Đề tài Một số vấn đề lí luận về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế

Tài liệu Đề tài Một số vấn đề lí luận về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3 I. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 3 1. Khái niệm về toàn cầu hoá. 3 2. Khái niệm về khu vực hóa 5 3. Khái niệm về hội nhập 6 3.1.. Định nghĩa về hội nhập. 6 3.2. Các hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế 8 II. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế 10 1. Sự phát triển của khoa học - công nghệ 10 2. Chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế 11 3. Sự quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty xuyên quốc gia 12 Chương II. THỰC TRẠNG KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM. 14 I.Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam 14 1. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan 14 2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá 15 II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22 1. Giai đoạn trước năm 1985 22 2. Quá trình đổi mới , mở cửa, hội nhập từ 1...

docx48 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề lí luận về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3 I. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 3 1. Khái niệm về toàn cầu hoá. 3 2. Khái niệm về khu vực hóa 5 3. Khái niệm về hội nhập 6 3.1.. Định nghĩa về hội nhập. 6 3.2. Các hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế 8 II. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế 10 1. Sự phát triển của khoa học - công nghệ 10 2. Chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế 11 3. Sự quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty xuyên quốc gia 12 Chương II. THỰC TRẠNG KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM. 14 I.Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam 14 1. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan 14 2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá 15 II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22 1. Giai đoạn trước năm 1985 22 2. Quá trình đổi mới , mở cửa, hội nhập từ 1986 đến năm 2000. 24 21. Chính sách đổi mới, mở cửa đơn phương từ 1986 đến 1990 24 2.2. Chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ từ 1991 đến 1995 25 2.3. Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1996 đến nay 28 III. Những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm của quá trình hội nhập 30 1. Những thành tựu đã đạt được sau 15 năm mở của đổi mới 30 2. Những hạn chế cần khắc phục.. 32 3. Những bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới 35 IV. Chủ trương , nguyên tắc chỉ đạo hội nhập kinh tế cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam 37 1. Mục tiêu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 37 2. Chủ trương, nguyên tắc của đảng và nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 38 V. Những nhiệm vụ và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập 39 KẾT LUẬN 43 LỜI MỞ ĐẦU Vào những thập niên của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự gia tăng mạnh mẽ đó đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này, không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập một mặt sẽ đón nhận được những cơ hội cho phát triển, Song mặt khác, cũng phải đối với hàng loạt những thách thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra. Vì vậy, trong Đại hội đảng IX của Đảng ta đã nêu rõ: “Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế” và Đảng ta đã khẳng định: "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr 157,120 – NXB chính trị quốc gia). Đã có rất nhiều đề án, tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là vấn đề mang tính thời đại và còn trong quá trình diễn biến nên đề án của em không tránh khỏi những thiếu sót sai lầm. Em rất mong có sự đóng góp của cô giáo và các bạn để đề án của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Thăng Long đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ I. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Khái niệm về toàn cầu hoá Thuật ngữ toàn cầu hoá ( tiếng anh viết là globalization) xuất hiện đầu tiên trong từ điển của Anh vào năm 1961 và được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980 trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một quá trình trong quan hệ quốc tế hiện đại, Tuy đến nay, hiên tượng này không còn mới mẻ gì, nhưng để hiểu đúng và đầy đủ về nó thì cần phải xem xét nó trên nhiều phương diện. Điều cần thấy là do thực tế vận động của toàn cầu hoá cùng với những hệ quả của nó đã đưa lại những cách lý giải và thái độ không giống nhau về xu thế này. Nó xuất phát từ lý do chủ yếu là sự khác biệt về lợi ích và nhận thức. Nhưng chung quy lại thì toàn cầu hoá có thể được hiểu theo hai nghĩa như sau: Theo quan niệm rộng: Các định nghĩa loại này xác định toàn cầu hoá như là một hiện tượng hay một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau của đời sống xã hội( từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường ...) giữa các quốc gia. Tiến sỹ janart scholte đưa ra một định nghĩa rất tổng quát và rộng lớn về khái niệm toàn cầu hoá khi cho rằng:” toàn cầu hoá là một quan niệm có nhiều mặt vì nó bao quát cả lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị và các hậu quả của sự phân phối”. Cũng theo tinh thần đó, các học giả GS.TS Dương phú hiệp và học giả Lê Hữu nghĩa đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn:” toàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau của tất cả các khu vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới”. Vậy những quan niệm như quốc tế hoá là xu thế trước đó của toàn cầu hoá. Và nó là một quá trình nên nó khác với các vấn đề toàn cầu. Như vậy thì các quốc gia dù ở mức độ này thay mức độ khác trên thế giới đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Nếu không các quốc gia này sẽ rơi vào lạc hậu Theo quan niệm hẹp, Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và thực tế toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế nổi bật nhất. Nhìn chung các định nghĩa thuộc loại này xem toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ hiện tượng hay quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia Về cơ bản, toàn cầu hoá bao hàm sự tăng lên của thị trường chức năng thế giới không ngừng xâm nhập và lấn át các nền kinh tế quốc gia đang trong quá trình mất đi đặc tính quốc gia. Charles p oman định nghĩa toàn cầu hoá là:” sự tăng lên, hoặc một cách chính xác hơn là sự tăng ngày càng nhanh của các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi biên giới giữa các quốc gia và các khu vực”. Như vậy, thực chất của toàn cầu hoá về kinh tế là tự do kinh tế và hội nhập quốc tế, trước hết là về thương mại, đầu tư , dịch vụ.... tự do hoá kinh tế cũng có những mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến xoá bỏ thuế quan, từ tự do thương mại đến tự do hoá đầu tư, dịch vụ, từ tự do hoá kinh tế trong quan hệ hai bên đến nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn cầu. Theo GT.TS Dương Phú Hiệp thì” toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thống nhất, sự gia tăng của xu thế này được thể hiện sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu”. 2. Khái niệm khu vực hoá Khái niệm về khu vực hoá đã có từ lâu cùng với xu thế toàn cầu hoá phát triển rộng rãi trên toàn thế giới, xu thế khu vực hoá nổi lên là xu thế các nước tập hợp thành những nhóm khu vực ở lĩnh vực khác nhau. Nó cũng đựơc định nghĩa theo hai quan niệm rộng và hẹp Theo quan niệm rộng: khái niệm khu vực hoá thường được sử dụng để chỉ một hiện tượng hay khuynh hướng hợp tác hay liên kết giữa các nước và hình thành những nhóm hoặc tổ chức khu vực hoạt động trên một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau. Giá sư C.P.oman định nghĩa khu vực hoá là:” sự dịch chuyển hai hoặc nhiều xã hội theo hướng liên kết chặt chẽ giữa chúng với nhau”. Nhìn chung, các nhà lí luận và nghiên cứu gắn khái niệm khu vực hoá với khái niệm liên kết khu vực và các định chế, tổ chức khu vực. Theo quan niệm hẹp: khái niệm khu vực hoá nhìn chung được đề cập như một hiện tượng trong quan hệ quốc tế bao gồm các hoạt động hợp tác kinh tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực có mức độ liên kết kinh tế khác nhau. Ta có thể thấy về cơ bản nội dung của khu vực hoá và toàn cầu hoá là giống nhau. nó chỉ khác nhau về quy mô và phạm vi địa lý của quá trình. Khi quá trình này diễn ra giữa hai hoặc nhiều nước trong một khu vực địa lý nhất định, nó được gắn với khái niệm khu vực hoá. khi quá trình này có sự tham gia của rất nhiều quốc gia ở những khu vực địa lý khác nhau, nó được gắn với khái niệm toàn cầu hoá. Nhìn một cách tổng quát, nó là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế, giữa các luồng thông qua sự gia tăng các luông giao lưu hành hoá và nguồn lực vượt qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành của các định chế, tổ chức quốc tế nhằm quản lý các hoạt động các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế. Tuy toàn cầu hoá và khu vực hoá là hai hiện tượng có những khác biệt nhất định nhưng cơ bản thống nhất với nhau, có thể xem khu vực hoá là bộ phận của qúa trình toàn cầu hoá 3. Khái niệm về hội nhập. 3.1. Định nghĩa về hội nhập Như vậy, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá là một. Xu thế tất yếu của các nước, khi trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao , khi đó cần phải có sự hợp tác quốc tế và quốc tế hoá sản xuất. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay không thể không tham gia quá trình toàn cầu hoá tức là phải hội nhập quốc tế. Thực ra, khái niệm hội nhập cũng được xuất hiện cùng với các khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và việc nghiên cứu nó cũng đã được tiến hành từ lâu tuy nhiên chưa có một định nghiã nào đầy đủ về nó được thừa nhận. Về thực chất, hội nhập chính là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Có thể định nghĩa như sau:” hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương”. Mỗi nước có thực sự hội nhập, có thực sự tham gia vào quá trình toàn cầu hóa là do chính sách bên trong của mỗi nước có làm cho nước đó tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Vì vậy, nội dung chủ yếu của quá trình này là: Thứ nhất là ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế, cùng các thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với thành viên của các định chế, tổ chức đó. Thứ hai tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để đảm bảo đạt được mục tiêu của quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam kết quốc tế và hội nhập. Những công việc chủ yếu đó là: Điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật giữa các nước thành viên ngày càng thông thoáng hơn. Việc điều chỉnh này trước hết có ý nghĩa là làm cho hệ thống luật định của mỗi quốc gia về chế độ thương mại( bao gồm cả ngoại thương, sản xuất kinh doanh, thuế, vấn đề xuất nhập cảng, lưu trú các doanh nhân,...) ngày càng hoàn chỉnh và phù hợp với các quy định của các định chế, tổ chức quốc tế mà các nước tham gia. Nhưng mỗi nước muốn quá trình hội nhập của nước đó trở thành chủ động, tức là có sự chuẩn bị khi hội nhập thì về cơ bản phải làm những công việc sau: Thứ nhất điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phù hợp với quá trình tự do hoá mở cửa nhằm làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Mục tiêu cao nhất của sự điều chỉnh này là tạo ra được nền kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt nhất những ưu thế của đất nước trong quá trình hội nhập. Thứ hai tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội đặc biệt là cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ ba đào tạo và chuẩn bị tốt nguồn nhân lực nhất là những người có trình độ cao để có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Các hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế. Do các nước đều có một điều kiện nhất định nên hình thức và mức độ hội nhập của các quốc gia cũng rất khác nhau. Tuỳ theo chính sách mở cửa tự do hoá để hội nhập mà có những cấp độ khác nhau. ở cấp độ đơn phương, song phương hoặc đa phương. Ở cấp độ đơn phương,ở mức độ này các quốc gia chỉ chủ động thức hiện những biện pháp tự do hoá mở cửa đối với những lĩnh vực mà họ thấy cần thiết vì mục đích phát triển kinh tế của mình, chứ không nhất thiết do quy định của các định chế, tổ chức kinh tế quốc tế họ đã tham gia. Ở cấp độ song phương, các nước đàm phán để ký với nhau các hiệp định song phương trên cơ sở nguyên tắc của một khu vực mậu dich tự do. Ở cấp độ đa phương, nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia vào những định chế, tổ chức kinh tế và khu vực toàn cầu. Nó có thể là những định chế tổ chức kinh tế khu vực bao gồm các nước thành viên cùng trong một khu vực địa lý giới hạn( Ví dụ: liên minh châu âu-EU, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á- thái bình dương- APEC). Những định chế, tổ chức toàn cầu bao gồm các thành viên từ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới Và tuỳ theo mức độ hội nhập có thể chia ra làm 5 mức độ với 5 mô hình từ thấp đến cao như sau: Khu vực mậu dịch tự do: la giai đoạn thấp nhất của tiến trình hội nhập kinh tế. ở giai đoạn này, các nước thành viên tiến hành giảm và loại bỏ dần các hàng rào thuế quan, các hạn chế định lượng và các biện pháp phi thuế quan. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện các chính sách thuế quan đối với các nước ngoài khối (ví dụ: ASEAN, NAFIA) Liên minh thuế quan: đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình hội nhập. Ngoài những công việc ở giai đoạn trên, thì các thành viên phải cùng nhau thực hiện chính sách thuế quan chung với các nước ngoài khối ( ví dụ: ANDEAN và liên minh thuế quan giữa cộng đồng kinh tế châu âu) Thị trường chung: là mô hình thức liên minh thuế quan cộng thêm với việc bãi bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển các yếu tố sản xuất khác. Như vậy, trong mô hình này, không những hàng hoá và dịch vụ mà hầu hết các nguồn lực khác đều được tự do lưu chuyển giữa các thành viên(ví dụ: cộng đồng kinh tế châu âu-EC) Liên minh kinh tế:là mô hình hội nhập ở giai đoạn cao dựa trên cơ sở mô hình thị trường chung cộng thêm với việc phối hợp các chính sách kinh tế giữa các thành viên. Liên minh toàn diện là giai đoạn cuối của quá trình hội nhập. Các thành viên thống nhất về chính trị và các lĩnh vực kinh tế khác. Như vậy, ở giai đoạn này quyền lực quốc gia ở các lĩnh vực được chuyển giao cho một cơ cấu cộng đồng (ví dụ:quá trình thành lập Hoa Kỳ từ các thuộc địa của Anh trước đây) Tuy sự phân biệt ở trên chỉ mang tính chất lý thuyết và trên thực tế các hình thức hội nhập kinh tế rất phong phú. Và có rất nhiều trở ngại trong quá trình hội nhập giữa các nước. Đó là các nước thành viên phải có nền kinh tế vận hành tương đối giống nhau. Các nền kinh tế có trình độ phát triển không quá cách xa nhau. Rồi là sự khác biệt về hệ thống chính trị – xã hội giữa các thành viên là những cản trở đối với quá trình hội nhập. Tuy nhiên những cản trở này đang dần không còn trở nên quan trọng nữa. Các nước trên thế giới để không bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển thì đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình mà vẫn đảm bảo được an ninh chính trị, độc lập Kinh tế và bản sắc dân tộc của các nước trong một thế giới do sự tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen ở nhiều chiều, ở nhiều tầng lớp giữa các quốc gia khác nhau. II. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. 1. Sự phát triển của khoa học- công nghệ. Đây là nhân tố quan trọng nhất và xuyên suốt các thời kỳ phát triển của quá trình toàn cầu hoá. Vì bản chất của toàn cầu hoá là kết quả của sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Như vậy thì suy cho cùng thì toàn cầu hoá là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất mà nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định. Khi mà bắt buộc phải có sự hợp tác quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất, khi mà sự tiến bộ của phương tiện giao thông làm cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và thời gian. Sự phát triển đó phá vỡ kinh tế tự cấp tự túc. mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này , nhu cầu tiêu dùng của dân cư không chỉ đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng quốc gia riêng lẻ mà còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực. Những tiến bộ của khoa học- kỹ thuật và công nghệ bao gồm những phát minh sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các phương pháp công nghiệp hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào trong thực tiễn, kinh doanh làn tăng năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư cho xã hội với giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự phân công, chuyên môn hoá lao động sản xuất và kinh doanh theo ngành nghề, cùng lãnh thổ giữa các quốc gia. nhờ đó, sự trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một tăng. Hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, một mô hình kinh tế đã hình thành. Đó là mô hình kinh tế tri thức trong đó tri thức trỏ thành một lực lượng sản xuất ngày càng quan trọng. Nó mở ra thời kỳ mới tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh xu thế toàn cầu hoá. Các công việc giao dịch được thực hiện ngày càng nhanh mặc dù cách xa về địa lý nhưng các hàng hoá có hàm lượng tri thức cao ngày càng được trao đổi nhiều trên thị trường thế giới. Ngoài ra , mạng internet hình thành cho phép con người có thể biết được hầu hết mọi diễn biến của đời sống kinh tế- xã hội trên thế giới trong giây lát và chính điều này, sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở cửa, giao lưu, hội nhập 2. Chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế. Đây là yếu tố mang tính chủ quan tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển theo hướng phục vụ cho lợi ích của các quốc gia. Nhân tố này đóng vai trò then chốt đến mức độ hội nhập của quốc gia đó. Tuỳ theo tình hình trong nước mà quốc gia đó hội nhập vao xu thế toàn cầu hoá ở mức độ nào. Nội dung của chính sách mở cửa , tự do hoá là loại bỏ dần dần các hàng rào nhân tạo cản trở sự giao lưu quốc tế như hạn chế dần sự độc quyền nhà nước trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, cho phép nước ngoài đầu tư kinh doanh một cách ít hạn chế nhất, thực hiện cạnh tranh tự do, binh đẳng giữa các thành phần kinh tế, hạ thấp và bãi bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên điều cần phải thấy là nếu thực hiên ồ ạt các chính sách trên thì đối với những quốc gia mà nền kinh tế còn yếu kém lại là”con dao hai lưỡi” bóp chết các ngành sản xuất trong nước còn non trẻ. Ngay cả những nước có nền sản xuất lớn thì có những ngành họ cũng phải bảo hộ nhất là nông nghiệp. Điều này cho thấy quá trình toàn cầu hoá là một quá trình rất phức tạp đầy mâu thuẫn và sự khôn khéo của các quốc gia trong các chính sách kinh tế của mình. Hiện nay, ngày càng có nhiều chính phủ chuyển sang chính sách tự do hoá mở cửa thị trường và loại bỏ những cơ chế điều hành cản trở các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính sách này đã tạo ra môi trường thông thoáng hơn bao giờ hết cho sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Chính sách tự do hoá dã tạo điều kiện cho việc khai thác các công nghệ mới ở thị trường có quy mô toàn cầu ở mọi nơi trên thế giới . Nhiều nước đã mạnh dạn dựa nhiều hơn vào các thị trường quốc tế nhằm tạo các điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của mình. Tác động của chính sách mở cửa, tự do hoá có thể đánh giá qua các mặt như sau: Sự gia tăng của thương mại quốc tế qua những chỉ số cơ bản như tăng tổng giá trị tuyệt đối của thương mại thế giới, tỷ lệ giữa tổng giá trị thương mại và GDP của thế giới, khoảng cách giữa mức tăng thương mại thế giới và tăng trưởng hàng năm. Đầu tư trực tiêp nước ngoài và di chuyển tư bản giữa các nước tăng nhanh. Sự gia tăng của các luồng lưu chuyên công nghệ và phân công giữa các nước thể hiên qua số lượng người làm việc được lưu chuyển giữa các nước và mức tăng hàng năm của dòng lưu chuyển này. Sự trao đổi công nghệ thể hiện qua các hợp đồng mua bán và dự án chuyển giao công nghệ cũng như tổng giá trị của các hợp đồng , dự án đó. 3. Sự quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Sự quốc tế hoá hoạt động sản xuất kinh doanh không những là nguyên nhân quan trọng trực tiếp gây ra quá trình toàn cầu hoá mà con là nhân tố thúc đẩy các giai đoạn của quá trình. Chính sách mở cửa tự do hoá thương mại của các nước đã làm cho các công ty có thể phân bố cơ cấu sản xuất trên toàn cầu thông qua việc đầu tư nước ngoài. Nhờ các tiến bộ về khoa học công nghệ thông tin, các công ty có thể bố trí những bộ phận khác nhau của dây chuyên sản xuất ở các nước mà vẫn quản lý được. Về thực chất, sự quốc tế hoá các hoạt động sản xuất chẳng qua là sự mở rộng quy mô sản xuất trên phạm vi toàn cầu nhưng tại sao lại phải mở rộng phạm vi sản xuất ở các nước bởi vì có thể tận dụng nguồn nguyên nhiên vật liệu các nước và giúp các nước chuyên môn hoá sâu hơn qua đó giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm. Đồng thời có thể mở rộng thị trường ở các nước này. Khi các công ty này mở chi nhánh ở các nước thì việc làm , vốn công nghệ và kỹ năng cũng đã được luân chuyển khắp thế giới. Do tác động của hai nhân tố đầu , làm cho các quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng được quốc tế hoá rộng rãi và ở mức độ cao hơn nhưng quá trình này tác động trở lại hai nhân tố kia thúc đẩy nó phát triển và chủ yếu thông qua: Thứ nhất là do hàm lượng công nghệ cao ngày càng lớn trong các hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra đòi hỏi cac yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh các nước (như vốn, máy móc, thiết bị,nguyên nhiên vật liệu, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, nhân công...) nhiều hơn, phân công lao động sâu sắc hơn. Ngày nay, hầu hết các sản phẩm trên thế giới dù là dưới dạng hàng hoá và dịch vụ đều được thông qua một quá trình mang tính quốc tế hoá cao. Mỗi một quốc gia đều có thể tham gia vào dây chuyền sản xuất quốc tế. theo một nhiên cứu của ngân hàng thế giới, năm 1995 sản phẩm chế tạo của các chi nhánh chiếm tới 20% tổng sản lượng thế giới trong ngành này Thứ hai vai trò ngày càng lớn của các công ty xuyên quốc gia. Vai trò quan trọng của các công ty xuyên quốc gia đối với xu thế toàn cầu hoá thể hiện ở chỗ chúng không những đóng góp tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất thế giới mà còn trực tiếp liên kết các nền kinh tế quốc gia lại với nhau và làm cho quá trình phân công lao động quốc tế trở nên sâu sắc hơn thông qua các hoạt động chủ yếu là: - Đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. - Tham gia vào việc lưu chuyển tư bản, các giao dịch tài chính và chuyển giao công nghệ giữa các nước trên thế giới - Thúc đẩy thương mại toàn cầu hoá và khu vực thông qua lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ “ nội bộ của các công ty xuyên quốc gia. Trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới. - Gây ảnh hưởng đến chính sách của các nước. Do các công ty xuyên quốc gia có thế lực kinh tế rất to lớn, họ có ảnh hưởng không nhỏ quá trình quyết sách ở các nước, đặc biệt là đối với những chính sách kinh tế- xã hội có ảnh hưởng tới lợi ích của các công ty xuyên quốc gia, tác động này có thể tích cực và cũng có thể tiêu cực đối với các nước trong quá trình tự do hoá mở cửa. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM. I. Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam. 1. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan Khi mà xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh thì các nước trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều phụ thuộc vào nhau, quan hệ qua lại với nhau. Vì thế, nước nào đóng cửa lại với thế giới là đi ngược với xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể phải trả giá nhất định, song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển và nó cũng vì mục tiêu phát triển kinh tế nhanh đuổi kịp các nước khác trên thế giới, xu thế trên trở thành xu thế khách quan, lôi kéo tất cả các quốc gia không ngoại trừ một nước nào. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam muốn bắt kịp các nước khác trên thế giới thì phải gia nhập vào “ dòng chảy” phát triển của thế giới, nhanh chóng học hỏi và nắm bắt những công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất tạo ra những bước đột phá phát triển đất nước. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế là tất yếu khách quan. Việc nhận thức được xu thế chung của thời đại và đề ra việc hội nhập là một trong những tư tưởng sáng suốt của đảng ta đã khẳng định:” Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp phải gắn liền với việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, hội nhập kinh tế quốc tế” Nước ta có điểm xuất phát thấp lại thiếu kinh nghiệm hoạt động trên thương trường thế giới nên khi hội nhập quốc tế phải chủ động và có lộ trình chu đáo khai thác có hiệu quả nguồn lực của nước ngoài, tại điều kiện khai thác triệt để nguồn lực trong nước , nhất là nguồn lực lao động. Những vấn đề khó khăn, thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là mở rộng hợp tác cùng có lợi, bảo vệ được lợi ích kinh tế, độc lập tự chủ của quốc gia. Nhận thức được các thách thức đó đảng ta chủ trương:” toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một qúa trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia”Những tư tưởng quan điểm của đảng ta thể hiện tính tích cực tham gia vào toàn cầu hoá nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới, song phải đảm bảo tính độc lập tự chủ về kinh tế, chính trị Như vậy, Việt Nam muốn hội nhập kinh tế quốc tế thì phải có những điều kiện kinh tế nhất định thì mới hội nhập được nhưng đó cũng là con đường duy nhất mà chúng ta phải đi. Chỉ khi chúng ta hội nhập mà vẫn đứng vững vẫn phát triển được thì chúng ta mới có cơ hội cạnh tranh với các nước khác. 2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan bởi vì khi hội nhập thì nó đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho đất nước, mở ra những cơ hội phát triển rất lớn. Những lợi ích và cơ hội đó là: Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay, nước ta đã có quan hệ với 154 nước ở khắp các châu lục. kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã tăng từ 677,8 rúp/USD năm 1998 lên 14,3 tỷ rúp/USD lên tới 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm 80, đến nay cán cân xuất- nhập khẩu đã gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có rất ít hàng hoá đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Đến cuối những năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt may, giầy dép, chế biến thuỷ sản... Nhìn về tương lai, nếu chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA, tức là giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước thành viên xuống từ 0 đến 5% vào năm 2006, thì lúc đó các hàng hoá của Việt Nam có thể tiêu thụ khắp thị trường ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ USD. Nếu sau một số năm nữa, Việt Nam gia nhập WTO,thì đương nhiên được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với khoảng 150 nước thành viên của WTO( hiện nay đã có 134 nước thành viên) Nhờ vậy, hàng hoá nước ta xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Từ năm 2010, hàng rào thuế quan của các nước phát triển thuộc APEC( hiện co 21 nước thành viên chiếm 60% GDP, và 45% thương mại thế giới) sẽ bãi bỏ, nước ta cũng có thể mở rộng thị trường, tiêu thụ hàng hoá sang các nước này. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá Việt Nam tại các nước đó rất lớn. Dĩ nhiên, nước ta có bán được nhiều hàng hoá ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã ... Tóm lại là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Hai là, đi đôi với mở rộng thị trường ra thế giới, Việt Nam đã tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 đến cuối năm 2000 đã có trên 700 công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta với hơn 3000 dự án, có tổng số vốn đăng ký 36 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện khoảng 17 tỷ USD. Mặc dù trong mấy năm gần đây, do ảnh hưởng của cuổc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực vũng do chúng ta chậm tiếp tực đổi mới cơ chế chính sách, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta giảm mạnh so với những năm 90, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào sự phát triển kinh tế đất nước vẫn có xu hướng gia tăng: tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã lần lượt tăng lên 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997;9,8% năm 1998; khoảng 10% năm 2000. Ngoài việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, các dự án đầu tư còn tạo ra khoảng 35 vạn việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp. Ba là cùng với các dòng vốn đầu tư trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghẹ mới cũng được đưa vào nước ta. Trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giầy,... các công nghệ được chuyển giao là tương đối hiện đại. Cũng có những công nghệ thuộc loại trung bình không còn hiệu quả ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu nhưng lại là thích hợp và còn hiệu quả ở nước ta trong một số ngành sản xuất khác do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới. Dĩ nhiên, ngoài việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn chế, kinh nghiệm tiếp cận thị trường chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn yếu, cho nên con đường thích hợp đối với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp như nhưng năm trước, qua đó mà tiếp nhận chuyên giao và sử dụng công nghệ tiên tiến có hiệu quả hơn. Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện khai thông việc giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế giới. Trong các nguồn lực của sự phát triển hiện nay, nguồn lực con người với trí tuệ là tay nghề cao ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. Hiện nay, với dân số trên 79 triệu người, Việt Nam có nguồn nhân lực khá dồi dào, tỷ lệ lao động được đào tạo kỹ thuật chuyên môn còn thấp( năm 2000 mới đạt trên 20%), ít hiểu biết về thị trường và nghiệp vụ kinh doanh, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn khá cao. Vì thế , nước ta đang thừa nhiều lao động giản đơn được đào tạo trong khi lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật và biết kinh doanh. Trong tình hình ấy, chúng ta đã thông qua con đường hội nhập kinh tế quốc tế để vừa xuất khẩu mỗi năm khoảng 24-25 ngàn lao động ra bên ngoài vừa thực hiện các hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu, được xem là xuất khẩu lao động tại chỗ, nhờ vậy mà giảm bớt sức ép về việc làm ở trong nước. Đồng thời chúng ta đã nhập khẩu một số lại lao động kĩ thuật cao để giúp cho việc quản lý ,điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh có công nghệ tiên tiến ,qua đó chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm cần thiết . Dù nhìn ở từng điểm riêng rẽ hay nhìn một cách tổng thể thì việc mở rộng thị trường ra bên ngoài, gia tăng khả năng thu hút vốn trực tiếp, tạo cơ hội tiếp nhận chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh giao lưu nguồn nhân lực giữa nước ta với thế giới. Tất cả đều đã góp phần đưa lại những nhân tố mới cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm vừa đặt ra yêu cầu và vừa tạo ra điều kiện cho một bộ phận đáng kể công nhân, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật của viên chức của ta tiếp cận được những công nghệ mới, học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến, qua đó nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực của chính chúng ta. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đem lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thách thức nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt để vượt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất lớn; ngược lại ,nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách khôn khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước. Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan thì hàng hoá nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào nước ta chèn ép nhiều đơn vị kinh doanh trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó, nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiêp trung bình và yếu kém, thường đỏi hỏi nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích về lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh đó được bởi lẽ: - Một là Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các mốc 2006 and 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO. - Hai là việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là “con dao hai lưỡi”.Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành “ gập ông đập lưng ông”. Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho biết: “việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng là cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khâủ chưa có thuế là 50%( khoảng 20-22 USD/ tấn). Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD(11 triệu tấn x 20 triệu USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành xi măng, trong đó có gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước, gấp gần 4 lần ngân sách khoa học- kỹ thuật” Thách thức thứ hai, một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt là phải làm giữ vững được độc lập tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.Không ít ý kiến cho rằng, nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế rất thấp nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất nhỏ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó, nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì chúng ta khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững được độc lập tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn nhận theo quan điểm mới. Trước hết, cần nhận rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình. Tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đo nhưng độc lập, tự do không có nghĩa là đóng cửa với thế giới quan niệm độc lập, tự chủ theo kiểu tự cấp, tự túc xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, hướng nội đã được kinh nghiệm của bản thân nước ta chứng minh là không còn phù hợp với xu thế chung của thời đại và không có hiệu quả, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được nếu không được khắc phục thì sẽ làm xói mòi lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội và điều đó rốt cuộc khiến cho chúng ta khó giữ vững đựoc con đưòng phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với CNXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trái lại, việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thân thế và lực để giữ vững độc lập tự chủ của đát nước. đặc biệt trong khi thực hiện phương châm “ đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại” chúng ta sẽ thúc đẩy việc hình thành nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế và đẩy lùi âm mưu và hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta phải lệ thuộc thái quá vào họ. Cách đây trên một thế kỷ, josé marti- người thầy của nền độc lập cuba đã nói một câu có ý nghĩa sâu xa :” quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước, còn quốc gia nào chỉ buôn bán với một nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy”. Câu nói đó càng làm sáng tỏ thêm các luận điểm mà đảng ta, trung thành với tư tưởng hồ chí minh đã nêu lên để chỉ đạo tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay. Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ vững được bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không chỉ là nổi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, thông qua các “ siêu lộ thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhạp quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các cộng dồng người ở mọi chân trời góc biển có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế, dữ liệu... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về các nền văn hoá của nhau mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về “ sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại” Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem các giá trị văn hoá của mình là ưu việt, là tối thượng. Từ đó, nảy sinh thái đồ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp trắng trợn và tinh vi. Đứng trước tình hình đó, chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Trái lại, với bản lĩnh vốn có của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn , tiếp thu các nhân bản, hợp lý, khoa học , tiến bộ của văn hoá các nước ở phương đông và phương tây , xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng kiên quyết phản đối sự tiếp nhận mọi thứ mà không phân biệt tốt xấu, hay dở, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của tầng lớp dân cư. II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 1. Giai đoạn trước năm 1985. Không phải bây giờ chúng ta mới hội nhập. Chủ trương hội nhập đã có từ khá lâu. Vào trước năm 1945, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là nền kinh tế phong kiến tự cung tự cấp. Cho đến những năm 1945, thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam năm 1945 đã chấm dứt ách thống trị của thực dân pháp ở nước ta, mở ra kỉ nguyên độc lập cho dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi giành được độc lập, tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế giới đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong thư gửi tổng thư ký liên hợp quốc năm 1946. Người viết: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: Nước Việt Nam nhận sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả ngành kỹ nghệ của mình; Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảng quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc” Sau đó, ngày 16-7-1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển. mà chỉ có thống nhất và độc lập thì tư bản Việt Nam mới có thể phát triển. Đồng thời, chúng tôi hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh nên chúng ta không thể triển khai đầy đủ tư tưởng mở cửa , hội nhập kinh tế nói trên trong suốt mấy thập kỷ. Chỉ sau khi thống nhất đất nước năm 1975 mở ra cơ hội to lớn cho sự nghiệp tái thiết và phát triển kinh tế –xã hội ở Việt Nam. Việt Nam đã tìm cách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, ký hiệp định buôn bán song phương mới, nâng tổng số bạn hàng buôn bán lên gần 40 nước. Mặc dù vậy, đầu tư vào Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước XHCN dưới hình thức chủ yếu là các nước XHCN dưới hình thức viện trợ ko hoàn lại và cho vay không tính lãi .Tháng 6-1978, Việt Nam tham gia hội đòng tương trợ kinh tế (SEV).Tuy nhiên hiệu quả của việc Việt Nam tham gia khối cũng rất hạn chế bởi vì: - Thứ nhất SEV có chức năng kinh tế chủ yếu là phối hợp các kế hoạch phát triển kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia được thực hiện chủ yếu thông qua hình thức các hiệp định chính phủ về trao đổi hàng hoátheo kiểu hàng đổi hàng và quyết toán ghi sổ chứ không căn cứ trên các nguyên tắc thị trường; - Thứ hai sẽ không có ngân sách riêng để tài trợ cho các dự án và chương trình hợp tác mà hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế xin cho song phương; - Thứ ba các quyết định và luật chơi trong SEV mang nặng tính chủ quan chủ yếu phục vụ cho yêu cầu chính tri,đặc biệt là sự ganh đua Xô-Mỹ; - Thứ tư Liên Xô là trụ cột trong SEV nhưng bản thân khả năng kinh tế của Liên Xô cũng rất hạn chế nhất là từ cuối thập niên 1970 trở đi, Liên Xô gặp nhiều khó khăn đồng rúp không chuyển đổi được nên không thể hỗ trợ nhiều cho các hoạt động của SEV. Mặc dù có nhiều cố gắng để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và tham gia vào liên kết kinh tế XHCN nhưng kết quả của những hoạt động đổtng thời kì 1976-1985 của nước ta cũng còn khá khiêm tốn. 2. Quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhâp từ 1986 đến năm 2000. 2.1.Chính sách đổi mới,mở cửa đơn phương từ 1986 đến 1990 Chúng ta đã cố gắng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, song do cơ chế chính sách không phù hợp,cơ chế thị trường chưa hoạt động mà chủ yếu hoạt động theo cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung. Chúng ta vẫn chưa thể hội nhập một cách đầy đủ.Những năm đầu của thập kỉ 80 nền kinh tế nước ta bị lâm vào khủng hoảng kéo dài với tốc độ tăng trưởng thấp và không ổn định.Trước tình hình đó,tháng 12-1986, đại hôi VI của đảng đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược,mở ra thời kì mới cho sự phát triển kinh tế nói chung va kinh tế quốc tế nói riêng. Đại hội VI đã quyết định xây dựng môt nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước. có thể nói quyết định này cùng với việc nước ta trở thành một nước độc lập và thống nhất sau năm 1975, là những điều kiện tiên quyết về chính trị và kinh tế cho phép chúng ta có thể mở cửa và hội nhập thực sự có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Về kinh tế đối ngoại, đại hội VI xác định: “ muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào, Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển , các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết của đại hội cũng nêu những nội dung chính của chính sách kinh tế có liên quan dến việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu, thống nhất quản lý ngoại hối, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, hợp tác quốc tế về xuất khẩu lao động, phát triển các dịch vụ du lịch, vận tải quốc tế, cung ứng tàu biển và máy bay. Hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều chuyển biến tích cực. Chúng ta đã cải thiện được đáng kể tình trạng nhập siêu trong cán cân thương mại( giảm từ 280% trong những năm 1981-1985 xuống còn 180% trong những năm 1986-1990. Giá trị kim ngạch xuât khẩu hàng năm tăng từ 570 triệu USD/ năm trong giai đoạn 1981-1985 lên 1370 triệu USD trong những năm 1986-1990. Hoạt dộng đầu tư nước ngoài bắt đầu khởi săc từ năm 1988 với 37 dự án và 371,8 triệu USD vốn pháp định. Như vậy, nhờ các chính sách cải cách kinh tế trong nước và các biện pháp mở cửa đơn phương thu hút đầu tư từ bên ngoài, nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội của những năm đầu 1980 và thành nước xuất khẩu gạo, dầu thô và kiềm chế đướck lạm phát. 2.2. Chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế giai đoạn 1991-1995. Trong lúc cuộc khủng hoảng thứ nhất đầu những năm 1980 còn chưa được khắc phục một cách cơ bản thì cuộc khủng hoảng thứ hai xuất phát từ bên ngoài lại ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Đó là sự sụp đổ của Liên Xô cũ và hệ thống các nước XHCN ở đông âu. Nền kinh tế nước ta phải đương đầu với những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua được khi nguồn vốn đầu tư bị cắt giảm đột ngột, nguồn viện trợ không còn và thị trường xuất nhập khẩu bị đảo lộn và thu hẹp đột ngột trong khi Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận kinh tế đối với nước ta bị suy giảm mặc dù chúng ta đã tuyên bố rút quân tình nguyện khỏi Campuchia,. Lạm phát tăng trở lại lên tới 67,1% năm 1990 và 67,5% năm 1991, kim ngạch xuất nhập khẩu giảm. Để đối phó tình hình mới, đảng ta đã đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000(1991-2000). Đại hội VII(6-1991) của đảng đã khẳng định việc tiếp tục đường lối đổi mới, của đại hội VI. Với mục tiêu trong kế hoạch 5 năm 1991-1995 là vượt qua khó khăn thử thách , ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đưa nước ta cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Đồng thời, đại hội cũng đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá.Theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đáu vì hoà bình, độc lập và phát triển” nhằm phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận. Tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế. Quyết định này đánh đấu một bước phát triển mới trong tiến trình hội nhập quốc tế của ta xuất phát từ yêu cầu nội tại của sự phat triển của tình hình đối nội cũng như đối ngoại của ta lúc đó, trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới và phù hợp với những xu thế chung của thời đại là toàn cầu hoá, hội nhập, hoá bình, ổn định và hợp tác vì phát triển. Thực hiện các quan điểm hội nhập kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá trong thời kỳ này. Chúng ta đã tiến hành đàm phán về trả nợ quá hạn cho IMF và đã nối lại được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB từ tháng 10-1993 sau gần 15 năm bị gian đoạn, nhờ đó đã binh thường hoá quan hệ được với các tổ chức này. Tiếp đó, ngày 17-10-1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập ASEAN và trở thành thành viên kê từ ngày28-7-1995 với cam kết sẽ bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) từ ngày 1-1-1996. Việt Nam cam kết thực hiện AFTA theo các nội dung sau:(1) áp dụng trên cơ sở có đi có lại quy chế tối huệ quốc và quy chế đối xử quốc gia cho các nước thành viên ASEAN. Cung cấp các thông tin phù hợp về chính sách thương mại theo yêu cầu; (2) chuẩn bị danh mục cắt giảm thuế quan và bắt đầu thực hiện việc giảm thuế thực sự từ ngày 1-1- 1996 và hoàn thành việc cắt giảm thuế suất xuống còn 0-5% vào ngày 1-1-2006; (3) Hàng năm chuyển 20% các sản phẩm được loại trừ tạm thời vào danh mục cắt giảm ngay bắt đầu từ ngày 1-1-1999 và kết thúc vào ngày 1-1-2003; (4) chuyển dần các sản phẩm nông nghiệp được loại trừ vào danh mục cắt giảm ngay bắt dầu từ ngày 1-1-2000 và hoàn thành vào ngày 1-1-2006. Cũng trong thời giam này, tháng 12-1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập WTO. Việt Nam quyết định WTO vì các mục tiêu của WTO phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Các mục tiêu đó là: nâng cao mức sống và nâng cao thu nhập; bảo đảm tạo đầy đủ việc làm; mở rộng sản xuất và thương mại; sử dụng tốt nhất các nguồn lực của thế giới cho sư phát trỉên bền vững và cố gắng bảo đảm cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất có một tỷ trọng lớn hơn trong sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. quyết định xin vào WTO cũng có nghĩa là chúng ta cam kết thực hiện các nguyên tắc tự do hoá mậu dịch cơ bản của WTO, của hệ thống thương mại da phương, một bộ phận then chốt của luật thương mại quốc tế nói chung. quyết diịnh xin gia nhập WTO là một quyết định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với định hướng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai của Việt Nam. Cùng với các chính sách đổi mới về cơ chế và tổ chức quản lý bên trong, các nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tích cực vào việc thắng lợi kế hoạch 5 năm 1991-1995. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch đã được hoàn thành vượt mức, điều mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ làm được. Nó cho thấy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của ta đã phát huy được vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước. 2.3. Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1996 đến nay. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới, các tư tưởng và chủ trương chỉ đạo của đảng và nhà nước ta về hội nhập ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn. đại hội đã khẳng định và cụ thể hoá chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hó và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh vè xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền. toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Tuy nhiên, từ cuối năm 1996 trở đi, khi các yếu tố về kinh tế về đổi mới cơ chế, tổ chức quản lý đã dược khai thác một cách tương đối đầy đủ, sự phát triển về chiều rộng đã bộc lộ những hạn chế, chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế theo chiều sâu chưa được chú trọng, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, thì cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực bùng nổ, tác động mạnh mẽ đến nước ta trên cả phương diện đầu tư trực tiếp nước ngoài và thị trường xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, thiên tai lại liên tiếp xảy ra, mỗi năm làm nước ta thiệt hại về tài sản khoảng 4000 tỷ đồng, chưa kể thiệt hại lớn về người. Do đó, tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm sút mạnh từ 8,2% năm 1997 xuống còn 5,8% năm 1988 và 4,8% năm 1999. Nhịp độ tăng trưởng công nghiệp- xây dựng giảm tương ứng từ 12,6% xuống còn 8,3% và 7,7%, dịch vụ từ 7,1% xuống còn 5,1% và 2,3%. Trước tình hình đó, hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ tư (khoá VIII), ngày 29-12-1997 đã đề cao chủ trương phát huy nội lực, chủ động phòng tránh và khắc phục khủng hoảng. Nghị quyết của hội nghị nhấn mạnh tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế, nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là chính , bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên trí tuệ, truyền thống đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Đồng thời, hội nghị cũng nêu phương châm hội nhập quốc tế của ta là: “ trên cơ sở phát huy nội lực thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”. và nêu nhiệm vụ “ chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Thực hiện các chủ trương trên, chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được các nước trong khu vực và các nước thuộc liên minh châu âu, khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Âu, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung Quốc, tăng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với Ấn Độ, mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở trung cận đông, châu phi, Mỹ latinh; đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung vào một vài đối tác và việc mua bán qua thị trường trung gian. Đến tháng 9-2000, Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với 170 nước và quan hệ kinh tế thương mại với trên 150 nước và lãnh thổ trên thế giới, trong đó có tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế thế giới. III. Những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm của quá trình hội nhập. 1. Những thành tựu đã đạt được sau 15 năm mở cửa đổi mới Nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là từ đầu thập niên 1990 trở lại đây, có thể thấy tuy mới ở giai đoạn đầu, chưa thực sự bước vào chiều sâu nhưng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng đã được thực hiện trên một bình diện rộng, bao gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, từ thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sản xuất công- nông- ngư nghiệp, sở hữu trí tuệ... và ở nhiều tầng nấc khác nhau từ đơn phương song phương đến đa phương với nhiều hình thức đa dạng(tiểu vùng, khu vực, toàn cầu). Những nỗ lực hội nhập của Việt Nam trong thời gian qua đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại, kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm đạt mức tăng cao liên tục trong hơn một chục năm qua. Xuất khẩu năm 1999 đạt 11.523 triệu USD, gấp 153,6 lần năm 1955, 51,9 lần năm 1976, 17,7 lần năm 1985, 4,5 lần năm 1990 và 2,12 lần năm 1995. Trong thời kỳ 1990-1999, tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam cũng tăng hơn 4 lần, từ 2,75 tỷ USD lên 11,65 tỷ USD. Sáu tháng đầu năm 2000, giá trị xuất khẩu đạt 6427 triệu USD, xấp xỉ giá trị xuất khẩu của 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới 1986-1990 là 7 tỷ USD. Chênh lệch xuất – nhập khẩu từng bước được thu hẹp lại dần từ 1/4 trong những năm 1976-1980, 1/2,8 trong những năm 1991-1995, 1/1,5 năm 1996, 1/1,26 năm 1997, 1/2,2 năm 1998 và 1/1,06 năm 1999. Năm 1996, mức nhập siêu chiếm 16,6% GDP; năm 1997 giảm xuống còn 9,7% GDP và hiện nay đã giảm xuống còn chưa đầy 1% GDP. sở dĩ có sự mở rộng này là do chúng ta đã chú trọng hơn trong việc quan hệ với các nước trên thế giới nhất là khi khối SEV tan vỡ, châu á nhanh chóng trở thành thị trường chính của nước ta trong đó ASEAN chiếm 20%, nhật chiếm 15,8%, EU chiếm 21,7 %, Mỹ chiếm 6%... Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được trên 3600 dự án có vốn FDI vối tổng số vốn đăng ký là 41,7 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện là 21 USD. FDI đã đóng góp quan trọng cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Từ 1991-1995, FDI chiếm 25,7% tổng vốn đầu tư ở Việt Nam và từ năm 1996 đến nay chiếm tới 30%. Với tỷ lệ quan trọng như vậy, FDI đã đóng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, bù đắp quan trọng cho cán cân vãng lai, góp phần quan trọng cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP vủa Việt Nam cũng tăng dần. năm 1992: 2% đến năm 1999:10,5% . Đây là một đóng góp có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội của đảng và nhà nước ta. thêm vào đó Việt Nam đã nhận được cam kết viện trợ từ các nước và các tổ chức tài chính quốc tế với tổng mức vốn đã ký kết trên 17tỷ đô la, trong đó số vốn đã được ký kết trong hiệp định là trên 12 tỷ USD, bao gồm vốn vay hơn 10 tỷ đô la và viện trợ không hoàn lại trên 2 tỷ đô la. Đây là nguồn tài chính quan trọng để nhà nước sử dụng để đầu tư vào các công trình kinh tế quốc dân, các cơ sở hạ tầng, cơ sở xã hội, cải cách và nâng cao năng lực, các dự án xoá đói giảm nghèo. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và tranh thủ áp dụng những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật – công nghệ. đồng thời góp phần không nhỏ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội hiện đại. Một số lượng đáng kể cán bộ khoa học- kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh đã được đào tạo ở nước ngoài. ngoải ra thông qua quá trình hội nhập, đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, đặc biệt là cán bộ đàm phán kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng được đào tạo, trưởng thành lên đáng kể. Ngoài ra quá trình hội nhập kinh tế cũng đưa lại cho nền kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và ổn định, thu hẹp khoảng cách về phát triển với các nước, dẫn tới việc tăng cường thực lực, bảo đảm ổn định xã hội, an ninh quốc phòng và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước dần dần nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân và công bằng xã hội. Có thể nói cũng với chính sách cải cách trong nước, sự đóng góp quan trọng của các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là không thể phủ nhận được. Những thành tựu về tăng trưởng như trên gắn liền với việc mở rộng thị trường và tăng nhanh khối lượng xuất khẩu hàng hoá, lao động Việt Nam, với việc thu hút một số lượng lớn khách du lịch, vốn FDI, ODA và công nghệ tiên tiến phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. 2. Những hạn chế cần khắc phục Bên cạnh những kết quả tích cực ban đầu đã đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong hơn một thập niên qua cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém, tồn tại cần nhận thức rõ để khắc phục. Khiếm khuyết và tồn tại cần được nhận thức rõ để khắc phục để khắc phục. khiếm khuyết và tồn tại bao trùm là công tác chuẩn bị chưa tốt, chưa thất sự tích cực và chủ động. Điều này thể hiện trên những mặt sau: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và giới doanh nghiệp chưa thống nhất về sự cần thiêt, về lợi và hại của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam, về nội dung, bước đi và lộ trình hội nhập; do đó, thiếu sự quyêt tâm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, đại hội lần thứ XI của đảng tháng 4 năm 2001 đã giải quyêt một bước quan trọng về quan điểm và chủ trương liên quan dến hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đây là cơ sở quan trọng để thống nhất nhận thức và hành động của các tầng lớp, các giới trong quá trình chúng ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và trong những năm tới Việc nghiên cứu và đánh giá tác động toàn diện của hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hệ thống và khách quan đối với Việt Nam để làm co sở cho các quyêt sách chưa thực hiện được coi trọng và mới chỉ được tiến hành ở mức còn rất hạn chế Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ, chưa được chuẩn bị cơ bản để sẵn sàng thực sự vào cuộc cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện các công tác hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế về nhiều mặt, chưa thực sự đáp ứng tốt nhất yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới. đặc biệt là việc chậm nghiên cứu và xây dựng một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả một giai đoạn dài làm cơ sở chỉ đạo và điều tiết quá trình hội nhập một cách chủ động và đồng bộ làm cho quá trình này đem lại hiệu quả tốt nhất cho đất nước. Những vấn đề hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cu thể là: - Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý nền kinh tế thị trường không đồng bộ, còn hay thay đổi, chưa phù hợp thông lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng yêu cầu hôi nhập. Tuy đã có rất nhiều cố gắng trong công tác xây dựng pháp luật, nhưng hệ thống, chính sách kinh tế của Việt Nam về các vấn đề trên còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập so với các quy định quốc tế. - Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ, nhất quán và chưa phù hợp với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.Thực tế cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua diễn ra chậm chạp, thiếu đồng bộ nhất quán. Việc điều chỉnh chỉ mang tính chất tự phát chưa dựa vào một chiến lược cơ cấu kinh tế cho cả một giai đoạn dài được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, dự báo, tính toán một cách có hệ thống, cụ thể, đầy đủ các yếu tố, đặc biệt là gắn với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập của Việt Namlà gắn với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập của Việt Nam - Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chínhsách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. trừ một số không nhiều các doanh nghiệp đã có những thay đổi rõ rệt trong kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhìn chung số còn lại vẫn chậm chạp trong đổi mới công nghệ, phương diện quản lý, hình thức mẫu mã và chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm cho thích hợp với yêu cầu chung của thị trường, tiềm lực tài chính nhỏ, nên năng lực cạnh tranh quốc tế thấp. Đa phần thuộc khu vực kinh tế nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả kinh tế và có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước. - Chậm trễ trong việc nghiên cứu và đưa ra một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vực, nhóm hàng cụ thể. Chung ta chưa đưa ra được một lộ trình để hội nhập dựa trên một tầm nhìn dài hạn gắn với chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực để đảy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện sự tăng trưởng và phát triển bền vững. - Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn yếu, việc chỉ đạo và thực hiện quá trình hội nhập còn những bất cập. Con người là yếu tố quyết định cơ bản. Muốn hội nhập phải có những con người đủ khả năng thực hiện nó. Kinh nghiệm nhiều nước đi trước là dành ưu tiên cho việc đào tạo nhân lực. so với đòi hỏi hiện nay thì đội ngũ quản lý các doanh nghiệp cũng như đội ngũ cán bộ của chúng ta còn yếu, năng lực chuyên môn và trình độ hiểu biết còn hạn chế cần phải có một chính sach coi việc đào tạo con người là hàng đầu. - Công tác tuyên truyền phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế và giáo dục đội ngũ lao động thích ứng với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập tuy gần đây được quan tâm thúc đẩy nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn 3. Những bài học kinh nghiệm về quá trình đổi mới Từ thực tiễn của quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong hơn một thập niên qua, có thể rút ra một số bài học chủ yếu sau: Kiên trì và kết hợp khéo léo, hài hoà giữa phương châm độc lập tự chủ và đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Đây là một bài học được rút ra từ kinh nghiệm bản thân và là con đường đúng đối với nước ta. Việc Việt Nam thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ không những phù hợp với lợi ích của đất nước mà còn phù hợp với xu thê chung trên thế giới, nhờ vậy đã và đang gặt hái được những thành quả quan trọng như từ chỗ bao vây, cô lập, ngày nay Việt Nam có quan hệ quốc tế song phương và đa phương rộng rãi chưa từng có với tất cả các nước và các trung tâm kinh tế chính trị lớn; đã mở rộng được thị trường, gia tăng được đối tác, tranh thủ được một lượng đáng kể vốn đầu tư của nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức, nối lại quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế, xử lý vấn đề nợ nhà nước và tư nhân; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao cùng với sự tham gia ngày một tích cực và chủ động vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, kết hợp nội lực với ngoại lực. Để quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra suôn sẻ và có hiệu quả thiết thực, phải gắn quá trình này với tiến trình cải cách và điều chỉnh trong nước, phát huy mối tương quan bổ trợ lẫn nhau giữa chúng. cải cách trong nước và hội nhập quốc tế là con đường hai chiều: cải cách bên trong quyết đinh tốc độ và hiệu quả của hội nhập, đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy và định hướng cho tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Điều quan trọng là phải duy trì được sự ổn định chính trị – xã hội để tập trung sức cho phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả. Đây là bài học quan trọng vì chỉ khi nào giữ vững được ổn định chính trị – xã hội thì mới có thể tập trung cho phát triển kinh tế tạo ra một sức mạnh của dân tộc. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các hàng hoá- dịch vụ, các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế là chìa khoá cho sự thành công của quá trình hội nhập. Đây là vấn đề mang tính chất then chốt đảm bảo cho sự thành công của quá trình hội nhập. Trong thương mại quốc tế, ba yếu tố chủ yếu quyết đinh sự thắng lợi trên thương trường là: sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ; sức mạnh và sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp; và môi trường luật pháp, chính sách. khi chúng ta đang nỗ lực hội nhập thì một mặt tạo thêm nhiều cơ hội thâm trường quốc tế, đồng thời cũng buộc phải mở cửa hơn theo nguyên tắc có đi có lại cho hàng hoá và dịch vụ của các nước khác . Muốn hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải mạnh lên. Doanh nghiệp nước ta có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức tìm kiếm thị trường yếu, vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của nhà nước. Hội nhập đem lại cho các doanh nghiệp cơ hội để mở rộng thị trường liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, tiếp thu công nghệ, kỹ thuật và phương pháp quản lý tiên tiến và cùng cạnh tranh để khẳng định mình, không ngừng vươn lên và vươn ra nước ngoài. Thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động là yếu tố quyết định. Để có dược điều này, theo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của nước ta vừa qua thì có hai vấn đề quan trọng cần giải quyết trước tiên: thứ nhất, thường xuyên tổ chức nghiên cứu kỹ lưỡng các khía cạnh của vấn đề và đưa thành các chủ đề thảo luận công khai trong toàn thể xã hội, bởi vì hội nhập là nội dung hết sức quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước trong một thế giới toàn cầu hoá, có tác động không giống nhau tới tất cả các tầng lớp nhân dân ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một khi toàn bộ xã hội qua thảo luận nhận thức rõ và đúng đắn vấn đề sẽ dễ đồng lòng, đồng sức thực hiện vì lợi ích chung và vì mỗi người, do đó sẽ hạn chế được sự chống đối của các nhóm vì lợi ích cục bộ gây hại cho lợi ích chung. Thứ hai, xây dựng sự thống nhất tư tưởng, ý chí và tổ chức hành động trong đảng, quốc hội, chính quyền các cấp và tổ chức hành động trong đảng, quốc hội, chính sách, các lộ trình mở cửa các biện pháp bổ trợ cho những sự điều chỉnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, Đảng đóng vai trò lãnh đạo đường hướng của hội nhập. Quốc hội quyết định việc điều chỉnh các luật lệ và xây dựng các luật mới tạo ra một khuông khổ ở pháp lý hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tếvà thực tiễn ở nước ta. Chính quyền các cấp là người tổ chức thực hiện công tác hội nhập bằng cá biện pháp chính sách tự do hoá và mở cửa, xây dựng các phương án đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế. Các doanh nghiệp chính là những người thực hiện các hoạt động hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế trên thực tế. Thành công hay thất bại của họ trên thương trường quyết định sự thành công hay thất bại của họ tren thương trường quyết định sự thành bại của công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, và phản ánh sự đúng sai của đường lối chính sách hội nhập của đảng và nhà nước ta. IV. Chủ trương, nguyên tắc chỉ đạo hội nhập kinh tế cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. 1. Mục tiêu hội nhập kinh tế của Việt Nam Trong tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều cơ hội và thách thức lớn đan xen nhau, báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ chủ trương và phương châm của ta là: “ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đây là chủ trương và phương châm đúng đắn, phù hợp với nước ta và tình hình thế giới hiện nay và xu thế phát triển trong những năm tới. Nhằm cụ thể hoá chủ trương và phương châm hội nhập đã được đề ra tại đại hội IX, ngày 27-11-2001, bộ chính trị đã thông qua nghị quyết số 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế, những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập và đề ra những nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện trong quá trình này. Nghị quyết 07 của bộ chính trị nêu rõ: “ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn,công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005” 2. Những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của nghị quyết 07 của bộ chính trị trong quá trình hội nhập a, Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội IX là: “ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” Đây là quan điểm bao trùm đòi hỏi chúng ta cần nắm vững những nguyên tắc chỉ đạo sau: Chủ động đi từng bước vững chắc, tận dụng tốt các cơ hội và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với các thách thức Kết hợp nội lực với ngoại lực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế Bảo đảm độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập b, Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ động. c, Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng d, Nhận thức đày đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh té quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường e, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tônr hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “ diễn biến hoà bình” đối với nước ta V. Những nhiệm vụ và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập Nghị quyết 07 của bộ chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được những nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tê quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài cảu nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng va quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Căn cứ vào Nghị quyết của đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các nước ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông... là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đỏi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta , ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thê giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiến hành điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, Gắn quá trình thực hiện nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ ba khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ; không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môit trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chínhnhằm xay dẹng bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường dịnh hướng xa hội chủ nghĩa; thúc đảy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hoá,dịch vụ, lao động, khao học- công nghệ, vốn ,bất động sản... tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công việc quản lý kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng. Có kế hoạch cụ thể đảy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dan tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh chóng những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời , nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó , cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ cao. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiêm vụ bảo vệ an ninh các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước. Kiện toàn Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp thủ tướng chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế. Uỷ ban gồm hai bộ phận: một bộ phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, ban, ngành hữu quan. Ngoài ra, chúng ta cũng cần tiến hành các biện pháp bổ trợ sau đây nhằm tạo khả năng tốt nhất cho việc thực hiện các cam kết hội nhập của ta. KẾT LUẬN Tuy nước ta đang trong quá trình hội nhập và còn gặp nhiều khó khăn, bất cập nhưng chúng ta đang đi đúng hướng theo con đường của mình với bằng chứng là những thành tựu đã đạt được sau 15 năm đổi mới. Hội nhập kinh tế quốc tế với các quốc gia trên thế giới là một đòn bẩy tốt để tạo bước nhảy vọt về kinh tế nếu biết lợi dụng nó, đất nước sẽ dần dần đuổi kịp và vượt lên trên các nước khác trở thành một con rồng của châu á, nhân dân ta ai ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, đât nước ta sẽ sánh vai với các cường quốc năm châu đúng như nguyện vọng của Bác Hồ khi sinh thời. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế Thương mại - GS.TS. Đặng Đình Đào - GS.TS. Hoàng Đức Thân 2. Giáo trình Kinh tế quốc tế - PGS.TS. Trần Chí Thành 3. Thời báo Kinh tế Việt Nam 4. Tạp chí Thành Đạt số 4/2006 5. Trang: Viettrade.com.vn Mot.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA01.docx
Tài liệu liên quan