Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh bách khoa

Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh bách khoa: Lời nói đầu Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực...

doc60 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1069 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh bách khoa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền... Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh... Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn. Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Bách Khoa, em đã quyết định chọn đề tài thực tập tốt nghiệp là: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa”. Em hy vọng rằng bài viết của mình sẽ góp phần đẩy lùi những khó khăn cản trở trong công tác tín dụng, đưa hiệu quả tín dụng ngày càng tốt hơn, tạo đà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở phát triển trong nền kinh tế thị trường. Bài viết của em được chia làm 3 chương: Chương 1:Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng Thương Mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa. Chương I:Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1 Ngân hàng th 1.1.1 Khái niệm: Ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng Ngân hàng là một tổ chức thu hút tiền gửi lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức tín kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ xã hội Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là các tổ chức cho vay chủ yếu với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước (thành phố, tĩnh …). Đối với các doanh nghiệp ngân hàng thường là các tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm hàng hoá dữ trữ hoặc xây dung nhà máy, mua sắm trang thiết bị …Khi doanh nghiệp và người tiêu ding phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi đó họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụngcủa ngân hàng chi chính phủ (thông qua các chứng khoán của chính phủ) là nguồn quan trọng để đầu tư và phát triển. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm các công ty kinh doanh chứng khoán, quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng ) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môI giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư và quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môI giới khác. Cách tiếp cận quan trọng nhất là có thể xem ngân hàng trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp. Theo giáo sư Petr roes: “Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chínhđa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”. Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung là thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng tiền này để cung cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2 Các hoạt động của ngân hàng thương mại: Trong nền kinh tế thị trường hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt hoạt động theo hình thức đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt đông chính: Hoạt động huy động vốn, hoạt động tớn dụng, hoạt động cung cấp dịch vụ.Tớnh đa dạng sẽ giup ngõn hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. Để bắt đầu hoạt động cỏc ngõn hàng phải cú một lượng vốn nhất định. Đõy là nguồn vốn ngõn hàng cú thể sử dụng lõu dài, hỡnh thành nờn trang thiết bị, nhà cửa cho ngõn hàng. Nếu là ngõn hàng thuộc sở hửu nhà nước, thỡ nguồn vốn này do nhà nước cấp, nếu là ngõn hàng thương mại cổ phần, cỏc cổ đụng đúng gúp thong qua cổ phần hoặc mua ngõn hàng lien doanh do cỏc bờn lien doanh đúng gúp, ngõn hàng gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phương thức khỏc nhau tựy thuộc vào điều kiện cụ thể: Nguồn lợi nhuận giữ lại và nguồn bổ sung từ việc phỏt them cổ phần, gúp thờm, cấp them….Mặt khỏc trong ngõn hàng cú nhiều quỹ như: Quỹ thặng dư, quỹ bỏo toàn vốn, quỹ dự phũng tổn thất…Cỏc quỹ này thuộc sở hửu của chủ ngõn hàng. Khi một ngõn hàng bắt đầu hoạt động, nhiệm vụ đầu tiờn là mở tài khoản tiền gửi hộ và thanh toỏn hộ cho khỏch hàng, băng cỏch đú ngõn hàng huy động tiền của cỏc doanh nghiệp cỏc tổ chức và dõn cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngõn hàng. Để gia tăng tiền gửi trong mụi trường cạnh tranh và để cú được nguồn tiền cú chất lượng ngày càng cao, cỏc ngõn hàng đó đưa ra và thực hiện nhiều hỡnh thức huy động khỏc nhau: Tiền gửi thanh toỏn (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toỏn), tiền gửi của cỏc ngõn hàng khỏc. Tiền gửi là nguồn quan trongj nhất của ngõn hàng thương mại.Tuy nhiờn khi cần, ngõn hàng thương mại thuowng vay mượn thờm. Tại nhiều nước, ngõn hàng trung ương thường xuyờn quyết định tỷ lệ dữ ttruwx bắt buộc giữ nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngõn hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thờm để đỏp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế: Vay mượn tử ngõn hàng trung ương, vay cỏc tổ chức tớn dụng, vay trờn thi trường vốn. Cỏc nguồn khỏc: Nguồn ủy thỏc, nguồn trong thanh toỏn, cỏc khoản nợ khỏc như thuế chưa nộp, lương chưa trả…. Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là chỳng phải được thanh toỏn khi khỏch hàng yờu cầu. Tiền gửi là đối tượng phải dữ trữ bắt buộc, do vậy chi phớ tiền gửi thường cao hơn lói suất phải tra cho tiền gửi. Ở nhiều nước ngõn hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi thường nhạy cảm với cỏc biến động về lói suất, tỷ giỏ, thu nhập, chu kỳ chi tiền và nhiều yếu tố khỏc… Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho ngõn hàng thương mại. Rủi ro này cú rất nhiều nguyờn nhõn,đều cú thể gõy ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngõn hàng. Cú nhiều khoản tài trợ mà tổn thất cú thể chiếm phần lớn vốn của chủ, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đú chớnh là quỏ trỡnh phõn tớch tớn dụng, bao gồm qua s trỡnh thẩm tra trước, sau, trong khi cho vay, chiết khấu, cho thuờ, bỏo lónh. Hoạt đụng ngõn quỹ nhằm đảm bảo khả năng thanh toỏn thường xuyờn của ngõn hàng cho khỏch hàng. Đõy là tài khoản khụng sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tớnh lỏng cao được coi như tiền mặt…Do đú ngõn hàng phải duy trỡ một lượng tiền mặt ổ một lượng tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tớnh thanh vừa đảm bảo sinh lời. Ngoài ra ngõn hàng cún sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoỏn trờn thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo tớnh thanh khoản của ngõn hàng. Hoạt động trung gian: Là việc ngõn hàng cung cấp cho khỏch hàng một loạt cỏc dịch mvuj cú lien quan. Ngõn hàng sẽ nhận được một khoản thu dưới hỡnh thức hoa hồng. Cụng nghệ ngõn hàng ngày càng phỏt trieenrthif hoạt động tiờu biểu là: chuyển tiền, thanh toỏn hộ khỏch hàng thụng qua cỏc hỡnh thức ghi chộp trờn tài khoản của khỏch hàng tại ngõn hàng, phỏt hành sộc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tớn dụng, mụi giới chứng khoỏn, quản lý hộ tài sản cho khỏch hàng, tư vấn cho doanh nghiệp… 1.2 Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại: 1.2.1 Khái niệm Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi. Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh. Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?. "Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay " Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng : *Tổng vốn huy động : Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà ngân hàng huy động được trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng có hoạt động uy tín, có được người gửi tin tưởng không, mức giá mà ngân hàng đưa ra có phù hợp không,có khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? đồng thời cho thấy ngân hàng đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng như thế nào? *Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động : Thông thường nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các loại tiền gửi như : Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát hành séc...) ,tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi khác nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một cách phù hợp.Trong trường hợp ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. *Tổng dư nợ : Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú thu hút được khách hàng. *Hiệu suất sử dụng vốn vay : Tổng dư nợ Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn. *Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Chỉ tiêu này được tính như sau: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng( Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%). Theo thời gian, tỷ lệ này có thể phân làm 2 trường hợp: Nợ quá hạn bình thường + Nợ quá hạn có vấn đề Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 12 tháng= Nợ quá hạn khó thu hồi Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn trên 12 tháng= Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý rủi ro tới mức thấp nhất. *Chỉ tiêu lợi nhuận : Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Chỉ tiêu lợi nhuận = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại: Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các ngân hàng rất quan tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt nhất. Để quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có một sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố tác động đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng chúng ta có thể phân thành 2 nhóm nhân tố sau: 1.3.1 Nhân tố khách quan: *Thuộc về môi trường kinh tế: Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt để lạm phát ở con số cao thì các ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một vài trường hợp do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp làm cho khả năng trả các khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn. Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cạp đến ở đây đó chính là lãi suất tín dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Với phương châm “Đi vay để cho vay” các ngân hàng luôn luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa đem lại lợi nhuận.Bởi nếu lãi suất huy động tiền nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng dẫn đến ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Ngược lại nếu lãi suất huy động đặt ra cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của ngân hàng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Và đối với lãi suất cho vay cũng vậy trường hợp đưa ra mức lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng không cho vay được, ứ đọng vốn hoặc có cho vay được nhưng khó thu hồi bởi khách hàng của ngân hàng không phải tất cả đều làm ăn có hiệu quả mà có những khách hàng làm ăn không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có thể trả được những khoản nợ lớn của ngân hàng gây rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. *Thuộc về môi trường pháp lý: Hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế nói chung muốn hoạt động có hiệu qủa thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có pháp luật hoặc một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng. * Thuộc về yếu tố tự nhiên: Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh...Khi xẩy ra thường gây ra hậu quả lớn tác động đến cả ngân hàng và khách hàng, ngân hàng khó có khả năng thu hồi được vốn điều đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Trước sự tác động của các yếu tố này ngân hàng khi tiến hành đầu tư cần phải cân nhắc, báo cáo một cách cụ thể, chủ động phòng ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro. 1.3.2 Nhân tố chủ quan: *Thuộc về phía ngân hàng: Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của ngân hàng có liên quan, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất định. Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý đựơc cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng, giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý... Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề có liên quan đến tín dụng khi cần thiết. - Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Hiện nay khi nghiệp vụ hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ không ngừng. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi thực hiện chu kỳ khép kín cuả một khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng của một xã hội ngày càng phát triển. - Quy trình tín dụng: Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng có đảm bảo tính khoa học không và việc thực hiện các giai đoạn trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào? Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính: + Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai đoạn rất quan trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng của khoản tín dụng sẽ được thực hiện và là cơ sở định lượng rủi ro trong khi cho vay. Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng. + Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp sẽ giúp cho ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin về các khoản tín dụng đã cung cấp để có thể đưa ra kịp thời những quyết định can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. + Thu nợ và thanh lý: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng bởi nếu không thu được nợ đến hạn, ngân hàng sẽ mất vốn kinh doanh, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng, khủng hoảng có thể xảy ra mà điều tồi tệ hơn cả là khi hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng đó sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy mà ngân hàng cần phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự linh hoạt của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, kịp thời sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng. - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, giúp cho các cán bộ tín dụng có câu trả lời đúng: Cho vay hay không cho vay? Xét trên tầm vĩ mô thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Thông tin tín dụng có thể thu được nhiều nguồn: Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ... thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. - Kiểm soát nội bộ: Thông qua công tác này các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những khó khăn, thuận lợi trong việc chấp hành các quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng từ đó giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng đưa ra những chủ trương chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn và phát huy những nhân tố thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành các quy định, thể lệ... và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn dến sai sót trong qúa trình thực hiện một khoản tín dụng. - Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng cập nhật được thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. *Thuộc về khách hàng: Để đảm bảo khoản tín dụng đựoc sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đậo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vay vốn của ngân hàng khi đến hạn qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Những nhân tố này bao gồm: Trình độ quản lý điều hành của cán bộ doanh nghiệp có đáp ứng được trong nền kinh tế thị trường hay không, năng lực về vốn và tài sản của doanh nghiệp có đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay không, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh tôt hay xấu, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tương lai phát triển của doanh nghiệp như thế nào? ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác trả nợ ngân hàng. Những yếu tố trên đặt ra cho SGD cần phải chọn khách hàng để đầu tư, thẩm định kỹ lưỡng và cần phải giám sát một cách chặt chẽ quá trình trước, trong, sau khi cho vay, có như vậy mới đảm bảo được chất lượng tín dụng Như vậy việc nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng và biết tận dụng các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế của ngân hàng mình sẽ tạo ra một chất lượng tín dụng tốt, góp phần vào sự phát triển vững mạnh của ngân hàng và của nền kinh tế quốc dân. Chương II thực trạng chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam Chi nhánh Bách Khoa 2.1 - Giới thiệu chung về phòng giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh bách khoa 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam: Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đựoc thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988 là tổ chức tiền thân của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam ( viết tắt là nhno&ptntvn ). nhno&ptntvn có số vốn điều lệ là 2200 tỷ đồng. Ngày 22/11/1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước đã phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của nhno&ptntvn. Theo điều lệ nhno&ptntvn là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt được tổ chức theo mô hình tổng công ty nhà nước, có tư cách pháp nhân, thời hạn hoạt động là 99 năm, có trụ sở chính tại Hà Nội, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn. nhno&ptntvn với tư cách là một ngân hàng thương mại quốc doanh do Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành thực hiện chức năng kinh doanh đa năng chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng trong nước và nước ngoài. Đầu tư vào dự án phát triển kinh tế xã hội, uỷ thác tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài trong các ngành kinh tế mà trước hết là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ một ngân hàng được bao cấp với số vốn nhỏ bé, cán bộ nhân viên đông, trình độ thấp... Khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường NH Nông nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức lại để tăng cường huy động vốn phục vụ kinh tế nông nghiệp, nông thôn, mở rộng các loại hình dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể như: nhanh chóng khắc phục cơ bản thói quen cũ của ngân hàng trong cơ chế bao cấp chuyển từ một ngân hàng lỗ sang một ngân hàng có lãi, cải thiện đáng kể đời sống cán bộ công nhân viên, góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước. Trong những năm gần đây ngân hàng đã không ngừng tăng cường quan hệ đa phương và các hoạt động kinh doanh đối ngoại, uy tín quốc tế của ngân hàng nhanh chóng được khẳng định, đó chính là cánh cửa mở ra con đường hội nhập vào cộng đồng ngân hàng khu vực và quốc tế. 2.1.2 Giới thiệu chung về phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa: Sáng ngày 25/12/2008, chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đã tổ chức lễ khai trươngg phòng giao dịch số 7 có trụ sở tại 92- Võ Thị Sáu- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội. Đây là phòng giao dịch số 03 trực thuộc chi nhánh Bách Khoa Thực hiện tiến trình cơ cấu lại Ngân Hàng và định hướng phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam và chiến lược kinh doanh trên địa bàn Hà Nội của chi nhánh Bách Khoa. Được sự hỗ trợ giup đỡ của các ngành- các cấp chính quyền địa phương và đặc biệt là sự ủng hộ- tín nhiệm của khách hàng, cùng với sự nỗ lực chung sức, đồng lòng của toàn thể cán bộ viên chức, đến nay chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đã thu được những thành quả bước đầu khá quan trọng trên nhiều mặt từ nguồn nhân lực , cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như quy mô và kết quả kinh doanh, sự đa dạng hoá dịch vụ và thị phần khách hàng. Nằm trong chiến lược kinh doanh của chi nhánh , đồng thời cũng là sự khẳng định thương hiệu của Agribank, việc mở phòng giao dịch số 07 trực thuộc Agribank Bách Khoa là một dấu mốc trong tiến trình mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh và hội nhập vủa chi nhánh trên địa bàn nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, tiện ích đến khách hàng với phương châm “ Mang phồn vinh đến với khách hàng” của NHNo&PTNT Việt Nam, qua đó cùng với những ngân hàng thương mại khác góp phần vào sự phát triển kinh tế- xã hội thủ đô. Nhiệm vụ theo phân cấp uỷ quyền chi nhán NHNo&PTNT Bách Khoa -Huy động vốn: + Khai thác nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán. + Phát hành những chứng chỉ nhận tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. + Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư của chính phủ và các tổ chức kinh tế . - Cho vay: + Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng VND, ngoại tệ + Cho vay xuất nhập khẩu, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ, cho vay theo các chương trình dự án kinh tế. Thực hiện các dịch vụ ngân hàng : thanh toán quốc tế, bảo lãnh mua bán ngoại tệ... Đầu tư dưới các hình thức : hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát, báo cáo thống kê theo qui định. Các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc giao. 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch Agribank Bách Khoa trong những năm gần đây: 2.2.1 Tình hình sử dụng vốn huy động: Tại phòng giao dich nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa hàng ngày hàng giờ đang diễn ra các hoạt động kinh doanh đa dạng và phong phú. Căn cứ vào các kết quả thu được ta thấy rằng hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tại phòng và có vị trí hết sức quan trọng. Và để hoạt động tín dụng đem lại kết quả cao thì cần phải thực hiện tốt đồng thời các nghiệp vụ . - Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn) - Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn) - Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền thanh toán) Chính vì vậy mà huy động vốn không phải là một hoạt động độc lập riêng rẽ, có huy động được vốn thì mới có vốn cho vay ngược lại cho vay có hiệu quả kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động đồng thời có làm tốt nghiệp vụ trung gian thì hai nghiệp vụ trên mới được thực hiện tốt. Như vậy cả ba nghiệp vụ này tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Nói cách khác ngân hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp mà trong đó nghiệp vụ huy động vốn phải được chú trọng để kết hợp cùng hai nghiệp vụ còn lại tạo nên hiệu quả hoạt đông của ngân hàng. Hiện nay trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại đều hoạt động kinh doanh theo hướng “đi vay để cho vay” không sử dụng đến nguồn cấp phát mà huy động vốn theo hướng có lợi trong kinh doanh. Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình huy động vốn tại phòng giao dịch nhno &ptnt chi nhánh Bách Khoa trong thời gian qua. Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2006-2008 Đơn vị :Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 +/-tuyệt đối 2007-2006 +/-tương đối % 2007-2006 +/-tương đối % 2008-2007 +/-tương đối 2008-2007 Không kỳ hạn 81309 126950 123378 45641 +56% -3572 -2,8% Có kỳ hạn 163675 365103 417520 201420 +123% 52417 +14,4% Tổng 244984 492053 540898 (Nguồn:Bảng cân đối kế toán) Qua số liệu Bảng 1 cho ta thấy nguồn vốn huy động tại phòng giao dịch tăng nhanh qua các năm đặc biệt là từ năm 2006 đến 2007 thì tiền gửi không kỳ hạn tăng lên 56%, tiền gửi có kỳ hạn tăng 123%. Sang năm 2008 mặc dù nguồn vốn huy động không kỳ hạn có giảm nhưng không đáng kể còn nguồn vốn có kỳ hạn vẫn tiếp tục tăng điều đó chứng tỏ rằng trong những năm qua phòng giao dich đã có nhiều cố gắng và đưa ra những biện pháp tích cực năng động, sáng tạo để thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi cũng như gửi tiền tiết kiệm, phục vụ khách hàng với thái độ văn minh, lịch sự có, trách nhiệm, đơn giản các thủ tục rườm rà không cần thiết. Kết quả cho thấy phòng giao dịch đã đạt được những thanh công nhất định. Mặt khác ta thấy rằng nguồn vốn huy động có kỳ hạn luôn luôn tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động cụ thể là : - Nguồn vốn kỳ hạn năm 2006 chiếm tỉ lệ là 67%. - Nguồn vốn kỳ hạn năm 2007 chiếm tỉ lệ là 74%. - Nguồn vốn kỳ hạn năm 2008 chiếm tỉ lệ là 77%. Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay các ngân hàng buộc phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh một cách hợp lý và phòng giao dịch cũng vậy. Phòng giao dịch luôn luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được Sở tiến hành phân phối sử dụng vốn sao cho có hiệu quả bởi cho vay là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định chất lượng hiệu quả tín dụng. Bên cạnh đó chúng ta biết rằng huy động vốn và sử dụng vốn là hai mặt của một quá trình hoạt động tín dụng vì vậy vấn đề cho vay vốn cần phải được chú trọng, quan tâm, làm sao vừa đáp ứng đựoc nhu cầu sản xuất kinh doanh, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, không chỉ cho bản thân phòng giao dịch mà còn cho cả nền kinh tế. Đối tượng cho vay tại phòng giao dịch là các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hộ gia đình, cá nhân so.Việc cho vay của phòng giao dịch đã có tác dụng tích cực giúp cho các doanh nghiệp phát triển được sản xuất kinh doanh, tăng thu ngân sách góp phần đấu tranh hạn chế cho vay nặng lãi . Phòng giao dịch chủ động trong việc sử dụng vốn vay có tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của từng đơn vị, phân loại doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc và thường xuyên quan tâm tới công tác thu nợ nhằm tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng. Thực chất vấn đề cho vay vốn của ngân hàng được đánh giá tốt hay xấu không phải căn cứ vào số dư nợ cho vay có tăng hơn không mà phải xem xét chất lượng tín dụng như thế nào có nghĩa là phải xem xét vốn mà ngân hàng cho vay có đúng mục đích hay không, khách hàng có trả được nợ hay không và trả nợ có đúng hạn không. Vì vậy việc đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của ngân hàng phải được xem xét trên các chỉ tiêu như : tình hình cho vay, thu nợ, nợ quá hạn...và các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại ngân hàng. Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình tín dụng vốn tại ngân hàng: (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008) 2008 2007 2006 Tổng dư nợ Tổng doanh số thu nợ vay Tổng doanh số cho 250 200 150 50 0 183 230 223 208 116 164 160 97 52 Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu sử dụng vốn qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng 100 nNcáo tổng kết năm 1999,2000,2001) Nhìn vào bảng trên ta thấy: Nhìn vào bảng trên ta thấy - Số tiền cho vay tại SGD qua các năm 2006, 2007, 2008 có tăng lên đáng kể. - Năm 2007 tăng so với 2006 là 112 tỷ đồng tương đương với 215% - Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 59 tỷ đổng tương đương với 35% Như vậy ta thấy rằng khách hàng đến giao dịch tại phòng ngày càng tăng lên chứng tỏ bằng sự cố gắng của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong thời gian qua Sở đã thu hút đựoc nhiều khách hàng, bằng phương pháp nghiệp vụ và thái độ làm việc của ngân hàng đã tạo được uy tín trên thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay. Về công tác thu nợ : - Năm 2006 doanh số thu nợ bằng 186% doanh số cho vay. - Năm 2007 doanh số thu nợ bằng 71% doanh số cho vay - Năm 2008 doanh số thu nợ bằng 103% doanh số cho vay Doanh số thu nợ năm 1996 tương đối cao, nhưng sang năm 2007 thì có giảm đi về số tương đối, nguyên nhân ở đây có thể là do sự biến động về tình hình chính trị, xã hội của đất nước và trong khu vực đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sang năm 2008 với sự làm việc hết mình các cán bộ nhân viên trong công tác kiểm tra đôn đốc tình hình thu nợ và sự lãnh đạo sáng suốt của Ban giám đốc doanh số thu nợ đã tăng lên bằng 103% so với doanh số cho vay. Đối với dư nợ có tăng lên so với các năm nhìn vào bảng trên ta thấy dư nợ năm 2008 là 183 tỷ đồng mà lẽ ra phải là 201 tỷ đồng song do đến ngày 31/12/2008 phòng giao dịch đã điều chỉnh sang tài khoản nợ khoanh số tiền là 18 tỷ của các doanh nghiệp nhà nước do làm ăn thua lỗ Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng giữa nguồn vốn huy động và doanh số cho vay có sự chênh lệch lớn, phải chăng ngân hàng đã rơi vào tình trạng ứ đọng vốn.Tình hình thực tế cho thấy hiện nay trong nền kinh tế lượng ngoại tệ đang còn thiếu nhiều bởi tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND đang ở mức tương đối cao.Trong trường hợp không cho vay hết thì cho Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương vay để từ đó Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương cho các chi nhánh khác trong hệ thống vay. * Tình hình cho vay thu nợ dư nợ theo thành phần kinh tế Bảng 2: Bảng sử dụng vốn của phòng Giao Dịch theo thành phần kinh tế qui về VND Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng số cho vay 52 100% 164 100% 223 100% Doanh nghiệp nhà nước 36 69% 139 85% 211 95% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 16 31% 25 15% 12 5% Doanh số thu nợ 97 100% 116 100% 230 100% Doanh nghiệp nhà nước 72 74% 101 87% 213 93% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 25 26% 15 13% 17 7% Dư nợ 160 100% 208 100% 183 (18) 100% Doanh nghiệp nhà nước 138 86% 176 84% 156 (18) 85% Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 22 14% 32 15,4% 27 15% (Nguồn: Sổ thống kê số liệu lịch sử, báo cáo tín dụng năm 2008) Nhìn vào số liệu Bảng 2 ta thấy doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay của Sở, bao giờ cũng là 70% hoặc là hơn 70%. Nguyên nhân ở đây là do hầu hết khách hàng của Sở là doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nên có nhu cầu tín dụng cao và có uy tín với ngân hàng. Mặt khác có thể là do nhà nước không thực hiện cơ chế thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp nhà nước nên việc đầu tư có thuận lợi hơn. Ngoài ra nguyên nhân làm cho doanh số cho vay ngoài quốc doanh giảm là do cơ chế cho vay đối với thành phần kinh tế này tương đối chặt chẽ về thủ tục thế chấp bảo lãnh vay vốn, việc phát mại tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn.Tính đến năm 2008 phòng có quan hệ với 9 đơn vị ngoài quốc doanh nhưng trong đó là 6 doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân bị đình đốn, tình hình tài chính yếu kém, vấn đề trả nợ rất khó khăn. Do vậy hiện nay ngân hàng đang tiếp tục chú trọng tập trung thu nợ của các đơn vị này. * Tình hình cho vay dư nơ phân theo ngoại tệ và nội tệ Bảng 3 : Bảng doanh số cho vay dư nợ phân theo ngoại tệ và nội tệ Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2006 2007 2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng cho vay 52 100% 164 100% 223 100% Nội tệ 0 49 30% 169 76% Ngoại tệ 52 100% 115 70% 54 24% Tổng dư nợ 160 100% 208 100% 183 100% Nội tệ 0 48 23% 66 36% Ngoại tệ 160 100% 160 77% 117 64% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008) Theo số liệu trên thì năm 2008 phòng giao dịch hầu hết chỉ thực hiện cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh như: Nguyên vật liệu trong năm... Với doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao trong doanh số thu nợ điều đó chứng tỏ công tác cho vay ngắn hạn trong năm 2008 nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung là khá hiệu quả, sự thành công này nhờ vào sự cố gắng của cán bộ tín dụng, các phòng ban và sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Tuy nhiên trong quá trình đầu tư tín dụng rủi ro luôn luôn làm các nhà ngân hàng đau đầu và tại phòng giao dịch cũng vậy mặc dù việc đôn đốc thu lãi, gốc được thực hiện thường xuyên song vẫn còn tồn tại tình trạng nợ quá hạn. 2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa Bảng 4:tình hình nợ quá nợ quá hạn qua các năm Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng dư nợ 160 208 183 Tổng nợ quá hạn 49 48 39,7 Tỷ trọng nợ quá hạn/Tổng dư nợ 31% 23% 21,7% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008) Số liệu Bảng 4 thể hiện nợ quá hạn tại ngân hàng trong thời gian gần đây có xu hướng giảm xuống. Cụ thể: Năm 2007 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 23% tổng dư nợ giảm 8% so với năm 2006, sang năm 2008 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 21,7% tổng dư nợ giảm 1,3% so với năm 2007. Tuy nhiên con số này vẫn còn rất cao so với mức cho phép và ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng vì vậy ngân hàng cần phải tự kiểm điểm xem xét lại để thấy rõ những thiếu sót của mình trong quá trình cho vay để từ đó có những giải pháp chấn chỉnh nhằm đưa hoạt động tín dụng ngày một hiệu quả và an toàn. Biểu đồ nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay 21.6 20 15.7 27.4 28 24 0 5 10 15 20 25 30 2006 2007 2008 ngắn hạn Trung hạn, dài hạn Đơn vị: tỷ đồng Nhìn vào Biểu đồ trên cho ta thấy nợ quá hạn năm 2007 gần tương đương với năm 2006 nhưng sang năm 2008 thì số nợ quá hạn giảm đi đáng kể so với 2007 cụ thể là: - Nợ quá hạn ngắn hạn giảm 4,3 tỷ đồng Nợ quá hạn trung, dài hạn giảm 4 tỷ đồng Ơ đây nợ quá hạn thu hồi được trong năm 2008 chủ yếu là các khoản dư nợ quá hạn từ năm 2007 trở về trước bởi mặc dù năm 2007 dư nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó dư nợ quá hạn của các khoản vay từ năm 2007 trở về trước là 39,4 tỷ còn dư nợ quá hạn của các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ công tác thu hồi nợ quá hạn từ năm 2007 về trước là khá hiệu quả đồng thời theo phân tích trên thì năm 2008 Sở chủ yếu thực hiện cho vay ngắn hạn và dư nợ quá hạn thuộc các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ chứng tỏ hoạt động cho vay trong năm đã thực sự có chất lượng. Ngoài ra công tác thu nợ quá hạn năm 2008 tại phòng giao dịch đã đạt được một số kết quả là tổng số thu nợ quá hạn 21412 triệu đồng Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế 27.8 31 24.7 21.2 17 15 0 5 10 15 20 25 30 35 2006 2007 2008 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh Đơn vị: tỷ đồng Nhìn vào biểu trên ta thấy trong thời gian qua nợ quá hạn tại các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn : - Năm 2006 chiếm 56,7 % tổng nợ quá hạn. - Năm 2007 chiếm 64.6 % tổng nợ quá hạn. - Năm 2008 chiếm 62,2 % tổng nợ quá hạn. Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có một tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Song hoạt động của thành phần kinh tế này vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi doanh số cho vay thấp hơn rất nhiều so với kinh tế quốc doanh. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn tại phòng giao dịch cao song chúng ta cần xét đến khả năng thu hồi của các khoản nợ quá hạn như thế nào. Bảng 5 :Phân loại nợ quá hạn theo khả năng thu hồi vào thời điểm 31/12/2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Tổng dư nợ quá hạn GTTS đẫ xiết nợ nhưng chưa hạch toán giảm nợ Dư nợ quá hạn đã xiết nợ bằng tài sản Theo khả năng thu hồi Dư nợ quá hạn bình thường Nợ quá hạn có vấn đề Nợ quá hạn khó thu hồi Dư nợ ngắn hạn quá hạn 15.700 1230 480 13990 Dư nợ dài hạn quá hạn 24000 9400 7810 6790 Tổng 39700 10630 8290 20780 (Nguồn:Sổ thống kê số liệu lịch sử) Theo số liệu bảng 7 cho ta thấy hiện nay tại phòng giao dịch có khoản nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó nợ quá hạn khó đòi là 20,78 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 52,3% tổng nợ quá hạn năm 2008. Đây là một kết quả không tốt bởi khi đã trở thành nợ quá hạn khó thu hồi thì khả năng đòi được vốn của ngân hàng là rất khó nó sẽ ảnh đến chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng và kết quả kinh doanh trong thời gian tới . Bên cạnh đó ta thấy rằng khoản nợ quá hạn bình thưòng và nợ quá hạn có vấn đề là 18,92 tỷ chiếm tỷ trọng 47,7% tổng nợ quá hạn .Để có thể thu hồi được những khoản nợ này cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng cần phải tích cực trong việc đôn đốc, quản lý tốt quá trình thu nợ bởi các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi tất dễ trở thành những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. - Ngoài khoản nợ quá hạn 39,7 tỷ đồng thống kê trên phòng giao dịch còn có một khoản nợ quá hạn cho vay khác là 142,337 tỷ đồng trong đó có 22,296 tỷ đồng đã đựơc xiết nợ bằng tài sản còn lại là 120,041 tỷ đồng đã đựơc khoahh. Bảng 6: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân vào thời điểm 31/12/2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Tổng số tiền Ngắn hạn Trung,dài hạn Cho vay khác I-Nguyên nhân chủ quan II-Nguyên nhân khách quan 182037 15700 24000 142337 1-Do bất khả khángvà cơ chế chính sách + Do thiên tai định hoạ + Do xắp xếp lại DN, giải thể DN +Do thay đổi cơ chế chính sách 47660 11220 36440 9458 9458 17552 17552 20650 11220 9430 2- Do DN, khách hàng của ngân hàng 133506 5864 5955 121687 + Do kinh doanh thua lỗ + Do sử dụng vốn không đúng mục đích + Do khách hàng vay có chủ ý lừa đảo 130702 2804 5864 5955 118883 2804 3- Nguyên nhân khác 871 378 493 (Nguồn: Sổ tổng kết số liệu lịch sử) Theo số liệu Bảng 6 ta thấy nợ quá hạn phát sinh chủ yếu là do sự kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp. Chúng ta sẽ phân tích cụ thể ở phần sau. Sau đây là một số đánh giá khái quát về những kết quả đạt đựơc cũng như những tồn tại trong 3 năm qua. 2.3 Đánh giá chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa: 2.3.1 Những thành tựu đạt được: Thực hiện chủ trương của chính phủ là xoá hình thức bao cấp. Phòng giao dịch đã phát huy năng lực của mình vượt qua khó khăn thử thách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhanh chóng hoà nhập với thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện nước ta hiện nay đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế trong khu vực, nhà nước ta đã và đang có những đổi mới trong cơ chế quản lý điều hành đất nước. Phòng giao dịch cũng đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi mặt kinh doanh nói chung và công tác tín dụng nói riêng.Trên cơ sở những định hướng đó phòng giao dịch đã không ngừng đổi mới về mô hình tổ chức pháp lý, qui chế nghiệp vụ... Đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nâng cao chất lượng công tác tín dụng. Trong những năm qua bằng sự cố gắng của mình phòng giao dịch đã cung vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh như : Đáp ứng kịp thời nhu cầu vay ngắn hạn để mua vốn lưu động tại một số doanh nghiệp, cung cấp vốn để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ trang thiết bị, tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện cho vay theo chỉ định của chính phủ đặc biệt là ngân hàng đã thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp:Công ty tổng hợp Hà Anh, Công ty Sản Xuất Kinh Doanh Hàng Nhập Khẩu đây là 2 công ty chuyên nhập khẩu phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian qua phòng giao dịch đã thực sự trở thành bạn hàng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Với chính sách khách hàng ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình, tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc lập hồ sơ tín dụng theo đúng qui định, tạo điều kiện cho khách hàng sớm hoàn thành thủ tục xin vay, thực hiện phương thức giao dịch đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ nhằm thu hút khách hàng tránh gây phiền hà trong việc vay vốn... Bên cạnh đó phòng giao dịch đã thực hiện công tác phân tích tài chính trước khi cho vay để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay cho ngân hàng. Ngoài ra trong quá trình cho vay phòng giao dịch thực hiện công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi một khoản vay đều có người chịu trách nhiệm tuy theo từng mức độ khác nhau. Với một đội ngũ cán bộ có năng lực nhiệt tình công tác trong những năm qua phòng giao dịch đã đạt được những kết quả nhất định: Nguồn vốn huy động qua các năm tăng trưởng khá cao tạo ra một lượng vốn lớn ổn định cho ngân hàng điều đó cho thấy phòng giao dịch đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Đây là một trong những thành công lớn mà ngân hàng cần phát huy hơn nữa bởi huy động vốn là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh. Công tác cho vay: Luôn kết hợp yếu tố phát triển kinh tế, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật và có lợi nhuận. Trong thời gian qua từ năm 2006 đến năm 2008 doanh số cho vay của ngân hàng tăng lên đáng kể đặc biệt là năm 2008 tăng so với 2007 là 59 tỷ đáp ứng kịp thời nhu của khách hàng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Công tác thu nợ: Đây là hoạt động quan trọng quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này các bộ tín dụng tại ngân hàng đã tích cực trong việc đôn đốc, kiểm soát quá trình thu nợ. Kết qủa cho thấy sang năm 2008 doanh số thu nợ đạt 230 tỷ tăng 107 tỷ bằng 186,9% năm 2007. Nợ quá hạn có giảm: Năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ là 31% nhưng sang đến năm 2008 chỉ còn 21,7%. 2.3.2 Những vấn đề tồn tại: Ngoài những thành tựu đạt đựơc hiện nay tại phòng giao dịch còn có một số tồn tại nhất định. Nguồn vốn tăng trưởng chậm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 8,5% so với đầu năm, đạt 48% so với kế hoạch năm 2008. Trong đó nguồn vốn nội tệ chỉ chiếm tỷ lệ 11% tổng nguồn vốn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay nội tệ của phòng giao dịch. Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ chậm, chưa đầy đủ, chất lượng các nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, quản lý của ngành còn sai sót chậm chễ. Tuy đã tích cực trong việc đôn đốc và thu nợ hàng tháng song tình trạng nợ quá hạn tại phòng giao dịch còn cao so với kế hoạch đặt ra, một số khoản vay phải chuyển sang nợ khoanh. Mặc dù ngân hàng đã trang bị hệ thống máy vi tính nhưng chưa thực sự hiệu quả vì vậy trong thời gian tới cần thiết phải hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý điều hành, thanh toán nối mạng toàn quốc nhằm đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi ro... Năm 2008 là năm chuyển trụ sở của phòng giao dịch vì vậy lao động của ngân hàng còn đang trong thời kỳ củng cố, bổ sung nên thiếu nhiều ... 2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên: * Nguyên nhân chủ quan : Trong công tác tiếp thị: Mặc dù phòng giao dịch có một trụ sở ngay tại trung tâm thành phố thuận lợi hơn so với các ngân hàng khác song vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng, phong cách giao tiếp với khách hàng chưa thực sự được tốt nên chưa tạo được uy tín lớn trong lòng khách hàng. Chưa có biện pháp tích cực và hiệu quả trong quản trị điều hành kinh doanh, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên môn và các đoàn thể để tổ chức phong trào thi đua và nâng cao trách nhiệm của người lao động với nhiệm vụ của mình. Công tác kiểm tra sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chủ yếu là xác định vốn vay, chưa thực sự đi sâu phân tích tài chính và biện pháp đảm bảo nợ vay và khả năng trả nợ của khách hàng nên hiệu quả chưa cao. * Nguyên nhân khách quan: Năm 2008 tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu vì vậy khi nhu cầu nhập khẩu giảm dẫn đến dư nợ cho vay giảm. Mặt khác do trên địa bàn Hà Nội đang có nhiều ngân hàng cùng hoạt động mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng ngay gắt đã làm giảm dư nợ tại ngân hàng. - Tỉ lệ nợ quá hạn còn ở mức cao - nguyên nhân gây ra là : Trong những năm qua nền kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp. Khi xây dựng sản xuất kinh doanh và đầu tư vốn, các doanh nghiệp chưa lường hết được hậu quả. Thêm vào đó là tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất đình vốn, tài chính thua lỗ nên rất khó khăn, không có khả năng trả nợ . Một số doanh nghiệp do đầu tư vốn lớn nhưng trình độ quản lý điều hành kinh doanh lại hạn chế, vay vốn ngân hàng lớn, vốn tự có thấp dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả... Có những doanh nghiệp người điều hành vi phạm pháp luật bị khởi tố, doanh nghiệp phải ngừng hẳn hoạt động kinh doanh hoặc bị phá sản, giải thể làm cho nợ ngân hàng không thu hồi được. Một số đơn vị có dư nợ lớn, vay nhiều ngân hàng công nợ nhiều, khó kiểm soát quá trình chu chuyển hàng hoá và các khoản công nợ phải thu, phải trả vì vậy nếu không có giải pháp quản lý hữu hiệu chất lượng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng, dễ xẩy ra rủi ro. Quy trình nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ trước đây còn chưa hoàn chỉnh, chưa xác định rõ trách nhiệm trong từng khâu công việc biểu hiện: Trước đây quy trình tín dụng được tiến hành như sau : Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định và xin vay Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở xem xét hạch toán giải ngân xuống chi nhánh sau đó chi nhánh tiến hành cho doanh nghiệp vay. Sau này chuyển sang hình thức: Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định sau đó gửi hồ sơ đã thẩm định lên Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở tái thẩm định và thực hiện cho vay trực tiếp. Theo hình thức này do địa bàn xa, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đa dạng nên công tác thu nợ kém, ngân hàng tiến hành bàn giao nợ cho các chi nhánh nhưng có chi nhánh Hải Phòng và Hà Tĩnh không nhận làm cho việc kiểm tra giám sát và đôn đốc xử lý thu hồi nợ không được thường xuyên dẫn đến hiệu quả thu nợ rất thấp. Trước tình hình đó ngân hàng tiến hành rà soát nợ, thực trạng sản xuất kinh doanh của khách hàng sau đó điều chỉnh kỳ hạn nợ. Việc gia hạn nợ vào những năm 2006 đã làm cho nợ quá hạn năm1998 giảm nhưng đến năm 2007,2008 thì những khoản nợ này lại đến hạn và hiện nay chưa có giải pháp khắc phục vì vậy nợ quá hạn trong những năm qua đang ở mức cao. Dư nợ cho vay ngoại tệ từ ngày vay đến nay đang chịu ảnh hưởng bởi tỷ giá đồng USD so với đồng VND liên tục tăng. Trong khi đó doanh nghiệp không có nguồn thu về ngoại tệ làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn càng khó khăn. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt buộc phải có tài sản thế chấp, hầu hết các hợp đồng thế chấp tài sản vay ngoại tệ thông qua chi nhánh đều không qua công chứng nhà nước, tài sản thế chấp không còn đủ theo danh mục kê khai lúc vay vốn, giấy tờ gốc chứng minh quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản bị thất lạc nhiều, không đảm bảo các thủ tục đã quy định. Mặc dù đã được khắc phục, chấn chỉnh nhưng vẫn chưa đảm bảo tính chất pháp lý. Việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn vì thiếu hồ sơ không giải quyết dứt điểm được... Để khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì có nhiều biện pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và tình trạng kinh doanh của từng ngân hàng mà chúng ta có thể đưa ra những giải pháp khả thi. Trên cơ sở những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn cho ngân hàng. Trong chương III em xin đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở trong thời gian tới . chương III giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bách khoa 3.1 Mục tiêu, phương hướng hoạt động tín dụng tại Sở và những yêu cầu đặt ra phải nâng cao chất lượng tín dụng 3.1.1 Môi trường hoạt động của phòng giao dịch : Là một đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế do vậy mọi sự biến động của nền kinh tế đều tác động đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động tín dụng của phòng giao dịch. * Thuận lợi : Nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%. Nông nghiệp đạt vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng lương thực đạt 40,5 triệu tấn. Mức cao nhất từ trước đến nay. Công nghiệp đạt mức tăng trưởng hơn 10% Kim ngạch xuất khẩu tăng 25% so với năm 2008, vượt hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra, hạn chế các tác động bất lợi do hậu quả của khủng hoảng kinh tế khu vực. Phòng giao dịch nằm tại 92- Võ Thị Sáu là địa bàn đẹp nằm ngay trung tâm thủ đô có điều kiện để thu hút khách hàng. * Khó khăn : Mức tăng trưởng kinh tế ở mức thấp sản xuất cầm chừng, nhiều sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, khu vực dịch vụ tăng chậm, đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục giảm mạnh. Tình hình lũ lụt để lại nhiều hậu quả nặng nề trong khu vực, có tác động xấu đến nền kinh tế đất nước. Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó trong năm 2008 nhà nước liên tục điều chỉnh giảm lãi suất trần cho vay làm ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động của NHNo&PTNT nói riêng. Hơn nữa trên địa bàn Hà Nội hiện nay có rất nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh cùng hoạt động, các ngân hàng kinh doanh đa năng nội tệ, ngoại tệ và tham gia thanh toán quốc tế. Thực trạng một khách hàng vay nhiều ngân hàng đang phổ biến và là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Tuy nhiên các ngân hàng không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, còn thiếu giải pháp có thể kiểm soát an toàn vốn vay. Việc canh tranh giữa các ngân hàng đôi khi gay gắt, thiếu lành mạnh, rất dễ xẩy ra rủi ro mà phòng giao dịch lại mới được thành lập số lượng khách hàng còn ít, năng lực sản xuất kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp khách hàng không đồng đều do vậy trong thời gian trước mắt sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng sẽ là một yếu tố không thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng. 3.1.2. Định hướng và một số chỉ tiêu dự kiến trong thời gian tới : Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa, phòng giao dịch đã phát huy được những thuận lợi cơ bản, nhận thức được những khó khăn trong thời gian tới. Với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, làm việc hết mình phòng giao dịch quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 2009 với phương châm “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, từng bước phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò là Sở đầu mối của toàn ngành, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá, từng bước hội nhập vào thị trường các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới” Phát huy những kết quả đã đạt được năm 2008. Năm 2009 phòng giao dịch phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về hoạt động tín dụng như sau: - Nguồn vốn tăng trưởng 35% so với năm 2008 - Nguồn nội tệ chiếm 20% tổng nguồn vốn - Dư nợ cho vay tăng trưởng 25% - Tỷ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn 20% so với tổng dư nợ - Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn chiếm 50% so với tổng dư nợ - Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp chiếm từ 90-95% tổng dư nợ cho vay Tiếp tục triển khai nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, củng cố và phát triển mạng lưới thanh toán với các chi nhánh. Hoàn chỉnh mô hình tổ chức, các cơ chế nghiệp vụ, từng bước đưa hoạt động của phòng giao dịch phát triển đáp ứng được với nhiệm vụ và tầm vóc của Sở đầu mối . 3.2 giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng . Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của phòng giao dịch trong chương II chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại ngân hàng đang còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Để chất lượng tín dụng tại ngân hàng trong thời gian tới thực sự hiệu quả thì ngân hàng cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: 3.2.1 Công tác huy động vốn : Nguồn vốn mà ngân hàng huy động bao gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác như phát hành các giấy tờ có giá... Các loại tiền gửi này có thể được hưởng lãi hoặc không và ngân hàng phải hoàn trả khi khách hàng yêu cầu. Đây là nguồn vốn cơ bản để ngân hàng hoạt động cho vay và các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho ngân hàng. Trong công tác này khách hàng yêu cầu cần phải nhanh chóng dễ dàng, tạo thoải mái khi giao dịch, bí mật...Do đó đòi hỏi sự hướng dẫn của cán bộ nhân viên ngân hàng. Phòng giao dịch là một đơn vị kinh doanh có nhiều ưu thế trong sự canh tranh giữa các ngân hàng như: +Là một Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước: Đây là một ưu thế tâm lý bởi khách hàng rất tin tưởng vào các Ngân hàng thương mại quốc doanh, khi gửi vào họ không sợ bị mất nhất là sau khi hàng loạt các trung tâm tín dụng đổ vỡ. +Là một ngân hàng có uy tín, có địa điểm vị trí hoạt động thuận lợi địa bàn hoạt động ngay tại Thủ đô Hà Nội là nơi đông dân cư có đời sống cao. +Về công nghệ ngân hàng: Đã đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính cập nhật thông tin hàng ngày, sử dụng máy ATM (máy rút tiền tự động) +Về cán bộ nhân viên: Cán bộ làm việc tại ngân hàng hầu hết là những cán bộ có năng lực có trình độ có chuyên môn, nhiệt tình trong công việc, tận tụy với khách hàng. Như vậy để phát huy được những thuận lợi trên nhằm thu hút tối đa lượng tiền gửi, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế trên địa bàn thì trong thời gian tới: Phòng giao dịch vẫn phải quan tâm hơn nữa đến trình độ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đối với các nhân viên giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng gửi tiền bởi với sự thông thạo nghiệp vụ, nhanh nhạy trong công tác, thái độ phong cách giao tiếp cư sử và văn hoá, lịch sự văn minh, ưa nhìn sẽ là một trong những nhân tố rất cơ bản quyết định đến sự thành công của ngân hàng trong công tác này. Cần tổ chức ra các kỳ thi tuyển có sự chọn lọc nghiêm minh, chính xác. Củng cố và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trụ phòng giao dịch. Việc nâng cấp, tân trang các phòng tiếp khách, điểm giao dịch sẽ khiến khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng hơn. Thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng phong phú hấp dẫn khách hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức các đợt phát hành kỳ phiếu trái phiếu bằng nội tệ, ngoại tệ ... Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để ngân hàng tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa hiểu biết đầy đủ về phòng giao dịch nên việc làm trên sẽ tạo được ưu thế của phòng giao dịch trên thị trường có như vậy các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư mới có thể tập trung về ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nên lượng vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế ngày càng lớn. Vì vậy nếu phòng giao dịch thực hiện tốt những công tác trên sẽ thu hút được một lượng vốn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng góp phần điều hoà vốn tốt nhất cho nền kinh tế. 3.2.2. Trong công tác cho vay và thu nợ : Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng và sự tồn tại của ngân hàng do vậy mục tiêu của ngân hàng ở đây không chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu quả trong công tác này Sở cần phải áp dụng các biện pháp như : * Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng : Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến việc không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Đều có thể đưa ra được quyết định cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng. Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các nhà ngân hàng cần phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan trọng đó là: Năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này uy tín nổi lên là nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín dụng được cấp với hi vọng sẽ được hoàn trả như thoả thuận. Nếu như khâu thẩm định được được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được việc này các nhà ngân hàng phải. -Thực hiện thu thập và xử lí thông tin một cách chính xác : Trong điều kiện phòng giao dịch hiện nay mới chỉ thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Vì vậy việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, các thông tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng hàng đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin vay của doanh nghiệp ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp, sổ sách kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa vào thị trường các sản phảm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi nhuận. Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra, hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất. Xa xỉ hay thiết yếu - đó sẽ là những thông tin có giá trị. Ngoài ra ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm. Các điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi nhuận v.v.. Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, phỏng vấn người xin vay để có được những thông tin về mục đích vay tiền, thu thập các thông tin về tình hình vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín của đơn vị vay vốn. Bên cạnh đó ngân hàng còn điều tra các thông tin từ bên ngoài như: thông tin điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tra từ các bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của nhno&ptnt chi nhánh bách khoa ...Tuy nhiên hoạt động của các trung tâm này mới chỉ đạt được một số kết quả nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu tạo lập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác. Trong thời gian tới khi Sở thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất thì nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ, trình độ học vấn, đạo đức, tính thật thà siêng năng, các tệ nạn như nghiện rượu, nghiện hút ... kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia đình (số lao động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác, mức thu nhập bình quân/ tháng và một số tình hình khác ... Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các thông tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định chính xác. - Phân tích tài chính đơn vị vay vốn : Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn, để hiểu rõ về năng lực tài chính của đơn vị đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Mặt khác việc phân tích tài chính là việc phân tích tình hình hoạt động của đơn vị vay vốn từ đó biết được tình hình tài chính, khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có hợp lý không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính được các khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho ngân hàng...Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán, hệ thống tài trợ vốn... Nên duy trì phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị vay vốn 6 tháng một lần để kịp thời phân loại khách hàng cho từng thời kỳ, từ đó có định hướng đầu tư và có cơ chế ưu đãi phù hợp. - Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và trình độ của người điều hành : Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn được hoàn trả. Hơn nữa sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trìng độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trước khi xem xét có cho vay hay không. * Phân loại khách hàng : Để đánh giá các khách hàng ngân hàng phải dựa vào một số tiêu chí nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ A,B,C khác nhau để từ đó đưa ra các giải pháp như: Tiến hành tập trung cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh, vay trả sòng phẳng. Các đơn vị hiện nay có khó khăn nếu ổn định được sản xuất kinh doanh có khả năng vượt lên, phản ánh kinh doanh hiệu quả thì nghiên cứu thẩm định kỹ lưỡng để có giải pháp tháo gỡ cho đơn vị vay vốn hoạt động nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, có điều kiện trả nợ ngân hàng. Từ chối, hạn chế cho vay khách hàng không có khả năng ổn định và phát triển trong sản xuất kinh doanh, không có các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và khách hàng mới không hội đủ các nguyên tắc, điều kiện tín dụng, xu hướng phát triển không vững chắc. Tiếp tục xây dựng và kiên trì thực hiện chiến lược khách hàng, xây dựng các cơ chế ưu đãi, tăng cường tìm kiếm khách hàng có chất lượng tốt, quy mô hoạt động lớn, đặc biệt là tổng công ty 90,91... * Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý : Khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cùng với doanh nghiệp cần phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Về nguyên tắc: Kỳ hạn nợ phải được xác định theo thời gian luân chuyển vốn. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra sự gấp gáp cho khách hàng trong việc trả nợ, khiến cho doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn của đối tượng khác để hoàn trả, tạo nên sự rối loạn trong trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nhiều khi làm tăng chi phí vốn. Ngược lại xác định kỳ hạn nợ quá thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra khả năng sử dụng vốn vào mục đích khác, vận động của vốn tín dụng sẽ thoát ra khỏi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự kiểm soát của ngân hàng. Do đó việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý là yếu tố quyết định đến việc khách hàng có trả nợ ngân hàng khi đến hạn hay không. * Đối với các khoản vay ngắn hạn: Kỳ hạn nợ ban đầu: Được xây dựng trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào một năm doanh nghiệp quay được mấy vòng vốn tức là xác định một vòng quay vốn của doanh nghiệp là mấy tháng và lấy số tháng đó để định ra kỳ hạn trả nợ. Muốn làm được điều này một mặt các doanh nghiệp phải cung ứng đầy đủ số liệu để cùng với ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ chính xác hoặc bản thân doanh nghiệp phải tự tính các khoản và thu được trong tương lai để lên kế hoạch trả nợ ngân hàng vì nếu không trả đúng hạn doanh nghiệp sẽ phải chịu một mức lãi suất của khoản nợ quá hạn (=150% lãi suất trên hợp đồng tín dụng). Do đó không chỉ ngân hàng bị rủi ro là không thu được vốn mà doanh nghiệp đương nhiên bị tăng chi phí do phải trả lãi suất cao hơn cho ngân hàng. Kỳ gia hạn nợ: Không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng được gia hạn nợ mà Ngân hàng chỉ nên gia hạn cho các doanh nghiệp thực sự khó khăn hoặc doanh nghiệp phải chứng minh cho ngân hàng thấy được là có những khoản thu mà doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được trong tương lai và ngân hàng phải đàm phán với doanh nghiệp chắc chắn về kỳ hạn tới. Tuy nhiên việc làm này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải khéo léo trong quan hệ với khách hàng làm sao cho khách hàng phải thành thực với những yêu cầu của ngân hàng. Đồng thời ngân hàng cũng cần phải kiên quyết, cứng rắn với những khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc những khách hàng nhiều lần không trả được nợ thì chuyển sang nợ quá hạn để có biện pháp sử lý. Đối với những khoản vay trung và dài hạn: Khi tính toán thời hạn trả nợ cuối cùng mà chưa hết thời hạn tối đa cho phép, thì thời gian gia hạn được phép tối đa bằng thời gian còn lại. VD: Thời gian cho vay dài hạn tối đa 10 năm. Nhưng khi tính toán dự án cho vay thời gian thu hồi vốn là 7 năm. Nếu thực tế khách hàng cần gia hạn nợ Ngân hàng có thể xem xét kéo dài thêm 3 năm nữa. * Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành và giải quyết cho vay theo đúng qui trình công việc : - Qui chế, thể lệ tín dụng: Trong những năm gần đây thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước luôn luôn được bổ sung, thay đổi để phù hợp với chính sách đổi mới và nền kinh tế thị trường. Vì vậy trong thực tiễn giải quyết công việc cán bộ làm công tác tín dụng khó có thể nắm vững được hết những văn bản pháp qui trong lĩnh vực này đang còn hiệu lực hoặc các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác tín dụng và khó lường trước được những nội dung trong văn bản pháp qui mâu thuẫn hoặc phủ nhận lẫn nhau. Thực trạng này đang là một trong những khó khăn, lúng túng cho cán bộ làm công tác tín dụng. Chính vì vậy trong điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật hiện nay, cần phải coi trọng việc vận dụng các văn bản pháp qui vào thực tiễn cho phù hợp với tình hình từng khách hàng. Ngoài ra cần phải giữ vững qui trình giải quyết công tác tín dụng theo 3 cấp: cán bộ thẩm định, trưởng phó phòng tín dụng tái thẩm định, lãnh đạo quyết định. Giải quyết công việc theo qui trình này sẽ đảm bảo thực hiện được dân chủ, phân định rõ ràng trách nhiệm và kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn tín dụng. Song để thực hiện nghiêm túc các thể lệ chế độ tín dụng thì ngoài việc giáo dục đào tạo ý thức cho cán bộ tín dụng, cần phải nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành thể lệ, chế độ từ đó qui trách nhiệm thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng. - Qui chế, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản: Việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản, khi vay vốn vẫn là một trong những biện pháp đảm bảo tín dụng. Được hầu hết các nước áp dụng và có hiệu quả bởi nó được thể chế hoá bằng pháp luật ở mức độ cao. + Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi. + Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ. + Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ . + Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Đối với khách hàng vay vốn phải có tái sản đảm bảo thì trên cơ sở NĐ 178 và thông tư 06, nhno&ptntvn đã ban hành “Quy định thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay trong hê thống nhno&ptntvn ” trong đó quy định về mức cho vay so với giá trị tài bảo đảm tiền vay như sau: + Tài sản thế chấp: Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản. +Tài sản cầm cố : Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản. +Cho vay bộ chứng từ xuất khẩu: Mức cho vay tối đa=90% giá tri thanh toán mà khách hàng được thụ hưởng của bộ chứng từ hoàn hảo. * Tăng cường kiểm tra giám sát các khoản vay : Để các khoản tín dụng thực sự được hiệu quả, có nghĩa là các khoản cho vay ra phải thu hồi được. Muốn vậy các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đây là một hoạt động rất quan trọng bởi có kiểm tra, giám sát mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn vay như thế nào? Có đúng mục đích không và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ra sao. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác kiểm tra kiểm soát ở phòng giao dịch còn kém hiệu quả vì thế đã xuất hiện nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh do nguyên nhân từ phía khách hàng. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới Sở cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức các đợt kiểm tra bất ngờ nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát, không chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ lãnh đạo, cán bộ tín dụng. mất phẩm chất, tiêu cực, thiếu trách nhiệm gây thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa, làm mất uy tín của ngân hàng. * Xử lý các khoản nợ quá hạn : Để nâng cao chất lượng tín dụng song song với việc thực hiện những giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ qúa hạn mới thì việc sử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi thiết nghĩ cũng rất quan trọng. Hiện nay, qua số liệu năm 2001 chúng ta thấy rằng tình trạng nợ quá hạn tại PGD còn ở mức cao. Vậy làm thế nào để thu hồi được nợ quá hạn? Việc đầu tiên là phải phân tích các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi để tìm hiểu nguyên nhân phát sinh từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp. Cán bộ tín dụng phải kiên trì bám sát các đơn vị để đôn đốc thu hồi nợ quá hạn, gửi công văn nhắc nhở khi các khoản nợ đã đến hạn mà khách hàng không trả, bày tỏ sự không hài lòng và nêu ra các biện pháp sử phạt nếu khách hàng cố tình không trả nợ và tất cả các công văn, hồ sơ cho vay cần phải lưu trữ cẩn thận để phòng trong quan hệ tố tụng. Kiểm tra, củng cố hồ sơ cho vay: Hồ sơ thế chấp tài sản của các khoản nợ qúa hạn và trực tiếp kiểm soát diễn biến về cung cầu, giá cả của các tài sản thế chấp để xác định các khoản vay, tài sản có đủ điều kiện và khả năng giải quyết thì thực hiện xử lý nợ quá hạn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, xử lý dứt khoát từng bước theo đúng qui trình nghiệp vụ và các qui định của pháp luật để làm cơ sở cho xử lý nợ rủi ro theo văn bản 238 của nhno&ptntvn. Mạnh dạn áp dụng các cơ chế tài chính cho phép để giải quyết các khoản nợ tồn đọng một cách có hiêụ quả như: - Đối với các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước: Khi có tình hình tài chính khó khăn không có khả năng trả nợ, phát sinh nợ quá hạn thì tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp như: Cung cấp thêm vốn để phục hồi kinh doanh, gia hạn nợ... và biện pháp cuối cùng là xin Chính phủ cho phép khoanh nợ. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Khi phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi mà ngân hàng đã xiết nợ bằng tài sản, những tài sản đó đã có đủ hồ sơ pháp lý hợp pháp khi thực hiện việc phát mại hoặc đưa sang trung tâm bán đấu giá tài sản, bán tài sản thu hồi vốn vay. Trường hợp không có thị trường tiêu thụ hoặc tiêu thụ chậm thì ngân hàng được phép cho thuê tài sản hoặc sử dụng vào phục vụ sản xuất kinh doanh tạo nguồn thu bù đắp phần lỗ phải trả lãi vốn huy động. Những tài sản thế chấp đã xiết nợ chưa đảm bảo tính pháp lý cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành chức năng để hoàn thiện và tiếp tục xử lý. Trong trường hợp sau khi phân tích nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ và phát mại tài sản thế chấp vẫn không còn khả năng thu thì đề nghị Nhà nước cho phép hạch toán vào rủi ro và phân bổ cho các năm sau: * Đa dạng hoá các hình thức tín dụng : Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một biện pháp hữu hiệu nhằm phân tán rủi ro cho ngân hàng tránh tình trạng “bỏ tất cả trứng vào một rổ”.Căn cứ vào việc phân loại các hình thức tín dụng trong chương I thì hiện nay PGD đã thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, thực hiện cho vay gián tiếp thông qua chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho vay ngắn, trung, dài hạn... Trong thời gian tới Sở cần phải tập trung hơn nữa trong việc đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. * Thực hiện các hoạt động Marketing ngân hàng : Đây là biện pháp quảng cáo để khách hàng có thể hiểu rõ hơn về ngân hàng và từ đó đến giao dịch với ngân hàng Marketing ngân hàng có nhiều biện pháp như: Treo biểu lãi suất ra ngoài, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để ngân hàng tự giới thiệu về mình, tổ chức các hội nghị khách hàng theo định kỳ hoặc nhân dịp nào đó. Các loại hình hội nghị khách hàng có thể tổ chức là: Hội nghị khách hàng lớn, hội nghị khách hàng truyền thống, hội nghị khách hàng mở rộng từ việc mở hôị nghị khách hàng ngân hàng có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ những ý kiến đóng góp của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể tác động vào tâm lý khách hàng qua việc trao đổi quà tặng cho khách hàng thứ bao nhiêu của mình hoặc có thể nhân một dịp nào đó trao quà tặng hay dành những ưu đãi riêng cho khách hàng... Những biện pháp này sẽ có tác dụng tâm lý tốt, có thể đem lại hiệu quả khi thực hiện. Hiện nay tại SGD thiết nghĩ việc thành lập ra phòng Marketing cũng rất quan trọng vì với một đội ngũ các bộ chuyên về công tác Marketing sẽ đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu về Sở, các dịch vụ của SGD góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở. * Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng : Trong mọi lĩnh vực con người là yếu tốt quyết định đó là một chân lý song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những người trực tiếp làm tín dụng - cán bộ tín dụng quyết định. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải sử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành vi vụ lợi... Vì vậy người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn thận, được bố trí hợp lý được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau. + Phải có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo kiến thức nghiệm vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính qui ở trình độ đại học hoặc cao đẳng. Hiện nay chúng ta có rất nhiều loại hình đào tạo ở các hình thức. Thời gian chương trình khác nhau nên tất yếu sẽ có những loại chất lượng khác nhau. Vì vậy khi tuyển chọn cán bộ tín dụng cần có sự phân biệt rõ ràng và cần chọn những người chính qui dài hạn vì: Một mặt để học được chính qui dài hạn những người đó phải có một chỉ số thông minh nhất định, phương pháp và chất lượng đào tạo ở cấp học chính qui dài hạn sẽ tạo cho người học một lượng kiến thức cơ bản nhiều hơn sâu hơn các loại đào tạo khác. Trong quá trình làm việc Cán bộ tín dụng còn cần phải có tinh thần học hỏi, nghiên cứu học tập, nhằm cập nhật, bổ xung kiến thức để phù hợp và đáp ứng được sự vận động và phát triển của xã hội. + Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao: Người cán bộ tín dụng hơn bao giờ hết phải có đạo đức tốt, không thể bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, phải coi sự nghiệp, danh dự bản thân và lợi ích của ngân hàng lên trên hết. Bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm nghề nghiệp rất cao mới có thể xử lý tốt công việc được giao. Thể hiện có trách nhiệm cao trong việc tìm tòi, học hỏi nghiệp vụ, trách nhiệm cao trong từng công việc, dám làm dám chịu trách nhiệm với cách xử lý của mình. Thực tế đã có một số cán bộ tín dụng đã không có đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng cương vị quyền hạn để lừa đảo hoặc cấu kết với khách hàng để lừa đảo lấy tiền ngân hàng cũng có một số cán bộ tín dụng mặt dù không vụ lợi nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ làm theo chỉ đạo của người khác hoặc về cảm tình cá nhân mà bỏ qua các qui trình, tiêu chuẩn tín dụng nên gây thất thoát làm giảm chất lượng tín dụng. + Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. Để có được kinh nghiệm và xác định được bản lĩnh nghề nghiệp của một cán bộ cần phải có thời gian. Vấn đề này đề cập đến việc cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện và ngân hàng phải có chính sách đào tạo trong quá trình hoạt động thực tế. Đồng thời khi phân công giao việc cho cán bộ tín dụng cần chú ý đến kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp tương xứng với tính khó khăn phức tạp của công việc, lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phụ trách... Trên cơ sở những tiêu chuẩn nêu trên SGD với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành thì tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng lại càng nên chặt chẽ hơn. Thấy được tầm quan trọng của người cán bộ nên trong năm vừa qua nhno&ptntvn đã tổ chức ra cuộc thi tuyển chọn người tài để củng cố cán bộ nhno&ptntvn nói chung và SGD nói riêng. Mặc dù vậy nhưng số lượng cán bộ tín dụng tại phòng kinh doanh SGD vẫn còn thiếu. Hy vọng rằng trong năm tới với sự sáng suốt lựa chọn của ban lãnh đạo phòng kinh doanh sẽ có thêm được những cán bộ thực sự có đức, có tài góp phần nâng cao chất lượng công tác tín dụng. * Tranh thủ sự chỉ đạo và ủng hộ của các cấp, các ngành : Tất cả các biện pháp trên không chỉ đòi hỏi bản thân tất cả cán bộ công nhân viên của SGD phải tích cực mà bản thân họ phải là những người tài ba, tận dụng mọi nguồn vốn để kinh doanh và là những người có tầm nhìn chiến lược đưa SGD ngày càng phát triển chiếm thị phần lớn trên thị trường, đạt được mục tiêu lợi nhuận và họ phải biết phát huy hết khả năng thế mạnh của đơn vị mình đồng thời tranh thủ sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung tâm điều hành nhno&ptntvn sao cho phát huy được vai trò và chức năng của một SGD chính của hệ thống nhno&ptntvn Kết luận Hoà chung với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, phòng giao dịch- nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện trên nhiều mặt hoạt động đặc biệt là đối với hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản nắm vai trò là hoạt động xương sống tại Sở. Với sự cố gắng hết mình của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong sự giúp đỡ tận dùng của các ban ngành trong những năm qua Sở đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những mang lại hiệu quả cho bản thân phòng giáo dịch mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu cho ngân sách Nhà nước... Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hoàn thiện phòng giao dịch đã gặp không ít những khó khăn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng như tình trạng nợ quá hạn... Vậy để hoạt động kinh doanh trong thời gian tới được hiệu quả hơn đòi hỏi sự nỗ lực quyết tâm của Sở cũng như sự hỗ trợ của Trung tâm điều hành, và các ban ngành có liên quan. Em hy vọng rằng trong thời gian tới phòng giao dịch sẽ thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tài liệu tham khảo 1. Feredrics.Míkin, tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính NXB: Khoa hoc và kỹ thuật nam 1994. 2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ TS: Nguyễn Hữu Tài. NXB thống kê Hà Nội năm 2000 3. Peter Rose, quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính. 4. Báo cáo thường niên của NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa trong 3 năm 2006 đến năm 2008. 5. Ngân hàng thương mại của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà, NXB: Đại học kinh tế quốc dân năm 2007. 6. Các trang wed: - www.vnexpress.com.vn - www.vneconomy.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6196.DOC
Tài liệu liên quan