Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng: Mục lục Trang Lời mở đầu 3 Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp 5 I. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 5 1. Khái niệm doanh nghiệp 5 2. Khái niệm tài chính 5 3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 7 II. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 12 1. Khái niệm 12 2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp 12 3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 16 4. Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp 18 5. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 19 6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 21 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính 36 Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 I. Giới thiệu chung về Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty 38 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty VTKTXM 40 3. Đặc điểm hoạt động kinh do...

doc88 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 931 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời mở đầu 3 Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp 5 I. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 5 1. Khái niệm doanh nghiệp 5 2. Khái niệm tài chính 5 3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 7 II. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 12 1. Khái niệm 12 2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp 12 3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 16 4. Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp 18 5. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 19 6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 21 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính 36 Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 I. Giới thiệu chung về Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty 38 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty VTKTXM 40 3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 43 4. Kết quả hoạt động kinh doanh những năm qua 46 II. Thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính tại Công ty 50 III. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM 52 1. Tổ chức phân tích tài chính 52 2. Thông tin và công nghệ phân tích 52 3. Phương pháp phân tích 57 4. Nội dung phân tích 58 5. Dự báo và lập kế hoạch tài chính 66 6. Đánh giá chung về công tác phân tích tài chính tại công ty VTKTXM 67 Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM 69 I. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty 69 1. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt một quy trình phân tích tài chính tại công ty 69 2. Nâng cao chất lượng nhân sự cho công tác phân tích tài chính 72 3. Sử dụng đầy đủ, chính xác thông tin 74 4. Sử dụng đúng, và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu, sơ đồ phân tích kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp phân tích 76 II. Kiến nghị 79 1. Kiến nghị với công ty 79 2. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên 81 3. Kiến nghị với nhà nước 82 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 86 Lời mở đầu Trong giai đoạn kinh tế hiện nay và thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh về vốn, nhân sự, công nghệ mới mong tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi họ phải nghiên cứu, đánh giá và phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói riêng thông qua một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với quy chế quản lý tài chính hiện hành. Phân tích tài chính được thực hiện sẽ cung cấp thông tin một cách toàn diện, kịp thời về tình hình tài chính của doanh nghiệp: tình hình huy động vốn và sử dụng vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời…cho các nhà quản lý doanh nghiệp, giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá, kiểm soát đều đặn hiệu quả hoạt động kinh doanh quá khứ đồng thời dự báo các chỉ tiêu, rủi ro tài chính trong tương lai và ra các quyết định quản lý. Đối với các nhà đầu tư, nhà cho vay và các đối tượng quan tâm khác, phân tích tài chính cũng quan trọng trong việc họ thực hiện các quyết định của mình. Một thực tế hiện nay ở Việt Nam đó là trong khi phân tích tài chính, một trong những hoạt động chủ yếu của quản lý tài chính doanh nghiệp đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết thì nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đổi mới tư duy, chưa coi trọng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, do đó hiệu quả công tác này chưa cao. Thực tế đó cần được khắc phục. Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng cũng không phải là ngoại lệ. Phân tích tài chính ở Công ty mới chỉ mang tính chất báo cáo tổng kết, đánh giá sau 6 tháng đầu năm, cả năm và 5 năm nên đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng các quyết định tài chính và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty. Qua thời gian học tập ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thực tập tại công ty Vật tư kỹ thuật xi măng tôi nhận thấy phân tích tài chính có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý tài chính doanh nghiệp. Với Công ty, nó có ý nghĩa trong việc quyết định huy động vốn, bán hàng (đặc biệt là chính sách mua bán chịu), đầu tư… Vì thế, dù đề tài hoàn thiện công tác phân tích tài chính không mới mẻ nhưng tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn công tác này được công ty tiến hành thường xuyên liên tục và ngày một hiệu quả hơn để góp phần nâng cao hiệu quả các công tác khác của công ty. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây là phần tìm hiểu chung về doanh nghiệp, phân tích, phân tích tài chính và tầm quan trọng của phân tích tài chính. Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Nội dung của chương nhằm giới thiệu về công ty, xem xét thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính, nghiên cứu thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế để có cơ sở khắc phục. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Đây là phần kết của luận văn, trong đó nêu lên các giải pháp và các kiến nghị nhằm nâng cao công tác phân tích tài chính tại công ty. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp bậc cử nhân, phần giải pháp ở đây chỉ được đề cập ở mức độ khái quát, định tính. Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp I. Khái niệm Tài chính doanh nghiệp. 1. Khái niệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (khoản 1 Điều 3 Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000). Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH (trong đó có công ty TNHH 1 thành viên), công ty hợp danh, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh),… Người ta cũng có thể phân chia: doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con, tập đoàn kinh doanh hoặc công ty mẹ và công ty con, tổng công ty và công ty thành viên hạch toán độc lập, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc. Hoặc có thể chia theo cách khác: doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp tư nhân (từ “tư nhân” ở đây khác với “tư nhân” nói trên, “tư nhân’ ở đây nghĩa là “không phải nhà nước”, còn “doanh nghiệp tư nhân” nói trên là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp ). Tuỳ theo từng nước mà khái niệm từng loại doanh nghiệp có sự khác nhau. 2. Khái niệm về Tài chính. 2.1. Nguồn gốc tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử. Sự ra đời và tồn tại của tài chính gắn liền với tiền tệ và vai trò của nhà nước. Sản xuất và sự trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Hình thức tiền tệ cũng thay đổi qua các thời kì: vỏ sò, hạt coca, xương, da, lông thú, kim loại, bạc, vàng, tiền giấy…Tài chính manh nha xuất hiện từ các quan hệ cho vay nặng lãi. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hoá vì nhà nước cần chi tiêu duy trì bộ máy và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước nắm quyền phát hành tiền, quy định hiệu lực của tiền tệ trong lưu thông ở phạm vi quốc gia, tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia phân phối của cải với tư cách chủ thể của quyền lực chính trị. Tiền tệ trở thành đối tượng chủ yếu trong quan hệ phân phối và giao dịch dân sự. Đồng thời với việc sử dụng rộng rãi tiền tệ trong quan hệ phân phối của cải cũng như trong các giao dịch dân sự thì các quỹ tiền tệ cũng được hình thành. Các quỹ tiền tệ là nội dung vật chất của tài chính. Vậy là tài chính gắn liền với tiền tệ nhưng không đồng nhất với tiền tệ, nội dung vật chất của tài chính là các quỹ tiền tệ mà không phải tiền tệ với tư cách đơn lẻ, tiền tệ với tư cách là các bộ phận hợp thành các quỹ tiền tệ gắn với các quan hệ phận phối của cải mới được coi là nội dung vật chất của tài chính (tài chính không đồng nhất là các quỹ tiền tệ). Khác với tiền tệ có các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ quốc tế, tài chính gồm có chức năng phân phối và chức năng giám đốc. 2.2. Chức năng tài chính 2.2.1 Chức năng phân phối Đây là phương diện, mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Chức năng phân phối thể hiện bản chất của tài chính trong đời sống KT-XH. Nhờ có chức năng này của tài chính mà của cải của xã hội được phân phối dưới hình thức giá trị. Khi tài chính thực hiện chức năng phân phối, của cải xã hội dưới hình thức giá trị là đối tượng phân phối. Dưới tác động của các quan hệ phân phối, các đại lượng tiền tệ vận động trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Sự vận động của tiền tệ hoàn toàn không phải là sự vận động cơ học mà là sự vận động mang tính xã hội. Sự vận động của tiền tệ tạo ra bởi các quan hệ phân phối giữa các chủ thể thông qua việc chuyển giao các đại lượng tiền tệ thể hiện về mặt vật chất của các nguồn tài chính (tài lực). Có thể nói, sự tồn tại của chức năng phân phối của tài chính là hoàn toàn khách quan, chức năng này tồn tại như là khả năng tiềm ẩn của tài chính còn việc sử dụng nó mang tính chất chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị. 2.2.2. Chức năng giám đốc Đây là mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong quá trình kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ. Cũng như chức năng phân phối, chức năng giám đốc của tài chính cũng mang tính khách quan, nhờ vào khả năng này mà các chủ thể tham gia quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị thực hiện sự kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính. Quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ. Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khắc phục. Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt mọi hoạt động tài chính. Tóm lại, dựa vào bản chất của tài chính cho phép định nghĩa tài chính như sau: Tài chính là các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối. 2.3. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường (sơ đồ): Ngân sách nhànước Tài chính doanh nghiệp Các chính sách tài chính T/c tài chính trung gian Tài chính hộ gia đình Tài chính đối ngoại 3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp. 3.1. Khái niệm: Tài chính doanh nghiệp được thể hiện bằng các quan hệ tài chính phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có và không có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối. Tài chính doanh nghiệp - thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính doanh nghiệp và tiền của doanh nghiệp là hai phạm trù kinh tế khác nhau. Tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền. Toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau: + Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, chuyển hoá các nguồn tài chính hướng tới việc hình thành các quỹ và ngược lại, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức. Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính... nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước. Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình. ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông. - Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức tài chính trung gian. Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế. - Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau và với hộ gia đình. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình cung ứng, thanh toán các sản phẩm và dịch vụ đầu vào và đầu ra, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại. Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận. - Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất. Tóm lại ta có thể rút ra kết luận về tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Hoặc tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. 3.2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp. 3.2.1. Chức năng huy động và bố trí nguồn vốn. Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy động được vốn ? Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau: - Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn đầu tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và ngành nghề. Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động nếu thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh. - Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm: + Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp + Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế + Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có) - Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh . - Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các loại vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng. Qua đó ta hình dung ra được, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn đầu tư tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nước số vốn này do ngân sách nhà nước cấp có thể là 100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần, Công ty TNHH thì số vốn đầu tư ban đầu được hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc hùn vốn của các cổ đông dưới hình thức cổ phần. Mức vay vốn được quy định theo từng doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp còn có vốn nợ mà không do đi vay, đó là các khoản phải trả người bán nhưng chưa đến kì hạn trả hoặc được gia hạn trả, các khoản phải nộp ngân sách, phải trả công nhân viên, phải trả phải nộp khác… Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục đầu tư trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn bên trong doanh nghiệp như vốn tự tài trợ. Nếu như nguồn tự tài trợ mà nhu cầu đầu tư dài hạn vẫn không đáp ứng được thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài như các hình thức đã nêu ở trên. Với chức năng bố trí vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn phải tiến hành bố trí vốn sao cho với số vốn pháp định, vốn tự có và các nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trong từng thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu về vốn là bao nhiêu và kết cấu như thế nào là hợp lý. 3.2.2 Chức năng phân phối. Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau: Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm: + Trị giá vốn hàng hoá. + Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu. + Khấu hao máy móc. - Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh, trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp. 3.2.3 Chức năng giám đốc. Nội dung giám đốc tài chính doanh nghiệp là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp , giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính. Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. II. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp. 1. Khái niệm. Trước hết ta tìm hiểu xem phân tích như thế nào ? Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên được hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó như phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh vật bằng kính hiển vi. Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Phân tích tài chính cũng thuộc về lĩnh vực kinh tế xã hội. Vậy thế nào là phân tích tài chính của doanh nghiệp ? Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. 2.Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu- biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp...Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Phân tích tài chính cho biết điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp để cho các bên quan tâm đưa ra các quyết định phù hợp, đúng đắn. 2.1 Đối với người quản lý doanh nghiệp Để tiến hành sản xuất, kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải giải quyết được ba vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất: Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất, kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Thứ hai: nguồn vốn tài trợ là nguồn nào? Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có các nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ của doanh nghiệp được phản ánh bên phải của Bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời gian hoàn trả dưới một năm, còn nợ dài hạn có thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp.Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất? Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư cho tài sản đó hay đi vay, đi thuê, tận dụng các khoản phải trả? Điều này liên quan đến vấn để cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp. Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn liên quan đến dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần quan tâm đến sự lệch pha giữa các dòng tiền. Ba vấn đề trên không phải là tất cả các khía cạnh của tài chính doanh nghiệp, nhưng đó là các vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính là cơ sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó. Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi ích của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của các nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối ưu trên thị trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết định của nhà quản lý đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Công việc này được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Do có đầy đủ các thông tin và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là những người có lợi thế để phân tích tài chính một cách tốt nhất. Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi, nhà quản lý tài chính có thể dự đoán được kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó họ có thể định hướng cho Giám đốc, Giám đốc tài chính cũng như Hội đồng quản trị (tuỳ từng loại hình doanh nghiệp ) trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý. 2.2 Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp Các cổ đông là những người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan đến việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Đối với các cổ đông, sự quan tâm hàng đầu là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu. Do đó, họ quan tâm trước hết đến lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hằng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lời và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó có quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó, lượng tiền mà dự án mang lại lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là một vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của các cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hằng năm và phần tăng giá trị của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa, các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng lợi nhuận ròng trong kì có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính. 2.3 Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực hiện nhằm đánh giá khả năng sinh lời và tăng trưởng của doanh nghiệp thì phân tích tài chính lại được ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo về khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem xét trên 2 khía cạnh ngắn hạn và dài hạn. nếu những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ ngắn hạn khi đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc về khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn vốn và trả lãi sẽ phụ thuộc vào khả năng sinh lời này. 2.4 Đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ doanh nghiệp, người hưởng lương cũng rất quan tâm đến những thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác dụng trực tiếp đến tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một số cổ phần nhất định. Như vậy, họ vừa lao động vừa là người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. 2.5 Đối với các cơ quan quản lý của Nhà nước Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không. 3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố: - Các yếu tố bên ngoài: sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế… - Các yếu tố bên trong: cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng, năng suất lao động… Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả trong tương lai của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích không chỉ giới hạn trong những báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực: - Các thông tin chung về kinh tế - Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp - Các thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Đó là các báo cáo tài chính doanh nghiệp 3.1 Các thông tin chung Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái kinh tế hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thụ trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, khi các tác động diễn ra theo chiều hướng bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để có được một đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét tới cả các thông tin kinh tế bên ngoài của doanh nghiệp có liên quan. 3.2 Các thông tin theo ngành kinh tế Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành là việc đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh. Đặc điểm ngành kinh doanh liên quan đến: - Tính chất của sản phẩm - Quy trình kỹ thuật áp dụng - Cơ cấu sản xuất: công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, những cơ cấu sản xuất này có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, vòng quay vố dự trữ, phương tiện tài trợ… - Nhịp độ phát triển của các chu kì kinh tế Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để ngươì phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp. 3.3 Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, thông tin số lượng đến những thông tin giá trị đều giúp cho những nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính - được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán. Các báo cáo tài chính gồm có: Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó được lập dựa trên những thứ mà doanh nghiệp có (tài sản) và những thứ mà doanh nghiệp nợ và sở hữu theo nguyên tắc cân đối (tài sản bằng nguồn vốn). Đây là báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp. Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp :đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo : đó là vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của nguồn vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ; nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh đồng thời cũng giúp cho các nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó ta có thể xác định được kết quả sản xuất, kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kì doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho những người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu Bảng cân đối kế toán cho biết các nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn hình thành các tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kì kinh doanh thì Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng tiền vào ra và các khoản được coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp những thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong các báo cáo tài chính trên, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày. 4. Trình tự phân tích tài chính Trình tự phân tích tài chính theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo các sơ đồ sau: Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin - Thông tin kế toán nội bộ - Thông tin khác từ bên ngoài Áp dụng các công cụ phân tích - Xử lý thông tin kế toán -Tính toán các chỉ số - Tập hợp các bảng biểu Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số - Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn - Điểm mạnh và điểm yếu - Cân bằng tài chính - Năng lực hoạt động tài chính - Cơ cấu vốn và chi phí vốn - Cơ cấu đầu tư và doanh lợi Phân tích thuyết minh Tổng hợp quan sát - Nguyên nhân khó khăn - Phương tiện thành công và điều kiện bất lợi Tiên lượng và chỉ dẫn Xác định - Hướng phát triển - Giải pháp tài chính và giải pháp khác 5. Phuơng pháp phân tích tài chính Phương pháp phân tích tài chính bao gồm 1 hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, từ đó đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Trước hết phương pháp luận chung cho các khoa học là phương pháp duy vật biện chứng, phân tích và tổng hợp…Ngoài ra, phân tích tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các phương pháp riêng: phương pháp phân tích so sánh, tỷ lệ và phương pháp phân tích tài chính Dupont. Để phân tích tốt hơn, các phương pháp kinh tế lượng, độ co giãn cũng cần sử dụng trong phân tích tài chính. 5.1 Phương pháp phân tích so sánh Phương pháp so sánh được áp dụng rộng rãi để so sánh số hiện thực kì này với số hiện thực kì trước để thấy rõ xu hướng thay đổi để đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi của doanh nghiệp, nó còn dùng để so sánh số hiện thực và số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ thực hiện được phương pháp này khi các chỉ tiêu thống nhất về không gian, nội dung, tính chất. Các tỷ lệ sẽ có ý nghĩa hơn nếu biết được con số tăng, giảm tuyệt đối. 5.2 Phương pháp phân tích tỷ lệ Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi các lý do sau: - Thứ nhất: nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải thiện và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ cả một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp. - Thứ hai: việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ. - Thứ ba: phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích tài chính khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục và theo từng giai đoạn. Phương pháp phân tích tỷ lệ dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ tài chính chính là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. 5.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont Ngoài phương pháp phân tích tỷ lệ, các nhà phân tích tài chính còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont nhằm đánh giá các tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng phương pháp này để phân tích các tỷ lệ tài chính. Vì vậy nó được gọi là phương pháp Dupont. Ngày nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia. Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa doanh lợi tiêu thụ sản phẩm với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và kí hiệu là R1 Công thức Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần R1 = ´ Doanh thu thuần Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế = Tổng tài sản Tỷ số R1 cho thấy tỷ suất sinh lời của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố: -Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu. - Một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Phân tích R1 cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó nhà doanh nghiệp đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí. Tiếp theo, chúng ta xem xét tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (R) của doanh nghiệp được tạo thành bởi mối quan hệ giữa tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu (R2) và R1. R = R1*R2 Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Tổng tài sản R = ´ ´ Doanh thu thuần Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế = Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ tổng tài sản/vốn chủ sở hữu có thể biến đổi thành: Tổng tài sản Tổng tài sản 1 = = Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản - Nợ phải trả Nợ phải trả 1- Tổng tài sản Tổng tài sản 1 = vốn chủ sở hữu 1- Rd Trong đó Rd là tỷ lệ Nợ phải trả/Tổng tài sản. Công thức trên cho thấy khi Rd tăng lên thì R sẽ tăng. Do vậy, khi tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch trương lợi nhuận: nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kì thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp thua lỗ thì hậu quả càng nặng nề. 6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Tuỳ theo mục đích mà nội dung phân tích có sự khác nhau nhưng thường là: - Phân tích các tỷ lệ tài chính - Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn - Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh - Phân tích dòng ngân quỹ của doanh nghiệp 6.1 Phân tích các tỷ lệ tài chính Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động và nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng vấn đề liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là tìm hiểu mối liên hệ giữa các tỷ lệ từ đó đưa ra các kết luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ riêng rẽ không nói lên điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp và so với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp trong cùng ngành hoạt động và cùng loại hình doanh nghiệp (sản xuất, thương mại, …) Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không? Liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các khoản nợ đến hạn không? Để trả lời câu hỏi này họ cần phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 6.1.1 Các tỷ lệ về khả năng thanh toán Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình, các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn phải dựa vào các nguồn tài trợ khác như nợ vay và nợ không do vay. Việc vay nợ được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi đến kết luận doanh nghiệp có nên vay, nợ, cho vay, cho nợ hay không, họ đều quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kì với các khoản phải thanh toán trong kì. việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được những rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế từ đó có biện pháp trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý để nâng cao khả năng thanh toán. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán bao gồm : + Khả năng thanh toán chung: Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác…...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định – tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, cho cho biết mức độ các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó. Tài sản lưu động Khả năng thanh toán chung = Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tót và ngưọc lại. Nếu khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên nếu con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trọi đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả, Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý. Khả năng thanh toán nhanh Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ứng được chính xác việc doanh nghiệp có thể nhanh chóng đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy chúng ta cần phải xét đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán nhanh được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Dữ trữ ( tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho). Tài sản lưu động – Dự trữ Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Nói chung, tỷ lệ này lớn hơn 1 là có thể chấp nhận được vì nó cho thấy nếu doanh nghiệp bán đi các tài sản tương đương tiền và thu hồi được các khoản phải thu thì nó có thể thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn mà không phải bán đi dự trữ. Khả năng thanh toán tức thời Đây là tỷ lệ thể hiện chính xác nhất khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì nó loại bỏ tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như khả năng chuyển đổi thành tiền chậm của dự trữ. Nó được tính bằng cách lấy tổng của tiền và chứng khoán dễ bán chia cho nợ ngắn hạn. Tiền và chứng khoán dễ bán Khả năng thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Nhìn vào tỷ lệ này người ta có thể biết được toàn bộ số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo ngay lập tức là bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp khan hiếm tiền mặt thường có tỷ lệ trên thấp. Đối với các doanh nghiệp mà công tác quản lý dự trữ, tiêu thụ và các khoản phải thu chưa tốt dẫn đến tốc độ quay vòng vốn chậm. Tuy nhiên, tỷ lệ này quá cao cũng là điều khong mong muốn vì tiền dự trữ quá dư thừa để thanh toán không sinh lãi. 6.1.2 Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thấy mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các khoản nợ. Nếu chủ sở hữu của doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong sản xuất, kinh doanh chủ yếu do chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ sở hữu vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kì vọng thấp hơn khi nền kinh tế tăng trưởng. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận kì vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư ghét rủi ro. Vì thế, quyết định về sử dụng nợ phải cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro. Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất, kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong khai thác nguồn vốn. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản Nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ đã góp vốn vào doanh nghiệp. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ doanh nghiệp ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp, người ta tính mức độ đòn bầy tài chính (Degree of Financial Leverage – DFL) của doanh nghiệp. Mức độ ảnh hưởng của DFL cũng được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả. Q(P – V) – F DFL = Q(P – V) – F - I Trong đó: Q là sản lượng P: giá bán đơn vị sản phẩm V: chi phí biến đổi dơn vị sản phẩm F: chi phí cố định I: lãi vay Từ công thức trên, ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở hữu. Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi Tỷ lệ này được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho lãi tiền vay Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi tiền vay Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hằng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được tình hình thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi vay thấp so với mức trung bình của ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc gia tăng nợ. Khả năng độc lập về tài chính Vốn chủ sở hữu Khả năng độc lập về tài chính = Vốn trung và dài hạn Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn, tài sản của doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí nợ vay và việc tăng vốn cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh nghiệp. Tỷ lệ về cơ cấu tài sản Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ vốn hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý không, có phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kì có ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động Tỷ lệ về cơ cấu tài sản = Tổng tài sản Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào từng ngành kinh tế cụ thể. 6.1.3 Các tỷ lệ về khả năng hoạt động Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định và tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn quan tâm đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Vòng quay tiền Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc lưu giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư, hàng hoá giá rẻ, doanh nghiệp có thể dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, trong điều kiện thiếu vốn phổ biến ở các doanh nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác. Thứ hai, do tiền có giá trị theo thời gian và do có lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy, ta cần quan tâm đến tốc độ quay vòng tiền sao cho đem lại khả năng sinh lời cao nhất cho doanh nghiệp. Doanh thu thuần Vòng quay tiền = Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán Vòng quay dự trữ Dự trữ và tồn kho thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt, ta cần phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt khác phải tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này được giải phóng khi sản phẩm được tiêu thụ. Vòng quay Dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức sau: Doanh thu thuần Vòng quay dự trữ = Dự trữ Chỉ tiêu Vòng quay dự trữ phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số nay càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số vòng quay hàng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. tuy nhiên, khi phân tích tài chính cũng phải chú ý đến các nhân tố khác ảnh hưởng đến vòng quay hàng tồn kho như việc áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp… Biến động của chỉ tiêu vòng quay dự trữ cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm vòng quay vốn dự trữ có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng giảm vòng quay dự trữ cũng có thể là kết quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể sẽ có sự gián đoạn trong việc cung cấp nguyên vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay dự trữ có thể là do những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp thì cũng là cho hệ số vòng quay hàng tồn kho tăng nhưng điều này đôi khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu. Kỳ thu tiền bình quân Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm được hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Hơn nữa, nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá cho khách hàng mua chịu. Song việc bán chịu cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phải đối mặt với không ít rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá lâu được thực hiện dẫn đến giảm tốc độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiện vụ của người quản lý doanh nghiệp là phải quan tâm đến kì thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thơì gian này. Các khoản phải thu Kì thu tiền bình quân = ´ 360 Doanh thu thuần Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ là phụ thuộc vào nhiều yếu tố : + Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán chịu: một số doanh nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn thanh toán hơn các đối thủ cạnh tranh để mở rộng thị trường. + Tình trạng của nền kinh tế: khi tình hình thuận lợi, các doanh nghiệp có khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng thời gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải thay đổi chính sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể do khách hàng gặp khó khăn trong chi trả nhất là vào thời kì kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây chuyền cho doanh nghiệp bán chịu. + Chính sách tín dụng và chi phí bán chịu: khi lãi suất tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về chi phí tài chính. Ngoài ra, độ lớn của khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả trước của doanh nghiệp. Vòng quay vốn lưu động Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kì. tài sản cố định ở đây được xác định là giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo tức là bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Giá trị còn lại của tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thế hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kì báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng vận dụng vốn triệt để vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tổng tài sản 6.1.4 Các tỷ lệ về khả năng sinh lời Bất kể một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất, kinh doanh cũng đều tính đến hiệu quả kinh tế. Họ đều có mục đích chung là làm thế nào mang lại hiệu quả cao nhất và khả năng sinh lời nhiều nhất. Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Doanh thu thuần Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này có thể tăng giảm giữa các kỳ tuỳ theo sự thay đổi của doanh thu thuần và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó các chi phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó doanh nghiệp cần xác đinh rõ nguyên nhân của tình hình để có giải pháp khắc phục. Doanh lợi vốn chủ sở hữu Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Để có thể nâng cao tỷ lệ này ta phải xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Tổng tài sản = ´ ´ Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố: + Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản + Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Doanh lợi vốn Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư (ROA). Tuỳ vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi hay lợi nhuận sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Doanh lợi vốn = Tổng tài sản Ngoài ra, các tỷ lệ chi phí ( tổng hoặc chi tiết )/doanh thu thuần cũng được xem xét để kiểm soát các chi phí và gián tiếp biết được lợi nhuận tăng hay giảm. 6.2 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kì theo số liệu giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Để lập được Bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán từ đầu kì đến cuối kì. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột Sử dụng vốn và Nguồn vốn theo nguyên tắc: Sử dụng vốn: tăng tài sản và giảm nguồn Nguồn vốn: giảm tài sản và tăng nguồn Việc thiết lập Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở để tiến hành phân tích tình hình tăng giảm nguồn vốn, sử dụng vốn, chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những khoản đầu tư đó, từ đó có các giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 6.3 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh 6.3.1 Vốn lưu động thường xuyên Để tiến hành sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong một khoảng thời gian dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, và nợ ngắn hạn phải trả khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh, nó có thời hạn trên một năm và bao gồm vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung và dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định (TSCĐ), phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư hình thành tài sản lưu động (TSLĐ). Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của vốn lưu động thường xuyên. VLĐ thường = Nguồn vốn – TSCĐ =TSLĐ -Nợ ngắn xuyên dài hạn hạn Khi tính toán vốn lưu động thường xuyên sẽ xảy ra ba trường hợp: + Vốn lưu động thường xuyên>0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài sản cố định. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định, phần dư thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. + Vốn lưu động thường xuyên=0, có nghĩa là nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ cho doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. + Vốn lưu động thường xuyên<0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn, tài sản lưu động không dủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nó cho biết: + Một là, doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? + Hai là, tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Từ công thức tính vốn lưu động thường xuyên ta có thể thấy các yếu tố làm thay đổi vốn lưu động thường xuyên là những nghiệp vụ làm thay đổi nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định của bảng cân đối kế toán. Các nghiệp vụ làm giảm vốn lưu động thường xuyên: + Tăng tài sản cố định: tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định tài chính. + Giảm nguồn vốn dài hạn: Giảm vốn chủ sở hữu: do chia lợi tức cổ phần, lỗ trong kinh doanh… Hoàn trả tiền vay: bao gồm trả tiền vay trung và dài hạn, hoàn trả trái phiếu đáo hạn… Các nghiệp vụ làm tăng vốn lưu động thường xuyên: + Tăng nguồn vốn dài hạn Tăng vốn chủ sở hữu Tăng vay nợ trung, dài hạn; phát hành trái phiếu dài hạn + Giảm tài sản cố định thông qua nhượng bán Những thay đổi tài sản lưu động hoặc nợ phải trả ngắn hạn không làm thay đổi vốn lưu động thường xuyên, bởi vì việc tăng của một loại tài sản lưu động sẽ dẫn đến hoặc giảm một tài sản lưu động khác, hoặc tăng một dòng nợ ngắn hạn. Chẳng hạn, khi bán sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm tồn kho và tăng tương ứng ở mục nợ phải thu (nếu bán chịu), hoặc tăng tiền mặt (nếu bán thu tiền ngay). Ta cũng cần chú ý là chính sách khấu hao có tác động lớn vào vốn lưu động thường xuyên, nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ khấu hao nhanh thì vốn lưu chuyển sẽ cao hơn so với áp dụng khấu hao theo đường thẳng. Vốn lưu động thường xuyên thể hiện mức độ an toàn, bảo đảm cho doanh nghiệp chống lại các rủi ro làm mất giá trị tài sản hoặc rủi ro làm giảm tốc độ luân chuyển vốn dự trữ. Vì vậy, mọi biến động của vốn lưu động thường xuyên phải được chú ý theo dõi. Tại các thời điểm khác nhau có 3 tình huống xảy ra: + Tăng vốn lưu động thường xuyên Trong trường hợp này, an toàn của doanh nghiệp tăng vì phần lớn tài sản cố định được nguồn vốn dài hạn tài trợ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để đạt được sự an toàn đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn. Nếu khối lượng nợ dài hạn càng lớn sẽ dẫn tới chi phí tài chính càng cao, từ đó làm giảm kết quả kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên băng việc tăng vốn chủ sở hữu thì tình hình tài chính doanh nghiệp được cải thiện, nhưng doanh nghiệp phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Mặt khác, khi vốn lưu động thường xuyên đã tài trợ đủ cho tài sản cố định còn dư thừa, nếu sử dụng vốn lưu động thường xuyên tài trợ cho toàn bộ hàngtồn kho không phải là quyết định quản trị tốt vì có thể doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn dài hạn tốn kém cho đầu tư tài sản ngắn hạn mà lẽ ra việc sử dụng này phải do tín dụng ngắn hạn tài trợ. + Giảm vốn lưu động thường xuyên Khi một doanh nghiệp giảm vốn lưu động thường xuyên sẽ làm mức độ an toàn tài chính của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy vậy, nếu việc giảm xuống này nhằm tài trợ cho các khoản đầu tư sinh lời mới, góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì cũng cần quan tâm xem xét kĩ. + Giữ ổn định vốn lưu động thường xuyên Tình huống này thể hiện tình trạng giữ ổn định các hoạt động của doanh nghiệp, để điều chỉnh cơ cấu đầu tư do lợi nhuận không tăng và mức tăng trưởng giảm lâu dài, khi cần đánh giá thực trạng của tình huống này cần tiến hành nghiên cứu nguồn có khả năng tạo ra lợi nhuận để xem xét. 6.3.2 Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Tại một thời điểm nào đó, vốn lưu động thường xuyên chỉ rõ mức độ an toàn mà doanh nghiệp có được nhằm tài trợ cho chu kì kinh doanh của nó. Vì thế, ta phải nghiên cứu một cách đầy đủ bằng cách so sánh giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Vậy nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là gì? Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng dự trữ và các khoản phải thu (tài sản lưu động không phải là tiền). Nhu cầu vốn lưu = Dự trữ và các - Nợ động thường xuyên khoản phải thu ngắn hạn Như vậy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phụ thuộc vào 3 tham số: dự trữ, tồn kho và sản phẩm dở dang; khoản phải thu; nợ ngắn hạn. nhưng tầm quan trọng của 3 tham số này thay đổi theo tính chất của ngành và mức độ hoạt động, điều kiện quản lý và những biến động về giá cả. - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và tính chất của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động: nhìn chung có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và giá trị gia tăng do doanh nghiệp tạo ra. Các doanh nghiệp có giá trị gia tăng thấp và chu kì sản xuất ngắn (ngành thương mại) thì nhu cầu vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn thậm chí âm do dự trữ ít và tận dụng được các nguồn kinh phí từ bán chịu của nhà cung cấp. Các doanh nghiệp có giá trị gia tăng cao và chu kì sản xuất dài thường có nhu cầu vốn lưu động thường xuyên lớn. Đó là các doanh nghiệp chấp nhận bán chịu trong thời gian dài và khối lượng tồn kho lớn (doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy). Tuy nhiên, một số doanh nghiệp có thể giảm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên bằng cách yêu cầu khách hàng ứng trước cho những hợp đồng mà họ đang thực hiện. - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và mức độ hoạt động diễn ra theo chu kì: nợ phải thu từ khách hàng và nợ phải trả nhà cung cấp gần như tỷ lệ thuận với doanh thu. Tuy nhiên, dù tình hình tiêu thụ bị chậm lại thì nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cũng không giảm ngay, vì những đơn đặt mua hàng đã kí kết không thể huỷ bỏ, dự trữ, tồn kho vẫn tăng tốc độ do bán hàng bị chậm lại. - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và sự biến động của giá cả: trong thời kì lạm phát, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên tăng vì việc tăng nợ phải trả không đủ bù đắp mức tăng các khoản tồn kho và khoản phải thu, nhất là trong ngành công nghiệp. Tình trạng đó làm cho các doanh nghiệp phải vay mượn nhiều hơn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và quản lý : quản lý tồn kho cũng như quản lý bán chịu cho khách hàng là tiền đề làm tăng hay giảm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Khi tốc độ quay vòng dự trữ tăng, để giảm Dự trữ cũng như tăng cường nhận ứng trước của khách hàng sẽ góp phần giảm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và ngược lại. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên có thể nhận các giá trị sau: - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > Nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ phần chênh lệch. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần có biện pháp giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu từ khách hàng. - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = 0 - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 có nghĩa là các nguồn vốn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận thêm vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kì kinh doanh. 6.3.3 Tiền Tiền = Vốn lưu động – Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thường xuyên Nếu Tiền < 0 sẽ xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài hạn quá nhiều). 6.4 Phân tích dòng ngân quỹ doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan trọng. ở một thời điểm nhất định, tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình thái biểu hiện của tài sản lưu động, nhưng trong quá trình kinh doanh, sự vận động của tiền được coi là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh, phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về luồng tiền của doanh nghiệp cũng rất hữu dụng trong việc cung cấp cho người sử dụng một cơ sở để đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra tiền và các nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng luồng tiền đó. Ngoài ra, nó còn giúp cho các nhà doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo các luồng tiền phát sinh để chủ động trong đầu tư và huy động vốn tài trợ. Chính vì thế, trong hệ thống báo cáo tài chính phải có báo cáo bắt buộc để công khai về sự vận động của tiền thể hiện được lượng tiền tệ doanh nghiệp đã thực thu, thực chi trong kì kế toán. Trong quản lý ngân quỹ, người ta quan tâm đến chu kì vận động của tiền mặt. Chu kì vận động của tiền mặt là độ dài thời gian từ khi thanh toán tiền mua nguyên vật liệu đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán các sản phẩm cuối cùng, nó được tính bằng công thức như sau: Chu kì vận Thời gian vận Thời gian thu hồi Thời gian chậm trả động của tiền = động của NVL + các khoản phải thu - các khoản phải trả Công thức trên cho thấy chu kì tiền mặt cũng là một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp Dự trữ Thời gian vận động của dự trữ = ´ 360 ( Chu kì dự trữ) Doanh thu thuần Phải thu Thời gian thu hồi các khoản phải thu = ´ 360 ( Chu kì chờ thu tiền) Doanh thu thuần Phải trả Thời gian chậm trả các khoản phải trả = ´ 360 ( Chu kì trả tiền) Doanh thu thuần Mục tiêu của công ty là rút ngắn được chu kì vận động của tiền. Chu kì này càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều có chi phí. 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính 7.1 Sự đầy đủ và chất lượng thông tin sử dụng Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính bởi một khi thông tin sử dụng không đầy đủ, phiến diện, không chính xác, không phù hợp thì kết quả mà phân tích đem lại chỉ là hình thức. Có thể nói thông tin trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính.Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai. Tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước không ngừng biến động tác động hàng ngày đến điều kiện kinh doanh cuả doanh nghiệp.Hơn nữa, tiền lại có giá trị thời gian. Do đó, tính kịp thời, giá trị dự đoán là đặc điểm cần thiết làm nên sự phù hợp của thông tin. Thiếu đi sự chính xác, kịp thời, phù hợp, thông tin sẽ không còn độ tin cậy và điều này tất yếu ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở để tham chiếu trong quá trình phân tích. Người ta chỉ có thể nói các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp là cao hay thấp, tốt hay xấu khi đem nó so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất, kinh doanh tương tự mà đại diện ở đây là các chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình. 7.2 Trình độ cán bộ phân tích Có được thông tin đầy đủ, phù hơp, chính xác nhưng tập hợp thông tin như thế nào và xử lý thông tin ra sao để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao lại là điều không đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ thực hiện phân tích. từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán cácchỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu, tuy nhiên đó chỉ là những con số và nếu để chúng riêng lẻ thì bản thân chúng không nói lên điều gì. Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân của những điểm yếu trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân tích là người làm cho các con số biết nói. Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. 7.3 Công nghệ và phần mềm sử dụng trong phân tích tài chính Công tác phân tích tài chính đòi hỏi số liệu tập hợp với số lượng lớn, nhiều nguồn, phải kiểm tra mức độ chính xác, tin cậy, nó cũng đòi hỏi khối lượng tính toán nhiều, có những phép tính phức tạp, dự báo chính xác, lưu trữ lượng thông tin lớn. Vì thế, nếu chỉ đơn thuần làm bằng phương pháp thủ công thì tốc độ rất chậm và không đáp ứng được nhu cầu ra các quyết định nhanh chóng trong giai đoạn kinh tế hiện nay. Chỉ có các công nghệ và phần mềm chuyên dụng sử dụng cho phân tích tài chính mới cho phép thực hiện phân tích chính xác, kịp thời đáp ứng nhu cầu về quản lý tài chính doanh nghiệp. 7.4 Sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của phân tích tài chính bởi vì nếu ban lãnh đạo hiểu được tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính thì mới đầu tư kinh phí, mua sắm các phần mềm phân tích tài chính, bố trí phân công cụ thể đội ngũ nhân viên phân tích, xây dựng các quy trình phân tích khoa học cho CBCNV thực hiện, chỉ đạo sự phối hợp giữa các phòng ban trong việc cung cấp thông tin, hồi âm kết quả áp dụng các giải pháp mà việc phân tích tài chính đưa ra để làm tốt hơn quá trình phân tích sau… Tóm lại, trong công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp, cần phân tích đầy đủ các nội dung cần thiết. Chương tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM như thế nào. Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty Vật tư kỹ thuật xi măng I. Giới thiệu chung về công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. 1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty Bước sang những năm đầu thập kỉ 90, kinh tế nước ta bắt đầu tăng trưởng cao, tốc độ xây dựng tăng mạnh, nhu cầu xi măng ngày một gia tăng, đặc biệt ở những địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường và ngành xây dựng, việc một đơn vị đứng ra làm nhiệm vụ lưu thông, cung ứng xi măng tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc là cần thiết. Vì thế, ngày 12/2/1993 Bộ Xây dựng ra Quyết định số 023A thành lập Xí nghiệp vật tư kỹ thuật xi măng. Xí nghiệp lúc này trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp xi măng thuộc Bộ Xây dựng với nhiệm vụ kinh doanh vật liệu xây dựng, kỹ thuật. Trước tình hình phát triển của Xí nghiệp cũng như đòi hỏi của thị trường. Ngày 30/9/1993 Bộ Xây dựng ra Quyết định số 445 BXD/TCLĐ đổi tên xí nghiệp thành Công ty vật tư kỹ thuật xi măng . Đây là công ty thương mại thuộc Liên hiệp xí nghiệp xi măng, và là đơn vị kinh tế nhà nước hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ. Công ty có nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu là: - Tổ chức thực hiện vật tư đầu vào cho các nhà máy sản xuất xi măng như nguyên vật liệu, vật tư, phụ tùng, thiết bị. - Là lực lượng dự bị để cung ứng xi măng khi cần thiết. - Kinh doanh tiêu thụ xi măng của hai nhà máy sản xuất xi măng là Hoàng Thạch và Bỉm Sơn trên địa bàn Hà Nội. Sau đó, công ty được bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tham gia liên doanh trong ngành xi măng: Xí nghiệp liên doanh xi măng Bình Điều ( thành phố Hồ Chí Minh), xí nghiệp liên doanh xi măng số 1 (Quảng Bình), xí nghiệp liên doanh xi măng số 4 ( Bình Định). Trước đây, Bộ Xây dựng, Liên hiệp các xí nghiệp xi măng ( Từ năm 1994 là Tổng công ty xi măng Việt nam) cho phép các công ty sản xuất xi măng tự tổ chức tiêu thụ xi măng theo Quyết định của Liên hiệp các xí nghiệp xi măng. Do vậy trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh phía Bắc có tới 3 đơn vị tiêu thụ xi măng là Xí nghiệp vật tư kỹ thuật xi măng, Chi nhánh tiêu thụ xi măng tại Hà Nội của Công ty xi măng Hoàng Thạch, Chi nhánh tiêu thu xi măng tại Hà Nội của Công ty xi măng Bỉm Sơn. Nhưng đến tháng 5/1995 xảy ra cơn sốt xi măng do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ, để chấn chỉnh lại Tổng công ty xi măng Việt Nam đã có những bố trí để đảm bảo cân đối hơn bằng phương thức chuyên môn hoá giữa sản xuất và tiêu thụ. Ngày 01/7/1995, Hội đồng Quản trị Tổng công ty Xi măng Việt Nam ra Quyết định 833/TCT-HĐQT nhập hai chi nhánh tiêu thụ xi măng của Công ty Xi măng Hoàng Thạch, Công ty xi măng Bỉm Sơn và Công ty vật tư kỹ thuật xi măng thành Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Công ty có các nhiệm vụ sau: - Tổ chức tiếp nhận, vận chuyển xi măng tại các ga, cảng tại Hà Nội do các Công ty xi măng Hoàng Thạch. Bỉm Sơn, Bút Sơn và Hải Phòng chuyển đến theo kế hoạch của Tổng Công ty. - Tổ chức mạng lưới cửa hàng, quầy hàng để lưu thông tiêu thụ xi măng theo định hướng kế hoạch được giao và theo hợp đồng với khách hàng. - Tổ chức công tác tiếp thị để nắm vững nhu cầu tiêu thụ xi măng từng tháng, quý và cả năm trên địa bàn các tỉnh phía Bắc, lập kế hoạch xin nguồn sao cho sát đúng với thực tế, đồng thời kí kết các hợp đồng với các Công ty xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Bút Sơn và Hải Phòng, kí kết hợp đồng với khách hàng, đại lý của Công ty nhằm thực hiện mục tiêu không để xảy ra đột biến về nhu cầu và giá cả xi măng. - Tổ chức hệ thống kho tàng, bến bãi để đảm bảo kế hoạch giao hàng của Công ty và thường xuyên có đủ lượng xi măng dự trữ theo định mức để đề phòng biến động đột xuất trong những tháng tiêu thụ cao điểm, góp phần ổn định tình hình tiêu thụ xi măng. - Tổ chức hệ thống và quản lý lực lượng phương tiện vận tải, bốc xếp của đơn vị và tận dụng lực lượng ngoài xã hội một cách hợp lý để đa xi măng từ ga, cảng về kho dự trữ; từ ga, cảng đến các cửa hàng và các công trình. - Được kí kết hợp đồng tiêu thụ xi măng cho các đơn vị sản xuất xi măng trong nước và xi măng nhập khẩu của các đơn vị nhập khẩu. - Quan hệ chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật và quản lý thị trường, các cấp, ngành liên quan để phối hợp trong việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm, góp phần duy trì trật tự kỷ cương trong lĩnh vực kinh doanh, tiêu thụ xi măng trên địa bàn các tỉnh phía Bắc. Ngày 01/08/1995, để phù hợp hơn với thực tế, các hoạt động liên doanh của Công ty được bàn giao cho đơn vị khác của Tổng công ty xi măng Việt Nam. Tháng 1/6/1998, theo Quyết định số 606/XMVN-HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng công ty xi măng Việt Nam ra ngày 23/5/1998 công ty nhận bàn giao hai chi nhánh Hà Tây và Hoà Bình của Công ty xi măng Bỉm Sơn, giao địa bàn phía Bắc sông Hồng cho Công ty vật tư vận tải xi măng, chuyển từ hình thức tổng đại lý sang hình thức kinh doanh xi măng mua đứt bán đoạn. Nhằm thực hiện tiếp các bước của việc cải tiến hoạt động kinh doanh theo Quyết định số 97/XMVN-HĐQT ngày 21/3/2000 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Xi măng Việt Nam, từ 1/4/2000, công ty đã tiếp nhận toàn bộ các chi nhánh kinh doanh xi măng của Công ty Vật tư Vận tải Xi măng tại Lào Cai, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên. Gần đây nhất, theo Quyết định số 85/XMVN-HĐQT ngày 27/3/2002 công ty bàn giao lại 2 chi nhánh Hà Tây và Hoà Bình cho công ty xi măng Bỉm Sơn từ 1/4/2002. Hiện nay Công ty với tên giao dịch là Công ty vật tư kỹ thuật xi măng, đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam có trụ sở tại km6 đường Giải Phóng, quận Thanh Xuân, Hà Nội. 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty vật tư kỹ thuật xi măng: Mỗi lần thay đổi tổ chức, chức năng nhiệm vụ thì số lượng CBCNV và cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý cũng có sự thay đổi cho phù hợp với chức năng sản xuất kinh và sự phát triển của công ty. Cuối năm 2001, Công ty có 926 CBCNV làm việc ở các bộ phận. Trung bình khoảng 66 người làm nhiệm vụ quản lý, 127 người làm công tác nghiệp vụ, còn lại là bộ phận phụ trợ và trực tiếp. Số nhân sự này làm ở 2 khối: Kinh doanh xi măng : 681 người, Vận tải: 146 người. Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng, mô hình này phù hợp với công ty trong giai đoạn hiện nay. - Đứng đầu công ty là giám đốc có nhiệm vụ chính là quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng công ty theo quy định. - Giúp việc cho giám đốc có 2 Phó giám đốc và các trưởng phòng chức năng. Mỗi phòng đảm nhiệm một chức năng riêng biệt nhưng cùng có một mục đích là giúp cho giám đốc thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. + Phó giám đốc kinh doanh: Phụ trách nghiệp vụ kinh doanh, kế hoạch kinh doanh, hợp đồng kinh tế, thanh lý hợp đồng kinh tế, kiểm tra và kiểm toán hàng hoá vật tư. sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty Giám đốc Pgđ kinh doanh Pgđ Kỹ thuật Kế toán trưởng P. Kinh tế kế hoạch P. Quản lý thị trường P. Quản lý tiêu thụ Các Chi nhánh P. Tổ chức lao động Văn Phòng XN vận tải P. Điều độ & quản lý kho P. Kỹ thuật đầu tư P. Kế toán tài chính Trung tâm GĐ, PGĐ, Ban KT, TC, QLK Đội sửa chữa Đội xe Trạm kho dự trữ Cửa hàng (Nguồn: Phòng Tổ chức lao động công ty VTKTXM) + Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách về vật tư, vận tải xi măng, công tác định mức trong khâu vận tải và trong từng cửa hàng, chất lượng hàng hoá, kỹ thuật giao nhận, bốc xếp lưu kho, xây dựng quy trình, quy phạm của các quy chế an toàn của công ty, phụ trách công tác đào tạo, cải tiến kỹ thuật và công tác sửa chữa lớn. + Kế toán trưởng: giúp cho Giám đốc thực hiện các điều lệ của nhà nước và pháp luật về kế toán, thống kê trong các hoạt động kinh doanh của công ty. Các phòng ban của công ty + Văn phòng công ty: có nhiệm vụ phục vụ đời sống và đảm bảo trật tự an toàn cho công ty. + Phòng tổ chức lao động: có nhiệm vụ xây dựng đơn giá tiền lương và tổ chức lao động hợp lý, thực hiện chế độ chính sách cho cán bộ công nhân viên toàn công ty, chăm lo công tác đào tạo con người. + Phòng kỹ thuật đầu tư: có nhiệm vụ sửa chữa lớn, đầu tư xây dựng cơ bản tại công ty. + Phòng kinh tế kế hoạch: Xây dựng kế hoạch, giao kế hoạch cho từng phòng ban, chủ trì, dự thảo hợp đồng kinh tế mua bán xi măng, hợp đồng thuê phương tiện vận tải xi măng, hợp đồng thuê cửa hàng bán xi măng, hợp đồng thuê và cho thuê kho tàng dự trữ xi măng… + Phòng quản lý tiêu thụ: có nhiệm vụ phụ trách việc tiêu thụ xi măng trên địa bàn công ty. + Phòng quản lý thị trường: có nhiệm vụ cung cấp, giám sát thông tin về thị trường, giá cả, số lượng chủng loại xi măng ở từng khu vực, xử lý các trường hợp buôn bán xi măng giả…Ngoài ra phòng còn tổ chức khai thác thị trường tiêu thụ mới ở các khu vực khác. + Phòng điều độ và quản lý kho: có nhiệm vụ điều độ, tiếp nhận, vận chuyển xi măngđảm bảo cân đối mức nhập vào và xuất ra phục vụ việc tiêu thụ của toàn công ty và có nhiệm vụ đảm bảo dự trữ theo quy định, thực hiện báo cáo số lượng chính xác, kịp thời. + Xí nghiệp vận tải: có nhiệm vụ tiếp nhận xi măng từ các trạm giao nhận đại diện của công ty tại các ga, cảng, đầu mối về các kho dự trữ và từ các kho vận chuyển tới các cửa hàng và các kho dự trữ đại lý cho công ty, vận chuyển tới chân công trình khi có nhu cầu. + Phòng kế toán tài chính: có nhiệm vụ xây dựng phí lưu thông, kế hoạch tài chính, chỉ đạo lập chứng từ ban đầu và sổ sách kế toán theo đúng quy định của nhà nước, cấp trên; quản lý tiền hàng, sử dụng vốn có hiệu quả, không được để thất thoát vốn, hàng hoá, chỉ đạo việc trả nợ và thu nợ, không để vốn bị chiếm dụng; thực hiện tốt công tác kế toán tài chính của công ty để không bị ách tắc trong hoạt động kinh doanh; phối hợp các phòng với phòng kế hoạch để xây dựng các dự thảo hợp đồng kinh tế về mua bán, vận chuyển, bốc xếp, dự trữ xi măng… + Các chi nhánh của công ty: làm nhiệm vụ đại diện tiêu thu xi măng ở các tỉnh phía Bắc - địa bàn của công ty. Các chi nhánh có ban giám đốc gồm 1 Giám đốc, 1 Phó giám đốc, ban kế toán, ban quản lý kho và ban tổ chức hành chính. Từ tháng 4/2002, Công ty có 4 chi nhánh: Chi nhánh Vĩnh Phúc (quản lý địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc), Chi nhánh Thái Nguyên (quản lý địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng), Chi nhánh Lào Cai (quản lý địa bàn tỉnh Lào Cai), Chi nhánh Phú Thọ (quản lý địa bàn tỉnh Phú Thọ, yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang). Ơ khu vực Hà Nội việc tiêu thụ do Phòng quản lý tiêu thụ quản lý và có 5 trung tâm. Công ty có một mạng lưới cửa hàng rộng khắp gồm: 185 cửa hàng trong đó 125 cửa hàng bán lẻ và 60 cửa hàng đại lý. Đội xe của công ty gồm 146 chiếc với trọng tải 804,6 tấn. Đi kèm với đội xe là đội sửa chữa. Tại Hà Nội công ty có 5 kho với diện tích chứa 5810m2 và một số kho khác để cho thuê: Cụm kho Vĩnh Tuy, kho xi măng rời Giáp Nhị… Tổ chức hạch toán kế toán: Các chi nhánh hạch toán báo sổ. Việc hạch toán tập trung tại phòng KTTC của công ty. ở công ty Phòng KTTC có Kế toán trưởng, 1 Phó phòng phụ trách công tác kế toán tổng hợp, 1 phó phòng phụ trách công tác đầu tư xây dựng, hợp đồng tiêu thụ xi măng và 11 nhân viên kế toán phụ trách các bộ phận: kế toán hàng mua, hàng bán, thanh toán, tài sản, vận chuyển, thuế, quỹ, tổng hợp. Công ty đã thực hiện đưa cơ giới vào kế toán, sử dụng hình thức sổ nhật kí chung và hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. 3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Công ty vật tư kỹ thuật xi măng là một DNNN, đơn vị thành viên của Tổng công ty xi măng. Mọi hoạt động của công ty phải theo sự chỉ đạo và phải được phép của Tổng công ty. Giá bán xi măng là giá do Ban vật giá Chính phủ, Bộ Xây dựng và Tổng công ty xi măng quy định. Ngoài chức năng kinh doanh, công ty còn phải làm nhiệm vụ chính trị là bình ổn giá cả trên thị trường và cung ứng hay dự trữ, thu mua xi măng khi có biến động bất thường xảy ra. Điều này ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty, đó là dù lỗ vẫn phải bán xi măng ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Hằng năm, công ty lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính, kế hoạch sửa chữa xây dựng cơ bản… nộp cho tổng công ty duyệt sau đó mới được thực hiện. Về tài sản và nguồn vốn: Theo tính chất sở hữu, vốn công ty gồm vốn nợ và vốn chủ sở hữu, mà chủ sở hữu ở đây là nhà nước, vốn nợ chủ yếu là nợ không do vay. Theo phương thức chuyển giá trị vào chi phí sản xuất kinh doanh, vốn công ty được chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Công ty là một DN thương mại nên TSLĐ chiếm phần lớn: 77% (năm 1999), 76,43% (năm 2000), 80,31% (năm 2001). Bảng tóm tắt tài sản và nguồn vốn công ty Đơn vị tính: VNĐ Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 I. Tài sản 108.337.887.834 119.798.048.916 133.802.299.961 -TSCĐ 24.896.279.811 28.232.276.819 26.346.422.672 -TSLĐ 83.441.608.023 91.565.772.097 107.455.877.289 II. Nguồn vốn Nợ phải trả 67.357.456.350 69.256.955.750 82.962.457.748 Vốn chủ sở hữu 40.980.431.514 50.541.093.166 50.839.842.213 Về thị trường tiêu thụ: Công ty được giao nhiệm vụ lưu thông, tiêu thụ xi măng trên địa bàn các tỉnh phía Bắc là Hà Nội, Hà Tây, Lai Châu, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Bắc Cạn, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Phú Thọ…, trong đó địa bàn chính là Hà Nội – thủ đô của cả nước với số dân trên 4.000.000 người và mức tiêu thụ xi măng được đánh giá cao trong cả nước (1,2 triệu tấn – 1,6 triệu tấn / năm), và địa bàn này còn có lượng xi măng tiêu thụ mạnh trong những năm tới đây vì số lượng dự án đang và sẽ triển khai. Tuy nhiên một số địa bàn của công ty ở vùng sâu, vùng xa có giao thông không thuận lợi, vận chuyển hàng hoá khó khăn. Về sản phẩm xi măng: Sản phẩm xi măng của công ty là vật liệu chính của các công trình xây dựng. Do công ty chủ yếu cung cấp xi măng cho các công trình xây dựng thuộc địa bàn phía Bắc – là địa bàn có khí hậu nhiệt đới gió mùa, tốc độ xây dựng các công trình phụ thuộc vào thời tiết và do cuối năm các công trình cần nhanh chóng hoàn thành nên chỉ vào những tháng như tháng 3, 4, 5, 6, 10, 11, 12 lượng xi măng mới tiêu thụ mạnh. Đặc điểm này ảnh hưởng đến các khoản phải thu, phải trả, hàng tồn kho và tiền của công ty… Về nguồn hàng và cơ cấu sản phẩm hàng hoá kinh doanh của công ty: Khi mới thành lập và bắt đầu kinh doanh xi măng, Công ty chỉ là Tổng đại lý tiêu thụ xi măng cho Công ty xi măng Hoàng Thạch và Bỉm Sơn. Từ khi chuyển đổi phương thức kinh doanh, công ty kinh doanh thêm xi măng của công ty xi măng Bút Sơn và Hải Phòng. Hiện công ty đang kinh doanh xi măng của 4 công ty trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam đó là Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Bút Sơn, Hải Phòng. Công ty xi măng Hoàng Thạch với biểu tượng “con sư tử” (thành lập năm 1980) chuyên sản xuất xi măng PC30, PC40 và một số chủng loại xi măng đặc biệt dùng cho các giếng khoan sâu với dây chuyền tiên tiến hiện đại của hãng FLS miclth (Đan Mạch), công suất 2,4 triệu tấn / năm đã tạo được uy tín trên thi trường phía Bắc, do đó dù giá có hơi cao hơn một ít so với các loại khác nhưng lượng tiêu thụ vẫn mạnh. Xi măng Bỉm Sơn với nhãn hiệu “con voi” với công suất thiết kế 1,4 triệu tấn/năm cùng với các loại xi măng mác tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu khắc nghiệt rất được ưa chuộng ở miền Bắc và miền Trung. Xi măng Bút Sơn với nhãn hiệu “quả địa cầu” mới gia nhập thị trường từ năm 1995 song cũng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng do công nghệ sản xuất theo dây chuyền hiện đại do Pháp tài trợ với công suất thiết kế 1,4 triệu tấn/năm, giá bán thấp hơn, chất lượng đã đạt đẳng cấp quốc tế được lưu thông rộng rãi trong cả nước. Xi măng Hải Phòng có từ lâu đời, công suất thiết kế 0,35 triệu tấn / năm nhãn hiệu “con rồng xanh” với đủ chủng loại xi măng thông dụng và đặc biệt: xi măng bền sunphát, xi măng trắng, đen, xi măng PoócLăng đủ các mác PC30, PC40. Với 4 loại xi măng này công ty đảm bảo nguồn hàng phong phú, ổn định và chất lượng. Đây là một lợi thế của công ty. Các chủng loại xi măng công ty thường kinh doanh là: Hoàng Thạch PC30, Bỉm Sơn bao PCB30, Bỉm Sơn rời PCB30, Bút Sơn bao PCB30, Bút Sơn bao PCB40, Bút Sơn rời PCB30, Bút Sơn rời PCB40, Hải Phòng đen PC30. Trong các loại xi măng công ty đang kinh doanh, xi măng Hoàng Thạch chiếm tỷ trọng lớn nhất – khoảng 50%, sau đó là xi măng Bỉm Sơn, Bút Sơn và Hải Phòng. Mỗi thị trường ưa chuộng một loại xi măng ví dụ ở miền Trung, xi măng Bỉm Sơn rất được ưa chuộng, nhưng ở phía Bắc - địa bàn của công ty – xi măng Hoàng Thạch lại có uy tín với khách hàng hơn. Do vậy, việc xác định cơ cấu sản phẩm kinh doanh là phụ thuộc vào yêu cầu thị trường và nhiệm vụ của công ty. Ngoài ra, công ty còn có các hoạt động khác như cung cấp phụ gia cho các nhà máy xi măng. Hiện nay, công ty đang có chủ trương đa dạng hoá hoạt động của mình. Về đối thủ cạnh tranh: Trên thị trường hiện nay đang tồn tại đa dạng các công ty xi măng của đủ mọi thành phần: từ các công ty thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam, công ty xi măng liên doanh, xí nghiệp xi măng quốc phòng và nhà máy xi măng địa phương. Sự đa dạng này tuy cung ứng các sản phẩm phù hợp nhu cầu người tiêu dùng nhưng cũng tạo ra một thị trường gay gắt và quyết liệt: cạnh tranh giữa các công ty thuộc Tổng công ty Xi măng, cạnh tranh giữa các công ty trong Tổng công ty và xi măng liên doanh, xi măng quốc phòng, xi măng địa phương do cùng địa bàn. Sự cạnh tranh chủ yếu về giá cả và chất lượng. Nhà máy xi măng liên doanh gồm có xi măng Chifon, xi măng Nghi Sơn tham gia thị trường với chất lượng tương đương nhưng giá cả thấp hơn so với giá các mặt hàng xi măng cùng loại mà công ty bán ra (thường thấp hơn 25000-40000đ/tấn), phương thức kinh doanh lại đa dạng linh hoạt, cơ chế bán hàng của các công ty này rất có lợi cho người tiêu dùng, đang dần chiếm thị trường xi măng nội địa, là đối thủ cạnh tranh cần phải chú ý của công ty. Xi măng địa phương: gần 55 cơ sở địa phương sản xuất xi măng tuy chất lượng không bằng những loại xi măng công ty đang kinh doanh nhưng giá rẻ hơn rất nhiều từ 40000 – 60000đ/tấn với phương thức vận chuyển linh hoạt, len lỏi vào các ngóc ngách trên thị trường cũng là những đối thủ cạnh tranh của công ty. Ngoài ra, trên thị trường còn có nhà máy xi măng quốc phòng với các loại xi măng quốc phòng X77, X78, X18 phù hợp với các công trình không đòi hỏi kỹ thuật và chất lượng cao cũng là đối thủ cạnh tranh của công ty. Về khách hàng: khách hàng công ty rất đa dạng, phong phú, họ có thể mua từ vài tạ đến vài trăm tấn xi măng. Khách hàng có thể mua theo hợp đồng kinh tế hoặc không theo hợp đồng kinh tế. Hiện nay khách của công ty chủ yếu là khách hàng mua không theo hợp đồng kinh tế. Họ có thể là các tổ chức, cá nhân thầu xây dựng, mua để sử dụng hoặc mua nhằm bán lại. Về phương thức vận chuyển: công ty có sử dụng cả đưường sắt, đưường bộ, đường thuỷ để vận chuyển hàng. Chỉ riêng xi măng Bỉm Sơn không có vận chuyển bằng đường thuỷ còn lại đều sử dụng cả 3 phương thức, tuỳ theo phương thức, quãng đường vận chuyển mà cước sẽ khác nhau. Công ty có sử dụng hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24192.DOC
Tài liệu liên quan