Đề tài Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và P.Ăngghen trong một số tác phẩm đã học

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và P.Ăngghen trong một số tác phẩm đã học: TRANG MỤC LỤC Mở đầu………………………………………………………1 Chương 1 : Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và cơ sở lý luận, phương pháp luận của nó.................................. 1.1.Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và nội dung cơ bản của nó........................................................................... 1.2.Cơ sở lý luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa....................................................... Chương 2 : Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”........................................................................................ 2.1..Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa..................................................................................

doc33 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và P.Ăngghen trong một số tác phẩm đã học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRANG MỤC LỤC Mở đầu………………………………………………………1 Chương 1 : Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và cơ sở lý luận, phương pháp luận của nó.................................. 1.1.Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và nội dung cơ bản của nó........................................................................... 1.2.Cơ sở lý luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa....................................................... Chương 2 : Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”........................................................................................ 2.1..Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa........................................................................................... 2.2. Nội dung học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”.............................. 2.3. Nội dung học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”.............................. 2.4. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”............................................................... 2.5. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế xã hội trong tác phẩm “ nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”........................................................................................... Chương 3 : Ýnghĩa của việc nghiên cứu lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm kinh điển và sự vận dụng của học thuyết đó ở nước ta hiện nay................................. 3.1.Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa............................................................... 3.2. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay............................................................... MỞ ĐẦU Lý do và tính cấp thiết của đề tài Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển học thuyết Mác – Lênin về triết học và kinh tế chính trị học, cơ sở cho việc luận chứng về kinh tế xã hội của quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản , luận giải sứ mệnh lịch sử cuả giai cấp công nhân – người sáng tạo xã hội mới. Đồng thời , thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở để kiểm nghiệm, tiếp tục phát triển triết học, kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự hoàn chỉnh cân đối thống nhất gắn bó chặt chẽ của học thuyết thể hiện tính khoa học và cách mạng, lý luận gắn với thực tiễn của học thuyết Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội “ là phương tiện giải phóng giai cấp vô sản, và việc giải phóng giai cấp vô sản là mục đích của nó”. Chủ nghĩa xã hội khoa học là lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển của xã hội , C.Mác – P.Ăngghen đã luận giải , chứng minh xã hội loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội ( lúc đó các ông gọi là “trạng thái xã hội” khác nhau). Và hình thái kinh tế - xã hội Tư bản Chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn, đó chính là hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là lực lượng duy nhất có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử này, đưa nhân loại tiến đến một xã hội mới – xã hội Cng sản Chủ nghĩa. Và mỗi nước khi áp dụng học thuyết này của C.Mác và P.Ăngghen thì phải tự thực hiện, tìm tòi thử nghiệm …để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, tổng kết bổ sung vào lý luận này để cho nó ngày càng phong phú. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã chỉ đường cho sự phát triển của nhân loại. Nhiều nước đã và đang vận dụng học thuyết này vào công cuộc xây dựng đất nước. Việt nam là một trong những nước thu được bước đầu thành công trong việc vận dụng học thuyết này dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một việc hết sức cấp bách và cần thiết trong công cuộc xây dựng nước ta hiện nay. Là một sinh viên đang theo học hệ cử nhân chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học thì việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là phù hợp với ngành học và cần thiết cho việc bổ sung , củng cố thêm kiến thức của mình. Chính vì thế, tác giả chọn đề tài lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hộitrong các tác phẩm: “ Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh” (1845), “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” (), “ Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875),“ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước“ (1884) làm đề tài nghiên cứu để kết thúc học phần môn : “ Tác phẩm của C.Mác và P.Ăngghen về Chủ nghĩa xã hội khoa học” Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một hệ thống lý luận của Chủ nghĩa xã hội về sự ra đời và phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Đây là một quan điểm quan trọng trong lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và P.Ăngghen Nội dung của nó gồm nhiều vấn đề được trình bày trong nhiều tác phẩm và các công trình lý luận. Mỗi tác phẩm thường chỉ đi sâu vào một hoặc một số vấn đề thuộc về nội dung của học thuyết . Xuất phát từ yêu cầu của đề tài tiểu luận học phần và thời gian cho phép, trình độ năng lực bản thân còn hạn chế nên tiểu luận chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung lý luận chủ yếu ở những tác phẩm : “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh” ( P.Ăngghen -1845 ) : Tác phẩm được ra đời xuất phát từ những quan sát nghiêm túc đối với hiện trạng kinh tế xã hội và chính trị xã hội nước Anh. “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” ( C.Mác - 1851) : Tác phẩm ra đời từ sự kiện những phần tử theo tổng thống Lui Bônapac đã lam cuộc đảo chính. Cho thấy rõ bản chất xấu xa và phản động của Lui Bônapac “ Phê phán cương lĩnh Gôta” (C.Mác – 1875) : Tác phẩm được viết như một sự phê phán đối với bản Dự thảo Cương lĩnh đã được chuẩn bị nhằm tiến tới Đại hội sát nhập những người dân chủ - xã hội tại thành phố Gôta, thuộc miền Đông nước Đức. “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước “ ( P.Ăngghen – 1884) : Tác phẩm là sự tưởng nhớ của Ăngghen đối với Mác . Đồng thời làm rõ những quan điểm duy vật lịch sử của Moocgan và các nhà khoa học. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đã có nhiều công trình khoa học, tài liệu như : Học thuyết kinh tế Cộng sản Chủ nghĩa - Khoa CNHXKH trường Học viện Báo chí và tuyên truyền, giáo trình CNXHKH. Tư tưởng về Chủ nghĩa cộng sản, về định hướng Xã hội chủ nghĩa trong “ Tuyên ngôn Đảng cộng sản “ – PGS.TS Vũ Văn Phúc, Báo thông tin chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực tiễn- Học viện Chính Trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Viện CNXHKH. Trong các tài liệu này tập trung nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ở điều kiện ra đời và đi sâu vào nghiên cứu giai đoạn Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa , và thời kỳ quá độ. Các tài liệu này góp phần quan trọng cho việc giảng dạy bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng do yêu cầu của việc nghiên cứu nên tác giả không có điều kiện đi sâu nghiên cứu từng tác phẩm. Tiểu luận này của tôi nhằm đi sâu vào nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và P.Ăngghen trong một số tác phẩm đã học và ý nghĩa của nó trong vận dụng ở nước ta hiện nay. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận này là làm rõ thêm lý luận về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng như là ý nghĩa của nó đối với lịch sử xã hội trong bốn tác phẩm cụ thể. Để có thể đạt được mục tiêu ấy tác giả xác định cần phải hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây: +Tìm hiểu bối cảnh lịch sử, lý do viết tác phẩm. + Tiến hành đọc và lược thuật trong tác phẩm + Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản về học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa rồi liên kết các nội dung đó với nhau. + Làm rõ tầm quan trọng của vấn đề hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa trong hệ thống lý luận CNHXKH. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp nghiên cứu: + phương pháp chung : logic lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân tích tổng hợp… + phương pháp cụ thể : đọc - thu thập- phân loại – xử lý thông tin, lược thuật, tổng thuật, nghiên cứu tài liệu… 6. Kết cấu tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận,danh mục tài liệu tham khảo . Tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương 8 tiết. CHƯƠNG 1 : HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN , PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ. 1.1 Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là hệ thống tri thức bao gồm những tư tưởng, quan điểm về hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin khái quát và phản ánh thành những phạm trù, quy luật. Trước C.Mác và Ăngghen cũng có nhiều người đưa ra những quan điểm về xã hội tương lai như : Owen ( Anh ), Xanhximong, Phurie ( Pháp ) …các ông cũng chỉ ra xã hội mới phải làm như thế nào để đem lại lợi ích cho đa số, phải xóa bỏ chế độ tư hữu, chế độ sở hữu phải được tổ chức như thế nào có lợi cho toàn xã hội. Đặc biệt Phurie còn chia lịch sử loài người thành bốn giai đoạn, đó là mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Đây là bước đầu của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Ông chỉ ra trong xã hội cần tiến hành sản xuất tập thể trong hiệp hội, tự do phân phối được thực hiện một cách công bằng. Đến Ôwen , ông chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu. Ôwen cho rằng dưới chế độ công hữu lao động được tổ chức trên cơ sở lao động tập thể, mọi người được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Những quan điểm trên có điểm tiến bộ so với quan điểm lúc bấy giờ, tuy nhiên các ông không đưa ra đường lối , phương pháp để tiến tới xã hội tương lai đó, còn nhiều hạn chế trong nhiều phương diện. Chủ nghĩa xã hội mà các ông quan niệm vẫn còn chế độ tư hữu , mang nặng tính không tưởng và sắc thái tôn giáo. Để xây dựng chế độ xã hội mới các ông chủ trương dùng biện pháp hòa bình, tuyên truyền khích lệ. Chỉ đến Mác – Ăngghen thì những quan niệm về xã hội tương lai mới thực sụ trở thành học thuyết và dựa trên những quy luật khách quan , phạm trù và những phương pháp luận mang tính khoa học. Việc sáng lập ra học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và học thuyết hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một bước tiến vĩ đại của nhân loại. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản quan trọng của Chủ nghĩa Xã hội khoa học. Nó chỉ ra quy luật tất yếu phải tiến tới hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa của loài người. Học thuyết bao gồm các nội dung chủ yếu là nguồn gốc xuất hiện , các điều kiện ra đời ,các giai đoan phát triển và các đặc trưng của xã hội Cộng Sản chủ nghĩa ở trong từng giai đoạn phát triển. Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng , duy vật lịch sử mà C.Mác và Ăngghen đã nghiên cứu và phát hiện ra sự ra đời kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một tất yếu. Theo C.Mác vấn đề cơ bản, sâu xa có tính chất quyết định về qua trình vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người là cuộc đấu tranh không ngừng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất để giải quyết mâu thuẫn thường xuyên giữa chúng. Thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến thay đổi chế độ xã hội, thay đổi hình thái kinh tế - xã hội. Và sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội mới bao giờ cũng bắt nguồn từ những yếu tố ít nhiều đã nảy sinh trong lòng hình thái kinh tế xã hội hiện đang tồn tại thai nghén nó. Các nhà kinh điển Mác – Lênin cho rằng : Sự tất yếu ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Chủ nghĩa Cộng sản ở ngay trong xu hướng vận động phát triển của mâu thuẫn cơ bản chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất . Theo quan điểm của các ông, nguồn gốc ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, chính là do từ sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội dưới Tư bản Chủ nghĩa. Sự phát triển của công nghiệp làm tư bản chủ nghĩa từ thế kỷ XVIII tạo ra lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao. Tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất Chủ nghĩa Tư bản không còn trong giới hạn từng quốc gia, do đó lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với với quan hệ sản xuất Tư bản Chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến mâu thuẫn về mặt chính trị giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội lúc đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Như vậy, sự ra đời của Cộng sản Chủ nghĩa là điều kiện tất yếu không thể tránh khỏi có điều kiện kinh tế chính trị chín muồi và giai cấp công nhân là lực lượng phải biết nắm lấy cơ hội đó để thúc đẩy sự ra đời của xã hội mới, lật đổ chế độ tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân Tư bản Chủ nghĩa. Gắn liền với nguồn gốc xuất hiện và điều kiện ra đời , quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa tất yếu cũng là quá trình phải trải qua các giai đoạn phát triển đi dần từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, mỗi giai đoan trong đó lại có thể có nhiều thời kỳ, với những nội dung và bước đi cụ thể. Hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời trước hết phải trải qua thời kỳ cải biến cách mạng, thời kỳ quá độ chính trị. Hình thái hinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn : giai đoạn xã hội Xã hội Chủ nghĩa – là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa – một giai đoạn vừa thoát thai trong lòng xã hội Tư bản Chủ nghĩa, và giai đoạn cao là xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Về bản chất chủ nghĩa xã hội là đồng nhất , sự khác biệt chủ yếu là ở trình độ chín muồi của những điều kiện kinh tế - xã hội, cùng với nó là những điều kiện về chính trị văn hóa, xã hội. Ở giai đoạn thấp thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đến giai đoạn cao thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu. Trong bốn tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp lao động Anh”, “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”, C.Mác và P.Ăngghen đã thể hiện những nội dung cơ bản của học thuyết. 1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của Chủ nghĩa xã hội khoa học , học thuyết đó có cơ sở và phương pháp luận là những tri thức triết học và kinh tế chính trị học Mác – Lênin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biến chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời chính là để đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn và nhận thức đương thời, nhằm chỉ ra quá trình phát sinh và phát triển có quy luật của xã hội loài người trong toàn vẹn tất yếu phải dẫn đến hình thái – xã hội Cộng sản Chủ nghĩa . Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống lý luận khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội loài người ( bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tinh thần ), chỉ dựa trên những tri thức chung của khoa học này mới có thể nhận thức được những liên hệ căn bản , phổ biến chi phối quá trình lịch sử nói chung. Hình thức nhân thức đó là phép biện chứng duy vật do C.Mác – Ăngghen sáng tạo ra. Đặc điểm nổi bật của phép biện chứng duy vật ấy là nó nhận thức thế giới về bản chất, quy luật hay nói khác đi về mặt lôgic là nhận thức dưới hệ thống khái niệm, phạm trù quy luật chung của nó. Chủ nghĩa duy vật khoa học của Mác chính là ở chỗ nó giải quyết một cách duy vật khoa học vấn đề cơ bản của triết học , tức là nó đã đem lại một quan niệm mới về vật chất dưới hình thức nhận thức khoa học trừu tượng nhất , đó là nhận thức phạm trù. Nhận thức này phản ánh được những thuộc tính căn bản phổ biến của vật chất – thuộc tính tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào cảm giác và có thể đem lại cảm giác cho con người. Phép biện chứng duy vật là một bộ phận hợp thành của triết học Mác – Lênin và là khoa học nghiên cứu những quy luật vận động ,phát triển chung nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phép biện chứng duy vật của Mác được hình thành phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với toàn bộ lịch sử của quan niệm duy vật lịch sử. Đặc điểm của sự hình thành duy vật lịch sử nói chung và học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói riêng là ở sự xuất hiện của chúng với tư cách là những hệ thống lý luận triết học khoa học. Trong đó những khái niệm, nguyên lý quy luật chung về lịch sư được nêu lên trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là kết quả của sự vận động tư duy lý luận đi từ trừu tượng đến cụ thể , là cái cụ thể trong tư duy lý luận, là hình ảnh lý luận triết học về lịch sử. và vì thế nó cũng thể hiện một cách tóm tắt quá trình vận động ấy của tư duy. Trong hệ thống lý luận này , những khái niệm quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự phản ánh những mặt, những mối liên hệ tất yếu của lịch sư hiện thực trong sự phát triển toàn vẹn. Chủ nghĩa duy tâm biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó có học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã hình thành và đang ngày càng phát triển. Cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác – Ăngghen đã đi sâu vào nghiên cứu sự vận động của chủ nghĩa tư bản, làm rõ một trong những bản chất của giai cấp tư sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Với học thuyết giá trị thặng dư Mác và Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn gốc kinh tế, sự diệt vong của Chủ nghĩa Tư bản và sự ra đời của Cộng sản Chủ nghĩa. Như vậy với cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học đó, học thuyết hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời là một tất yếu, có ý nghĩ to lớn đối với sự phát triển cả về hệ thống lý luận và thực tiễn phát triển lịch sử xã hội loài người. Trong tiểu luận này tác giả chủ yếu tìm hiểu và phân tích bốn tác phẩm : “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước” để làm rõ nội dung về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. CHƯƠNG II : HỌC THUYẾT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA TRONG CÁC TÁC PHẨM “ TÌNH CẢNH GIAI CẤP CÔNG NHÂN ANH”, “ NGÀY 18 THÁNG SƯƠNG MÙ CỦA LUI BÔNAPAC”, “PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔTA”, “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH CỦA SỞ HỮU TƯ NHÂN VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”. 2.1.Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. 2.1.1. Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội. Từ học thuyết Mác về hình thái kinh - tế xã hội có thể thấy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống những yếu tố và những mối liên hệ xã hội phức tạp. Tuy nhiên, đây không phải là những yếu tố và liên hệ bất kỳ , mà là những yếu tố và những mối liên hệ được hình thành một cách tất yếu, lặp đi lặp lại trong những xã hội cụ thể. Hệ thống này có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau như : Hệ thống với ba yếu tố và liên hệ cơ bản là lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định, kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với nó, kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó ; Hệ thống những quan hệ xã hội với các loại quan hệ chính là quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần, quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác nhau ; Hệ thống hoạt động xã hội như hoạt động sản xuất,sản xuất vật chất, hoạt động tinh thần, hoạt động xã hội ; hệ thống kinh tế xã hội … Trong chỉnh thể của nó,hệ thống này chính là chế độ xã hội của các xã hội cụ thể trong một giai đoạn lịch sử. Những mối liên hệ trên quy định tất yếu và tính chung của chế độ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy có thể xác định nội dung khái niệm hình thái kinh tế xã hội như sau : Hình thái- kinh tế - xã hội là chế độ xã hội với những yếu tố và những mối liên hệ chung tất yếu, đặc trưng cho các xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử nhân loại nói chung. Hay hình thái kinh tế - xã hội là chế độ xã hội mang tính chất chung tất yếu, đặc trưng cho những xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử nói chung. Thực tế ta có thể thấy ví dụ như : chế độ phong kiến trong lòng các nước,các xã hội phong kiến cụ thể ; chế độ tư sản trong các nước, các xã hội tư sản cụ thể. 2.1.2. Khái niệm hình thái kinh tế -xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là xã hội có quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của hình thái kinh tế - xã hội Tư bản Chủ nghĩa. Hình thành kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân, với trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Trong các tác phẩm của đề tài mà tác giả tìm hiểu chưa có tác phẩm nào định nghĩa rõ ràng hay là nêu lên khái niệm hoàn thiện về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu các tác phẩm chúng ta sẽ thấy rõ được những yếu tố tạo nên nội dung chính của lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Bên cạnh đó là sự phát triển của các lý luận về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong lần lượt các tác phẩm. Tác phẩm ra đời sau có sự tiếp nhận những cơ sở lý luận của tác phẩm trước để hoàn thiện nội dung học thuyết. 2.2. Nội dung học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”( 1845) 2.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Vào những năm giữa thế kỷ XIX tình hình nước Anh và Châu Âu có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Về kinh tế là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của công nghiệp lớn và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngành công nghiệp chế biến vải sợi nước Anh cũng cho ta thấy rõ một phần những tác động, những hệ quả kinh tế - xã hội mà sự phát triển đó mang lại. Nếu như những năm cuối thế kỷ XVIII, mỗi năm ngành công nghiệp này chỉ nhập khẩu 5 triệu pao bông sơ chế, thì đến những năm 40 của thế kỷ XIX, con số này là khoảng 600 triệu, gấp tương đương khoảng 120 lần. Kết cục là những trung tâm thành phố công nghiệp lần lượt xuất hiện và phát triển mạnh mẽ như : Luân Đôn, Manchestơ, Bolton…Sự phát triển ấy đã làm xuất hiện một phương thức sản xuất mới, một phương thức kinh doanh và trao đổi mới. Các nghành tài chính, ngân hàng, dịch vụ, thị trường cổ phiếu ra đời và phát triển. Phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa ra đời và dần xác lập địa vị thống trị của nó, phủ định và thay thế hoàn toàn phương thức sản xuất Phong kiến. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của công nghiệp đã tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong cơ cấu xã hội giai cấp của nước Anh và Châu Âu. Dân cư đua nhau đổ dồn về các trung tâm và thành phố công nghiệp. Bên cạnh đó là cuộc đấu tranh của những người vô sản, của tập đoàn lao động mới trong công nghiệp lớn chống lại giai cấp hữu sản mới đã diễn ra với quy mô ngày càng lớn, có tính chất ngày càng quyết liệt. Những trung tâm công nghiệp mọc lên, sự thay đổi phương thức sản xuất, sự biến đổi trong các quan hệ giai cấp xã hội… tất cả tạo nên một sự biến động mạnh mẽ, phức tạp đòi hỏi có những khảo sát, nghiên cứu nghiêm túc để tìm ra đằng sau, bên trong sự đa dạng phức tạp ấy nguyên nhân cơ bản, sâu xa của những biến đổi đang diễn ra mà những lý luận nhận thức lúc đó đã không thể lý giải nổi. Ph.Ăngghen mới đầu có ý định viết một cuốn sách về lịch sử xã hội Anh với mục đích kế thừa các quan niệm lịch sử, tiếp nối các công trình đã có để đưa ra những nhận định về sự phát triển của xã hội Anh lúc đó. Tuy nhiên trong quá trình quan sát và thu thập tài liệu về các khu công nghiệp, về tình cảnh những người lao động công nghiệp từ 1842 đến 1844 Ăngghen đã quyết định chuyển sang nghiên cứu tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh. Khi trở về Đức, Ăngghen đã bắt tay vào viết tác phẩm “ Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”. 2.2.2. Nội dung về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”. Trong cả tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ăngghen đã đi sâu vào nghiên cứu hoàn cảnh ra đời,cũng như là cuộc sống của giai cấp công nhân trong chế độ Tư bản Chủ nghĩa. Những mâu thuẫn không thể tránh khỏi và các phong trào của giai cấp công nhân xảy ra là điều tất yếu, không thể tránh khỏi, bởi “ ớ đâu có áp bức ớ đó có đấu tranh”. Bởi giai cấp công nhân sẽ là giai cấp đóng vai trò chính trong công cuộc xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Tác phẩm là sự luận giải cho sự ra đời , tồn tại và phát triển của giai cấp công nhân Anh nói riêng và của giai cấp công nhân trên toàn thế giới nói chung – những người có sứ mệnh lịch sử biến học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa thành thực tiễn. Giữa thế kỷ XIX nước Anh đã có đầy đủ các điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế Tư bản Chủ nghĩa, thay thế hoàn toàn chế độ phong kiến. Hàng loạt máy móc được chế tạo ra phục vụ cho sản xuất, các thành thị và khu công nghiệp ra đời, đại công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Tương tự như vậy, Cộng sản Chủ nghĩa muốn thay thế hoàn toàn Tư bản chủ nghĩa thì cần phải có một cơ sở kinh tế, kĩ thuật tiên tiến hơn so với chủ nghĩa Tư bản. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp trong xã hội Tư bản, nền đại công nghiệp trực tiếp sản sinh ra giai cấp công nhân. Đã là xã hội tử bản thì sẽ có sự bóc lột giá trị thặng dư. Vì vậy mâu thuẫn giữa nhà tư bản và người lam thuê hay nói cách khác thì mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là không thể tránh khỏi. Do bị bóc lội thậm tệ cho nên cho nên công nhân sẽ có đấu tranh, họ dần có nhân thức phải có một chế độ mới mà ở đó lợi ích của công nhân sẽ được đảm bảo, đó chính là chế độ Cộng sản Chủ nghĩa. Để luận giải cho học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa , trong tác phẩm này Ăngghen đã phân tích và làm rõ cơ sở, điều kiện cần cho sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đó chính là phong trào công nhân. Biểu hiện ở đây là những hành vi nổi dậy quá khích đến những cuộc nổi dậy có tính chất mang bản chất xã hội như phong trào hiến chương, mang xu hướng tách khỏi tư tưởng cấp tiến tư sản, mang khuynh hướng xã hội chủ nghĩa “ Phong trào hiến chương không tránh khỏi không tiến gần đến Chủ nghĩa Xã hội” (5,244). Tác phẩm này Ăngghen đã chỉ rõ rằng những người Xã hội Chủ nghĩa Anh đòi thực hiện dần dần chế độ công hữu tài sản trong những “Khu dinh nghiệp”. Trong những hạn chế của giai đoạn lịch sử đó cho nên giai cấp công nhân Anh chưa thể mường tượng ra hình thái kinh tế - xã hội mà họ cần xây dựng để thực hiện quyên công bằng của mình là như thế nào , bằng con đường nào, khi đó họ chưa có lý luận của giai cấp mình. Nhưng họ đã nhận thức được nhũng yêu cầu thực tiễn của mình như là “ Được hưởng quyền lợi giáo dục như nhau, đòi giảm nhẹ những thể lệ hôn nhân , đòi thiết lập một chính phủ hợp lý bảo đảm quyề tự do ngôn luận hoàn toàn, thay các hình phạt bằng sự đối xử một cách hợp lý với các phạm nhân” ( 5, 245). Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm này còn thấy rõ khi giai cấp công nhân muốn đưa ngay dân tộc vào tình trạng Cộng sản Chủ nghĩa. Có thể coi đây là là một quan điểm về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, nó đã cho ta thấy ngay từ khi chế độ phong kiến đang dần bị tiêu tan hoàn toàn, thay thế nó là sự xác lập, chiếm lĩnh và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhận thức được bản chất bóc lột giá trị thặng dư của bọn tư sản cho nên giai cấp công nhân đã muốn xây dựng nên một chế độ xã hội công bằn, tự do cho giai cấp mình, đó chính là hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh xã hội Anh lúc bấy giờ chỉ có giai cấp công nhân mới đủ điều kiện để tiến hành cuộc cách mạng này. Do mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tư sản và vô sản thì tất yếu sẽ diễn ra một cuộc cách mạng của giai cấp vô sản để lật đổ hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất bằng chế độ sở hữu tư nhân áp bức bóc lột cướp đoạt giá trị thặng dư của lao động thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, lật đổ trạng thái xã hội bất công hiện tại. Ăngghen khẳng định “ Chủ nghĩa xã hội thực sự vô sản, thứ Chủ nghĩa xã hội đã trải qua phong trào hiến chương, đã trút bỏ được những yếu tố tư sản, hiện đang phát triển ở rất nhiều Xã hội Chủ nghĩa và người lãnh tụ của phong trào hiến chương – hầu hết những người này đều là những người Xã hội Chủ nghĩa, Chủ nghĩa xã hội ấy không bao lâu nữa chắc chắn sẽ đảm nhiệm vai trò trọng yếu trong lịch sử của nhân dân Anh” ( 5,246). Nói tóm lại tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” tuy chưa phải là tác phẩm tiêu biểu để luận giải cho học thuyết hình thái kinh tế - hội Cộng sản Chủ nghĩa. Nhưng nó đã đóng góp một phần quan trọng trong lý luận chung của Mác và Ăngghen về xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp của giai cấp công nhân. Qua tìm hiểu, phân tích và nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Ăngghen sẽ có thêm cơ sở thực tiễn và lý luận cho việc hoàn thiện học thuyết Cộng sản Chủ nghĩa trong tương lai. Điều đó có ý nghĩa to lớn đối với những người giảng dạy nghiên cứu lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học, lý luận chính trị vô sản và chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Đối với nước ta hiện nay,việc nghiên cứu tác phẩm có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức, xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm hoàn thiện bước quá độ tiến lên xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và Cộng sản Chủ nghĩa. Đảng đưa ra các chính sách phải xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của nhân dân. Lãnh đạo đảng và nhà nước phải là những người ưu tú nhất,có cả tâm và tài, tự nhận thức được vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Kim chỉ nam cho mọi hành động là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng một nhà nước Việt Nam vững mạnh, công bằng và văn minh. 2.3. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” (1851) 2.3.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Đến giữa thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra ở nhiều quốc gia châu Âu, quan hệ sản xuất Tư bản Chủ nghĩa vẫn còn khả năng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp. Nhưng vào năm 1847 – 1848 Chủ nghĩa Tư bản châu Âu lại bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế trong công nghiệp và thương nghiệp, cũng vào trong thời kỳ này, nạn mất mùa trong nông nghiệp càng làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Toàn bộ tình hình đó đã dẫn đến cao trào cách mạng trên khắp các lục địa. Nhưng từ năm 1850, kinh tế châu Âu lại lại bước nhanh vào thời kỳ phồn thịnh do đó các thế lực phản động lại có điều kiện giành được địa vị thống trị Ở Pháp lúc bấy giờ tình hình xã hội tương đối phức tạp , mâu thuẫn giai cấp chằng chịt và rất khó giải quyết. Trong tình hình đó ngày 2 tháng chạp năm 1851 một sự kiện không bình thường diễn ra ở Pháp, đó là những phần tử theo Tổng thống Lui Bônapac đã làm cuộc đảo chính, giải tán Quốc hội, thiết lập chế độ độc tài, Lui Bônapac tự xưng là Hoàng đế. Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về sự kiện này. Trong hoàn cảnh đó bằng khả năng thiên tài của mình mà Mác đã viết tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” nhằm giải thích đúng đắn sự kiện đã diễn ra và vạch ra bản chất xấu xa phản động của Lui Bônapac với một thái độ khinh miệt. 2.3.2. Nội dung về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”. Tới tác phẩm này thì những nôi dung lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã có bước phát triển hơn so với tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” . Tư tưởng chung của Mác trong tác phẩm là toàn bộ diễn biến của cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp đã tạo ra những điều kiện và hoàn cảnh để Lui Bônapac – một tên bịp bợm lại đóng vai anh hùng. Những cuộc đấu tranh ấy phản ánh những đối kháng giai cấp ở Pháp đã đạt tới giai đoạn mà mọi sự phát triển hơn nữa của cách mạng sẽ kéo theo sau nó việc thực hiện những nội dung và biện pháp Xã hội Chủ nghĩa. “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” luận giải rõ hơn các hình thức, thể chế chính trị xã hội trước khi hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời. Đó là sự lựa chọn nhà nước cộng hòa hay dân chủ của bọn tư sản, mục đích của chúng cũng chỉ là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp mình. Nhưng cuối cùng thì những hình thức nhà nước đó sớm muộn cũng sẽ bị tiêu tan và mất đi. Giai cấp tư sản hình thành các khối liên minh, tuy nhiên đồng thời giai cấp công nhân cũng có những khối liên minh của giai cấp mình “ Đối lập với khối liên minh tư sản đã hình thành khối liên minh giữa những người tiểu tư sản và công nhân, tức cái gọi là đảng dân chủ - xã hội” (3,182). Trong hoàn cảnh nước Pháp lúc đó, với tình hình chính trị phức tạp. Các đảng phái, các tư tưởng khi bàn về các vấn đề kinh tế xã hội đều co kết luận cuối cùng là Chủ nghĩa Xã hội nhưng bản thân họ lại không biết được bản chất thực sự của Chủ nghĩa Xã hội là như thế nào. Họ cho rằng “ Làm một con đường sắt ở chỗ đã có sông đào rồi đó là Chủ nghĩa Xã hội. Dùng một cái gậy để tự bảo vệ khi người ta cầm gươm đâm chém mình, đó cũng là Chủ nghĩa Xã hội” ( 3,199). Tuy vậy, thông qua thực tiễn lịch sử lúc đó thì giai cấp tư sản đã dần hiểu ra những cái gọi là tự do công dân và thiết chế tiến bộ đều đe dọa tới sự thống trị của giai cấp tư sản. Vì vậy lẽ tự nhiên là sẽ có một hình thái mới thay thế cho hình thái xã hội đương thời, đó chính là hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa “ Giai cấp tư sản đã nhìn thấy rất đúng rằng các bí quyết của Chủ nghĩa Xã hội là ở trong sự đe dọa và tấn công ấy, nó đánh giá ý nghĩa và xu hướng của Chủ nghĩa Xã hội đúng hơn cả chính ngay cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội tự đánh giá mình” ( 3,200). Vậy ở đây Mác đã nhận định rằng sự thay thế của Chủ nghĩa Cộng sản đối với tư bản là đúng quy luật lịch sử, là điều sớm muộn sẽ xảy ra. Tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức lý luận và những hoạt động thực tiễn của giai cấp sẽ đảm nhận vai trò quyết định trong tiến trình xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Sự khủng hoảng của nền kinh tế Tư bản Chủ nghĩa sẽ có tác động sâu sắc và to lớn tới sự tồn tại hay tàn lụi của chế độ chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm này có đề cập tới cuộc tổng khủng hoảng thương nghiệp ở Pháp. Nó đã khiến cho giai cấp tư sản Pháp hoảng loạn, lung lay. Bên cạnh đó là những tin đồn về chính biến, các cuộc đấu tranh chính trị, họ đã sợ tới mức phát điên và phải thét vào mặt của chế độ mình “ Một sự kết thúc khủng khiếp còn hơn là một sự khủng khiếp không bao giờ kết thúc” (3,249). Kết thúc của phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa sẽ là mở đầu cho cho sự xác lập phương thức sản xuất Cộng sản Chủ nghĩa, là cơ sở cho hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chính sự khủng hoảng trong việc lựa chọn hình thức chính trị, chế độ chính trị khi mà giai cấp tư sản muốn xác lập sự thống trị của giai cấp mình. Nó chứng minh rằng sự thống trị của giai cấp tử sản sẽ là không bền vững , luôn biến động, bởi nó chỉ bảo vệ lợi ích của bọn tử bản – chiếm số ít trong xã hội. Đòi hỏi loài người phải xây dựng một hình thức, một chế độ mà nó có thể tồn tại vĩnh viễn, đem lại lợi ích cho toàn xã hội, đó chính là chế độ Cộng sản Chủ nghĩa. Tư tưởng về xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm này là bắt nguồn từ việc khi Lui Bônapac nắm quyền lãnh đạo nhà nước, mà Lui Bônapac lại là đại biểu của tầng lớp tiểu nông – là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội Pháp lúc đó. Nhưng sau đó tầng lớp tiểu nông dần nhận ra lợi ích của giai cấp mình không thể hòa hợp với lợi ích của giai cấp tư sản như dưới thời Na-pô-lê-ông nữa mà nó đã mâu thuẫn với lợi ích của của giai cấp tư sản, của nhà tư bản, “ Người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là bạn đồng minh, là người lãnh đạo tự nhiên của mình” ( 3,269). Đây là một luận điểm tạo thành yếu tố rất quan trong trong quá trình xây dựng hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Bởi nó chỉ thành công nếu được sự ủng hộ của nhân dân lao động. Do vậy hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa thay thế cho xã hội tư sản đương thời chỉ còn là vấn đề thời gian. Vậy ở tác phẩm này những lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã được thể hiện sâu sắc và đầy đủ hơn so với tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, nếu như ở tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” có đề cập đến một xã hội khác với xã hội tư bản đương thời nhưng lại chưa luận giải được sâu sắc, đầy đủ cách thức để xây dựng thành công xã hội đó. Đến tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” đã làm rõ hơn lý luận về cộng sản chủ nghĩa. Từ thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1851, Mác đã tổng kết các sự kiện lịch sử chính trị lớn ở Pháp. Đồng thời bổ sung và phát triển những nguyên lý lý luận cho học thuyết Cộng sản Chủ nghĩa. Những vần đề lý luận đó cho đến ngày nay vẫn còn giá trị to lớn và đòi hỏi giai cấp vô sản và Đảng của nó phải vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình như vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề nhà nước, vấn đề cách mạng Xã hội Chủ nghĩa, vấn đề xây dựng khối liên minh giai cấp công nhân với đa số nhân dân lao động khác như : nông dân, tri thức, thợ thủ công. Đối với Việt Nam, tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt đối với việc thực hiện nhiệm vụ trong công cuộc cách mạng nước nhà về mọi mặt. hoàn thành mục tiêu quá độ lên xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản. Muốn lam được điều đó phải thực hiện các biện pháp phát triển đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. chống tệ nan quan liêu, tham nhũng, mua chức mua quyền. Dù là trong thời bình vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng chống lại mọi âm mưu diễn biến hòa bình của bọn phản động. lợi ích của giai cấp thống trị lãnh đạo phải đồng nhất với lợi ích của toàn dân. Đảng lãnh đạo phải tạo được niềm tin và nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Tác phẩm là một bài học tiêu biểu về sự lựa chọn thể chế chính trị của một nhà nước, là bài học về nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. 2.4. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta” ( 1875) 2.4.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. “Phê phán cương lĩnh Gôta” là một trong những tác phẩm quan trọng của C.Mác, trong đó chứa đựng những nội dung có tính chất nguyên tắc được tổng kết, đúc rút liên quan đến sự phát triển lý luận của Mác về Chủ nghĩa xã hội khoa học và về học thuyết kinh tế của người trong suốt chặng đường khoảng 30 năm kể từ khi ông viết Tuyên ngôn. Mác viết tác phẩm vào ngày 5/5/1875, thời kỳ sau công xã Pari này phong trào công nhân phát triển mạnh ở đức. Điều này có vai trò của Đảng dân chủ xã hội Đức. Đó là đội ngũ mạnh nhất và có tổ chức nhất của phong trào xã hội Chủ nghĩa quốc tế. Đảng này giành được sự kính trọng của công nhân các nước và được thừa nhận như là sự tiên phong của giai cấp vô sản quốc tế. Thành tích của Đảng dân chủ xã hội Đức rất lớn. Trong những năm chiến tranh Pháp Phổ, họ đã thể hiện rõ lập trường quốc tế của mình. Trong thời kỳ công xã Pari, Đảng đã đấu tranh anh dũng để bảo vệ công xã. Ở trong nước dù thường xuyên bị khủng bố nhưng Đảng đã hoạt động rất linh hoạt và có kết quả trong lãnh đạo công đoàn: tổ chức xuất bản báo chí của Đảng, tham gia vào bầu cử quốc hội, sử dung khéo léo diễn đàn trong quốc hội để vạch trần chế độ độc tài Bixmac tuyên truyền cho tưởng Chủ nghĩa xã hội cách mạng. Cũng thời gian này phong trào công nhân ở đức có sự phân biệt bởi cùng tồn tại bên cạnh Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức là tổ chức hội công nhân toàn Đức. Không phải chỉ có hội công nhân mới ảnh hưởng tưởng Latxan mà cả Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức cũng bị ảnh hưởng, kể cả một số lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình phân biệt của phong trào công nhân Đức ấy đã có nhiều ý kiến yêu cầu thống nhất hai tổ chức trên. Thế là hai tổ chức này đã quyết định thống nhất lại. Để chuẩn bị cho đại hội thống nhất sẽ diễn ra ở Goota các nhà lãnh đạo hai tổ chức soạn thảo một cương lĩnh, bản soạn thảo này có gửi cho Mác góp ý kiến. Mác và Ăngghen lúc đó đang ở Anh các ông rất quan tâm và chăm lo tới phong trào công nhân Đức. Nó được thể hiện bằng nhiều hình thức: động viên thắng lợi của phong trào tuyên truyền lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học vào Đức, đưa ra đòi hỏi cao và nghiêm khắc đối với các lãnh tụ Đảng, không bỏ qua và góp ý thẳng thắn đối với những sai lầm trong sách lược đường lối của Đảng. Nhận được bản dự thảo cương lĩnh Mác đã nhận thấy cương lĩnh đầy rẫy những sai lầm, bởi nó ảnh hưởng và thỏa hiệp nhiều tư tưởng của phái Latxan, xa rời quan điểm khoa học của phong trào vô sản. Mác nói:”một cương lĩnh mà tôi tin chắc là hoàn toàn vô dụng, và đang làm cho đảng bị mất tinh thần”[6,468]. Do vậy Mác đã khuyên công nhân Đức không vội vã thống nhất tổ chức. Lúc này hay nhất là chỉ nên ký một bản thỏa hiệp đồng chung chống kẻ thù của hai Đảng mà thôi. Từ sự khuyên nhủ này, Mác đẫ có một nhận định nổi tiếng: “một bước tiên phong của phong trào thực sự còn quan trọng hơn một tá cương lĩnh”[6,396]. Một mặt khuyên nhủ như vậy, mặt khác ông đã viết lời nhận xét bản dự thảo cương lĩnh mà hai đảng đã gửi tới. Bất chấp sự khuyên nhủ của Mác hai đảng vẫn tổ chức đại hội thống nhất tại Gôta vào ngày 22 đến 27/5/ 1875 với bản cương lĩnh sự thảo và rất ít chú ý đến những nhận xét của Mác. Bản nhận xét của Mác đã trổ thành một tác phẩm nổi tiếng, bút chiến chống chủ nghĩa cơ hội với cái tên”phê phán cương lĩnh Gôta” là tài liệu kinh điển của chủ nghĩa Mác nói chung.(mãi đến năm 1891 tác phẩm mới có dịp được in). 2.4.2. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”(1875). Tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta” ra đời sau “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” nên nó có bước phát triển cao hơn về lý luận. Những quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được Mác củng cố và bổ sung trong tác phẩm này. Tác phẩm chia làm bốn giai đoạn, qua phê phán cac quan điểm sai lầm của cương lĩnh Gôta, đem đến cho chúng ta những nội dung đáng lưu ý. Trong đó học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được thể hiện rõ, lần đầu tiên Mác đề cập khá chi tiết đến thời kỳ quá độ lên Cộng sản Chủ nghĩa và cũng là lần đầu tiên Mác đưa ra và luận chứng đầy đủ lý luận về sự phân lý hai giai đoạn hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Thông qua việc phê phán quan điểm của cương lĩnh về vấn đề lao động, phân phối sản phẩm Mác đã chỉ ra sự bất bình đẳng trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa và cũng chỉ ra điều kiện để hình thành hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Cương lĩnh viết “ Lao động là nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn hóa, và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội, cho nên thu nhập do lao động để lại thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội không bị cắt xén”. Đây là luận điểm không đầy đủ và sai lầm của Látxan. Theo Mác, tầm của cương lĩnh phải diễn đạt là “ giới tự nhiên cũng như lao động là nguồn gốc của những giá trị sử dụng” (6,503). Trong xã hội tư bản thì tư liệu sản xuất lại do một số người nắm , còn những người khác chỉ độc có sức lao động đã trở thành nô lệ. Mác chỉ ra tính chất sai lầm và phản động của phái Látxan khi quan niệm về cái gọi là “ quy luật sắt của tiền lương”, theo đó như là một ảo tưởng về cải thiện điều kiện lao động của người công nhân. Mác chỉ ra quan điểm đòi phân phối “ cho mọi thành viên không bị cắt xén theo những nguyên tắc ngang nhau” là không thể có được,đó là quan điểm mị dân của các tầng lớp bóc lột. tất cả những luận điểm của Mác đưa ra đã thấy được tính chất bất bình đẳng trong xã hội tư bản và tư tưởng phản động của phái Látxan. “Muốn thay đổi một cách căn bản tình trạng của xã hội hiện tại không có con đường nào khác là giai cấp vô sản phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản và thay thế nó bằng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất’ [ 6,19]. Mác chỉ ra tính chất phản động trong quan niệm của phái Latxan và đồng bọn khi cho rằng “ việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối diện với giai cấp này là tất cả các giai cấp khác chỉ hợp thành một khối phản động” [6,514]. Mác cho rằng khái quát này của cương lĩnh thật phi lý, bởi mỗi giai cấp có vị trí xã hội và tính chất lịch sử khác nhau. Lúc này giai cấp tư sản được coi là giai cấp cách mạng hơn so với giai cấp phong kiến, tuy nhiên “ giai cấp vô sản lại cách mạng hơn so với giai cấp tư sản, vì bản thân nó là con đẻ của đại công nghiệp, muốn giải phóng lực lượng sản xuất ấy tức muốn cho nền sản xuất trút bỏ cái tổ chức tư bản chủ nghĩa” [6,515]. Mác khẳng định cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân “ có tổ chức dân tộc không phải về mặt nội dung của nó mà về mặt hình thức của nó” [6,516]. ở đây Mác đã đề cập đến tính chất quốc tế của giai cấp công nhân, nó là một tất yếu vì chủ nghĩa tư bản cũng mang tính quốc tế và công nhân quốc tế phải có sự phối hợp hoạt động thực tế chứ không phải chỉ bằng lời nói suông. Đây là điều kiện tốt và cần thiết để Chủ nghĩa Cộng sản có thể thiết lập trên toàn thế giới. Trong tác phẩm, Mác chỉ ra con đường giải phóng cho giai cấp công nhân cũng như là giải phóng toàn xã hội để tiến lên xã hội mới tiến bộ hơn. Không chỉ đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế mà còn đấu tranh tren lĩnh vực chính trị, tư tưởng mới có thể tự giải phóng hoàn toàn, lật đổ chế độ Tư sản và thiết lập Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích những sai lầm của phái Latxan thì lần đầu tiên Mác nói đến thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Cộng sản “ giữa xã hội Tư sản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị” [6,524]. Mác đưa ra tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Cộng sản, hai thời kỳ này khác nhau về chất nên phải có một giai đoạn chuyển tiếp. mác chỉ ra đặc điểm của thời kỳ quá độ, thứ nhất mác đề cập đến thời kỳ quá độ chỉ có thể bắt đầu nhờ cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo,thứ hai mác đề cập đến nội dung kiên quyết chủ yếu nhất là chính trị, phải thiết lập được chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và từng bước thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, thứ ba trong thời kỳ ấy sự đan xen, tồn tại bên cạnh nhau giữa cái cũ và cái mới tạo nên tính chất khó khăn phức tạp, làm nên tính chất quá độ của sự chuyển biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia.đó là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. “ xã hội mới thoát thai từ Chủ nghĩa Tư bản, một xã hội về mọi phương diện kinh tế , đạo đức , tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó mới lọt lòng ra [ 3,510], “ trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Cộng sản tất yếu tồn tại một nhà nước và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [6,524]. Với “ Phê phán cương lĩnh Gôta” lần đầu tiên Mác đã nêu ra và luận chứng một cách rõ ràng lý luận về sự phân kỳ của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Lý luận trở thành đặc trưng của tác phẩm và của chủ nghĩa Mác, đó là sự dự đoán về xã hội tương lai,lý luận về hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa . Mác cho biết, xã hội tương lai thay thế xã hội Tư bản Chủ nghĩa là xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, xã hội đó “ tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”[6,510]. Xã hội này phát triển qua hai giai đoạn “ giai đoạn đầu không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cở sở của chính nó hoặc là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa và giai đoạn cao hay xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó”[6,510]. Mác dự đoán những đặc điểm của giai đoạn đầu của Chủ nghĩa Cộng sản đó là một xã hội mà về mọi phương diện mang dấu vết của xã hội cũ mà nó mới lọt lòng ra. Giai đoạn Chủ nghĩa Xã hội là cần thiết , một sự vận động nhằm thực hiện cải biến cách mạng cho sự xác lập hoàn toàn hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa . Mác chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai đoạn này, trước hết là về kinh tế , điển hình trong phân phối “ ở giai đoạn đầu, sự phấn phối cho người lao động sau khi đã khấu hao và trừ đi những đóng góp cần thiết thì thực hiện theo chế độ phân phối lao động [6,511]. Đó là kiểu phân phối tiến bộ hơn sự phân phối trước đó. Nhưng trong thực tế sự bình đẳng vẫn nằm trong “ khuôn khổ tư sản”, “ quyền tư sản”, “ về nguyên tắc cái quyền ngang nhau đó bao giờ cũng vẫn còn bị giới hạn trong khuổn khổ tư sản”[6,511], nghĩa là còn thiếu sót, chưa thực sự ngang nhau, vẫn tạo ra sự phân hóa xã hội nhất định. Kiểu phân phối này muốn tránh khỏi thiếu sót phải tiến lên thực hiện phân phối theo nhu cầu, nghĩa là ở giai đoạn cao của cộng sản chủ nghĩa, còn ở “giai đoạn thấp thì không thể tránh khỏi lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau nhiều cơn đau đẻ dài”[6,513]. Nhà nước đề ra các chính sách nhằm phát triển sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng. sau đó là đặc trưng về xã hội chính trị, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản nhằm thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội, phát triển khoa học giáo dục nhằm nâng cao dân trí cho công nhân và nhân dân lao động. Lần đầu tiên, Mác giành sự chú ý đặc biệt đưa ra các dự báo, các phác thảo khoa học nghiêm túc về Chủ nghĩa Cộng sản ở giai đoạn cao. Nói là dự báo, là phác thảo vì thời kỳ đó chưa thể và không thể có các dữ liệu, cứ liệu thực tế cho các phân tích khoa học về Cộng sản Chủ nghĩa. Nhưng những dự báo đó mang tính khoa học bởi ngoài kinh nghiệm của công xã Pari, phân tích từ thực tiễn Chủ nghĩa Tư bản và hoạt động của các đảng phái công nhân. Mác chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận vững chắc của mình đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử ( trực tiếp là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ), học thuyết giá trị thặng dư…trong hoạt động khoa học, hoạt động nghiên cứu và sáng tạo lý luận thì điều đó là bình thường là hoàn toàn có thể. Về sản xuất vật chất, đó là thời kỳ xã hội phát triển dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất tiên tiến với một lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ và tính chất xã hội hoàn toàn một nền khoa học công nghệ phát triển đến mức năng suất cao chưa từng có . Tương ứng và phù hợp với tính chất và trình độ ấy của lực lượng là một quan hệ sản xuất mà mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về xã hội. thứ hai là về phân phối và tiêu dùng vì của cải vật chất làm ra dồi dào nên quan hệ phân phối trong xã hội cộng sản được thực hiện chủ yếu dựa trên nguyên tắc “ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”, “trong một giai đoạn cao hơn của xã hội Cộng sản Chủ nghĩa khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch khi mà con người và sự phân công lao động của họ không còn nữa và cùng với nó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng không còn nữa khi mà lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống và cùng sự phát triển toàn diện của tất cả các cá nhân , sức sản xuất của họ cũng đầy lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cỏ của mình : làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [6,513]. Thứ ba về vấn đề chính trị xã hội thì trong giai đoạn này “ mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính trị bắt nguồn từ những sự khác biệt giai cấp, tự chúng không còn nữa” [6,521]. Con người trong xã hội cộng sản là con người phát triển một cách toàn diện, mọi người và mỗi người đều có điều kiện trau dồi, phát huy mọi tài năng, mọi khả năng, sở thích mà mình có, về giáo dục thì “ gạt bỏ mọi ảnh hưởng của chính phủ cũng như giáo hội đối với nhà trường” [6,527], “mỗi người được thỏa mãn những nhu cầu của mình về tôn giáo và thể xác” [6,528]. Nhà nước giai đoạn này như thế nào thì mác thận trọng cho biết chắc chắn nó sẽ biến đổi. “còn biến đổi ra sao, có chức năng nào giống như chức năng của nhà nước hiện nay thì cần phải giải đáp một cách khoa học chứ không thể tùy tiện trả lời, tùy tiện ghép vào một bất kỳ tính từ nào” [6,527]. Như vậy trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, mác đã vạch ra hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là điểm tiến bộ hơn hẳn so với các tác phẩm trước. Theo Lênin, để xác định hai giai đoạn của Cộng sản Chủ nghĩa Mác đã không bám vào những định nghĩa tưởng tượng có tính chất giả tạo, không bám vào những cuộc tranh luận vô ích về danh từ. trái lại mác dựa vào hoàn toàn sự phân tích một cách khoa học những trình độ chín muồi về kinh tế và văn hóa Chủ nghĩa xã hội : những nguyên tắc phương pháp của Xã hội Chủ nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa cũng hoàn toàn do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định chứ không phải ý muốn chủ quan của một người lãnh đạo hoặc những khả năng pháp lý nào mà có được. Nói tóm lại đây là tác phẩm mẫu mực về luận chứng khoa học, kiên quyết và thể hiện tấm gương không nhân nhượng về lý luận trước những quan điểm phi Macxit. Tác phẩm nhắc nhở công tác Đảng rằng phải thống nhất các tổ chức đảng để thống nhất lực lượng là điều cần thiết nhưng phải đúng lúc và có nguyên tắc. phải có quan điểm lý luận chính trị đúng đắn bởi nếu chưa có điều kiện đó thì chỉ nên ký một bản thỏa hiệp mà thôi. Lý luận về hai giai đoạn của Cộng sản Chủ nghĩa mang ý nghĩa phương pháp luận rất cao, trên cơ sở đó mà các đảng cầm quyền cần có sự phát triển lý luận và đường lối trong việc xác định những giai đoạn cụ thế của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Cã hội. trong thời đại ngày nay,sự hình thành và ngày càng lớn mạnh của hệ thống Cã hội Chủ nghĩa thế giới đã chứng minh hết sức rực rỡ giá trị khoa học to lớn của tác phẩm. Toàn bộ những luận điểm của Mác nêu ra trong tác phẩm ấy vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, vẫn là kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Macxit trong quá trình cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa Xã hội 2.5.Nội dung học thuyết hình thái kinh tế xã hội trong tác phẩm “ nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”( 1884). 2.5.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Mác đã đọc và ghi những nhận xét của mình về cuốn sách “ Xã hội thời cổ hay các cuộc khảo cứu những con đường tiến bộ của loài người từ thời đại mông muội qua thời đại dã man đến thời đại văn minh” của Moocgan. Sau khi Mác qua đời vao năm 1884 Ăngghen đã tìm thấy bản thảo “ tóm tắt tác phẩm của L.Moocgan” của Mác. Từ bản thảo đó, kết hợp với kết quả của những nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học về hình thức xã hội tiền tư bản, các công trình nghiên cứu của bản thân ông trong nhiều năm về lịch sử Hi lạp và Roma. Ngoài ra tác phẩm còn là sự tưởng nhớ của Ăgghen đối với Mác. Cho nên Ăgghen đã quyết định viết tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước” từ tháng 3 đến tháng 5/1884. 2.5.2. Nội dung học thuyết hình thái kinh - tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”. Tác phẩm là sự phân tích một cách khoa học về lịch sử loài người, về chế độ sở hữu, về các hình thái - xã hội trong lịch sử loài người. Đặc biệt Ăngghen vạch rõ nguồn gốc, bản chất của nhà nước, vạch ra quy luật tất yếu của sự phát triển sản xuất,sự phát triển kinh tế sẽ tiến tới xã hội tương lai – xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Trong xã hội đó chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước sẽ không còn nữa, con người được tự do, bình đẳng và phát triển toàn diện. Trong tác phẩm Ăgghen đã xây dựng nên nội dung cơ bản góp phần làm hoàn chỉnh hơn nữa học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Nói về xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, Ăgghen đã nhắc lại lời của Moocgan “ Dân chủ trong công việc quản lý, hữu ái trong xã hội, bình đẳng về quyền lợi, giáo dục phổ thông, tất cả những thứ đó sẽ thần thánh hóa giai đoạn cao sắp tới của xã hội mà kinh nghiệm,lý trí và khoa học đang không ngừng vươn tới” [4,164-165]. Chế độ Tư bản Chủ nghĩa ra đời là một bước tiến vượt bậc của nhân loại, tuy nhiên ngay sau khi mới ra đời nó đã chứa đựng những mâu thuẫn kinh tế và xã hội gay gắt do sự bất bình đẳng trong xã hội mà nguyên nhân chính là mâu thuậ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cho nên chế độ Tư bản Chủ nghĩa sớm muộn sẽ bị tiêu vong, thay thế cho nó là hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Ngoài ra hôn nhân và gia đình cũng là một biểu hiện của hình thái kinh tế - xã hội mà nó tồn tại. trong chế độ tư bản, hôn nhân tồn tại dựa vào lợi ích kinh tế, nhưng sang Chủ nghĩa Cộng sản hôn nhân là dựa trên tình yêu lứa đôi. Gia đình trong chế độ Cộng sản Chủ nghĩa là gia đình cặp đôi – hình thức gia đình đặc trưng của thời đại văn minh. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa còn được Ăngghen lý giải một cách sâu sắc khi bàn về nguồn gốc của chế độ tư hữu và của nhà nước. Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ thì ATEN được coi là một nhà nước dân chủ nhất, ở đó mỗi công dân ATEN đều có quyền tham gia và biểu quyết. Khi đó ở ATEN “ sự đối kháng giai cấp – cơ sở của các thiết chế xã hội xã hội và chính trị không còn là một sự đối kháng giữa quý tộc và bình dân nữa mà là sự đối kháng giữa nô lệ và dân tự do” [4,179]. Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, sự phân công lao động phải phù hợp với năng lực và nhu cầu tham gia sản xuất của cá nhân. Đó là điều cần thiết để đảm bảo ổn định xã hội. Ăngghen nhận thấy rằng trong thời kỳ này. Khi con người bắt đầu bước vào thời đại văn minh đã có sự phân công lao động dù khi đó nó chỉ mang tính chất tự nhiên. Tuy nhiên nó đã có sự phân công rõ ràng giữa người đàn ông và đàn bà “ kinh tế gia đình được tiến hành theo những nguyên tắc Cộng sản với vài gia đình, thường là với một sơ lớn gia đình”[4,237]. Một quan điểm rất tương đồng với sự phân phối trong Cộng sản Chủ nghĩa, đó là “ cái gì cùng nhau làm ra và dùng chung, cái đó là tài sản chung như nhà cửa, vườn tược và thuyền độc mộc” [4,237]. Ănghen theo đó khẳng định “ vậy thì ở đây và chỉ ở đây thui, mới thực sự có sở hữu kết quả của lao động cá nhân” [ 4,237]. Trong lịch sử muốn chuyển từ hình thái này sang hình thái khác tiến bộ hơn thì cần phải có sự thay đổi cơ bản trong lao động sản xuất,trong quan hệ sản xuất. Ăngghen đã luận giải rằng do nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần cho nên chế độ thị tộc, công xã đã có những sự thay đổi lớn trong phân công xã hội “ trong những điều kiện lịch sử lúc đó, sự phân công xã hội lớn đầu tiên. Do tăng năng suất lao động , tức là tăng của cải và do mở rộng lĩnh vực hoạt động sản xuất, nhất định phải đưa đến chế độ nô lệ”[4, 240 ]. Tương tự như vậy, khi Chủ nghĩa Tư bản dần chuyển sang Chủ nghĩa Cộng sản thì cũng cần phải có điều kiện lịch sử phù hợp đó là thay đổi quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Chủ nghĩa Tư bản để dần phù hợp với Chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản là xã hội mà nam nữ đều bình đẳng, phụ nữ được đối xử công bằng và được coi trọng như đàn ông. Hôn nhân phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc một vợ một chồng. và điều đó chỉ được thực hiện trong xã hội của Cộng sản Chủ nghĩa. Ăngghen đã luận giải con người phát triển từ thời đại dã man tới thời đại văn minh đã trải qua ba sự phân công lao động lớn. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, để duy trì được sự ổ định xã hội đó thì như Ănghen đã khẳng định là cần phải có sự phân chia dân cư phù hợp, phải thiết lập được quyền lực công cộng. Trong xã hội Cộng sản Chủ nghĩa,quyền lực công cộng chính là nơi mà mọi người dân đều được thể hiện quyền tự do và quyền phát triển năng lực cá nhân. Cần phải quản lý xã hội thông qua thuế má, sau đó là phát hành công trái. Từ Chủ nghĩa Tư bản sang Chủ nghĩa Cộng sản là cả một quá trình chuyển biến lâu dài về mọi mặt của xã hội. Trong đó việc lựa chọn hình thức nhà nước như thế nào là điều căn bản nhất. Tuy nhiên phải tránh hình thức Cộng hòa Dân chủ mà ở đó chỉ bảo vệ cho những người có tài sản, như thế sẽ chỉ là nhà nước của của Tư bản Chủ nghĩa, của giai cấp Tư sản. Cộng sản Chủ nghĩa sẽ phải sáng suốt lựa chọn một hình thức nhà nước dân chủ công bằng nhất, tạo tiền đề và điều kiện cở bản nhất cho sự phát triển đi lên của chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy mà Ăngghen đã kết luận rằng “ Hình thức cao nhất của nhà nước, tức chế độ cộng hòa dân chủ, một hình thức nhà nước đang ngày càng trở thành một tất yếu không thể tránh khỏi trong những điều kiện xã hội ngày nay của chúng ta, một hình thức nhà nước mà chỉ có trong đó cuộc chiến đấu quyết định cuối cùng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản mới có thể tiến hành đến cùng – chế độ cộng hòa dân chủ đó không chính thức thừa nhận sự chênh lệch về của cải nữa’ [4,256]. Vậy giữa Tư bản Chủ nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa là một bước chuyền về hình thái kinh tế xã hội liên tiếp nhau cho nen giai cấp công nhân – người có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành công Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản cần phải có tư tưởng vững vàng để lựa chọn con đường đúng đắn và phù hợp nhất cho việc hiện thực hóa lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Học thuyết mác – Lênin khẳng định giai cấp vô sản sẽ là lực lượng tiên phong là lãnh đạo trong công cuộc thực hiện sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Cho nên trước hết muốn làm được điều đó thì giai cấp vô sản cần phải có sự nhận thức và hiểu biết cao về mọi lĩnh vực xã hội, phải hiểu rõ tình hình lịch sử và xã hội, phải có đảng, có tổ chức lãnh đạo của giai cấp mình, có những đại biểu tiên tiến ưu tú. Có tư tưởng xã hội tiến bộ hơn giai cấp tư sản, không còn bị giai cấp tư sản áp bức nữa “ chừng nào giai cấp bị áp bức - ở đây là giai cấp vô sản chưa trưởng thành đến mức đủ để tự giải phóng mình, thì đa số trong giai cấp họ sẽ còn xem chế độ xã hội hiện hành là chế độ duy nhất có thể có được và về mặt chính trị, họ sẽ là cái đuôi của giai cấp các nhà tư bản và hình thành cánh cực tả của giai cấp ấy. nhưng chừng nào giai cấp vô sản càng trưởng thành để có thể tự giải phóng mình thì họ sẽ tụ tổ chức thành một đảng riêng biệt, bầu ra những đại biểu của riêng mình chứ không phải các đại biểu của các nhà tư bản” [4,257]. Vậy ngay trong hoàn cảnh lịch sử đương thời đó Ăngghen đã nhận thức và luận giải rất đúng đắn về vai trò của giai cấp công nhân cũng như tin vào sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Một luận điểm cơ bản rất tiến bộ về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa mà Ănghen đã trình bày trong tác phẩm chính là sự tồn tại hay tiêu vong của nhà nước. Khi nhà nước tự tiêu vong, giai cấp cũng không còn mà xã hội vẫn phát triển tiến bộ thì đó chính là mục đích cuối cùng của xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Trong lịch sử đã có những xã hội mà không cần đến nhà nước và chính quyền mà nó vẫn tồn tại, nhưng do quy luật phát triển của lịch sử nên sự xuất hiện giai cấp và nhà nước là không tránh khỏi. Tuy vậy, khi mà sản xuất và các quan hệ sản xuất ngày càng biến đổi, khi đó giai cấp không còn là sự tồn tại tất yếu. Khi đó nó đã trở thành trở ngại, sự cản trở cho phát triển giai cấp thì giai cấp buộc phải biến mất cũng như trong giai đoạn buộc phải xuất hiện, kéo theo nó là sự tiêu vong của nhà nước, khi đó “ xã hội sẽ tổ chức lại một nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thực sự của nó lúc bấy giờ, vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng” [4,258]. Vậy khi đó hình thái - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa sẽ không còn là lực lượng, là học thuyết mà nó đã trở thành hiện thực, thực tiễn. Nói tóm lại qua tác phẩm Ănghen đã trình bày một cách khoa học đầy sức thuyết phục về nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu, của sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự ra đời của nhà nước. đây là nguyên lý quan trọng của của chủ nghĩa xã hội khoa học. Bằng phương pháp duy vật lịch sử Ăngghen đã làm rõ quá trình hình thành, quá trình phát triển và sự tiêu vong của chế độ tư hữu sự phân chia giai cấp và nhà nước,sự hình thành các hình thức gia đình trong lịch sử, mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội. các lý luận đã tạo điều kiện, tạo niềm tin khoa học vào sự nghiệp cách mạng xóa bỏ ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa ư bản, xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Có quan hệ sản xuất mới , nhà nước mới của giai cấp công nhân và mối quan hệ mới trong gia đình. Ngày nay, tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” vẫn là “ cuốn sách gối đầu giường cho những người cộng sản giác ngộ”, trong đó có đội ngũ Đảng viên Đảng Cộng Sản việt nam. Nó đã chỉ ra con đường phát triển tất yếu của lịch sử là : chế độ Tư bản chủ nghĩa tất yếu được thay thế bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa thông qua cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tử bản chủ nghĩa – con đường mà chúng ta phải tập trung xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường. định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA TRONG CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT ĐÓ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 3.1 Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Việc nghiên cứu lý luận học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ đối với lịch sử đương thời mà nó co ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển theo quy luật lịch sử tự nhiên của loài người. Sẽ cho chúng ta hiểu biết thêm về các quá trình phát triển chung của xã hội loài người. Lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa chính là góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện lý luận chủ nghĩa mác lenin và sự vận dụng của nó đối với thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân, là lý luận cơ bản để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác và Ăngghen cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Đồng thời C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao; chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa bỏ... Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này.Lênin gọi giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là Chủ nghĩa Cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội Chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội Cộng sản. Nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa còn là sự lý luận với những tư tưởng thiên tài như Mác và Ănghen về các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử từ cộng sản nguyên thủy và đang quá độ sang Xã hội Chủ nghĩa – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế Cộng sản Chủ nghĩa. 3.2. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 3.2.1. Quan niệm về Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam. Chúng ta đều có thể nhận định rằng sự ra đời của Chủ nghĩa Xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế xã hội. Cho dù đến nay Chủ nghĩa Cã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà Chủ nghĩa Tư bản đã phát triển đến trình độ cao.Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất xét đến cùng, bao giờ cũng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận : Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và sự tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định : Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế xã hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn chõ rằng con người “ Có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Cùng với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội , Mác và Ăgghen cũng dự báo và khẳng định lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự, vừa phát triển theo con đường nhảy vọt. Sau này Lênin đã phát triển và bổ sung cho phát hiện này của Mác và Ăgghen, Lênin nhận định lên Chủ nghĩa Xã hội không qua chế độ Tư bản là một kiểu chế độ gián tiếp, phải trải qua “một bước quá độ trung gian”, đòi hỏi giai cấp vô sản phải tìm kiếm và sử dụng hàng loạt biện pháp quá độ đặc biệt. Trên cơ sở những luận điểm có tính chất nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam vào thập kỷ 30 của thế kỷ XX cho đến nay,cho phép chúng ta khẳng định : quá trình lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với thực tế lịch sử của thời đại, đó cũng là kết quả của việc nhận thức và vận dụng nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa của Mác và Ăgghen đã được trình bày trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”. Vận dụng sáng tạo những quan điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, tổng kết thực tiến quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hơn 20 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội Xã hội Chủ nghĩa “ Xã hội Chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước và nhân dân xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng xã hội văn minh, do dân làm chủ,có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, sụ bất công. Có cuộc sống tự do ấm no, hạnh phúc, phát triển toàn diện, các dân tộc bình đẳng đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới” [2,17 – 18]. Có thể xem đây là mô hình Chủ nghĩa Xã hội của Việt Nam, đặc trưng mô hình đó phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác - Lênin về Chủ nghĩa Xã hội. Tuy nhiên cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hóa. Trong công cuộc đổi mới nhờ sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mà nhà nước ta đã thu nhận được nhiều thành tựu to lớn. Khẳng định những thành tựu, song chúng ta không phủ nhận là đã có những lúc phạm sai lầm, khuyết điểm và đó cũng là điều hết sức tự nhiên. Bởi lẽ, Chủ nghĩa Xã hội là một công trình thử nghiệm xã hội vĩ đại, nó giống như bất kỳ một công trình khoa học vĩ đại nào, không thể một lần là đã thành công. Hơn nữa công trình xã hội vĩ đại đó lại diễn ra ở một quốc gia nông nghiệp mang nặng những dấu ấn đặc thù của “ phương thức sản xuất Châu Á”- nơi tồn tại của mô hình công xã nông thôn với sự trì trệ, kém phát triển về lực lượng sản xuất,cùng những quan hệ sản xuất công xã khép kín. Với một cơ sở kinh tế như vậy, khi quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội tất sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Song những điều đó không phải là trở ngại không thể vượt qua để xây dựng chế độ Xã hội Chủ nghĩa trên đất nước ta. 3.2.2. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam. Trước hết những thắng lợi to lớn và rất cơ bản của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX gắn liền và phụ thuộc vào nhân tố cơ bản là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản. Trong quá trình ấy nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường Xã hội Chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới, nhân dân từ địa vị nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm Chủ nghĩa Xã hội. đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trên thực tế chúng ta đã tạo lập được điều kiện chính trị tiên quyết thực hiện bước quá độ lên Chủ nghĩa Cã hội theo con đường phát triển bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa. Ngay từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền : miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội – hậu phương lớn của cách mạng miền nam. Đảng ta đã xác định rõ đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, bỏ qua giai đoạn Tư bản Thủ nghĩa. Những thành tựu của miền Bắc trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước xứng đáng là hậu phương lớn và có vai trò quyết định trong thắng lợi thống nhất đất nước. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước mở đầu chính thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Chúng ta nhận thức rõ hơn về “ thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội”, “ bỏ qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa”. Trong Đại hội IX của đảng “ Con đường đi lên ở nước ta là sự phát triển quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng Tư bản Chủ nghĩa,nhưng tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản, đặc biệt là khoa học và công nghệ, đẻ phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều tổ chức hình thức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ trong các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ” [1,84]. Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên thời kỳ quá độ nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong xã hội có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, con đường tư bản chủ nghĩa và con đường chủ nghĩa xã hội, đấu tranh quyết liệt chống âm mưu “ diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động. trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất , vị trí của các giai cấp trong xã hội thay đổi nhiều cùng sự biến đổi của kinh tế xã hội. lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. động lực là khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông – trí được đảng lãnh đạo. trong giai đoạn hiện nay để đi lên chủ nghĩa xã hội, để đạt được mục tiêu mà đại hội toàn quốc lần thứ X của đảng đã đặt ra. Chúng ta cần phải thực hiện những phương hướng và nhiệm vụ sau đây. Thứ nhất, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Củng cố khối liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dânb và đội ngũ tri thức, do đảng ta lãnh đạo làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về cả vật chất và tinh thần. Thứ ba,thiết lập từng bước quan hệ xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuât qua nhiều hình thức đa dạng về sở hữu, sử dụng tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước và quốc tế. phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo. đồng thời đấu tranh chống các tư tưởng phản động. Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, củng cố và mở rộng mặt trận tổ quốc việt nam. Thứ sáu, thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc chủ nghĩa xã hội. Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn đảng cộng sản việt nam theo phương châm phát triển kinh tế là trọng tâm,xây dựng, chỉnh đốn đảng là then chốt để đảng ta luôn trong sạch vững mạnh. Thứ tám, hợp tác giao lưu với các nước trên thế giới với tinh thần hợp tác, hữu nghị, có lợi, cùng phát triển về cả kinh tế và văn hóa. Hòa nhập chứ không hòa tan. Vậy trong cả quá trình cách mạng đấu tranh chống đế quốc cũng như là lựa chọn xây dựng và phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. đổi mới đất nước nhằm thực hiện thành công quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta. Đảng đã , đang và sẽ vận dụng sáng tạo lý luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tế trong nhiều năm qua Việt Nam đã giành được những thành quả đáng kể về tất cả mọi mặt của xã hội, trên nhiều lĩnh vực : nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội phù hợp,chăm lo đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần. ngày càng khẳng định vị trí của Việt Nam ở trong khu vực và trên thế giới. Chứng minh rằng lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với Việt Nam. KẾT LUẬN Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã tạo nên một bước ngoặt, một bước phát triển đặc biệt quan trọng đối với giai cấp vô sản nói riêng và sự phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cả về mặt lý luận và thực tiễn. Học thuyết đã đưa ra những luận điểm, quan niệm đúng đắn và chứng minh bằng những sự kiện, những luận cứ xác đáng về tiến trình phát triển của toàn nhân loại. Học thuyết chỉ ra cho toàn nhân loại về sự sụp đổ của chế độ Tư bản Chủ nghĩa và sự ra đời của chế độ cộng sản chủ nghĩa là tất yếu khách quan chứ không phải là do ý muốn chủ quan của bất kỳ ai, của bất kỳ người lãnh đạo nào. Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa hoàn cảnh quốc tế và những nhân tố bên trong của giai cấp công nhân mỗi quốc gia, dân tộc. xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một quá trình phát triển kinh tế xã hội lâu dài qua nhiều bước lâu dài, qua nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi và thử nghiệm để tìm cách lý giải và giải quyết những vấn đề do thực tiễn lịch sử đặt ra. Đồng thời tổng kết khái quát bổ sung vào lý luận chung của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng phong phú và hoàn thiện. Ngay từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá và áp dụng vào Việt Nam. Qua việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam,hai cuộc kháng chiến giành thắng lợi trước hai đế quốc lớn và những thành tựu mà đấ nước ta đã đạt được sau khi giành độc lập và sau hơn hai mươi năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của Việt Nam, khẳng định tư tưởng, bản lĩnh vững vàng và tri tuệ của Đảng ta. Điều đó không chỉ riêng nhân dân Việt Nam mà nó còn được các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế cũng như các dân tộc tiến bộ ủng hộ và thừa nhận. Bbên cạnh đó, không chỉ có những quốc gia Chủ nghĩa xã hội, những bạn bè truyền thống mà còn cả những người bạn mới của Việt Nam, thậm chí có những quốc gia trước đây thù nghịch với nước ta cũng đều thừa nhận về một đất nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa đáng khâm phục và trân trọng. Việt Nam và cả thế giới thừa nhận những thành quả mà chúng ta đã đạt được và tin tưởng vào một tương lai phát triển hơn nữa của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, khi mà hệ thống Chủ nghĩa Xã hội còn chưa chiếm ưu thế trên toàn thế giới, mà vẫn là một hệ thống xã hội tồn tại song hành với chủ nghĩa tư bản với số lượng quốc gia xã hội Chủ nghĩa còn ít và đang bị các quốc gia tư bản chủ nghĩa đe dọa tấn công và xóa bỏ thì việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là thực sự cấp thiết. Đảng và Nhà nước ta phải tự luôn rèn luyện tư tưởng và trang bị đủ kiến thức xã hội, đồng thời luôn giáo dục cho quần chúng nhân dân kiên định đi theo con đường của Chủ nghĩa Xã hội. Lấy chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Chủ nghĩa xã hội không chỉ là ở Việt Nam và một số quốc gia khác mà nó sẽ là cả thế giới,khi đó Chủ nghĩa Tư bản sẽ bị tiêu vong. Dần tiến tới mục tiêu cuối cùng là Cộng sản Chủ nghĩa – xã hội mà sẽ không còn giai cấp, nơi con người được phát triển toàn diện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội 2. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội 3. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG Sự thật, HN 1993, Tập 8 4. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG Sự thật, HN 1993, Tập 21 5. C.Mác và Ph.Ăngghen, tuyển tập, Nxb Sự thật, HN 1993, Tập 1 6. C.Mác và Ph. Ăngghen, tuyển tập,Nxb Sự thật, HN 1983, T4 7. Nguyễn Thọ Khang, 2010, Tác phẩm kinh điển Mác – Ăngghen về CNXH, khoa CNXHKH, Học viện Báo chí và tuyên truyền, Hà Nộiè truyền thống mà cả những người bạn mới. 8. TS. Phạm Văn Chung, Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta,Nxb CTQG, HN – 2005. 9. Trang Phúc Linh , lịch sử chủ nghĩa Mác, Nxb CTQG sự thật, HN – 2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochinh thai kinh te.doc
Tài liệu liên quan