Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng: Lời mở đầu Mười lăm năm trôi qua kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, một quãng thời gian không dài nhưng cũng đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của một nền kinh tế. Thực hiện chủ trương của Đại hội VI, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương đúng đắn đã đưa nền kinh tế Việt Nam vững bước đi lên và dần dần hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Sản xuất hàng hoá phát triển, sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều, tốc độ tăng trưởng GDP cao và liên tục trong nhiều năm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện là những dấu hiệu hết sức tích cực của một nền kinh tế đã có lúc tưởng chừng như chạm đáy. Đóng góp vào sự thành công của công cuộc đổi mới nền kinh tế ngày hôm nay không thể không nói tới sự thành công trong công tác quản lý ngân sách Nhà nước các cấp. Ngày 20/3/1996, Luật Ngân sách Nhà nước đã được thông qua và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/1997. V...

doc69 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Mười lăm năm trôi qua kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, một quãng thời gian không dài nhưng cũng đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của một nền kinh tế. Thực hiện chủ trương của Đại hội VI, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương đúng đắn đã đưa nền kinh tế Việt Nam vững bước đi lên và dần dần hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Sản xuất hàng hoá phát triển, sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều, tốc độ tăng trưởng GDP cao và liên tục trong nhiều năm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện là những dấu hiệu hết sức tích cực của một nền kinh tế đã có lúc tưởng chừng như chạm đáy. Đóng góp vào sự thành công của công cuộc đổi mới nền kinh tế ngày hôm nay không thể không nói tới sự thành công trong công tác quản lý ngân sách Nhà nước các cấp. Ngày 20/3/1996, Luật Ngân sách Nhà nước đã được thông qua và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/1997. Với tư cách là một cấp trong hệ thống ngân sách Nhà nước, ngân sách phường ngày càng khẳng định vị trí và tầm quan trọng của mình. Bằng các công cụ thu và chi, ngân sách phương đã hỗ trợ đắc lực cho chính quyền Nhà nước địa phương trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cả về chiều rộng và chiều sâu đã tác động không nhỏ tới công tác quản lý ngân sách phường. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện và nâng cao, nguồn thu của ngân sách phường ngày càng lớn. Yêu cầu đổi mới, vận động để có thể phù hợp, quản lý hết nguồn thu ngày càng trở nên bức xúc. Mặt khác, việc quản lý chi tiêu hợp lý, hiệu quả cũng đòi hỏi ngân sách phường phải được quản lý chặt chẽ hơn. Ngân sách phường đang được đặt trong cơ hội và thách thức mới. Nhận thức được tính nóng bỏng, sự cần thiết của việc tăng cường công tác quản lý ngân sách phường hiện nay, qua thời gian thực tập ở phòng Tài chính - vật giá quận Hai Bà Trưng, với sự động viên giúp đỡ của các cô các chú ở đơn vị thực tập cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Bất, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng". Mục đích của đề tài là thông qua nghiên cứu tìm hiểu tình hình thu chi ngân sách của các phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết phần nào những bức xúc trong công tác quản lý ngân sách phường hiện nay đồng thời củng cố công tác quản lý ngân sách phường ngày một tốt hơn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, bài chuyên đề được chia thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về ngân sách Nhà nước và quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong những năm gần đây. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân sách Nhà nước cấp phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Do kiến thức và lý luận còn hạn chế, hơn nữa thời gian thực tập không thể đáp ứng được toàn bộ yêu cầu nghiên cứu nên bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của các thầy cô giáo và của bạn đọc để bài chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Chương I Tổng quan về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách nhà nước cấp phường I. Ngân sách nhà nước 1. Bản chất của ngân sách Nhà nước 1.1. Khái niệm về ngân sách Nhà nước Lịch sử loài người đã trải qua hàng vạn năm tồn tại và phát triển. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, có thể nói chúng ta đã trải qua năm thời kỳ, hay còn gọi là năm loại xã hội cơ bản, đó là: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, phân công lao động xã hội đã bắt đầu phát triển và làm xuất hiện sự trao đổi hàng hoá, tiền tệ. Cũng vào thời kỳ này, chế độ tư hữu đã xuất hiện làm cho xã hội được phân chia làm nhiều giai cấp. Giữa các giai cấp vốn có mâu thuẫn nên thường xảy ra xung đột, đấu tranh giai cấp. Từ đó dẫn đến sự ra đời của Nhà nước. Nhà nước ra đời đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, giai cấp chiếm ưu thế trong xã hội. Một Nhà nước ra đời, trước hết cần phải có các nguồn tài chính để chi tiêu cho mục đích bảo vệ sự tồn tại ngày càng vững chắc của mình, đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý nhà nước, cho cảnh sát và quân đội. Tiếp đó là nhu cầu chi nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước như: chi cho văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi, đầu tư xây dựng ... Tất cả các khoản chi trên đều được đáp ứng từ các nguồn thu từ thuế và các hình thức thu khác. Tuy nhiên, trước đây các khoản thu và chi của nhà nước luôn tách rời nhau, mỗi khoản thu thường được cố định cho một mục đích chi. Tất cả các khoản thu đều không được dự toán và không được hạch toán. Những hạn chế trên chỉ có thể được giải quyết khi có sự ra đời của ngân sách Nhà nước (NSNN). Chính NSNN đã tập hợp và cân đối thu chi của Nhà nước, bắt buộc mỗi khoản chi phải theo dự toán, mỗi khoản thu phải theo luật định, chấm dứt sự tuỳ tiện trong quản lý thu chi của Nhà nước. Thoạt nhìn bề ngoài, ta có cảm giác như NSNN chỉ có hoạt động thu chi, tạo quỹ tiền tệ nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài của sự vật, muốn hiểu rõ hơn NSNN chúng ta phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Bản chất của NSNN được thể hiện ở hai điểm chính: Thứ nhất: các khoản thu đều mang tính chất cưỡng bức (bắt buộc), còn các khoản chi đều mang tính cấp phát (không hoàn lại trực tiếp). Thực ra bản chất này xuất phát từ chính sự tồn tại của Nhà nước. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình, Nhà nước cần phải có quỹ tài chính cần thiết. Các nguồn đóng góp vào quỹ NSNN đều thu từ các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế và đều mang tính bắt buộc. Tính chất bắt buộc ở đây không phải mang ý nghĩa tiêu cực mà là sự cần thiết. Bởi vì suy cho cùng, Nhà nước sử dụng ngân sách cũng chỉ vì mục đích bảo đảm quyền lợi cho mọi thành viên trong xã hội, duy trì sự hoạt động bình thường của xã hội. Vì vậy các thành viên trong xã hội phải đóng góp là lẽ đương nhiên. Thứ hai: mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối các nguồn tài chính và vì vậy, nó thể hiện các mối quan hệ trong phân phối. Đây là mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước với một bên là xã hội (bao gồm các tổ chức cá nhân trong xã hội). Như trên đã phân tích, thực chất Nhà nước sử dụng quỹ ngân sách cũng là để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong xã hội. Mà nổi bật trong các quyền lợi đó là quyền lợi về kinh tế. Thực vậy, việc phân phối các nguồn tài chính để hình thành nguồn thu của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào, thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước và xã hội với kết quả là các nguồn tài chính được phân chia thành hai phần: Phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các thành viên của xã hội. Tới lượt mình, phần đã nộp vào NSNN sẽ tiếp tục được phân phối lại, thể hiện qua các khoản cấp phát từ ngân sách cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa NSNN và xã hội, do đó tiếp tục được thể hiện ở phạm vi rộng lớn hơn. Từ tất cả những phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm khá chính xác về NSNN như sau: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. 1.2. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường không phải là cơ chế hoàn mỹ và nền kinh tế thị trường không phải là thiên đường của sự phát triển. Nó cũng có những ưu khuyết điểm. Trong thực tế, chúng ta đang theo đuổi một nền kinh tế thị trường nhưng có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước là rất lớn. Mỗi hoạt động của NSNN đều có tác động không nhỏ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta có thể khái quát vai trò của NSNN ở một số ý như sau: a. NSNN có vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN thực hiện cân đối giữa các khoản thu và khoản chi (bằng tiền) của Nhà nước. Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà trong cơ chế nào, thời đại nào NSNN cũng phải thực hiện. b. NSNN có vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát. Vai trò này rất quan trọng bởi lẽ cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước. Song Nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện điều chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm bảo. Cơ chế thị trường rất dễ tạo ra các công ty độc quyền, từ đó ảnh hưởng tới nền sản xuất xã hội. Bằng quyền lực của mình, thông qua công cụ ngân sách, Nhà nước sẽ góp phần hạn chế sự dẫn tới độc quyền. Nhà nước trợ cấp vốn và các chính sách ưu đãi nhằm kích thích các thành phần kinh tế cùng phát triển. NSNN còn cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra bằng công cụ thuế, NSNN đã góp phần định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó giá cả hàng hoá cũng có thể được điều tiết thông qua công cụ ngân sách. Khi giá cả của một loại hàng hoá có biểu hiện tăng, để tránh đầu cơ tích trữ, Nhà nước sử dụng ngân sách tung ra hàng hoá đó trên thị trường nhằm giảm bớt cơn sốt giá. Ngược lại khi giá cả của một loại hàng hoá có biểu hiện đi xuống, Nhà nước sẽ tiến hành trợ giá cho người sản xuất, mua vào hàng hoá đó để kích thích giá cả hàng hoá đó tăng lên. Bằng công cụ thuế và chính sách chi tiêu NSNN, Nhà nước có thể tác động vào tổng cung, tổng cầu, vào các thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng hoá ... nhằm duy trì sự vận động hiệu quả của nền kinh tế. Chống lạm phát cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường. Chính sách thu và chi của Nhà nước đều có thể ảnh hưởng tới lạm phát ở các mức độ khác nhau. Khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển quá mức, Nhà nước có thể thực hiện một chính sách tài khoá (trong đó công cụ thuế là quan trọng nhất) thắt chặt hơn. Có nghĩa là, khi tỉ suất lợi nhuận đang tăng cao, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thuận lợi thì khả năng thu được thuế là rất lớn. Do vậy để kiềm chế lạm phát, Nhà nước cần phải tăng thuế để giảm thu nhập từ đó giảm tổng cầu, có thể kiềm chế được lạm phát. Ngược lại khi nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống, lạm phát giảm, Nhà nước cần phải sử dụng công cụ chi tiêu để kích thích tổng cầu, từ đó thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Tuy vậy, việc điều chỉnh lạm phát bằng công cụ thuế và chi tiêu không đơn giản. Đường cong Lafer đã chỉ ra rằng việc tăng thuế quá mức không những không có lợi mà còn làm cho thất thu thuế, kìm hãm sản xuất. Mặt khác, nếu chi tiêu quá mức mà không có cân đối cụ thể thì có thể dễ dàng dẫn đến tình trạng bội chi. Mà bội chi thì khó khắc phục hơn bội thu, rất dễ gây ra lạm phát nặng nề, có khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế xã hội. Thực tế đã chỉ ra rằng chúng ta đã từng trải qua thời kỳ siêu lạm phát vào cuối những năm 80. Bội chi được bù đắp bằng cách in tiền đã không mang lại hiệu quả như mong đợi mà còn kích thích lạm phát tăng chóng mặt gây ra khủng hoảng kinh tế xã hội. Nói tóm lại, thu chi NSNN phải nhằm mục đích kích thích sản xuất phát triển, chống bao cấp, chống lãng phí. Khi đồng tiền được sử dụng chặt chẽ và có hiệu quả thì tác dụng của nó rất lớn, trong trường hợp ngược lại, sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng lên gây ra bất ổn định cho nền kinh tế xã hội. 2. Hệ thống NSNN và phân cấp NSNN: 2.1. Hệ thống NSNN: Hệ thống NSNN được hiểu là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau và được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Tùy theo đặc điểm tình hình mỗi nước mà hệ thống NSNN được tổ chức theo những phương thức khác nhau. Ví dụ: ở CHLB Đức quy định mỗi cấp hành chính làm việc độc lập để thực hiện các nhiệm vụ do hiến pháp quy định. Các cấp ngân sách phải đáp ứng nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế, chính phủ liên bang không có quyền can thiệp vào công việc thuộc thẩm quyền của cấp dưới. ở nước ta, sự hình thành hệ thống NSNN bắt nguồn từ sự hình thành hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp và quá trình thực hiện phân cấp quản lý kinh tế - xã hội cho chính quyền các cấp. Tuy vậy, sự hình thành hệ thống NSNN cũng cần phải được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. a. Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN: ã Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước. Việc tổ chức hệ thống NSNN phải phù hợp với tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước, do vậy cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc tổ chức chính quyền Nhà nước. - Toàn bộ các khoản thu và chi của ngân sách các địa phương đều phải coi là thu chi của NSNN. - Dự toán ngân sách về quyết toán NSNN phải có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế nhưng cuối cùng sẽ phải do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thông qua, đó là Quốc hội. ã Nguyên tắc thống nhất: Nguyên tắc này chỉ ra rằng, mọi hoạt động về kinh tế, tài chính của một đất nước phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Nhà nước, có như vậy mới đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. - Thống nhất về chế độ chính sách trong toàn hệ thống NSNN. - Thống nhất về mặt nghiệp vụ trong điều hành và quản lý ngân sách. - Thống nhất về mặt thời gian: Thời gian cho một năm ngân sách, toàn bộ hệ thống NSNN phải tuân thủ một thời gian giống nhau. b. Cơ cấu tổ chức hệ thống NSNN ở nước ta: Theo luật NSNN nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ban hành năm 1996, luật sửa đổi bổ sung được Quốc Hội thông qua ngày20/5/1998, hệ thống NSNN được chia làm 4 cấp, hình thành nên 2 bộ phận. ã NSNN TW giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Vai trò chủ đạo của NSNN TW thể hiện: - Đảm nhận cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. - Là trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách của các địa phương. NSNN TW trên thực tế là ngân sách của cả nước, nó tập trung đại bộ phận nguồn thu của quốc gia và thực hiện các khoản chi có tính chất huyết mạch của quốc gia. ã Ngân sách địa phương: Được chia thành ba cấp: tỉnh, huyện, xã. - NSNN cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW: Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW. - NSNN cấp quận, huyện: là một bộ phận của NSNN do UBND quận, huyện xây dựng, quản lý và HĐND quận, huyện quyết định, giám sát thực hiện. Nó là kế hoạch thu chi tài chính của cấp chính quyền quận, huyện để đảm bảo điều kiện vật chất cho thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước cấp quận, huyện. - NSNN cấp phường, xã, thị trấn gọi chung là NSNN cấp phường: Là đơn vị hành chính có tầm quan trọng đặc biệt và NSNN cấp phường cũng có tính đặc thù riêng: Nguồn thu được trực tiếp khai thác trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng đồng dân cư phường mà không qua một khâu trung gian nào. NSNN cấp phường là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền phường chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, lao động, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn trật tự an ninh trên địa bàn. Sơ đồ hệ thống NSNN: NSTP, thị xã trực thuộc tỉnh NS huyện NS quận NS xã phường, thị trấn NS tỉnh NSTP trực thuộc TW NSĐP NSNN TW NSNN 2.2. Phân cấp quản lý NSNN 2.2.1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý NSNN: Trong việc tổ chức quản lý, phân cấp ngân sách là một trong những vấn đề phức tạp nhất, được bàn luận và tranh cãi nhiều nhất. Có ý kiến cho rằng, chính cơ chế phân cấp không rõ ràng, triệt để và không dứt khoát là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng rối loạn trong quản lý kinh tế-tài chính của Nhà nước. ý kiến trên có thể chưa chính xác nhưng rõ ràng, nếu cơ chế này được thiết lập phù hợp thì tình hình quản lý tài chính và NSNN chắc chắn sẽ được cải thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định nền kinh tế xã hội. Phân cấp ngân sách thực chất là giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền Nhà nước từ TW tới địa phương về các vấn đề liên quan đến quản lý và điều hành NSNN. Phân cấp ngân sách để thống nhất quản lý nền tài chính quốc gia, xây dưng ngân sách lành mạnh, củng cố kỉ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước, tăng tích luỹ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phân cấp quản lý đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì hoạt động của các cấp chính quyền Nhà nước từ TW tới địa phương mà còn tạo điều kiện phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như mối quan hệ giữa các ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của NSNN. Đồng thời phân cấp quản lý NSNN còn có tác dụng thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Có thể nói phân cấp ngân sách một cách đúng đắn, hợp lý tức là đã giải quyết thoả đáng tất cả các mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm giữa các cấp cơ quan chính quyền, từ đó tình hình quản lý tài chính và NSNN chắc chắn sẽ được cải thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định nền kinh tế xã hội. 2.2.2. Yêu cầu cơ bản của việc phân cấp ngân sách: Để thực hiện phân cấp quản lý NSNN một cách có hiệu quả, hợp lí cần phải thức hiện những nguyên tắc sau đây. Nguyên tắc thứ nhất: Phân cấp ngân sách phải được thực hiện đồng bộ với phân cấp kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính. Đồng thời phải dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương các cấp sẽ chủ động các nguồn kinh phí để thực hiện chức năng vốn có của mình là quản lý hành chính Nhà nước trên địa bàn, việc quản lý kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh sẽ do các cơ quan chuyên ngành và các thành phần kinh tế đảm nhận. Nguyên tắc thứ hai: Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách TW và vị trí độc lập tương đối của ngân sách địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất. Vai trò của NSTW NS TW Các chức năng của NNTW NSĐP NSĐP NSĐP Ngân sách TW là trung tâm của hệ thống NSNN, ngân sách này một mặt đảm nhận cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, mặt khác nó cũng là trung tâm điều hoà hoạt động của ngân sách các địa phương. Tính độc lập của ngân sách địa phương không thể hiện ở danh mục các khoản chi và các khoản thu giao cho địa phương theo chế độ phân cấp mà ở chỗ sau khi được phân cấp nhiệm vụ thu và chi thì chính quyền địa phương phải được toàn quyền quyết định ngân sách của mình. Song sự độc lập này không có nghĩa là thoát hoàn toàn khỏi ngân sách TW, đó chính là sự tương đối. Trong mọi trường hợp, cần đảm bảo thực hiện một hệ thống NSNN thống nhất từ TW tới địa phương. Trong giới hạn nhất định, Nhà nước TW có thể cho phép chính quyền địa phương được điều chỉnh một số thuế suất, định mức chi tiêu ... Song các địa phương không được thay đổi, vượt quá giới hạn cho phép. Nguyên tắc thứ ba: Phải đảm bảo tính công bằng trong phân cấp ngân sách: Nhiệm vụ thu, chi giao cho địa phương phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung trong cả nước nhưng phải tránh tình trạng một số địa phương được lợi (thu nhiều, chi ít), một số địa phương khác bị thiệt thòi (thu ít, chi nhiều). Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần phải thực hiện tốt các nguyên tắc ở trên, đồng thời phải kết hợp hài hoà các nguyên tắc với nhau. Nguyên tắc thứ tư: Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỉ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 - 5 năm. Hàng năm trong trường hợp có trượt giá thì xem xét chỉnh tăng số bổ sung cho ngân sách cấp dưới theo một phần trượt giá. Kết thúc mỗi kì ổn định, căn cứ vào khả năng thu và yêu cầu chi, Chính phủ, UBND tỉnh thực hiện việc điều chỉnh tỉ lệ % phân chia các khoản thu giữa các cấp và mức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần gắn liền trách nhiệm kinh tế giữa Nhà nước với địa phương, tránh sự chồng chéo, phân chia quyền lợi không hợp lý giữa TW với địa phương làm cho hiệu quả kinh tế chung bị giảm sút. 2.2.3. Nội dung phân cấp NSNN: Quá trình phân định thu chi giữa các cấp ngân sách gắn chặt với quá trình phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm về quản lý kinh tế xã hội giữa các cấp chính quyền Nhà nước mà hiến pháp quy định. Việc phân định này về NSNN đã được ghi trong Luật ngân sách. Với tinh thần của Luật ngân sách “khoán thu nhưng không khoán chi”. ã Về nguồn thu: - Mỗi cấp ngân sách đều có những khoản thu mà họ được hưởng 100% nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền địa phương có thể cân đối ngân sách của mình. - Mỗi cấp ngân sách còn có khoản thu theo tỉ lệ % gọi là tỉ lệ điều tiết trên một số khoản thu. Tỉ lệ điều tiết này cho phép Nhà nước có thể linh hoạt trong việc điều hành ngân sách giữa các địa phương và linh hoạt trong việc giải quyết mối quan hệ giữa TW và địa phương. - Giữ nguyên cách phân chia loại thu cố định và loại thu điều tiết trên từ 3 - 5 năm đối với từng cấp ngân sách. - Tiến hành lập dự án chi từng cấp ngân sách. Tức là không khoán chi, mà số dự toán chi được kiểm tra và xét duyệt trước. - Số thiếu (thu không đủ chi) được giải quyết bằng hai cách: Trích vào tỉ lệ tổng dự thu điều tiết trên địa bàn. tỉ lệ này được xác định hàng năm cho từng địa phương và thống nhất cho các loại thu điều tiết. - Thu từ trợ cấp: Của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Giúp cho các địa phương có khó khăn đột xuất hoặc có khó khăn thường xuyên có điều kiện khắc phục để ổn định kinh tế xã hội. Chỉ áp dụng phương pháp trợ cấp cân đối khi nguồn thu tại địa phương có hạn và tỉ lệ điều tiết đã đạt 100% mà vẫn không đủ chi theo dự toán chi đã được duyệt. ã Về nhiệm vụ chi: - Đối với ngân sách địa phương: Chi tiêu NSNN luôn gắn với nhiệm vụ kinh tế xã hội của các cấp chính quyền. * Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Kế hoạch chi đầu tư xây dựng cơ bản của địa phương được Chính phủ (hoặc uỷ nhiệm cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính) xét duyệt, vốn xây dựng cơ bản của địa phương được cân đối ngay vào ngân sách địa phương từ đầu năm và bảo đảm trước hết bằng các nguồn tại chỗ. * Chi sự nghiệp kinh tế: Theo Luật ngân sách, các khoản chi này do ngân sách địa phương chi theo đúng chế độ, định mức do TW quy định cho cả nước. Đó là các khoản chi: + Chi cho sự nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp. + Chi cho sự nghiệp giao thông vận tải. + Chi kiến thiết thị chính, công trình công cộng. + Chi đo đạc quản lý ruộng đất. + Chi quy hoạch, khảo sát tổng thể địa phương. + Chi công tác định canh, định cư. + Chi đưa đón dân đến vùng kinh tế mới. * Chi về văn hoá, y tế xã hội. * Chi trợ cấp khó khăn. * Chi bộ máy quản lý ở địa phương. * Chi sắp xếp lao động. * Chi vốn lưu động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. - Đối với ngân sách TW: Về cơ cấu giống như khoản chi của địa phương. Song phạm vi mức độ và tính chất có sự khác nhau. Ngân sách TW đảm bảo các khoản chi hoạt động kinh tế xã hội do TW quản lý. II. Quản lý NSNN cấp phường: 1. Vai trò của NSNN cấp phường trong hệ thống ngân sách và trong đời sống kinh tế xã hội ở địa phương: 1.1. Chính quyền Nhà nước cấp phường: Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm, chú trọng đến hệ thống tổ chức quản lý bộ máy Nhà nước. Trong hiến pháp cộng hoà XHCN Việt Nam đã quy định hệ thống tổ chức quản lý bộ máy Nhà nước bao gồm bốn cấp: Cấp trung ương - cấp tỉnh - cấp quận (huyện) - cấp phường (xã). Phường là đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước thành thị. Chính quyền Nhà nước cấp phường bao gồm HĐND và UBND phường. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã xác định chính quyền Nhà nước cấp phường có chức năng quản lý hành chính - kinh tế, từ đó có chức năng quản lý mọi mặt công tác Nhà nước ở phường nhằm đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ tài sản XHCN, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, quản lý mọi mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở phường, đảm bảo phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và giám sát mọi công dân trong phường làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước đang lãnh đạo công cuộc đổi mới trong cả nước, “lấy dân làm gốc”, phát triển kinh tế nhiều thành phần thì vấn đề tăng cường vai trò của chính quyền Nhà nước cấp phường cũng đang là một trong những yêu cầu cấp thiết nhất nhằm củng cố ngày càng vững mạnh Nhà nước XHCN, chính quyền cấp phường thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Xây dựng và thực hiện các phần kế hoạch kinh tế xã hội do phường phụ trách. - Quản lý dân số, hộ tịch, hộ khẩu, sinh tử, giá thú theo chính sách xã hội hiện hành, quản lý lao động. - Quản lý và thực hiện chính sách tài chính, thu thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và quản lý ngân sách cấp phường theo đúng luật, chế độ, thể lệ của Nhà nước TW, theo quy định cụ thể của UBND Thành phố. - Kiểm tra đôn đốc các hộ, các cá nhân và các cơ sở sản xuất kinh doanh, chấp hành tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. - Thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, chính sách quản lý thị trường, ngăn chặn mọi hành vi kinh doanh, buôn bán trái phép, đầu cơ tích trữ. - Giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ tài sản XHCN và tính mạng cho nhân dân. - Thực hiện chế độ và kế hoạch nghĩa vụ quân sự theo đúng pháp luật và kế hoạch của Nhà nước. - Tổ chức công tác văn hoá, thông tin, truyền thanh, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, xây dựng và quản lý các cơ sở phục vụ cho công tác này. - Chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân trong phường. - Phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật thuộc quyền hạn được giao. Muốn thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình, chính quyền Nhà nước cấp phường phải có phương tiện tài chính. Ngân sách phường chính là công cụ cung cấp phương tiện vật chất không thể thiếu được để đảm bảo cho chính quyền thực hiện có kế hoạch và có hiệu quả chức năng quản lý hành chính - kinh tế ở phường. Đồng thời muốn tăng cường công tác quản lý ngân sách phường, chính quyền Nhà nước cấp phường phải phát huy đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn ủa mình. 1.2. Ngân sách phường và vai trò của nó trong hệ thống NSNN và trong đời sống kinh tế xã hội ở địa phương Tổ chức bộ máy Nhà nước ở mọi quốc gia đều có sự phân công, phân cấp quản lý kinh tế xã hội cho mỗi cấp quản lý hành chính, nên hệ thống NSNN bao giờ cũng gồm nhiều cấp khác nhau. Số cấp ngân sách ở mỗi quốc gia nhiều ít khác nhau là tuỳ thuộc vào việc tổ chức bộ máy quản lý hành chính và sự phân cấp quản lý kinh tế, tài chính cho mỗi cấp đó. Song bao giờ cũng có cấp ngân sách gắn liền với quản lý hành chính ở cơ sở và được gọi chung là ngân sách phường (xã, thị trấn). Như vậy, có thể hiểu ngân sách phường là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp phường nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý. 1.2.1. Vị trí của ngân sách phường trong hệ thống NSNN: Trong hệ thống NSNN thì ngân sách phường được gọi là ngân sách cấp cơ sở. Ngân sách phường có vị trí rất quan trọng trong hệ thống NSNN vì: Thứ nhất: Phường là một đơn vị hành chính cơ sở ở địa phương. HĐND phường với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tại địa phương được quyền ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và các nghị quyết có liên quan đến quản lý ngân sách phường mình. Thứ hai: Chính quyền Nhà nước cấp phường là nơi trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết toàn bộ mối quan hệ và lợi ích giữa Nhà nước với dân trên cơ sở các văn bản pháp quy hiện đang có hiệu lực. Ngân sách phường trợ giúp đắc lực cho chính quyền phường trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và nhiều khi quy mô và mức độ thực hiện các nhiệm vụ của chính quyền phường đạt ở mức độ nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng nguồn vốn mà ngân sách phường có được. Thứ ba: Cơ cấu thu chi của ngân sách phường thể hiện hầu hết các khoản thu chi của ngân sách địa phương đã được phân định. Có những khoản thu mà chỉ có ngân sách phường quản lý và khai thác thì mới đạt hiệu quả cao như: Thuế sử dụng đât Nhà nước, thuế chuyển quyền sử dụng đất hay các khoản thu hoa lợi công sản. Hoặc có những khoản chi mà chỉ có ngân sách phường thực hiện thì mới đảm bảo tính kịp thời đúng đối tượng như chi để thực hiện chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với những người có công với nước, chi chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân, chi để duy tu, bảo dưỡng các công trình công cộng tại phường... 1.2.2. Vai trò của ngân sách phường trong đời sống kinh tế xã hội ở địa phương: Ngân sách phường là công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền phường quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội ở địa phương. Phường là một cấp chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý Nhà nước; chính quyền phường trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với dân. Vì vậy, mọi chính sách, chế độ của Nhà nước được thực thi ở mức độ nào, mọi sự quan tâm của Nhà nước tới dân, tâm tư nguyện vọng của người dân như thế nào đều được bộc lộ ở phường. Một công cụ đắc lực để giúp chính quyền phường giải quyết được các mối quan hệ trên là ngân sách phường. Vai trò này được biểu hiện thông qua quá trình thu và quá trình chi ngân sách phường. ã Đối với thu ngân sách phường: - Thông qua thu ngân sách phường mà các nguồn thu được tập trung nhằm tạo lập quỹ ngân sách phường, đồng thời giúp chính quyền cấp phường thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác đi đúng hành lang pháp luật. - Thu ngân sách phường góp phần thực hiện các chính sách xã hội như đảm bảo công bằng giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách phường, đồng thời có sự trợ giúp cho những đối tượng nộp khi họ gặp khó khăn hoặc thuộc diện ưu đãi theo chính sách của Nhà nước thông qua xét miễn, giảm số thu. - Thu tiền phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm trật tự an toàn xã hội để đưa người dân nghiêm chỉnh thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước cộng đồng. ã Đối với chi ngân sách phường: - Thông qua chi ngân sách phường mà các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể ở phường được duy trì phát triển một cách liên tục và ổn định, nhờ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước ở cơ sở. - Chi ngân sách phường góp phần nâng cao dân trí, nâng cao sức khoẻ cho mọi người dân biểu hiện thông qua ngân sách phường chi cho sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế. - Chi ngân sách phường thực hiện chính sách xã hội tại địa bàn mỗi phường như ngân sách phường chi cứu tế xã hội, chi thăm hỏi, trợ cấp cho gia đình thương binh liệt sĩ trong phường. Tóm lại muốn nâng cao hiệu lực của các chính sách thu chi NSNN thì cần thiết phải phát huy tối đa vai trò của ngân sách phường trong mọi hoạt động của hệ thống NSNN vì ngân sách phường có tính đặc thù riêng, nó vừa là một cấp ngân sách lại vừa là một đơn vị dự toán đặc biệt. Điều này được thể hiện rất rõ: ngân sách phường là một cấp trong hệ thống NSNN. Ngân sách phường là đơn vị dự toán đặc biệt vì dưới nó không có đơn vị dự toán trực thuộc nào. Nó vừa phải tạo nguồn kinh phí thông qua các khoản thu ngân sách phường được phân định, vừa phải duyệt, cấp, chi trực tiếp và tổng hợp các khoản chi trực tiếp vào ngân sách phường luôn. Vì vậy chi tiêu ở phường có những khoản phải chuẩn chi và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, song cũng có những khoản phải thuận chi bởi vì quản lý chi tiêu ngân sách phường ở thế gò bó trong hạn mức kinh phí như một cấp dự toán thông thường khác. 2. Nội dung của công tác quản lý ngân sách phường: 2.1. Nội dung chính của công tác quản lý ngân sách phường: 2.1.1. Về thu: Căn cứ theo luật NSNN ban hành ngày 20/3/1996 và các luật sửa đổi bổ sung. Căn cứ theo quyết định số 25 UB ngày 22/4/1999 của UBND Thành phố Hà nội về việc ban hành quy định phân cấp quản lý thu, chi ngân sách xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Hà nội. Nguồn thu của ngân sách phường bao gồm: a. Các khoản thu ngân sách phường được hưởng 100%.: ã Các khoản thu do chính quyền phường tổ chức thu gồm: - Thu về xử lý vi phạm hành chính. - Thu về phí, lệ phí theo thẩm quyền của phường. - Thu từ các hoạt động sự nghiệp. - Các khoản thu đóng góp của các tổ chức, các cá nhân cho phường, trong đó: + Thu huy động ngày công nghĩa vụ lao động công ích. + Đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân. + Các khoản huy động, vận động nhân dân đóng góp theo nghị quyết của HĐND phường. - Thu về quản lý, sử dụng tài sản công. - Viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp cho phường. - Các khoản thu khác. ã Thu kết dư ngân sách năm trước. b. Các khoản thu ngân sách phường được hưởng, phân chia theo tỉ lệ phần trăm (%) giữa các cấp ngân sách. - 20% thuế tài nguyên các DNNN TW, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn phường nộp. - 5% thuế tài nguyên thu từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn phường. - 20% thuế tiêu thụ đặc biệt thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, matsa, karaôkê trên địa bàn phường. - 70% thuế sử dụng đất nông nghiệp. - 50% thuế nhà đất trên địa bàn phường. c. Thu bổ sung cân đối ngân sách. 2.1.2. Về chi: Nhiệm vụ chi của ngân sách phường bao gồm ba phần chính. Đó là: a. Chi thường xuyên của ngân sách phường: Khoản chi này chủ yếu nhằm phục vụ các chức năng của cơ quan chính quyền Nhà nước ở địa phương nhằm duy trì và phát triển hoạt động bình thường tại phường. ã Chi về công tác xã hội. ã Chi sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá, thông tin, truyền thanh, thể dục thể thao do phường quản lý. ã Chi bộ máy chính quyền phường. ã Chi hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội. Chi hỗ trợ hoạt động Hội người cao tuổi. ã Chi về kinh phí Đảng uỷ phường cấp theo dự toán được duyệt. ã Chi công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội. ã Các khoản chi khác. b. Chi đầu tư phát triển: Là khoản chi để sử dụng vào các công việc như xây dựng, cải tạo đường giao thông, công trình nước sạch, bảo vệ môi trường, các công trình phúc lợi; chi để xây dựng sửa chữa các công trình văn hoá, thể thao, khu vui chơi giải trí trên địa bàn phường. Ngoài ra khoản chi này còn được sử dụng để xây dựng, sửa chữa, cải tạo trụ sở HĐND và UBND, trụ sở Đảng uỷ và các tổ chức đoàn thể. 2.2. Trình tự lập, xét duyệt và quyết toán ngân sách phường: 2.2.1. Trình tự lập và căn cứ lập kế hoạch ngân sách phường; Lập dự toán ngân sách phường là quá trình phân tích, đánh giá, tổng hợp, dự toán nhằm xác lập các chỉ tiêu thu, chi ngân sách phường dự kiến có thể đạt được kỳ kế hoạch xác lập các biện pháp chủ yếu về kinh tế, tài chính và hành chính để đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu thu, chi đó. Xét trong chu trình quản lý ngân sách, thì lập dự toán ngân sách được coi là khâu mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, là khâu bắt buộc phải thực hiện đối với công tác quản lý NSNN nói chung và quản lý ngân sách phường nói riêng. a. Các căn cứ chủ yếu để lập dự toán ngân sách phường bao gồm: - Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn phường kỳ kế hoạch. Hàng năm phải dựa vào mức tăng trưởng của mỗi ngành nghề để dự đoán mức độ gia tăng của mỗi nguônf thu cho ngân sách phường. - Phải dựa vào những quy định chung về phân cấp quản lý kinh tế xã hội và phân cấp quản lý NSNN hiện đang có hiệu lực. - Các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu về phí, lệ phí, chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định, các chế độ, chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi NSNN năm. Trong trường hợp cần phải sửa đổi bổ sung thì các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải nghiên cứu và ban hành trước thời điểm lập dự toán. - Số kiểm tra về dự toán ngân sách do cơ quan tài chính và cơ quan chính quyền cấp trên thông báo. - Căn cứ vào tình hình thực hiện dự toán ngân sách phường năm báo cáo và các năm trước đó để thống kê và phát hiện ra những hiện tượng trong quá trình quản lý thu, chi ngân sách phường thường xuyên xảy ra. Mỗi một căn cứ ở trên đều có tầm quan trọng khác nhau và có tác dụng bổ sung cho nhau nên trong quá trình lập dự toán ngân sách phường phải coi trọng tất cả các căn cứ đó để đảm bảo được yêu cầu của ngân sách phường. b. Trình tự lập dự toán ngân sách phường: ã Tiếp nhận số kiểm tra và các văn bản hướng dẫn lập dự toán ngân sách do cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên giao. Dựa vào số kiểm tra mà quận giao, kết hợp với tình hình cụ thể của phường, UBND phường mà trực tiếp là ban tài chính phường tiến hành lập dự toán ngân sách phường mình. Các chỉ tiêu của dự toán ngân sách phường lập ra tối thiểu phải bằng số kiểm tra mà quận đã giao đối với ngân sách phường. ã Lập dự toán thu ngân sách phường: Dự toán thu ngân sách phải xác định đầy đủ và cụ thể các nguồn thu phường được hưởng 100%; các khoản thu phân chia theo tỉ lệ (%) giữa các cấp ngân sách, số bổ sung của ngân sách cấp trên. ã Lập dự toán chi ngân sách phường: Dự toán chi ngân sách phải được xây dựng cụ thể, đầy đủ trên cơ sở đúng chính sách chế độ của Nhà nước về nội dung thuộc các nhiệm vụ chi thuộc ngân sách phường. Tổng mức dự toán chi thường xuyên ngân sách phường của các quận phải phù hợp với định mức chi bình quân do Thành phố quy định. 2.2.2. Chấp hành kế hoạch ngân sách phường: Chấp hành kế hoạch ngân sách là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp kinh tế, tài chính, hành chính biến các chỉ tiêu đã được ghi trong dự toán trở thành hiện thực. ã Chấp hành thu ngân sách phường: - Tổ chức quản lý thu thuế phát sinh trên địa bàn phường. - Tổ chức quản lý các khoản thu ngân sách phường được hưởng 100% và do Ban tài chính phường trực tiếp thu. Mọi khoản thu do Ban tài chính phường thu phải nộp kịp thời vào kho bạc Nhà nước để kho bạc Nhà nước ghi thu cho ngân sách phường 100% và phản ánh tăng trên tài khoản quỹ ngân sách phường tại kho bạc. - Tổ chức quản lý số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. Phòng tài chính quận có trách nhiệm phải cấp ngay số thu bổ sung ngân sách phường khi phường yêu cầu để phường có thể chủ động điều hành ngân sách, nhưng khoản cấp phát đó phải được căn cứ từ dự toán cấp bổ sung cho từng phường và khả năng cân đối của ngân sách quận. - Hoàn trả các khoản thu ngân sách phường. ã Chấp hành chi ngân sách phường: - Chấp hành chi thường xuyên: Việc thực hiện chi thường xuyên chủ yếu bằng hình thức lệnh chi và được chi trả bằng một trong hai hình thức: Bằng tiền hoặc bằng chuyển khoản do kho bạc thanh toán. - Chấp hành chi đầu tư phát triển: Cần phải biết lựa chọn thứ tự ưu tiên và phải dựa vào nguồn vốn đầu tư đã huy động được để bố trí đầu tư cho các công trình và thúc đẩy tiến độ thi công. Tuyệt đối không dùng nguồn vốn vay thương mại để đầu tư. Trong quá trình chấp hành NSNN tất yếu có phát sinh những khoản chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn, vì vậy cũng dễ dẫn đến việc mất cân đối trong quá trình chấp hành ngân sách phường. Muốn thiết lập cân đối thì cần phải quán triệt các quan điểm sau: - Lường thu mà chi: Chỉ có trên cơ sở số thu đã tập trung được mà phân phối cho các nhu cầu chi. - Xử lý các nghiệp vụ phát sinh có liên quan đến tăng thu, giảm chi ngân sách phường. - Xử lý số dự phòng ngân sách phường. - Xử lý thiếu hụt lạm thời. 2.2.3. Quyết toán ngân sách phường: Quyết toán ngân sách phường là công việc cuối cùng của chu trình quản lý ngân sách phường. Nội dung của Quyết toán ngân sách phường bao gồm: - Quyết toán thu ngân sách. - Quyết toán chi ngân sách. Quyết toán ngân sách phường phải lập đầy đủ, chính xác, trung thực, đúng thời hạn quy định. Ban tài chính phường có trách nhiệm lập quyết toán thu chi ngân sách phường. Đối với quyết toán ngân sách năm thì phải trình UBND phường để trình HĐND phường phê chuẩn rồi nộp lên phòng tài chính quận. Chương II Thực trạng công tác quản lý ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng trong những năm gần đây I. Tình hình kinh tế – văn hoá xã hội trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng 1. Tình hình kinh tế. Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông nam Thành phố Hà Nội, diện tích là 1.464,5 ha, phía Bắc giáp Quận Hoàn kiếm, phía Đông giáp sông Hồng, phía Tây giáp Quận Đống Đa, phía Nam giáp Huyện Thanh Trì. Quận Hai Bà Trưng là cửa ngõ phía Đông Nam Hà Nội có tuyến giao thông đường bộ (quốc lộ 1), đường sắt Bắc Nam nối liền Thủ đô với tất cả các tỉnh phía Nam và đường sông (sông Hồng và cảng Hà Nội). Trên địa bàn Quận có đường vành đai 1 và vành đai 2 chạy qua. Vị trí này tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho việc mở rộng giao lưu, mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ. Song ở vị trí này cũng gây nên những khó khăn phức tạp trong quản lý kinh tế xã hội trên địa bàn Quận. Quận Hai Bà Trưng có 25 phường: Nguyễn Du, Bùi Thị Xuân, Lê Đại Hành, Phố Huế, Giáp Bát, Cầu Dền, Mai Động, Trương Định, Phạm Đình Hồ, Minh Khai, Bách Khoa, Quỳnh Lôi, Thanh Lương, Thanh Nhàn, Đồng Nhân, Ngô Thì Nhậm, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Tương Mai, Tân Mai, Đống Mác, Đồng Tâm, Vĩnh Tuy, Hoàng Văn Thụ, Bạch Đằng. Trong những năm qua, việc thực hiện công cuộc đổi mới đã tạo nên sức sống mới cho các hoạt động kinh tế trên địa bàn Quận. Vượt qua những khó khăn khủng hoảng kinh tế vào những năm 1980, kinh tế trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc đẩy mạnh khai thác những cơ sở kinh tế sẵn có, trên địa bàn Quận đã phát triển thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh mới, đặc biệt là các cơ sở ngoài Nhà nước trong các lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Về tốc độ phát triển, sự phát triển kinh tế trên địa bàn Quận trong thời kì 1991-2000 có thể chia thành hai giai đoạn - Giai đoạn 1991-1995: là giai đoạn giải phóng sức sản xuất, các hoạt động kinh tế phát triển với tốc độ cao, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; các doanh nghiệp Nhà nước vượt qua được giai đoạn khó khăn ban đầu do chuyển đổi cơ chế, bắt đầu ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài các ngành nghề có sẵn, trên địa bàn Quận đã phát triển thêm nhiều ngành nghề mới. Các nguồn lực trên địa bàn Quận đã được huy động mạnh, đồng thời thu hút được nhiều nguồn lực bên ngoài vào phát triển kinh tế. - Giai đoạn 1996-2000: Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, kinh tế trên địa bàn Quận vẫn phát triển nhưng tốc độ có phần chững lại. Trong năm năm 1996-2000, tốc độ tăng bình quân của toàn bộ các hoạt động kinh tế trên địa bàn là 9,3%/năm trong đó công nghiệp tăng 9,5%/năm, xây dựng tăng 3,3%/năm, nông nghiệp tăng 1,1%/năm, thương mại và dịch vụ tăng 13,1%/năm. Đặt trong sự phát triển chung của thành phố, sự phát triển kinh tế trên địa bàn Quận còn thấp, một loạt kho khăn trong sản xuất kinh doanh chưa được giải quyết cơ bản(trình độ công nghệ thấp kém, thị trường tiêu thụ hàng hoá và sức cạnh tranh của hàng hoá thấp, thiếu vốn để đổi mới công nghệ và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, thiếu mặt bằng, ổ nhiễm môi trường nặng nề...) Nhờ phát triển kinh tế, hàng năm quận Hai Bà Trưng đã giải quyết việc làm cho khoảng 7000 người. Nguồn thu ngân sách trên địa bàn Quận cũng tăng lên đáng kể. So với năm 1996, tổng thu ngân sách trên địa bàn Quận năm 2000 tăng 21,45%. Điều này tạo thuận lợi cho việc tăng thêm đầu tư phát triển kinh tế xã hội của Quận. Trong những năm qua, Quận luôn chủ động, tích cực thực hiện phương châm "tranh thủ mọi nguồn vốn để xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội". Đầu tư cho giáo dục thường chiếm từ 30 đến 35% ngân sách hàng năm của Quận. Trong 5 năm qua Quận đã sử dụng nguồn vốn của Quận và của Thành phố xây dựng được trên 55000m2 nhà ở. Quận đã quy hoạch phát triển thêm các khu dân cư mới ở Hồ Đình, Thanh Mai, Đền Lừ, Hồ Quỳnh, Giáp Lục, Giáp Bát... Tóm lại, trong những năm qua dù có nhiều khó khăn nhưng kinh tế trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng vẫn phát triển cả về bề rộng (quy mô, phạm vi kinh doanh) và chiều sâu (trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và quản lý...) tạo nền tảng cho việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội, đóng góp tích cực vào việc phát triển của thành phố và của đất nước. Các doanh nghiệp thích ứng dần với cơ chế quản lý mới. Tuy nhiên, sự phát triển ấy vẫn mang tính tự nhiên và chủ yếu do sự tác động của hệ thống chỉ đạo theo ngành, các doanh nghiệp trên địa bàn vẫn phát triển một cách rời rạc, chưa thiết lập được quan hệ liên kết cần thiết và có hiệu quả. Trong khuôn khổ thẩm quyền và trách nhiệm của mình, Quận đã có sự nỗ lực cao trong việc tạo môi trường cho sự phát triển các hoạt động kinh tế trên địa bàn. Việc quản lý tổng hợp các hoạt động kinh tế trên địa bàn Quận vẫn là vấn đề phức tạp cần được xem xét giải quyết. 2. Tình hình văn hóa xã hội. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị BCH Trung Ương Đảng lần thứ II, công tác giáo dục đào tạo của Quận đã đạt được những thành tích to lớn. Quận đã dành sự ưu tiên đầu tư cho việc nâng cấp cơ sở vật chất của các trường học bảo đảm được yêu cầu mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ thị "trường ra trường lớp ra lớp". Trong năm năm, Quận đã đầu tư xây dựng mới 340 phòng học, sửa chữa và cải tạo 370 phòng học. 100% trẻ em đến tuổi đều được đến trường, Quận đã được Thành phố công nhận hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở. Phong trào thi đua "dậy tốt, học tốt" tiếp tục được đẩy mạnh góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục : 100% học sinh tốt nghiệp tiểu học, 95% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở. Sự nghiệp y tế cũng có những biến chuyển tích cực. Tất cả các phường trong Quận đều đã xây dựng được trung tâm y tế. Các lực lượng y tế trên địa bàn quận đã phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, công tác phòng chống dịch bệnh, chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV-AIDS. Thực hiện công tác kiểm tra các cơ sở hành nghề y dược, khám chữa bệnh tư nhân, kiểm tra vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Quận. Các chương trình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được thực hiện có hiệu quả thông qua các việc làm cụ thể và thiết thực như chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em lang thang, con các đối tượng chính sách. Quận đã quan tâm thực hiện chính sách chăm sóc các đối tượng gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng và các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng được phát triển và mang tính xã hội cao. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân cũng có những bước cải thiện đáng kể. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền, thể dục thể thao được phát triển sâu rộng từ Quận đến phường và các cơ sở. Việc tôn tạo và quản lý các di tích lịch sử-văn hoá, chống tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống lành mạnh cũng đang có những biến chuyển tốt. Giải quyết việc làm là vấn đề được Quận hêt sức quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Hàng năm Quận đã giới thiệu và giải quyết việc làm cho khoảng 7000 người. Chỉ tiêu giảm hộ nghèo đã có nhiều tiến bộ, đến năm 2000 đã xóa hết hộ nghèo đói thuộc diện chính sách. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Quận cũng còn đang phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn thách thức. Một số tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, mại dâm, nghiện hút, trộm cắp, cướp giật... có được quan tâm giải quyết nhưng hiệu quả còn thấp. Giải quyết việc làm cho người lao động, quản lý lao động tự do từ ngoài tỉnh trên địa bàn vẫn là vấn đề mang tính thời sự của Quận. II. Thực trạng công tác quản lý ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng trong những năm gần đây. 1. Tình hình quản lý thu ngân sách phường 1.1. Tổng quan về thu ngân sách phường Từ khi luật NSNN ra đời vào năm 1996 và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, tình hình thực hiện thu chi ngân sách phường đã có nhiều biến chuyển. Với tư cách là một cấp ngân sách trong hệ thống NSNN đồng thời lại là nguồn tài chính hỗ trợ cho cơ quan chính quyền Nhà nước ở địa phương, tình hình thực hiện luật NSNN cấp phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng đã thu được nhiều kết quả khả quan. Biểu 1: Tổng hợp thu ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng Đơn vị : triệu đồng Nội dung thu 1998 1999 2000 Số thu Tỉ trọng Số thu Tỉ trọng Số thu Tỉ trọng Tổng thu 13987 100 17694 100 21242 100 1. Các khoản thu 100% 5456 39 5239 29,6 4317 20,3 2. Các khoản thu điều tiết - - 3545 20 3398 16 3. Thu bổ sung ngân sách 8531 61 8910 50,4 13527 63,7 (Nguồn : phòng Tài chính-Vật giá Quận Hai Bà Trưng) Từ bảng số liệu trên ta thấy, tổng thu ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng đã đạt được kết quả khả quan. Tổng số thu ngày càng tăng đến năm 2000 đạt 21242 triệu đồng, tăng 51,86% so với năm 1998. Tuy vậy chúng ta cũng nhận thấy các khoản thu bổ sung ngân sách chiếm tỉ lệ lớn trên tổng thu (thường trên 50%) mặc dù tổng thu tăng cả về tuyệt đối và tương đối nhưng khoản thu ngân sách phường hưởng 100% lại giảm xuống cả về tương đối và tuyệt đối. Nguyên nhân có tình trạng trên là do năm 1999 UBND Thành phố ban hành Quyết định số 25/UB trong đó có điều chỉnh một số nguồn thu của ngân sách phường; các khoản thu điều tiết có xu hướng tăng lên do tỉ lệ điều tiết đã được áp dụng. Mặc khác trong cơ cấu nguồn thu ngân sách phường hưởng 100% có nhiều khoản thu không ổn định như thu viện trợ, thu huy động đóng góp... Để có thể tìm hiểu rõ hơn về công tác quản lý thu ngân sách phường chúng ta sẽ đi vào xem xét nội dung cụ thể của từng khoản thu, từ đó có thể đưa ra những đánh giá sát thực hơn. 1.2. Nội dung và cơ cấu nguồn thu ngân sách phường Nguồn thu của ngân sách phường bao gồm : các khoản thu 100%, các khoản thu ngân sách phường hưởng theo tỉ lệ điều tiết và các khoản thu trợ cấp từ ngân sách Quận. 1.2.1. Các khoản thu 100%. Đây là các khoản thu ngân sách phường được hưởng 100%. UBND phường chỉ đạo ban tài chính cùng đội công tác của phường trực tiếp thu khoản này. Đây là nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách phường. Nội dung các khoản thu 100% bao gồm : - Thu phạt xử lý vi phạm hành chính - Thu phí lệ phí - Thu đóng góp - Thu kết dư ngân sách - Thu khác Biểu 2: Tổng hợp quyết toán thu ngân sách phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng Các khoản thu ngân sách phường được hưởng 100% Nội dung thu 1998 1999 2000 So sánh Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) 99/98 2000/99 Tổng thu 100% 5.456 100 5.239 100 4.317 100 96 82,4 1. Thu phí, lệ phí 1.483 27 1.557 30 1.172 27 105 75,3 2. Thu đóng góp 2.570 47 1.251 24 225 5 49 18 3. Thu kết dư NS 289 5 1.505 29 2.062 48 521 137 4. Thu khác 834 15 533 10 547 13 64 102,6 5. Thu phạt 39 0,7 35 0,6 68 2 90 2 6. Lao động công ích 241 4 358 7 666 13 149 186 (Nguồn: Phòng tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng) Từ bảng số liệu ta có thể dễ dàng nhận thấy tổng số thu khoản ngân sách phường được hưởng 100% giảm dần theo các năm. Mặc dù tổng thu ngân sách phường tăng lên về giá trị tuyệt đối nhưng các khoản thu 100% vẫn giảm. Nguyên nhân của thực trạng này một phần là do năm 1999 UBND Thành phố ra Quyết định 25/UB trong đó có điều chỉnh thay đổi một số khoản thu. Mặt khác ngay trong nội dung của khoản thu 100% cũng có những khoản mục không ổn định từ đó dẫn đến làm ảnh hưởng đến tổng số thu. Để hiểu rõ hơn vấn đề này chúng ta cần đi sâu tìm hiểu nội dung của từng khoản mục. Thu phí, lệ phí: Khoản thu phí và lệ phí là khoản thu ổn định nhất qua ba năm thực hiện tổ chức quản lý. Khoản thu này bao gồm các khoản thu về lệ phí hành chính (tem, chứng thư) và các khoản thu phí, lệ phí khác (gồm cả lệ phí chợ, vé chợ, thu WC...). Năm 1999 số thu này đạt 1557 triệu đồng, tăng 5% so với số thực hiện năm 1998. Nhìn chung trong hai năm số thực hiện thu phí và lệ phí luôn vượt dự toán, năm 1998 vượt 12% so với dự toán và năm 1999 vượt 19%. Riêng năm 2000 số thực hiện chỉ đạt 1172 triệu đồng, bằng 94% so với dự toán năm và bằng 82% so với số thực hiện năm 1998 Tuy số thu phí và lệ phí năm 2000 có giảm song tỉ trọng của các khoản thu này vẫn đạt 27% trên tổng số thu ngân sách phường hưởng 100%. Đạt được kết quả như vậy là do công tác tổ chức lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của các phường có nhiều tiến bộ và cố gắng. Các khoản thu phí và lệ phí hầu như các phường thực hiện đều hoàn thành dự toán với số thu cao, công tác quyết toán chặt chẽ rõ ràng thể hiện được năng lực và trình độ quản lý của cán bộ chính quyền phường. Nguyên nhân trước hết là do sự chỉ đạo phối hợp hết sức chặt chẽ giữa phòng Tài chính Quận và Ban tài chính các phường trong công tác tổ chức lập dự toán, chấp hành và quyết toán thu ngân sách. Mỗi phường đều chú ý đến công tác dân vận, thực hiện công khai hóa với nhân dân nội dung từng khoản chi phí và lệ phí, tránh những thắc mắc của quần chúng về các khoản thu này (vì đây là khoản thu do UBND các phường chủ động tổ chức và khai thác theo đúng những văn bản hướng dẫn hiện hành). Có những phường như phường Tương Mai, phường Mai Động và phường Trương Định đã thực hiện rất tốt công tác quản lý các khoản thu phí và lệ phí. Biểu 3: Những phường thực hiện tốt công tác thu phí và lệ phí Đơn vị : nghìn đồng Tên phường 1999 2000 Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Mai Động 33760 35170 104 36200 36066 100 Tương Mai 21816 21072 96 20000 23732 119 Trương Định 22750 27756 123 23910 29860 124 (Nguồn : phòng Tài chính-Vật giá Quận Hai Bà Trưng) Phường Mai Động trong ba năm thực hiện đều có số thu phí và lệ phí hơn 35 triệu đồng. Năm 1998 và năm 1999 đều hoàn thành và vượt thu 4 đến 5% so với dự toán. Riêng năm 2000 phường đã hoàn thành 99,6% so với dự toán năm. Phường Tương Mai và phường Trương Định cũng là những phường đã tổ chức quản lý tốt nguồn thu này. Số thu phí và lệ phí của các phường này đều đạt trên 200 triệu đồng và liên tục vượt dự toán các năm. Đặc biệt là phường Trương Định hai năm 1999,2000 đều vượt trên 20% so với dự toán năm. Để có thể hoàn thành liên tục dự toán năm, các phường này đều đã rất chú ý đến công tác cán bộ quản lý. Phường Mai Động và Trương Định đã liên tục cử các cán bộ thuộc ban tài chính các phường tham gia các khóa học đào tạo chuyên ngành và nâng cao trình độ chuyên môn kể từ khi chính thức thực hiện phân cấp ngân sách phường. Về phía phòng Tài chính Quận-cơ quan tài chính cấp trên luôn quan tâm và chú ý đến công tác lập dự toán và quyết toán ngân sách của các phường trên địa bàn. Các cán bộ khối phường thường xuống từng đơn vị thực hiện kiểm tra và chỉ đạo từng mảng hoạt động. Một số phường trong đó có các phường Tương Mai, Mai Động đã rất chú ý đến công tác phát thanh tuyên truyền, thực hiện hướng dẫn pháp luật và các Nghị quyết của phường ngay trên các phương tiện truyền thanh. Thái độ tiếp xúc nhân dân và thực hiện thu chi các khoản phí và lệ phí được các cán bộ thu rất chú trọng, không có thái độ cửa quyền trước những yêu cầu và thắc mắc của nhân dân, có như vậy công tác chấp hành thu phí và lệ phí của những phường này mới có hiệu quả cao. Tuy nhiên cũng có những phường thực hiện tổ chức quản lý các khoản thu phí và lệ phí kém, thường xuyên không đạt dự toán năm như phường Quỳnh Lôi, phường Cầu Dền,...Năm 1999,2000 cả hai phường đều không đạt dự toán với số thu thấp. Ngoài những nguyên nhân khách quan vì những phường này không nằm ở vị trí trung tâm của Quận, điều kiện phát triển kinh tế và đời sống dân cư không cao thì kết quả thu kém cũng do nhiều nguyên nhân chủ quan khác nhau. Mặc dù được sự chỉ đạo hết sức sát sao của phòng Tài chính Quận song công tác lập dự toán và quyết toán thu còn rất nhiều lúng túng. Nhiều khoản hạch toán không đúng Mục lục NSNN, ngay cả khâu lập quyết toán cũng không thực hiện theo yêu cầu. Kết quả trên cũng một phần là do trình độ chuyên môn của các cán bộ tài chính còn rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu quản lý. Bên cạnh đó có phường còn tổ chức thu những khoản thu phí và lệ phí sai chính sách chế độ, gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước trong nhân dân. Những việc làm sai như vậy không những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ lãnh đạo mà còn khó có thể tuyên truyền để mỗi người dân thực hiện nghĩa vụ của mình đối với chính quyền cấp cơ sở. Thu đóng góp: Thu đóng góp bao gồm có thu về lao động công ích và thu đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân. Theo Thông tư 01/TT-BTC của Bộ Tài chính ra ngày 04/01/1999 hướng dẫn về công tác tổ chức quản lý ngân sách xã phường thị trấn thì khoản thu từ lao động nghĩa vụ công ích là khoản thu ngân sách phường hưởng 100%. Quy định này nhằm nâng cao số thu trên địa bàn phường, tạo sự chủ động hơn nữa cho chính quyền phường trong tổ chức hoạt động trên địa bàn. Tuy nhiên số thu này lại giảm đi trong những năm qua và không hoàn thành được dự toán. Theo Thông tư trên thì khoản thu từ nghĩa vụ lao động công ích được chia thành hai mức khác nhau : mức tự nguyện và mức bắt buộc. Số thu theo chỉ tiêu Pháp lệnh ở mức bắt buộc sẽ được điều tiết 50% cho ngân sách phường trên tổng thu. Dựa trên quy định đó các phường sẽ chủ động tìm biện pháp thực hiện thu đảm bảo kế hoạch giao. Khoản thu về lao động công ích tăng đều đặn hàng năm, năm 1999 tăng gần 50% so với 1998, năm 2000 tăng 86% so với năm 1999 và thường xuyên vượt dự toán. Sở dĩ có được số thu luôn cao và tăng mạnh như vậy là vì ban tài chính phường và UBND phường đã hết sức coi trọng công tác tuyên truyền bằng mọi phương tiện như loa đài, dán các áp phích tuyên truyền, cử cán bộ chuyên môn xuống tận nhà dân để dân hiểu nghĩa vụ đóng góp lao động công ích vì mục tiêu chung đó là giữ gìn môi trường cảnh quan trên địa bàn phường được sạch đẹp hơn. Các phường luôn đi đầu trong công tác này là phường Vĩnh Tuy, phường Đồng Tâm và phương Tân Mai với số thu cao và ổn định. Bên cạnh đó các khoản thu đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân lại thường xuyên không ổn định. Nếu như năm 1998 số thu rất cao là 2570 triệu đồng chiếm 47% tổng số thu ngân sách phường hưởng 100% thì đến năm 1999 và 2000 số thu giảm hẳn chỉ còn chiếm 24% và 5% tổng số thu ngân sách phường hưởng 100%. Qua ba năm số thu đóng góp giảm mạnh do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân. Năm 1998 khoản thu này được phép hạch toán gồm nhiều quỹ như quỹ trẻ thơ, quỹ người nghèo,... Đến năm 1999 khoản thu này chỉ gồm các khoản thu đóng góp quỹ an ninh và quỹ xây dựng. Các phường đạt dự toán thu đóng góp năm 1999 là các phường Bùi Thị Xuân, Phố Huế. Những phường này thuộc khu vực buôn bán sầm uất, đời sống dân cư cao, có nhiều hộ kinh doanh. Chính vì thế số thu đóng góp của những phường này có thể thực hiện hoàn thành dự toán năm. Đa số các phường thuộc địa bàn quận chưa tính toán xác định được nguồn thu đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và cũng chưa chủ động xây dựng các mục tiêu cụ thể trình HĐND phê chuẩn làm cơ sở để xây dựng dự toán ngân sách hàng năm. Nguyên nhân này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của công tác lập dự toán và ban chấp hành thu đóng góp của ngân sách phường. 1.2.2. Các khoản thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ phần trăm điều tiết Đây là khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa phường với cơ quan cấp trên. Từ trước năm 1999, chưa có chủ trương về thu điều tiết thì khoản này không tồn tại. Nhưng từ sau khi có Quyết định 25/UB của UBND Thành phố Hà Nội quy định mức và nội dung thu thì khoản thu này chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng thu ngân sách phường. Theo quy định thì các khoản thu ngân sách phường được hưởng theo tỷ lệ phần trăm(%) phân chia giữa các cấp ngân sách bao gồm: - 20% thuế tài nguyên các Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - 5% thuế tài nguyên Doanh nghiệp Nhà nước cấp Quận đóng trên địa bàn phường nộp. - 50% thuế tài nguyên thu từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn phường. - 50% thuế nhà đất trên địa bàn phường - 70% thuế sử dụng đất nông nghiệp - 20% thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào các mặt hàng bài lá, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh karaoke, vũ trường trên địa bàn phường. Tại Quận Hai Bà Trưng, các phường được hưởng số thu theo tỷ lệ điều tiết từ các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc quy định số thu hưởng theo tỷ lệ điều tiết như trên đã góp phần tăng thu ngân sách phường, các phường có thể chủ động hơn trong hoạt động thu chi của mình. Cụ thể năm 2000 số thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ điều tiết đạt 3398 triệu đồng, chiếm 16% tổng thu ngân sách phường; năm 1999 số thu là 3545 triệu đồng, chiếm 20% so với tổng thu ngân sách phường. Biểu 4: Tổng hợp thu ngân sách phường Các khoản thu ngân sách phường hưởng theo tỉ lệ điều tiết Nội dung thu 1998 1999 2000 Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) Kế hoạch Thực hiện Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) Tổng thu NS phường hưởng theo tỉ lệ điều tiết - - 3.545 100 3.044 100 3.398 100 1. Thuế nhà đất - - 3.427 97 2.984 80 3.213 95 2. Thuế nông nghiệp - - 56 1,5 60 20 78 2 3. Thuế TTĐB - - 62 1,5 - - 107 3 (Nguồn: Phòng tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng) Trong ba khoản thu(thu thuế sủ dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất và thuế tiêu thụ đặc biệt), khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất với số thu cao nhất là thuế nhà đất. Số thu này đều chiếm một tỷ trong tương đối lớn tên tất cả các phường thuộc địa bàn Quận, đặc biệt là các phường có diện tích rộng lớn với dân cư đông. Trong khi tỷ trọng khoản thu thuế nhà đất thường chiếm trên dưới 95% tổng thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ điều tiết thì những khoản thu khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Khoản thu thuế sư dụng đất nông nghiệp chỉ chiếm 1,5% năm 1999 và 3% năm 2000 so vơi tổng thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ điều tiết. Còn khoản thu thuế tiêu thụ đặc biệt cũng tương tự như vậy, mặc dù số thu cũng như tỉ trọng có tăng nhưng không đáng kể. Khoản thu thuế nhà đất là khoản thu tương đối ổn định. Tuy mới thực hiện phân cấp thu từ năm 1999 nhưng ngay trong năm đầu tiên đã đạt 3427 triệu đồng, chiếm 97% tổng số thu ngân sách phường hưởng theo tỉ lệ điều tiết, vượt trên cả năm 2000 với số thu là 3213 triệu đồng, chiếm 95% tổng số thu ngân sách phường hưởng theo tỉ lệ điều tiết. Mặc dù tính chất của khoản thu là tương đối ổn định song để quản lý thu có hiệu quả cần phải có những biện pháp cụ thể và tích cực. Trong đó, việc nắm vững và quản lý tốt số hộ dân trên địa bàn, số hộ di cư và nhập cư là điều quan trọng nhất. Những phường như Đồng Tâm, Vĩnh Tuy, Thanh Nhàn là những phường quản lý số thu thuế nhà đất rất tốt với số thực hiện thu cao. Phường Vĩnh Tuy và phường Đồng Tâm là những phường điển hình trong công tác lập dự toán, chấp hành và quyết toán các khoản thu thuế nhà đất. Ưu điểm của những phường này là diện tích rộng lớn với số dân đông, vì thế số thu thuế nhà đất cao hơn các phường khác ở Quận. Để quản lý thực hiện thu tốt, liên tục hoàn thành dự toán, phường Vĩnh Tuy đã có những biện pháp bổ trợ rất tích cực. Phường đã bám sát những hướng dẫn cử cơ quan tài chính cấp trên trong thực hiện thu và số điều tiết giữa các cấp ngân sách. Khi thực hiện thu, phường đã quản lý chặt chẽ diện tích đất ở sử dụngcủa các hộ dân cư và các cá nhân thông qua sổ sách theo dõi, vì thế có thể nắm chắc được số thu, đạt kết quả sát với dự toán. Đây là một hình thức quản lý chặt chẽ đối vơi số thu thuế nhà đất của các phường, góp phần tăng thu ngân sách phường. Đối với số thu thuế tiêu thụ đặc biệt ngân sách phường hưởng chỉ đánh trên các mặt hàng kinh doanh bài lá, vàng mã, karaoke... và sẽ theo dõi hạch toán khi có khoản phát sinh, không có số dự toán cho khoản thu này. Đây là những khoản thu phát sinh không đồng đều giữa các khu vực, có những phường có thu thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng cũng có những phường không có khoản thu này, điều này dẫn đến số thu thuế tiêu thụ đặc biệt không cao, chiếm tỷ trọng nhỏ(từ 1,5 đến 3% tổng số thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ điều tiết). Những phường có số thu thuế tiêu thụ đặc biệt cao hầu như thuộc những địa bàn phát triển mạnh các hình thức kinh doanh karaoke trên địa bàn phường như phường Thanh Lương, Bùi Thị Xuân...Điển hình trong công tác thực hiện thu đối với số thu này là phường Bùi Thị Xuân(thu đạt hơn 25 triệu đồng). Địa bàn phường có khoảng hơn 135 nhà hàng kinh doanh vũ trường, dịch vụ karaoke lớn nhỏ và số thu từ hoạt động này chiếm khoảng gần 90% tổng số thu thuế tiêu thụ đặc biệt trên địa bàn phường. Để quản lý tốt được các khoản thu này, chính quyền phường phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thu trên địa bàn và các cơ quan có chức năng khác. Cụ thể, phường Bùi Thị Xuân đã có nhiều hoạt động phối hợp giữa tổ thu thuế của phường với các lực lượng công an quản lý khu vực kinh doanh này, từ đó có biện pháp nhằm quản lý tốt số thu đồng thời bảo đảm trật tự an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên đa số các phường không tính toán đầy đủ các khoản thu về thuế tiêu thụ đặc biệt vào những mặt hàng bài lá, vàng mã, karaoke...vì vậy không có đủ căn cứ để giao dự toán các khoản thu này cho ngân sách phường. Thực tế này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kết quả thực hiện quản lý các khoản thu thuế tiêu thụ đặc biệt, gây thất thu cho NSNN. 1.2.3. Các khoản thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên Thông tư 01/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 04/01/1999 đã quy định khoản thủ trợ cấp từ ngân sách cấp trên bao gồm: Thu trợ cấp để cân đối ngân sách và thu bổ sung có mục tiêu. Khoản thu trợ cấp để cân đối ngân sách là khoản trợ cấp của ngân sách Quận cho ngân sách phường và đều đặn hàng năm. Riêng khoản thu bổ sung có mục tiêu chỉ dành cho các chương trình mục tiêu đặc biệt của phường, Quận và Thành phố. Đây là khoản thu có tính chất quan trọng đối với số thu ngân sách phường, có số thu này sẽ giúp cho có phường chủ động hơn trong hoạt động của một cấp ngân sách. Biểu 5: Tổng hợp thu ngân sách phường Các khoản thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên Nội dung thu 1998 1999 2000 Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) Kế hoạch Thực hiện Số thu Tỉ trọng (%) Số thu Tỉ trọng (%) Thu trợ cấp ngân sách 8.531 100 8.910 100 8.939 100 13.527 100 1. Thu bổ sung để cân đối NS 8.531 100 7.983 90 8.178 91 10.031 74 2. Thu bổ sung có mục tiêu - - 927 10 761 9 3.496 26 (Nguồn: Phòng tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng) Số thu trợ cấp luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách phường. Ngoại trừ năm 1999 số thu này chỉ chiếm 50,4% tổng số thu ngân sách phường thì hai năm 1998 và 2000 số thu trợ cấp đều chiếm trên 60% tổng thu ngân sách phường. Điều này cho thấy sự phụ thuộc của ngân sách phường vào ngân sách cấp trên. Có những phường số thu này chiếm hầu như trên 70% tổng số thu ngân sách phường. Điều này cho thấy sự phụ thuộc của ngân sách phường vào ngân sách cấp trên, số thu của phường không thể đáp ứng nhu cầu chi, thậm chí quá thấp. Cả ba năm đều có khoản trợ cấp ngân sách, thậm chí khoản này ngày càng tăng thêm qua các năm(xem biểu số 5). Năm 1998 thu đạt 8531 triệu đồng, năm 1999 đạt 8910 triệu đồng, năm 2000 đạt 13527 triệu đồng. Số thu bổ sung có mục tiêu cũng tăng mạnh, năm 1999 chỉ chiếm 10% tổng thu trợ cấp ngân sách ngưng đến năm 2000 đã lên tới 3496 triệu đồng, chiếm 20% tổng thu trợ cấp ngân sách. Số thu trợ cấp ngân sách có tỷ trọng lớn và gần như là khoản thu chính trên tổng thu ngân sách của các phường thuộc Quận Hai Bà Trưng. Ngay cả những phường có số thu ngân sách phường cao thì số thu từ trợ cấp ngân sách vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Biểu 6: Tỷ trọng số thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên và tổng thu ngân sách phường của một số phường tiêu biểu năm 2000. Đơn vị : triệu đồng Tên phường Tổng thu ngân sách phường Thu trợ cấp ngân sách Tỷ trọng (%) Đồng Tâm 1161,3 631 54 Quỳnh Mai 1011,0 586,2 56 Vĩnh Tuy 1472,0 896 61 Đồng Nhân 691,4 487 70 Quỳnh Lôi 697,0 481,3 69 Bách Khoa 765,0 549 72 (Nguồn: Phòng Tài chính-Vật giá Quận Hai Bà Trưng ) Năm 2000, phường Vĩnh Tuy có số thu ngân sách phường là 1472 triệu đồng, cao nhất trong 25 phường thuộc Quận Hai Bà Trưng nhưng trong đó số thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên là 896 triệu đồng, chiếm 61% tổng thu. Các phường như Đồng Tâm, Quỳnh Mai đều có số thu ngân sách phường rất cao nhưng số thu trợ cấp đều trên 50% tổng thu ngân sách phường. Các phường có số tu ngân sách phường thấp, khoản thu trợ cấp đều chiếm tỷ trọng lớn từ 69-70% tổng thu ngân sách phường. Phường Đồng Nhân thu trợ cấp là 487 triệu đồng, chiếm 70% tổng thu ngân sách phường; phường Quỳnh Lôi chiếm 69%, phường Bách Khoa chiếm 72%. Việc trợ cấp từ ngân sách cấp trên giúp cho các phường có thể cân đối ngân sách, thực hiện các chức năng của mình. Tuy vậy nếu số thu trợ cấp ngân sách cấp trên vẫn còn cao thì sự chủ động của phường để tổ chức thu sẽ kém hơn, đẫn đến tình trạng ỷ lại vào ngân sách cấp trên. Từ thực trạng đó, các cấp chính quyền và các cấp ngân sách cần phải thực hiện tổng thể một loạt các biện pháp cả về thu và chi để nhằm tăng thu, giảm chi, giảm bớt sự phụ thuộc của các phường, nâng cao tính chủ động trong quản lý ngân sách. 2. Tình hình quản lý chi ngân sách phường. 2.1. Tổng quan về chi ngân sách phường. Theo Quyết định 25/UB của UBND Thành phố Hà Nội ban hành ngày 22/04/1999 nội dung chi ngân sách phường chỉ bao gồm chi thường xuyên. Khoản chi thường xuyên này được sử dụng để đảm bảo hoạt động thường xuyên của chính quyền Nhà nước ở địa phương cũng như giúp cho chính quyền Nhà nước ở địa phương thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Biểu 7: Tổng hợp chi ngân sách phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng Nội dung chi 1998 1999 2000 Số chi Tỉ trọng (%) Số chi Tỉ trọng (%) Số chi Tỉ trọng (%) Tổng chi 13.698 100 16.189 100 19.180 100 1. Lương + PC + BH + CĐ 1.960 14,31 2.704 16,7 2.877 15 2. Tổ dân phố 1.574 11,49 1.684 10,4 1.822 9,5 3. Dân nghèo, chính sách xã hội 479 3,5 453 2,8 595 3,1 4. Y tế - - 486 3,0 - - 5. Đảng 1.085 7,92 1.408 8,7 1.208 6,3 6. Đoàn thể, hiệp hội đoàn thể 507 3,7 583 3,6 633 3,3 7. Chi thường xuyên khác 8.093 59,08 8.871 54,8 12.045 62,8 (Nguồn: Phòng tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng) Quyết định 25UB cũng quy định áp dụng hình thức chi duy nhất là lệnh chi (tiền mặt và chuyển khoản) thực hiện theo nguyên tắc chi phải có dự toán, có mục tiêu rõ ràng đảm bảo cân đối giữa khả năng và nhu cầu trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước và đặc biệt là phải tiết kiệm, có hiệu quả. Thực hiện chủ trương của UBND Thành phố giao cho, tình hình thực hiện chi ngân sách Nhà nước cấp phường ở Quận Hai Bà Trưng trong những năm qua đã có những biến chuyển tích cực. Do tính chất cân đối giữa thu và chi nên số chi NSNN trong ba năm 1998,1999,2000 cũng tăng dần với tốc độ cao (xem biểu số 7) Nếu như năm 1998, tổng chi ngân sách phường là 13698 triệu đồng thì đến năm 1999 tổng chi là 16189 triệu đồng, tăng 18%; năm 2000 chi đạt 19180 triệu đồng tăng 18% so với năm 1999. Trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng có 25 phường với tổng mức chi năm 2000 là 19180 triệu đồng thì mức chi trung bình một phường là 767 triệu đồng, vượt xa định mức chi thường xuyên (450 triệu đồng) mà UBND Thành phố quy định trong Quyết định 25/1999. Mặc dù định mức chi này chỉ có ý nghĩa như là một cơ sở để ngân sách phường lập dự toán và phân bổ dự toán ngân sách hàng năm nhưng điều này cũng cho thấy mức chi tiêu ngân sách của các phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng là khá lớn. Để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu từng khoản chi trong tổng chi ngân sách phường của các phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng. 2.2. Nội dung và cơ cấu chi tiêu ngân sách phường. Nội dung chi thường xuyên của các phường gồm có các khoản chủ yếu sau: - Chi cho lương + phụ cấp + bảo hiểm + công đoàn. - Chi cho hoạt động của tổ dân phố. - Chi cho chính sách xã hội. - Chi cho sự nghiệp y tế - Chi kinh phí Đảng - Chi hoạt động đoàn thể. - Chi thường xuyên các hoạt động khác. * Chi về lương + phụ cấp + bảo hiểm + công đoàn gọi chung là lương. Ngày 23/1/1998 Chính phủ đã ra nghị định số 09/1998/NĐ-CP quy định mức sinh hoạt phí đối với cán bộ phường. Sau Nghị định 09 được ban hành thì có một loạt các văn bản đi kèm hướng dẫn về việc trả lương cho cán bộ phường. Theo quy định nguồn kinh phí trả sinh hoạt phí, hoạt động phí, phụ cấp, trợ cấp, bảo hiểm, công đoàn, .... do ngân sách phường chi trả. Nhìn vào biểu số liệu số 7, ta có thể dễ dàng nhận thấy chi phí trả lương ngày càng tăng, cụ thể là năm 1998 chi phí trả lương là 1960 triệu đồng, năm 1999 là 2704 triệu đồng, năm 2000 là 2877 triệu đồng. Tuy vậy, tỷ trọng của chi phí trả lương luôn xấp xỉ mức 15% trong tổng chi ngân sách phường. Tuỳ vào đặc điểm từng phường, tuỳ vào tính chất công việc, tính phức của từng địa bàn mà số cán bộ cũng như nhân viên của phường là không giống nhau giữa các phường, từ đó quy định chi phí về lương cũng khác nhau giữa các phường. Phường Đồng tâm là phường có mức chi lương là lớn nhất trong toàn Quận. Năm 1998 mức chi lương của phường là 135 triệu đồng, năm 1999 là 133 triệu đồng và năm 2000 là 170 triệu đồng. Đây cũng là phường có dân cư đông đúc, điều kiện kinh tế xã hội phát triển vì vậy việc quản lý cũng đòi hỏi nhiều cán bộ hơn. Tuy vậy phường Đồng Tâm cũng là phường đóng góp nhiều nhất cho ngân sách phường với số thu luôn vượt trên mức chi. Có thể nói, trong việc quản lý và điều hành chính quyền Nhà Nước cấp phường, chính sách đãi ngộ bằng ciệc trả công xứng đáng với phần công sức họ đã bỏ ra sẽ góp phần thúc đẩy, kích thích cán bộ và đội ngũ nhân viên của phường tích cực hơn, tận tâm hơn hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. * Chi cho hoạt động tổ dân phố. Tổ dân phố là đơn vị nhỏ hơn cấp phường, chịu sự quản lý trực tiếp của phường. Việc phân chia các phường thành tổ dân phố giúp cho phương fquản lý tốt hơntình hình kinh tế xã hội của từng khu vực trên địa ban phường. Chính vì vậy vai trò của tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố là rất quan trọng. Họ chính là những người tập hợp ý kiến đóng góp của nhân dẩntong phường về các vấn đề trên địa bàn rồi sau đó phản ánh kịp thời cho phường giải quyết. Tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố hỗ trợ đắc lực cho phường trong công tác giữ gìn trật tự an ninh trên địa bàn. Chi ngân sách cho hoạt động của tổ dân phố là cần thiết mhằm khuyến khích, động viên sự tích cực của tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố. Năm 1998 mức chi cho tổ dân phố là 1574 triệu đồng, năm 1999 đạt 1684 triệu đồng, tăng 7% so với năm 1998; năm 2000 mức chi đạt 1822 triệu đồng tăng 8% so với năm 1999. Nhìn chung mức chi ngân sách phường cho hoạt động của tổ dân phố chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng chi ngân sách phường, năm nào cũng đạt trên dưới 10% tổng chi ngân sách phường (xem biểu số 7) * Chi cho chính sách xã hội Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong việc trợ giúp các hộ gia đình có khó khăn, trẻ em lang thang cơ nhỡ, thăm hỏi các gia đình thương binh liệt sỹ nhân dịp lễ tết, xây dựng nhà tình nghĩa... trong những năm gần đây, khi nền kinh tế đã có nhiều biến chuyển tích cực và thu được những kết quả khả quan thì chế độ phúc lợi xã hội cũng được quan tâm hơn trước. Số chi ngân sách phường cho chính sách xã hội năm 1998 là 479 triệu đồng; năm 1999 là 453 triệu đồng giảm 5,5% so với năm 1998l; năm 2000 là 595 triệu đồng tăng 31% so với năm 1999. Các khoản chi bảo đảm xã hội được lấy chủ yếu từ nguồn đóng góp của dân. Nhìn chung các khoản chi này được công khai minh bạch, ghi chép đầy đủ. Tuy nhiên vẫn có một vài phường vẫn phát sinh hiện tượng như : lập đối tượng khống để lấy tiền, bớt xén tiêu chuẩn của các đối tượng... tuy số tiền không lớn nhưng nó thể hiện sự yếu kém trong công tác quản lý, gây mất lòng tin nhân dân. * Chi kinh phí Đảng, đoàn thể và các tổ chức khác. Theo quy định, kinh phí của các tổ chức ở phường chỉ được ngân sách phường tài trợ phần cân đối sau khi đã trừ đi phần thu hội phí và các khoản thu khác. Đối với tổ chức Đảng trước kia cũng vậy, từ năm 1997 tách thành hệ thống cấp phát riêng theo ngành dọc, nhưng thực tế vẫn còn theo cơ chế cũ tức là : ngân sách phường tài trợ phần kinh phí hoạt động sau khi trừ đi khoản thu Đảng phí và các khoản thu khác. Ngoài tổ chức Đảng, hiện nay ngân sách phường phải hỗ trợ kinh phí hoạt động gồm cả phụ cấp cho năm tổ chức chính trị xã hội là : Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên Cộng sản, Hội phụ nữ, Hội nông dân và Hội cựu chiến binh. Ngoài ra đối với các hội khác như Hội người cao tuổi... ngân sách phường chỉ hỗ trợ kinh phí lúc thành lập. Do nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong tình hình mới ngày càng nặng nề nên các khoản chi cho tổ chức này có xu hướng tăng lên. Năm 1998 tổng số chi về kinh phí Đảng và đoàn thể là 1592 triệu đồng, chiếm 11,6% tổng chi ngân sách phường; năm 1999 tổng số chi là 1991 triệu đồng chiếm 12,3% tổng chi ngân sách phường, vượt năm 1998 là 25%. Năm 2000, số chi là 1841 triệu đồng chiếm 9,6% tổng chi ngân sách phường, giảm so với năm 1999 nhưng vượt 15,6% so với năm 1998 (xem biểu số 7) Các tổ chức này đều có cơ sở ở các tổ dân phố nên các khoản chi bị phân tán, xé nhỏ và đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những yếu kém trong quản lý như : chi sai mục đích, lãng phí, kém hiệu quả, trục lợi các nhân... * Chi thường xuyên khác Đây là khoản chi thường xuyên trên địa bàn phường do ngân sách cấp Quận giao cho cấp phường đảm nhiệm như : chi thường xuyên phục vụ hoạt động tại phường, chi quản lý các di tích văn hóa thông tin phường, chi địa chính, chi quản lý trật tự xây dựng, chi đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông thoát nước, vệ sinh môi trường có tính chất bức xúc, chi hoạt động của chợ, chi sửa chữa loa đài truyền thanh, chi đầu tư xây dựng cơ bản... riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo các thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi thường xuyên khác này không có tính ổn định mà phải cân đối ngân sách với thu ngân sách phường. Nếu thu ngân sách phường không hoàn thành thì phải giảm chi thường xuyên khác. Tuy vậy do có nhiều khoản chi khác nhau, tính chất phức tạp nên số chi cho khoản này rất lớn, thường chiếm trên 50% tổng chi ngân sách phường. Năm 1998 chi thường xuyên khác đạt 8093 triệu đồng chiếm 59,08% tổng chi ngân sách phường; năm 1999 chi thường xuyên khác đạt 8871 triệu đồng chiếm 54,8% tổng chi; năm 2000 chi thường xuyên khác đạt 12045 triệu đồng chiếm 62,8% tổng chi ngân sách phường Do có rất nhiều nội dung bên trong nên việc quản lý khoản chi thường xuyên khác này gặp rất nhiều khó khăn. Ngoại trừ khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo các thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản, còn lại các khoản chi khác đều mang tính bột phát, không ổn định, khi phát sinh mới chi. Hiện nay ở nhiều phường có tình trạng chi sai mục đích không tiết kiệm và kém hiệu quả nên dẫn đến tình trạng lãng phí, chiếm dụng vốn NSNN. III. Đánh giá về tình hình quản lý ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng. Năm 1997 là năm đầu tiên luật NSNN có hiệu lực thi hành trên toàn quốc và cũng là năm đầu tiên ngân sách phường hoạt động như một cấp ngân sách trong hệ thống NSNN. Qua bốn năm thực hiện NSNN, công tác quản lý NSNN cấp phường đã đạt được những thành tựu hết sức khả quan, góp phần tích cực hỗ trợ cho bộ máy chính quyền địa phương thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình . Bên cạnh đó còn có những mặt khiếm khuyết, chưa hoàn thiện trong công tác quản lý NSNN cấp phường nói chung và trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng nói riêng. Những đánh giá nhận xét một cách tổng quát về công tác tổ chức quản lý các khoản thu ngân sách phường được nhìn nhận trên các khía cạnh sau. 1. Về phân cấp nhiệm vụ thu. a. Ưu điểm Qua nghiên cứu thực trạng công tác quản lý thu ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng cho thấy hầu hết các khoản thu chi NSNN đều được thể hiện qua NSNN, sổ sách kế toán tương đối rõ ràng. Chính quyền cấp phường quan tâm nhiều hơn đến công tác quản lý ngân sách, tìm mọi biện pháp để khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu. Tình trạng lạm thu, thu vượt mức quy định, đặc biệt là các khoản thu trái với quy định về cơ bản đã được chấn chỉnh. Tình trạng thu ghi sổ tay, không sử dụng biên lai thu đã được khắc phục. Đảm bảo được nguồn thu cho hoạt động của bộ máy chính quyền phường, không còn tình trạng nợ lương, nợ sinh hoạt phí của cán bộ xã, phường. Đối với các khoản thu 100%, tuy rằng tổng số thu có giảm đi nhưng hầu hết các phường đều hoàn thành dự toán năm, trong đó thu phí và lệ phí là khoản thu ổn định nhất qua ba năm 1998, 1999,2000. Thu phí và lệ phí luôn đạt tỷ lệ xấp xỉ 30% trong tổng thu ngân sách phường. Đối với các khoản thu điều tiết, tuy mới thực hiện điều tiết từ năm 1999 song kết quả thu đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách phường (trung bình chiếm 18%). Khoản thu chủ yếu có tính chất quyết định đến số thu này là khoản thu thuế nhà đất (trung bình chiếm 90% trên tổng thu ngân sách phường). Các phường trên địa bàn Quận đã thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế nhà đất, tổ chức thực hiện vượt dự toán năm, góp phần tăng thu ngân sách phường. Nhiều phường đã có sáng tạo và chặt chẽ trong khâu tổ chức quản lý, dẫn đến kết quả thu cao, hoàn thành sát dự toán. Số thu thuế tiêu thụ đặc biệt không phát sinh đồng đều trên các địa bàn song nhìn chung cũng có kết quả khả quan, góp phần đáng kể v ào tổng thu ngân sách phường, tạo sự chủ động cho cấp chính quyền phường thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Số thu trợ cấp của ngân sách cấp trên tuy vẫn còn lớn song nó đã góp phần giải quyết sự khó khăn trong hoạt động của chính quyền phường. b. Hạn chế Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn tồn tại một số phường với công tác quản lý còn hạn chế mặc dù đã nhận đuực sự quan tâm giúp đỡ của cấp trên. Kết quả thu các khoản đóng góp và thu nghĩa vụ lao động công ích ngày càng giảm đi, không có phường đạt được dự toán đặt ra. Vẫn còn tồn tại tình trạng tùy tiện trong quản lý thu, tự đặt ra các khoản thu phí và lệ phí thu đóng góp sai chính sách chế độ. Các phường còn chưa thực hiện công khai hóa các khoản thu phí và lệ phí, tạo lòn tin trong nhân dân và chống tiêu cực trong quản lý. Một điều đáng lưu tâm nữa là, đối với một cấp ngân sách yêu cầu đặt ra là phải cân đối được thu chi ngân sách trên cơ sở khai thác hết mọi nguồn thu trên địa bàn để đáp ứng nhu cầu chi. Hiện nay Nhà nước mới quy định tỷ lệ điều tiết thu một số loại thuế cho phường ở mức độ tối đa và tối thiểu, còn tỷ lệ cụ thể do UBND các Tỉnh, Thành phố quy định, nên đối với một số khoản thu ngân sách phường được hưởng theo tỷ lệ còn thấp như thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất,...Một số khoản thu giao cho phường thu nhưng lại không được hưởng điều tiết như thuế môn bài, thuế công thương nghiệp,...Điều này một mặt đã làm giảm nguồn thu ngân sách phường, mặt khác không kích thích tinh thần làm việc của cán bộ chính quyền địa phương, dễ dẫn đến tình trạng thất thu cho NSNN. Khoản thu ngân sách phường hưởng theo tỷ lệ điều tiết của một số phường thấp là do những phường này có diện tích không lớn, không có ngành nghề kinh doanh để khai thác các khoản thu khác nhất là thuế tiêu thụ đặc biệt. Do mới thực hiện phân cấp nguồn thu theo tỷ lệ điều tiết nên cơ quan tài chính cấp trên còn chưa thấy được mặt hạn chế trong việc quy định tỷ lệ điều tiết đối với những phường có số thu điều tiết thấp. Trước thực trạng này đòi hỏi các cơ quan cấp trên cần phải xem xét lại tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân sách. Khoản thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên vẫn còn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng thu ngân sách (hơn 60%). Ngân sách các phường đều phụ thuộc vào số thu trợ cấp ngân sách này, kể cả những phường có số thu ngân sách đạt kết quả cao vẫn có hơn 50% tổng thu ngân sách là thu trợ cấp. Nhìn chung công tác quản lý thu ngân sách phường trong nhữung năm đầu thực hiện luật NSNN đạt kết quả tốt, tuy còn có nhiều sai sót, hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng cần động viên khuyến khích đề ngân sách phường hoàn thiện hơn trong thời gian tới. 2. Về quy trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. a. Ưu điểm Quy trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách ở các phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Nhìn chung công tác lập dự toán ngân sách phưừong cơ bản đã dần dần được thực hiện theo quy định của luật NSNN. Các khoản thu chi ngân sách đã được tính toán, phân bổ theo Mục lục NSNN, tạo cơ sở thuận lợi cho công tác điều hành ngân sách phường của chính quyền và công tác kiểm soát thu chi ngân sách phường của cơ quan tài chính cấp trên.Điều này tạo thuận lợi cho công tác quản lý điều hành ngân sách phường được chặt chẽ và đi vào nề nếp. Các phường thuộc Quận đã thực hiện nghiêm túc dự toán ngân sách theo đúng Mục lục NSNN, đảm bảo được yêu cầu quản lý của cấp ngân sách cơ sở. Số dự toán của năm kế hoạch luôn được lập dựa trên các căn cứ về khả năng thu ngân sách phường trên địa bàn, tình hình thu ngân sách năm báo cáo và chỉ tiêu Thành phố giao. Quy trình chấp hành ngân sách đã được thực hiện tốt qua các năm dưới sự chỉ đạo sát sao của ngân sách cấp trên. Hầu hết các phường trên địa bàn Quận luôn hoàn thành vượt dự toán thu ngân sách phường năm 1999, 2000. Có những phường vượt dự toán tới 61% năm 2000 như phường Vĩnh Tuy và một số phường khác cũng vượt đến 42% và 39% như các phường Mai Động, phường Bạch Mai. Các khoản thu và lệ phí hầu hết được các phường thực hiện thu qua biên lai và phiếu thu do Bộ Tài chính, Sở Tài chính và của cơ quan thuế. Công tác hạch toán và quyết toán ngân sách phường trong các năm qua đã được thực hiện tốt với sự cố gắng nỗ lực của từng phường. Các khoản thu, chi ngân sách phường phát sinh đều được cán bộ tài chính-kế toán theo dõi cụ thể chi tiết vào đúng chương, loại, khoản, mục, tiểu mục được quy định trong Mục lục NSNN. Thời gian lập báo cáo quyết toán và chỉnh lý báo cáo luôn có thông báo rõ ràng của cơ quan tài chính cấp trên. Cuối mỗi quý đều có báo cáo thu gửi phòng tài chính vật giá theo dõi và kiểm tra. Quyết toán năm được các phường lập theo những mẫu biểu quy định gồm quyết toán chi tiết và tổng hợp trong đó phân loại nguồn thu một cách cụ thể. b. Hạn chế Quy trình lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách phường không trành khỏi những hạn chế, thiếu sót. Các phường lập dự toán còn máy mọc, chưa mạnh dạn hoặc chưa nắm vững được khả năng cũng như triển vọng thu chi ngân sách trên địa bàn. Do vậy các phường vượt dự toán với tỷ lệ cao, nhiều phường vượt dự toán tới 50%. Nguyên nhân là do các phường vẫn chưa tính toán hết đượckhả năng thu ngân sách tại phường mình. Sự phối hợp của các cơ quan liên ngành trong khâu lập kế hoạch chưa được đồng bộ. Nhiều khoản chi như chi sửa chữa điện nước, công trình cầu cống, xây dựng chưa được hạch toán cụ thể do tính chất phụ thuộc vào cân đối ngân sách toàn phường nên dễ dẫn đến tình trạng chi tiêu mập mờ, không có kế hoạch cụ thể, gây lãng phí ngân sách Nhà nước, kém hiệu quả... Trong khâu chấp hành ngân sách, tuy các phường đã nghiêm túc thực hỉện các quy định của nhà nước về việc sử dụng các phiếu, biên lai thu chi song đôi lúc công việc này còn thực hiện cẩu thả và thiếu sót. Nhiều phiếu thu, phiếu nộp phạt sau khi ghi lại không chỉ định nơi thu và nơi được hưởng các khoản thu đó. Nộp vào KBNN phiếu thu như vậy sẽ không tránh khỏi việc điều tiết nhầm giữa các cấp ngân sách phường. Nội đung các khoản thu phí và lệ phí còn chưa có các văn bản hướng dẫn và quy định chi tiết của ngân sách cấp trên(đặc biệt là các khoản phí chợ và phí phạt tại phường), như vậy sẽ không thuận lợi cho công tác công khai dân chủ, gây tiêu cực trong các cán bộ quản lý thu ngân sách phường. Nhiều khoản xuất chi theo mục đích nay nhưng trong phiếu xuất chi gưỉ KBNN lại hiểu theo một nội dung khác, vì vậy KBNN không thể thực hiện xuất chi cho đơn vị, gây chậm trễ quy trình thực hiện công việc. Theo quy định về thời hạn nộp báo cáo quyết toán đối với cấp ngân sách phường là hết ngày 31/3 năm mới, đối với quyết toán cấp Quận là hết ngày 28/2 năm mới. Tuy nhiên thường xuyên các cán bộ phụ trách khối phường ở phòng Tài chính-Vật giá phải nhặc nhở, thúc giục các cán bộ lập quyết toán hoàn thành công việc đúng thời hạn quy định. Đến tháng ba, tháng tư năm mới, báo cáo quyết toán vẫn còn Nằm ở phòng Tài chính Quận chờ xử lý. Điều này làm ảnh hưởng đến quy trình quyết toán ngân sách chung của toàn ngành. Nguyên nhân này cũng một phần là do các cán bộ của phường, mặt khác cũng chưa có quy chế khen thưởng kỷ luật rõ ràng. 3. Về công tác cán bộ tại phường a. Ưu điểm Nhìn chung công tác tổ chức quản lý tài chính, ngân sách phường bước đầu đã được kiện toàn và được củng cố, hoạt động của Ban tài chính phường ở Quận Hai Bà Trưng đã được thực hiện theo quy định. Đội ngũ kế toán phường đã được đào tạo tăng nhiều so với trước. Trước đây khi chỉ là một đơn vị dự toán, công việc của các cán bộ phường thực sự không nhiều phức tạp. Nhưng khi đã trở thành một cấp ngân sách trong hệ thống NSNN, các phường vừa phải lập dự toán, vừa phải đảm bảo phân bổ chi tiêu, thực hiện các công việc của một cấp ngân sách. Trước yêu cầu đó, trình độ chuyên môn của các cán bộ tại phưòng đã có những tiến bộ rõ rệt.với sự quan tâm của cấp trên và UBND phường, các cán bộ tại phường thường xuyên được cử đi đào tạo các khoá học phục vụ cong tác chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra ngân sách được chú trọng, phần lớn các phường đã thành lập được Ban thanh tra nhân dân hoạt động có hiệu quả, góp phần giải quyết khiếu kiện của dân. Qua công tác thanh tra đã phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm chế độ, chính sách tài chính của Nhà nước. Các cán bộ tại phường phận nhiều đã nắm được chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của mình nên thực hiện thu chi đúng mức, đúng quy cách hơn. b. Hạn chế Công tác cán bộ tại phường vẫn còn nhiều bất cập. Về số lượng cán bộ tài chính ở phường, có phường thì đầy đủ, có phường thì thiếu, chưa được tăng cường đúng mức về số lượng và chất lượng theo yêu cầu công việc. Điều này gây khó khăn trong khâu tổ chức kế toán, giám sát kiểm tra và tổng hợp, phân tích đánh giá về ngân sách phường và ảnh hưởng tới chất lượng quản lý tài chính ở cơ sở. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kế toán ngân sách phường còn chưa đồng đều. Nhiều nơi trình độ của cán bộ còn sơ cấp, chưa qua đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý tài chính, ngân sách phường theo luật. Đội ngũ cán bộ kế toán phường đã ít lại thay đổi liên tục mà không có cán bộ chuyên trách. Tồn tại đó là do hiện nay quy định các cán bộ tài chính kế toán của phường phải nằm trong bộ máy của phường và được nhân dân tín nhiệm bầu ra. Như vậy cứ sau năm năm một lần, cùng với sự thay đổi của các cấp lãnh đạo sau mỗi lần bầu cử thì cán bộ kế toán tại phường cũng nhiều thay đổi. Điều này gây khó khăn cho các cấp ngân sách đặc biệt là phòng Tài chính Quận, đơn vị phải chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp các cán bộ thuộc Ban tài chính các phường về nghiệp vụ và chuyên môn. Đối vơi công tác giám sát quản lý ngân sách ở phường, một bộ phận trong cán bộ và nhân dân ở cơ sở chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủcông khai ở cơ sở, mà trước hết là quy chế dân chủ công khai về tài chính nên chưa tích cực giám sát quá trình thực hiện quy chế nay trong công tác quản lý tài chính ngân sách phường. Một vấn đề nữa cần đặt ra là chính sách đãi ngộ khen thưởng đối với cán bộ ngân sách phường nhìn chung còn chưa thực hiện một cách rộng rãi, chính vì vậy đã hạn chế nhiều sự nhiệt tìnhcông tác của các cán bộ tại phường, điều này phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản ký ngân sách phường. 4. Về sự quản lý của các cấp chính quyền và sự giám sát của cơ quan tài chính cấp trên. Các cơ quan cấp trên cũng đã rất quan tâm đến cấp ngân sách phường trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của phường kể từ khi thực hiện phân cấp ngân sách. Sự quan tâm này thể hiện thông qua các văn bản hướng dẫn cụ thể cũng như các buổi hội nghị, hội thảo cấp thành phố về công tác quản lý thu chi ngân sách phường. Tuy nhiên đôi lúc sự giám sát này còn chưa chẽ. Có những hiện tượng thu sai, thu không đúng thẩm quyền như đã nêu trong phần tồn tại của việc phân cấp nhiệm vụ thu. Để hiện tượng đó xảy ra là không đúng mặc dù đã có những văn bản của cấp có thẩm quyền đình chỉ khị thời và xử lý nghiêm. Đây cũng là những bài học cho các cấp có thẩm quyền và cơ quan tài chính các cấp trong công tác tổ chức quản lý thu chi ngân sách phường nói riêng và NSNN nói chung. Chương III Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN cấp phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng I. Định hướng phát triển kinh tế xã hội các phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng. Qua những vấn đề đã trình bầy ở trên, có thể nói công tác quản lý ngân sách phường đã có những biến chuyển rõ rệt theo chiều hướng tích cực, tuy vậy vẫn còn một số nhược điểm, hạn chế cần khắc phục. Chúng ta thấy rõ vai trò của ngân sách phường trong việc hỗ trợ chính quyền Nhà nước cấp phường trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình qua nghiên cứu thu chi ngân sách phường. Nếu ngân sách phường thâm hụt thì ngân sách cấp trên phải bù đắp để nhằm đảm bảo mức sinh hoạt bình thường cho chính quyền phường. Ngược lại nếu ngân sách phường có thể tự cân đối được sẽ giảm được mức trợ cấp từ cấp trên, góp phần giảm bội chi ngân sách, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ trung tâm của ngân sách phường trong giai đoạn hiện nay : tập trung và kiểm soát chặt chẽ mọi nguồn thu theo quy định chế độ chính sách của Nhà nước. Đảm bảo thu đúng, thu đủ nhưng tránh tận thu nhằm nuôi dưỡng nguồn thu để thực hiện tái sản xuất xã hội. Mặt khác cũng cần tôn trọng những nguyên tắc "khoán thu nhưng không khoán chi", chi tiêu tiết kiệm hiệu quả hợp lý, không ngừng cải thiện đời sống vật chất văn hóa tinh thần cho nhân dân trên cơ sở cân đối ngân sách. Chi trong khả năng, không vay để chi cho tiêu dùng, thực hiện phương châm : "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trên mọi lĩnh vực, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà ngân sách cấp trên giao cho. Thực tiễn nghiên cứu NSNN trong những năm qua cho thấy, trong điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì thu nhập của người dân tăng lên, mức sống dần dần được cải thiện, tạo điều kiện tăng thu ngân sách. Đối với ngân sách phường cũng vậy, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng chính là tạo điều kiện tăng thu cho ngân sách phường, giúp cho ngân sách phường có thể chủ động nguồn thu, cân đối ngân sách, thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà ngân sách cấp trên giao cho. Như vậy vấn đề phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng gắn với các phường trong toàn quận trong những năm tới rất cần được chú trọng. Mục tiêu và phương hướng có tính chất tổng quát trong phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng là đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải tạo, nâng cấp và cải thiện hệ thống hạ tầng đô thị theo hướng văn minh hiện đại, cải thiện môi trường sinh thái và môi trường xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, biến Quận thành một trọng điểm thương mại và công nghiệp ở phía nam Thủ đô. - Về kinh tế : Huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế xây dựng Quận Hai Bà Trưng thành trung tâm kinh tế có vị trí trọng yếu của Thành phố. Trong giai đoạn 2001-2010 cơ cấu kinh tế trên địa bàn quận là công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Trong những năm tiếp theo sẽ chuyển thành cơ cấu thương mại, dịch vụ, công nghiệp, thủ công nghiệp có tính đến yếu tố của nền kinh tế trí thức. Tập trung đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp, tập trung sự chỉ đạo của cấp ủy Chính quyền vào các ngành có liên quan, cổ phần hóa các đơn vị quốc doanh, thực hiện giải pháp cần thiết đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài như giải thể, cho thuê hoặc bán doanh nghiệp. Tập trung mọi nguồn vốn đầu tư có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, chú trọng tích lũy cho đầu tư phát triển, hoàn thành nghĩa vụ nộp cho NSNN. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các cơ sở sản xuất kinh tế ngoài quốc doanh. Mở rộng liên doanh liên kết giữa các khu vực, thành phần kinh tế để phát huy những thế mạnh và lợi thế. Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình với nhiều ngành nghề truyền thống như sơn mài, khảm trai, đồ gốm...Các đơn vị tập trung nguồn vốn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh trên trên thị trường, thu hút thêm lao động góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp trên địa bàn. Tập trung hoàn thành việc chuyển đổi HTX theo luật nhất là HTX nông nghiệp. Giúp đỡ tạo điều kiện cho các HTX sau chuyển đổi ổn định phát triển sản xuất kinh doanh. - Về hạ tầng kỹ thuật đô thị : Từng bước tổ chức lại không gian đô thị của Quận. Tập trung nguồn lực của Quận, tranh thủ sự hỗ trợ của Thành phố và của Trung Ương đẩy nhanh tốc độ cải tạo nâng cấp và xây dựng mới hạ tầng kỹ thuật đô thị theo hướng văn minh, hiện đại, "xanh-sạch-đẹp" đạt trình độ trung bình khá của Hà Nội và trung bình của Thủ đô các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2001-2005 tập trung vào hệ thống giao thông, công trình phục vụ phát triển thương mại, một số công trình công ích, công trình liên quan đến cảnh quan và cải thiện môi trường sinh thái, hình thành một số khu dân cư mới. - Về văn hóa xã hội : Thực hiện có hiệu quả yêu cầu xã hội hóa công tác xã hội, tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục góp phần đào tạo nhân lực có chất lượng cao, mở rộng nâng cao chất lượng các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, hoạt động văn hóa thể thao. Chú trọng giải quyết việc làm trên cơ sở giải quyết các hoạt động kinh tế xã hội trên địa bàn, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên địa bàn Quận. - Về hệ thống chính trị : Thực hiện quy chế dân chủ, bảo đảm thực sự phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ", đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của các cấp bộ Đảng và Đảng viên; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền từ quận đến phường, đặc biệt chú trọng công tác quản lý đô thị; nâng các chất lượng hoạt động của các đoàn thể xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, cải thiện an ninh và an toàn xã hội, phối hợp đồng bộ các lực lượng giải quyết từng bước các tụ điểm và các tệ nạn xã hội trên địa bàn. II. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý công tác quản lý ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng. Trên cơ sở những định hướng cụ thể trên, kết hợp với những quá trình nghiên cứu thực trạng quản lý ngân sách phường trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng, đểcông tác quản lý ngân sách phường đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới cần thực hiện các biện pháp sau đây : 1. Thực hiện các biện pháp kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ sản xuất, tạo điều kiện mở rộng ngân sách phường. Muốn thúc đẩy kinh tế phát triển phải thực hiện tất cả các phương pháp, các biện pháp, các đòn bẩy. Trong điều kiện hiện nay yếu tố quan trọng nhất có lẽ là nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Giải quyết vấn đề vốn tài chính là một trong những điều kiện hàng đầu để thực hiện những mục tiêu và phương hướng đã xác định, tạo nên sự chuyển biến cơ bản về kinh tế-xã hội trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng, góp phần tăng thu ngân sách Quận nói chung và ngân sách các phường trên địa bàn Quận nói riêng. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận theo nhiều tiêu thức khác nhau, song có thể nói có ba nguồn vốn huy động chủ yếu. Đó là : ã Nguồn vốn từ dân cư Đây được coi là một trong các nguồn nội lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận. Để huy động nguồn này, trong khuôn khổ khả năng và trách nhiệm của mình, chính quyền Quận cần tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn cho hoạt động đầu tư, trong đó chủ yếu là công bố công khai quy hoạch định hướng phát triển công nghiệp và thương mại dịch vụ đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12817.DOC
Tài liệu liên quan