Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 
302 
_______ 
Một số kết quả thử nghiệm dự báo ngư trường khai thác 
cho nghề câu vàng tại vùng biển xa bờ miền Trung 
Đoàn Bộ1,*, Phạm Văn Huấn1, Lê Hồng Cầu2, Nguyễn Viết Nghĩa2, 
Nguyễn Duy Thành2, Bùi Thanh Hùng2, Nguyễn Văn Hướng2 
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
2Viện Nghiên cứu Hải Sản 
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010 
Tóm tắt. Mô hình dự báo ngư trường cho các nghề khai thác xa bờ ở vùng biển miền Trung được 
xây dựng trên cơ sở xác lập mối tương quan cá-môi trường. Tương quan này được cụ thể hóa bằng 
phương trình hồi quy nhiều biến giữa năng suất khai thác của nghề (CPUE) với các đặc trưng cấu 
trúc nhiệt biển (các yếu tố môi trường) và năng suất sinh học bậc thấp (nguồn thức ăn). Dự báo có 
thể được triển khai theo các quy mô không gian và thời gian tùy chọn. Đã thực hiện phân tích và 
dự báo 26 đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và năng suất sinh học bậc thấp quy mô trung bình tháng 
trên từng ô lưới 0,5 độ kinh vĩ tại vùng biển xa bờ miền Trung, làm cơ sở dữ liệu đầu vào cho mô 
hình dự báo ngư trường. Cũng đã triển khai thử nghiệm dự báo ngư trường nghề câu vàng trong 6 
tháng đầu năm 2009 với quy mô nêu trên. Kết quả cho thấy số dự báo đạt yêu cầu trở lên chiếm 
trên 70% (cao nhất 88,67% trong tháng 4-2009), trong đó số ô lưới có dự báo đạt loại khá trở lên 
chiếm trên 50%, loại tốt chiếm từ 26 đến 44%. 
Từ khóa: Dự báo ngư trường, Nghề câu vàng, Vùng biển xa bờ. 
1. Mở đầu∗
Vươn khơi khai thác xa bờ với các loại 
nghề chủ yếu là câu vàng, lưới rê và lưới vây đã 
và đang được sự khuyến khích đầu tư của Nhà 
nước và hiện đã trở thành các hoạt động phổ 
biến của ngư dân, nhất là ở các tỉnh Bình Định, 
Phú Yên và Khánh Hòa. Đối tượng khai thác 
chính của các nghề nêu trên là nhóm cá nổi lớn 
đại dương, trong đó có một số loài thuộc họ cá 
thu ngừ (Scombridae) như cá ngừ vây vàng 
(
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-35586898. 
 E-mail: 
[email protected] 
Thunnus albacares), cá ngừ mắt to (Thunnus 
obesus), cá ngừ vằn (Katsuwonus pelamis)... rất 
có giá trị kinh tế. Theo số liệu của Tổng cục 
Thống kê, trong 5 tháng đầu năm 2010 sản 
lượng khai thác cá ngừ của tỉnh Bình Định và 
Phú Yên đã đạt cỡ 7300 tấn [1], tương đương 
giá trị gần 1000 tỷ đồng. 
Cho đến nay, ở Việt Nam hoạt động khai 
thác cá biển nói chung và khai thác xa bờ nói 
riêng vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của 
ngư dân nên sản lượng khai thác không ổn định, 
đầu tư cho sản xuất kém hiệu quả, nhất là trong 
vài ba năm gần đây khi giá nhiên liệu và giá sản 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 303
phẩm khai thác có những biến động không 
lường trước. Điều này cho thấy hoạt động khai 
thác xa bờ không chỉ đòi hỏi về đầu tư trang 
thiết bị kỹ thuật và lực lượng lao động phù hợp 
mà còn rất cần sự đóng góp của khoa học nghề 
cá, trong đó dự báo ngư trường khai thác xa bờ 
là một yêu cầu cấp thiết. 
Bài báo này giới thiệu một số kết quả thử 
nghiệm dự báo ngư trường khai thác tại vùng 
biển xa bờ miền Trung (6ON-17ON, 107OE-
117OE) cho nghề câu vàng, một loại nghề mặc 
dù mới được du nhập vào Việt Nam trong vài 
chục năm gần đây nhưng đã trở thành một trong 
những nghề chính của hoạt động khai thác xa 
bờ. Đây cũng là một trong những kết quả 
nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước 
KC.09.14/06-10 ″Ứng dụng và hoàn thiện qui 
trình công nghệ dự báo ngư trường phục vụ 
khai thác hải sản xa bờ” thuộc Chương trình 
Khoa học Công nghệ Biển KC.09/06-10. 
2. Phương pháp và tài liệu sử dụng 
2.1. Xây dựng mô hình dự báo 
Theo nguyên lý tự nhiên, giữa nguồn lợi cá 
và các yếu tố môi trường biển có tồn tại mối 
liên quan nhất định. Mặc dù có những đặc điểm 
phức tạp trong phân bố và biến động các đàn cá 
xa bờ và những hạn chế về chuỗi dữ liệu ″môi 
trường-nghề cá”, song đây là cách tiếp cận 
khách quan và tốt nhất, là cơ sở và định hướng 
cho việc nghiên cứu xây dựng mô hình dự báo 
ngư trường khai thác xa bờ hiện nay ở nước ta. 
Trên thực tế, các khu vực có khả năng tập 
trung cá (nơi có những điều kiện môi trường 
thuộc pha thuận) được xem là ngư trường khai 
thác có thể cho hiệu quả cao [2, 3]. Nó được thể 
hiện thông qua quy mô của quá trình khai thác, 
trong đó sản lượng (C) hoặc năng suất đánh bắt 
(CPUE) là các đặc trưng chủ yếu (ở nghiên cứu 
này đã sử dụng CPUE, bởi nó loại trừ được sự 
khác biệt tương đối của việc đầu tư sản xuất). 
Trên cơ sở các nghiên cứu sinh học, sinh 
thái một số loài cá nổi lớn đại dương (cá ngừ) là 
đối tượng khai thác chính của nghề cá xa bờ, 
thấy rằng các đặc trưng cấu trúc thẳng đứng và 
nằm ngang của trường nhiệt biển và nguồn thức 
ăn có vai trò quan trọng nhất, ảnh hưởng trực 
tiếp đến tập tính của những đối tượng này [2- 4]. 
Thực chất các đặc trưng cấu trúc nhiệt biển 
(như nhiệt độ và gradien nhiệt bề mặt, độ dày 
lớp đồng nhất, độ dày và gradien nhiệt lớp đột 
biến, độ sâu một số mặt đẳng nhiệt đặc trưng...) 
là hậu quả tác động tổng hợp của các quá trình 
khí tượng, thủy văn biển ở mọi quy mô, do đó 
mối quan hệ “cá-nhiệt biển và thức ăn” cũng 
phản ánh được hầu hết các mối quan hệ “cá-môi 
trường”. Hiện tại chúng ta đã có những mô hình 
phân tích và dự báo trường nhiệt biển cho kết 
quả khá tốt [2], song lại chưa có các dự báo 
phân bố và biến động nguồn thức ăn của các 
loài cá xa bờ nên chúng tôi đã thay thế đặc 
trưng này bằng năng suất sinh học sơ cấp, là 
yếu tố hiện cũng đã có các mô hình dự báo [5]. 
Như vậy, mối quan hệ “cá-môi trường” nói 
chung được cụ thể hóa bằng mối quan hệ giữa 
CPUE với các đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và 
năng suất sinh học bậc thấp. Phương pháp phân 
tích tương quan nhiều biến là công cụ hiệu quả 
được sử dụng để đánh giá định lượng mối quan 
hệ nêu trên, từ đó xây dựng được các dự báo 
ngư trường khi có được các dự báo môi trường. 
Phuơng trình hồi quy có dạng: 
∑
=
+=
m
i
ii XAACPUE
1
0 . (1) 
trong đó, CPUE (biến phụ thuộc) là năng suất 
khai thác (đối với nghề câu vàng tính bằng 
kg/100 lưỡi câu); A0, Ai – các hệ số (được tìm 
theo phương pháp bình phương nhỏ nhất), m – 
số lượng các biến độc lập, Xi - các biến độc lập, 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 304
bao gồm một số đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và 
năng suất sinh học bậc thấp (bảng 1). Các đặc 
trưng này được tính theo các phương pháp 
chuẩn và thông dụng trong hải dương học [6], 
riêng năng suất sinh học bậc thấp được tính 
theo mô hình chu trình chuyển hóa Nitơ [5]. 
Bảng 1. Một số đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và năng suất sinh học bậc thấp 
TT Ký hiệu Đơn vị đo Các đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và năng suất sinh học bậc thấp 
1 T0 OC Nhiệt độ nước biển bề mặt 
2 Ano OC Dị thường nhiệt độ nước biển bề mặt 
3 H0 m Độ dày lớp tựa đồng nhất trên 
4 T1 OC Nhiệt độ biên dưới lớp đột biến 
5 H1 m Độ sâu biên dưới lớp đột biến 
6 H0H1 m Độ dày lớp đột biến 
7 Gradz OC /m Gradien trung bình của nhiệt độ trong lớp đột biến 
8 H15 m Độ sâu mặt đẳng nhiệt 15 OC 
9 H20 m Độ sâu mặt đẳng nhiệt 20 OC 
10 H24 m Độ sâu mặt đẳng nhiệt 24 OC 
11 H15-20 m Khoảng cách 2 mặt đẳng nhiệt 15-20OC 
12 H20-24 m Khoảng cách 2 mặt đẳng nhiệt 20-24OC 
13 Grad0 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt bề mặt 
14 Grad25 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt tầng 25m 
15 Grad50 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt tầng 50m 
16 Grad75 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt tầng 75m 
17 Grad100 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt tầng 100m 
18 Grad150 OC /10km Gradien cực đại theo phưong ngang nhiệt tầng 150m 
19 TV mg-tươi/m3 Sinh khối thực vật nổi trung bình trong lớp quang hợp 
20 DV mg-tươi/m3 Sinh khối động vật nổi trung bình trong lớp quang hợp 
21 ToTV g-tươi/m2 Tổng sinh khối thực vật nổi trong cột nước thiết diện 1m2 lớp quang hợp 
22 ToTV g-tươi/m2 Tổng sinh khối động vật nổi trong cột nước thiết diện 1m2 lớp quang hợp 
23 NNSC mgC/m3/ngày Năng suất sinh học sơ cấp trung bình trong lớp quang hợp 
24 NSTC mgC/m3/ngày Năng suất sinh học thứ cấp trung bình trong lớp quang hợp 
25 ToNSSC gC/m2/ngày Tổng năng suất sinh học sơ cấp trong cột nước thiết diện 1m2 lớp quang hợp 
26 ToNSTC gC/m2/ngày Tổng năng suất sinh học thứ cấp trong cột nước thiết diện 1m2 lớp quang hợp
2.2. Tài liệu sử dụng 
Với mục đích xây dựng dự báo ngư trường 
nghề câu vàng tại vùng biển xa bờ miền Trung 
(6ON-17ON, 107OE-117OE) theo quy mô trung 
bình tháng và lưới 0,5 độ kinh vĩ, đã sử dụng 4 
nguồn số liệu sau: 
1) Số liệu CPUE nghề câu vàng được lấy từ 
cơ sở dữ liệu nguồn lợi và cá (VietfishBase) của 
Viện Nghiên cứu Hải Sản. Với gần 15000 lượt 
trạm câu có được trên vùng biển nghiên cứu từ 
năm 2000 đến nay, bao gồm số liệu các chuyến 
khảo sát (Survey), giám sát (Observer) và sổ 
nhật ký khai thác (Logbook), đã tiến hành xử lý 
và tính toán CPUE theo quy mô nêu trên, giá trị 
quy về tâm ô. 
2) Số liệu nhiệt độ nước biển được lấy từ cơ 
sở dữ liệu hải dương học của Bộ môn Hải 
dương học, Trường Đại học Khoa học Tự 
nhiên, ĐHQG Hà Nội (chủ yếu từ nguồn WOA-
2008, có bổ sung số liệu khảo sát hiện có của 
Việt Nam). Với hơn 50000 số liệu nhiệt độ 
nước biển đo ở các vị trí và độ sâu khác nhau 
trên vùng biển nghiên cứu, đã tiến hành phân 
tích và tính toán để có được giá trị nhiệt độ tại 
các tầng chuẩn theo quy mô trên, số liệu quy về 
tâm ô. Từ số liệu trung gian này đã tiến hành 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 305
tính toán 26 đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và 
năng suất sinh học bậc thấp (như đã nêu trong 
bảng 1) cho từng tháng và từng ô lưới. 
Hai loại số liệu trên được sử dụng để phân 
tích tương quan ″cá-môi trường” và xây dựng 
phương trình dự báo dạng (1) cho nghề câu 
vàng tại vùng biển nghiên cứu. 
3) Số liệu phân tích và dự báo trường 3D 
nhiệt biển (quy mô nêu trên, độ sâu theo tầng 
chuẩn) trong năm 2009 tại vùng biển nghiên 
cứu được thực hiện tại Trung tâm Động lực học 
Thủy khí Môi trường, trường Đại học Khoa học 
Tự nhiên. Từ số liệu này cũng đã tính toán các 
đặc trưng cấu trúc nhiệt biển và năng suất sinh 
học bậc thấp và sử dụng làm dữ liệu đầu vào 
cho dự báo CPUE nghề câu năm 2009. Một vài 
kết quả minh họa cho dự báo các yếu tố môi 
trường được thể hiện trên hình 1. 
4) Số liệu CPUE nghề câu vàng trung bình 
trên từng ô lưới và từng tháng trong năm 2009 
được lấy từ cơ sở dữ liệu VietfishBase. Số liệu 
này được sử dụng để kiểm chứng kết quả dự 
báo ngư trường nghề câu. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Phân tích tương quan cá-môi trường 
Kết quả chủ yếu phân tích tương quan giữa 
CPUE nghề câu với các đặc trưng cấu trúc nhiệt 
biển và năng suất sinh học bậc thấp (quy mô 
trung bình tháng) trong 6 tháng đầu năm 2009 
được trình bày trong bảng 2. Có thể thấy hệ số 
tương quan chung (R) tuy không cao song cũng 
đủ ý nghĩa thống kê để có thể sử dụng phương 
trình dạng (1) làm dự báo. Kết quả phân tích 
thống kê tập số liệu gần 15000 trạm câu hiện có 
trong cơ sở dữ liệu cho thấy, CPUE dao động 
khá rộng, từ 0 đến trên 50 kg/100 lưỡi câu, 
trong đó khoảng 80% số trạm có CPUE trên 5 
kg/100 lưỡi câu, chủ yếu 10-30 kg/100 lưỡi câu, 
số trạm có CPUE dưới 5 kg/100 lưỡi câu chỉ 
chiếm 20%. Bởi vậy, sai số tuyệt đối cho phép 
của các phương trình hồi quy dao động trên 
dưới 5 kg/100 lưỡi câu với độ bảo đảm từ 
khoảng 80% trở lên là chấp nhận được. 
Bảng 2. Một số đặc trưng phân tích tương quan cá 
môi trường đối với nghề câu vàng trong năm 2009 
Tháng 
(2009) 
R 
chung 
Sai số 
cho phép 
Độ bảo 
đảm (%) 
Số số 
liệu 
Tháng 1 0.59 5.15 78 95 
Tháng 2 0.65 5.02 77 144 
Tháng 3 0.56 5.44 84 156 
Tháng 4 0.58 6.50 91 194 
Tháng 5 0.57 5.36 90 144 
Tháng 6 0.58 4.24 89 138 
3.2. Kết quả thử nghiệm dự báo ngư trường 
nghề câu trong năm 2009 
Các dự báo được thực hiện qua một thủ tục 
tính toán tổng hợp có nhiều tuỳ chọn (tổ hợp 
theo nghề và theo các quy mô không gian, thời 
gian khác nhau). Kết quả dự báo là bộ số liệu 
hàng tháng giá trị CPUE theo nghề và theo các 
quy mô dự báo, được xuất ra dưới dạng các file 
text có định dạng tương thích với các chương 
trình đồ hoạ thông dụng hiện nay. 
Minh họa một số kết quả thử nghiệm dự báo 
ngư trường nghề câu vàng tại vùng biển xa bờ 
miền Trung trong 6 tháng đầu năm 2009 được 
thể hiện trên các hình 2, 3, 4. 
3.3. Đánh giá và kiểm chứng dự báo 
Nguyên tắc chung của việc đánh giá và 
kiểm chứng dự báo là so sánh giá trị CPUE dự 
báo với giá trị ″thực đo” thu nhận được từ khảo 
sát, giám sát hoặc nhật ký khai thác. 
Do giá trị CPUE dự báo là trung bình tháng 
trên từng ô lưới nên các giá trị ″thực đo” cũng 
cần đưa về cùng quy mô. Cũng cần thấy rằng, 
thực chất dự báo ngư trường là chỉ ra những 
khu vực khai thác có khả năng đạt năng suất 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 306
như tính toán, mặt khác năng suất (hoặc sản 
lượng) khai thác trên thực tế còn phụ thuộc rất 
nhiều vào các điều kiện như phương tiện, trang 
thiết bị kỹ thuật, nhân lực... nên không thể yêu 
cầu dự báo đúng phải có giá trị tương đương 
hoặc gần giá trị giá trị ″thực đo”. 
Hình 1. Độ sâu mặt đẳng nhiệt 20OC tháng 4-2009 (bên trái) và Tổng năng suất sinh học thứ cấp 
(gC/m2/ngày) trong cột nước thiết diện 1m2 tầng quang hợp tháng 6-2009. 
Hình 2. Thử nghiệm dự báo ngư trường khai thác nghề câu vàng 
tại vùng biển xa bờ miền Trung tháng 1 (bên trái) và tháng 2 năm 2009. 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 307
Hình 3. Thử nghiệm dự báo ngư trường khai thác nghề câu vàng 
tại vùng biển xa bờ miền Trung tháng 3 (bên trái) và tháng 4 năm 2009. 
Hình 4. Thử nghiệm dự báo ngư trường khai thác nghề câu vàng 
tại vùng biển xa bờ miền Trung tháng 5 (bên trái) và tháng 6 năm 2009. 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 308
Để khắc phục điều này, chúng tôi đã căn cứ 
vào sai số tuyệt đối cho phép của phương trình 
dự báo (trung bình 5 kg/100 lưỡi câu – bảng 2) 
và xem xét sự phân phối giá trị CPUE trong tập 
gần 15000 số liệu có trong cơ sở dữ liệu, từ đó 
đưa ra các tiêu chí đánh giá dự báo là: nếu ô 
lưới có giá trị CPUE dự báo và ″thực đo” sai 
khác không quá 2,5 kg/100 lưỡi câu thì dự báo 
được xem là tốt; từ 2,5-5 kg/100 lưỡi câu - dự 
báo khá và 5-7,5 kg/100 lưỡi câu - dự báo đạt. 
Một số thông tin cơ bản đánh giá kiểm chứng 
dự báo ngư trường nghề câu vàng năm 2009 
theo các tiêu chí này được cho trong bảng 3. 
Bảng 3. Kết quả đánh giá kiểm chứng dự báo ngư 
trường nghề câu 6 tháng đầu năm 2009 
Sai số Số ô lưới 
Xếp 
loại 
Tỷ lệ 
 % 
Lũy kế 
tỷ lệ % 
Tháng 1-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 92 
<2,5 24 Tốt 26,09 26,09 
2,5-5 23 Khá 25,00 51,09 
5-7,5 18 Đạt 19,57 70,66 
Tháng 2-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 133 
<2,5 59 Tốt 44,36 44,36 
2,5-5 30 Khá 22,56 66,92 
5-7,5 18 Đạt 13,53 80,45 
Tháng 3-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 114 
<2,5 45 Tốt 39,47 39,47 
2,5-5 19 Khá 16,67 56,14 
5-7,5 16 Đạt 14,04 70,18 
Tháng 4-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 132 
<2,5 50 Tốt 37,88 37,88 
2,5-5 42 Khá 31,82 69,70 
5-7,5 25 Đạt 18,94 88,67 
Tháng 5-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 105 
<2,5 34 Tốt 32,38 32,38 
2,5-5 22 Khá 20,95 53,33 
5-7,5 20 Đạt 19,05 72,38 
Tháng 6-2009. Số ô lưới có số liệu được tra: 117 
<2,5 47 Tốt 40,17 40,17 
2,5-5 33 Khá 28,21 68,38 
5-7,5 19 Đạt 15,38 84,62 
Kết quả cho thấy số ô lưới có dự báo đạt 
yêu cầu trở lên chiếm trên 70%, cao nhất 
88,67% trong tháng 4-2009, số ô lưới có dự báo 
đạt loại khá trở lên cũng chiếm trên 50%, trong 
đó loại tốt chiếm từ 26 đến 44%. Số ô lưới có 
dự báo không đạt chỉ chiếm từ 12 đến 30%. 
Những kết quả này mở ra khả năng xây 
dựng và sử dụng các phương trình dạng (1) để 
thực hiện các dự báo ngư trường phục vụ khai 
thác hải sản xa bờ, đồng thời cũng cho thấy rõ 
tầm quan trọng của việc thu thập, cập nhật các 
thông tin, dữ liệu từ sản xuất để kiểm chứng và 
hiệu chỉnh dự báo. 
4. Kết luận 
1. Mối tương quan cá-môi trường được cụ 
thể hóa bằng phương trình hồi quy nhiều biến 
giữa năng suất khai thác của nghề (CPUE) với 
các đặc trưng cấu trúc nhiệt biển (các yếu tố 
môi trường) và năng suất sinh học bậc thấp 
(nguồn thức ăn). Đây là là cách tiếp cận khách 
quan và tốt nhất, là cơ sở và định hướng cho 
việc nghiên cứu xây dựng mô hình dự báo ngư 
trường khai thác xa bờ hiện nay ở nước ta. 
2. Kết quả phân tích tương quan giữa CPUE 
nghề câu vàng với 26 đặc trưng cấu trúc nhiệt 
biển và năng suất sinh học bậc thấp tại vùng 
biển xa bờ miền Trung cho thấy, mặc dù hệ số 
tương quan chung trong các tháng không cao 
(trên dưới 0,6) song cũng đủ ý nghĩa thống kê 
để có thể sử dụng phương trình hồi quy làm dự 
báo. 
3. Kết quả thử nghiệm dự báo ngư trường 
cho nghề câu vàng trong 6 tháng đầu năm 2009 
tại vùng biển xa bờ miền Trung cho thấy, số ô 
lưới (0,5 độ kinh vĩ) có dự báo đạt yêu cầu trở 
lên chiếm trên 70%, cao nhất 88,67% trong 
tháng 4-2009; số ô lưới có dự báo đạt loại khá 
trở lên cũng chiếm trên 50%, trong đó loại tốt 
chiếm từ 26 đến 44%. 
Tài liệu tham khảo 
[1]  số liệu thống kê ngành 
thủy sản 2000-2010. 
Đ. Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 302‐309 309
[2] Đinh Văn Ưu và nnk, Xây dựng mô hình dự báo 
cá khai thác và các cấu trúc hải dương có liên 
quan phục vụ đánh bắt xa bờ ở vùng biển Việt 
Nam, Tuyển tập nghiên cứu nghề cá biển, T. IV, 
Nxb Nông nghiệp (2006) 55. 
[3] Đinh Văn Ưu, Đoàn Bộ, Hà Thanh Hương, 
Tương quan biến động điều kiện môi trường và 
ngư trường nghề câu cá ngừ đại dương ở vùng 
biển khơi nam Việt Nam, Tạp chí khoa học 
ĐHQG HN, tXXI, No3AP (2005) 108. 
[4] Ilmo Hela, Taivo Leavastu, Địa lý hải dương 
nghề cá (bản dịch từ tiếng Nga của Phạm Thị 
Hải Âu), Nxb Đại học và Trung học chuyên 
nghiệp, Hà Nội, 1974. 
[5] Đoàn Bộ, 2006, Mô hình sinh thái biển và một 
số kết quả áp dụng tại vùng biển khơi miền 
Trung Việt Nam, Tạp chí khoa học ĐHQG HN, 
tXXII, No1AP, tr. 27-33, Hà Nội. 
[6] Phạm Văn Huấn, Tính toán trong hải dương học, 
Nxb ĐHQGHN, 2003. 
Some expreimental results on fishing ground forecast for 
long-line fishery in the offshore waters of Vietnam Centre 
Doan Bo1, Pham Van Huan1, Le Hong Cau2, Nguyen Viet Nghia2, 
Nguyen Duy Thanh2, Bui Thanh Hung2, Nguyen Van Huong2 
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
2Research Institute for Marine Fisheries 
The experimental model of the fishing ground forecast in the off-shore waters of Vietnam Centre 
has been established basing on the relationship between fish resources and environmental factors. This 
relationship was concretized by multi-variate regression equations among CPUE (Catch Per Unit 
Efforts) and temperature structures (environmental factors) and primary production (feed sources). 
During experiments, 26 environmental factors and primary production were monthly forecasted by 
a grid of 0.5 degree, which were applied for fishing ground forecast model. The experimental results 
on fishing ground forecast for long-line fishery in the off-shore waters of Vietnam Centre in 2009 
showed that acceptable forecasts were about 70.0% (with maximum of 88.7% in April, 2009). 
Meanwhile, good forecasts get up to 50 % and excellent forecasts were about 26.0 - 44.0%. 
Keywords: Fishing ground forecast, Long-line fishery, Offshore waters.