Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở tổng công ty rau quả Việt Nam

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở tổng công ty rau quả Việt Nam: Lời nói đầu Nước ta từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chấm dứt cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Đây là môt sự biến đổi về chất, một bước ngọăt có tính quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cơ chế thị trường đã có sự tác động mạnh đến nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói rêng. Trong nền kinh tế này, các doanh nghiệp là những đơn vị kinh tế độc lập, cạnh tranh gay gắt với nhau trên thị trường, vốn trở thành nguồn lực quan trọng mà các doanh nghiệp, các nhà quản trị doanh nghiệp phải quan tâm, tự bảo toàn và sử dụng để đem lại hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh . Trước tình hình đó nhiều doanh nghiệp thuộc khối quốc doanh hoạt động không có hiệu quả, bộc lộ yếu kếm về mặt quản lý, chưa thích ứng với cơ chế mới, làm ăn thua lỗ đã bị phá sản hoặc đang đứng nguy cơ phá sản. Mộ...

doc64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 883 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở tổng công ty rau quả Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Nước ta từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chấm dứt cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Đây là môt sự biến đổi về chất, một bước ngọăt có tính quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cơ chế thị trường đã có sự tác động mạnh đến nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói rêng. Trong nền kinh tế này, các doanh nghiệp là những đơn vị kinh tế độc lập, cạnh tranh gay gắt với nhau trên thị trường, vốn trở thành nguồn lực quan trọng mà các doanh nghiệp, các nhà quản trị doanh nghiệp phải quan tâm, tự bảo toàn và sử dụng để đem lại hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh . Trước tình hình đó nhiều doanh nghiệp thuộc khối quốc doanh hoạt động không có hiệu quả, bộc lộ yếu kếm về mặt quản lý, chưa thích ứng với cơ chế mới, làm ăn thua lỗ đã bị phá sản hoặc đang đứng nguy cơ phá sản. Một số doanh nghiệp khác thích ứng được cơ chế mới đã tồn tại và phát triển nhưng hiệu quả sản xuất chưa cao, hoạt động vẫn còn mang tính chất chụp giật, chiếm dụng vốn lẫn nhau, một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do sử dụng không hợp lý nguồn vốn, làm ứ đọng và thất thoát các nguồn vốn, nhất là các nguồn vốn của nhà nước. Vốn đối các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng như vậy, song không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn có hiệu quả. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp bây giờ là phải khai thác tối đa hiệu quả của nguồn, các nhà quản trị phải có chính sách bảo toàn và sử nguồn vốn sản xuất kinh doanh hợp lý trong chiến lược kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp mình. Là một sinh viên chuyên nghành Quản Trị Kinh Doanh Thương Mại, em thấy đây là một vấn đề bức thiết. Vì vậy qua nghiên cứu lý luận cơ bản về tài chính doanh nghiệp và quá trình thực tập tại Tổng Công Ty Rau Quả Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công Ty Rau Quả Việt Nam” Bài viết được kết cấu gồm ba phần: Phần I: Hiệu quả sử dụng vốn - mối quan tâm lớn của doanh nghiệp . Phần II: Thực trạng về tổ chức và sử dụng vốn ở Tổng Công Ty Rau Quả Việt Nam. Phần III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công Ty Rau Quả Việt Nam. Phần I: Hiệu quả sử dụng vốn - mối quan tâm lớn của doanh nghiệp I. Một số vấn đề cơ bản về vốn sản xuất kinh doanh 1. Khái niệm và vai trò của vốn sản xuất kinh doanh . Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền nhưng tiền chưa hẳn đã là vốn. Tiền chỉ có thể là vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Vốn sản xuất trong các doanh nghiệp công nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp. Vốn đầu tư là giá trị tài sản xã hội được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hay phát triển kinh tế nào muốn tiến hành được phải có vốn đầu tư. Vốn đầu tư là yếu tố quyết định để kết hợp các yếu tố khác trong sản xuất kinh doanh, nó trở thành yếu tố góp phần quan trọng hàng đầu đối với tất cả các dự án đầu tư và có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Vồn sản xuất trong doanh nghiệp đóng vai trò đảm bảo cho lao động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách thuận lợi theo mục đích đã định. Vai trò này được phát huy trên cơ sở thực hiện các chức năng tài chính bằng cách chủ động tổ chức đảm bảo sử dụng tốt đồng vốn và nâng cao hiệu quả của tiền vốn. Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, nguồn gốc của việc hình thành vốn khác nhau và sở hữu cũng khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn sản xuất là do nhà nước cấp phát và giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn được giao và doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn đó. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn … Vốn sản xuất được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể do một cá nhân hoặc nhiều người cùng góp. Xét về mặt hình thái vật chất, vốn sản xuất bao gồm hai yếu tố như là tư liệu sản xuất và đối tượng lao động. Hai yếu tố này cùng với sức lao động sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ để có được yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải có lượng tiền vốn nhất định. Có tiền vốn, doanh nghiệp mới có thể đầu tư mua sắm các tài sản cần thiết cũng như để trả lương cho người lao động. Sau khi tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có tiền thu bán hàng. Với số tiền này, doanh nghiệp phải giành ra một bộ phận để bù đắp lại tài sản cố định đã bị hao mòn và một bộ phận dùng để dự trữ vật tư cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Từ sự phân tích trên có thể rút ra vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của giá trị toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Quá trình sản xuất kinh doanh nghiệp được thực hiện liên tục, do vậy vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng được vận động không ngừng, tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì sự tuần hoàn và chu chuyển vốn cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, sự vận động của vốn như sau: T - H - Quá trình sản xuất - H’ - T’. Bắt đầu là hình thái tiền tệ (T) sang hình thái hàng hoá (H) (Tư liệu lao động, đối tượng lao động) qua quá trình sản xuất chuyển sang hình thái hàng hoá (H’) sản phẩm lao động dịch vụ và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ với số vốn lớn hơn số vốn đã ứng ra ban đầu, phần chênh lệch này chính là lợi nhuận, được sáng tạo ra ở khâu sản xuất, được thực hiện ở khâu tiêu thụ (H’ - T’). Khác với doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại chỉ thực hiện chức năng mua và bán. Do đó, vốn trong các doanh nghiệp này chỉ vận động qua 2 giai đoạn T - H – T’. ở giai đoạn I, vốn từ hình thái tiền tệ chuyển thành hàng hoá dự trữ cho tiêu thụ. ở giai đoạn II, hàng hoá được đưa đi bán để tiêu thụ tiền hàng. Số tiền thu về cũng phải đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi. Lợi nhuận này tạo ra trong hoạt động sản xuất nhưng được thực hiện ở hoạt động lưu thông qua hình thức chiết khấu. Nét đặc biệt trong các doanh nghiệp Ngân hàng là vốn không thay đổi hình thái vật chất nhưng vẫn lớn lên sau các quá trình vận động T – T’. Tính đặc thù này là kết quả được thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đã thay đổi hình thái trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp sử dụng phần giá trị dôi ra do các doanh nghiệp không sử dụng nhượng lại cho các doanh nghiệp Ngân hàng. Như vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp. Vốn là yếu tố không thể thiếu của doanh nghiệp nhưng nó chỉ phát huy tác dụng khi doanh nghiệp biếtt quản lý, sử dụng vốn đó một cách hợp lý và có hiệu quả. Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành hai bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động. 2. Vốn cố định. 2.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn cố định. Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, là hình thái giá trị của những tư liệu lao động đang phát huy tác dụng trong sản xuất. Tuy nhiên không phải hình thái giá trị của tất cả các tư liệu lao động đang phát huy trong sản xuất đều là vốn cố định. Theo qui định hiện hành của Nhà nước thì chỉ có các tư liệu sản xuất có thời gian sử dụng lớn hơn 1 năm và giá trị lớn hơn 5.000.000 đồng thì hình thái giá trị của chúng được gọi là vốn cố định. Vốn cố định giữ một vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết định việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, là nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo việc tái sản xuất mở rộng và không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Tuỳ theo đặc điểm kinh tế của mỗi nghành nghề mà khả năng về vốn cố định trong sản xuất của mỗi doanh nhiệp là khác nhau. Trên cơ sở nhu cầu thị trường đối với sản phẩm trong từng thời kỳ và trên cơ sở các tiến bộ khoa học kỹ thuật, mỗi doanh nghiệp có kế hoạch đúng đắn trong việc mua sắm, đầu tư trang thiết bị, đảm bảo hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn cố định cho sản xuất . Quản lý vốn cố dịnh bao gồm quản lý cả về mặt hiện vật và giá trị. Về mặt hiện vật, vốn cố định bao gồm toàn bộ những tài sản cố định đang phát huy tác dụng trong quá trình sản xuất (nhà xưởng, thiết bị máy móc…) vốn cố định tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Sau mỗi chu kỳ hình thái hiện vật của vốn cố định không thay đổi nhưng giá trị giảm dần do giá trị của vốn cố định được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm dưới hình thức khấu hao 2.2.Cơ cấu vốn cố định. Việc nghiên cứu vốn cố định có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình quả lý và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố đinh phải nghiên cứu trên hai góc độ: nội dung cấu thành và mối quan hệ tỷ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn dề cơ bản là phải xây dựng được một cơ cấu vốn hợp lý phù hợp trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý để các nguồn vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ cấu vốn là chỉ tiêu động, điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu vốn tối ưu. Theo chế độ hiện hành, vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất: - Nhà cửa vật đang dùng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý. - Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý. - Thiết bị động lực. - Hệ thống chuyền dẫn. - Máy móc, thiết bị sản xuất. - Dụng cụ làn việc, đo lường, thí nghiệm - Thiết bị phương tiện vận tải - Dụng cụ quản lý - Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp Trong cơ cấu phải đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa các bộ phận vốn cố định được biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận vốn cố định được biểu hiện bằng nhà xưởng, vật kiến trúc phục vụ sản xuất Cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong đó chủ yếu là đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bố sản xuất. Vì vậy, khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu vốn cố định hợp lý cần xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này 2.3 Nội dung của công tác quản lý vốn cố định. Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác tài chính doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó. Vì vậy để quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn cố định trước hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Những tư liệu lao động này có thể tham gia vào nhiều chu kì sản xuất. Sau mỗi chu kì chúng bị hao mòn đi một phần nhưng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm . Để quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp, người ta thường sử dụng các hình thức quản lý sau: 2.3.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định. 2.3.1.1. Hao mòn tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định có thể bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về mặt chất lượng và tính năng kỹ thuật tài sản cố định, cuối cùng tài sản cố định đó không được sử dụng nữa và phải thanh lý. Bản chất kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị của tài sản cố định dần dần giảm đi và được chuyển vào sản phẩm sản xuất ra. Trường hợp tài sản cố định không sử dụng, hao mòn hữu hình được biểu hiện ở chỗ tài sản cố định đó mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hay do quá trình hoá học xảy ra bên trong cũng như việc trông nom bảo quản tài sản cố định không được chu đáo. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình của tài sản cố định, có thể chia làm 3 nhóm sau: Nhóm những nhân tố thuộc về chất lượng chế tạo như: vật liệu dùng để sản xuất ra tài sản cố định, trình độ và công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng lắp ráp… Nhóm những nhân tố thuộc về quá trình sử dụng như mức độ đảm nhận về thời gian và cường độ sử dụng, trình độ tay nghề của công nhân, chế độ bảo quản, bảo dưỡng sửa chữa… Nhóm những nhân tố ảnh hưởng của tự nhiên như độ ẩm, không khí, thời tiết… - Hao mòn vô hình có 3 hình thức: Tài sản cố định bị giảm giá trị do năng suất lao động xã hội tăng lên, người ta sản xuất ra các loại tài sản cố định có chất lượng như cũ nhưng có giá thành thấp hơn. Tài sản cố định bị giảm giá trị do sản xuất được loại tài sản cố định khác hoàn thiện hơn về mặt kỹ thuật. Tài sản cố định bị giảm giá trị do sản phẩm của nó làm ra bị lỗi thời Như vậy, hao mòn vô hình do tiến bộ KH - KT gây ra. Trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu để tìm ra những biện pháp nhằm giảm tối đa những tổn thất do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra như: Nâng cao trình độ sử dụng tài sản cố định, sử dụng phương pháp khấu hao càng nhanh càng tốt, cải tiến và hiện đại hoá máy móc thiết bị, tổ chức tốt công tác bảo đảm sửa chữa nâng cao trình độ lành nghề và ý thức làm chủ của công nhân. 2.3.1.2. Khấu hao tài sản cố định. Tài sản cố định được sử dụng nhiều trong chu kỳ sản xuất, giá trị của nó hao mòn dần và chuyển dịch từng phần vào giá trị của sản phẩm làm ra. Phần giá trị này được thu hồi lại dưới hình thức khấu hao, được hạch toán vào giá thành sản phẩm để hình thành quỹ khấu hao, đáp ứng nhu cầu sửa chữa lớn, cải tạo, đổi mới tài sản cố định. Khấu hao là sự bù đắp về mặt kinh tế hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Khấu hao có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bảo toàn và phát triển vốn, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện khấu hao đúng, đủ giá trị thực tế của tài sản cố định không những phản ánh đúng thực chất của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn bảo đảm quỹ khấu hao, duy trì được số vốn bỏ ra. Có 2 hình thức khấu hao: Khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn. Trong quá trình khấu hao, tiền trích khấu hao biểu hiện phần giá trị của tài sản cố định đã được chuyển vào sản phẩm sản xuất ra trong kỳ. Do phương thức bù đắp và mục đích khác nhau nên tiền trích khấu hao tài sản cố định được chia thành 2 bộ phận: Tiền trích khấu hao cơ bản: dùng để bù đắp tai sản cố định sau khi bị đào thải vì mất giá trị sử dụng. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước thì doanh nghiệp trích một phần khấu hao này vào ngân sách Nhà nước, phần còn lại bổ sung quỹ phát triển sản xuất theo hướng cả chiều rộng và chiều sâu. các doanh nghiệp thuộc loại hình khác phải lập quỹ khấu hao cơ bản để duy trì hoạt động của mình và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Từ ngày 01/01/1995 theo quy định mới của nhà nước về chế độ khấu hao cơ bản trong các doanh nghiệp nhà nước thì các doanh nghiệp này được phép giữ lại toàn bộ khấu hao cơ bản đã trích để đầu tư, thay thế thiết bị mới. Tiền khấu hao sửa chữa lớn: dùng để sửa chữa tài sản cố định một cách có kế hoạch và có hệ thống nhằm duy trì khả năng sản xuất của tài sản cố định trong suốt thời kỳ sử dụng. Doanh nghiệp trích một phần tiền khấu hao sửa chữa lớn gửi vào một tài khoản riêng ở “ngân hàng đầu tư và phát triển ” để dùng làm nguồn vốn cho kế hoạch sửa chữa lớn tài sản cố định. Khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn được trích theo một tỉ lệ nhất định gọi là tỉ lệ khấu hao. Tỉ lệ trích khấu hao là tỉ lệ phần trăm giữa tiền trích khấu hao hàng năm so với liên giá tài sản cố định. Tỉ lệ này có thể tính chung cho cả hai loại khấu hao hoặc tính riêng cho từng loại. Việc xác định tỉ lệ khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu tỉ lệ khấu hao quá thấp sẽ không bù đắp được hao mòn thực tế của tài sản cố định. Còn nếu tỉ lệ khấu hao quá cao sẽ làm tăng giá thành một cách giả tạo, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3.1.3. Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định. - Phương pháp khấu hao đường thẳng. Nội dung của phương pháp này như sau: + Căn cứ vào quy định trong chế độ này, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định và đăng ký với cơ quan tài chính trực tiếp quản lý. Xác định mức khấu hao trung bình hàng năm cho tài sản cố định theo công thức như sau: Nguyên giá của tài sản cố định Mức trích khấu hao trung bình hàng năm Của tài sản cố định = - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - Thời gian sử dụng Mức khấu hao Mức khấu hao bình quân Bình quân tháng = ----- - - - - - - - - - - - - - 12 Phần lớn các loại tài sản cố định được đưa vào sử dụng để quy định rõ thời gian sử dụng tối đa. Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá của tài sản cố định thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức khấu hao trung bình của tài sản cố định bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia cho thời gian sử dụng, xác định lại thời gian sử dụng còn lại của tài sản cố định. Để đơn giản cho cách tính toán thì tài sản cố định tăng (hoặc giảm) trong tháng thì tháng sau mới tính (hoặc thôi tính) khấu hao. Vì thế, số khấu hao của các tháng chỉ khác nhau khi có biến động về tài sản cố định. cụ thể: Số khấu hao Số khấu hao Số khấu hao Số khấu hao Phải tính trong = đã tính + tăng + giảm tháng trong tháng trong tháng trong tháng Việc tính khấu hao tài sản cố định được thực hiện trên bảng tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định. - Phương pháp theo sản lượng. Phương pháp này cố định khấu hao trên một đơn vị sản lượng nên muốn thu hồi vốn nhanh phải khắc phục được hao mòn vô hình, đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng ca, kíp, tăng năng suất lao động để tạo ra nhiều sản phẩn. Chi phí khấu hao Tổng số vốn Tỷ lệ sản lượng theo = TSCĐ được xem như x trong kỳ hiện hành sản lượng Chi phí so với tổng sản lượng Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, xu hướng của các doanh nghiệp là thu hồi vốn nhanh, vừa tránh được hao mòn vô hình và sự lạc hậu của kỹ thuật, vừa có nguồn vốn để đầu tư vào công nghệ mới. Vì thế, các doanh nghiệp thường áp dụng 2 phương pháp sau: - Phương pháp khấu hao theo giá trị còn lại. Mức khấu hao 2 x Giá trị còn lại TSCĐ trích = - - - - - - - - - - - - - - - Hàng năm số năm khấu hao - Phương pháp khấu hao theo số năm được sử dụng. Mức khấu hao M(n + 1- i) 2M(n + 1 - i) TSCĐ trích = - - - - - - - - - - = - - - - - - - - - - ở năm thứ nhất n((n + 1) : 2) n(n + 1) Trong đó M: Tổng số khấu hao phải trích trong suốt thời gian sử dụng. (M = Nguyên giá - giá trị thu hồi) n: Số năm sử dụng thứ i. Cùng với sự tiến bộ của khao học kỹ thuật, người ta chú ý nhiều hơn đến hao mòn vô hình, vì vậy doanh nghiệp nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để hạch toán khấu hao cho những tài sản cố định hiện đại, có hao mòn vô hình lớn. Ngoài ra, hệ thống kế toán mỹ còn sử dụng sau để tính khấu hao: - Phương pháp luỹ kế giảm theo năm. Phương pháp này được dùng phổ biến trong quá trình lập các bản khai thuế, vì chi phí khấu hao lớn hơn trong các năm đầu của thời gian hữu dụng của tài sản cố định có khuynh hướng làm hoãn việc nộp thuế. Tuy vây, trong việc lựa chọn một phương pháp khấu hao cho các báo cáo tài chính, điều cần quan tâm chủ yếu là chọn một phương pháp kết hợp giữa chi phí (của việc sử dụng tài sản cố định) với thu nhập mà chi phí đó tạo ra trong kỳ. Cách tính: Chi phí Tổng giá vốn của Tỷ lệ Tỷ lệ thời gian Khấu = TSCĐ được xem x khấu hao giảm x Sử dụng TSCĐ Hao như chí phí theo năm trong năm - Phương pháp số dư giảm dần Phương pháp này cũng là một phương pháp khấu hao nhanh, phương pháp này cũng thích hợp với việc đánh giá thu nhập trong các trường hợp tài sản đóng góp vào việc tạo ra thu nhập trong các năm đầu nhiều hơn các năm sau. Cách tính: Chi phí Giá Tổng Tỷ lệ thời gian Khấu hao = ghi sổ x số dư x trong năm TSCĐ luc đầu kỳ giảm dần TSCĐ được sử dụng Giá trị ghi sổ được định nghĩa như số dư được phản ánh trên bảng tổng kết tài sản, có nghĩa là giá vốn (Tài khoản tài sản) trừ cho số dư của tài khoản khấu hao tích luỹ. Giá vốn của tài sản được xác định bằng cách cộng giá mua với chi phí chuyên chở và chi phí lắp đặt. Theo phương pháp này giá vốn còn lại của TSCĐ không được phép thấp hơn giá trị còn lại 2000 USD. 2.3.2. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một bộ phận quan trọng của kế hoạch tài chính. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu giá trị của tài sản cố định như: tổng giá trị tài sản cố định có đầu kỳ, tình hình tăng giảm tài sản cố định trong năm kế hoạch, xác định tổng giá trị bình quân của tài sản cố định cần tính khấu hao mức khấu hao trong năm và tình hình phân phối quỹ khấu hao. Trong khi lập quỹ khấu hao cần xác định rõ: * Tài sản cố định đã trích khấu hết nhưng vẫn còn sử dụng được, doanh nghiệp vẫn tiếp tục trích khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn theo tỉ lệ nguyên giá và hạch toán giá thành nhưng không hạch toán giảm vốn cố định. * Tài sản cố định chưa khấu hao hết mà đã hư hỏng, doanh nghiệp cần nộp vào Ngân sách số tiền chưa khấu hao hết và phần bổ vào khoản lỗ cho đến khi nộp đủ. Theo quy định số 51.7 TTg ngày 21-10 - 1995, kế hoạch khấu hao tài sản cố định bao gồm : * Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn như đất đai. * Tài sản cố định tăng lên trong năm kế hoạch: nếu tăng vào một ngày nào đó thì tháng sau mới tính khấu hao. * Tài sản cố định giảm bớt trong năm kế hoạch: nếu giảm bớt một ngày nào đó của tháng thì tháng sau không tính khấu hao. Công thức : Giá trị bình quân Giá trị bình quân TSCĐ Số tháng sẽ sử dụng tài sản cố định tăng giảm trong năm * (không sử dụng) TSCĐ tăng (giảm) trong = ---------------------------------------------------------------- năm kế hoạch 12 Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính khấu hao trong năm kế hoạch được xác định theo công thức : Tổng giá trị TSCĐ Tổng giá trị Tổng giá trị Tổng giá trị Phải tính khấu hao = TSCĐ có + bình quân TSCĐ - bình quânTSCĐ Trong kỳ đầu kỳ tăng trong kỳ giảm trong kỳ Trên cở sở cách tính các chỉ tiêu hàng năm , đầu kỳ doanh nghiệp lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định, biến động giá …làm cơ sở cho việc xác định mức khấu hao đúng. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được coi là một biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định trên phương tiện bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. 2.3.3. Bảo quản và xác định vốn cố định. Để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và phát triển, một trong những yếu tố quan trọng đó là phải bảo toàn và phát triển vốn cố định. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường không tránh khỏi những biến động về giá, lạm phát …Xu thế này thường có chiều hướng gia tăng, làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của tiền vốn giảm xuống so với thực tế. Mặt khác, do sự lỏng lẻo trong quản lý thị trường dẫn đến hiện tượng hư hỏng mất mát tài sản cố định trước thời hạn. Cả hai nguyên nhân này làm cho giá trị của đồng vốn giảm đi tương đối so với thực tế và giảm tuyệt đối so với thời gian sử dụng. Theo điều 2 của Quyết định 332 HĐBT qui định doanh nghiệp Nhà nước có trách nhiệm bảo toàn và phát triển cả về tiền mặt hiện vật và giá trị. Bảo toàn về mặt hiện vật không có nghĩa là Nhà nước bắt buộc doanh nghiệp giữ nguyên hình thái vật chất của tài sản cố định. Cụ thể, trong quá trình sử dụng tài sản cố định và sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, không làm mất mát tài sản cố định không làm hư hỏng trước thời hạn, duy trì, nâng cao năng lực của tài sản cố định. Doạnh nghiệp có quyền chủ động thực hiện đổi mới, thay thế tài sản cố định theo yêu cầu đổi mới công nghệ. Phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Bảo toàn về mặt giá trị có nghĩa là trong điều kiện có biến động lớn về giá trị của các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh các qui định của nhà nước về điều chỉnh nguyên giá taì sản cố định theo hệ số nhất định lại được cơ quan có thẩm quyền công bố nhằm bảo toàn giá trị tài sản cố định. Đồng thời phải sử dụng đúng mục đích và có sự kiểm tra của nhà nước đối với việc sử dụng vốn thu hồi, nhưọng bán và thanh lý tài sản cố định. Nội dung của chế độ bảo toàn vốn và phát triển vốn cố định: * Các doanh nghiệp xác định đúng nguyên giá của tài sản cố định trên cơ sở tính đúng , tính đủ khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn để tạo nguồn thay thế và duy trì năng lực sản xuất của tài sản cố định, bảo toàn vốn cố định. * Hằng năm các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ công bố hệ số điều chỉnh giá trị tài sản cố định vào ngày 1 tháng 1và ngày 1 tháng 7 phù hộp với đặc điểm cơ cấu hình thành tài sản cố định của từng ngành kinh tế kỹ thuật làm căn cứ thống nhất để các doanh nghiệp điều chỉnh tăng giá trị tài sản cố định, vốn cố định. * Ngoài việc bảo toàn vốn cố định trên cơ sở hệ số trượt giá, doanh nghiệp còn phải bảo toàn vốn Ngân sách cấp thêm hoặc doanh ngiệp tự bổ xung trong kỳ * Số vốn cố định phải bảo toàn đến cuối kỳ của doanh nghiệp được xác định theo công thức : Số VCĐ Số vốn đượcgiao đầu Khấu hao cơ hệ số tăng (giảm) Cần phải = kỳ số phải bảo - bản trích x đchỉnh + VCĐ Bảo toàn toàn đến cuối kỳ trong kỳ gtTSCĐ trong kỳ Doanh nghiệp phải có trách nhiệm phát triển vốn cố định trên cơ sở quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lậi của doanh nghiệp và phần về khấu hao cơ bản để lại đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp . 3. Vốn lưu động . 3.1 Khái niệm và đặc điểm . Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất, là toàn bộ biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông dể dảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường . Vốn lưu động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ sản xuất, vốn lưu động chuyển qua nhiều trạng tháikhác nhau (tiền, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, thành phẩm và cuối cùng lại trở về tiền). Khác với vốn cố định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Quá trình vận động của vốn lưu động thể hiện dưới 2 hình thức : hiện vật và giá trị . * Về mặt hiện vật :vốn lưu động gồm nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm… Về mặt giá trị, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền giá trị của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông. Sự lưu thông về mặt giá trị và hiện vật được thể hiện bằng công thức: T- H- sản xuất -H’- T’. Trong quá trình vận động, biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác, sau đó chở về hình thái ban đầu. Một vòng khép kín đó là một chu kỳ vận động của vốn lưu động, nó là cơ sở để đánh giá hiệu quả sản suất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, doanh nghiệp thường tìm cách rút ngắn chu kỳ vận động của vốn. 3.2. Cơ cấu của vốn lưu động. Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác quả lý vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu về vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo cho việ sử dụng tiết kiệm, hợp lý vốn lưu động trên cơ sở đó đáp ứng được yêu cầu sản suất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xúât. Cơ cấu vốn lưu động là tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành vốn lưu động và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Tỷ lệ giữa các bộ phận trong toàn bộ vốn lưu động hợp lý thì chỉ hợp lý tại một thời điểm nào đó. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu vốn thích hợp, đáp ứng yêu cầu sản xuất trong từng thời kỳ, đánh giá cơ cấu về mặt giá trị của từng bộ phận vốn lưu động hay tổng vốn lưu động. Để thuân lợi cho việc quản lý, người ta thừng phân loại vốn lưu động bằng một số cách sau. Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển của vốn lưu động: . Vốn dự trữ: là loại vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, dự trữ để đưa vào sản xuất. Vốn trong sản xuất: là loại vốn phục vụ trực tiếp cho giai đoạn sản xuất như sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, chi phí chờ phân bố… Vốn lưu thông : là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như thành phẩm, vốn bằng tiền … Căn cứ vào phương pháp xác định : * Vốn định mức là vốn lưu động mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh, bao gồm vốn dự trữ vốn trong sản xuất, sản phẩm trong hàng hoá ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến… * Vốn lưu thông không định mức: là vốn lưu thông có thể phát sinh trong quá trình sản xuất nhưng không có căn cứ tính toán xác định như thành phẩm trong đường gửi đi … Căn cứ vào nguồn vốn lưu động : * Vốn lưu động tự bổ sung : là vốn lưu động mà doanh nghiệp tự bổ sung lợi nhuận, các khoản tiền phải trả như tiền lương, tiền nhà … * Vốn lưu động do NSNN cấp : là vốn mà doanh nghiệp được Nhà nước giao cho quyền sử dụng trong hoạt động sản xuât kinh doanh. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn được giao này. * Vốn liên doanh : là vốn mà doanh nghiệp nhận liên doanh với các đơn vị khác, vốn này có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật . * Vốn tín dụng : là vốn mà doanh nghiệp vay Ngân hàng * Vốn vay các đối tượng khác. Căn cứ vào cách phân loại trên của vốn lưu động mà doanh nghiệp có cơ sở xác định vốn lưu động cần thiêt, làm cơ sở để huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. 3.3. Nội dung công tác quản lý vốn lưu động . Quản lý vốn lưu động cũng như vốn cố định trong doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện từ hai phía: doanh nghiệp và Nhà nước. Nhà nước quản lý với cách là người gián tiếp đối với vốn giao cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp trực tiếp quản lý vốn được giao với tư cách là người sử dụng. Trong quá trình sử dụng doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn được giao. Do mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghịêp trong vấn đề giao vốn và sử dụng vốn nên có quản lý tốt vốn được giao chỉ có thể quản lý từ hai phía. Sự quản lý của Nhà nước mang tính định hướng, giám sát kiểm tra. Còn đối với doanh nghiệp, sự quản lý mang tính chất trực tiếp nên nó quyết định hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh Nội dung quản lý vốn lưu động rất rộng , trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến quản lý vốn từ phía doanh nghiệp, bao gồm các nội dung chủ yếu sau : 3.3.1. Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch . Vốn lưu động định mức là số vốn lưu động ở mức tối thiểu cần thiết, thường xuyên cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vốn lưu động định mức thừa hoặc thiếu đều không có lợi vì thừa sẽ gây ứ đọng vốn còn thiếu sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn, tác động xấu đến hoạt động thu mua vật tư, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh . Theo chế độ hiện hành đối với các doanh nghiệp Nhà nước, vốn lưu động định mức của doanh nghiệp được Nhà nước cấp ban đầu cho một lần. Trường hợp Nhà nước điều chỉnh giá thì mức vốn đó được Nhà nước xác nhận và bổ sung kịp thời. Trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì chế độ bảo toàn và phất triển vốn nhất là trong nền kinh tế thị trường có nhiều biến động phức tạp. Để xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải lần lượt tính toán vốn lưu động ở từng khâu (dự trữ, sản xuất lưu thông) và đối với từng loại (nguyên vật liệu chính nguyên vật liệu phụ …) sau đó tổng hợp thành vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. - Vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Việc xác định mức vốn lưu động ở khâu dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ kế hoạch thu mua vật liệu và dự toán chi phí sản xuât của doanh nghiệp. Vốn lưu động định mức tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch và số ngày dự trữ. Mức luân chuyển ngày được tính bằng cách lấy mức luân chuyển kế hoạch và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển ngày được tính bằng cách lấy mức luân chuyển cả năm chia cho 360 ngày. Định mức số ngày dự trữ được xác định như sau : Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu (Nhà nước đọc quyền quản lý ), định mức số ngày được cơ quan cấp trên qui định trước cho doanh nghiệp . Đối với nguyên vật liệu mua trong nước: Định mức Số ngày cách Hệ số Số ngày Số ngày Sốngày số ngày = nhau giữa 2 x thu mua + chỉnh lý + bảo + vận dự trữ lần mua xen kẽ chuẩn bị hiểm chuyển Vốn lưu động định mức ở khâu sản xuất. Phần vốn ở khâu sản xuất tham ra trực tiếp vào quá trình tạo nên sản phẩm, cho nên vốn lưu động ở khâu này phải được xác định riêng cho từng loại sản phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế và chi phí chờ phân bổ. Định mức VLĐ Mức luân chuyển cả năm hệ số Chu kỳ cho sản phẩm = của thành phẩm theogiá :360 x sản phẩm x Sxuấtdởdang thành công xưởng dở dang Sphẩm Định mức VLĐ Mức luân chuyển cả năm Định mức Hệ số cho nửa thành = của thành phẩm theogiá : 360 x ngày x tphẩm phẩm tự chế thành công xưởng dự trữ tự chế Định mức VLĐ Mức dự trữ dầu Số phát sinh chi Số phải cho chi phí = năm của chi phí + phí chờ phân bổ - phân bổ Chờ phân bổ chờ phân bổ trong năm trong năm Vốn lưu động định mức ở khâu tiêu thụ: Vốn lưu động định mức ở khâu tiêu thụ bao gồm định mức cho thành phẩm và hàng hoá mua ngoài cho tiêu thụ sản phẩm (hàng hoá doanh nghiệp mua rồi tiêu thụ ngay không qua chế biến tại doanh nghiệp ) Định mức Tổng giá thành Định mức số VLĐ cho = công xưởng của : 360 x ngày dự trữ Thành phẩm số lượng hàng hoá thành phẩm Đối với hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, ta có Định mức VLĐ Tổng gia thành Định mức số ngày hàng hoá mua = cả năm theo : 360 x dự trữ hàng ngoài cho tiêu thụ giá mua hoá mua ngoài Trong 3 bộ phận trên, vốn lưu động trong khâu sản xuất là quan trọng nhất, nó trực tiếp tham gia vào công việc tạo ra giá trị mới sản phẩm tức là có khả năng sinh lời, còn vốn lưu động trong khâu dự trữ và khâu lưu thông mặc dù rất cần thiết nhưng lại không sinh lời. Do đó trong việc xác định vốn lưu thông định mức cho từng khâu cần tính toán chính xác, hạn chế tới mức tối đa vốn lưu động cho dự trữ và tiêu thụ, tăng cường vốn cho sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.3.2. Kế hoạch nguồn vốn lưu động định mức. Vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: .Vốn do NSNN cấp. .Vốn tự bổ xung. .Vốn tự đi vay. .Vốn liên doanh Vốn định mức năm kế hoạch được xác định căn cứ vào tình hình thực tế vốn lưu động năm trước và nhu cầu về vốn trong năm kế hoạch. Nếu năm trước doanh nghiệp đã sản xuất bình thường thì năm kế hoạch chỉ cần lập nguồn vốn lưu động nhằm tính ra mức thừa hoặc thiếu về định mức năm kế hoạch, trước hết được bù đắp bằng vốn lưu động tự có và coi như tự có từ năm trước. So sánh nhu cầu vốn trong năm kế hoạch có thể xảy ra 3 khả năng sau : -Thừa vốn . -Thiếu vốn . -Đủ vốn . Trong trường hợp thừa vốn doanh nghiệp cần ghi vào kế hoạch số vốn thừa để có biện pháp sử dụng hợp lý. Trong trường hợp thiếu vốn, để duy trì được sản xuất doanh nghiệp cần có kế hoạch huy động thêm từ các nguồn vốn để phục vụ cho nhu cầu sản xuất như nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn tự bổ sung … Nhìn chung trong tình trạng hiện nay, các doanh nghiệp đều thiếu vốn gay gắt cho hoạt động sản xuất. Do đó việc lập kế hoạch nguồn vốn lưu động là hết sức quan trọng. Một cấu trúc vốn hợp lý không những đáp ứng được nhu cầu của sản xuất kinh doanh mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.3.3. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động Để duy trì và phát triển vốn sản xuất, bên cạnh việc bảo toàn và phát triển vốn cố định doanh nghiệp còn phải bảo toàn và phát triển vốn lưu động Do đặc điểm chu chuyển toàn bộ một lần của vốn lưu động và giá thành sản phẩm và hình thái của vốn lưu động thường xuyên biến đổi, nên theo điều 3 quyết định 332 HĐBT qui định : “ Doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm bảo toàn vốn lưu động về mặt giá trị”. Bảo toàn vốn lưu động về mặt gía trị thực chất là giữ nguyên được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và TSLĐ định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên hạch toán đúng giá trị thực tế của vật tư hàng hoá theo mức tăng (giảm ) giá cả thị trường nhằm tính đúng, đủ chi phí vật tư hàng hoá vào thành phẩm, giá vốn hàng hoá và chi phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động . Nội dung cơ bản : - Các doanh nghiệp phải bảo toàn vốn lưu động ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở mức tăng (giảm) giá tài sản lưu động thực tế tồn kho của doanh nghiệp ở các thời điểm thay đổi về giá. -Định kỳ tháng, quý, năm, các doanh nghiệp phải xác định khoảng chênh lệch giá trị tài sản lưu động thực tế tồn kho ở doanh nghiệp bao gồm các khâu: vật tư dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, thành phẩm, chênh lệch tỷ giá dư ngoại tệ để bổ xung vốn lưu động . -Cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp và cơ quan tài chính có trách nhiệm xác định hệ số bảo toàn vốn lưu động hàng năm cho từng ngành, doanh nghiệp trên cơ sở mức tăng (giảm) giá thực tế cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu theo cơ cấu kế hoạch vốn từng doanh nghiệp . Số vốn lưu động sau khi đã thực hiện điều chỉnh giá trị tài sản lưu động thực tế tồn và ghi tăng nguồn vốn lưu động ở thời điểm cuối năm là số vốn thực đã được bảo toàn của doanh nghiệp . Số VLĐ phải Số vốn đã được Hệ số trượt giá Bảo toàn đến cuối = hoặc phải bảo x VLĐ của doanh nghiệp Năm báo cáo toàn đầu năm trong năm II. hiệu quả sử dụng vốn và vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 1. Tình hình sử dụng vốn trong doanh nghiệp . Đây là vấn đề đặt ra mọi doanh nghiệp đều phải quan tâm một cách thoả đáng. Từ những cách huy động vốn khác nhau doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và chọn cho mình những cách thức phu hợp. Đi đôi với việc sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp mới thu được hiệu quả kinh doanh cao . Thông thường vốn trong doanh nghiệp được chia làm 2 loại : vốn cố định và vốn lưu động. Tuỳ theo mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh mà cơ cấu vốn hai loại này khác nhau. Vốn cố định dùng để đầu tư dài hạn (mua sắm, lắp đặt, xây dựng các loại tài sản hữu hình và vô hình ) và các hoạt động kinh doanh thường xuyên sản xuất các sản phảm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Vốn lưu động dùng để đầu tư tài sản lưu động, mua sắm nguyên vật liệu trả tiền cho cán bộ công nhân viên … Vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả hay không, người ta dựa vào mức độ đạt được của mục đề ra. - Nhóm các mục tiêu kinh tế. - Nhóm các mục tiêu xã hội. Cả hai nhóm mục tiêu này xét đến cùng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy xét về lợi nhuận kinh tế. Thì lợi nhuận cực đại là bao trùm và tổng quát nhất. Tuy nhiên theo từng giai đoạn mà doanh nghiệp có một hoặc một số mục tiêu khác nhau. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vốn, nguồn lực… của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thhấp nhất. Để đánh giá chính xác có cơ sở khoa học hiêu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêuphù hợp, cả chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chi tiết. Các chỉ tiêu đó phải phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí và sức sinh lời của từng loại vốn. Công thức đánh giá hiệu quả chung: Kết quả đầu ra Yếu tố đầu vào Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp…, còn yếu tố đầu vào bao gồm lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay… Công thức này phản ánh mức sản xuất (hay mức sinh lợi) của các chỉ tiêu đầu vào, đựơc tính cho tổng số và cho riêng phần ra tăng. Hiệu quả kinh doanh còn được tính theo công thứcsau: Chi phí đầu vào Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = Công thức này phản ánh xuất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí (hoặc vốn) ở đầu vào. 2.1-Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dụng vốn cố định. Hiệu quả sử vốn cố định được đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu, nhưng phổ biến là các chỉ tiêu sau đây: Doanh thu (hoặc thu thuần) trong kỳ - Hiệu suất sử dụng = vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Lợi nhuận thuần - Tỷ suất lợi nhuận = vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một tầng vốn cố định trong kỳcó thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế thu nhập). Số vốn cố định bình quân tropng kỳ Hàm lượng = vốn cố định Doanh thu (hoặc doanh thu thuần trong kỳ) Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thần cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Doanh thu (hoặc doanh thu thuần trong kỳ) - Hiệu suất sử dụng = tài sản vốn cố định Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ Phản ánh một đồng tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. 2.2-Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dụng vốn lưu động. Hiệu quả chung về sử dụng vốn lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như: Tổng doanh thu thuần - Hiệu quả sử dụng = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nnhiêu đồng doanh thu thuần. Lợi nhuận thuần Mức doanh lợi = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Như chúng ta đã biết trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (dự trữ - sản xuất – tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ Số vòng quay của = vốn lưu động vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ, nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. 360 ngày Kỳ luân chuyển = Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện, số ngày càn thiết cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. Hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Vốn lưu dộng bình quân trong kỳ Hiệu quả đảm nhiệm = vốn lưu động Tổng doanh thu thuần Qua chỉ tiêu này ta biết được để có được một đồng luân chuyển thì cần mấy đồng vốn lưu động. 2.3. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn. Ngoài việc xem xét hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh dưới góc độ sử dụng vốn cố định và vốn lưu động, khi phân tích, cần xem xét cả hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lợi. Để đánh giá khgả năng sinh lợi của vốn, người ta thường dùng chỉ tiêu sau: Lợi nhuận Hệ số doanh lợi của = Vốn kinh doanh Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại mấy đồng lợi nhuận. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.1. Môi trường kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường thế nào thì phải thích ứng với môi ttrường đó. Môi trường kinh doanh thuận lợi (giao thông vận tải phát triển, khả năng thanh toán nhanh chóng…), sẽ làm cho doanh nghiệp ít cần dự trữ các loại nguyên vật liệu, hàng bán thu được tiền nhanh, như vậy sẽ làm giảm nhu cầu về vốn lưu động. Nếu kinh doanh trong môi trường mà đất hoặc bất động sản cho thuê theo hợp đồng phát triển thì doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được khá nhiều vốn cố định. Môi trường cạnh tranh cũng chỉ ảnh hưởng lớn tới việc doanh nghiệp sử dụng vốn ra sao. Nếu doanh nghiệp có rất nhiều đối thủ cạnh tranh thì sẽ phải áp dụng các biện pháp ưu đãi cho khách hàng (hạ giá, chiết khấu bán hàng trả chậm…), nhằm giành lấy thị phần, những biện pháp này tiêu tốn một lượng vốn khá lớn, nhiều công ty đã phá sản khi nguồn vốn của mình không đủ đáp ứng cho việc theo đuổi cạnh tranh 3.2 Loại hình kinh doanh. Khi nhìn vào loại hình kinh doanh của một doanh nghiệp, ta có thể hiểu được nó sử dụng vốn như thế như nào. Các doanh nghiệp sản xuất (nhất là công nghiệp nặng), thường yêu cầu chiếm một lượng vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn. Những doanh nghiệp chế tạo máy lại thường xuyên yêu cầu một lượng vốn dự trữ hàng hoá (do sản phẩm của họ không phải lúc nào cũng được tiêu thụ liên tục). Các doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh sản phẩm nông nghiệp thì có đặc trưng rõ nét là nhu cầu vốn thay đổi theo mùa. Các doanh nghiệp công nghiệp nhẹ thì nguồn vốn lưu động chiếm một vai trò quan trọng và nhu cầu thường ổn định theo thời gian. 3.3. Quy mô doanh nghiệp. Hiển nhiên là doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì lượng vốn cần thiết cho nó càng nhiều. Tuy nhiên vốn được sử dụng như thế nào lại biến đổi theo quy mô doanh nghiệp. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn được sử dụng chủ yếu phục vụ trực tiếp cho sản xuất ra sản phẩm. Khi quy mô doanh nghiệp lớn dần thì tỷ trọng vốn giành cho bộ phận gián tiếp và các hoạt động phí sản xuất cũng tăng theo, nhiều công ty lớn trên thế giới đã đầu tư một khoản chi phí đáng kể cho tiếp thị, quảng cáo. Nếu chỉ xét riêng tới bộ phận sản xuất sản phẩm thì việc tăng quy mô đồng nghĩa với tăng hiệu quả sử dụng vốn. Việc tăng quy mô của dự trữ hay bán thành phẩm, đẩy nhanh tốc độ khấu hao tới sử dụng vốn có hiệu quả hơn. 3.4. Chính sách kinh doanh. Hơn ai hết chính bản thân doanh nghiệp chính là người quyết định vốn của mình sẽ được sử dụng vốn như thế nào. Để thâm nhập vào một thị trường lớn hay để gia tăng thị phần trong thị trường truyền thống, một Công ty có thể tung ra một lượng vốn để quảng cáo, tiếp thị. Bán chịu hay phá giá sản phẩm của mình. Nhiều doanh nghiệp đã sẵn sàng chịu những khoản lỗ đáng kể để giành được thị trường. Hiện tượng này đã diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có Việt Nam, chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về ai nhiều vốn hơn. Ngược lại nếu mục đích của doanh nghiệp là nâng cao lợi nhuận, thì doanh nghiệp sẽ xem sét toàn bộ các khsâu từ đầu vào tới đầu ra để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình lên mức tối đa. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng đòn bẩy tài chính (dùng vốn vay kết hợp với vốn tự có) để tối đa hoá tỷ suất lợi nhuận cho lượng vốn của mình bỏ ra. Phần II: Phân tích tình hình sử dụng vốn ở Tổng công ty rau quả Việt nam. I. Tình hình chung ở tổng công ty rau quả việt nam: Đặc điểm hoạt động của tổng công ty: Tên doanh nghiệp: Tổng công ty rau quả việt nam. Tên doanh nghiệp quốc tế: Vietnam national vegetable and fruit corporation. Tên viết tắt: VEGETEXCO VIETNAM. Trụ sở chính tại: Số 2, Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội. Cở sở đại diện tại: + Moscow – CHLB Nga. + Philadelphia – Mỹ. - Tổng mức vốn kinh doanh (đăng ký trong đơn xin thành lập doanh nghiệp) là: 125.200 triệu đồng ( vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung). Tổng công ty rau quả Việt nam là doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản ngân hàng theo quy định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo đơn mẫu về tổ chức hoạt động Tổng công ty nhà nước, ban hành theo nghị định số 39 CP ngày 27/6/1995 của chính phủ và điều lệ cụ thể của Tổng công ty rau quả Việt Nam, do hội đồng quản trị Tổng công ty xây dựng trình bộ trưởng nhà nước và Bộ nồng nghiệp và phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành. Tổng công ty được nhà nước giao vốn, tài nguyên và các nguồn lực khác nên có trách nhiệm sử dụng hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao, có quyền nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn nhà nước do tổng công ty quản lý. Tổng công ty rau quả có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị liên doanh có vốn góp của tổng công ty. * Tổng công ty rau quả việt nam có những nhiệm vụ và mục tiêu kinh doanh: Tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống sản xuất và cung cấp giống rau quả trong phạm vi toàn quốc đảm bảo cung cấp giống rau tốt cho đất nước. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu: + Sản xuất giống rau quả và các nông lâm sản khác + Dịch vụ trồng trọt, chăn nuôi và trồng rừng. + Chế biến rau quả, thịt, thủy sản, đường kính, đồ uống… + Sản xuất bao bì (gỗ, giấy, thủy tinh, hộp sắt…) + Bán buôn, bán lẻ, bán đại lý giống rau quả, thực phẩm, đồ uống, máy móc thiết bị, phu tùng chuyên dùng… + Kinh doanh đồ uống, du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải kho cảng Xuất nhập khẩu: + Xuất khẩu trực tiếp: Rau quả tươi, rau quả chế biến, hoa và cây cảnh, nông lâm sản, hàng thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng khác. + Nhập khẩu trực tiếp: Rau, hoa quả, giống rau hoa quả, máy móc vật tư thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa, đồ tiêu dùng. Thực hiện nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Tham gia vào đào tạo công nhân kỹ thuật. Liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước để phát triển sản xuất và kinh doanh rau quả cao cấp. Quá trình hình thành và phát triển của tổng công ty rau quả Việt Nam. Sự hình thành: Trước năm 1988 việc sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả đã được hình thành và phát triển theo 3 khối: khối sản xuất, khối chế biến và khối kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả song song với việc chia cắt đó, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật của ngành cũng bị phân tán, không có một tổ chức nào chịu trách nhiệm chung như nghiên cứu tạo giống mới, áp dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ… Do bị chia cắt thành 3 khối như trên, đã hạn chế rất nhiều khả năng phối hợp thích ứng của cả 3 khu vực, thậm chí còn mô thuẫn cạnh tranh lẫn nhau gây ảnh hưởng sấu đến lợi ích toàn ngành. Vì vậy tháng 2-1988 nhà nước đã quyết định thành lập “Tổng công ty rau quả việt nam” bằng cách hợp nhất 3 khối trên về một đầu mối do bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lý từ đó Tổng công ty rau quả Việt nam trở thành một đơn vị kinh tế chuyên ngành rau quả lớn nhất với hơn 37.000 cán bộ công nhân viên, 72 đầu mối trực thuộc trải khắp trên 17 tỉnh thành trong phạm vi vả nước. Quá trình hoạt động từ 1988 – 2000. Thời kỳ 1988 – 1990: Sau khi tổng công ty được hình thành và tổ chức lại, hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu đã có bước chuyển biến thực sự cả về bốn mặt: Sản xuất nông nghiệp, chế biến công nghiệp, kinh doanh xuất nhập khẩu và nghiên cứu khoa học chuyên ngành, so với bình quân năm của cả hai thời kỳ (1981 - 1985)và (1986 - 1987) thì bình quân năm của thời kỳ 1988 –1990 đạt như sau: + Kim ngạch xuất khẩu đạt 51,6 triệu Rúp + USD / năm, tăng 116% và 17%. + Sản lượng công nghiệp đạt 28700 tấn / năm, tăng 68% và 19%. + Sản lượng nông nghiệp đạt 29000 tấn / năm, tăng 33% và 22%. Thời kỳ 1991 – 1994: Về sản xuất nông nghiệp: sản phẩm chủ yếu năm 1994 đạt 29278 tấn, tăng 39,7% so với năm 1991. Về chế biến công nghiệp: đây là khối khó khăn nhất do khủng hoảng thị trường suất khẩu, thiết bị cũ, giá thành cao, khó cạnh tranh nên sản lượng chế biến hàng xuất khẩu mấy năm qua giảm dần. Nhưng do tích cực thay đổi cơ cấu mặt hàng, mẫu mã, bao bì, đẩy mạnh sản xuất tiêu thụ hàng trong nước nên hiệu quả chung đã tăng nên từ chỗ hầu hết các đơn vị trong các năm 1990,1991 đều lỗ, hai năm nay (1993,1994) nhiều đơn vị đã có lãi nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Về xuất nhập khẩu: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1994 đạt gần 20,5 triệu Rup +USD tăng 15,9% so với năm 1991. Trong đó xuất nhập khẩu sang thị trường khu vực II tăng nhanh, bình quân thời kỳ 1991 – 1994 đạt 10,06 triệu USD / năm, gần gấp 9 lần bình quân thời kỳ 1988 – 1990 và hơn 10 lần so với thời kỳ 1981 – 1985. Về nghiên cứu khoa học tổng công ty đã tập trung đầu tư hình thành viện nghiên cứu rau quả. Ngoài phần nhà nước đầu tư 885 triệu đồng, tổng công ty đầu tư 2463 triệu đồng để xây dựng cơ sở vật chất ho viện, đến nay viện đã trở thành viện nghiên cứu khang trang trong ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm. Trong 5 năm qua mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng viện đã triển khai được 177đề tài, trong đó có: 13 đề tài cấp nhà nước, 89 đề tài cấp bộ và 75 đề tài cấp tổng công ty đến nay có 110 đề tài đã kết thúc, trong đó có nhiều đề tài đã được sử dụng có hiệu quả trong sản xuất Về hệ quả chung: Doanh thu năm 1994 đạt 291,5 tỷ đồng, tăng 14%so với năm 1991. Nộp ngân sách từ năm 1991 – 1994 bình quân năm sau cao hơn năm trước 39,5% riêng năm 1994 đạt 28,5 tỷ đồng tăng 168% so với năm 1991. Số đơn vị làm ăn có lãi ngày càng tăng, từ 18 đơn vị (1990), 22 đơn vị (1991), năm 1994 tăng 33 dơn vị. Ngược lại số đơn vị làm ăn thua lỗ ngày càng giảm, tương ướng là 25,15 và 12 dơn vị Thời kỳ 1996 đến nay: Thời kỳ này tổng công ty hoạt động với mô hình mới theo quyết định 90_CP trong điều kiện ta đang tiến hành công nghiệp hóa đại hóa đất nước, cùng với những bài học kinh nghiệm về nền kinh tế thị trường từ mấy năm qua, qua đó tổng công ty đã tìm cho mình hướng đi vững chắc hơn, tạo được uy tín với tất cả bạn hàng trong và ngoài nước. Sau đây là báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm của tổng công ty. Biểu 1: bảng báo cáo kết quả kinh doanh. (Báo cáo quyết toán năm 1998,1999,2000) (Đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Các năm thực hiện 1998 1999 2000 Tổng doanh thu 410892 547054 573681 Các khoản giảm trừ 2447 3497 3917 1. Doanh thu thuần. 408445 543575 569764 2. Giá vốn hàng bán. 363954 492283 511430 3. Lợi nhuận gộp. 44491 51292 58334 4. Chi phí bán hàng. 30027 36766 36293 5. Chi phí quản ký doanh nghiệp. 71534 17854 20870 6. Lợi nhuận thuần từ hoạt động KD. -3070 -3328 1171 - Thu nhập hoạt động tài chính. 5072 5770 5201 - Chi phí hoạt động tài chính. 3361 3023 4165 7. Lợi nhuận thuần từ hoạt động thuần túy. 1711 2747 1032 - thu nhập bất thường. 9775 11397 10235 - Chi phí bất thường. 6264 7600 7883 8. Lợi nhuận thuần từ hoạt động bất thường. 3511 3797 2352 9. Tông lợi nhuận trước thuế. 2152 3216 4549 10. Thuế thu nhập DN phải nộp. 689 1029 1459 11. Lợi nhuận sau thuế. 1463 2187 3090 Qua bảng trên ta thấy, doanh thu của tổng công ty qua các năm 1998, 1999, 2000 tăng dần, năm 1998 doanh thu đạt 408.445 triệu đồng,năm 1999 tăng so với năm 1998 là 135.130 triệu đồng, năm 2000 tăng so với năm 1999 là 26.189 triệu đồng. Lợi nhuận sau thuế cũng tăng từ 1.463 triệu đồng (năm 1998) tăng lên 3.090 triệu đồng (năm 2000). Tổng công ty có 22 đơn vị thành viên thì 20 đơn vị có lãi và 2 dơn vị bị lỗ, năm 2000 con số này có sự thay đổi, chỉ còn 15 đơn vị lãi, 4 đơn vị hòa, và 3 dơn vị lỗ. Nhìn chung trong các năm gần đây Tổng công ty rau quả là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của tổng công ty rau quả Việt Nam. Mọi hoạt động của tổng công ty từ đầu đến cuối là nhằm cung cấp rau quả phục vụ cho nhu cầu trong và ngoài nước. Xuất khẩu là động lực chính của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế mà tổng công ty hoạt động theo mô hình sản xuất – chế biến – kinh doanh. Sản xuất: Sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp có mặt trên mọi lĩnh vực trên cả nước nhưng chủ yếu sản phẩm được tập chung ở các nông trường, đồn điền, trang trại. Do đó trang thiết bị của tổng công ty ở các vùng sản xuất chủ yếu là trâu bò, máy kéo và các máy móc thiết bị công nghiệp khác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Chế biến: được đặt ngay tại các vùng nguyên liệu ở các lơi trực tiếp tạo ra sản phẩm hoa quả tươi, như công ty chế biến thành phẩm xuất khẩu Đồng Giao, chế biến rau quả tươi thành rau quả đồ hộp để phục vụ nhu cầu trong và ngoài nước. Kinh doanh: là quá trình mua bán các sản phẩm, nguyên vật liệu cho khâu chế biến để kiếm lợi nhuận như ở các công ty xuất nhập khẩu, các cửa hàng kinh doanh. Các công ty xuất nhập khẩu chủ yếu đặt tại các thành phố cho nên trang thiết bị của công ty là phương tiện vận chuyển, các phòng ban giao dịch với nước ngoài có những trang thiết bị hiện đại, đắt tiền, các công cụ làm lạnh chứa hoa quả tươi. II. vốn và hiệu quả sử dụng vốn của tổng công ty rau quả việt nam trong những năm qua 1.Vốn và cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của tổng công ty rau quả Việt nam Việc quản lý và sử dụng vốn của tổng công ty rau quả Việt nam trong các năm qua được thể hiện qua số liệu quyết toán hàng năm trên bảng cân đối kế toán cuối năm .Các số liệu này đã được công ty kiểm toán và tư vấn A&C thẩm định và xác nhận là đúng đắn, trung thực. Tất cả những số liệu đó như sau : Biểu 02 : Bảng cân đối kế toán (từ năm 1998 –2000) (Đ v :Triệu đồng ) Tài sản 1998 1999 2000 I.TSLĐ và đầu tư ngân hàng 179661 236008 276354 1.Vốn bằng tiền 34671 40879 28030 2. Các khoản đầu tư TCNH 377 340 287 3. Các khoản phải thu 87207 112490 112917 4. Hàng tồn kho 43069 69170 104685 5. TSLĐ khác 13698 13129 29457 6. Chi phí sự nghiệp 639 978 II. TSCĐ và đầu tư dài hạn 132553 174908 255911 1. TSCĐ 89686 99669 94698 a. TSCĐ HàNG HOá 88873 98491 93600 - Nguyên giá 139431 159778 164331 - Hao mòn lũy kế 50553 61287 70731 b. TSCĐ vô hình 808 1178 1098 - Nguyên giá 876 1301 1295 - Hao mòn lũy kế 68 123 197 2. Các khoản đầu tư TCDH 17118 30352 23080 3. Chi phí xây dựng 25749 44887 138133 Tổng Cộng Tài Sản 312214 410916 532565 Nguồn vốn I. Nợ phải trả 138998 207054 340117 1. Nợ ngắn hạn 125505 167661 201146 a. Vay phải trả 37182 60782 83148 b. Nợ dài hạn đến hạn phải trả 24 c. Khoản phải trả 53929 57619 53115 d. ứng trước của khác hàng 11399 15062 29065 e. Thuế và các khoản phải nộp NN 3517 6024 6276 g. Các khoản phải trả khác 19478 28150 29542 2. Nợ dài hạn 12835 38421 137872 3. Nợ khác 658 972 1099 II. Nguồn vốn chủ sở hữu 173216 203862 192148 1. Nguồn vốn kinh doanh 128910 152619 163981 2. Các quỹ 37766 44203 22109 3. Nguồn kinh phí 6540 7040 6058 Tổng nguồn vốn 312214 410916 532265 (Báo cáo quyết toán các năm 1998,1999 ,2000) Dựa vào số liệu của bảng cân đối kế toán qua các năm , ta có bảng tính tỷ lệ các loại vốn tại tổng công ty rau quả như sau Biểu 03 : Bảng tính tỷ lệ các loại vốn (Đ v : Triệu đồng ) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.Vốn lưu động 179661 58 23608 57 176354 52 2. Vốn cố định 132553 42 174908 43 255911 48 Tổng vốn 312214 100 410916 100 532265 100 (Báo cáo quyết toán các năm 1998,1999,2000) Qua số liệu ta thấy : vốn của tổng công ty đã tăng lên rõ rệt qua từng năm .Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 98702 triệu đồng (tức 32%) , năm 2000 so với năm 1999 là 121.349 triệu đồng (tức 30%) , tăng so với năm 1998 là 220.051 triệu đòng (tức 70%). Điều đó thể hiện sự quan tâm của tổng công ty trong việc đầu tư vốn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi xem xét tỷ lệ các khoản vốn thấy :tỷ lệ vốn lưu động chiếm trong tổng vốn lớn hơn vốn cố định, chứng tỏ tàI sản lưu động nhiều hơn tài sản cố định nhưng không đáng kể. Việc vốn cố định chiếm tỷ trọng cũng lớn có ý nghĩa quyết định đến năng lực sản xuất của Tổng công ty, nó thường gắn liền với hoạt động đầu tư dàI hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro. Tỷ lệ vốn lưu động và vốn cố định nhìn chung tương đối ổn định qua các năm, riêng năm 2000 tỷ lệ vốn cố định có tăng so với năm trước do tổng công ty đã đầu tư trực tiếp xây dựng các dự án lớn nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh ngành rau quả như: dự án nhà máy nước dứa cô đặc Hà Tĩnh, dự án xây dựng bốn cơ sở thực nghiệm nhân giống măng tre Trung Quốc … Để tiến hành sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Tổng công ty có được số đó là do ngân sách nhà nước cấp, do tự bổ xung và từ các nguồn khác. Để tìm hiểu vấn đề này ta hãy phân tích qua bảng cơ cấu vốn của Tổng công ty: Biểu 04: Bảng phân tích cơ cấu vốn (Đ v :Triệu đồng) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Số tiền % Số tiền % Số tiền % I. Nguồn vốn NH 12505 40,19 167661 40,8 201146 37,79 1. Vay ngắn hạn 37182 11,9 60782 14,79 83148 15,62 2. Nợ DH đến hạn trả 24 0,01 3. Phải trả người bán 42288 13,54 45467 11,06 39204 7,36 4. Người mua trả tiền trước 11399 3,65 15062 3,66 29065 5,46 5. Thuế 3517 1,13 6024 1,47 6276 1,18 6. Phải trả CNV 3904 1,25 4193 1,02 4961 0,94 7. Phải các đơn vị nội bộ 7737 2,48 7959 1,94 8950 1,68 8. Phải trả, phải nộp khác 19478 6,24 28150 6,85 29542 5,55 II. Nguồn vốn dài hạn 186709 59,81 243255 59,2 331119 62,21 1. Nợ dài hạn 12835 4,11 38421 9,35 137872 25,9 2. Nợ khác 658 0,23 972 0,24 1099 0,21 3. Nguồn vốn chủ sở hữu 173216 55,47 203862 49,61 192148 36,1 - Nguồn vốn kinh doanh 128910 41,28 152619 37,14 163981 30,8 - Các quỹ 37766 12,09 44203 10,75 22109 4,15 - Nguồn kinh phí 6540 2,1 7040 1,72 6058 1,15 Tổng nguồn vốn 312214 100 410916 100 532265 100 Qua số liệu trong bảng ta thấy: Nguồn vốn ngắn hạn bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, Tổng Công Ty đã tiến hành vay dài hạn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh nên nguồn vốn dài hạn nguồn vốn chủ sở hữu dài hạn. Tổng nguồn vốn của tổng công ty năm sau đều tăng so với năm trước. Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 32%, là do sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, vốn vay và vốn khác, nhưng sang năm 2000 tăng so với năm 1999 là 30% lại chủ yếu là do nguồn vốn vay và vốn khác, còn vốn chủ sở hữu giảm. Vốn chủ sở hữu giảm nhưng nhu cầu vốn để mở rộng inh doanh ngày càng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, doanh nghiệp đã tăng các khoản nợ phải trả. Nguồn vốn này tăng nnhanh chóng vào năm 2000, đã ảnh hưởng rõ rệt đến sự độc lập tài chính của Tổng Công ty. Thông thường tỷ lệ này là 50:50, nhưng trong thực tế, các doanh nghiệp đều thiếu vốn nên tuỳ thuộc vào tình hình thực tế mà khả năng thanh toán chi phí vốn của Tổng Công ty sẽ tăng hay giảm khoản vốn này. Các khoản nợ phải trả chủ yếu là vay Ngân hàng, chiếm dụng của người bán và các khoản ứng trước của người mua, trước đây do sự hỗ trợ lớn của Nhà nước và để tiết kiệm chi phí cho lượng vốn vay Ngân hàng của Tổng Công ty chỉ khoảng 37 tỷ, chiếm 12% trên tổng nguồn vốn. Nhưng do nhu cầu vốn tăng để mở rộng thị trường kinh doanh rau quả nên tổng Công ty đã quan tâm hơn đến việc vay vốn Ngân hàng. Đây là nguồn vốn tương đối với các doanh nghiệp. Hơn nữa, nhìn vào khoản mục thuế, ta thấy thuế chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chỉ khoảng 1,1% - 1,4%, chứng tỏ Tổng Công ty đã rất quan tâm đến thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Như trên ta thấy, nguồn vốn chủ sở hữu giảm trong khi nguồn vốn vay tăng đáng kể đã làm biến đổi tỷ suất tài trợ và hệ số nợ năm 2000. Nguồn vốn chủ sở hữu 192.148 Tỷ suất tự tài trợ = = = 36,1% Tổng nguồn vốn 532.265 Nợ phải trả 340.117 Hệ số nợ = = = 63,9% Tổng nguồn vốn 532.265 Tỷ suất tài trợ của Tổng công ty rất thấp, chỉ đạt 36,1% chứng tỏ Tổng công ty không có nhiều vốn tự có, phảiphụ thuộc vào các chủ nợ nên bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản nợ vay. Nhưng hệ số nợ cao chiếm khoảng 63,9%. Tổng công ty lại cóp lợ vì được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ đầu tư một lượng vốn nhỏ và các nhà tài chính sử dụng nó như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận. Qua đó ta thấy rằng: Tổng Công ty rau quả còn phải nỗ lực hơn nữa để tăng khả năng tự chủ về tài chính của mình. Trên cơ sở những số liệu chung nêu trên, ta sẽ đi vào đánh giá tình hình sử dụng vốn của Tổng Công ty. 2. Phân tích tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty rau quả Việt Nam. Để tồn tại và phát triển, bất kỳ nhà máy một doanh nghiệp nào cũng phải có vốn. Tuy nhiên, có vốn nhưng vấn đề phải sử dụng sao cho có hiệu quả mới là nhân tố ưu quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vậy phân tích hiệu quả sử dụng vốn là việc làm cần thiết để thể hiện chất lượng công tác sử dụng vốn, đồng thời đánh giá hiệu quả của nó để từ đó có biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty. Trong doanh nghiệp có hai loại vốn đó là vốn lưu động và vốn cố định, do vậy để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty, chúng ta lần lợt xem xét tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng từng loại vốn. 2.1. Tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Vốn cố định của Tổng Công ty đã tăng lên qua các năm chứng tỏ giá trị của tài sản cố định cũng tăng. Trên lý thuyết cấu trúc tài sản bao gồm tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính và tài sản cố định vô hình, nhưng ở Tổng Công ty rau quả, việc thuê tài sản cố định theo hình thức thuê mua tài chính được áp dụng, do vậy việc nghiên cứu tình hình biến động của tài sản cố định chính là xem xét sự biến động cuả tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Tài sản cố định hữu hình trong tổng Công ty rau quả gồm 4 loại chính là : - Nhà cửa, vật kiến trúc. - Máy móc thiết bị. - Phương tiện vận tải. Thiết bị khác. Còn tài sản vô hình gồm có: - Quyền sử dụng đất. Chi phí thành lập. Sau đây là bảng tài sản cố định tham gia sản xuất kinh doanh qua các năm gần đây. Biểu 5: Tài sản cố định tham gia sản xuất kinh doanh qua các năm. Đơn vị: Triệu đồng Nhóm TSCĐ 1998 1999 2000 Nguyên giá % Nguyên giá % Nguyên giá % I. TSCĐ hữu hình 139.431 99,3 159.778 99,1 164.331 99,1 1. Nhà cửa, vật kiến trúc. 37.243 26,5 38.492 23,9 28.945 23,7 2. Máy móc thiết bị 72.314 51,5 7.138 45,5 80.143 48,3 3. Phương tiện vận tải 12.261 8,7 20.422 12,6 15.961 15,6 4. Thiết bị khác 17.613 12,6 27.726 17,2 19.282 11,6 II. TSCĐ vô hình 876 0,7 1.301 0,9 1.297 0,8 1. Quyền sử dụng đất 642 0,5 978 0,7 952 0,6 2. Chi phí thành lập. 234 0,2 323 0,2 345 0,2 Tổng cộng TSCĐ 140.307 100 161.079 100 165.628 100 Nguồn: báo cáo quyết toán năm 1998,1999,2000. Qua biểu trên ta thấy, tài sản cố định hữu hình chiến tỷ trọng rất lớn so với tài sản cố định vô hình. Trong nguyên giá tài sản cố định hữu hình, phần lớn là máy móc thiết bị, năm 1999 máy móc thiết bị tăng so với năm 1998 là 852 triệu đồng, tương ứng là 1,13%. Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7005 triệu đồng, tức là 9,5 %; nhưng tỷ trong so với tổng số tài sản cố định qua các năm lại giảm (51,5 – 45,4 – 48,3), chứng tỏ Tổng Công ty có đầu tư vào máy móc thiết bị nhưng không đáng kể so với tài sản cố định khác. Như vậy, phương tiện vận tải, nguyên giá qua các năm còn đều tăng. Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 8.161 triệu đông; năm 2000 tăng so với năm 1999 là 5.539 triệu đồng, tỷ trọng chiếm trong tổng số tài sản cũng tăng (8,7% - 12,6% - 15,6%). Như ta đã biết Tổng Công ty rau quả vừa sản xuất, vừa chế biến và kinh doanh nên phương tiện vận tải rất cần thiết. Tổng Công ty đã chú trọng đầu tư loại tài sản cố định này. Về thiết bị khác như thiết bị dụng cụ quản lý cũng tăng, năm 1999 tăng mạnh so với năm 1998 từ 17.613 triệu đồng lên đến 27.726 triệu đồng, nhưng đến năm 2000, vốn cố định đầu tư vào thiết bị quản lý giảm xuống từ 27.726 triệu đồngcòn 19.282 triệu động. Điều này cho thấy, Tổng Công ty đã có sự quan tâm để giảm bớt những tài sản không trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho đến mức tối thiểu có thể được. Về quyền sử dụng đất, năm 1999 năm 2000 tăng nhiều so với năm 1998 do Tổng Công ty chủ trương xây dựng các nhà máy phục vụ cho chiến lược kinh doanh như nhà máy nước dứa Hà Tĩnh, nhà máy chế biến đồ hộp Đồng Giao… do đó chi phí quyền sử dụng đất cũng tăng lên. Nói chung vốn cố định của Tổng công ty qua 3 năm qua đều tăng, chứng tỏ tổng Công ty đã mở rộng quy mô kinh doanh, đòi hỏi cơ sở vật chất kỹ thuật của Tổng Công ty cũng phải được nâng cao và hiện đại hoá. Tuy vậy số vốn cố định của Tổng Công ty tăng lên là do mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải phục vụ kinh doanh. Như ta đã biết, số vốn cố định là biểu hiện của tài sản cố định, để bảo toàn và phát triển vốn cố định, người ta phải tiến hành trích khấu hao tài sản cố định. * Khấu hao và phương pháp tính khấu hao. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuy tài sản cố định không chuyển trực tiếp vào giá trị của thành phẩm như tài sản lưu động nhưng tài sản cố định đó luôn luôn bị hao mòn được chuyển gián tiếp vào giá trị sản phẩm thông qua hình thức khấu hao. Tại Tổng Công ty trong thời gian qua, việc quản lý theo dõi và thu hồi vốn cố định đã được chú ý. Tổng công ty đã xác định mức khấu hao do tài sản cố định hàng năm và được thể hiện trong công tác kế hoạch thu hồi, bảo toàn và phát triển vốn cố định. Trong việc sử dụng phương pháp tính khấu hao, Tổng công ty đã áp dụng phương pháp tính khấu hao tuyến tính để quản lý giảm giá trị tài sản cố định. Tuy nhiên một số tài sản cố định có tỷ lệ về hao mòn vô hình cao, trang thiết bị, máy móc quản lý văn phòng cần thiết phải khấu hao nhanh nhằm tránh hao mòn vô hình, góp phần thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn cố định, thu hồi nhanh phần lớn lượng vốn đầu tư vào tài sản mới. Trong việc xác định mức khấu hao, Tổng Công ty đã có sự cân nhắc để đưa ra mức khấu hao phù hợp. Mức khấu hao trung bình một năm của tài sản phụ thuộc vào nguyên giá tài sản cố định và số năm sử dụng ước tính. Trong quyết định 1062/TCQĐ - CSTC ngày 14/11/1996. Bộ tài chính đã đưa ra các cách phân loại các nhóm tài sản cố định kèm theo quy định thời gian sử dụng tối đa và tối thiểu. Tài sản cố định của Tổng Công ty chủ yếu là tự mua sắm và được cấp phát; do vậy nguyên giá tài sản cố định cũng được tính dựa trên cơ sở giá mua và giá chi phí phát sinh đối với tài sản mua sắm và trên cơ sở xác định lại và chi phí mới phát sinh sau khi giao nhận đối với tài sản được cấp phát. Việc xác định chính xác các chi phí và giá trị của tài sản cũng là một trong những yếu tố giúp cho doanh nghiệp xác định mức khấu hao hợp lý. Để ước tính thời gian sử dụng tài sản cố định Tổng Công ty đã căn cứ vào đặc điểm của tài sản, tình hình thực tế của Tổng công ty và bảng quy định thời gian sử dụng của Bộ Tài chính. Các tài sản có mức hao mòn cao hơn được lựa chọn thời gian sử dụng tối thiểu và những tài sản có thời gian hao mòn ít hơn được ấn định số năm sử dụng cao hơn. Hơn nữa phụ thuộc vào nhu cầu đầu tư mới cao hay thấp mà thời gian thu hồi vốn cũng thay đổi. Việc tính khấu hao hợp lý là một trong những vấn đề quan trọng giúp doanh nghiệp đánh giá một cách chính xác hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời nó đảm bảo cho doanh nghiệp tái đầu tư tài sản cố định. * Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Vốn cố định chiếm tỷ trọng trong tổng vốn nhỏ hơn vốn lưu động nhưng hiệu quả sử dụng vốn cố định được nâng cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty nói chung. Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định được thực hiện thông qua một số chỉ tiêu như: hiệu suất hàm lượng và tỷ suất lợi nhuận vốn cố định. Các chỉ tiêu này được thể hiện thông qua bảng tính toán sau Biểu 06: Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu Thực hiện các năm Chênh lệch 1998 1999 2000 1999 so với1998 2000 so với1999 1.Doanh thu thuần 408.445 543.575 569.764 135.130 33,08 26.189 4.81 2. Lợi tức sau thuế 1.463 2.187 3.090 724 49,48 903 41,28 3. VCĐ đầu kỳ 125.678 132.553 174.908 6.875 5,47 42.355 31,95 4. VCĐ cuối kỳ 132.553 174.908 255.911 42.355 31,95 81.003 46,31 5.VCĐ bình quân (3)+(4)/(2) 129.115 153.730 215.409 24.615 19,06 61.679 40,12 6.Hiệu suất sử dụngVCĐ (1)/ (5) 3,16 3,53 2,64 0,37 11,70 -0,89 -25,2 7.Hàm lượng vốn cố định (5)/(1) 0,32 0,28 0,37 -0,04 -12,5 0,09 32,14 8.Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (2)/(5) 0,011 0,014 0,014 0,003 27,27 0 0 (Báo cáo quyết toán các năm 1998, 1999, 2000) Qua biểu phân tích cho thấy, vốn cố định năm 1999 tăng so với năm 1998 là 24,615 triêu đồng (19,06%), trong khi đó doanh thu và lợi tức sau thuế cũng tăng nhưng tăng với mức độ và tỷ lệ cao hơn nhiêù với vốn cố định, tương ứng là 135.130 triệu đồng (33,08%), 724 triệu đồng (49,48%), làm cho hiệu suất sử dụng vốn cố định tăng lên 0,37 (11,7%). Điều đó chứng tỏ năm 1999 Tổng công ty rau quả sử dụng vốn cố định có hiệu quả. Năm 2000 vốn cố định tăng so với năm 1999 là 61.679 triệu đồng (40,12%), doanh thu thuần và lợi tức sau thuế cũng tăng, nhưng doanh thu thuần tăng ít hơn và lợi nhuận sau thuế tăng chỉ tươngđương với vốn cố định tương ứng là 26.189 triệu đồng (4,81%), 903 triêu đồng (41,28%), do đó hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm 0,89 (-25,21%), còn tỷ suất lợi nhuận vốn cố định không tăng. Điều dó chứng tỏ năm 2000 vốn cố định dùng không hiệu quả bằng năm 1999. Hiệu quả sử dụng vốn cố định năm 2000 giảm so với năm 1999, do vốn cố định đầu tư lớn song doanh thu và lợi nhuận lại thu được ít, một trong những nguyên nhân làm cho doanh thu tăng ít đó là sản phẩm đồ hộp bị giảm nhiều, do sự tồn đọng sản phẩm dưa chuột năm 1999 dẫn đến khó khăn cho nghiệp vụ sản xuất dưa chuột năm 2000. Mặc dù năm 2000 các nhà máy không sản xuất dưa chuột nhưng hiện tại số lượng tồn kho còn nhiều, gây đọng vốn và ách tắc trong sản xuất. Rồi do chưa nắm bắt được nhanh nhu cầu thị trường trong nước và thế giới nên sản phẩm của ngành chế biến rau quả tiêu thụ kém mặc dù nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế là rất lớn. Ví dụ như Thái Lan là thị trường gần Việt Nam, hàng năm cung cấp thoả mãn cho thị trường trong nước và xuất khẩu hơn 400.000 tấn đồ hộp rau quả các loại, trong đó dứa hộp chiếm 60%. Để đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn cố định, ta đi vào phân tích từng chỉ tiêu. - Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra được 3,61 đồng doanh thu năm 1998 và 3,58 đồng doanh thu năm 1999. Như vậy, cũng một đồng vốn cố định nhưng doanh thu năm 1999 cao hơn năm 1998 nên việc sử dụng vốn cố định mang lại hiệu quả cao hơn năm 2000; 1 đồng vốn cố định tạo ra 2,64 đồng doanh thu, so với năm 1999 thì giảm 0,89 do đó vốn cố định sử dụng có hiệu quả thấp hơn năm 1999. Có hai nhân tố ảnh hưởng tới sự tăng giảm của chỉ tiêu hiệu suất vốn cố định năm 1999, 2000. - Mức độ ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hiệu suất vốn cố định. Ký hiệu: M: Doanh thu. DM: Mức độ ảnh hưởng của doanh thu đến hiệu suất vốn cố định. DVCĐ: Mức độ ảnh hưởng vốn cố định đến hiệu suất vốn cố định. M 99 M98 543.575 408445 DM1 = = - - = 1,06 VCĐ98 VCĐ98 129.115 129.115 M2000 M99 569.764 543.57 DM2 = - = - = 0,2 VCĐ99 VCĐ99 153.730 153730 - Mức độ ảnh hưởng của vốn cố định đến hiệu suất vốn cố định: M99 M99 543.575 543.575 DVCĐ1 = - = - = -0,7 VCD99 VCD98 153.730 129.115 M2000 M2000 569.764 569.764 DVCĐ2 = - = - = -1,1 VCĐ2000 VCĐ99 215.409 153.730 Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố trên: Năm 1999: D1 = DM1 + DVCĐ1 = 1,05 + (0,7) = 0,36 Năm 2000: D2 = DM2 + DVCĐ2 = 0,2 + (-1,1) = -0,9 Như vậy năm 1999 hiệu suất vốn cố định tăng do doanh thu tăng nhiều hơn vốn cố định nhưng năm 2000 hiệu suất vốn cố định giảm hơn so với năm 1999 là do vốn cố định đầu tư nhiều mà doanh thu lại tăng ít. - Hàm lượng vốn cố định : Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu thì năm 1998 cần 0,32 đồng vốn cố định, năm 1999 cần 0,28 đồng vốn cố định. Như vậy năm 1999 cứ một đồng doanh thu tiết kiệm được 0,04 đồng vốn cố định. Với doanh thu năm 1999 là 543.575 triệu đồng thì sẽ tiết kiệm được số vốn cố định so với năm 1998 là: 543.575 triệu đỗng x 0,04 = 21.743 triệu đồng. Còn năm 2000, 1 đồng doanh thu cần 0,37 đồng vốn cố định, so với năm 1999 thì 1 đồng doanh thu cần thêm 0,09 đồng vốn cố định. Vậy với mức doanh thu năm 2000 là 569.764 triệu đồng thì số vốn cố định không tiết kiệm được là : 569.764 triệu đồng x 0,09 = 51.278,7 triệu đồng. - Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định năm 1998 tạo ra 0,011 đồng lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng vốn cố định năm 1999 có tăng lên nhưng đến năm 2000, tỷ suất lợi nhuận không thay đổi mà tỷ lệ này khá thấp, một đồng vốn tạo ra rất ít đồng lợi nhuận. Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn cố định của Tổng công ty là tốt, nhưng Tổng công ty cần chú trọng hơn nữa trong việc sử dụng vốn để mang lại lợi nhuận cao hơn. 2.2 tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Tổng công ty rau quả Việt nam. Vốn lưu động của Tổng công ty rau quả Việt nam chiếm tỷ trọng lớn hơn vốn cố định và tỷ lệ này khá ổn định so với các năm. Tuy nhiên cùng với sự gia tăng về tổng vốn thì vốn lưu động cũng tăng dần lên theo từng năm. Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước để mua sắm, đầu tư tài sản lưu động. Để xem xét tình hình sử dụng vốn lưu động ta hãy phân tích sự biến động của tài sản lưu động theo các năm qua bảng tính toán sau: Biểu 07: Cơ cấu tài sản lưu động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Số tiền % Số tiền % Số tiền % I. Vốn dự trữ. 43.069 24,09 69.170 29,35 104.685 38,06 1. Nguyên vật liệu tồn kho. 7.792 4,06 7.980 3,38 11.671 4,24 2. Công cụ, dụng cụ trong kho. 1.156 0,65 1.923 0,81 4.269 1,55 3. CP sản xuất kinh doanh dd. 3.736 2,09 7.904 3,36 8.840 3,22 4. Thành phẩm tồn kho. 10.254 5,74 13.932 5,91 19.145 6,96 Hàng hoá tồn kho. 19.134 10,71 36.157 15,34 59.211 21,53 6. Hàng gửi bán. 997 0,54 1.274 0,55 1549 0,56 II. Vốn lưu động. 135.576 75,91 166.498 70,65 170.404 61,94 1. Vốn bằng tiền 34.671 19,4 40.879 17,34 28.030 10,19 2. Các khoản phải thu 37.207 48,81 112.490 47,73 112.917 41,04 3. TSLĐ khác. 13.698 7,7 13.129 5,58 29.457 10,71 Tổng cộng TSLĐ 178.645 100 235.668 100 275089 100 ( Báo cáo quyết toán năm 1998,1999, 2000) -Tình hình dự trữ: Tổng công ty rau quả là một doanh nghiệp nhà nước vừa sản xuất, chế biến, vừa kinh doanh. Do đó hàng tồn kho chủ yếu là nguyên vật liệu, thành phẩm và hàng hóa tồn kho, bên cạnh đó Tổng công ty cũng dự trữ công cụ, dụng cụ hàng gửi bán nhưng không đáng kể. Hàng tồn kho so với tổng tài sản chiếm tỷ trọng khá nhỏ chỉ từ 24,09% đến 38,04%, nhưng sự biến động của nó qua các năm lại lớn, năm 1999 tăng so với năm 19998 là 60,6%; năm 2000 tăng so với năm 1999 là 51,3% do loại hình hoạt động kinh doanh nên loại hàng này còn tuỳ thuộc vào thị trường, có lúc tiêu thụ được, có lúc nhu cầu thị trường lại giảm. Để đảm bảo quản lý tốt nguồn hàng dự trữ của Công ty, đòi hỏi người quản lý phải tính toán chính xác mức độ tiêu dùng, dự đoán xu hướng biến động thị trường để điều chỉnh lượng hàng dự trữ sao cho hợp lý nhất. Một trong những biện pháp để các nhà quản lý dự đoán được mức hàng hoá dự trữ là tính toán chỉ tiêu liên quan đến dự trữ. Trong đó có đủ chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh. Tài sản lưu động - Dự trữ Khả năng thanh toán nhanh = Nợ nhắn hạn Biểu08: Ta có bảng số liệu tính toán sau Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1.Dự trữ 43.069 69.170 104.685 2. Nợ ngắn hạn 125.505 167.661 201.146 3. Tài sản lưu động 178.645 235.668 275.089 4. Khả năng thanh toán nhanh:(3)- (1)/(2) 1,08 0,99 0,84 Do lượng hàng năm sau cao hơn năm trước làm cho khả năng thanh toán nhanh giảm dần, tỷ lệ này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ tồn kho. Do đó đối với các khoản nợ đến hạn phải trả thì tình hình tài chính của Tổng công ty sẽ gặp khó khăn và dễ bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Như vậy, việc xác định mức dự trữ tối ưu có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty. Trong thời gian tới muốn phát triển Tổng công ty phải xây dựng được kế hoạch dự trữ hợp lý, có như vậy tình hình tài chính của Tổng công ty mới được đảm bảo, tránh tình trạng ứ đọng vốn đồng thời hiệu quả sử dụng vốn cũng được nâng cao. - Vốn bằng tiền: Quản lý vốn bằng tiền là xác định lượng tiền tối ưu để vừa đảm bảo khả năng thanh toán vừa đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Vốn bằng tiền trước hết để thanh toán các khoản chi phí hàng ngày của doanh nghiệp và các khoản nợ đến hạn. Lượng tiền mặt trong két cũng như tiền gửi Ngân hàng phải đạt một mức nào đó để có khả năng thanh toán các khoản này. Để thấy được khả năng thanh toán chung ta phải xem xét tỷ suất thanh toán tức thời. Vốn bằng tiền Tỷ suất thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Biểu 09: Ta có bảng tính toán sau: Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1. Vốn bằng tiền 34.671 40.879 28.030 2. Nợ ngắn hạn 125.505 167.661 201.146 3.Tỷ suất thanh toán tức thời(1)/(2) 0,27 0,24 0,14 ( Báo cáo quyết toán các năm 1998, 1999, 2000.) Tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan còn nhỏ hơn 0,5 thì tình hình gặp khó khăn. Trong cả ba năm tỷ suất thanh toán tức thời của Tổng công ty rau quả rất thấp, chứng tỏ lượng vốn bằng tiền dự trữ trongTổng công ty ít. Việc không muốn lưu giữ quá nhiều tiền là điều dễ hiểu đối với các doanh nghiệp nhưng với mức dự trữ thấp như vậy dễ làm Tổng công ty gặp khó khăn khi thanh toán các khoản nợ gần hoặc cận ngày thanh toán. Tổng công ty cần chuyển một số tài sản không cần thiết sang vốn bằng tiền để có thể thanh toán tức thời, đồng thời gia hạn một số khoản nợ tới hạn thanh toán để không gây tình trạng căng thẳng trong thanh toán. Các khoản phải thu: Trong quá trình kinh doanh việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Nhanh chóng giải quyết vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là nhiệm vụ của những người làm công tác tài chính. Biểu 10: Ta có số liệu tính toán sau: Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1. Các khoản phải thu 87.207 112.490 112.917 2. Các khoản thu bình quân 80.814 99.848 112.703 3. Doanh thu 408.445 543.575 569.764 4. Doanh thu bình quân một ngày 1.134 1.510 1.585 5. Tỷ lệ nợ phải trả/nợ phải thu 1,59 1,94 3.01 6. Kỳ thu tiền bình quân (2)/(4) 71,2 66 71 Báo cáo quyết toán các năm 1998, 1999, 2000 Nhìn vào số liệu ở trên ta thấy các khoản phải thu của Tổng công ty tăng nhanh qua các năm, con số tăng nhanh này xuất phát từ hai nguyên nhân chính phải thu của khách hàng và khoản tiền ứng trước cho người bán tăng lên. các khoản phải thu của khách hàng tăng mạnh vào năm 1999, đây là kết quả của sự phát triển nhanh chóng của Tổng công ty: Tổng công ty tiêu thụ được một khối lượng hàng hoá. Trong thực tế khi doanh thu tăng sẽ dẫn đến tăng các khoản phải thu của khách hàng năm 1999 khá lớn so với doanh thu, trong khi doanh thu năm 1999 chỉ tăng so với năm 1998 là 33% thì các khoản phải thu của khách hàng tăng 87%, chứng tỏ Tổng công ty vấp phải vấn đề là việc chậm trễ trong việc thanh toán, do đó Tổng công ty cần phải chú ý để có chính sách tín dụng hợp lý hơn. Năm 2000, khoản phải thu tăng lên chủ yếu là do khoản ứng trước cho người bán tăng lên. Điều này thể hiện mối quan hệ của Tổng công ty với các nhà cung cấp chưa được chặt chẽ hoặc do hàng hoá khan hiếm. Hơn nữa các khoản ứng trước tương đối lớn có thể dẫn tới các khoản nợ quá hạn do người bán không đủ khả năng giao hàng đúng hạn. Do đó việc cân nhắc kỹ trước khi đặt tiền trước cho người bán và đảm bảo các điều khoản trong hợp đồng phải rõ ràng là yếu tố quan trọng để hạn chế số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán giữa người bán và Tổng công ty. Về tỷ lệ nợ phải trả/nợ phải thu, tỷ lệ này tăng lên qua các năm, chứng tỏ Tổng công ty chiến dụng vốn và đi vay là chủ yếu. Trên đây là cái nhìn tổng quát về các khoản phải thu của Tổng công ty để nắm được thông tin chi tiết về khả năng thu hồi trong thanh toán, ta cần xem xét đến chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ vốn càng bị chiếm dụng. Năm 1998, chỉ tiêu này là 71 ngày, có nghĩa là phải mất 71 ngày một đồng tiền bán hàng trước đó mới được thu hồi, đến năm 1999 chỉ tiêu giảm còn 66 ngày do tốc độ tăng của doanh thu tăng nhanh hơn tốc độ tăng của các khoản phải thu bình quân, nhưng đến năm 2000 con số này lại tăng lên và vấn đề đặt ra cho công tác quản lý các khoản phải thu của Tổng công ty là phải giám sát chặt chẽ các khả năng thanh toán, cũng như xách định rõ khả năng tín dụng của khách hàng. Tổng công ty phải đưa ra tiêu chuẩn tín dụng phù hợp với khả năng tín dụng của khách hàng cũng như phù hợp với thực tế của doanh nghiệp. Nhìn vào thực tế của Tổng công ty ta thấy công tác quản lý các khoản phải thu cần phải điều chỉnh nhiều hơn và chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo thời gian thu tiền bình quân ổn định. * Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Đối với mỗi doanh nghiệp, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh tốt cần phải sử dụng hợp lý và có hiệu quả cả vốn cố định và vốn lưu động. Bên cạnh vốn cố định thì vốn lưu động đóng vai trò rất quan trọng. Kinh doanh lãi hay lỗ phụ thuộc phần lớn vào khả năng sử dụng vốn đó. Vốn lưu động được sử dụng nhiều lần vào quá trình sản xuất nên số vòng quay vốn lưu động là chỉ tiêu quan trọng quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Biểu 11: Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1999 so 1998 2000 so 1999 Số tiền % Số tiền % 1. Doanh thu thuần 408.445 543.575 569.764 135.130 33,08 26189 4,81 2. lợi nhuận 1.463 2.187 3.090 724 49,48 903,48 41,25 3. VLĐ bình quân 166.204 207.834 256.181 41.630 25,04 48.347 23,26 4. Số vòng quay (1)/(3) 2,4 2,6 2,2 0,2 8,33 -0,4 -15,38 5. Số ngày chu chuyển 360/(4) 150 138,4 163,6 -11,6 -7,73 25,2 18,20 6. Hệ số đảm nhiệm VLĐ (3)/(1) 0,4 0,38 0,44 -0,02 -0,05 0,06 15,78 7. Mức doanh lợi VLĐ (2)/(3) 0,008 0,010 0,012 0,002 0,25 0,002 0,2 ( Báo cáo quyết toán các năm 1998, 1999, 2000.) Qua bảng chỉ tiêu trên ta thấy năm 1999 so vơí năm 1998 vốn lưu động bình quân tăng 41.630 triệu đồng (25,04%), nhưng doanh thu thuần tăng 135.130 triệu đồng (33,08%) và số vòng quay vốn lưu động cũng tăng 0,2 vòng (8,33%), hơn nữa lợi nhuận tăng lên 724 triêu đồng (49,48%); mức doanh lợi vốn lưu động tăng 0,002 (0,25%), trong khi đó số ngày chu chuyển giảm 11,6 ngày tương ứng giảm 7,73% và hệ số đảm nhiệm vốn lưu động giảm 0,02 tương ứng giảm 0,05% chứng tỏ năm 1999 vốn lưu động của Tổng công ty được sử dụng có hiệu quả hơn 1998. Năm 2000, vốn lưu động tăng so với năm 1999 là 48.347 triệu đồng (23,26%), doanh thu tăng 26.189 triệu đồng (4,81%); nhưng vòng quay vốn lưu động lại giảm 0,4 vòng (15,38%) số ngày chu chuyển tăng lên 25,2 vòng tương ứng tăng lên 18,2%; hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng 0,06 (15,78%). Như thế năm 2000, vốn lưu động sử dụng không hiêụ quả bằng năm 1998, 1999. Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Tổng công ty chưa tốt lắm. Ta hãy xét từng chỉ tiêu sau: - Vòng quay vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh năm 1998 vốn lưu động quay được 2,4 vòng; năm 1999 số vòng quay tăng lên 0,2 vòng tức 8,33%; năm 2000 so với năm 1999 giảm 0,4 vòng tương ứng giảm 15,3%. Điều đó thể hiện Tổng công ty sử dụng vốn lưu động năm 1999 có hiệu quả hơn năm 1998, 2000. Để rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo có thể sử dụng vốn lưu động tốt hưon chúng ta cần nghiên cứu ảnh hưởng của từng nhân tố tới vòng quay vốn lưu động theo phương pháp thay thế liên hoàn. Ký hiệu: M: Doanh thu thuần. DM: Mức độ ảnh hưởng của doanh thu đến vòng quay vốn lưu động DVLĐ: Mức độ ảnh hưởng vốn lưu động đến vòng quay vốn lưu động M Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân - Mức độ ảnh hưởng của doanh thu đến vòng quay vốn lưu động: M99 M98 543.575 408445 DM1= - = - = 0,8 VLĐ98 VLĐ98 166.204 166.204 M2000 M99 569.764 543.57 DM2 = - = - = 0,4 VLĐ99 VLĐ99 207.834 207.834 - Mức độ ảnh hưởng của vốn lưu động đến vòng quay vốn lưu động: M99 M99 543.575 543.575 DVLĐ1 = - = - = -0,6 VLĐ99 VLĐ98 207.834 207.834 M2000 M2000 569.764 569.764 DVLĐ2 = - = - = -0,5 VCĐ2000 VCĐ99 256.181 256.181 Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố trên: Năm 1999: D1 = DM1 + DVLĐ1 = 0,8 + (-0,6) = 0,2 Năm 2000: D2 = DM2 + DVlĐ2 = 0,1 + (-0,5) = -0,4 Trong năm 1999 vòng quay vốn lưu động tăng lên do doanh thu tăng làm số vòng quay tăng 0,8 vòng nhưng vốn lưu động cũng tăng làm số vòng quay giảm xuống 0,6 vòng. Năm 2000, vòng quay vốn lưu động giảm, vốn lưu động tăng với tốc độ lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu. Do đó để hoạt động kinh doanh tốt hơn, những năm tiếp theo, Tổng công ty cần có giải pháp để tăng doanh thu và giảm những tài sản lưu động không cần thiết. - Số ngày chu chuyển: Chỉ tiêu này phản ánh số ngày trực diện một vòng quay vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu khá quan trọng, vì qua đó ta có thể tính được vốn lưu động mà Tổng công ty tiết kiệm được hay lãng phí trong kỳ. 360 Thời gian 1 vòng luân chuyển (T) = Số quay vốn lưu động So với năm 1998, tốc độ luân chuyển vốn lưu động của Tổng công ty năm 1999 tăng nhanh nhưng tốc độ này lại giảm đáng kể vào năm 2000. Như vậy Tổng công ty đã tiết kiệm được một số vốn lưu động vào năm 1999 nhưng năm 2000 lại sử dụng khá lãng phí. Để biết được về con số tiết kiệm hay lãng phí này ta tính chỉ tiêu số vốn lưu động tiết kiệm hay lãng phí do thay đổi thời gian một vòng luân chuyển (V) Doanh thu thuần V = * (T1 – T0) 360 543.575 Năm1999 so với năm1998: V = * (138,4 - 150) = -17.515(triệu đ) 360 569.764 Năm2000 so với năm 1999:V = * (163,6 – 138,4)=39.883 (Triệu đ) 360 Từ số liệu này ta thấy năm 1999 Tổng công ty đã tiết kiệm được 17.515 triệu đồng, do ảnh hưởng của hai nhân tố là doanh thu và tốc độ luân chuyển mà chủ yếu là do tốc độ luân chuyển tăng. Ngược lại năm 2000 đã lãng phí 39.883 triệu đồng cũng do ảnh hưởng của hai nhân tố trên. Qua đó Tổng công ty phải có những giải pháp điều chỉnh tốc độ vốn lưu động giữa các năm không để có biến động quá lớn như hiện nay. - Mức doanh lợi vốn lưu động: Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lơị của đồng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng lớn khi chỉ tiêu đó càng cao, nó là một chỉ tiêu quan trọng vì mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghuệp nói chung đều hướng về lợi nhuận. Năm 1998, 1000 đồng vốn tạo được 8 đồng lợi nhuận, đến năm 1999 1000 đồng vốn tạo được 10 đồng lợi nhuận và năm 2000 tạo ra được 12 đồng lợi nhuận. Nhưng tỷ lệ tăng mức doanh lợi vốn lưu động năm 1999 so với năm 1998 là 0,25 % cao hơn năm 2000 so với năm 1999 là 0,2. Do đó, năm 1999 vốn lưu động sử dụng hiệu quả hơn năm 2000. Phần III. Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty rau quả Việt Nam. Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn về việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty Rau quả Việt Nam, ta phải phát huy và dựa vào những thuận lợi để đề ra giải pháp nhằm hạn chế khó khăn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty. Sau đây là những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 1. Đối với vốn cố định - Giải pháp 1: Tăng cường công tác quản lý, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định. Mặc dù đối với thành viên hạch toán độc lập, quyền hạn và trách nhiệm trong việc sử dụng tài sản cố định của mỗi thành viên là rõ ràng. Song bản thân Tổng công ty phải theo dõi kiểm tra bám sát tình hình sử dụng tài sản cố định. Đồng thời trong nội bộ các công ty thành viên cũng cần phân cấp quản lý tài sản cố định đối với từng bộ phận. Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người lao động có ý thức bảo quản. giữ gìn máy móc thiết bị và kỷ luật nghiêm khắc với những người gây thiệt hại tài sản cố định của Tổng công ty. Tổng công ty cũng cần chú ý dây chuyền sản xuất hợp lý phù hợp để có thể khai thác tối đa công suất máy, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận của các thành viên và của Tổng công ty. - Giải pháp 2: Tăng cường việc thu hồi vốn cố định. Trong nền kinh tế thị trường giá cả thường xuyên biến động hiện tượng hao mòn vô hình xảy ra rất dda dạng và nhanh chóng. Điều này làm cho nguyên giá tài sản cố định và giá trị còn lại không được chính xác, phản ánh sai lệch so với mặt bằng giá hiện tại của tài sản cố định. Việc thường xuyên đánh giá và đánh giá lại chính xác giá trị của tài sản cố định là cơ sở cho việc lựa chọn phương pháp mức khấu hao hợp lý nhằm thu hồi vốn hoặc kịp thời có biện pháp xử lý những tài sản cố định mất giá để chống lại sự thất thoát vốn. Việc xem xét đánh giá lại tài sản cố định nên tiến hành định kỳ sáu tháng hoặc một năm hay hơn tuỳ thuộc vào loại tài sản cố định, để từ đó người quản lý có thể phân tích việc đầu tư của Tổng công ty phù hợp với mức độ sử dụng hay không, đúng lúc chưa, và từ đó đề ra những biện pháp giải quyết thích hợp. Về phương pháp khấu hao phải lựa chọn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để đảm bảo thu hôì vốn nhanh, bảo toàn được vốn và đỡ gây ra những biến động lớn trong giá thành và giá bán sản phẩm.. - Giải pháp 3: Sử dụng hợp lý quỹ khấu hao cơ bản. Đây là nguồn tài trợ có ý nghĩa quan trọng đối với Tổng công ty, bởi quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao tài sản cố định và gián tiếp phản ánh tốc độ đổi mới của Tổng công ty. Như ta biết khi doanh nghiệp muốn nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường thì một yếu tố rất quan trọng có thể giúp doanh nghiệp thắng được các đối thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ. Do đó với tốc độ khấu hao chậm, các doanh nghiệp không thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ đổi mới bởi tài sản cũ chưa đưọc khấu hao hết, nguồn tích luỹ từ khấu hao không đủ mua sắm máy móc thiết bị mới. Tại Tổng công ty, khấu hao nhanh đối với các tài sản có giá trị công nghệ cao chưa được áp dụng thường xuyên vì còn gặp phải một số vấn đề nan giải là khấu hao nhanh sẽ kéo theo tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến cầu sản xuất giảm, giảm doanh thu. Nhưng áp dụng khấu hao nhanh vẫn là biện pháp giúp Tổng công ty có thể thực hiện mục tiêu đổi mơí công gnhệ bên cạnh giải pháp đầu tư mới. Phương pháp khấu hao này sẽ được tiến hành dần dần, bước đầu áp dụng đối với tài sản cố định có giá trị cao, hao mòn xảy ra nhanh như: máy móc, dây chuyền sản xuất, ô tô… Trong thời gian qua với giá trị nhỏ và được quy định sử dụng vào mục đích tái đầu tư nên khoản khaáu hao luỹ kế chưa được sử dụng có hiệu quả. Tổng công ty nên dùng khoản tiền vào hoạt động kinh doanh (trong trường hợp nó chưa được tái đầu tư vào tài sản cố định). Tuy nhiên công việc dùng khoản tiền này phải được cân nhắc kỹ lưỡng xem nó có giúp Tổng công ty tạo ra lợi nhận nào không và có cần phải thu hồi lại khi cần đầu tư vào tài sản cố định. Khoản tiền này so với vốn kinh doanh của Tổng công ty chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ nhưng nói cần được bảo toàn và phát triển để đảm bảo Tổng công ty có thể đầu tư được máy móc thiết bị. Hơn nữa vốn dùng cho hoạt động kinh doanh của Tổng công ty vẫn còn phải đi vay nhiều thì việc đưa khoản này vào kinh doanh là hợp lý. Nếu Tổng công ty có kế hoạch sử dụng khoản vốn này phù hợp thì hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty sẽ được cải thiện đáng kể. -Giải pháp 4: Tăng cường đầu tư vào tài sản cố định Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học kỹ thuật phát triển từng ngày, các dây chuyền hiện đại không ngừng ra đời, các phát minh sáng chế được đưa ra ngày càng nhiều. Do vậy bất cứ sự lạc hậu nào cũng không thể tồn tại được và sớm hay muộn cũng bị đào thải. Với những máy móc thiết bị đã trở lên lạc hậu là một nguyên nhân cơ bản đẫn đến tình trạng sản phẩm của Tổng công ty rất khó khăn trong việc tiêu thụ. Giải quyết khó khăn này và bảo đảm có thể cạnh tranh với các đối thủ khác đòi hỏi Tổng công ty phải tăng cường đổi mới máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất. Để đảm bảo đầu tư có hiệu quả Tổng công ty cần quan tâm đến một số vấn đề sau: -Những công nghệ mới thiết bị mới trước khi nhập, Tổng công ty phải biết rõ nguồn gốc của nó và mời một số chuyên gia kết hợp với đội ngũ kỹ sư có trình độ để đảm bảo máy móc mua sắm là đạt chất lượng, hiện đại và phù hợp với điều kiện phát triển của Tổng công ty. -Khi mua một giây chuyền sản xuất hiện đại phải có công nghệ kèm theo, thực tế là nhiều máy móc mua về không được sử dụng hiệu quả hoặc có thể không hoạt động được do không được chuyển giao hết các tính năng. -Trong quá trình sử dụnh phải thường xuyên bảo dưỡng, sửa chữa để máy móc có thể được sử dụng hết công suất. Bên cạnh đó, khi Tổng công ty chưa lập ra được phòng nghiên cứu để có thể thường xuyên đưa ra những sự cải tiến chất lượng hoặc tung ra thị trường những sản phẩm mới. Tổng công ty cần quan tâm dến vấn đề mua các bằng phát minh sáng chế, hiện nay có rất nhiều cuộc thi sáng tạo sản phẩm và có thể áp dụng vào thực tế, vậy tại sao lại không sử dụng ngay những tiếm năng đó? Hình thức thuê mua tài chính ngày một phát triển và cũng mang nhiều ưu điểm. Với những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực của mình, các công ty thuê mua tài chính sẽ đảm bảo các tài sản đạt tiêu chuẩn. Tổng công ty sẽ không phải mất thời gian trong việc thẩm định chất lượngvà vẫn có thể sử dụng khi chỉ đủ tiền để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Hơn nữa thực tế đã cho thấy rằng chi phí thuê tài sản cố định thue tài chính là có thể chấp nhận đưọc. Tóm lại việc đầu tư vào tài sản cố định hữu hình hay vô hình, đầu tư bằng việc mua sắm hay đi thuê thì việc tài sản cố định có tỉ trọng lớn hơn trong tổng tài sản so với hiện nay là việc lám cần thiết đối với một doanh nghiệp ngoài chức năng kinh doanh còn có chức năng sản xuất như Tổng công ty rau quả Việt Nam. -Giải pháp 5: Tăng cừơng việc tìm kiếm nguồn tài trợ cho tài sản cố định Tăng cường các nguồn tài trrợ góp phần giải quuyết hai vấn đề: một là góp phần tăng nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty, hai là góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cùng với việc tăng cường tìm kiếm nguồn tài trợ, Tổng công ty phải chú ý vấn đề đảm bảo khả năng thanh toán các chi phí cho các nguồn đầu tư vào tài sản cố định, tính toán trong việc mua bán máy móc thiết bị trên thị trường. Việc đầu tư cho tài sản cố định của Tổng công ty đều rất lớn, do vậy Tổng công ty phải khuyến khích các đơn vị thành viên tự huy động các nguồn vốn bên ngoài hoặc thông qua sự uỷ quyền của Tổng công ty để tìm nguồn tài trợ mới. 2.Đối với vốn lưu động Với Tổng công ty Rau quả Việt nam, vốn lưu động chiếm một tỉ trọng tương đối lớn, để qua trình hoạt động sản xuất được liên tục, có hiệu quả thì nhu cầu vốn lưu động phải được đảm bảo tối thiểu cần thiết. Sau đây là một số giải pháp về nâng cao ghiệu quả sử dụn vốn lưu động. -Giải pháp 1: Rút ngắn thời gian ở mỗi khâu vốn đi qua. Vốn lưu động tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh phải trải qua các khâu dự trữ, sản xuất và lưu thông. Trong khâu dự trữ, nguyên vật liệu đầu vào thì cần phải tính toán lượng dự trữ tối ưu sao cho quá trình hoạt động của Tổng công ty không bị gián đoạn, đồng thời không bị lãng phí liên quan đến chi phí vận tải, chi phí bảo quản, kho bãi, số lượng và giá cả vật tư hành hoá ở mỗi thời điểm. Vì vậy việc xác định dự trữ tối ưu phải xuất phát từ tình hình kĩ thuật, sản phẩm, khách hàng và thị trường. Để giải được bài toán kinh tế này, Tổng công ty phải thật nhạy bến năng động để hợp đồng mua vật tư tại đúng các thời điểm. Trong khâu sản suất tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liêụ. Còn về khâu lưu thông cần phải tìm ra phương cách rút ngắn thời gian lưu kho của các sản phẩm sản xuất. Biện pháp rút ngắn thời gian ở mỗi khâu vốn đi qua là biên pháp quan trọng tăng nhanh vòng quay cuả vốn, để số vốn đó tham gia nhiều vào sản xuất. -Giải pháp 2: giải pháp về các khoản dự trữ. Vốn dự trữ của Tổng công ty Rau quả Việt nam tăng dần lên qua các năm, năm 1999 so với năm1998 tăng 60,6%; năm 2000 so với 1999 là 51,3%. Tổng công ty cần có biện pháp giảm bớt hàng tồn kho để tăng vòng quay của vốn lưu động. Các giải pháp đó là: -Giải phóng hàng tồn kho. Với lượng tồn kho do hàng kém phẩm chất, nhu cầu giảm, chủ yếu nằm tại kho thuộc phòng vật tư đã gây khó khăn cho phòng vật tư trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình. Do lượng vốn ứ đọng lại vừa phải trả lãi vay ngân hàng dẫn đến hoạt động kinh doanh thua lỗ và một phần lợi nhuận ở các phòng khác phải dùng để bù đắp cho phần lỗ này. Đứng trước thực trạng đó Tổng công ty cần phải cố gắng khắc phục hạn chế đến mức thấp nhất các loại vật tư hàng hoá ứ đọng kém phẩm chất bằng cách hạ giá bán, chấp nhận thua lỗ để thu hồi một phần vốn đã bỏ ra và có thể sử dụng một phần hàng hoá này để làm đồ khuyến mại kèm theo khi bán các sản phẩm hang hoá khác, để giải phóng kho lấy chỗ dự trữ hàng hoá mới. -Kế hoạch lượng hàng hoá dự trữ tối thiểu. Như chúng ta biết việc duy trì một lượng hàng hoá tồn kho quá lớn là nguyên ngân làm giả tốc độ vòng quay của vốn và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Muốn tăng nhanh tốc dộ chu chuyển vốn lưu động thì cần phải xác định và duy trì lượng hành hoá cần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12552.DOC
Tài liệu liên quan