằng khay. Thức ăn của gà trong giai đoạn này là thức ăn khởi động, kích thước hạt nhỏ, dễ tiêu hoá, dễ hoà tan, chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng và cân đối về axit amin. Hàm lượng protein thô tối thiểu là 19%, năng lượng trao đổi từ 2900-3000 kcal / kg thức ăn. Giai đoạn này đảm bảo nhiệt độ trong quây là 33 - 35 0C. Gà sau khi nở từ 3 - 6 ngày tuổi nhiệt độ trong quây là 30 0C, sau đó nhiệt độ giảm dần theo số ngày tăng lên. Thường xuyên theo dõi gà để điều chỉnh chụp sưởi đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho gà theo quy định. Trường hợp thấy gà tập trung đông dưới chụp sưởi là hiện tượng gà thiếu nhiệt cần hạ thấp chụp sưởi; gà con tản ra xung quanh quây là hiện tượng nhiệt độ quá cao cần nâng chụp sưởi lên; khi thấy gà con tản đều dưới chụp sưởi là nhiệt độ thích hợp. Quây gà, máng ăn, máng uống, rèm che đều được điều chỉnh theo tuổi gà (độ lớn của gà). Ánh sáng phải được đảm bảo cho gà hoạt động bình thường. - Nuôi gà thịt (giai đoạn 21 - 70 ngày tuổi) Ở giai đoạn này gà phát triển nhanh nên ăn nhiều. Thức ăn của gà giai đoạn này có kích thước to hơn để phù hợp với khẩu vị của gà. Thành phần dinh dưỡng phải đảm bảo protein thô 21%, năng lượng trao đổi là 2900 kcal/kg thức ăn. Hàng ngày phải cung cấp đủ thức ăn, nước uống, cho gà ăn tự do và thay nước 2 lần/ngày. - Nuôi gà sinh sản (từ 21 ngày tuổi trở đi): Thời gian nuôi gà sinh sản được chia thành các giai đoạn khác nhau: giai đoạn gà con; giai đoạn gà dò và hậu bị; giai đoạn sinh sản. + Giai đoạn gà con (từ 4 - 6 tuần tuổi): Giai đoạn này gà tiếp tục sinh trưởng với tốc độ nhanh nên việc cung cấp thức ăn cho gà phải đảm bảo đầy đủ cả số và chất lượng, cụ thể là : hàm lượng protein trong thức ăn phải đạt từ 18-20%; năng lượng trao đổi đạt từ 2750-2800 kcal/kg. Ngoài ra, cần phải đảm bảo đầy đủ và cân dối các axit amin thiết yếu đặc biệt là lysin và Methionin. Ở giai đoạn này, gà được nuôi với chế độ ăn tự do. + Giai đoạn gà dò và hậu bị (từ 7 tuần tuổi đến đẻ bói): Nuôi dưỡng gà trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao khả năng sinh sản của gà ở giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, yêu cầu nuôi dưỡng chăm sóc trong giai đoạn này phải đảm bảo cho gà sinh trưởng, phát dục bình thường, gà không quá béo, không quá gầy và đảm bảo độ đồng đều cao về khối lượng. Thức ăn trong giai đoạn này cần phải đảm bảo có 15-17% protein, năng lượng trao đổi biến động từ 2600-2700 kcal/kg thức ăn. Chế độ chăm sóc gà trong giai đoạn này hết sức quan trọng, phải thường xuyên theo dõi khối lượng của gà để điều chỉnh tăng giảm thức ăn cho phù hợp. Chú ý khống chế thức ăn phù hợp để đến khi gà vào đẻ đạt khối lượng chuẩn quy định cho từng giống. Về cách cho ăn, người ta có thể sử dụng 2 phương pháp sau: một là cho gà 3 ngày ăn 1 ngày nhịn hoặc là ngày nào cũng cho ăn theo khẩu phần khống chế. Khẩu phần này được xác định tuỳ theo khối lượng cơ thể gà. Cứ 50 g khối lượng cơ thể vượt so với quy định giảm 5 g thức ăn/gà/ngày, nhưng lượng thức ăn không thấp hơn ở tuần trước; cứ 50 g khối lượng cơ thể thấp hơn so với quy định tăng 5 g thức ăn/gà/ngày. Chỉ cho ăn một bữa để giảm những ảnh hưởng xấu và stress cho gà. Khi phân phối thức ăn vào máng, phải đảm bảo trong vòng 4 phút tất cả cỏc mỏng đều có thức ăn. Máng ăn cho gà giai đoạn này cần treo cao cho gờ miệng mỏng luụn ngang với lưng gà để tránh rơi vãi thức ăn (chú ý trong giai đoạn nuôi khống chế phải khống chế cả nước uống). Đối với gà nuôi tại Trại gà giống Thịnh Đán sử dụng thức ăn hỗn hợp 0521 của CP có thành phần dinh dưỡng: đạm 19%; xơ thô 6%; Ca 0,8 -1,0%; P 0,6%; NaCl 0,3-0,5%; năng lượng trao đổi 2900 kcal/kg. Hàng ngày chúng tôi theo dõi và giám sát tình trạng sức khoẻ của đàn gà. Khi phát hiện ra gà có triệu chứng biểu hiện bệnh tiến hành chẩn đoán bệnh và có biện pháp điều trị kịp thời cho đàn gà. Trong quá trình nuôi dưỡng chúng tôi tiến hành tiêm chủng vaccine cho gà theo đúng chủng loại liều lượng và lịch phòng bệnh cho gà hàng tuần. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ chiếu sáng về thời gian và cường độ. Mật độ nuôi nhốt gà giai đoạn hậu bị là gà trống 4,2 gà/m2, gà mái 7 gà/m2. Định kỳ thay đệm lút khụ và tơi xốp. + Giai đoạn gà đẻ: Chúng tôi đã chú ý chuẩn bị đầy đủ máng ăn, máng uống cho gà theo quy định, không để gà bị khát nước vì nếu gà thiếu nước gà sẽ giảm tỷ lệ đẻ và khối lượng trứng. Nền chuồng luụn khụ, độ dày của đệm lót đảm bảo đạt 10-15 cm, ổ đẻ được đưa vào chuồng nuôi trước tuổi đẻ đầu dự kiến khoảng 2 tuần để gà mái làm quen. Thường xuyên bổ sung đệm lót mới và vệ sinh sạch sẽ, hạn chế gà đẻ xuống nền. Kiểm tra loại thải gà mái đẻ kém, không đẻ. Căn cứ vào tỷ lệ đẻ, khối lượng gà hàng tuần điều chỉnh khối lượng thức ăn cho phù hợp. Ghi chép tất cả số liệu vào sổ sách theo biểu mẫu để theo dõi. Trứng được thu nhặt hai lần/ngày để hạn chế đảm bảo trứng không bị dập vỡ. Đối với gà nuôi trong trại giống gia cầm Thịnh Đán sử dụng thức ăn 9624 của CP có thành phần dinh dưỡng: đạm 15%; xơ thô 6%; Ca 3,4 – 3,8%; P 0,65%; NaCl 0,3-0,5%; năng lượng trao đổi 2550 kcal/kg   1.4.1.3. Chế độ chiếu sáng Chế độ chiếu sáng và chế độ ăn có tác dụng kích thích hay kìm hãm sự phát dục của gà trống và gà mái. Điều cần ghi nhớ để áp dụng chế độ chiếu sáng cho đàn gà sinh sản đó là: không bao giờ tăng thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng trong giai đoạn hậu bị, không được giảm thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng trong giai đoạn đẻ trứng. Chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên, việc khống chế thời gian chiếu sáng tự nhiên thực tế là rất khó. Ở giai đoạn đẻ thời gian chiếu sáng nâng dần lên từ 14 h - 17 h/ngày. Chúng tôi thực hiện chế độ chiếu sáng theo hướng dẫn của Viện chăn nuôi như sau: Bảng 1.1 Chế độ chiếu sáng của đàn gà Tuần tuổi Thời gian Cường độ W/m2 chuồng nuôi 0-2 24h 4 3-8 16h 3 9-14 8h (Ánh sáng tự nhiên) 2 14-15 8h (Ánh sáng tự nhiên) 2,5 >21 16h 3,5 1.4.2. Công tác thú y 1.4.2.1. Công tác phòng bệnh cho đàn gà      Trong chăn nuôi, công tác phòng bệnh rất quan trọng, là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi. Do vậy, trong quá trình chăn nuôi chúng tôi cùng với cán bộ kỹ thuật, công nhân của Trại thường xuyên quét dọn vệ sinh chuồng trại, khai thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, phun thuốc sát trùng, tẩy uế máng ăn, máng uống. Trước khi vào chuồng chăn gà phải thay quần áo lao động đã được giặt sạch, đi ủng, đeo khẩu trang, mũ chuyên dụng… Gà nuôi ở Trại được sử dụng thuốc phòng bệnh theo lịch trình sau: Tiêm phòng vaccine cho đàn gia cầm đảm bảo an toàn dịch bệnh. Trước ngày sử dụng vaccine không pha thuốc kháng sinh vào nước uống trong vòng 8-12 h, pha vaccine vào lọ nhỏ trực tiếp hoặc tiêm. Pha vaccine phải tính toán để đảm bảo mỗi con 1 liều vaccine tinh khiết không có thuốc sát trùng hoặc xà phòng; nhiệt độ của vaccine sau khi pha đảm bảo từ 20-25 0C. Chúng tôi sử dụng vaccine phòng bệnh cho đàn gà theo lịch phòng sau: Bảng 1.2. Lịch sử dụng vaccine phòng bệnh cho đàn gà Ngày tuổi Loại vaccine Phương pháp dung 1-5 Lasota lần 1, IB Gumboro lần 1 Nhỏ mắt 1 giọt, nhỏ mồm 1 giọt 7 chủng đậu Đâm xuyên màng cánh 10 Gumboro lần 2 nhỏ mồm 1 giọt 15 Cúm gia cầm Tiêm dưới da cổ 25 Gumboro lần 3 nhỏ mồm 1 giọt, Lasota lần 2 nhỏ mắt 1 giọt 35 Newcastle hệ 1 Tiêm dưới da 0,5 ml/ con 43 Cúm gia cầm lần 2 Tiêm dưới da cổ hoặc cơ lườn 115 chủng đậu lần 2 Đâm xuyên màng cánh 140 OV4 Tiêm dưới da Tiờm cúm H5N1 Tiêm dưới da 1.4.2.2. Chẩn đoán và điều trị bệnh Công tác chẩn đoán và điều trị bệnh kịp thời cho vật nuôi có ý nghĩa rất quan trọng. Trong quá trình nuôi dưỡng và chăn sóc đàn gà thí nghiệm, chúng tôi luôn theo dõi tình hình sức khoẻ của đàn gà để phát hiện gà ốm. Việc chẩn đoán được tiến hành thông qua quan sát triệu chứng và mổ khám bệnh tích để từ đó có hướng điều trị kịp thời. Thời gian thực tập ở Trại chúng tôi thường gặp một số bệnh sau:       * Bệnh viêm đường hô hấp cấp mãn tính ở gà (CRD, hen gà) - Nguyên nhân: Bệnh do Mycoplasma gallisepticum gây ra. Các yếu tố tác động gây nên bệnh cho gà như: điều kiện thời tiết, dinh dưỡng kém, chuồng trại không đảm bảo vệ sinh (chật trội, ẩm thấp) làm cho gà giảm sức đề kháng và dễ mắc bệnh ở gà. - Triệu chứng: Gà mắc bệnh có biểu hiện chảy nước mắt, nước mũi, thở khò khè, phải há mồm ra để thở, xoó cỏnh, gà hay quét mỏ xuống đất, đứng ủ rũ, có tiếng rít rất điển hình (nghe rõ về đêm), gà kém ăn, gầy đi nhanh chóng. - Bệnh tớch: Xỏc gà gầy, nhợt nhạt, khí quản có dịch, niêm mạc có chấm đỏ, phổi nhợt nhạt. Khi ghép với E.coli thấy xuất huyết dưới da, lách sưng, ruột xuất huyết. - Điều trị: + Anti- CRD: liều 2 g/lớt nước uống, dùng liên tục trong vòng 3-5 ngày. Tất cả các loại bệnh khi điều trị cần kết hợp với các loại thuốc nhằm tăng sức đề kháng như: Bcomplex (1 g/3 lít nước), vitamin K, đường Glucose. + Bệnh CRD thường ghép với bệnh E.coli, do đó khi điều trị bệnh chúng tôi sử dụng Bio- Enrafloxacin 10%, liều lượng 1ml/2 lít nước uống dùng trong 3 - 5 ngày.       * Bệnh cầu trùng (Coccidiosis) - Nguyên nhân: Bệnh cầu trùng do 9 loại Coccidia gây ra, chúng ký sinh ở tế bào biểu mô ruột. Tuỳ theo từng chủng loại và vị trí gây bệnh mà có những triệu chứng gây bệnh khác nhau. - Triệu chứng: Thường gặp ở 2 thể + Cầu trùng manh tràng: thường gặp ở gà con từ 4-6 tuần tuổi; gà bệnh ủ rũ, bỏ ăn, uống nước nhiều, phân lỏng lẫn máu tươi hoặc có màu sụcụla, mào nhợt nhạt (do thiếu máu). Mổ khám thấy manh tràng sưng to, chứa đầy máu. + Cầu trùng ruột non gà: Bệnh thường ở thể nhẹ. Triệu chứng chủ yếu là gà ủ rũ, xù lông, cánh rũ, chậm chạp, phân màu đen như bùn, lẫn nhầy đôi khi lẫn máu; gà gầy, chậm lớn, chết rải rác kéo dài tỷ lệ chết thấp. - Điều trị: chúng tôi sử dụng các loại thuốc sau: Hancoc, liều lượng 1,5-2 ml/1 lít nước uống dùng trong 4 - 5 ngày liên tục, nghỉ 3 ngày rồi lại dùng 5 ngày liên tục nữa; ESB 32 %, Anti coccidae - liều lượng 2 g/lớt nước uống dùng trong 3 - 5 ngày liên tục. Ngoài ra, để chống chảy máu chúng tôi kết hợp với Hanvit C và K, liều lượng 0,5-1g/1 lít nước uống.       * Bệnh bạch lỵ gà con - Nguyên nhân: do vi khuẩn gram âm Salmonella gallinarum và Salmonella pullrum gây ra. - Triệu chứng: gà con mắc bệnh biểu hiện kém ăn, lụng xự, ủ rũ, phõn cú màu trắng, phõn loóng dần và dính quanh hậu môn. Đối với gà thường ở thể mãn tính. - Điều trị: + Dùng Getacostrim với liều là 1 g/1 lít nước uống, cho uống liên tục 3 - 4 ngày. + Dùng Ampicoli, liều dùng 1 g/1 lít nước, cho uống 3-5 ngày liên tục kết hợp với Bcomplex liều 1g/3 lít nước. 1.4.3. Tham gia công tác khác Trong thời gian thực tập ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn gà thí nghiệm, chúng tôi còn tham gia vào một số công việc khác như: Tham gia quản lý máy ấp, chọn trứng, chọn gà con. Tham gia cắt móng gà trống - Úm gà con, ấp trứng. - Tham gia nuôi dưỡng và chăm sóc đàn gà sinh sản Lương Phượng, Sasso, gà WA, gà Lương Phượng lai Mía. Ngoài ra, chúng tôi còn hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi cho các hộ gia đình đến mua con giống của Trại, từ khâu xây dựng chuồng trại đến khâu vệ sinh phòng bệnh cũng như kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng khi nuôi gia cầm. 1.4.4. Kết quả công tác phục vụ sản xuất Sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán, Thành phố Thỏi Nguyờn, tụi đó tham gia và hoàn thành được một số công tác phục vụ sản xuất đã đề ra. Kết quả của công tác này được trình bày tại bảng 1.3. Bảng 1.3. Kết quả công tác phục vụ sản xuất Nội dung công việc Số lượng (con) Kết quả Số lượng (con) Tỷ lệ (%) 1. Nuôi dưỡng, chăm sóc gà An toàn - Gà L.Phượng bố, mẹ (con) 863 843 97,68 - Gà SASSO (con) 452 450 99,56 - Gà Mía (con) 200 176 88,00 3. Phòng bệnh An toàn - Vaccine Lasota (con) 4365 4365 100 - Vaccine Gumbro (con) 4365 4365 100 - Vaccine Newcastle (con) 1515 1515 100 - Cúm H5N1 (con) 1515 1515 100 2. Điều trị bệnh Khỏi - Bệnh cầu trùng (con) 100 100 100 - Bệnh CRD – Hen gà (con) 52 48 92,31 - Bệnh Bạch lỵ gà con (con) 212 172 81,13 3. Công tác khác An toàn - Ấp trứng (quả) 11605 9865 85,00 - Úm gà (con) 4356 4037 92,68 - Sát trùng chuồng trại (m2) 750 750 100 - Cắt móng gà trống (con) 123 123 100 1.5. KẾT LUẬN - ĐỀ NGHỊ 1.5.1. Kết luận Qua thời gian thực tập tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán, được sự giúp đỡ của ban lãnh đạo, cán bộ phụ trách và thầy giá hướng dẫn cùng với chính quyền địa phương tụi đó bước đầu tiếp cận với thực tiễn sản xuất, củng cố và nâng cao kiến thức chuyên ngành, học hỏi được kinh nghiệm trong chăn nuôi: + Biết cách chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý trong chăn nuôi. + Củng cố thêm về kiến thức và nắm được phương pháp nghiên cứu khoa học. + Cú thờm kiến thức về xã hội, cách sống, quan hệ trong một tập thể, cơ quan. + Nâng cao niềm tin và lòng yêu nghề của bản thân, qua đó tôi thấy việc đưa sinh viên xuống cơ sở sản xuất, các trại, trung tõm… là việc bổ ích và thiết thực, không chỉ giúp sinh viên học hỏi kinh nghiệm mà còn xây dựng lòng tự tin trong công việc, rèn luyện tác phong làm việc cho sinh viên trước khi bước vào nghề. 1.5.2. Đề nghị Trại giống gia cầm Thịnh Đán là trại mới thành lập, nâng cấp nên không tránh khỏi những khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật. Do đó, đề nghị các Sở, Ban, Ngành có liên quan cần có sự quan tâm hơn nữa để nâng cấp và sửa chữa chuồng trại. Nhà trường, khoa tiếp tục cho sinh viên xuống cơ sở để có điều kiện được tiếp xúc trực tiếp và làm quen thực tiễn sản xuất, cú thờm kinh nghiệm và củng cố vững chắc chuyên môn của mình. PHẦN II ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tên đề tài: " Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn" 2.1 Đặt vấn đề Trong những năm gần đây nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước cùng với nó là nền nông nghiệp cũng đã phát triển vững chắc, lương thực thực phẩm không những thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Đời sống người dân từng bước được cải thiện, mức sống ngày càng được nâng cao. Vì vậy, nhu cầu lương thực và thực phẩm ngày càng đòi hỏi ở mức cao hơn cả về số lượng cũng như chất lượng, trong đó chất lượng của các sản phẩm chăn nuôi là được chú ý hơn cả. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước khác. Các sản phẩm từ gia cầm có ý nghĩa kinh tế lớn như vậy là vì nó đáp ứng các nhu cầu về thịt trứng có giá trị dinh dưỡng cao cho con người. Trong ngành chăn nuôi gia cầm, sản phẩm phải thỏa mãn được yêu cầu về chất lượng như: thịt thơm, ngon, chắc thịt, lòng đỏ trứng gà thơm và đỏ... Mặt khác, nú cũn cung cấp phân bón cho nông nghiệp và cung cấp một số sản phẩm phụ như: lông cho ngành công nghiệp nhẹ. Gia cầm có khả năng chuyển hóa thức ăn đạt hiệu quả cao cho nên giá thành rẻ, chi phí cho đơn vị sản phẩm thấp. Gia cầm có vòng đời ngắn, sức sinh sản cao, từ một gà mái hướng trứng có thể thu được từ 250 - 280 quả trứng/ năm. Để đạt được như thế thì công tác chọn giống rất quan trọng. Làm sao để có được một giống, dòng hay con lai có khả năng sinh sản cao mà lại có sức đề kháng tốt với bệnh tật là một câu hỏi lớn đối với người chăn nuôi. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đú, tụi tiến hành làm đề tài:"Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn" 2.2. Tổng quan tài liệu. 2.2.1. Cơ sở lý luận 2.2.1.1. Nguồn gốc giống gà. Hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu về gia cầm trên thế giới đều cho rằng tổ tiên của gia cầm sống hoang dã, bằng chứng là gà hoang miền Bắc Ấn Độ hay gà Banquiva (Gallus Gallus murghi) - một trong bốn loại hình của gà rừng là được thuần hoá đầu tiên. Gà Banquiva thường đẻ trong tổ lót cỏ khô, lá cây, kéo dài từ 10 – 12 tháng, ấp 20 -21 ngày trứng nở, gà trưởng thành mái 0,7kg; trống 1 – 1,1kg. Gà Banquiva là loại gà có lông màu sặc sỡ. Gà trống có lông màu vàng da cam đến vàng, lông mình đỏ nâu, lông cánh ánh đen, lông bụng pha đen. Gà mái có lông vàng nhạt, vàng trắng đến hoa mơ. Mỏ, chân vàng nhạt, vàng đậm, đen. Từ các di chỉ khai quật khảo cổ ở cỏc vựng Châu Á cho kết luận rằng cái nôi của sự thuần hoá gà nuôi là ở Châu Á. Ở nước ta nuôi gà là nghề truyền thống từ lâu đời, phổ biến là giống gà ri, gà Ta vàng… Nhiều tác giả cho rằng chính tổ tiên đã thuần dưỡng được gà ngay trên mảnh đất quê hương từ giống gà rừng có thể từ đời Phựng Nguyờn cách đây trên dưới 3.500 năm (có tượng gà đất nung ở xóm Rền, Đông Dậu, Vĩnh Phúc). Trải qua quá trình dài phát triển nông nghiệp, tuỳ theo sở thích thị hiếu, điều kiện vùng sinh thái đất đai, khí hậu…những giống gà có đặc điểm và tính năng sản xuất khác nhau đã được tạo nên, Lê Hồng Mận (2007) [13]. 2.2.1.2 Một số đặc điểm sinh học của gia cầm - Ngoại hình Ngoại hình là một tính trạng chất lượng của gia cầm. Đó là những đặc điểm bên ngoài của vật nuôi có thể quan sát được như: màu lông, da, hình dáng, mào tớch… Cỏc đặc điểm về ngoại hình của gia cầm đặc trưng cho giống, thể hiện khuynh hướng sản xuất và giá trị kinh tế của vật nuôi. Sự phát triển của bộ lông: Lông là dẫn xuất của da, thể hiện đặc điểm di truyền của giống và có ỹ nghĩa quan trọng trong việc phân loại. Gà con mới nở có bộ lông tơ che phủ, trong quá trình phát triển lông tơ sẽ dần dần được thay thế bằng bộ lông cố định. Tốc độ mọc lông là biểu hiện khả năng mọc lông sớm hay muộn, có liên quan chặt chẽ đến cường độ sinh trưởng. Theo Brandsch Biichel (1978) [24], những gia cầm lớn nhanh thỡ cú tốc đọ mọc lông nhanh. Màu lông do một số gen quy định phụ thuộc vào sắc tố chứa trong bào tương của tế bào. Màu sắc da lông là mã hiệu của giống, một tín hiệu để nhận dạng con giống. Màu sắc da lông là một chỉ tiêu cho chọn lọc. Thông thường màu sắc đồng nhất là giống thuần, trên cơ sở đồng nhất đó mà loang là không thuần. Màu sắc da lông do một số ít gen kiểm soát nên có thể sử dụng để phân tích di truyền, dự đoán màu của đời sau trong chọn lọc, Đặng Hữu Lanh và CTV (1999) [9]. Các giống gia cầm khác nhau có bộ lông khác nhau, sự khác nhau về màu sắc lông là do mức độ oxy hoỏ cỏc chất tiền sắc tố melanin (Melanogene) trong các tế bào lông, Nếu các chất sắc tố là nhóm Lipocrom (Carotinoit) thỡ lụng có màu vàng, xanh tươi hoặc màu đỏ. Nếu không có chất sắc tố thỡ lụng cú màu trắng. Đầu: cấu tạo của xương đầu được coi như có độ tin cậy cao nhất trong việc đánh giá đầu của gia cầm. Da mặt và các phần phụ của đầu cho phép rút ra sự kết luận về sự phát triển của mô mỡ và mô liên kết. Mỏ và chân: Mỏ là sản phẩm của da, được tạo thành từ lớp sừng (Stratumcorneum). Mỏ phải ngắn và chắc chắn. Gà có mỏ dài và mảnh thì khả năng sản xuất không cao. Màu sắc của mỏ có nhiều loại: vàng, đỏ, đen, hồng. Màu của mỏ thường phù hợp với màu của chân. Những giống gà da vàng thì mỏ cũng vàng, ở gà mái màu sắc này có thể bị nhạt đi vào cuối thời kỳ đẻ trứng. Chân gia cầm có 4 ngón, rất ít 5 ngón, Trần Kiên và Trần Hồng Việt (1998) [8]. Chân thường có vảy sừng bao kín, cơ tiêu giảm chỉ cũn gõn và da. Chân thường có vuốt và cựa, cựa có vai trò cạnh tranh và đấu tranh sinh tồn của loài, Trần Thị Nguyệt Thu (1999) [17]. Gà có chân cao thường cho thịt thấp và phát dục chậm. Mào và tích là đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp nên có thể phân biệt trống mái. Mào rất đa dạng về hình dạng, kích thước, màu sắc, có thể đặc trưng cho từng giống gà. Mào là dẫn xuất của da. Theo Phan Cự Nhân (1971) [15], khi có mặt gen Ab gà sẽ có mào hoa hồng, gen aB sẽ có dạng mào nụ và gen ab sẽ có dạng mào cờ. Ở gà trống sự phát triển của mào, tích phản ánh sự thành thục tính dục sớm hay muộn, còn ở gà mái nếu mào, tích phát triển không rõ là dấu hiệu xấu đến khả năng sinh sản. - Hình dáng kích thước chiều đo cơ thể Tuỳ mục đích sử dụng, các giống gia cầm được chia thành 3 loại hình: hướng trứng, hướng thịt và kiêm dụng.Gà hướng thịt thường có hình dạng cân đối, ngực sõu, chõn chắc, tiết diện hình vuông hay hình chữ nhật. Gà chuyên trứng lại có kết cấu thanh gọn, tiết diện hình tam giác. Theo tài liệu của Chambers (1990) [25] thì kích thước các chiều đo có tương quan với sức sản xuất của gà Broiler. Tác giả cũng cho biết độ lớn góc ngực, dài chân, dài đùi và đường kính ống chân có tương quan với khối lượng cơ thể. Siegel (1978) [28] cho biết tương quan giữa độ lớn góc ngực và khối lượng cơ thể từ 0,4 – 0,68 trung bình là 0,42. 2.2.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng tiêu tốn thức ăn. Đối với gia cầm sinh sản, thường tính tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng hay 1 kg trứng. Hiện nay, nhiều cơ sở chăn nuôi trên thế giới đã áp dụng phương pháp tính mức tiêu tốn thức ăn bằn lượng chi phí thức ăn cho gia cầm từ lúc 1 ngày tuổi cho đến kết thúc 1 năm đẻ. Theo Phùng Đức Tiến, Nguyễn Thị Mười và cộng sự (1999) [18], gà Ai Cập tiêu tốn 2,33kg thức ăn/10 trứng trong 43 tuần đẻ. Nguyễn Huy Đạt, Trần Long và cộng sự (1996) [2] cho biết, tiêu tốn thức ăn/10 trứng trong 12 tháng của gà Goldline – 54 thương phẩm đạt 1,65 – 1,84. Đoàn Xuõn Trỳc, Nguyễn Huy Đạt và cộng sự (1999) [20] cho biết, tiêu tốn thứ ăn/10 trứng của gà BE43; ISA – MPK và AA lần lượt là: 3,3; 3,45; và 3,66. 2.2.1.4. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm. Một số đặc điểm sinh học của gia cầm đẻ trứng * Cơ quan sinh dục cái của gia cầm Gồm một buồng trứng và ống dẫn trứng. Buồng trứng có chức năng tạo lòng đỏ, còn ống dẫn trứng có chức năng tiết ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng, màng vỏ, vỏ mỏng và lớp keo mỡ bao ngoài vỏ trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 23 – 24 giờ. + Buồng trứng. Buồng trứng nằm bên trái xoang bụng được giữ bằng màng bụng, kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào tuổi va loại gia cầm. Ở gà 1 ngày tuổi có kích thước 1-2mm, khối lượng 0,03g, đến 4 tháng tuổi buồng trứng có dạng hình thoi khối lượng 2,66g. Gà thời kỳ đẻ, buồng trứng hỡnh chựm nho, chứa nhiều tế bào trứng, có khối lượng 45-55g, khi gà đẻ thay lông và gà dũ cú khối lượng buồng trứng 5g. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998) [5] xác định trong thời kỳ đầu ấp trứng cả hai buồng trứng phải và trái đều hình thành và phát triển. Từ ngày ấp thứ 5 đến 7, buồng trứng trái phát triển hơn buồng trứng bên phải. Ở gia cầm trưởng thành chỉ có buồng trứng và ống dẫn trứng trái phát triển và hoạt động chức năng. Còn buồng trứng và ống dẫn trứng phải không phát triển. Buồng trứng gà có khoảng 586 đến 3605 tế bào trứng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Theo Bùi Đức Lũng và cộng sự (2003) [10]. Sự phát triển của mỗi tế bào trứng gồm 3 thời kỳ: Tăng sinh, sinh trưởng và chín. - Thời kỳ tăng sinh: Trước khi bắt đầu đẻ trứng, trong buồng trứng gà mái đếm được 3500-4000 tế bào trứng. Trong tế bào trứng (phần noãn hoàng) có nhân to với những hạt nhỏ và nhiễm sắc thể. Trong noãn hoàng có chứa nhân tế bào. - Thời kỳ sinh trưởng: Tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc biệt là lòng đỏ. Trong khoảng thời gian 3-14 ngày, lòng đỏ chiếm 90-95% khối lượng của tế bào trứng, thành phần gồm protit, photpholipit, mỡ trung hòa, các chất khoáng và vitamin. Đặc biệt lòng đỏ được tích lũy mạnh vào ngày thứ 9 và 4 ngày trước khi trứng rụng. Việc tăng quá trình sinh trưởng của tế bào trứng do ảnh hưởng của foliculin được chế tiết ở buồng trứng khi thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát triển của tế bào trứng, giữa lòng đỏ chứa đầy limpho. Trong đó noãn hoàng bơi tự do và các cực của nó nằm theo lực hướng tâm - cực anivan (cùng đĩa phôi) hướng lên trên, còn cực thực vật hướng xuống dưới. Đường kính lòng đỏ khoảng 35-40 mm. - Thời kỳ chín của noãn hoàng (thời kỳ cuối hình thành trứng): Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng tế bào không có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào này phát triển trở thành nhiều tầng và sự tạo thành tiến tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi là follicun. Bên trong follicun có một khoảng hở chứa đầy dịch, bên ngoài follicun giống như một cái túi. Trong thời kỳ đẻ trứng, nhiều follicun chín dần làm thay đổi hình dạng buồng trứng trở về hình dạng ban đầu, các follicun trứng vỡ ra, quả trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục, đó là quá trình đi ra của tế bào trứng chín. Từ buồng trứng, bình thường sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, có những trường hợp đặc biệt có thể có hai hoặc ba tế bào trứng cùng rụng một lúc, trường hợp quả trứng của ngày hôm trước đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang ngày hôm sau mới xảy ra quá trình rụng trứng. Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc vào các yếu tố như: Điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý của gia cầm. Song điều chung nhất là sự rụng trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của thần kinh và thể dịch. + Ống dẫn trứng: là một phần hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh tế bào trứng và kết thúc ở lỗ huyệt. Kích thước của ống dẫn trứng thay đổi theo tuổi và hoạt hóa chức năng hệ sinh dục. Khi thành thục sinh dục, ống dẫn trứng trơn, thẳng, có đường kính đồng nhất trên chiều dài ống dẫn. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng có chiều dài 68cm, khối lượng 77g. Khi đẻ với cường độ cao chiệu dài tăng tới 86 - 90cm, đường kính tới 10cm. Ở gà không đẻ ống dẫn trứng có kích thước tương ứng là 11 - 18cm và 0,4 - 0,7cm. Khi gia cầm thành thục, ống dẫn trứng gồm các phần sau: Phễu (hình loa kèn), phần tiết lòng trắng, phần eo, tử cung, âm đạo. - Phễu: phần mở rộng của phía đầu ống dẫn trứng dài 4 - 7cm, đường kính 8-9cm, nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc phễu gấp nếp, không có tuyến. Lớp niêm mạc cổ phễu có tuyến hình ống, chất tiết của nó tham gia vào tạo trứng và hình thành dây chằng lòng đỏ. Tại đây trứng được thụ tinh nếu gặp tinh trùng, trứng dừng lại ở đây khoảng 20 phút. - Phần tiết lòng trắng: Là bộ phận dài nhất của ống dẫn trứng. Ở thời kỳ gia cầm đẻ trứng với tỷ lệ cao, chúng có thể dài tới 20 – 30 cm, niêm mạc phần này có nhiều tuyến hình ống giống như cổ phễu tiết ra lòng trắng đặc hình thành dây chằng lòng đỏ và tiết ra lòng trắng loãng, trứng dừng ở đây khoảng 3 giờ. - Phần eo: Là phần hẹp hơn của ống dẫn trứng, dài khoảng 8cm, các tuyến ở đây tiết ra một phần lòng trắng và tiết ra một chất hạt hình thành nên tấm màng dưới vỏ gồm 2 lớp, 2 lớp này tách nhau ra tại đầu lớn của vỏ trứng hình thành nên buồng khớ. Cỏc dung dịch muối và nước có thể thấm qua màng này đi vào lòng trắng. Trứng dừng ở đây 60 – 70 phút. - Tử cung: Là phần tiếp theo của quá trình tạo vỏ, là phần mở to ra tạo thành tử cung dài 8 – 12cm, tuyến vách tử cung tiết ra một chất dịch lỏng, chất dịch thẩm thấu qua màng vỏ đi vào trong lòng trắng làm tăng khối lượng lòng trắng, mặt khác một số tuyến ở tử cung tiết ra một chất dịch hình thành nên vỏ cứng, quá trình hình thành vỏ trứng diễn ra chậm chạp. Trứng dừng lại ở đõy khỏ lõu 18 – 20 giờ. - Âm đạo: Là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, là cửa ngõ để trứng ra ngoài cơ thể. Thành âm đạo có nhiều lớp cơ lớn, niêm mạc nhăn nhưng không có các tuyến hình ống. Tại chớnh mộp biểu mô của âm đạo tiết ra một chất dịch tham gia hình thành lớp màng keo ở trên vỏ. Trứng đi qua phần âm đạo rất nhanh. * Những trường hợp trứng dị hình: - Trứng không có lòng đỏ: Do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào loa kèn và ống dẫn trứng không phân biệt được vì vậy vẫn có quá trình tạo trứng và hình thành trứng nhỏ. - Trứng 2 lòng đỏ: Do 2 trứng cùng rụng một thời điểm hoặc cách nhau không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to. - Trứng trong trứng: Thường ít gặp, do bị kích động đột ngột một quả trứng hoàn chỉnh bị ống dẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên gặp tế bào trứng rụng mới, sẽ nằm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên ngoài được bao bọc bằng lòng trắng và vỏ cứng. Ngoài ra còn có trứng méo mó, không vỏ do thiếu khoáng, vitamin D hoặc do co bóp của ống dẫn trứng... * Cơ quan sinh dục đực: Gồm: Tinh hoàn, dịch hoàn phụ, ống dẫn tinh và cơ quan giao phối. Tinh hoàn có hình ô van hoặc hạt đậu màu trắng hoặc hơi vàng nằm ở vị trí phía trên thuỳ trước của thận, cạnh tỳi khớ bụng, khối lượng tinh hoàn phụ thuộc vào tuổi và trạng thái sinh lý. Cơ quan giao cấu có cấu trúc khác biệt, nó không phát triển. Ở gà Tây hầu như không có cơ quan giao phối, ngỗng, gà, vịt có gai giao cấu nằm sâu ở dưới lỗ huyệt. Quá trình hình thành tinh trùng diễn ra tương tự như ở gia súc, tế bào sơ cấp bằng con đường phân chia hình thành tinh bào thứ nhất phát triển, mỗi tinh bào thứ nhất lại chia thành hai tinh bào thứ hai, tiếp tục phát triển sau đó hình thành tiền tinh trùng và cuối cùng hình thành tinh trùng. Số lượng một lần phóng tinh gà 0,6 – 2ml. Trong mỗi 1ml chứa 3,2 tỷ tinh trùng. Các phản xạ và cơ chế giao phối ở gia cầm giống động vật có vú, nhưng thời gian để tinh trùng từ cơ quan sinh dục đực đến loa kèn rất lâu từ 72– 75 giờ (3 ngày) nhưng tinh trùng gà sống được rất lâu trong đường sinh dục con cái. * Khả năng sinh sản của gia cầm Để duy trì sự phát triển của đàn gia cầm thì khả năng sinh sản là yếu tố cơ bản quyết định đến quy mô, năng suất và hiệu quả sản xuất đối với gia cầm. Sản phẩm chủ yếu là thịt và trứng, trong đó sản phẩm trứng được coi là hướng sản xuất chính của gà hướng trứng. Còn gà hướng thịt (cũng như gà hướng trứng) khả năng sinh sản hay khả năng đẻ trứng quyết định đến sự phân đàn di truyền giống mở rộng quy mô đàn gia cầm. Sinh sản là chỉ tiêu cần được quan tâm trong công tác giống của gia cầm. Ở các loại gia cầm khác nhau thì đặc điểm sinh sản cũng khác nhau rõ rệt. Trứng là sản phẩm quan trọng của gia cầm, đánh giá khả năng sản xuất của gia cầm người ta không thể không chú ý đến sức đẻ trứng của gia cầm. Theo Brandsch H. và Bilchel H (1978) [24] thì sức đẻ trứng chịu ảnh hưởng của 5 yếu tố chính. 1. Tuổi đẻ đầu hay tuổi thành thục 2. Chu kỳ đẻ trứng hay cường độ đẻ trứng 3. Tần số thể hiện bản năng đòi ấp 4. Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông 5. Thời gian đẻ kéo dài hay chu kỳ đẻ (hay tính ổn định sức đẻ). Các yếu tố trờn cú sự điều khiển bởi kiểu gen di truyền của từng giống gia cầm. * Tuổi đẻ đầu Đó là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả năng tham gia quá trình sinh sản. Đối với gia cầm mái, tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng. Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời điểm tại đó đàn gà đạt tỷ lệ đẻ 5 %. Theo Hays (dẫn theo Brandsch và Bilchel, 1978 [24]) thì những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu lớn hơn 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu nhỏ hơn 215 ngày là 6,9 quả. Tuổi đẻ trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng. Thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm. Tuổi đẻ đầu sớm hay muộn liên quan đến khối lượng cơ thể ở một thời điểm nhất định. Những gia cầm thuộc giống bộ cú khối lượng cơ thể nhỏ tuổi thường thành thục sinh dục sớm hơn những gia cầm có khối lượng cơ thể lớn. Trong cùng một giống, cơ thể nào được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, điều kiện thời tiết khí hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn. * Cơ sở di truyền của năng suất trứng Năng suất trứng hay sản lượng trứng của một gia cầm mái là tổng số trứng đẻ ra trên một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm thì đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ và đặc điểm của cá thể. Năng suất trứng là một tính trạng số lượng nờn nú phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Năng suất trứng được đánh giá qua cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ. + Tỷ lệ đẻ Đây là chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng của đàn gia cầm. Đỉnh cao của tỷ lệ đẻ có mối tương quan với năng suất trứng. Giống gia cầm nào có tỷ lệ đẻ cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ là giống tốt, nếu chế độ dinh dưỡng đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao. Gà chăn thả có tỷ lệ đẻ thấp trong vài tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng dần và tỷ lệ đẻ đạt cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và tỷ lệ đẻ thấp ở cuối kỳ sinh sản. Năng suất trứng/ năm của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện theo quy luật, cường độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần cho đến hết năm đẻ. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Trong thời gian này có thể loại trừ ảnh hưởng của môi trường. Thời gian kéo dài sự đẻ có liên quan đến chu kỳ đẻ trứng. Chu kỳ đẻ kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn nuôi gà đẻ. Giữa các trật đẻ, gà thường có những khoảng thời gian đòi ấp. Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền vì ở các giống khác nhau có bản năng ấp khác nhau. Điều này chịu ảnh hướng nhiều bởi yếu tố như: Nhiệt độ, ánh sáng dinh dưỡng...Theo Brandsch H. và Bilchel H. 1978 [24] thì nhiệt độ cao và bóng tối kích thích sự ham ấp, đồng thời yếu tố gen chịu tác động phối hợp giữa các gen thường và gen liên kết giới tính. Trên cơ sở tỷ lệ đẻ hằng ngày hoặc tuần cho phép đánh giá một phần nào về chất lượng giống và mức độ ảnh hưởng của chế độ ngoại cảnh đến sự sản xuất của đàn giống. Nguyễn Huy Đạt, 2000 [3] cho rằng gà thịt nặng cân đẻ ít hơn do tồn tại nhiều thể vàng nên lấn át buồng trứng thường xuyên hơn so với gà dòng trứng. Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần về cường độ và thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài ra sự nghỉ đẻ này còn do khí hậu, sự thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn. Là một tính trạng số lượng có hệ số di truyền cao, do đó người ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc giống. Trong chọn lọc cần chú ý tới chỉ số trung bình chung. Khối lượng trứng phụ thuộc vào khối lượng cơ thể, giống, tuổi đẻ, tác động dinh dưỡng tới gà sinh sản. Đồng thời khối lượng trứng lại quyết định tới chất lượng trứng giống, tỷ lệ ấp nở, khối lượng và sức sống của gà con. Nó là chỉ tiêu không thể thiếu của việc chọn lọc con giống. Bandsch H. và Bilchel H, 1978 [24] cho rằng hiện nay chưa có cách nào tăng khối lượng của quả trứng mà không đồng thời tăng khối lượng cơ thể. Đó cũng là một trong những nguyên nhân phải hạn chế khối lượng trứng ở mức 55 – 60 gam để phù hợp với sinh lý của gà và kỹ thuật ấp nở. Ngoài ra tăng khối lượng trứng còn làm tăng chi phí thức ăn. Theo Lochus.G..P và Starstikov. N.L (1979) cho biết: trứng gia cầm khi bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng gia cầm lúc trưởng thành. Theo Awang (1984) khối lượng trứng phụ thuộc trực tiếp vào chiều dài, chiều rộng của quả trứng cũng như khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ (dẫn theo Trần Huờ Viờn, 2001 [21]). Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [5] trong cùng một độ tuổi thì khối lượng trứng tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị năng lượng giảm dần. Khối lượng gà con khi nở thường bằng 62% - 78% khối lượng trứng ban đầu. Khối lượng trứng của các loại giống khác nhau thì khác nhau. * Một số đặc điểm sinh học của trứng gia cầm + Đặc điểm hình thái - Hình dạng quả trứng: Là một đặc trưng của từng cá thể, vì vậy nó được quy định di truyền rõ rệt. Theo Brandsch H. và Bilchel H, 1978 [24] thì tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng của quả trứng là một chỉ số ổn định 1 : 0,75. Hình dạng của quả trứng tương đối ổn định, sự biến động theo mùa cũng không có ảnh hưởng lớn. Nói chung, hình dạng quả trứng luôn có tính di truyền bền vững và có những biến dị không rõ rệt. - Vỏ trứng: Vỏ trứng là phần bảo vệ của trứng, nó cũng đồng thời tạo ra màu sắc bên ngoài quả trứng. Màu sắc vỏ trứng phụ thuộc vào giống, lá tai và từng loại gia cầm khác nhau. Phía ngoài được phủ một lớp keo dính do âm đạo tiết ra. Lớp keo dính này có tác dụng làm giảm độ ma sát giữa thành âm đạo và trứng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẻ trứng, khi đẻ ra nó có tác dụng hạn chế sự bốc hơi nước của trứng và ngăn cản sự xâm nhập của tạp khuẩn từ bên ngoài vào. - Độ dày của vỏ trứng có ảnh hưởng tới việc bảo quản trứng và sự phát triển của phôi. Thời gian, độ ẩm trong quá trình ấp cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố độ dày của vỏ trứng. Do đó, độ dày vỏ là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng quan trọng. Nó chịu ảnh hưởng của yếu tố môi trường và yếu tố di truyền. Ở mỗi loài gia cầm khác nhau vỏ trứng có độ dày khác nhau và ở mỗi thời điểm khác nhau, môi trường khác nhau vỏ trứng cũng có độ dày khác nhau. Trong thực tế ta có thể thấy hiện tượng vỏ trứng mỏng khi khẩu phần của thức ăn thiếu canxi. Chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ dày và độ bền của vỏ trứng. Nó có ý nghĩa trong vận chuyển và ấp trứng. Độ dày vỏ trứng gà đạt 0,311 mm và từ 0,229 – 0,373mm (dẫn theo Ngô Gia Luyện, 1994 [12]) xác định vỏ trứng gà dày từ 0,3 – 0,34mm, độ chịu lực là 2,44 – 3 kg/cm2. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998) [5] thì chất lượng vỏ trứng không những chịu ảnh hưởng của các yếu tố như canxi (70% Canxi cần cho vỏ trứng là lấy trực tiếp từ thức ăn), ngoài ra vỏ trứng hình thành cần có photpho, vitamin D3, vitamin K, các nguyên tố vi lượng...khi nhiệt độ tăng từ 20 -300C thì độ dày vỏ trứng giảm 6- 10% khi đó gia cầm đẻ ra trứng không có vỏ hoặc bị biến dạng. - Lòng trắng: Là phần bao bọc bên ngoài lòng đỏ, nó là sản phẩm của ống dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu là Albumin giúp cho việc cung cấp khoáng và muối khoáng, tham gia cấu tạo lông, da trong quá trình phát triển cơ thể ở giai đoạn phôi chất lượng lòng trắng được xác định qua chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh. Hệ số di truyền của tính trạng này khá cao. Theo Trần Huờ Viờn, 2001 [21] thì Awang (1987) cho biết khối lượng trứng tương quan rõ rệt với khối lượng lòng trắng (r = 0,86) khối lượng lòng đỏ (r = 0,72) và khối lượng vỏ (r = 0,48). Theo Ngô Giản Luyện (1994) [12] thì Orlov. M. V (1974) cho rằng: Chỉ số lòng trắng ở mùa đông cao hơn ở mùa xuân và mùa hè. Trứng gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn gà mái đang độ tuổi sinh sản. Trứng bảo quản lâu, chỉ số lòng trắng cũng bị thấp đi. Chất lượng lòng trắng còn kém đi khi cho gà ăn thiếu protein và vitamin nhóm B. Để đánh giá chất lượng lòng trắng người ta quan tâm đến chỉ số lòng trắng. Nó được tính bằng tỷ lệ chiều cao lòng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính nhỏ và đường kính lớn của lòng trắng trứng. Chỉ số lòng trắng chịu ảnh hưởng của giống, tuổi, chế độ nuôi dưỡng và thời gian bảo quản. - Lòng đỏ: Là tế bào trứng có dạng hình cầu đường kính 35 – 40 mm và được bao bọc bởi màng lòng đỏ có tính đàn hồi nhưng sự đàn hồi này giảm theo thời gian bảo quản, ở giữa có hốc lòng đỏ nối với đĩa phôi lấy chất dinh dưỡng từ nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển. Lòng đỏ có độ đậm đặc cao nằm giữa lòng trắng đặc, được giữ ổn định nhờ dây chằng là những sợi protein quy tụ ở hai đầu lòng đỏ, phía trên lòng đỏ là mầm phôi. Lòng đỏ cung cấp dinh dưỡng chủ yếu cho phôi. Thông qua nguồn năng lượng dự trữ cho phôi mà người ta có thể đánh giá được chất lượng lòng đỏ. Chất lượng lòng đỏ được đánh giá dựa trên chỉ số lòng đỏ. Chỉ số lòng đỏ được tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lòng đỏ so với đường kính của nó. Lòng đỏ bao gồm: Nước, protein, các axit amin không thay thế, các loại vitamin...Tạ An Bình, (1979) [1] cho biết: khi chỉ số này xuống 0,33 tức lòng đỏ bị biến dạng. Theo Ngô Giản Luyện (1994) [12] thì: Chỉ số lòng đỏ ít biến đổi hơn lòng trắng. Chỉ số lòng đỏ nó bị giảm từ 0,25 – 0,29 nếu bị tăng nhiệt độ và bảo quản lâu (Nguyễn Quý Khiêm, 1999) [7]. Màu lòng đỏ phụ thuộc vào sắc tố màu và caroten có trong thức ăn. Màu lòng đỏ ổn định trong suất thời gian đẻ trứng, nó thay đổi khi khẩu phần ăn của gà mái thay đổi trước vài tuần. Tuy không biểu thị giá trị dinh dưỡng của trứng nhưng nó có giá trị thương phẩm lớn. * Chỉ số Haugh (HU) Là chỉ số đánh giá chất lượng trứng xác định thông qua khối lượng trứng và chiều cao lòng trắng đặc. Chỉ số HU càng cao thì chất lượng trứng càng cao, trứng đạt chất lượng tốt. Chỉ số này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động: Thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm, bệnh tật, nhiệt độ môi trường, sự thay lông, giống, dòng. * Tỷ lệ ấp nở Tỷ lệ ấp nở của gia cầm được xác định bằng tỷ lệ (%) số con nở ra so với số trứng cú phụi. Đây là tính trạng đầu tiên biểu hiện sức sống ở đời con, tỷ lệ nở của trứng không những chứng minh có đặc tính di truyền về sinh lực của giống mà còn là sự xác minh về sự liên quan đến tỷ lệ nở với cấu tạo của trứng. Nguyễn Quý Khiêm và cộng tác viên (1999) [7] cho rằng: Khối lượng trứng, sự cân đối giữa các thành phần cấu tạo và cấu trúc vỏ trứng ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp nở. Những quả trứng quá lớn hoặc quá nhỏ đều có khả năng nở kém hơn những quả trứng có khối lượng trung bình. Khi khối lượng trứng từ 45 – 64g thì khả năng nở là 87%, khối lượng trứng nhỏ hơn 45g thì khả năng nở giảm xuống còn 80% còn những trứng có khối lượng vượt quá 64g thì khả năng nở là 71%. * Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng của gia cầm Sức sản xuất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh hưởng bởi tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài. - Giống, dòng: Ảnh hưởng đến sức sản xuất một cách trực tiếp. Cụ thể giống Leghorn trung bình có sản lượng 250 – 270 trứng/ năm. Về sản lượng trứng, những dòng chọn lọc kỹ thường đạt chỉ tiêu cao hơn những dòng chưa được chọn lọc kỹ khoảng 15% - 30% về sản lượng. - Tuổi gia cầm: Có liên quan chặt chẽ tới sự đẻ trứng của nó. Như một quy luật, ở gà sản lượng trứng giảm dần theo tuổi, trung bình năm thứ hai giảm 15- 20% so với năm thứ nhất (so với gà), còn vịt thì ngược lại, năm thứ hai cho sản lượng trứng cao hơn 9 - 15%. - Tuổi thành thục sinh dục: Liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm, nó là đặc điểm di truyền cá thể. Sản lượng trứng của 3 – 4 tháng đầu tiên tương quan thuận với sản lượng trứng cả năm. - Mùa vụ: Ảnh hưởng đến sức đẻ trứng rất rõ rệt. Ở nước ta, mùa hè sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân, đến mùa thu lại tăng lên. - Nhiệt độ môi trường xung quanh: Liên quan mật thiết đến sản lượng trứng. Ở điều kiện nước ta nhiệt độ chăn nuôi thích hợp với gia cầm đẻ trứng là 14 - 220C. Nếu nhiệt độ dưới giới hạn thấp thì gia cầm phải huy động năng lượng chống rét và trên giới hạn cao sẽ thải nhiệt nhiều qua hô hấp. -Ánh sáng ảnh hưởng đến sản lượng trứng của gia cầm. Nó được xác định qua thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng. Yêu cầu của gà đẻ thời gian chiếu sáng 12 - 16h / ngày, có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên và ánh sáng nhân tạo để đảm bảo giờ chiếu sáng và cường độ chiếu sáng 3 - 3,5 w/m2. Theo Letner và Taylor, 1987 [26], cho biết thời gian gà đẻ trứng thường từ 7 - 17 giờ, nhưng đa số đẻ vào buổi sáng. Cụ thể số gà đẻ 7 – 9 giờ đạt 17,7% so với tổng gà đẻ trong ngày. Ở nước ta do khí hậu khác với các nước, cho nên cường độ đẻ trứng ở gà cao nhất là khoảng từ 8 - 12 giờ chiếm 60% gần 70% so với gà đẻ trứng trong ngày. - Cường độ đẻ trứng: Liên quan mật thiết với sản lượng trứng, nếu cường độ đẻ trứng cao thì sản lượng trứng cao và ngược lại. - Chu kỳ đẻ trứng: Chu kỳ đẻ trứng được tính từ khi đẻ quả trứng đầu tiên đến khi ngừng đẻ và thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất và lặp lại tiếp tục chu kỳ thứ hai. Chu kỳ đẻ trứng liên quan tới vụ nở gia cầm con mà bắt đầu và kết thúc ở cỏc thỏng khác nhau thường ở gà là một năm. Nú cú mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng. - Thay lông: Sau mỗi chu kỳ đẻ trứng gia cầm nghỉ đẻ và thay lông, ở điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những điểm quan trọng để đánh giá gia cầm đẻ tốt hay xấu. Những con thay lông sớm thường là những con đẻ kém va kéo dài thời gian thay lông tới 4 tháng. Ngược lại, nhiều con thay lông muộn và nhanh thời gian nghỉ đẻ dưới hai tháng, đặc biệt là đàn cao sản thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và đẻ lại ngay sau khi chưa hình thành bộ lông mới, có con đẻ ngay trong thời gian thay lông. Ngoài ra gia cầm đẻ trứng còn chịu sự chi phối trực tiếp của khí hậu, dinh dưỡng, thức ăn, chăm sóc quản lý, tính ấp bóng... 2.2.1.5. Giới thiệu giống gà dùng trong thí nghiệm * Gà Sasso: Gà Sasso do hãng SASSO (Selection Avicole de la Sarthe et du Sud Ouest) của Pháp tạo ra. Mục tiêu của hãng là nhân giống, chon lọc, lai tạo và và cung cấp các tổ hợp lai gà thịt lông màu có thể nuôi thâm canh, thả vườn hoặc cho các trại. Gà Sasso có khả năng thích nghi cao, dễ nuôi ở các điều kiện nóng ẩm, sức kháng bệnh tốt, chất lượng thịt thơm ngon, giữ được hương vị vốn có của cỏc dũng gà địa phương. Hiện nay hãng đưa ra sản xuất 18 dòng gà giống với mục đích sử dụng khác nhau: Dòng nhẹ cân hoặc nặng cân; Lông đỏ đen, xám hoặc trắng; da vàng hoặc trắng, chân đen, xám hoặc vàng; trụi cổ hay có lông. Cỏc dũng sử dụng rộng rãi như dũng ụng hiện nay là X44 và X44N, T55và T55N, T77 và T77N, T88 và T88N. Về dũng mỏi hóng SASSO có 6 dòng nhằm giúp đáp ứng các yêu cầu sử dụng: Lùn hoặc chắc khỏe, nặng cân hoặc nhẹ cân, tự phân biệt tính biệt hoặc không. Trong đó có 2 dòng dược sử dụng rộng rãi như dòng bà hiện nay là 2 dũng mỏi SA31 và SA51. Gà Sasso được ưa chuộng ở trên 30 nước trên thế giới, trong đó được nuôi nhiều ở Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Malaysia. Ở Việt Nam, năm 2002 tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam đã nhập 2 đàn gà ông bà từ Cộng Hòa Pháp dược nuôi tai xí nghiệp gà giống thịt dòng thuầnTam Đảo - Vĩnh Phúc và Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Vạn Phúc để sản xuất gà bố mẹ X44 (bố) và SA31L (mái) và tạo ra gà thịt thương phẩm X431. Gà Sasso là giống gà hướng thịt kiêm dụng lông màu có năng suất khá cao (Sản lượng trứng của gà bố mẹ đạt 180 quả/ mái/ năm. Con lai thương phẩm đạt 2350 - 2400g/ con. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể từ 2,3 - 2,4kg lúc 70 ngày tuổi). Gà sinh trưởng phát triển tốt ở phương thức nuôi nhốt và bán chăn thả tại môi trường khí hậu nóng, ẩm nên rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam. Gà Sasso bước đầu nuôi thử nghiệm ở Việt Nam đã cho kết quả rất khả quan, đáp ứng được các yêu cầu về tốc độ sinh trưởng cũng như khả năng Trong tương lai đây sẽ là giống gà được nuôi phổ biến ở Việt Nam. 2.2.2 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Sau 20 năm đổi mới, chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng có tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững với giá trị sản xuất lớn. Chăn nuôi gia cầm có giá trị sản xuất 1.701 tỷ đồng năm 1986 tăng lên 3.712,8 tỷ đồng năm 2002, năm 2006 đạt 9.244,3 tỷ đồng chiếm 19% trong chăn nuôi. Tổng đàn gia cầm năm 1986 có 99,9 triệu con đến năm 2003 đạt 254 triệu con (gà 185 triệu con; vịt, ngan, ngỗng 69 triệu con), tốc độ tăng bình quân 7,85%/năm. Trong đó số lượng đàn gà thời gian 1990 - 2003 tăng từ 80,18 triệu con lên 185 triệu con, tốc độ tăng binh quân 7,7%/ năm. Từ năm 2003 do ảnh hưởng dịch cúm số lượng đầu con có giảm. Năm 2006 tổng đàn gia cầm đạt 214,6 triệu con trong đó gà 152 triệu con, thủy cầm 62,6 triệu con. Một số vùng kinh tế sinh thái có số lượng gia cầm lớn như: Vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc bộ là hai vùng có số lượng gia cầm lớn nhất tương ứng 58,4 và 42,5 triệu con; Đồng bằng Sông Cửu Long 36,4 triệu con; Vùng Bắc trung bộ 33,2 triệu con, Đông Nam Bộ 15,4 triệu con, duyên hải miền Trung 12,5 triệu con, Tây Bắc 8,8 triệu con… Tính đến ngày 01/10/2010 thì tổng đàn gia cầm có khoảng 300,5 triệu con tăng 7,3%, sản lượng thịt là 621,2 nghìn tấn tăng 17,5% , số lượng trứng gia cầm la 6371,8 triệu quả tăng 16,5 triệu lần so với cùng kỳ năm 2009. Đạt được những kết quả trên, khoa học công nghệ đó cú những đóng góp quan trọng như nghiên cứu thích nghi và đưa vào sản xuất các giống gà công nghiệp năng suất cao. Đồng thời với việc đẩy mạnh chăn nuôi gà công nghiệp, từ năm 1995 đã tập trung nghiên cứu và phát triển gà chăn thả năng suất chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc. Về sản phẩm: Tổng số thịt hơi đạt 3.073.000 tấn trong đó thịt gia cầm 344,4.000 tấn, trứng gia cầm 3.969 triệu quả (81,8%). Theo Trần Cụng Xuõn và cộng sự, (2002) [22] khi nghiên cứu về khả năng sản xuất của gà Lương Phượng hoa Trung Quốc đã kết luận: Dòng M1 có tuổi đẻ quả trứng đầu lúc 145 ngày tuổi, đẻ 5% lúc 160 ngày tuổi, 30% lúc 170 ngày tuổi và đạt 50% lúc 184 ngày tuổi. Khối lượng trứng lúc 38 tuần tuổi đạt 55,42 gam ở dòng M1, tỷ lệ lòng đỏ đạt 30,92%, tỷ lệ phôi đạt 94.59%, tỷ lệ nở/ tổng trứng ấp là 83.11%, tỷ lệ nở/ tổng trứng cú phụi đạt 88,08%. Theo Trần Cụng Xuõn, Phựng Đức Tiến và cộng sự, (2001) [23] khi nghiên cứu về khả năng sản xuất của 4 dòng gà kabir ông bà nhập nội nuôi tại trung tâm Nghiên cứu Gia Cầm Thụy Phương - Viện chăn nuôi đã kết luận: Khả năng sinh sản khá cao, năng suất trứng đến 70 tuần tuổi mái B: 163,34 quả, mái D quần thể 177,03 quả. Tiêu tốn thức ăn/ 10 trứng giống thấp, tương ứng: 2,94 và 2,79 kg, khối lượng trứng trung bình 55-56 gam, đơn vị Haugh: 84. Tỷ lệ trứng chọn ấp 92-93%. Tỷ lệ trứng cú phụi 92,18% đến 96,02%. Nghiên cứu tính năng sản xuất của giống gà Lương Phượng hoa dòng M1, M2 nuôi tại Trại thực nghiệm Liên Ninh: Nguyễn Huy Đạt và cộng sự, (2001) [4] cho biết: sức sống cao qua các giai đoạn của hai dòng gà. Gà con 1-5 tuần tuổi dòng M1 đạt 97,3- 97,8%, dòng M2 đạt 96,3%. Gà dò 6- 20 tuần dồng M1 đạt 97,5- 98%, dòng M2 đạt 96%. Gà đẻ dòng M1 đạt 98,4- 98,8%, dòng M2 đạt 98,35. Sản lượng 7 tháng đẻ dòng M1 đạt 157,1- 167,6 quả, dòng M2 đạt 158,3 quả. Thức ăn tiêu tốn cho 10 quả dòng M1 đạt 3,0- 3,26 kg, dòng M2 là 3,17 kg. Khối lượng trứng lớn ở tuần 38 đạt dòng M1 55- 55,4 g, dòng M2 55,3 g với đơn vị Haugh đạt 91- 93%, đảm bảo tỷ lệ ấp nở cao 89,7- 90,7% và gà nở ra đạt loại I đạt 87,1- 88,6%. Nghiên cứu khả năng cho thịt của con lai giữa gà Kabir với gà Lương Phượng Hoa: Trần Cụng Xuõn và cộng sự, 2002 [22] cho biết: nuôi thịt đến 12 tuần tuổi gà K- LP, LP – K có tỷ lệ nuôi sống cao đạt 95 – 96%, phù hợp với điều kiện nuôi thâm canh và bán thâm canh; khối lượng cơ thể gà K – LP: 2350g, gà LP – K: 2380g cao hơn gà Lương Phượng 7% – 8% (gà Lương Phượng: 2195g). Ưu thế lai so với trung bình bố mẹ tăng cao hơn 3,27 – 4,6%. Gà K – LP, LP – K có tỷ lệ thân thịt 72,3% – 72,4%, tỷ lệ thịt đùi và thịt ngực: 41,2% - 41,3%. Theo Phùng Đức Tiến và cộng sự, 2007 [19] khi nghiên cứu về khả năng sản xuất của 4 dòng gà Sasso ông bà đã kết luận: Gà có khả năng thích nghi cao với điều kiện khí hậu nước ta do vậy tỷ lệ nuôi sống đạt 95,12 -100%. Năng suất trứng/ mái/ 11 tuần đẻ của mái X04 là 39,29 quả. Năng suất trứng / mái/ 13 tuần đẻ của A01 là 55,93 quả. Tỷ lệ cú phụi cao 94,93%, tỷ lệ nở/ tổng trứng vào đạt 79,23% Nghiên cứu một số tổ hợp lai giữa gà Sasso, Kabir và gà LV: Phùng Đức Tiến, Nguyễn Quý Khiêm và cộng sự, 2007 [7] cho biết: Gà lai nuôi thịt đến 10 tuần tuổi có khối lượng cơ thể của gà XKL: 2253,43g/ con. Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng cơ thể là 2,56kg. Tỷ lệ thân thịt đạt 73,91%, tỷ lệ thịt ngực + thịt đùi 42,4%, tỷ lệ mỡ bụng 1,52%. 2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới đã và đang phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Hà Lan, Đức... Theo tài liệu của FAO công bố: Năm 1997 sản lượng thịt gia cầm trên thế giới đạt trên 59 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so với năm 1996. Đứng đầu thế giới về sản lượng thịt gia cầm vẫn là Hoa Kỳ (25,3%). Từ năm 1994 Trung Quốc đã vượt Brazil để chiếm lĩnh vị trí thứ 2 (19,5%), có 41 nước chăn nuôi gia cầm phát triển, đảm đương sản xuất 90% sản lượng thịt gia cầm. Năm 1998 có 9 nước đạt sản lượng thịt gia cầm trên 1 triệu tấn (dẫn theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [5]) . Đến năm 2010, về sản lượng thịt: Mỹ đứng đầu trên thế giới 16.300 tấn ( tăng 2,3% so với năm 2009 ) , tiếp theo đến Trung Quốc 12.550 tấn ( tăng 3,7% ), Brazil 11.420 tấn( tăng 3,6% ), Ấn Độ 2650 tấn( tăng 3,9% ), Achentina 1650 tấn ( tăng 10% )...tổng trên thế giới là 73.923 tấn tăng (3%). Còn về sản lượng trứng tính đến năm 2009: Đứng đầu là nước Trung Quốc với 25,6 triệu tấn, sau đó đến Hoa Kỳ 5,3 triệu tấn , Ấn Độ 2,67 triệu tấn, Nhật Bản 2,5 triệu tấn, Mexico 2,29 triệu tấn ... tổng trên thế giới là 67,4 triệu tấn. Để có được những sản phẩm chất lượng tốt, năng suất cao đáp ứng nhu cầu của con người cũng như đòi hỏi khắt khe của thị trường các nước, trên thế giới đã không ngừng cải tiến con giống cũng như dinh dưỡng và phương thức nuôi. Mỗi nước đều có những cơ sở, trung tâm chọn lọc, lai tạo để cho ra các giống gà mới với năng suất và chất lượng cao như ở Mỹ tạo ra các giống gà đã được sử dụng như Plymouth, gà siêu thịt Avian, AA... nhiều nước đã sử dụng gà Plymouth để sản xuất gà Broiler đạt hiệu quả cao từ nhiều dòng như dòng 488 (con trống) lai với dòng 433 (con mái), dựng dũng 799 (dòng trống chuyên thịt) lai với con lai 132A tạo ra gà nuôi thịt 791 có khả năng sinh trưởng nhanh, năng suất thịt cao. Ở Anh hãng Ross Breeser đã nghiên cứu và tạo ra giống gà Ross siêu thịt với nhiều dòng và tạo ra nhiều tổ hợp lai như Ross 208, Ross 308, Ross 508... cho năng suất chất lượng thịt cao, khả năng sinh trưởng nhanh. Ngoài ra còn rất nhiều các giống gà chuyên sản xuất thịt được tạo ra ở nhiều nước như: gà Hybro ở Hà Lan, AA (Abor Acrer) ở Mỹ, Lohmann Meat ở Cộng hoà Liên Bang Đức ... và các giống gà chuyên trứng như: Goldline 54 của Hà Lan, Leghorn của Italia, Babcock – B380 của hãng IPS (International Porltry Serices Limited) vương quốc Anh... Bên cạnh những giống gà công nghiệp chuyên thịt, trứng thỡ cỏc giống gà thả vườn, kiêm dụng cũng được chú ý nghiên cứu rất nhiều, điển hình như: Gà Lương Phượng của Trung Quốc đã được tạo ra sau gần 20 năm nghiên cứu, gà Tam Hoàng có nguồn gốc từ Quảng Đông Trung Quốc được tạo ra do lai giữa gà Thạch Kỳ với một số giống gà Kabir, Discau... và chọn lọc qua nhiều thế hệ cho ra gà Tam Hoàng chất lượng thịt thơm ngon, hiện nay có 2 dòng nổi tiếng là 882 và Jiangcun. Năm 1978 ở Phỏp hóng Sasso đã tạo ra giống gà Sasso với mục đích sử dụng khác nhau. Cỏc hóng trờn thế giới hiện nay đã xác định được công thức lai để tạo ra gà thương phẩm từ 4 dòng thuần chon. Mỗi hãng sở hữu hàng chục dòng thuần để tạo ra công thức lai theo yêu cầu. Trong đó cú cỏc dũng ông bà sử dụng rộng rãi như X44 và X44N,T55 vàT55N, T77 và T77N, T88 và T88N, SA31, SA51... cho năng suất, chất lượng thịt thơm ngon, khả năng thích nghi cao, dễ nuôi. Ngoài ra cũn cú gà Kabir của Israel, gà Rhode – Island của Mỹ đều là kết quả của chọn lọc và lai tạo. Việc lai tạo các giống gà với nhau nhằm giữ lại các đặc điểm quý, cải thiện những tính trạng còn hạn chế và dần hình thành một số giống mới có khả năng sản xuất tốt, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của con người. 2.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Trên giống gà SASSO nuôi từ 20 – 35 tuần tuổi. - Tỷ lệ trống mái là: 1 trống / 8 – 10 mái 2.3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 2.3.2.1. Địa điểm Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn 2.3.2.2. Thời gian Từ ngày 14/02/2011 đến ngày 31/07/2011 2.3.3 Nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.3.3.1.Nội dung. Theo dõi khả năng sản xuất trứng của giống gà SASSO nuôi từ 20 – 35 tuần tuổi.Tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thỏi Nguyờn. 2.3.3.2. Phương pháp nghiên cứu *. Phương pháp điều tra tình hình - Trực tiếp theo dõi tình hình đàn gà SASSO tại trại giống gia cầm trong thời gian thực tập. - Thống kê sản lượng bằng cách lập sổ nhật kí theo dõi Bảng 2.1: Sơ đồ theo dõi thí nghiệm. Diễn giải Nội dung - Giống gà SASSO (♂A ì♀B) - Số lượng gà theo dõi (con) 110 - Tuổi gà (tuần tuổi) 20 – 35 - Phương thức nuôi . Nhốt hoàn toàn, hệ thống chuồng hai mái. . Mật độ nuôi: 4 con/m2 . Mật độ máng ăn: 5 – 7 con/m2 . Mật độ máng uống: 2,5 – 3,5 con/m2 . Chế độ ánh sáng: 16h/24h ;cường độ ánh sáng 3 – 4w/m2 - Thức ăn Hỗn hợp hoàn chỉnh (CP 9624) - Quy trình nuôi dưỡng Viện Chăn nuôi Quốc Gia 2.3.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi - Tỷ lệ nuôi sống của đàn gà đẻ. - Khối lượng gà qua các kỳ cân (gram). Từ 20 – 35 tuần tuổi. - Chỉ tiờu tiêu tốn thức ăn. - Đặc điểm sinh sản: + Tuổi đẻ bói + Tuổi đẻ 5%; 25%; 50%; tuổi đẻ đỉnh điểm. - Chỉ tiêu về trứng: + Khối lượng trứng + Khối lượng lòng đỏ + Khối lượng lòng trắng + Kích thước trứng + Độ dày vỏ trứng + Tỷ lệ trứng phôi + Tỷ lệ ấp nở - Một số chỉ tiêu ấp nở: Chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu sau: +Tỷ lệ trứng cú phụi (%) được xác định thông qua việc soi toàn bộ số trứng ấp ở ngày ấp thứ sáu; + Tỷ lệ nở/ tổng trứng ấp; + Tỷ lệ nở/ tổng trứng cú phụi; + Số gà con loại I/tổng số gà con nở. - Chỉ tiờu tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng và 10 trứng giống. - Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng và 10 trứng giống. 2.3.3.4. Phương pháp theo dõi * Khả năng thích ứng của gà - Tỷ lệ sống (%) = å số gà nuôi cuối kỳ (g) x 100 å số gà đầu kỳ * Khối lượng gà Theo dõi gà từ 20 – 35 tuần tuổi cân vào buổi sáng cuối tuần (thứ 7 hàng tuần), trước khi cho ăn, cân 10% tổng đàn - Khối lượng = å khối lượng gà cân (g) å số gà cân (g) - Tổng khối lượng tuyệt đối = å Khối lượng gà cân được cuối kỳ - å khối lượng gà cân được đầu kỳ Số gà nuôi * Tiêu tốn thức ăn - Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng = å TĂ của lô trong các giai đoạn å khối lượng tăng trọng các giai đoạn * Khả năng sinh sản - Tuổi đẻ bói: là tuổi khi có con trong đàn gà đẻ quả trứng đầu tiên. - Tuổi đẻ đạt: 5%; 25%; 50% ; tuổi đẻ đạt đỉnh điểm. - Năng suất trứng bình quân trong kỳ (quả/mỏi bình quân). - NSBQ trong kỳ = å số trứng thu được của cả đàn trong kỳ (quả) å số mái bình quân của cả đàn trong kỳ (con) - Tỷ lệ đẻ bỡnh quõn/tuần: - Tỷ lệ đẻ = å số trứng đẻ ra trong tuần (quả) x 100 å số mái có khả năng đẻ BQ trong tuần (con) * Các chỉ tiêu về trứng: - Khối lượng trứng BQ trong tuần/g/quả = å khối lượng trứng (g) å số lượng trứng cân (quả) - Tỷ lệ lòng đỏ (%) = Khối lượng lòng đỏ (g) x 100 Khối lượng trứng (g) - Tỷ lệ lòng trắng (%) = Khối lượng lòng trắng (g) x 100 Khối lượng trứng (g) - Tỷ lệ vỏ trứng (%) = Khối lượng vỏ trứng (g) x 100 Khối lượng trứng (g) - Chỉ số hình thái = D (đường kính lớn) d (đường kính nhỏ) - Tỷ lệ trứng cú phụi = å số trứng cú phụi x 100 å số trứng ấp - Tỷ lệ ấp nở (%) = å số gà con nở ra x 100 å trứng ấp - Khối lượng gà con mới nở = å khối lượng gà con mới nở (g) å số lượng gà con cân (con) * Chỉ tiờu tiêu tốn thức ăn /10 quả trứng - TTTĂ/10 quả trứng = å số TĂ của cả đàn trong tuần (g) x 10 å số trứng thu được của cả đàn trong tuần (quả) - Chi phí thức ăn + Chi phí thức ăn/10 quả trứng (đ) = TTĂN/ 10 quả trứng (kg) ì đơn giá 1 kg thức ăn(đ/kg). + Chi phí thức ăn/10 quả trứng giống (đ) = TTĂN/ 10 quả trứng giống (kg) ì đơn giá 1 kg thức ăn(đ/kg). 2.3.3.5. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu nhập được xử lý bằng phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi của Nguyễn Văn Thiện(1997) và trên phần mềm thống kê EXCEL. * Tính số trung bình cộng: * Tính độ lệch tiêu chuẩn: * Tính sai số trung bình: * Tính hệ số biến dị: 2.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 2.4.1. Tỷ lệ nuôi sống Tỷ lệ nuôi sống giai đoạn này phản ánh năng suất trứng của gà qua số gà còn sống và đang đẻ. Tỷ lệ nuôi sống của gà là một tính trạng có tính di truyền thấp. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc rất lớn vào môi trường sống, điều kiện chăn sóc nuôi dưỡng, thức ăn, sức chống chịu với ngoại cảnh của từng cá thể, từng dòng, giống. Vì vậy, nâng cao tỷ lệ nuôi sống là một trong số chỉ tiêu quan trọng khi nghiên cứu khả năng sản xuất của bất kỳ dòng, giống nào. Kết quả theo dừi tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm ở bảng 4.1. Bảng 4.1: Tỷ lệ nuôi sống Tuần tuổi Số con đầu kỳ (con) Số con cuối kỳ (con) Tỷ lệ nuôi sống ( %) Trong tuần Cộng dồn 20 110 109 99,09 99,09 21 109 109 100 99,09 22 109 109 100 99,09 23 109 108 99,08 98,18 24 108 108 100 98,18 25 108 108 100 98,18 26 108 108 100 98,18 27 108 108 100 98,18 28 108 107 99,07 97,27 29 107 107 100 97,27 30 107 107 100 97,27 31 107 106 99,06 96,36 32 106 106 100 96,36 33 106 106 100 96,36 34 106 106 100 96,36 35 106 106 100 96,36 Trong điều kiện là vụ xuõn – hè, thời tiết có nhiều biến đổi thất thường, tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm trong giai đoạn gà từ tuần 20 – tuần 35 là 96,36%, số con bị chết và loại thải không đáng kể. Nhìn chung tỷ lệ nuôi sống của đàn gà SASS0 ở giai đoạn từ 20 – 35 tuần tuổi khá cao,phù hợp với tiêu chuẩn của phẩm giống, khả năng chống chịu bệnh tật tốt, chúng thích nghi với điều kiện nuôi nhốt hoàn toàn tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán hay nuôi bán chăn thả với điều kiện ở Thái Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung. 2.4.2. Khối lượng gà qua các tuần tuổi (g) Để đảm bảo khối lượng gà đạt tiêu chuẩn khi vào đẻ ta tiến hành cõn khối lượng gà từ 20 – 35 tuần tuổi vào các buổi sáng thứ 7 hàng tuần, cõn trước khi cho ăn, cho uống cõn 10% tổng đàn. Dùng cõn đồng hồ loại 5kg có độ chớnh xác 20g. Bảng 4.2: Khối lượng gà qua các tuần tuổi Tuần tuổi Khối lượng gà (g) Trống (♂) (n=10) Mái (♀) (n=35) Cv (%) Cv (%) 20 2787,70 ± 33,03 3,55 2001,60 ± 24,25 7,17 21 2915,70 ± 42,14 4,34 2195,86 ± 36,02 9,07 22 3104,40 ± 37,18 3,59 2248,49 ± 30,74 8,09 23 3140,00 ± 30,69 2,93 2296,11± 24,38 6,28 24 3220,90 ± 17,03 1,59 2319,37 ± 24,73 6,31 25 3255,80 ± 15,93 1,47 2460,57 ± 12,70 3,05 26 3326,00 ± 20,37 1,84 2484,11 ± 14,16 3,37 27 3338,50 ± 12,55 1,13 2528,69 ± 10,22 2,39 28 3376,50 ± 23,37 2,08 2620,37 ± 10,65 2,40 29 3394,00 ± 22,19 1,96 2671,83 ± 12,02 2,66 30 3408,50 ± 23,73 2,00 2742,83 ± 14,38 3,10 31 4314,50 ± 20,84 1,83 2819,49 ± 16,21 3,40 32 3422,60 ± 33,31 2,92 2863,94 ± 11,70 2,42 33 3511,20 ± 15,19 1,30 2858,91 ±14,62 3,03 34 3551,20 ± 24,42 2,06 2853,71 ± 13,31 2,76 35 3571,20 ± 22,45 1,89 2851,00 ± 13,73 2,85 Qua bảng 4.2 ta thấy khối lượng gà được nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán đến tuần 20 đã đạt tiêu chuẩn khi kết thúc giai đoạn hậu bị sang giai đoạn sản xuất là 2001,60g con mái và 2787,70g con trống. Tương ứng theo tài liệu khuyến cáo của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam – Trung tâm Khuyến Nông Quốc gia là con mái có khối lượng từ 1800g – 2000g và con trống là 2500g – 2800g. Nhìn chung khối lượng đàn gà là đồng đều, khoẻ mạnh, phát dục tốt đảm bảo cho giai đoạn sinh sản. 2.4.3. Chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn Tiêu tốn thức ăn là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong chăn nuôi. Để xác định hiệu suất sử dụng thức ăn cho sản suất trứng gia cầm tôi tiến hành theo dõi tính toán tiêu tốn thức ăn cho gà thí nghiệm ở giai đoạn từ tuần 20 – tuần 35. Trên cơ sở ghi chép lại thức ăn của gà thí nghiệm hàng ngày, tôi xác định được tiêu tốn thức ăn cho mỗi gà. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.3: Bảng 4.3: Tiêu tốn thức ăn qua các tuần tuổi Tuần tuổi TTTĂ Tuần tuổi TTTĂ Con trống (♂) Con mái(♀) Con trống (♂) Con mái(♀) 20 1,63 11,57 28 1,69 12,64 21 1,69 12,57 29 1,71 12,79 22 1,67 12,43 30 1,73 12,86 23 1,68 12,57 31 1,70 12,79 24 1,67 12,50 32 1,73 12,86 25 1,69 12,50 33 1,71 12,93 26 1,67 12,86 34 1,70 12,86 27 1,70 12,71 35 1,71 12,64 Qua bảng số liệu 4.3 tôi thấy tiêu tốn thức ăn trong giai đoạn này khá ổn định chỉ tăng lên không đáng kể cả ở con trống và con mái. Hàng ngày lượng thức ăn trước khi cho gà ăn thì được cõn đo cẩn thận theo dự kiến. Sau đó theo dừi quan sát và kiểm tra lượng thức ăn đưa vào hàng ngày ta thấy lượng thức ăn như dự kiến là vừa đủ không thừa mà gà cũng không bị đói. Điều này chứng tỏ rằng lượng thức ăn mà ta sử dụng như bảng 4.3 là hợp lý, đàn gà sinh trưởng, phát triển tăng khối lượng đồng đều đảm bảo cho giai đoạn sản xuất. 2.4.4. Đặc điểm sinh sản 2.4.4.1.Tuổi đẻ của gà Tuổi thành thục tính dục là một trong các yếu tốảnh hưởng đến năng suất trứng, nó phụ thuộc vào đặc điểm giống, chế độ nuôi dưỡng, kỹ thuật khống chế khối lượng cơ thể của gà mái ở giai đoạn hậu bị. Nó cũn phản ánh sức bền đẻ trứng của đàn gà.       Tuổi đẻ và khối lượng cơ thể là 2 chỉ tiêu quan trọng phản ảnh mức độ thành thục, khả năng sinh sản của đàn gà. Trong đó tuổi đẻ bói hay còn gọi là tuổi thành thục sinh dục của gà được tính từ ở thời điểm gà mái đẻ quả trứng đầu tiên. Cỏc hóng gia cầm lớn trên thế giới như AA (1994), Ross (1992), Lohmann (1999), Bromo 807 (1993) đều thống nhất quy định: Trong đàn gà cùng lứa tuổi, tuổi thành thục sinh dục của đàn được tính khi đàn gà đạt tỷ lệ đẻ 5%. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.4. Bảng 4.4: Tuổi đẻ của gà Chỉ tiêu khảo sát Kết quả Ngày tuổi Tuần tuổi Tuổi đẻ bói 141 21 Tuổi đẻ 5% 154 22 Tuổi đẻ 25% 161 23 Tuổi đẻ 50% 175 25 Tuổi đẻ cao nhất (tính đến 35 tuần tuổi) 217 31 Qua bảng trên cho ta thấy đàn gà SASSO đã bắt đầu có cá thể đẻ từ ngày 141 ở tuần thứ 21 điều này chứng tỏ quá trình chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với đặc điểm của gà SASSO. Đàn gà đạt tuổi đẻ tăng dần qua các tuần tuổi đạt 5% ở ngày 154 của tuần thứ 22, 25% ở ngày 161 của tuần 23, 50% ở ngày 175 của tuần 25 và đạt cao nhất ở tuần 31 kéo dài đến tuần 33 sau đó tỷ lệ đẻ lại giảm dần theo tuần tuổi. 2.4.4.2. Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ Năng suất trứng hay sản lượng trứng của gia cầm là tổng số trứng đẻ ra trên một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm đõy là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng phụ thuộc vào loài, giống, hướng sản suất, mùa vụ và đặc điểm của cá thể. Năng suất trứng là một tớnh trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Năng suất trứng đuợc đánh giá qua cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ. Tỷ lệ đẻ là chỉ tiêu quan trọng đẻ đánh giá khả năng đẻ trứng, sinh sản của đàn gà, nó phản ánh kết quả của quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, trình độ quản lý đàn gà. Tỷ lệ đẻ phụ thuộc sức đẻ của các cá thể trong tổng đàn theo dõi. Gia cầm nào có tỷ lệ đẻ cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ là giống tốt nếu chế độ dinh dưỡng đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao. Gà nuôi nhốt có tỷ lệ đẻ thấp trong vài tuần đầu của chu kỳ đẻ sau đó tăng dần và tỷ lệ đẻ đạt cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và tỷ lệ đẻ thấp ở cuối chu kỳ sinh sản. Bảng 4.5 : Sản lượng trứng, tỷ lệ đẻ và số lượng trứng giống. Tuần tuổi Số mái đẻ bình quân (con) Tổng số trứng đẻ (quả) Tỷ lệ đẻ (%) Năng suất trứng (quả/mỏi) Trứng giống Số lượng (quả) Tỷ lệ (%) 21 99 35 5,05 0,05 22 99 98 14,14 0,14 23 98,86 186 26,88 0,27 24 98 292 42,57 0,43 25 98 348 50,73 0,51 328 94,25 26 98 376 54,81 0,55 360 95,74 27 98 431 62,83 0,63 409 94,90 28 97,86 445 64,96 0,65 423 95,05 29 97 468 68,92 0,68 450 96,15 30 97 493 72,61 0,72 470 95,33 31 96,86 494 72,86 0,73 470 95,14 32 96 481 71,58 0,72 458 95,22 33 96 475 70,68 0,71 452 95,16 34 96 470 69,94 0,70 449 95,33 35 96 454 67,56 0,68 436 96,04 Tổng 5546 4705 T.bỡnh 97,44 369,73 53,92 0,54 427,73 95,32 Qua bảng 4.5 tôi theo dõi được sản lượng trứng của gà SASSO từ tuần 21 trở đi thu được tổng số trứng là : 5546 quả, số trứng giống là : 4705 quả. Sản lượng trứng giống tăng dần lên theo tuần tuổi, từ tuần 25 trở đi bắt đầu cho trứng vào ấp. Tỷ lệ trứng giống cao đạt từ 95% trở lên có tỷ lệ đồng đều tốt do vậy tỷ lệ ấp nở cũng sẽ cao. Biểu đồ 4.1. Sản lượng trứng, trứng giống qua các tuần tuổi 2.4.5. Chỉ tiêu chất lượng trứng 2.4.5.1. Các chỉ tiêu chất lượng trứng Bảng 4.6: Khảo sát chất lượng trứng (n= 30) STT Chỉ tiêu khảo sát Kết quả khảo sát Cv (%) 1 Khối lượng trứng (g) 55,42 ± 0,05 0,47 2 Khối lượng lòng đỏ (g) 16,27 ± 0,02 0,68 3 Khối lượng lòng trắng (g) 32,48 ± 0,05 0,75 4 Khối lượng vỏ trứng (g) 6,31 ± 0,01 0,83 5 Tỷ lệ lòng đỏ (%) 29,37 ± 0,05 0,93 6 Tỷ lệ lòng trắng (%) 59,27 ± 0,06 0,52 7 Tỷ lệ vỏ (%) 11,36 ± 0,02 1,17 8 Chỉ số hình thái (D/R) 1,33 ± 0,01 2,23 Qua bảng 4.6 cho thấy, trứng gà SASSO có khối lượng tương đối lớn so với trứng các giống gà khác như: Lương Phượng, Tam Hoàng, Kabri… Khối lượng trung bình của trứng đạt 55,46 g, lớn hơn trứng gà Ri (45,37 g), trứng gà Đông Tảo (45,32 g ) ( Lê Thị Nga 1997) [14], trứng của gà Ác (>30g) (Bùi Đức Lũng, 2007) [11]. Theo nhiều tác giả, trong cùng một giống, một dòng, những trứng có khối lượng quá to hoặc quỏ bộ, dài quá hoặc ngắn quá, những trứng dị dạng… cho tỷ lệ ấp nở kém. Về hình dạng, trứng gà SASSO có 2 đầu phân biệt rõ rệt, đầu to tù, đầu bé nhọn; chỉ số hình thái của trứng gà SASSO trung bình là 1,33 đạt mức cho phép của tiêu chuẩn trứng giống. Theo Orlov (1994)[26], đối với gà dòng thuần trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, cùng tuổi, trứng có hình dạng giống nhau.   Tỷ lệ lòng trắng, lòng đỏ là chỉ tiêu đánh giá nguồn dinh dưỡng trong trứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ lòng trắng và lòng đỏ của gà SASSO lần lượt là 59,27% và 29,37%. So với trứng gà Lương Phượng, tỷ lệ lòng đỏ của trứng gà SASSO là thấp hơn (30,48 %) (Lê Thị Thu Hiền, (2001) [6]. 2.4.5.2. Khối lượng trứng Khối lượng trứng được xác định bằng cách cân ngẫu nhiên (n=35) số trứng thu được trong tuần, bằng cân chính xác 0,1g và cứ cân 1 tuần 1 lần. Theo dõi từ khi gà đẻ 25% hàng ngày cõc trứng và xử lý số liệu. Bảng 4.7: Khối lượng trứng qua các tuần tuổi Tuần tuổi Khối lượng trứng Tuần tuổi Khối lượng trứng (g) Cv (%) (g) Cv (%) 22 51,84 ± 0,328 3,74 29 55,84 ± 0,594 6,29 23 53,09 ± 0,387 4,32 30 56,32 ± 0,538 5,65 24 54,48 ± 0,490 5,32 31 55,35 ± 0,592 6,33 25 55,32 ± 0,612 6,55 32 55,45 ± 0,539 5,75 26 55,41 ± 0,674 7,20 33 55,53 ± 0,527 5,62 27 55,51 ± 0,581 6,20 34 55,40 ± 0,460 4,92 28 55,85 ± 0,534 5,66 35 55,02 ± 0,593 6,38 T.Bình 54,50 5,57 55,50 5,83 Qua bảng 4.7 ta thấy khối lượng trứng tăng dần qua các tuần tuổi và ổn định từ tuần 25 trở đi. Hệ số biến dị nhỏ chứng tỏ độ đồng đều cao. Khối lượng trứng trung bình là 55g đạt tiêu chuẩn so với phẩm giống để cho vào ấp. Khối lượng trứng giống đạt 55,32g ở 25 tuần tuổi trở đi và có độ đồng đều tương đối cao hầu hết đều đạt tiêu chuẩn trứng giống cho nên tỷ lệ trứng giống tỷ lệ thuận nên cũng cao. Đối với những quả trứng không đạt yêu cầu nếu to quá hoặc bộ quỏ đều được loại thải. 2.4.5.3. Tỷ lệ ấp nở Tỷ lệ ấp nở của gia cầm được xác định bằng tỷ lệ (%) số con nở ra so với số trứng đưa vào ấp và số trứng có phôi . Đõy là tớnh trạng đầu tiên biểu hiện sức sống ở đời con, tỷ lệ nở của trứng không những chứng minh tớnh di truyền về sinh lực giống mà cũn là sự xác minh về sự liên quan giữa tỷ lệ nở với cấu tạo của trứng. Khối lượng trứng, sự cõn đối giữa các thành phần cấu tạo và cấu trúc vỏ trứng ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp nở. Căn cứ vào số lượng trứng giữ lại làm giống ( số trứng ấp), số trứng có phôi, số trứng nở ra gà con, số gà loại 1. Tỷ lệ nở là chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng đàn của gia cầm, nó phụ thuộc vào các yếu tố: chất lượng trứng, hình thái trứng, điều kiện ngoại cảnh, bảo quản và kỹ thuật ấp nở. Ngoài ra, tỷ lệ trống/ mái, chất lượng trống, mái cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ ấp nở. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.8 và bảng 4.9. Bảng 4.8: Tỷ lệ ấp nở qua các tuần tuổi Tuần tuổi Số trứng ấp (quả) Tỷ lệ trứng cú phụi (%) Tỷ lệ nở/trứng cú phụi (%) Tỷ lệ nở/trứng ấp (%) Tỷ lệ gà loại 1 (%) 25 328 93,29 89,22 83,23 94,51 26 360 93,06 89,25 83,06 96,66 27 409 94,87 89,18 84,60 95,95 28 423 93,85 90,68 85,11 98,06 29 450 93,11 92,36 86,00 97,42 30 470 93,40 92,26 86,17 98,27 31 470 93,62 93,18 87,23 97,32 32 458 93,45 92,29 86,24 97,47 33 452 93,14 92,64 86,28 96,41 34 449 93,54 94,05 87,97 98,23 35 436 96,10 92,60 88,99 97.68 Tổng/ T. bình 4705 93,71 ± 0,29 91,69 ± 0,55 85,93 ± 0,58 97,09 ± 0,36 Bảng 4.9: Tổng hợp kết quả tỷ lệ ấp nở của trứng STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả 1 Số lượng trứng ấp quả 4705 2 Số lượng trứng cú phụi quả 4412 3 Tỷ lệ trứng cú phụi/ trứng ấp % 93,71 4 Số lượng trứng nở quả 4048 5 Tỷ lệ gà nở/ trứng cú phụi % 91,69 6 Tỷ lệ trứng nở/ trứng ấp % 85,93 6 Số lượng gà loại 1 Con 3934 7 Tỷ lệ gà loại 1 % 97,18 8 Khối lượng bình quân gà con mới nở Gram 39,33 Qua bảng 4.8 và 4.9 cho ta thấy ta bắt đầu cho trứng vào ấp từ tuần thứ 25 trở đi, tỷ lệ trứng cú phôi/ trứng ấp trung bình là 93,71%, tỷ lệ gà nở/ trứng cú phụi là 91,69%, tỷ lệ trứng nở/ trứng ấp là 85,93% và tỷ lệ gà loại 1 là 97,18%. Số trứng được đưa vào ấp tăng dần theo tuần tuổi, tỷ lệ ấp nở ổn định do chất lượng trứng giống đảm bảo. Khối lượng gà con bằng 65% - 69% khối lượng trứng đạt trung bình là 39,33g. 2.4.6. Tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống Tiêu tốn thức ăn là chỉ tiêu đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng thức ăn. Tôi tiến hành theo dừi TTTĂ/10 trứng và TTTĂ/10 trứng giống từ tuần 20 đối với trứng thường và từ tuần 23 đối với trứng giống đến tuần 35. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.9. Bảng 4.10: Tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng và 10 trứng giống Tuần tuổi TTTĂ /10 trứng (kg) TTTĂ/10 trứng giống (kg) Tuần tuổi TTTĂ /10 trứng (kg) TTTĂ/10 trứng giống (kg) 21 25,14 29 1,89 1,97 22 8,88 30 1,82 1,96 23 4,73 31 1,82 1,91 24 3,00 32 1,86 1,95 25 2,51 2,29 33 1,89 1,99 26 2,39 2,50 34 1,93 2,02 27 2,06 2,18 35 1,98 2,06 28 2,01 2,12 Tổng 50,72 9,09 13,19 13.86 Qua bảng 4.9 ta thấy TTTĂ/10 trứng giảm dần theo từng tuần tuổi do số trứng tăng dần. TTTĂ/10 trứng giống cũng giảm dần đến tuần 32 sau đó lại tăng do số lượng trứng giảm nhưng trứng số lượng trứng giống vẫn đảm bảo. 3.4.7. Chi phí và TTTĂ cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống Trên cơ sở giá thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 9624 cho gà đẻ trứng tôi theo dừi các chỉ tiêu và tớnh toán giá thành về chi phí thức ăn cho 10 trứng và 10 quả trứng giống. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.10. Bảng 4.11: Tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 10 trứng và 10 trứng giống Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả Tiêu tốn thức ăn/10 trứng Kg 2,55 Chi phí thức ăn/10 trứng Đồng 26799,04 Tiêu tốn thức ăn/10 trứng giống Kg 3,01 Chi phí thức ăn/10 trứng giống Đồng 31589,27 3.5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI, ĐỀ NGHỊ 3.5.1. Kết luận Tỷ lệ nuôi sống của đàn gà SASSO giai đoạn 20 – 35 tuần tuổi nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán khá cao đạt 96,36%. Khối lượng gà SS ở tuần tuổi thứ 20 là 2001,60g đối với con mái và 2787,70g đối với con trống đõy là khối lượng tương ứng theo tài liệu của Bộ NN & PTNT – Trung tõm KN Quốc gia. Chỉ tiêu tốn thức ăn để đánh giá hiệu quả sử dụng thức ăn của gia cầm. Trong suốt cả giai đoạn thì lượng thức ăn được sử dụng trung bình như sau: con trống là 1,69g/con/ngày, con mái là 12,64g/con/ngày, để đảm bảo cho gia cầm sinh sản tốt nhất tránh hiện tượng cá thể quá béo hay quá gầy. Đặc điểm sinh sản được phán ánh qua tuổi đẻ bói, tuổi đẻ 5%, 25%, 50% và đẻ cao nhất đến 35 TT. Ở gà SASSO thì tuổi đẻ bói là lúc 21 TT, sau đó sản lượng tăng dần theo tuần tuổi đạt cao nhất lúc 30 TT và kéo dài đến 32 TT. Từ tuần 33 trở đi thì sản lượng trứng lại bắt đầu giảm. Chỉ tiêu về trứng là các thông số để đánh giá được chất lượng trứng để chọn làm trứng giống. Đối với gà SASSO thì trứng đạt yêu cầu khi cho ấp thì phải có khối lượng trung bình là 50g – 55g, tỷ lệ lòng đỏ hơn 29%, chỉ số hình thái là 1,33 và có kích thước các chiều hợp lý. Có tỷ lệ trứng giống cao đạt từ 93% trở lên, trứng có phôi/trứng giống là 93,71%, tỷ lệ nở/ trứng có phôi là 91,69%, tỷ lệ nở/ trứng ấp là 85,93% và tỷ lệ gà loại 1 là 97,18%. Chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống. Để sản xuất ra 10 quả trứng và 10 quả trứng giống cần lượng thức ăn lần lượt là: 2,55kg và 3,01kg. Với giá cám thị trường tại thời điểm hiện tại là 10500 đồng/1kg thức ăn, cho nên chi phí thức ăn cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống lần lượt là:26799,04 đồng và 31589,27 đồng. 3.5.2. Tồn tại Do thời gian thực tập ngắn và không đủ điều kiện để theo dừi được toàn bộ quá trình sinh trưởng, phát triển và sản xuất của đàn gà từ 1 – 70 tuần tuổi. Cho nên số liệu trên chỉ đánh giá được một giai đoạn sản xuất của gà là từ 20 – 35 TT, nên chưa phản ánh hết được những ưu điểm của phẩm giống, điều kiện nuôi dưỡng, khả năng thích nghi và năng suất. 3.5.3. Đề nghị Trong thời gian thực tập ngắn nên tôi chưa theo dừi được hết cả giai đoạn từ 1 đến 70 TT, nên tôi đề nghị nhà trường, BCN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 244.doc