Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh: LỜI NÓI ĐẦU Thuế không chỉ là công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý nền kinh tế mà còn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.Thông qua việc thu thuế nhà nước có thể tập trung một phần nguồn lực xã hội vào tay mình để có thể thực hiện chức năng của mình. Từ khi nước ta thực hiện đổi mới, Đảng và nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần trong xã hội có thể tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật trong đó có việc tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức trong xã hội được tự do sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhờ chính sách thông thoáng của nhà nước đặc biệt là khi luật doanh nghiệp 2005 được áp dụng và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và l...

doc68 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Thuế không chỉ là công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý nền kinh tế mà còn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.Thông qua việc thu thuế nhà nước có thể tập trung một phần nguồn lực xã hội vào tay mình để có thể thực hiện chức năng của mình. Từ khi nước ta thực hiện đổi mới, Đảng và nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần trong xã hội có thể tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật trong đó có việc tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức trong xã hội được tự do sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhờ chính sách thông thoáng của nhà nước đặc biệt là khi luật doanh nghiệp 2005 được áp dụng và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và lĩnh vực hoạt động. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau do vậy cũng đã góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp này vẫn còn nhiều bất cập. Mặc dù hai luật thuế GTGT và TNDN đã thực hiện được một thời gian khá dài nhưng công tác quản lý chưa chặt chẽ vẫn còn nhiều kẽ hở vì vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng để trốn, lậu thuế, do đó một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành thuế nói chung và chi cục thuế huyện Đông Anh nói riêng là phải tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp, tổ chức có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm tránh thất thoát cho ngân sách nhà nước và đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Hiện nay nước ta ngày càng hội nhập sâu với kinh tế thế giới do vậy nhiều loại thuế đang được cắt giảm theo những hiệp định đã ký kết nhất là các loại thuế xuất nhập khẩu, đồng nghĩa với việc cắt giảm các loại thuế này là NSNN sẽ mất đi một khoản thu đáng kể do vậy mà việc chống thất thu thuế ngày càng trở nên cấp thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại Đội Kiểm tra - chi cục thuế huyện Đông Anh kết hợp với những kiến thức đã được học ở trường em mạnh dạn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: ”Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh”. Nội dung đề tài gồm ba phần Chương 1: Lý luận chung về thất thu thuế và sự cần thiết phải tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chương 2: Thực trạng thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh. Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh. CHƯƠNG 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẤT THU THUẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHỐNG THẤT THU THUẾ GTGT VÀ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1.1. Lý luận chung về thất thu thuế 1.1.1. Khái niệm Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công. Lịch sử đã chứng minh thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ các cá nhân, tổ chức có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay có những điều kiện cơ sở vật chất nhất định so với khả năng của họ cần phải động viên vào NSNN, song vì những lý do xuất phát từ phía nhà nước hay người nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN. Như vậy có thể hiểu thất thu thuế có hai hình thức đó là: Thất thu thực và thất thu tiềm năng. - Thất thu thuế thực: Được hiểu là những khoản tiền phải thu vào NSNN đã được quy định trong luật nhưng thực tế vì lý do nào đó không được nộp vào NSNN. - Thất thu thuế tiềm năng: Được hiểu là những khoản tiền thuộc khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế đáng lẽ phải được khai thác động viên vào NSNN nhưng không được quy định trong các luật thuế. Dạng thất thu thuế là những biểu hiện bên ngoài của thất thu thuế theo những tiêu thức nhất định. Do vậy có thể khái quát các dạng thất thu thuế cơ bản như sau: * Thất thu thuế do không bao quát hết số cơ sở sản xuất, kinh doanh: Tình trạng này xảy ra do các cơ sở sản xuất, kinh doanh không đăng ký kinh doanh, không đăng ký mã số thuế hoặc có thể đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký mã số thuế nhưng vẫn tiến hành sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra cũng có thể do các cơ sở này xin tạm nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. * Nhiều đối tượng cố tình kê khai không đúng số thuế đáng lẽ phải nộp theo quy định của pháp luật cũng như thực tế mà họ đang kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai thấp hơn nhiều so với số thuế thực tế phải nộp bằng cách khai tăng chi phí, giảm doanh thu thậm chí khai sai thuế suất. * Các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tìm mọi cách để trốn, lậu thuế như lập 2 hệ thống sổ sách kế toán để đối phó với cơ quan thuế, thực tế cho thấy nhiều kế toán của các công ty “sở hữu” hàng trăm chữ ký khác nhau. * Trốn thuế thông qua buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới không những không giảm mà có chiều hướng ngày càng tăng và phức tạp hơn trước. * Thất thu từ hoạt động xây dựng, du lịch lữ hành, vận tải tư nhân, cho thuê nhà nghỉ còn lớn do nhà nước chưa có các biện pháp quản lý các hoạt động này có hiệu quả.Các cá nhân, các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp thường không khai báo, không đăng ký nộp thuế nhằm trốn, tránh nghĩa vụ thuế với nhà nước. * Thất thu do không bao quát hết thu nhập của người nộp thuế cũng như số lượng người phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay số lượng người lao động hành nghề tự do ở nước ta còn lớn, thu nhập của người lao động ở nước ta có từ nhiều nguồn thu khác nhau và thường lớn hơn nhiều so với quỹ lương nhưng nhà nước mới chỉ quản lý được phần thu nhập thông qua quỹ lương mà cá cơ quan, đơn vị chi trả, còn những khoản thu nhập từ các nguồn khác thì chưa có biện pháp quản lý hiệu quả. * Thất thu thuế từ các khoản phí, lệ phí do chưa có biện pháp quản lý có hiệu quả ví dụ như tình trạng mua, bán vé cầu đường giả diễn ra rất “tấp nập” mà nhà nước chưa có biện pháp quản lý. * Vì lợi ích cá nhân cán bộ thuế móc ngoặc với người nộp thuế để làm giảm số thuế phải nộp vào NSNN để chia chác. Tình trạng thất thu thuế nói trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: * Do xuất phát từ người nộp thuế: Trong lịch sử phát triển của xã hội nhà nước ra đời là tất yếu khách quan trong xã hội có giai cấp. Để có thể đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Nguồn này được lấy bằng cách động viên một phần thu nhập của các tầng lớp trong xã hội. Với quyền lực của mình nhà nước đặt ra các loại thuế buộc mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội phải tuân theo. Nhu cầu chi tiêu của nhà nước càng nhiều thì mức động viên của thuế càng cao. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận, vì vậy họ luôn tìm cách để làm tăng doanh thu, giảm chi phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, mà thuế cũng là một khoản chi mà họ phải nộp cho nhà nước nên sẽ làm giảm lợi nhuận mà họ thu được. Do đó vì lợi ích của mình họ luôn tìm cách làm giảm số thuế đáng lẽ phải nộp mà trốn được thuế không phải nộp thì càng tốt. Như vậy trong thuế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của người kinh doanh, vì lẽ đó tình trạng thất thu thuế là không thể tránh khỏi. * Các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý thuế. Chính quyền các cấp chưa tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế làm việc. * Nguyên nhân từ cơ quan thuế: Có thể do trình độ quản lý còn yếu, bộ máy tổ chức kém hiệu quả, hay có thể do trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý chưa cao hoặc có thể do chính sách thuế thay đổi liên tục, diễn giải không rõ ràng, còn có những thiếu sót, sơ hở dẫn đến việc hiểu sai luật thuế do đó sẽ dẫn đến thực hiện sai. Hoặc cũng có thể do trình độ cán bộ còn yếu nên không thể phát hiện ra những gian lận, sai sót trong các hóa đơn, chứng từ, sổ sách do vậy người nộp thuế có thể trốn thuế. * Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song vẫn còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Nhiều quy trình quản lý thuế chưa được rà soát, xem xét sửa đổi do vậy gây tâm lý sợ đến cơ quan thuế của người nộp thuế. * Công tác kiểm tra, thanh tra thuế mặc dù đã được cải thiện nhưng hiệu quả chưa cao. Tình trạng chưa nắm bắt đủ thông tin, đánh giá đúng đối tượng mà vẫn tiến hành kiểm tra, thanh tra do vậy không phát hiện được vi phạm của các cơ sở. Bên cạnh đó việc xử lý các hành vi trốn thuế, lậu thuế còn chưa nghiêm, mức xử phạt còn quá nhẹ không có tính răn đe khiến cho tình trạng trốn thuế, buôn lậu vẫn tái phạm. * Hệ thống thuế ngày càng tăng cả về số lượng và thể loại, nhiều loại thuế có mức thuế suất còn quá cao, nhưng nhiều loại thuế lại có mức thuế suất lại quá thấp do vậy chưa đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động chính vì vậy mà việc thực hiện thuế còn gặp nhiều khó khăn. 1.1.2. Hậu quả của thất thu thuế Thất thu thuế xảy ra sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đất nước như: * Ảnh hưởng tới chi tiêu của nhà nước Thuế là nguồn thu chủ yếu của nhà nước, ở nước ta thu từ thuế đóng góp khoảng 80% vào ngân sách (trừ thu từ dầu). Thông qua việc thu thuế nhà nước tập trung một phần nguồn lực xã hội vào tay mình để tiến hành hoạt động, tuy nhiên khi xảy ra tình trạng thất thu thuế thì nguồn thu của nhà nước sẽ giảm đi, khi đó sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu của nhà nước. Đứng trước tình hình đó nhà nước buộc phải: - Giảm bớt các khoản chi đã dự định: Khi đó kế hoạch của nhà nước sẽ phải thay đổi, do vậy các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội có thể sẽ không đạt được như kế hoạch đã đề ra. - In thêm tiền chi tiêu để thực hiện theo kế hoạch đã đề ra: Khi đó lượng tiền đưa vào lưu thông quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự ổn định và phát triển của đất nước. - Vay nợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước: Khi đó sẽ để lại ghánh nặng nợ trong tương lai nhất là khi các khoản đầu tư này không mang lại hiệu quả như mong muốn. * Ảnh hưởng đến việc điều chỉnh, định hướng cơ cấu nền kinh tế Thông qua chính sách thuế nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo vùng, theo lãnh thổ, theo lĩnh vực đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Để thúc đẩy phát triển ở một vùng có kinh tế lạc hậu, bằng việc thi hành chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư ở vùng đó, như miễn thuế trong một khoảng thời gian, ưu đãi về thuế suất…để kêu gọi đầu tư, tuy nhiên mục tiêu của nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận do vậy khi nghiên cứu họ thấy là nếu tiến hành kinh doanh tại địa bàn đang được khuyến khích mặc dù có lợi nhuận nhưng nếu thấp hơn ở vùng mà họ đang kinh doanh do họ đã tìm được cách trốn thuế, lậu thuế thì rất khó để thu hút họ đầu tư vào đó. Hoặc để thúc đẩy những ngành nghề, lĩnh vực mà nhà nước cần phát triển mặc dù có những ưu đãi về thuế nhưng ở lĩnh vực mà họ đang kinh doanh mà họ trốn lậu được thuế thì cũng khó để họ đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích do vậy có thể làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững. * Ảnh hưởng đến mọi mặt xã hội Một trong những mục tiêu của thuế là đảm bảo công bằng xã hội, tuy nhiên khi xảy ra tình trạng thất thu thuế thì có doanh nghiệp nhà nước thu đủ thuế, có doanh nghiệp nhà nước chỉ thu được một phần thuế, thậm chí có doanh nghiệp nhà nước không thu được thuế do đó sẽ có sự không công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Ngoài ra thông qua thu thuế, nhà nước có nguồn tài chính để thực hiện phân bổ lại của cải xã hội. Ví dụ như xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng còn khó khăn, chi trợ cấp cho người nghèo…nhưng khi thất thu thuế xảy ra thì nhà nước có thể sẽ không có khả năng để thực hiện. Bên cạnh đó khi xảy ra tình trạng thất thu thuế còn tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, những doanh nghiệp trốn được thuế sẽ có lợi thế hơn những doanh nghiệp không trốn được thuế. Khi đó còn ảnh hưởng đến kỷ cương xã hội, những doanh nghiệp trốn thuế họ tìm cách lẩn tránh sự kiểm tra của nhà nước, thậm chí còn tìm cách khác để trốn thuế tiếp, còn các doanh nghiệp trước kia không trốn thuế nhưng thấy doanh nghiệp khác trốn được, có lợi thế trong kinh doanh thì họ có thể noi gương mà vi phạm. Như vậy có thể thấy rằng thất thu thuế có ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của xã hội, đến sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy chống thất thu thuế là đòi hỏi khách quan của mọi nền kinh tế. 1.2. Sự cần thiết phải tăng cường chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.1. Vai trò, đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là những doanh nghiệp không thuộc sở hữu của nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được tổ chức thành nhiều loại hình khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất phát từ những nhu cầu khách quan của nền kinh tế. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xu hướng quốc tế hóa ngày càng mở rộng, các loại hình doanh nghiệp phát triển ngày càng nhiều nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Từ khi nước ta thực hiện cải cách nền kinh tế, Đảng và nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân cũng như các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi để phát triển, nhất là từ khi luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời và chính thức được áp dụng. Nhờ sự khuyến khích đó của nhà nước mà các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và có vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thị trường và góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước. * Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hợp tác xã….Các doanh nghiệp này thuộc sở hữu của cá nhân, tập thể người sáng lập. - Các doanh nghiệp này hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ…Một thực trạng phổ biến trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là quy mô của các doanh nghiệp này thường nhỏ hiệu quả kinh doanh không cao. Theo số liệu của tổng cục thống kê hiện nay nước ta có khoảng 260.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tổng số vốn khoảng 600.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 75% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức vốn dưới 2 tỷ đồng/doanh nghiệp, hệ thống máy móc lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với cơ khí, tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm chỉ ở mức 5 - 7% so với mức 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Chính vì quy mô như vậy kéo theo hiệu quả kinh doanh không cao. Năm 2004 doanh thu thuần bình quân/doanh nghiệp là 7.580 triệu đồng, năm 2006 là 9.120 triệu đồng thấp hơn nhiều mức bình quân của cả nước 18.750 triệu đồng năm 2004 và 20.440 triệu đồng năm 2006. Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp này cũng không cao năm 2004 lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp này là 240 triệu đồng thấp hơn nhiều so với lợi nhuận bình quân/doanh nghiệp cả nước (khoảng 1.140 triệu đồng). - Với mục đích tối đa hóa lợi nhuận nên các doanh nghiệp này thường tổ chức bộ máy quản lý sao cho nhỏ gọn nhất có thể và rất linh hoạt. Qua đó ta có thể thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đặc điểm khác với các doanh nghiệp nhà nước như: + Về chủ sở hữu: Các doanh nghiệp quốc doanh là những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, do vậy hoạt động trong những lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc sở hữu của cá nhân, tập thể người sáng lập do đó hoạt động của các doanh nghiệp này do chủ doanh nghiệp quyết định. + Về trình độ kế toán: Các nhân viên nhất là các nhân viên kế toán trong các doanh nghiệp nhà nước được đào tạo chính quy, bài bản và phải qua thi tuyển công chức mới được vào làm nên trình độ của nhân viên kế toán trong doanh nghiệp nhà nước là rất cao. Ngược lại trình độ kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế, việc tiếp cận với chính sách mới của nhà nước còn khó khăn, việc áp dụng vi tính trong công tác kế toán chưa đồng bộ. Tình trạng ghi sai hóa đơn, bỏ sót doanh thu còn phổ biến. + Về ý thức chấp hành pháp luật: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do các cá nhân, tổ chức thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Chính vì vậy để tối đa hóa lợi nhuận họ sẵn sàng tiến hành sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực mà nhà nước cấm thậm chí còn buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái… Bên cạnh đó việc tuân thủ pháp luật thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp nhà nước do vậy nếu có trốn thuế hay không thì số tiền mà các doanh nghiệp này nộp cho nhà nước cũng không hề thay đổi do vậy nếu có vi phạm thì chủ yếu là vi phạm không cố ý. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu của nhà nước cho nên khi các doanh nghiệp này trốn, tránh được thuế thì phần thuế mà họ trốn được chính là phần lợi nhuận tăng thêm mà họ thu được do đó các doanh nghiệp này thường cố tình trốn, tránh thuế nên việc phát hiện ra các sai phạm gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy cần phải có sự quản lý chặt chẽ đối với các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện pháp luật nói chung và luật thuế nói riêng. * Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai trò quan trọng trong nền kinh tế: - Góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Theo số liệu điều tra của tổng cục thống kê, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh về số lượng và chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước. Năm 2000 cả nước mới chỉ có 35.004 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm khoảng 91,55% tổng số doanh nghiệp,thì đến năm 2006 đã có 123.392 doanh nghiệp, chiếm 93,96% tổng số doanh nghiệp của cả nước. Như vậy trung bình mỗi năm cả nước có thêm 14.732 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hiện tại nước ta có khoảng 260.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thủy sản, chiếm 30% giá trị ngành công nghiệp dệt may vì vậy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đóng góp đáng kể vào tổng thu NSNN. - Góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người lao động: Nước ta mỗi năm lại có thêm trên một triệu lao động mới mà các doanh nghiệp nhà nước không thể giải quyết hết được do vậy với sự có mặt của các doanh nghiệp này có thể giải quyết được một phần lớn công ăn việc làm cho người lao động. Hiện nay khu vực kinh tế này thu hút khoảng 90% số lao động mới hàng năm. Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà đã giải quyết phần lớn việc làm cho người lao động vì vậy có thể góp phần cải thiện đời sống của nhân dân qua đó cũng góp phần đảm bảo trật tự an ninh, giảm các tệ nạn xã hội. - Là trụ cột của nền kinh tế địa phương: Nếu như các doanh nghiệp nhà nước thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất, kinh doanh ở nhiều địa bàn khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau do đó tận dụng được vốn, lao động sẵn có tại nơi sản xuất, kinh doanh vì vậy tạo ra nhiều của cải xã hội, cải thiện đời sống nhân dân ở địa phương. - Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh như vậy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ là cầu nối hỗ trợ các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó trong những năm qua với nhu cầu phong phú về hàng hóa, dịch vụ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp vai trò quan trọng trong việc đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay các nhà phân phối cũng như người tiêu dùng. Như vậy có thể thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vị trí không thể thiếu được trong nền kinh tế, sự đóng góp của các doanh nghiệp này vào sự phát triển chung của đất nước là không thể phủ nhận, tuy nhiên hoạt động các doanh nghiệp này cũng còn những hạn chế nhất định gây khó khăn cho công tác quản lý thu thuế như: Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay tăng lên nhanh chóng tuy vậy có thể thấy hầu hết các doah nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đều có quy mô nhỏ, khả năng huy động vốn bị hạn chế, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, trang thiết bị còn lạc hậu, thiếu thông tin về thị trường, sản xuất còn manh mún. Bên cạnh đó ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp này là không cao, phần lớn những người chủ các doanh nghiệp này một mặt trình độ còn hạn chế, việc am hiểu chính sách thuế còn chưa đầy đủ, mặt khác vì mục đích lợi nhuận của mình thường tìm cách trốn thuế, tránh thuế thậm chí còn kinh doanh trong các lĩnh vực nhà nước cấm. Từ khi nước ta thực hiện đổi mới nền kinh tế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thừa nhận và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, nhưng để cho các doanh nghiệp này phát triển theo định hướng của nhà nước thì cần phải có các biện pháp quản lý trong đó có quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT và TNDN nói riêng. 1.2.2. Sự cần thiết phải chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.2.1. Xuất phát từ tầm quan trọng của thuế TNDN và GTGT Ở Việt Nam, thuế GTGT và TNDN là hai sắc thuế có đóng góp lớn nhất cho NSNN hàng năm. Cụ thể tỷ trọng đóng góp của hai loại thuế này như sau: Bảng 1: Tỷ trọng một số khoản thuế trong tổng thu NSNN Đơn vị tính : % Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Tổng thu NSNN 100 100 100 100 Thuế GTGT 20,52 21,06 19,19 25,66 Thuế TNDN 23,01 24,21 25,89 24,44 Thuế XNK 10,23 9,17 9,40 8,03 Thuế TTĐB 7,88 8,37 5,31 5,72 Nguồn: tổng cục thống kê Số liệu ở bảng trên cho thấy, thuế GTGT và thuế TNDN luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách hàng năm và có xu hướng tăng lên, năm 2004 thuế GTGT và TNDN chiếm 43,53% trong tổng thu NSNN thì đến năm 2007 tỷ lệ này là 50,1%. Với xu hướng hội nhập của kinh thế thế giới nhất là từ khi nước ta đã gia nhập WTO, theo cam kết nhiều loại thuế nhập khẩu đã được miễn, giảm đồng nghĩa với đó là một nguồn ngân sách lớn của nhà nước đã bị mất đi (năm 2004 thu từ thuế XNK chiếm khoảng 10,23% trong tổng thu NSNN nhưng đến năm 2007 chỉ còn 8,03%).Vì vậy để đảm bảo chi tiêu của mình bên cạnh việc nghiên cứu, hoàn thiện và đưa ra sắc thuế mới (như thuế TNCN), nhà nước cần phải tăng cường các biện pháp quản lý các loại thuế hiện có nhằm đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế nhất là đối với thuế GTGT và TNDN. Mặt khác hai sắc thuế này còn là công cụ đắc lực của nhà nước trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế, thông qua việc ưu đãi về miễn, giảm thuế nhà nước có thể khuyến khích đầu tư vào một ngành, một lĩnh vực hay một địa bàn nào đó. Ngoài ra việc quản lý tốt hai sắc thuế này cũng góp phần đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, bên cạnh đó nhà nước có thể có nguồn tài chính để thực hiện các mục tiêu xã hội của mình. 1.2.2.2. Thực trạng quản lý thuế GTGT và TNDN ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2000 mới chỉ có 35.004 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì đến năm 2006 đã lên tới 123.392 doanh nghiệp và hiện nay đã là 260.000 doanh nghiệp.Tuy nhiên trên thực tế không phải các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nào cũng đăng ký kinh doanh, hoặc có đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký thuế ngay do vậy đã gây ra không ít khó khăn cho cơ quan thuế trong việc quản lý đối với các doanh nghiệp này. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần nhưng luật thuế GTGT và TNDN ở nước ta vẫn còn hạn chế, bất cập do vậy đã tạo kẽ hở cho một số doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lợi dụng để lách luật nhằm mưu lợi cho riêng mình không những làm mất nguồn thu cho NSNN mà còn gây mất ổn định cho nền kinh tế. Hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các giao dịch trên thị trường ngày càng phức tạp, các thủ đoạn trốn thuế, lậu thuế do vậy cũng diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp rất khó phát hiện. * Trong luật thuế GTGT: Đặc điểm nổi bật của thuế GTGT là việc khấu trừ đầu vào được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua vào do đó tạo điều kiện cho việc thu thuế ở khâu sau, có tác dụng kiểm tra thuế ở khâu trước. Tuy nhiên để thực hiện đòi hỏi phải quản lý được công tác ghi chép hóa đơn, sổ sách phải rõ ràng, minh bạch. Bên cạnh đó đòi hỏi ý thức chấp hành pháp luật của người nộp thuế phải cao. Nhưng các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp này thường tìm cách trốn thuế, tránh thuế và một trong những cách để trốn thuế là tăng số tiền thuế khấu trừ đầu vào nhưng không có thật, do vậy các doanh nghiệp này thường sử dụng hóa đơn giả, mua hóa đơn ở chợ đen, sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn để hợp lý các khoản thuế đầu vào. Ngoài ra lợi dụng chính sách hoàn thuế nhiều doanh nghiệp đã lập hồ sơ khống xin hoàn thuế với số thuế lên tới hàng chục tỷ đồng, số tiền này rất khó có thể thu hồi lại được vì các doanh nghiệp sau khi đã được hoàn thuế thường biến mất. Hiện nay với cơ chế tự khai, tự tính và tự nộp thuế các doanh nghiệp cũng lợi dụng triệt để nhằm chiếm dụng tiền thuế của nhà nước bằng cách kê khai thuế đầu ra giảm, thuế đầu vào tăng lên so với thực tế hay nộp chậm tiền thuế. Bên cạnh đó lợi dụng chính sách của nhà nước cho phép chuyển số thuế GTGT chưa khấu trừ hết sang kỳ sau mà nhiều doanh nghiệp lợi dụng lập chứng từ không đúng làm cho thuế đầu ra luôn nhỏ hơn đầu vào. Hay lợi dụng việc quy định mức thuế suất không rõ ràng đối với nhiều mặt hàng, nhiều doanh nghiệp đã kê khai mức thuế suất thấp để giảm thuế, ví dụ như trước đây ghế ô tô giả da không biết thuộc về sản phẩm cơ khí hay là sản phẩm giả da để áp thuế suất nên doanh nghiệp đã kê khai mức thuế suất đối với sản phẩm cơ khí để áp dụng thuế suất 5%. * Đối với thuế TNDN: Với trình độ quản lý còn hạn chế, trình độ kế toán còn yếu, ý thức chấp hành luật thuế chưa cao các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường tìm cách trốn, tránh thuế. Các hình thức chủ yếu mà doanh nghiệp thường áp dụng như: không kê khai đăng ký thuế, không nộp tờ khai quyết toán thuế…. các doanh nghiệp còn tìm cách làm giảm doanh thu (ví dụ như bỏ sót doanh thu, bán hàng không xuất hóa đơn…), hay khai tăng các khoản chi phí được trừ (như lợi dụng chính sách của nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự xây dựng mức tiêu hao vật tư mà một số doanh nghiệp đã khai khống vật tư dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, hay lập hai hệ thống sổ sách làm cho kết quả phản ánh trên sổ sách khi cán bộ thuế kiểm tra không đúng với thực tế) để làm tăng các khoản được trừ qua đó có thể làm giảm thu nhập tính thuế. Ngoài ra khả năng phát hiện ra sai sót, tần suất thanh tra còn thấp, các chế tài xử lý các hành vi trốn thuế còn quá nhẹ không có tính răn đe. 1.2.2.3. Xuất phát từ các doanh nghiệp Sự tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp xuất phát từ nhiều yếu tố trong đó có một số yếu tố chủ yếu sau: - Mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phụ thuộc vào sự hiểu biết về luật thuế, những yêu cầu của luật thuế. Nhiều doanh nghiệp không nhận thức được, hoặc không hiểu được nghĩa vụ thuế cũng như quy trình tuân thủ. Chính điều này làm gia tăng tỷ lệ lỗi trong kê khai, quyết toán thuế và cản trở việc tuân thủ pháp luật thuế của các doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp mới thành lập thường thiếu kiến thức về luật thuế, nghĩa vụ thuế và quy trình tuân thủ thuế, các hoạt động trốn thuế, tránh thuế thường thô sơ và dễ bị phát hiện. Ngược lại các doanh nghiệp “có tuổi” thường hiểu rõ về luật thuế và quy trình nộp thuế vì vậy nếu không có chính sách thuế hợp lý, cơ chế ràng buộc chặt chẽ, chế tài xử lý nghiêm thì họ thường sử dụng các biện pháp tinh vi để trốn, tránh thuế. - Yếu tố tâm lý của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp nộp thuế vào NSNN nhưng khi họ nhận thức rằng việc đóng thuế của họ là không công bằng, nghĩa vụ nộp thuế là không bình đẳng thì họ sẽ tìm mọi cách để làm giảm số thuế phải nộp. Bên cạnh đó là tâm lý lo lắng về khả năng xảy ra vi phạm pháp luật thuế như tính toán sai thu nhập chịu thuế, thanh toán không đúng…v.v.làm cho họ ngại khi đến cơ quan thuế nộp thuế. - Ngoài ra còn có một số yếu tố khác như: Lãi suất thị trường, lãi suất ngân hàng cũng ảnh hưởng đến quyết định tuân thủ, trì hoãn, hay không tuân thủ thuế. Khi lãi suất tăng cao doanh nghiệp sẽ trì hoãn việc nộp thuế hoặc có khả năng trốn thuế hay tránh thuế. Hay như tình trạng lạm phát quá cao sẽ ảnh hưởng tới mức sinh lợi từ hoạt động sản xuất kinh doanh do vậy cũng có thể ảnh hưởng tới việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê thì năm 2002 thất thu thuế khoảng 21,2%, năm 2003 là 19,8%, năm 2004 là 18,9%.Tính đến tháng 12/2005 số ghi thu nợ mà các cơ quan tài chính xác định ở các doanh nghiệp lên tới 1.892 tỷ đồng. Sự vi phạm dù là vô tình hay cố ý đều có ảnh hưởng xấu đến nhiều khía cạnh của đất nước. Do đó có thể nói sự tăng cường công tác chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vô cùng cần thiết để góp phần làm tăng thu cho NSNN, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp cũng như các thành phần khác trong nền kinh tế, phát huy và nâng cao vai trò điều tiết, định hướng kinh tế của nhà nước, góp phần đưa chính sách thuế vào cuộc sống để cho các sắc thuế nói chung cũng như hai sắc thuế GTGT và TNDN nói riêng không chỉ là công cụ đắc lực của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THẤT THU VÀ CHỐNG THẤT THU THUẾ GTGT VÀ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH Ở CHI CỤC THUẾ HUYỆN ĐÔNG ANH 2.1.Đặc điểm kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy thu thuế ở huyện Đông Anh 2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội Huyện Đông Anh được thành lập ngày 31/05/1961, là một huyện ở ngoại thành của thủ đô Hà Nội, nằm dọc bờ bắc Sông Hồng cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về phía bắc, với diện tích tự nhiên là 182,3 km2 và dân số 309.690 người (năm 2005).Huyện Đông Anh gồm 1 trị trấn và 23 xã. Hệ thống sông Hồng và sông Đuống là gianh giới hành chính giữa huyện với nội thành, đây cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của huyện để thúc đấy kinh tế nhờ vào khai thác cát. Thời tiết, khí hậu của huyện tương đối thuận lợi cho cây trồng và vật nuôi phát triển, nhờ vậy huyện có xã chuyên trồng rau xanh cung cấp cho nội thành do đó mà nhiều công ty chuyên kinh doanh rau sạch ra đời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của huyện. Huyện có khu công nghiệp Bắc Thăng Long tập trung nhiều công ty trong nước cũng như nước ngoài vào đầu tư. Đông Anh có nhiều địa điểm thu hút khách du lịch như Núi Đôi, Thành Cổ Loa, Đầm Vân Trì và nhiều đền chùa thu hút nhiều khách du lịch đến với huyện qua đó tạo thuận lợi cho các nghành dịch vụ ăn theo có điều kiện phát triển. Đến nay nền kinh tế của huyện đang dần ổn định và phát triển, cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện, các tuyến đường liên thôn, liên xã được nâng cấp tạo thuận lợi cho giao thông, vận chuyển hàng hóa giữa các xã trong huyện cũng như giữa huyện với các huyện, tỉnh khác. Nhờ những thuận lợi đó, trong vài năm trở lại đây huyện Đông Anh có tốc tăng trưởng vào loại khá, bình quân đạt 10,95 %/năm. Cơ cấu đang dần chuyển hướng theo hướng tích cực Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản đóng góp tới trên 80% giá trị sản xuất trên địa bàn huyện. Công nghiệp trên địa bàn huyện chủ yếu là cơ khí, điện tử. Huyện có ngành tiểu thủ công nghiệp phát triển khá mạnh với nhiều làng nghề truyền thống. Nông nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện với tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, bình quân đạt 5,57 %/năm, tuy vậy tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế có xu hướng giảm dần (từ 27,1% năm 1995 xuống còn 20,3% năm 2000). Cơ cấu cây trồng vật nuôi cũng có chuyển hướng tích cực, tạo ra giá trị ngày càng cao. Thương mại, dịch vụ của huyện có tốc độ phát triển khá cao bình quân đạt 12,9%/năm, tuy nhiên các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực này có quy mô còn nhỏ, mạng lưới dịch vụ phân bổ không đều tập chung chủ yếu ở thị trấn và các khu công nghiệp. Ngoài ra đời sống của nhân dân đang ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, vấn đề an ninh, trật tự xã hội được đảm bảo, hiệu quả quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực được nâng lên. Đây là những điều kiện thuận lợi để cho huyện có thể phát triển kinh tế, tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó còn không ít khó khăn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của huyện như: còn có sự chênh lệch lớn về kinh tế giữa các xã trong huyện, trình độ dân trí nhiều nơi còn thấp, giao thông nhiều nơi vẫn chưa được đảm bảo….đây là những hạn chế làm giảm tốc độ phát triển kinh tế của huyện. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thu thuế ở địa bàn huyện Đông Anh Chi cục thuế huyện Đông Anh được thành lập theo quyết định số 315/TCQD-TCCB ngày 21 tháng 8 năm 1991 của Bộ Tài Chính. Hiện nay chi cục có 90 cán bộ công chức. Căn cứ quyết định số 729 QD-TCT ngày 18 tháng 06 năm 2007 của tổng cục trưởng tổng cục thuế về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của chi cục thuế trực thuộc cục thuế, chi cục thuế huyện Đông Anh có cơ cấu tổ chức và nhiện vụ của từng bộ phận tại chi cục thuế như sau: Chi cục trưởng Chi cục trưởng là người lãnh đạo cao nhất của chi cục, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế của huyện để lên kế hoạch, tổ chức quản lý mọi mặt về hoạt động của chi cục. Chi cục trưởng chi cục thuế huyện Đông Anh chịu trách nhiệm trước cục trưởng cục thuế thành phố Hà Nội về toàn bộ hoạt động của chi cục mình quản lý. Phó chi cục trưởng: Chi cục có hai chi cục phó và chịu trách nhiệm trước chi cục trưởng về lĩnh vực công tác được phân công trong đó: Một chi cục phó phụ trách khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, phần nghiệp vụ tính thuế và các đội thuế trên địa bàn. Một chi cục phó phụ trách vấn đề hành chính, trước bạ, và thu nhập cá nhân. Đội tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế Giúp chi cục trưởng chi cục thuế thực hiện công tác tuyên truyền về chính sách pháp luật thuế, hỗ trợ người nộp thuế trong phạm vi chi cục quản lý. Đội kê khai kế toán thuế và tin học Giúp chi cục trưởng chi cục thuế thực hiện công tác đăng ký thuế, xử lý hồ sơ khai thuế, kế toán thuế, thống kê thuế theo phân cấp quản lý; Quản lý và vận hành trang thiết bị tin học, triển khai cài đặt, hướng đẫn các phần mềm ứng dụng tin học phục vụ công tác quản lý thuế. Đội kiểm tra thuế Giúp chi cục trưởng chi cục thuế thực hiện công tác kiểm tra, giám sát kê khai thuế, giải quyết tố cáo liên quan đến người nộp thuế, chịu trách nhiệm thực hiện dự toán thu thuộc thẩm quyền của chi cục thuế. Đội quản lý nợ và cưỡng chế thuế Giúp chi cục trưởng chi cục thuế thực hiện công tác quản lý nợ thuế, cưỡng chế thu tiền thuế nợ, tiền phạt đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của chi cục thuế. Đội nghiệp vụ dự toán Giúp chi cục trưởng chi cục thuế hướng dẫn về nghiệp vụ quản lý, chính sách, pháp luật thuế cho cán bộ, công chức thuế trong chi cục thuế; Xây dựng và tổ chức thực hiện dự toán thu ngân sách nhà nước được giao của chi cục thuế. Đội hành chính - nhân sự - tài vụ - ấn chỉ Giúp chi cục trưởng chi cục thuế thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ; Công tác quản lý nhân sự: Quản lý tài chính, quản trị;Quản lý ấn chỉ trong nội bộ chi cục thuế quản lý Đội quản lý thu lệ phí trước bạ và thu khác Giúp chi cục trưởng chi cục thuế quản lý quản lý thu lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất, các khoản đấu giá về đất, tài sản, tiền thuế đất, thuế tài sản, phí, lệ phí và các khoản phát sinh trên địa bàn thuộc chi cục quản lý. Đội quản lý thuế thu nhập cá nhân Giúp chi cục trưởng chi cục thuế quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân có thu nhập thuộc diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân thuộc phạm vi chi cục quản lý. Đội thuế liên xã, thị trấn Giúp chi cục trưởng chi cục thuế quản lý thu thuế các tổ chức, cá nhân nộp thuế trên địa bàn xã, thị trấn được phân công. Chi cục có 5 đội thuế liên xã ,thị trấn thực hiện thu thuế trên 23 xã và 1 thị trấn thuộc địa bàn huyện Đông Anh. Đội thuế liên xã: Thị trấn – Nguyên Khê – Tiên Dương – Bắc Hồng Vân Nội – Nam Hồng – Kim Nỗ – Kim Chung – Võng La – Đại Mạch Hải Bối – Vĩnh Ngọc – Xuân Canh – Tầm Xá Mai Lâm – Đông Hội – Cổ Loa – Dục Tú – Việt Hùng Uy Nỗ – Xuân Nội – Thụy Lâm – Liên Hà – Vân Hà Có thể khái quát bộ máy của chi cục thuế huyện Đông Anh qua sơ đồ sau: Chi cục trưởng Phó chi cục trưởng Phó chi cục trưởng Đội hành chính-nhân sự-tài vụ-ấn chỉ Đội quản lý thu lệ phí trước bạ và thu khác Đội quản lý thuế TNCN Đội tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế Đội nghiệp vụ dự toán Đội kiểm tra thuế Đội quản lý nợ và cưỡng chế thuế Các đội thuế liên xã, thị trấn Đội kê khai kế toán thuế và tin học 2.2. Công tác thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian qua tại chi cục thuế huyện Đông Anh 2.2.1. Tình hình phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại huyện Đông Anh Trong những năm gần đây số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện tăng lên nhanh chóng cùng với nhịp độ gia tăng nhanh của các doanh nghiệp này trong cả nước. Tính đến thời điểm 31/12/2006 toàn huyện mới chỉ có 946 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tính đến hết năm 2007 đã tăng lên là 1222 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo thống kê của chi cục thì tính đến thời điểm 31/12/2008 toàn chi cục hiện đang quản lý 1.538 doanh nghiệp, tính đến ngày 30/01/2009 là 1.554 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong huyện tăng nhanh trong nhiều loại hình, cụ thể: Biểu 1: Bảng số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo loại hình doanh nghiệp tại huyện Đông Anh Đơn vị tính: Đơn vị Loại hình Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Tổng quản lý Đang hoạt động Tổng quản lý Đang hoạt động Tổng quản lý Đang hoạt động Số DN Tỷ lệ % Số DN Tỷ lệ % Cty TNHH 663 440 811 527 148 22,3 87 19,8 Cty cổ phần 422 323 574 432 152 36 109 33,8 Chi nhánh 18 13 21 13 3 16,7 0 0 DNTN 62 40 64 37 2 3,2 (-)3 (-)7,5 HTX 34 22 39 23 5 14,7 1 4,5 Quỹ tín dụng 6 6 6 6 0 0 0 0 Khác 17 14 23 18 6 35,3 4 28,6 Cộng 1222 858 1538 1056 316 25,9 198 23,1 Nguồn: chi cục thuế Đông Anh Qua bảng số liệu có thể thấy số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại huyện Đông Anh tăng nhanh qua các năm. Năm 2007 chi cục mới quản lý 1222 doanh nghiệp thì đến năm 2008 lên 1.538 doanh nghiệp, tăng 316 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng gần 26%. Hầu hết các loại hình đều tăng về số lượng, trong đó loại hình công ty cổ phần tăng nhiều nhất 152 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 36%, sau đó đến loại hình công ty TNHH tăng 148 doanh nghiệp, với tỷ lệ tăng 22,3%, chỉ có quỹ tín dụng là số lượng quản lý không có sự biến động so với năm 2007. Tuy nhiên một thực trạng là số lượng các doanh nghiệp thực tế đang hoạt động nhỏ hơn rất nhiều so với số lượng các doanh nghiệp mà chi cục quản lý.Năm 2008 so với năm 2007 số lượng các công ty cổ phần thực tế đang hoạt động chỉ tăng 109 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 33,8%, số lượng các chi nhánh và quỹ tín dụng đang hoạt động không có sự biến động, trong các loại hình thì chỉ có số lượng các doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động năm 2008 giảm 3 đơn vị so với năm 2007 với tỷ lệ giảm là 7,5%. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều địa bàn, nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như: sản xuất, xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ….và cũng đóng góp đáng kể vào NSNN. Biểu 2: Cơ cấu ngành nghề và đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện năm qua. Đơn vị tính: triệu đồng Ngành nghề Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Số DN Số thuế Số DN Số thuế Số DN Số thuế Sản xuất 342 3.190,5 511 6.933,9 169 3.743,4 Dịch vụ 198 1.511,5 181 1.259,9 (-)17 (-)251,6 Thương nghiệp 593 15.279,4 722 23.851,3 129 8.571,9 Xây dựng 71 7.532,4 95 10.710,9 24 3.178,5 vận tải 18 395,5 29 605,2 11 209,7 Cộng 1222 27.909,3 1538 43.363,2 316 15.453,9 Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh Qua bảng số liệu có thể thấy đóng góp của các doanh nghiệp trong hầu hết các lĩnh vực năm 2008 đều tăng so với năm 2007 trong đó lĩnh vực thương mại tăng nhiều nhất 8.571,9 triệu đồng, đóng góp của lĩnh vực này tăng lên là do: số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này tăng, tình hình kinh doanh có hiệu quả, mặt khác có thể công tác quản lý thu thuế tốt nên tình trạng thất thu thuế giảm đi, chỉ có đóng góp của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ năm 2008 giảm 251,6 triệu đồng so với năm 2007, sở dĩ vì vậy là do số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực này năm 2008 giảm 17 doanh nghiệp so với năm 2007 và cũng có thể có thêm nguyên nhân nữa làm khoản thu thuế từ các doanh nghiệp này giảm đi là do các doanh nghiệp này trốn thuế. Chính nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không những góp phần vào việc tăng thu cho NSNN mà còn góp phần giải quyết một lượng lớn lao động trong huyện cũng như lao động ở các huyện, các tỉnh khác đến làm việc. Với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô hoạt động mà đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào tổng thu NSNN cũng tăng lên rõ rệt qua các năm, điều đó cho thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang làm ăn có hiệu quả và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì việc quản lý thu thuế nhất là thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn.Thực tế cho thấy trong năm qua số lượng doanh nghiệp mới xuất hiện nhiều song số lượng doanh nghiệp hiện không hoạt động cũng lớn ( năm 2007 có 172 doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh, 59 doanh nghiệp bỏ kinh doanh và 127 doanh nghiệp bỏ trốn, đến năm 2008 có 220 doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh, có 262 doanh nghiệp bỏ kinh doanh và bỏ trốn), bên cạnh đó là còn có nhiều doanh nghiệp còn nợ đọng tiền thuế, chậm nộp thuế còn nhiều, công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách thuế chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác thanh tra, kiểm tra đã được đẩy mạnh nhưng chất lượng còn hạn chế…chính vì vậy đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế chung của cả huyện cũng như mục tiêu thu NSNN của chi cục. Chính vì thế công tác chống thất thu thuế thuế đặc biệt là thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện là vô cùng cần thiết. 2.2.2. Kết quả công tác quản lý thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh Trong những năm qua cùng với sự hoàn thiện trong các sắc thuế GTGT và TNDN công tác quản lý thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh ngày càng được thay đổi theo hướng tích cực. Chi cục đã có nhiều biện pháp để quản lý, đôn đốc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, nhờ vậy các khoản thu thuế nói chung và các khoản thu từ thuế GTGT và TNDN nói riêng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều tăng lên rõ rệt, cụ thể: Biểu 3: Kết quả thu thuế GTGT và TNDN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Số tiền Tỷ lệ % Thuế GTGT 17.616,3 27.647,8 10.031,5 56,9 Thuế TNDN 9.044,4 14.120.8 5.076,4 56,1 Tổng thu DN NQD 27.909,4 43.363,2 15.453,8 55,4 Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh Qua bảng trên có thể thấy thu từ thuế GTGT và TNDN năm 2008 tăng 15.107,9 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 55,4% so với năm 2007. Cụ thể: Năm 2007 thu từ thuế GTGT là 17.616,3 triệu đồng thì đến năm 2008 là 27.909,4 triệu đồng tăng 10.031,5 triệu đồng với tỷ lệ tăng 56,9%.Còn thuế TNDN thì thu trong năm 2007 là 9.044,4 triệu đồng đến năm 2008 là 14.120,8 triệu đồng, tăng 5.076,4 triệu đồng với tỷ lệ tăng 56,1 %. Như vậy có thể thấy các khoản thu từ thuế GTGT và TNDN của các doanh nghiệp NQD vào thu ngân sách là rất lớn và ngày càng tăng điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp này đang làm ăn có hiệu quả. Cụ thể tình hình đóng góp của từng loại hình như sau: (biểu 4) Biểu 4: Kết quả thu thuế TNDN và GTGT theo từng loại hình doanh nghiệp. Đơn vị tính: Triệu đồng Loại DN Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Thuế GTGT Thuế TNDN Thuế GTGT Thuế TNDN Thuế GTGT Thuế TNDN Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ% Cty cổ phần 6.380,3 3.330,8 8.619,4 6.463,4 2.239,1 35,1 3.132,6 94,1 Cty TNHH 9.841,2 4.931,0 16.927,7 6.462,8 7.086,6 72 1.531,8 31,1 DNTN 349,4 362,8 791,0 502,4 441,6 126,4 139,6 38,4 HTX 677,6 101,8 890,8 270,7 213,1 31,5 169 166,3 Quỹ tín dụng 6,0 169,9 9,8 164,8 3,8 63,3 (-)5,1 (-)3,0 Chi nhánh 354,8 95,3 391,9 174,1 37,1 10,4 78,9 82,8 Khác 6,9 52,9 17,1 82,6 10,2 14,7 29,7 56,2 Tổng 17.616,3 9.044,4 27.647,8 14.120,8 10.031,5 56,9 5.076,4 56,1 Nguồn: chi cục thuế Đông Anh Qua số liệu ở biểu 4 có thể thấy tổng số thuế GTGT và TNDN thu được năm 2008 đều tăng so với năm 2007, cụ thể: Số thuế GTGT thu được của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2008 so với năm 2007 đều tăng lên, trong đó thu thuế GTGT của loại hình công ty TNHH tăng nhiều nhất 7.086,6 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 72%, sau đó đến công ty cổ phần với số thu từ thuế GTGT tăng 2.239,1 triệu đồng với tỷ lệ tăng 35,1%, quỹ tín dụng tăng ít nhất 3,8 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 63,3%. Số thuế TNDN thu được của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2008 tăng so với năm 2007, trong đó đóng góp của các công ty cổ phần tăng nhiều nhất 3.132,6 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 94,1%, sau đó đến công ty TNHH tăng 1.531,6 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 31,1%. Qua bảng trên cũng có thể thấy thu từ thuế TNDN của các loại hình năm 2008 đều tăng so với năm 2007 chỉ có quỹ tín dụng là giảm 5.1 triệu đồng, với tỷ lệ giảm 3% . Số thuế GTGT và TNDN thu được của công ty TNHH năm 2008 tăng so với năm 2007 là do: số lượng công ty TNHH hoạt động kinh doanh trong năm tăng, hoặc cũng có thể là công tác chống thất thu và thu hồi nợ đọng có hiệu quả. Trong tất cả các loại hình chỉ có quỹ tín dụng là có số thuế GTGT và TNDN nộp giảm đi trong khi số lượng đơn vị kinh doanh không đổi điều này cho thấy các doanh nghiệp này nợ đọng trong năm 2008 tăng và có thể là công tác quản lý không tốt nên các doanh nghiệp này có thể trốn thuế hoặc có thể trong năm các doanh nghiệp này làm ăn không hiệu quả. Có thể thấy mặc dù số thuế GTGT và TNDN thu được năm 2008 tăng so với năm 2007 nhưng có thể thấy số thuế thu được của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tương xứng với quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các doanh nghiệp này. Tình trạng thất thu thuế còn tương đối nhiều. Thực tế này đặt ra yêu cầu phải cấp thiết là cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế và các cơ quan có liên quan trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn từ đó có thể giảm tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế. 2.2.3. Thực trạng công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thời gian qua 2.2.3.1. Các hình thức thất thu thuế GTGT và TNDN tại chi cục thuế huyện Đông Anh Với chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, huyện Đông Anh hiện đang thu hút được một lượng lớn các doanh nghiệp đến đầu tư đem lại nguồn thu lớn trong việc thực hiện ngân sách. Trong những năm qua chi cục luôn hoàn thành tốt kế hoạch thu ngân sách được giao. Năm 2007 số thu thuế từ khu vực ngoài quốc doanh đạt 39.908 triệu đồng, đạt 102% dự toán pháp lệnh trong đó thu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 27.909,3 triệu đồng. Năm 2008 số thu ngoài quốc doanh tại chi cục là 59.170,3 triệu đồng đạt 104,2% dự toán pháp trong đó thu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 43.363,2 triệu đồng tăng 55,3% so với cùng kỳ. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đó tình hình trốn thuế, lậu thuế, dây dưa nợ đọng tiền thuế ở chi cục thuế Đông Anh còn cao. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại huyện Đông Anh thường sử dụng một số hình thức trốn thuế GTGT và TNDN như: - Trốn thuế thông qua việc nghỉ “giả”. Các doanh nghiệp gửi đơn xin tạm nghỉ kinh doanh cho chi cục thuế, mặc dù cơ quan thuế đã cử cán bộ đến để kiểm tra nhưng thực tế sau khi các cán bộ đi khỏi các doanh nghiệp vẫn tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, ví dụ như trường hợp công ty TNHH Thiên Hà. Do lực lượng cán bộ có hạn nên việc kiểm tra lại cũng gặp khó khăn.Nếu mà chẳng may khi kiểm tra lại phát hiện doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì họ lại viện ra hàng ngàn lý do như chạy thử máy, mở cửa nhưng không bán hàng mà là đang kiểm kê lại hàng….. - Trốn thuế thông qua việc sử dụng hóa đơn. Tình trạng gian lận thuế thông qua việc sử dụng hóa đơn làm cho NSNN thất thu cả về thuế GTGT và TNDN. Để trốn thuế các doanh nghiệp bán hàng ghi giá trên hóa đơn thấp hơn giá thực tế thu của khách hàng, điển hình của hình thức này là các doanh nghiệp kinh doanh xe máy, ô tô. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn lợi dụng việc mua hàng mà không lấy hóa đơn của người dân để không xuất hóa đơn bán hàng, điển hình là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực buôn bán vật liệu xây dựng, như đã biết các công trình xây dựng chủ yếu của người dân là nhà cửa vì thế chi phí vật tư có thể lên tới vài chục thậm chí vài trăm triệu đồng do vậy mà nhà nước sẽ mất đi một khoản tiền rất lớn. Một số doanh nghiệp còn sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn của doanh nghiệp đã bỏ trốn để hợp thức hóa thuế GTGT đầu vào được khấu trừ nhằm chiếm dụng tiền thuế GTGT khi xác định thuế GTGT phải nộp và làm tăng chi phí được trừ khi xác định thuế TNDN, ví dụ như trường hợp của công ty cổ phần đầu tư phát triển Hoàng Long sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp bỏ trốn. Các doanh nghiệp còn trốn thuế thông qua việc kê khai không đúng thuế suất, tình trạng kê khai thuế suất của các mặt hàng bán ra từ mức thuế suất 10% xuống mức 5 %, hay kê khai thuế đầu vào của các mặt hàng từ mức 5% lên 10% vẫn còn phổ biến. Ví dụ như trường hợp của công ty TNHH phát triển kỹ thuật cơ điện. -Trốn thuế thông qua việc ghi giảm doanh thu. Doanh thu là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến việc xác định thu nhập chịu thuế, qua đó ảnh hưởng đến số thuế phải nộp do đó các doanh nghiệp thường tìm mọi cách để khai giảm doanh thu. Doanh thu của các người nộp thuế có thể có được từ nhiều hoạt động khác nhau, từ nhiều nơi khác nhau vì thông thường các doanh nghiệp ngoài việc sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực chính còn có nhiều lĩnh vực khác tuy nhiên khi kê khai doanh thu thì họ không kê hoặc kê thấp hơn thực tế do vậy việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ một số doanh nghiệp vừa bán buôn vừa bán lẻ thì họ thường hạch toán giá bán lẻ theo giá bán buôn. Hay một số doanh nghiệp sản xuất có phụ phẩm họ bán nhưng không ghi vào doanh thu ví dụ như trường hợp của công ty cổ phần thương mại Vân Anh. - Trốn thuế thông qua việc ghi tăng chi phí. Cùng với doanh thu chi phí là yếu tố quan trọng thứ hai để xác định số thuế TNDN phải nộp, do vậy cùng với việc ghi giảm doanh thu các doanh nghiệp còn tìm cách ghi tăng các khoản chi phí được trừ bằng cách. + Vẫn tính khấu hao đối với các tài sản cố định không đủ điều kiện khấu hao hoặc đã khấu hao hết, ví dụ như trường hợp của công ty TNHH Quyền Anh. + Khai tăng chi phí vật tư: Chi phí vật tư thực tế sử dụng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong kỳ liên quan đến doanh thu, thu nhập chịu thuế trong kỳ được xác định dựa trên hai căn cứ là mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế xuất kho do cơ sở sản xuất, kinh doanh tự xác định. Mức tiêu hao vật tư hợp lý được xây dựng từ đầu năm hoặc đầu kỳ sản xuất sản phẩm nếu doanh nghiệp không tự xác định được thì lấy của cơ sở cùng ngành nghề. Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra là thế nào là mức tiêu hao hợp lý? ai phán quyết mức tiêu hao hợp lý này… do vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này của nhà nước để ghi tăng chi phí vật tư mua vào để làm tăng các khoản chi phí được trừ. Ngoài ra khi các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực mà vật tư mua vào là mây, tre, đất, đá, cát sỏi của người dân trực tiếp khai thác thì được lập bảng kê theo quy định khi đó sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này lợi dụng để khai khống chi phí đầu vào. Ví dụ như công ty bê tông Thăng Long sản xuất các loại cọc ép bê tông đã lập bảng kê mua đá, cát trong tháng 3 và tháng 4 năm 2008 là trên 300 triệu đồng nhưng chi cục khó có thể xác minh được do công ty mua của nhiều người và đều thanh toán bằng tiền mặt. + Thông qua việc khai tăng chi phí tiền lương cuả nhân viên, khai tăng thêm lao động, khai khống thời gian làm thêm của nhân viên. Các doanh nghiệp thường lập hai hệ thống sổ để đối phó với cơ quan thuế khi bị kiểm tra. + Khai tăng chi phí quản lý: Các doanh nghiệp còn khai tăng các chi phí quản lý như khai tăng chi phí quản lý doanh nghiệp… Chính vì nhận thức được tầm quan trọng trong công tác chống thất thu thuế nên trong thời gian qua chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế nhất là đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN. 2.2.3.2. Các biện pháp mà chi cục đã áp dụng để tăng cường công tác quản lý chống thất thu thuế GTGT và TNDN Trong năm qua chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế tình trạng thất thu thuế đặc biệt là đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN như: * Công tác tuyên truyền, hỗ trợ. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế nhất là từ khi luật quản lý thuế được ban hành chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn cá nhân, doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. - Về công tác tuyên truyền Với mục tiêu nâng cao sự hiểu biết về các chính sách thuế của nhà nước, nâng cao tính chủ động, tự giác, tự khai, tự nộp thuế theo quy định chi cục thuế có nhiều sáng tạo trong công tác truyên truyền như: Nội dung tuyên truyền được đổi mới, đảm bảo thống nhất trong đó trọng tâm là tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế trong đó đặc biệt chú trọng đến phổ biến nội dung các luật thuế mới được sửa đổi, ban hành. Trong năm 2008 Chi cục tổ chức được 4 hội nghị triển khai, tập huấn luật quản lý thuế cho các doanh nghiệp trên địa bàn huyện thuộc chi cục quản lý. Duy trì các giá sách miễn phí tại chi cục để cung cấp tờ rơi tuyên truyền về thuế cho người nộp thuế và những người có nhu cầu tìm hiểu có thể tiếp cận đễ dàng, theo thống kê năm 2008 chi cục đã phát miễm phí 1.760 tờ rơi tuyên truyền về các sắc thuế mới ban hành, mới được sửa đổi, bổ xung. Hàng quý chi cục gửi tài liệu cho đài phát thanh huyện Đông Anh, các đài phát thanh của các xã, thị trấn để tuyên truyền luật quản lý thuế với số lượng 575 lượt. - Công tác hỗ trợ Ngoài công tác tuyên truyền chi cục còn tích cực hỗ trợ người nộp thuế đảm bảo thủ tục nhanh chóng không gây phiền hà cho doanh nghiệp cũng như người nộp thuế. Trong năm 2008 chi cục đã tư vấn, hỗ trợ cho 401 lượt doanh nghiệp có yêu cầu tư vấn, đảm bảo 100% doanh nghiệp hỏi được tư vấn. Cụ thể: Hướng dẫn, giải đáp trực tiếp cho 138 lượt doanh nghiệp về các sắc thuế mới được sửa đổi, bổ xung. Thực hiện trả lời tất cả 262 cuộc điện thoại hỏi. Trong năm 2008 đã nhận được 1 công văn hỏi về chính sách thuế TNDN, chi cục đã trả lời theo đúng quy định. Từ tháng 4 năm 2008 cung cấp miễn phí 594 đĩa mền, cóppy cho 499 đơn vị phần mền hỗ trợ kê khai thuế cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện. Chính nhờ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ mà ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế cũng tăng lên đáng kể, biểu hiện ở chỗ tỷ lệ nộp tờ khai đúng hạn của các doanh nghiệp đang kinh doanh đã tăng lên. Tháng 1 năm 2008 tỷ lệ nộp tờ khai GTGT mới chỉ là 95% thì đến tháng 6 là 96% và đến tháng 12 là 98%. Tuy nhiên công tác tuyên truyền, hỗ trợ tại chi cục vẫn còn nhiều khó khăn như: +Trong quá trình thực hiện các luật thuế có nhiều thay đổi, các quy trình hướng dẫn chưa có, một số mẫu biểu còn quá nhiều và chưa rõ ràng nên quá trình thực hiện còn khó khăn. +Trình độ của cán bộ đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Chính vì những khó khăn nêu trên nên hiệu quả hoạt động trong công tác hỗ trợ người nộp thuế cũng phần nào bị hạn chế. * Công tác tổ chức cán bộ Việc sắp xếp, tổ chức cán bộ hợp lý cũng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch thu đã đề ra và nâng cao hiệu quả thu thuế của các doanh nghiệp. Khi cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết với nghề, có phẩm chất đạo đức tốt thì công tác kiểm tra, thu thuế mới có hiệu quả cao. Chính vì vậy chi cục thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, tổ chức giao lưu với các chi cục khác, khuyến khích cán bộ tự học hỏi nâng cao trình độ vì vậy trình độ cán bộ được nâng lên đáng kể, góp phần quản lý thu ngân sách đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, chi cục đã kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm 10 điều kỷ luật của ngành. * Công tác quản lý người nộp thuế. Để thu được thuế trước hết cần phải quản lý tốt được người nộp thuế. Công tác quản lý người nộp thuế có ý nghĩa quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến số thu vào ngân sách vì vậy trong thời gian qua chi cục tăng cường quản lý các đơn vị đang kinh doanh, đơn vị chuyển đi nơi khác, đơn vị từ nơi khác chuyển đến, đơn vị tạm nghỉ kinh doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện chịu sự quản lý của chi cục thuế huyện Đông Anh đều đã được cục thuế Hà Nội cấp mã số thuế, tuy nhiên trong thực tế hiện nay số doanh nghiệp chi cục quản lý nhiều hơn số doanh nghiệp nộp thuế. Sở dĩ có tình trạng này là do có tình trạng: + Doanh nghiệp bỏ kinh doanh + Doanh nghiệp bỏ trốn + Doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh Trong năm qua các doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh có xu hướng gia tăng cụ thể: Biểu 5: Bảng số liệu tạm nghỉ kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại huyện Đông Anh Đơn vị tính: Đơn vị Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Số DN Tỷ lệ % DN bỏ trốn 127 170 43 33,9 DN bỏ kinh doanh 59 92 33 55,9 DN tạm nghỉ 178 220 42 23,6 Tổng quản lý 1222 1538 316 25,9 Nguồn : chi cục thuế Đông Anh Qua biểu trên có thể thấy các doanh nghiệp bỏ trốn, bỏ kinh doanh và tạm nghỉ kinh doanh năm 2008 đều tăng so với năm 2007. Các doanh nghiệp bỏ kinh doanh tăng 33 doanh nghiệp với tỷ lệ 55,9%, các doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh cũng tăng 42 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 23,6%, số doanh nghiệp bỏ trốn năm 2008 cũng tăng lên so với năm 2007 là 43 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 33,9%. Chính vì vậy số thuế không thu được của các doanh nghiệp này cũng làm cho tỷ lệ thất thu thuế tăng lên vì đối với những doanh nghiệp bỏ trốn và bỏ kinh doanh thì khả năng thu thuế còn thiếu là rất khó khăn. Với những doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh có thể xảy ra tình trạng nghỉ giả tức là có đơn xin nghỉ nhưng thời gian thực tế nghỉ kinh doanh ít hơn thời gian ghi trong đơn hoặc có đơn nghỉ nhưng thực tế vẫn kinh doanh. Do số lượng cán bộ có hạn, địa bàn lại rộng nên việc kiểm tra cũng rất khó khăn hoặc nếu khi kiểm tra có phát hiện thì họ có nhiều lý do như đang kiểm tra lại hàng, hoặc sửa chữa máy móc và đang chạy thử… Qua kiểm tra tháng 12 năm 2008 chi cục phát hiện công ty TNHH Thiên Hà có hoạt động kinh doanh trong thời gian xin nghỉ, chi cục phạt 960.000 đồng. Tuy nhiên cũng thấy rằng nếu số doanh nghiệp nghỉ giả lớn hay các doanh nghiệp này xin nghỉ giả trong thời gian dài thì số tiền phạt có thể nhỏ hơn rất nhiều số thuế mà họ phải nộp nếu kinh doanh. Vì vậy nếu nếu không quản lý được các doanh nghiệp này thì sẽ gây thất thu thuế cho ngân sách. * Công tác kiểm tra Công tác kiểm tra luôn được chi cục chú trọng nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế, nâng cao năng lực của cơ quan thuế trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân có hành vi gian lận, trốn thuế, phát huy tính tự giác chấp hành và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện đúng quy định về kê khai, nộp thuế. Kiểm tra tại cơ quan thuế Hàng năm chi cục kiểm tra sơ bộ tất cả hồ sơ khai thuế, sau đó phân tích, đánh giá, lựa chọn các cơ sở kinh doanh có rủi ro về thuế để lập danh sách phải kiểm tra. + Kiểm tra hồ sơ khai thuế. Kiểm tra việc ghi chép, phản ánh các chỉ tiêu trong hồ sơ khai thuế. Cán bộ thuế kiểm tra nội dung kê khai trong hồ sơ khai thuế, đối chiếu với cơ sở dữ liệu của người nộp thuế, so sánh với dữ liệu nộp thuế cùng ngành nghề, cùng mặt hàng kinh doanh để phân tích, đánh giá nhằm phát hiện ra các trường hợp khai chưa đầy đủ, chính xác dẫn đến việc thiếu thuế, gian lận thuế. Hiện nay theo quy định của luật quản lý thuế thì các doanh nghiệp tự khai, tự tính, tự nộp thuế do vậy đòi hỏi tính tự giác cao của doanh nghiệp.Qua kiểm tra tờ khai thì hầu hết các doanh nghiệp đã kê khai chính xác các chỉ tiêu trên hồ sơ khai thuế và nộp tờ khai đúng hạn chỉ còn một số ít các doanh nghiệp còn xảy ra tình trạng kê nhầm thuế suất, tính toán sai số thuế phải nộp…công tác kiểm tra tờ khai đã phát hiện kịp thời những sai sót từ đó nhắc nhở và yêu cầu doanh nghiệp kê khai lại. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp nộp tờ khai đúng hạn thì còn nhiều doanh nghiệp nộp chậm thậm chí là không nộp tờ khai. Theo báo cáo tổng số tờ khai thuế GTGT phải nộp trong năm 2008 của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 11.525 tờ khai, nhưng số tờ khai cơ quan thuế nhận được tính đến hết ngày 31/12/2008 là 11.036 tờ khai, như vậy tỷ lệ nộp tờ khai mới chỉ đạt 96%. Việc thực hiện kê khai theo mã vạch hai chiều đã được chi cục áp dụng và đạt được kết quả khá tốt, tính đến hết ngày 31/12/2008 chỉ còn khoảng 0,5% số doanh nghiệp chưa thực hiện kê khai theo mã vạch hai chiều. Chi cục đôn đốc các doanh nghiệp nộp tờ khai thuế TNDN tạm nộp đúng hạn. Chi cục tiến hành rà soát, kiểm tra 100% tờ khai thuế TNDN, tính đến 25/12/2008 số thuế TNDN của 3 quý đầu năm là 11.036 triệu đồng. Kiểm tra căn cứ tính thuế để xác định số thuế phải nộp Việc kiểm tra căn cứ tính thuế có ý nghĩa rất quan trọng để xác định số thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn giảm. Trên cơ sở hồ sơ khai thuế cán bộ thuế đối chiếu với các chỉ tiêu trong tờ khai thuế với các tài liệu kèm theo; đối chiếu với các quy định văn bản pháp luật về thuế; đối chiếu với cơ sở dữ liệu của các cơ sở kinh doanh có cùng quy mô, mặt hàng kinh doanh; đối chiếu với các tài liệu thu thập được từ các nguồn khác để có thể xác định số thuế phải nộp. a, Đối với thuế GTGT Công tác kiểm tra thuế GTGT đầu ra. Thuế GTGT đầu ra là một trong hai yếu tố quyết định đến số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Thuế GTGT đầu ra được xác định trên cơ sở doanh thu bán hàng tập hợp trên các hóa đơn, chứng từ phù hợp với số liệu trên sổ sách kế toán của đơn vị. Để số thuế GTGT đầu ra thấp đi các doanh nghiệp chỉ sử dụng việc ghi chép sổ sách, chứng từ chỉ là hình thức, số lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn không đúng thực tế số lượng mà doanh nghiệp đã bán ra, bên cạnh đó các hóa đơn bán hàng cho cá nhân tiêu dùng cũng không ghi rõ địa chỉ của người mua nên việc xác minh cũng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như công ty TNHH TM và SX Thịnh Vượng kê khai doanh số bán ra thấp hơn thực tế, chi cục xác minh và yêu cầu doanh nghiệp kê khai lại làm tăng 145,89 triệu đồng, hay như công ty TNHH Quang Khoa kê khai thiếu doanh thu bán ra, qua kiểm tra chi cục truy thu 8,34 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn kê khai giá bán ra trên hóa đơn thấp hơn nhiều giá thực tế thu của khách hàng, điển hình là các doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô, xe máy. Trong năm 2008 chi cục tiến hành kiểm tra thuế kết hợp với kiểm tra giá của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn qua đó đã xử lý truy thu và phạt 5 đơn vị số tiền là 414 triệu đồng về hành vi bán xe ô tô dưới giá tính lệ phí trước bạ. Ví dụ công ty TNHH Khang Minh là doanh nghiệp kinh doanh ô tô kê khai doanh thu bán xe dưới lệ phí trước bạ chi cục truy thu thuế GTGT là 138,52 triệu đồng. Một hình thức làm giảm thuế GTGT đầu ra khác là kê khai thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra thấp hơn thực tế quy định trong luật qua đó để giảm thuế GTGT đầu ra qua đó để làm giảm số thuế GTGT phải nộp. Ví dụ như công ty TNHH cơ điện Hoàng Minh kê khai thuế suất đầu ra của mặt hàng máng cáp điện từ mức 10% xuống 5%, chi cục bắt doanh nghiệp kê khai lại làm thuế GTGT tăng thêm 8,18 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn không kê khai doanh số từ những hoạt động khác như thanh lý tài sản, ví dụ như công ty cổ phần thương mại Vân Anh trốn doanh số bán thanh lý ô tô, chi cục truy thu 107,95 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn kê khai chậm doanh số hàng hóa bán trong kỳ, ví dụ như công ty cổ phần phát triển Hùng Cường đến tháng 3 năm 2008 mới kê khai doanh số của tháng 2 chi cục truy thu 2,24 triệu đồng. Công tác kiểm tra thuế GTGT đầu vào. Cùng với thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là yếu tố quyết định đến số thuế GTGT phải nộp trong kỳ của các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp đều muốn khấu trừ thuế GTGT càng nhiều càng tốt cho nên các doanh nghiệp này khi kiểm tra đều có đầy đủ hóa đơn của hàng hóa, dịch vụ mua vào, tuy nhiên trong thực tế các hóa đơn này còn tồn tại nhiều vấn đề như: Khi tiến hành giao dịch bên mua muốn hóa đơn có giá trị lớn hơn thực tế mà họ mua để làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, còn bên bán thì lại cần hóa đơn với doanh số thấp để làm giảm số thuế GTGT đầu ra do vậy tình trạng câu kết giữa bên mua và bên bán vẫn còn phổ biến. Trong năm 2008 chi cục đã kiểm tra và phát hiện nhiều trường hợp các liên trong hóa đơn khác nhau về giá trị .Ví dụ như công ty TNHH Tứ Mã sử dụng hóa đơn với 3 liên khác nhau, chi cục truy thu và phạt 9,5 triệu đồng. Các doanh nghiệp vừa có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa chịu thuế và hàng hóa không chịu thuế GTGT thì chỉ được kê khai khấu trừ đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT nhưng trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp vẫn kê khai phần hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế để được khấu trừ. Vì vậy nếu không kiểm tra phát hiện thì sẽ gây thất thu lớn. Ví dụ công ty TNHH XDTM đã khấu trừ mặt hàng dùng để sản xuất mặt hàng không chịu thuế, chi cục kiểm tra và bắt doanh nghiệp kê khai lại làm tăng thuế GTGT số tiền là 50,3 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn khấu trừ cả hàng hóa dịch vụ không dùng cho sản xuất, kinh doanh, ví dụ công ty TNHH Đông Việt khấu trừ hàng hóa không dùng cho sản xuất kinh doanh trị giá là 11,2 triệu đồng, công ty TNHH Đông Linh kê khai khấu trừ lịch treo tường trị giá 6,85 triệu đồng là hàng hóa không dùng cho sản xuất, kinh doanh. Để làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ các doanh nghiệp còn kê khai sai thuế suất cuả hàng hóa, dịch vụ mua vào theo hướng khai tăng thuế suất. Ví dụ công ty TNHH phát triển kỹ thuật cơ điện kê khai thuế suất mua vào của mặt hàng từ 5 % lên 10% làm cho thuế GTGT đầu vào tăng thêm 13,4 triệu đồng. Một hình thức nữa là các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào trong kỳ qua đó làm tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Trong tháng 12/2008 căn cứ vào kết quả xác minh hóa đơn chi cục thuế huyện Đông Anh phát hiện ra một số doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn để hợp thức hóa đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không có thực. Ví dụ như công ty cổ phần đầu tư phát triển Hoàng Long sử dụng 01 hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn, chi cục truy thu số tiền là 10,87 triệu đồng và phạt 1,5 triệu đồng. Hay như công ty cổ phần công nghệ xử lý nền móng Việt Nam đã khấu trừ 01 hóa đơn của công ty TNHH Hà Phúc là doanh nghệp có thông báo bỏ trốn, chi cục đã ra quyết định truy thu 21,4 triệu đồng và phạt 10% số tiền là 2,14 triệu đồng. Để làm tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ các doanh nghiệp còn khấu trừ trước thời gian quy định. Ví dụ như công ty cổ phần xây dựng Đồng Tâm khấu trừ trước 10,1 triệu đồng. Cá biệt còn một số doanh nghiệp ghi sai chỉ tiêu trên tờ khai, ví dụ như trường hợp công ty CXOTO, mst: 0102409169 kê khai sai chỉ tiêu 11 thuế GTGT đầu vào được khấu trừ kỳ trước chuyển sang, qua kiểm tra đơn vị xin đổi lại tờ khai làm giảm âm 70 triệu đồng. Chính vì vậy kết quả kiểm tra tại cơ quan thuế đạt được kết qủa nhất định Bảng 2: Kết quả kiểm tra tại cơ quan thuế Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Kết quả truy thu và phạt Số đơn vị Thuế GTGT truy thu và phạt Năm 2007 166 1.107,90 Năm 2008 174 1.346,99 Nguồn: chi cục thuế Đông Anh b, Đối với thuế TNDN Khai thuế TNDN là loại khai tạm tính theo quý, người nộp thuế tự khai theo thu nhập và chi phí thực tế phát sinh, trong trường hợp người nộp thuế không kê khai được chi phí thực tế phát sinh thì thực hiện khai thuế tạm tính theo tỷ lệ thu nhập trên doanh thu chịu thuế. Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế Khi kiểm tra tờ khai phát hiện có sai phạm sau khi đã yêu cầu giải trình nhưng đơn vị không lên giải trình hoặc không giải trình được thì cơ quan thuế có thể quyết định ấn định số thuế phải nộp hoặc quyết định kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế. Căn cứ vào các tài liệu, cán bộ kiểm tra tiến hành truy lần lại từ chứng từ gốc, tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ; Đối chiếu nội dung trong hồ sơ khai thuế với sổ kế toán, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu có liên quan khác trong phạm vi nội dung của quyết định kiểm tra. a, Đối với thuế GTGT Thông qua việc so sánh, đối chiếu số liệu kế toán với số liệu kê khai thuế; so sánh, đối chiếu số liệu kê khai và số liệu kế toán với thực tế kinh doanh; đối chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ khai thuế với các thông tin, tài liệu có liên quan; kiểm tra thực tế hàng hóa nếu cần thiết để xác định thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ qua đó xác định số thuế GTGT phải nộp trong kỳ. b, Đối với thuế TNDN Kiểm tra doanh số bán ra. Doanh số bán ra của hàng hóa, dịch vụ không những ảnh hưởng tới số thuế GTGT đầu ra mà còn có ảnh hưởng tới việc xác định thuế TNDN, vì vậy các biện pháp quản lý, xác định số thuế GTGT đầu ra cũng chính là để đảm bảo cho việc xác định doanh thu để tính thuế TNDN được chính xác. Kiểm tra chi phí đầu vào được khấu trừ. Cùng với doanh thu chi phí được trừ là yếu tố quan trọng để xác định số thuế TNDN phải nộp, do vậy các doanh nghiệp thường kê khai sao cho chi phí được trừ tăng lên. Để làm tăng yếu tố chi phí được trừ các doanh nghiệp thường tìm cách khai tăng chi phí nguyên vật liệu, khai tăng chí phí tiền công, tiền lương, khai tăng chi phí khấu hao TSCĐ,khai tăng chi phí khác như chi phí quản lý doanh nghiệp… Do vậy để có thể xác định chính xác, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng trốn thuế của doanh nghiệp qua việc khai tăng chi phí nguyên vật liệu thì cán bộ kiểm tra căn cứ vào phiếu xuất kho, bảng kê hàng tồn kho, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, các chứng từ khác để làm căn cứ xác định. Để xác định chi phí tiền công, tiền lương, tiền thưởng, các khoản trích theo lương cán bộ thuế căn cứ vào hợp đồng lao động, quy mô sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, căn cứ vào quy định trong các văn bản pháp luật để xác định. Đối với chi phí khấu hao TSCĐ: theo quy định thì các doanh nghiệp chỉ được trích khấu hao khi thỏa mãn 3 điều kiện trong luật tuy nhiên doanh nghiệp vẫn trích sai quy định do vậy khi kiểm tra cán bộ thuế căn cứ vào phương pháp tính khấu hao mà đơn vị đã đăng ký, thời gian trích khấu hao, các chứng từ liên quan khác.. để xác định. Các khoản chi khác như chi phí quản lý doanh nghiệp… để xác định cán bộ thuế căn cứ vào sổ sách, chứng từ và quy định của pháp luật để xác định. Cụ thể việc kiểm tra tại trụ sở của một số doanh nghiệp có kết quả như sau: + Kiểm tra tại công ty cổ phần vận tải thương mại và du lịch Đông Anh, mã số thuế 0101209209 thấy: Chi phí công cụ, dụng cụ (lốp ô tô) đơn vị xuất dùng không có thủ tục đề xuất thay thế, không căn cứ vào thực tế, qua kiểm tra số lượng xuất dùng cao hơn thực tế là 6 chiếc trị giá 18,242 triệu đồng. Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 70,9 triệu đồng trong đó; Giảm 17,28 triệu đồng do đơn vị hạch toán mua điện thoại di động trang bị cho cán bộ nhưng công ty không có quy chế về khoản chi này. Giảm 53,62 triệu đồng là các khoản chi thưởng và chi tết cho nhân viên không được tính vào chi phí được trừ. + Hay kết quả kiểm tra tại trụ sở của công ty TNHH ĐTPTCNXDTM Quyền Anh, mst: 0101244362 chi cục truy thu thuế GTGT là 30,08 triệu đồng, thuế TNDN là 81,59 triệu đồng (trong đó thuế TNDN của năm 2007 là 48,89 triệu đồng) tổng số tiền truy thu và phạt là 118,38 triệu đồng. Cụ thể: Truy thu số thuế GTGT năm 2007 là 30,08 triệu đồng do khi kiểm tra chi cục xác định lại số thuế được khấu trừ kỳ trước chuyển sang giảm 56,70 triệu đồng. Bên cạnh đó số thuế GTGT đầu ra tăng 1,95 triệu đồng do đơn vị khai thiếu trên 3 số hóa đơn. Truy thu thuế TNDN là 81,59 triệu đồng vì: Thu nhập chịu thuế TNDN tăng 174,6 triệu đồng do: Doanh thu tính thuế TNDN tăng 16,54 triệu đồng vì đơn vị khai thiếu trên 3 số hóa đơn; Giá vốn hàng bán giảm 111,73 triệu đồng do đơn vị hạch toán tiền trích khấu hao TSCĐ nhưng chưa phát sinh doanh thu là 13,33 triệu đồng; Hạch toán thừa nguyên vật liệu vào công trình xây dựng là 98,4 triệu đồng; Chi phí khác giảm 46,33 triệu đồng do đơn vị xác định nhầm giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý tài sản. do vậy Chi cục xác định số thuế TNDN còn phải nộp năm 2007 là 48,89 triệu đồng. Như vậy có thể thấy nếu công tác kiểm tra không được tiến hành hoặc kiểm tra không tốt thì sẽ gây thất thoát rất lớn cho NSNN. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác kiểm tra vì vậy trong năm qua chi cục tích cực đẩy mạnh công tác kiểm tra thuế tại trụ sở doanh nghiệp và đạt được kết quả khá tốt, nhờ đó góp phần tăng thu cho ngân sách. Bảng 3: Kết quả kiểm tra thuế tại trụ sở doanh nghiệp. Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Số đơn vị đã kiểm tra, kết luận Kết quả truy thu và phạt Tổng Thuế GTGT Thuế TNDN Phạt 2007 117 3.785,04 576,20 2.933,50 275,54 2008 102 3.585,53 614,30 2.702,90 268,33 Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh Công tác kiểm tra tại chi cục đạt được kết quả đó là do: + Chính sách thuế TNDN, GTGT được sửa đổi, bổ xung ngày càng hoàn thiện. + Quy trình thanh tra được đổi mới so với trước đây, Đội ngũ cán bộ thanh tra ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. + Công tác thanh tra, kiểm tra được sự chỉ đạo, quan tâm của lãnh đạo chi cục, có sự phối hợp với các cơ quan hữu quan khác. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó thì công tác thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiều hạn chế do: + Ý thức chấp hành pháp luật thuế của các doanh nghiệp còn thấp. + Mặc dù đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần nhưng hai sắc thuế GTGT và TNDN vẫn còn hiều kẽ hở để các doanh nghiệp khai thác, lợi dụng. + Số lượng doanh nghiệp tăng lên theo từng năm nhưng cán bộ thanh tra mặc dù được tăng lên nhưng vẫn còn thiếu trung bình mỗi cán bộ đội kiểm tra quản lý trên 150 doanh nghiệp. + Sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước khác đôi khi chưa được nhịp nhàng. * Công tác đôn đốc thu nộp và thu hồi nợ đọng. Thực tế cho thấy bên cạnh những doanh nghiệpngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, luôn thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước thì vẫn có những doanh nghiệp bất chấp thủ đoạn, tìm mọi cách để trốn thuế, chiếm dụng tiền của nhà nước nhằm kiếm lợi riêng. Bên cạnh tình trạng trốn, lậu thuế còn xảy ra tình trạng nợ đọng kéo dài đã gây thất thu khá lớn cho NSNN mà cho đến nay tình trạng này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nợ đọng thuế là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp trong kỳ tính thuế nhưng hết hạn nộp thuế vẫn chưa nộp cho cơ quan thuế hoặc là nộp nhưng vẫn còn thiếu. Tình trạng nợ đọng thuế xảy ra có thể là do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả nên không thể nộp thuế hoặc có thể là do doanh nghiệp chây ỳ, cố tình không nộp do vậy nhà nước không thu được kịp thời số thuế của doanh nghiệp và xảy ra tình trạng thất thu thuế. Trong năm qua chi cục thuế đã có nhiều biện pháp nhằm tăng cường thu hồi nợ đọng như: Sắp hết thời hạn nộp thuế, chi cục gọi điện nhắc nhở, thông báo nộp thuế cho các doanh nghiệp; Tiến hành phân loại nợ thuế để có các biện pháp đôn đốc thu nợ thích hợp; Đẩy mạnh công tác thu thuế trong mỗi tháng hạn chế tình trạng nợ mới phát sinh; Một số doanh nghiệp có số nợ lớn, kéo dài chi cục đã mời lên cơ quan thuế để làm việc và đôn đốc nộp nợ đọng. Bên cạnh đó chi cục còn phối hợp với cơ quan công an để xử lý đối với một số đối tượng chây ỳ, kết hợp với ngân hàng trong việc thu nợ. Trong năm 2008 chi cục đã phối hợp với công an huyện Đông Anh xử lý 01 trường hợp vi phạm về thuế, đã truy thu và xử phạt số tiền là 39,5 triệu đồng, thu hồi nợ đọng của 01 doanh nghiệp số tiền là 280 triệu đồng. Chính nhờ các biện pháp đó mà kết quả thu nợ trong năm 2008 cũng rất khả quan với tổng số tiền thu nợ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 21.699,1 triệu đồng. Tuy nhiên, một thực trạng tồn tại đó là tính đến cuối tháng 12/2008 số nợ đọng thuế GTGT và TNDN tại chi cục là 556 lượt doanh nghiệp, với tổng số thuế nợ đọng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 11.010,1 triệu đồng (trong đó nợ của các doanh nghiệp bỏ trốn là 395,6 triệu đồng, nợ của các doanh nghiệp bỏ kinh doanh là 1.424,6 triệu đồng). Cụ thể tình hình nợ đọng thuế của từng loại hình như sau: Bảng 4: Tình hình ghi thu và nợ đọng thuế GTGT và TNDN của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh tính đến thời điểm 31/12 Đơn vị tính: triệu đồng Loại hình DN Năm 2007 Năm 2008 Ghi thu Nợ đọng Tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu % Ghi thu Nợ đọng Tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu % Cty cổ phần 12.799,8 2.242,7 17,5 19.076,6 3.741,9 19,6 Cty TNHH 18.655,2 3.603,9 19,3 24.886,3 6.012,4 24,2 DN tư nhân 819 58 5,2 1.762,8 392,3 22,3 HTX 942,6 135,7 14,6 1.451,2 140,2 9,7 Chi nhánh 456,9 9,3 2,0 603,2 12,9 2,1 Quỹ tín dụng 182,2 6,3 3,4 198,4 23,7 11,9 khác 75,5 8,9 11,8 85,6 36.2 42,3 Tổng 33.931,2 6.058,2 17,9 48.064,1 10.359,6 21,6 Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh Qua bảng số liệu có thể thấy tỷ lệ nợ đọng thuế GTGT và TNDN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn lớn và có xu hướng tăng lên, năm 2007 tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu của các doanh nghiệp này là 17,9% tương ứng với số tiền 6.058,2 triệu đồng, thì đến năm 2008 số tiền nợ thuế GTGT và TNDN là 10.359,6 triệu đồng với tỷ lệ nợ là 21,6%. Trong đó loại hình công ty TNHH nợ nhiều nhất năm 2008 tổng nợ là 6.012,4 triệu đồng, chiếm 24,2% so với số thuế GTGT và TNDN ghi thu trong năm và tăng 2.408,5 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp đến là loại hình công ty cổ phần nợ đọng thuế năm 2008 là 3.741,9 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ 19,6% so với thuế GTGT và TNDN ghi thu, tăng 1.499,2 triệu đồng so với năm 2007. Chi nhánh có số nợ đọng thấp nhất năm 2008 số nợ là 12,9 triệu đồng, tăng 3,6 triệu đồng so với năm 2007. Một số doanh nghiệp có số thuế nợ đọng lớn như: Công ty TNHH Thăng Long, mã số thuế (mst): 0100766077, tổng nợ tính đến 31/12/2008 là 402,43 triệu đồng, công ty TNHH xây dựng Minh Đạt tổng nợ tính đến 31/12/2008 là 315,89 triệu đồng, công ty thương mại Minh Tâm, mst: 010125219 tổng nợ là 831,08 triệu đồng. Mặc dù chi cục đã áp dụng nhiều biện pháp để thu hồi nợ đọng, cưỡng chế thuế như phối hợp với cơ quan công an, phong tỏa ngân hàng, thu qua ngân hàng, thu qua bên thứ ba. Nhưng nhiều ngân hàng không chịu hợp tác, hoặc hợp tác một cách miễn cưỡng, kéo dài thời gian và khi ngân hàng thông báo cho chi cục thì trên tài khoản của đơn vị số dư là không đáng kể nên việc thu hồi nợ thuế qua ngân hàng cũng rất hạn chế. * Công tác hoàn thuế: Hoàn thuế GTGT thể hiện tính ưu việt của sắc thuế GTGT, việc hoàn thuế góp phần giúp cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất thuận lợi hơn.Tuy nhiên nếu công tác kiểm tra hoàn thuế nếu không được thực hiện tốt thì rất dễ để xảy ra trường hợp một số doanh nghiệp lợi dụng để kiếm lợi riêng không những nhà nước mất đi một khoản thu mà còn bị các doanh nghiệp này lấy tiền từ NSNN do những khoản hoàn khống. Công tác hoàn thuế tại chi cục được tiến hành theo đúng quy định, kịp thời giúp cho doanh nghiệp được thuận lợi trong hoạt động của mình.Tuy nhiên để tránh tình trạng hoàn không đúng chi cục tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế. Mặc dù có nhiều doanh nghiệp thuế GTGT âm trong nhiều tháng nhưng không xin hoàn. Trong năm 2006 toàn chi cục chỉ có duy nhất một trường hợp được hoàn là công ty TNHH TM Đông Việt, mã số thuế 0101240833 số tiền hoàn là 1.416.281.091 đồng. Chi cục đã tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế và thu hồi số tiền là 8.588.736 đồng và phạt hành chính đối với doanh nghiệp là 12.833.104 đồng do doanh nghiệp có hành vi trốn thuế. Năm 2007 chi cục không có trường hợp nào xin hoàn, sang năm 2008 chi cục hoàn thuế cho công ty cổ phần kim khí Đông Anh, mã số thuế 0102024056 số thuế 1.915.000.000 đồng. Đạt được kết quả trên là do chi cục thuế Đông Anh đã thực hiện tăng cường công tác đối chiếu xác minh hóa đơn đối với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài huyện để xác định giá trị hàng hóa thực tế mua vào, thuế GTGT đầu vào đã kê khai nhằm kịp thời phát hiện ra các trường hợp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, có hành vi gian lận thuế. Kết quả trong năm 2008 chi cục đã gửi đi xác minh 127 phiếu với 168 hóa đơn, đã có trả lời 119 phiếu với 155 hóa đơn qua đó đã xử lý 1 phiếu với số tiền 12,07 triệu đồng. Trong năm chi cục cũng nhận được 757 phiếu với 1.247 hóa đơn nhờ xác minh, chi cục đã trả lời xác minh 731 phiếu với 1.195 hóa đơn, qua đó xử lý 4 hóa đơn với số tiền là 32,12 triệu đồng. 2.2.4. Đánh giá chung về công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh 2.2.4.1. Những kết quả đạt được Năm 2008 chi cục thuế đã thu và nộp cho ngân sách được 247.408,4 triệu đồng, đạt 139,9% pháp lệnh, đạt 134,6% so với dự toán phấn đấu, tăng 47,7% so với cùng kỳ. Riêng đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 43.363,2 triệu đồng tăng 55,37 % so với năm 2007, trong đó thu từ thuế GTGT là 27.647,8 triệu đồng chiếm 63,8% trong tổng thu từ thuế của các doanh nghiệp, thu từ thuế TNDN là 14.120,7 triệu đồng, chiếm 32,6 % tổng thu thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thu nợ thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong năm đạt 21.699,1 triệu đồng. Sở dĩ chi cục trong năm qua đạt được thành tích đó là do: - Chi cục đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế .Nhờ vậy ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp cũng tăng lên. - Chi cục thuế được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của cấp trên cùng với đó là sự phối hợp hoạt động có hiệu quả với các cơ quan nhà nước khác như ngân hàng, công an, quản lý thị trường trong việc tổ chức thu thuế. - Công tác kiểm tra tại doanh nghiệp có hiệu quả cũng góp phần hạn chế tình trạng thất thu thuế. - Công tác tổ chức, bồi dưỡng cán bộ thuế tại chi cục được chú ý do vậy trình độ của các cán bộ được tăng lên, góp phần tăng cường hiệu quả công tác quản lý và chống thất thu thuế. - Việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế nên có thể quản lý được sát sao các người nộp thuế cũng như việc sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp. 2.2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì công tác quản lý chống thất thu thuế GTGT và TNDN tại chi cục trong năm qua vẫn còn nhiều hạn chế như: - Tình trạng thất thu thuế còn nhiều, trong đó thất thu thuế về căn cứ tính thuế còn phổ biến. - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tự giác kê khai đúng doanh thu, chi phí thực tế trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ô tô, vận tải tư nhân,… - Tình trạng dây dưa, nợ đọng thuế còn nhiều chưa khắc phục được triệt để và có xu hướng tăng lên. Tính đến 31/12/2007 số thuế nợ đọng là 6.423,4 triệu đồng thì đến 31/12/2008 là 11.010,1 triệu đồng. - Tình trạng doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn, giá ghi trên hóa đơn thấp hơn giá thanh toán của khách hàng, dùng hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ trốn để hợp thức hóa đầu vào vẫn còn nhiều. - Công tác kiểm tra mặc dù được đẩy mạnh nhưng do số lượng cán bộ có hạn, số lượng doanh nghiệp phải quản lý nhiều nên chỉ tiến hành kiểm tra các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm còn các doanh nghiệp khác thì chưa có điều kiện để tiến hành. Nguyên nhân: - Về cơ chế chính sách: + Hệ thống chính sách thuế chưa bao quát hết ĐTNT, còn nhiều mức thuế ưu đãi, thời gian miễn, giảm thuế, điều kiện ưu đãi chưa quy định cụ thể trong luật; còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội; cơ chế quản lý thuế chưa được quy định rõ ràng đặc biệt là vấn đề xử lý vi phạm trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên nhân là do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi điều chỉnh của từng sắc thuế và chưa lường hết nguồn thu sẽ phát sinh trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường. + Giữa chính sách thuế với Chế độ kế toán và Chuẩn mực kế toán chưa có sự đồng nhất. Do đó, việc hạch toán kế toán theo chế độ quy định nhưng khi xác định nghĩa vụ thuế phải loại trừ những những khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ khi xác định nghĩa vụ thuế, từ đó tạo nên sự phức tạp và dễ nhầm lẫn khi thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp. - Về phía chi cục thuế: + Tổ chức bộ máy của chi cục thuế mặc dù đã được tăng cường nhưng trình độ nghiệp vụ còn hạn chế chưa đáp ứng được với những biến động đầy phức tạp của thị trường, một số cán bộ chưa nắm bắt được chính xác tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. + Việc phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan như ngân hàng, cơ quan công an đôi khi không được nhịp nhàng. - Về phía các doanh nghiệp: + Ý thức tự giác, tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc kê khai, nộp thuế mặc dù được nâng lên nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn cố tình tìm mọi cách để trốn thuế.Tình trạng các doanh nghiệp khi không được đôn đốc nhắc nhở thì không nộp tờ khai vẫn còn nhiều, tình trạng dây dưa nợ đọng tiền thuế còn khá phổ biến. + Bên cạnh đó tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay còn rất sơ sài, chưa chú ý đến việc tổ chức công tác kế toán hợp lý và khoa học phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh, các kế toán viên thông thường là kiêm nhiệm, trình độ kế toán còn hạn chế cho nên nhiều chỉ tiêu trong tờ khai còn ghi sai, ghi thiếu, bỏ sót doanh thu còn khá nhiều. - Ngoài ra, còn bởi một phần nguyên nhân chủ quan từ người tiêu dùng không đòi hỏi hoá đơn khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc không quan tâm đến nội dung của hoá đơn. Việc này đã vô tình đã tiếp tay cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trốn, lậu thuế và gây khó khăn cho công tác quản lý thuế nói chung và thuế GTGT và TNDN nói riêng trên địa bàn huyện Đông Anh. Việc để xảy ra tình trạng thất thu thuế không những không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, làm ảnh hưởng không tốt tới uy tín của chi cục mà còn làm cho các doanh nghiệp coi thường luật pháp vì vậy một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm tới là chi cục cần phải đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế đặc biệt là đối với thuế GTGT và TNDN. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHỐNG THẤT THU THUẾ GTGT VÀ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN ĐÔNG ANH 3.1. Mục tiêu của công tác tăng cường chống thất thu thuế * Việc tăng cường các biện pháp chống thất thu thuế nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế cho NSNN, đảm bảo được nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ nhất định, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong quá trình cắt giảm nhiều loại thuế xuất nhập khẩu theo cam kết. * Tăng cường chống thất thu thuế nhằm giảm thiểu tình trạng khai man, khai không đúng nhằm trốn, lậu thuế, nợ đọng tiền thuế và các tình trạng tiêu cực khác.Nhờ vậy không những đảm bảo được nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhân dân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. * Việc chống thất thu thuế nói chung và thất thu thuế GTGT và TNDN nói riêng nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách, từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. * Đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. Thông qua việc điều chỉnh thuế suất, nhà nước có thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn còn lạc hậu, kém phát triển, những lĩnh vực mà nhà nước thấy cần thiết cho sự phát triển của đất nước. * Thông qua việc tăng cường chống thất thu thuế ý thức của nhân dân trong việc tuân thủ pháp luật thuế nói riêng cũng như pháp luật nói chung nhờ đó cũng sẽ được tăng lên. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên yêu cầu tất yếu trong công tác chống thất thu thuế là cần phải có sự quyết tâm của cơ quan thuế cũng như các cơ quan nhà nước trong việc đấu tranh với những biểu hiện của gian lận thuế.Bên cạnh đó đòi hỏi phải có sự cố gắng, sáng tạo, tinh thần làm việc hết mình của cán bộ ngành thuế cùng với sự ủng hộ tích cực của nhân dân. Một vấn đề quan trọng cần được quan tâm nữa là khâu hoạch định chính sách thuế phải phải đảm bảo sự phù hợp, khả thi, lường trước được các khả năng có thể xảy ra qua đó mới có thể đảm bảo sự ổn định của chính sách thuế. Qua thực tế thực tập, nghiên cứu công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN tại chi cục thuế huyện Đông Anh trong thời gian qua, em xin đề xuất một số ý kiến nhỏ nhằm khắc phục những tồn tại và tăng cường hơn nữa công tác chống thất thu thuế trong những năm tới. 3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh 3.2.1. Nhóm giải pháp chung 3.2.1.1. Tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế Chính sách thuế là sự thể hiện chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước trong việc động viên nguồn tài chính vào NSNN.Một chính sách thuế được coi là hoàn hảo khi đạt được các mục tiêu sau: Về mặt tài chính: Đem lại số thu lớn cho NSNN Về mặt kinh tế: Có tác dụng khuyến khích ,thúc đẩy sản xuất phát triển Về mặt xã hội: Đảm bảo sự công bằng Về mặt nghiệp vụ: Đảm bảo sự hợp lý,đơn giản,đễ hiểu,dễ làm Tuy nhiên để một sắc thuế đạt được tất cả các chỉ tiêu trên là rất khó khăn. Ví dụ như để đảm bảo công bằng thì phải quy định nhiều mức thuế suất, nhưng khi đó lại làm cho công tác thu thuế phức tạp và tốn kém chi phí. Hay như để có số thu lớn cho NSNN thì phải quy định mức thuế suất cao nhưng khi đó lại không khuyến khích sản xuất…hai loại thuế GTGT và TNDN cũng không phải là ngoại lệ. Để hạn chế thất thu thuế GTGT và TNDN cần phải quan tâm tới vấn đề sau: * Hoàn thiện hệ thống các sắc thuế đảm bảo đáp ứng ứng yêu cầu hội nhập với thế giới, bên cạnh đó cần phải chú ý kết hợp hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà kinh doanh và người dân lao động.Với chính sách thuế hợp lý sẽ khuyến khích các doanh nghiệp, người sản xuất tự giác, chủ động kê khai, nộp thuế theo đúng pháp luật, đúng thực tế kinh doanh. - Trong luật thuế GTGT: + Để đảm bảo thuế GTGT là thuế tiêu dùng đánh trên bình diện rộng, có tính liên hoàn và trung lập kinh tế cao, luật thuế GTGT cần mạnh dạn thu hẹp diện miễn trừ thuế GTGT theo đó các đối tượng trước đây đang thuộc diện không chịu thuế GTGT sẽ đưa vào diện chịu thuế. + Cần giảm số lượng mức thuế suất theo hướng chỉ còn mức 0% và 10%.Hiện tại nước ta đang áp dụng thuế GTGT với 3 mức thuế suất là 0%,5% và 10%, thứ nhất sẽ gây khó khăn cho việc quản lý thuế trong việc áp dụng mức thuế 5% hay 10% vì chỉ cần một thay đổi nhỏ là có thể chuyển từ mức 10% xuống mức 5%, do vậy cơ chế với một mức thuế suất (trừ mức 0%) sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý, thu thuế, góp phần làm giảm chi phí hành thu. Ngoài ra nếu đã đánh thuế thì nên áp dụng thuế như nhau đối với các hàng hóa đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT và do đó không bóp méo hành vi và quyết định của người tiêu dùng. Tuy nhiên khi thực hiện biện pháp này nếu áp dụng ngay thuế suất 10% có thể gây nên khó khăn ban đầu vì vậy có thể áp dụng mức thuế suất 5% trong vài năm đầu. + Đối tượng chịu thuế GTGT được quy định trong luật là “hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT” thì sẽ không xác định được thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT vì vậy cần phải nghiên cứu và chỉnh sửa cho hợp lý, ví dụ ” đối tượng chịu thuế GTGT là các hoạt động chuyển giao hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam”. + Trong luật thuế GTGT mới thời điểm tính thuế là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hàng hóa hay hoàn thành dịch vụ là không bao quát vì căn cứ nào để xác định là đã chuyển giao hay bên nhận hàng hóa đã nhận do vậy theo em nên giữ nguyên quy định như trong luật cũ là thời điểm tính thuế là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hay xuất hóa đơn. - Trong luật thuế TNDN: + Về thuế suất: Việc quy định thuế suất như trong luật hiện nay là không đảm bảo tính cụ thể, tính ổn định của hệ thống pháp luật.Ví dụ trong quy định về thuế suất đối với các doanh nghiệp tiến hành tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí là từ 25% đến 50%.Như đã biết thu từ đầu khí là khoản thu lớn trong tổng thu thuế TNDN nói riêng cũng như trong NSNN nói chung (các khoản thu từ dầu khí chiếm 20%-25% tổng thu NSNN) Vì vậy việc kiểm soát, điều tiết khoản thu từ dầu khí là cần thiết việc quy định các mức thuế suất khác nhau là phù hợp tuy nhiên trong luật lại không quy định cụ thể vì vậy để tạo sự minh bạch, rõ ràng, tránh sự áp dụng một cách tùy tiện, tạo cơ sở cho việc tính thuế thì luật cần phải xác định rõ tiêu chí cụ thể làm căn cứ tính thuế. Về thuế suất ưu đãi: Trong luật quy định “đối với đự án cần đặc biệt thu hút đầu tư như các dự án có quy mô lớn và công nghệ cao thời gian áp dụng thuế suất có thể dài hơn 10, 15 năm. Có thể thấy là luật chưa quy định thế nào là ”cần đặc biệt thu hút đầu tư”, thế nào là “quy mô vốn lớn”…thời hạn cụ thể là bao lâu, thời hạn tối đa là bao nhiêu năm. Tất cả những quy định không rõ ràng đó có thể để cho các doanh nghiệp lợi dụng để mà trốn, lậu thuế. + Về việc trích lập quỹ đầu tư khoa học và công nghệ của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.Theo luật nếu doanh nghiệp sử dụng trên 70% quỹ thì không phải nộp vào NSNN phần thuế TNDN tính trên khoản thu nhập đã trích quỹ và phần lãi. Đây cũng là một cơ sở để cho doanh nghiệp lợi dụng do vậy để hạn chế tình trạng trốn, lậu thuế bằng cách này thì nhà nước nên quy định chỉ khi nào có dự án thì mới được trích và phải xử phạt thật nặng đối với các trường hợp trích lập quỹ sử dụng không đúng mục đích. Bên cạnh đó cũng cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống tham nhũng, buôn lậu vì đây là một trong những nguyên nhân làm thất thu NSNN.Cần phải xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi này.Ví dụ như trong quy định về buôn bán qua biên giới của cư dân hai nước, nước ta quy định tối đa không quá 2 triệu đồng/cá nhân/một ngày, đây là kẽ hở cho buôn bán qua biên giới mà không phải nộp thuế cho nhà nước của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vì khi đó các doanh nghiệp có thể “thuê“ người dân hàng hóa cho họ sau đó họ sẽ mua hóa đơn ở chọ đen để hợp thức hóa đầu vào vì việc mua hóa đơn này ở nước ta là rất dễ dàng. Một cá nhân làm sao có thể tiêu dùng hết số hàng hóa trị giá 2 triệu đồng mà ngày nào cũng vậy, do đó theo em nên giảm mức quy định này xuống cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trung bình của người dân, ví dụ như 3 triệu đồng /người/tháng. 3.2.1.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế Hiến pháp nước ta ghi nhận “Đóng thuế là nghĩa vụ của công dân” vì thế, khi thiết lập quan hệ pháp luật thuế những người nộp thuế họ chỉ thấy nghĩa vụ phải nộp thuế mà không thấy quyền lợi của mình khiến cho họ cảm thấy mình bị cưỡng bức, bị tước đoạt một phần lợi ích vật chất cho nên họ sẽ tìm cách trốn, tránh nghĩa vụ thuế. Ngoài ra người nộp thuế có thể bị cơ quan công quyền, cán bộ nhũng nhiễu khi thực thi quyền thu thuế mà nhà nước giao. Chính vì vậy cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân được biết về chính sách chế độ của nhà nước để họ thấy rằng đóng thuế không chỉ là ”nghĩa vụ” mà còn là “quyền” của mỗi công dân. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế phải diễn ra thường xuyên trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Để công tác tuyên truyền, giáo dục người nộp thuế có hiệu quả thì nhà nước cần phải: - Tổ chức gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp để trực tiếp giải đáp thắc mắc cũng như lắng nghe ý kiến nghị của họ.Thông qua các buổi gặp gỡ, hội thảo cơ quan thuế giải thích cho các doanh nghiệp hiểu về chính sách cũng như chủ trương của đảng, nhà nước trong lĩnh vực thuế. Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật về thuế tương đối nhiều do vậy để cho cuộc hội thảo, giải đáp có hiệu quả thì cần phải: + Tiến hành hội thảo theo chuyên đề. + Thông báo về cuộc hội thảo, gặp gỡ trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành phát trước tài liệu cho doanh nghiệp và đề nghị doanh nghiệp phải tìm hiểu trước để hội thảo tập chung giải đáp các vướng mắc chứ không phải các doanh nghiệp đến nghe cán bộ thuế đọc lại các văn bản đó. - Hiện nay mặc dù đường dây nóng giải đáp thắc mắc thuế được thành lập nhưng hiệu quả chưa cao ví dụ như khi doanh nghiệp hỏi mà cán bộ tư vấn “bí” quá nên họ bảo doanh nghiệp đọc lại văn bản luật do vậy đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa trình độ của các cán bộ tuyên truyền, hỗ trợ để nâng cao hiệu quả của hoạt động này. - Đối với các doanh nghiệp mới thành lập vấn đề thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước còn hạn chế khi đó cơ quan thuế có thể cử cán bộ xuống hướng dẫn cho các doanh nghiệp này về cách lập tờ khai, cách ghi hóa đơn, chứng từ… hoặc hàng quý tổ chức các buổi hội nghị hướng dẫn cho các doanh nghiệp mới thành lập để doanh nghiệp thực hiện cho đúng. - Tuyên dương kịp thời cả về vật chất cũng như tinh thần đối với các doanh nghiệp, cá nhân có thành tích tốt trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với ngân sách. - Ngoài ra để nâng cao tinh thần làm việc của cán bộ tuyên truyền cũng nên có khen thưởng đối với những cán bộ có thành tích tốt, hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra là để có thể đánh giá một cách chính xác hiệu quả làm việc của cán bộ cần có tiêu chí đánh giá hiệu quả làm việc ví dụ như: thời gian tư vấn, số lượng doanh nghiệp tư vấn, tỷ lệ câu hỏi tư vấn không được trả lời hoặc cần phúc đáp… các tiêu chí này sẽ được sử dụng làm căn cứ để đánh giá, phân loại cán bộ tuyên truyền qua đó để thực hiện việc thưởng, phạt thỏa đáng nhằm tạo động lực khuyến khích cán bộ làm việc. - Thực hiện cung cấp văn bản, ấn phẩm tại tủ sách cấp miễn phí tại chi cục. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế mặc dù không trực tiếp thu thuế cho nhà nước, thậm chí NSNN phải chi một khoản nhưng hiệu quả công tác này đem lại không nhỏ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctailieu.sharingvn.net.doc
Tài liệu liên quan