Tài liệu Đề tài Mô hình bệnh tật và tử vong ở bệnh nhân nội trú:  
ĐỀ TÀI 
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ 
VONG Ở 
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ 
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở 
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ 
TÓM TẮT 
Mục tiêu Xác định mô hình bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân 
nội trú tại bệnh viện Nguyễn Trãi từ năm 2000 đến 2005 
Phương pháp Nghiên cứu là một cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu 
là tất cả bệnh nhân điều trị và xuất viện từ 01/01/2000 đến 31/12/2005 tại 
bệnh viện Nguyễn Trãi, với kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Dữ kiện 
được hồi cứu từ những bệnh án lưu trữ trên máy tính của bệnh viện, và được 
phân tích với phần mềm STATA 8.0. Kết quả là những số thống kê mô tả tỉ 
lệ nhập viện và tử vong theo chương bệnh, và phân nhóm bệnh của ICD10. 
Kết quả Tỉ lệ bệnh lây nhập viện giảm, không lây tăng, tai nạn ngộ 
độc chấn thương giảm. Sáu chương bệnh hàng đầu là bệnh hệ tuần hoàn, 
bệnh hệ tiêu hoá, bệnh hô hấp, bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng, bệnh mắt 
và phần phụ, bệnh nội tiết-dinh dưỡng và chuyển hoá. Năm phân nhóm bệnh 
có tỉ lệ n...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 92 trang
92 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Mô hình bệnh tật và tử vong ở bệnh nhân nội trú, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
ĐỀ TÀI 
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ 
VONG Ở 
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ 
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở 
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ 
TÓM TẮT 
Mục tiêu Xác định mô hình bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân 
nội trú tại bệnh viện Nguyễn Trãi từ năm 2000 đến 2005 
Phương pháp Nghiên cứu là một cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu 
là tất cả bệnh nhân điều trị và xuất viện từ 01/01/2000 đến 31/12/2005 tại 
bệnh viện Nguyễn Trãi, với kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Dữ kiện 
được hồi cứu từ những bệnh án lưu trữ trên máy tính của bệnh viện, và được 
phân tích với phần mềm STATA 8.0. Kết quả là những số thống kê mô tả tỉ 
lệ nhập viện và tử vong theo chương bệnh, và phân nhóm bệnh của ICD10. 
Kết quả Tỉ lệ bệnh lây nhập viện giảm, không lây tăng, tai nạn ngộ 
độc chấn thương giảm. Sáu chương bệnh hàng đầu là bệnh hệ tuần hoàn, 
bệnh hệ tiêu hoá, bệnh hô hấp, bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng, bệnh mắt 
và phần phụ, bệnh nội tiết-dinh dưỡng và chuyển hoá. Năm phân nhóm bệnh 
có tỉ lệ nhập viện cao nhất là tăng huyết áp, viêm thực quản dạ dày tá tràng, 
bệnh đường hô hấp dưới mạn tính, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, và tiểu 
đường. Tỉ lệ tử vong chung là thấp. Ba chương bệnh có tỉ lệ tử vong cao 
nhất là hệ tuần hoàn, triệu chứng và dấu chứng, và hô hấp. Năm bệnh tử 
vong hàng đầu là tăng huyết áp, nhóm nguyên nhân tử vong không rõ ràng 
hay không biết, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bướu ác tính, và bệnh đường 
hô hấp dưới mạn tính. 
Kết luận Mô hình bệnh tật và tử vong tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong 
sáu năm đầu thế kỷ 21 có đặc tính mô hình bệnh tật của các nước phát triển 
ở giai đoạn đầu. Những điều cần làm trong những năm sắp tới là phát hiện 
sớm bệnh, đẩy mạnh giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, tăng cường hiệu quả 
của các biện pháp điều trị sẵn có, và đầu tư cho những phương tiện chẩn 
đoán và điều trị tốt hơn. 
ABSTRACT 
Objective To identify the morbidity and mortality patterns of 
inpatients at Nguyen Trai hospital from 2000 to 2005 
Methods A cross-sectional study was carried out on a sample 
systematically drawn from the target population of all inpatients discharged 
from Nguyen Trai hospital during the period of 01/01/2000 to 31/12/2005. 
Secondary data were retrieved from electronic health records and analyzed 
with STATA 8.0 software. Frequency distributions of causes of admission 
and death based on ICD 10 were calculated. 
Results The morbidity figure showed a decreasing trend of 
communicable diseases, and an increasing of non-communicable diseases 
and accidents, poisoning and injuries. The first six disease chapters were 
circulatory system; digestive system; respiratory system; infectious and 
parasitic diseases; eyes and adnexa; endocrinologic, nutritional, and 
metabolic diseases. The first five leading causes of admission were 
hypertension, gastritis and duodenitis, chronic lower respiratory diseases, 
local ischemic heart diseases, and mellitus diabetes. The overall mortality 
rate was low, with the predominant of the three chapters of circulatory 
system, non specific symptoms and signs, and respiratory system. The five 
leading causes of death were hypertension, deaths of undetermined origin, 
ischemic heart diseases, malignant tumors, and chronic lower respiratory 
diseases. 
Conclusion The morbidity and mortality patterns of inpatients at 
Nguyen Trai hospital in the first six years of the 21th century resemble the 
ones at the early phase of developed countries. What the hospital has to do in 
the coming years are early detection, enhancing health education to patients, 
improving the current health care services, and intensive investment for 
better means of diagnosis and treatment. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh tật và tử vong do những yếu tố tác động như môi trường, thói 
quen, nghề nghiệp, tổ chức cơ sở y tế, nhân viên y tế. Đồng hành với sự phát 
triển kinh tế xã hội, bệnh tật và tử vong cũng chuyển dịch từ những bệnh lý 
lây nhiễm sang những bệnh lý do lối sống. Dự đoán về cơ cấu bệnh tật và tử 
vong toàn cầu đã có sự chuyển dịch trong thời gian từ năm 1990 đến 2020 
[10]. 
Bệnh viện Nguyễn Trãi TP. HCM là bệnh viện đa khoa hạng I với 
nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc sức khỏe cho người có thẻ bảo hiểm y tế, cho 
người dân đóng viện phí có nhu cầu, và diện bảo vệ sức khỏe Thành ủy. 
Trong diện bảo hiểm y tế thường xuyên khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hầu 
hết là người hưu trí, tuổi cao nhiều bệnh tật phối hợp. Đồng thời do uy tín 
của bệnh viện, người dân đóng viện phí ở thành phố và các tỉnh trong cả 
nước đến khám chữa bệnh ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ và 
định hướng phát triển bệnh viện một cách bền vững cần có những thông tin 
về mắc và chết các bệnh, cùng với kết quả điều trị của những bệnh nhân mà 
bệnh viện đang phục vụ. Những thông tin này sẽ là cơ sở xây dựng kế hoạch 
nâng cấp cơ sở, đào tạo nhân lực, tăng cường trang thiết bị y tế, nâng cao 
chất lượng dịch vụ y tế, định hướng phát triển chuyên khoa mũi nhọn. 
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định mô hình bệnh tật và tử 
vong ở bệnh nhân nội trú tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong 6 năm đầu thế kỷ 
21. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nghiên cứu là một cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu là tất cả bệnh 
nhân điều trị và xuất viện từ 01/01/2000 đến 31/12/2005 tại bệnh viện 
Nguyễn Trãi. Để có 95% tin tưởng xác định các tỉ lệ người bệnh nhập viện 
và tử vong hàng đầu, với tham số tham khảo là 0,415% (tỉ lệ mắc của các 
bệnh việm phổi trong năm 2005 [10]), với độ chính xác tương đối là 0,25, cỡ 
mẫu được ước lượng là 14.750 lượt bệnh nhân trong 6 năm nghiên cứu. Để 
xác định những kết quả liên quan đến tử vong, toàn bộ 940 trường hợp tử 
vong trong 6 năm được chọn. 
Mẫu được chọn là những bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện 
Nguyễn Trãi từ 01/01/2000 đến 31/12/2005, và loại nếu bệnh án không đủ 
những dữ kiện cần thiết. Kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống 1:8 được 
sử dụng trên toàn bộ 128.633 bệnh nhân có bệnh án lưu trữ đầy đủ thông tin. 
Để đảm bảo tính chính xác của mô hình bệnh tật, nên mỗi bệnh nhân với 
một bệnh cụ thể chỉ được chọn 1 lần trong năm, do đó, trước khi chọn mẫu 
nếu những bệnh nhân nhập viện n lần trong một năm cùng một bệnh thì máy 
tính sẽ loại (n-1) tên của bệnh nhân này trong khung mẫu của năm đó. 
Dữ kiện được hồi cứu từ những bệnh án lưu trữ trên máy tính của 
bệnh viện. Sau khi chọn mẫu, máy tính sẽ trích xuất những dữ kiện liên quan 
vào một biểu mẫu. Các biến số nghiên cứu gồm có nhóm tuổi, giới, năm 
bệnh hoặc tử vong, loại bệnh tật theo bảng phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 
10 năm 1993 (ICD10: The tenth International Classification of Diseases), và 
tử vong. Dữ kiện được phân tích với phần mềm STATA 8.0, và kết quả là 
phân bố tần số nhập viện và tử vong theo chương bệnh, và phân nhóm bệnh. 
Phạm vi của bài báo này khu trú vào mô hình bệnh tật và tử vong, với 10 
chương, 10 nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện hoặc tử vong cao nhất. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Xu hướng bệnh tật tử vong của bệnh viện, tần số và (%) 
Nhóm bệnh 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
Tổng 
Dịch lây 
Mắc 
118 
(5,18) 
134 
(5,59) 
122 
(4,93) 
173 
(6,34) 
163 
(5,99) 
146 
(4,75) 
856 
(5,46) 
Chết 
9 
(5,77) 
12 
(6, 94) 
3 
(1,93) 
8 
(4,54) 
6 
(4,44) 
6 
(4,17) 
44 
(4,69) 
Không lây 
Mắc 
2024 
(88,93) 
2134 
(89,10) 
2257 
(91,12) 
2476 
(90,70) 
2537 
(93,31) 
2908 
(94,54) 
14336 
(91,47) 
Chết 
142 
(91,03) 
159 
(91,91) 
148 
(95,48) 
167 
(94,89) 
124 
(91,85) 
138 
(95,83) 
878 
(93,50) 
Tai nạn, ngộ độc, chấn thương 
Mắc 
134 
(5,89) 
127 
(5,30) 
98 
(3,96) 
81 
(2,97) 
19 
(0,70) 
22 
(0,72) 
481 
(3,07) 
Chết 
5 
(3,20) 
2 
(1,15) 
4 
(2,58) 
1 
(0,57) 
5 
(3,71) 
0 
(0,00) 
17 
(1,81) 
Tỉ lệ bệnh lây là 5,46%, và bệnh không lây là trên 91% (Bảng 1). Tai 
nạn ngộ độc chấn thương giảm dần từ 5,89% năm 2000 xuống còn 0,72% 
năm 2005. Tỉ lệ tử vong của bệnh lây dưới 5%, của bệnh không lây trên 
93%, và của tai nạn ngộ độc chấn thương là 1,81%. So sánh khuynh hướng 
6 năm: bệnh lây nhập viện giảm, không lây tăng, tai nạn ngộ độc chấn 
thương giảm. Tử vong lây thấp nhưng giảm không đáng kể, không lây cao 
và tương đối hằng định, tai nạn ngộ độc chấn thương thấp và giảm khi so 
sánh hai thời điểm 2000 và 2005. 
Sáu chương bệnh hàng đầu trong tất cả 6 năm là bệnh hệ tuần hoàn 
(chương 9) (Bảng 2), bệnh hệ tiêu hoá (chương 11), bệnh hô hấp (chương 
10), bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng (chương 1), bệnh mắt và phần phụ 
(chương 7), bệnh nội tiết-dinh dưỡng và chuyển hoá (chương 4). Trong 3 
năm 2000 đến 2002, bốn chương bệnh từ thứ 7 đến 10 là, bướu tân sinh 
(chương 2), bệnh hệ niệu-sinh dục (chương 14), triệu chứng-dấu chứng và 
những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi 
khác (chương 18). Trong 3 năm 2003-2005, chấn thương, ngộ độc (chương 
19), không xuất hiện thay vào đó là hệ xương-cơ- khớp (chương 13). Ba 
chương bệnh tuần hoàn, bệnh tiêu hoá và bệnh hô hấp luôn luôn ở vị trí đầu 
trong tất cả các năm. Thứ tự của các chương còn lại thay đổi không đáng kể 
trong suốt 6 năm. Năm phân nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện cao nhất trong 6 
năm 2000-2005 là bệnh tăng huyết áp (I10-I15), viêm thực quản dạ dày tá 
tràng (K20-K31), bệnh đường hô hấp dưới mạn tính (J40-J47), bệnh tim do 
thiếu máu cục bộ (I20-I25), tiểu đường (E10-E14) (Bảng 3). Trừ nhóm bệnh 
tăng huyết áp có tỉ lệ nhập viện tăng dần, 4 bệnh còn lại tương đối hằng 
định. 
Tỉ lệ tử vong chung là thấp và giảm dần từ 0,84% (2000) đến 0,45% 
trong năm 2005 (Bảng 4). Những kết quả tử vong theo chương bệnh (Bảng 
5), phân nhóm bệnh (Bảng 6) được phân tích trên tổng 940 trường hợp tử 
vong của 6 năm 2000-2005. Ba chương bệnh có tỉ lệ tử vong cao nhất trong 
6 năm, 2000-2005 là hệ tuần hoàn (chương 9), triệu chứng, dấu chứng 
(chương 18), hô hấp (chương 10) (Bảng 5). Tăng huyết áp là nguyên nhân tử 
vong hàng đầu trong 6 năm với tỉ lệ trên 20% tử vong chung; 4 bệnh có tỉ lệ 
tử vong phổ biến đều trong suốt 6 năm là nhóm nguyên nhân tử vong không 
rõ ràng hay không biết (R95-R99), bệnh tim do thiếu máu cục bộ (I20-I25) 
là nguyên nhân tử vong phổ biến thứ hai và ba nhưng là nhóm bệnh có tỉ lệ 
tử vong dao động trong 6 năm; bướu ác tính (C00-C97) có tỉ lệ tử vong 
tương đối ổn định, bắt đầu tăng từ 2004 và đến năm 2005 là 13,19% (Bảng 
6). Bệnh đường hô hấp dưới mạn tính (J40-J47) là nguyên nhân tử vong 
hàng thứ năm, có khuynh hướng giảm nhẹ trong hai năm 2004 và 2005. 
Bảng 2. Phân bố 10 chương bệnh mắc cao nhất, tần số và (%) 
Chương bệnh 
Tên chương bệnh 
Tổng 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
9 
Bệnh hệ tuần hoàn 
4381 
(27,95) 
533 
(24,30) 
615 
(25,68) 
712 
(28,74) 
760 
(27,84) 
786 
(28,91) 
955 
(31,05) 
11 
Bệnh hệ tiêu hoá 
2478 
(15,81) 
392 
(17,22) 
372 
(15,53) 
406 
(16,39) 
445 
(16,30) 
404 
(14,86) 
459 
(14,92) 
10 
Bệnh hô hấp 
2216 
(14,14) 
317 
(13,93) 
377 
(15,74) 
309 
(12,47) 
335 
(12,27) 
395 
(14,53) 
483 
(15,70) 
1 
Bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng 
856 
(5,46) 
118 
(5,18) 
134 
(5,59) 
122 
(4,93) 
173 
(6,34) 
163 
(5,99) 
146 
(4,75) 
7 
Bệnh mắt và phần phụ 
787 
(5,02) 
110 
(4,83) 
95 
(3,97) 
126 
(5,09) 
157 
(5,75) 
168 
(6,18) 
131 
(4,26) 
4 
Bệnh nội tiết, dinh dưỡng, chuyển hoá 
778 
(4,96) 
118 
(5,18) 
115 
(4,80) 
126 
(5,09) 
133 
(4,87) 
124 
(4,56) 
162 
(5,27) 
2 
Bướu tân sinh 
766 
(4,89) 
141 
(6,20) 
144 
(6,01) 
138 
(5,57) 
121 
(4,43) 
97 
(3,57) 
125 
(4,06) 
14 
Bệnh hệ niệu-sinh dục 
703 
(4,49) 
121 
(5,32) 
124 
(5,18) 
98 
(3,96) 
106 
(3,88) 
119 
(4,38) 
135 
(4,39) 
18 
Triệu chứng, dấu chứng và những phát hiện lâm sàng -cận lâm sàng 
bất thường, không phân loại nơi khác 
615 
(3,92) 
63 
(2,77) 
88 
(3,67) 
97 
(3,92) 
128 
(4,69) 
130 
(4,78) 
109 
(3,54) 
13 
Bệnh hệ cơ xương khớp, mô liên kết 
582 
(3,71) 
117 
(4,29) 
126 
(4,63) 
156 
(5,07) 
19 
Chấn thương, ngộ độc, và một số hậu quả khác do nguyên nhân bên 
ngoài 
442 
(2,82) 
131 
(5,76) 
120 
(5,01) 
94 
(3,79) 
Bảng 3. Phân bố 10 bệnh mắc hàng đầu, tần số và (%) 
Nhóm bệnh 
Tên bệnh 
Tổng 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
I10-I15 
Tăng huyết áp 
2679 
(17,09) 
308 
(13,53) 
339 
(14,15) 
426 
(17,20) 
481 
(17,62) 
504 
(18,54) 
621 
(20,19) 
K20-K31 
Bệnh của thực quản, dạ dày, tá tràng 
1474 
(9,40) 
236 
(10,37) 
205 
(8,56) 
246 
(9,93) 
270 
(9,89) 
237 
(8,72) 
280 
(9,10) 
J40-J47 
Bệnh đường hô hấp dưới mạn tính 
764 
(4,87) 
117 
(5,14) 
124 
(5,18) 
111 
(4,48) 
107 
(3,92) 
136 
(5,00) 
169 
(5,49) 
I20-I25 
Bệnh tim do thiếu máu cục bộ 
627 
(4,00) 
103 
(4,53) 
96 
(4,01) 
97 
(3,92) 
99 
(3,63) 
113 
(4,16) 
119 
(3,87) 
E10-E14 
Tiểu đường 
569 
(3,63) 
96 
(4,22) 
90 
(3,76) 
84 
(3,39) 
88 
(3,22) 
93 
(3,42) 
118 
(3,84) 
I60-I69 
Bệnh mạch máu não 
496 
(3,16) 
73 
(3,21) 
80 
(3,34) 
79 
(3,19) 
87 
(3,19) 
75 
(2,76) 
102 
(3,32) 
J30-J39 
Bệnh khác của đường hô hấp trên 
459 
(2,93) 
71 
(3,12) 
98 
(4,09) 
76 
(2,80) 
98 
(3,19) 
R50-R69 
Triệu chứng, dấu chứng toàn thân 
459 
(2,93) 
75 
(3,03) 
101 
(3,70) 
89 
(3,27) 
92 
(2,99) 
D10-D36 
Bướu lành 
415 
(2,65) 
91 
(4,00) 
101 
(4,22) 
78 
(3,15) 
71 
(2,60) 
K35-K38 
Bệnh ruột thừa 
354 
(2,26) 
60 
(2,64) 
70 
(2,92) 
A00-A09 
Nhiễm trùng đường ruột 
253 
(2,25) 
71 
(2,60) 
C00-C97 
Bướu ác tính 
347 
(2,21) 
58 
(2,34) 
85 
(2,76) 
I30-I52 
Thể bệnh tim khác 
344 
(2,99) 
67 
(2,70) 
H25-H28 
Bệnh thuỷ tinh thể 
337 
(2,15) 
93 
(3,41) 
82 
(3,02) 
H80-H83 
Bệnh tai trong 
337 
(2,15) 
77 
(2,83) 
90 
(2,93) 
N20-N23 
Sỏi niệu 
326 
(2,08) 
58 
(2,55) 
J20-J22 
Nhiễm trùng đường hô hấp dưới, cấp, khác 
324 
(2,07) 
66 
(2,76) 
Bảng 4. Tử vong chung năm 2000 – 2005, tần số và (%) (N=16075) 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
Tổng 
Tử vong 
20 (0,84) 
22 (0,89) 
14 (0,55) 
25 (0,90) 
16 (0,58) 
14 (0,45) 
111 (0,69) 
Bảng 5. Mười chương bệnh tử vong hàng đầu, tần số và (%) 
Chương bệnh 
Tổng 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
9 
410 (43,66) 
74 (47,44) 
85 (49,13) 
63 (40,65) 
74 (42,05) 
54 (40,00) 
60 (41,67) 
18 
134 (14,27) 
19 (12,18) 
28 (16,18) 
28 (18,06) 
23 (13,07) 
18 (13,33) 
18 (12,50) 
10 
131 (13,95) 
20 (12,82) 
15 (8,67) 
17 (10,97) 
34 (19,32) 
24 (17,78) 
21 (14,58) 
2 
84 (8,95) 
14 (8,97) 
9 (5,20) 
13 (8,39) 
14 (7,95) 
15 (11,11) 
19 (13,19) 
11 
52 (5,54) 
8 (5,13) 
7 (4,05) 
9 (5,81) 
11 (6,25) 
5 (3,70) 
12 (8,33) 
1 
44 (4,69) 
9 (5,77) 
12 (6,94) 
3 (1,94) 
8 (4,55) 
6 (4,44) 
6 (4,17) 
4 
40 (4,26) 
4 (2,56) 
11 (6,36) 
10 (6,45) 
7 (3,98) 
4 (2,96) 
20 
13 (1,38) 
4 (2,56) 
1 (0,58) 
3 (1,94) 
1 (0,57) 
4 (2,96) 
14 
10 (1,06) 
2 (1,28) 
1 (0,58) 
3 (1,94) 
3 (1,70) 
1 (0,69) 
6 
6 (0,64) 
1 (0,58) 
3 (1,94) 
1 (0,74) 
1 (0,69) 
12 
5 (0,53) 
1 (0,64) 
1 (0,58) 
1 (0,65) 
1 (0,74) 
1 (0,69) 
19 
4 (0,43) 
1 (0,64) 
1 (0,58) 
1 (0,65) 
1 (0,74) 
13 
2 (0,21) 
1 (0,58) 
1 (0,57) 
3 
2 (0,21) 
1 (0,69) 
Bảng 6. Phân bố 10 nhóm bệnh chết hàng đầu, tần số và (%) 
Nhóm bệnh 
Tổng 
2000 
2001 
2002 
2003 
2004 
2005 
I10-I15 
204 (21,73) 
37 (23,72) 
47 (27,17) 
33 (21,29) 
36 (20,45) 
22 (16,30) 
29 (20,14) 
R95-R99 
100 (10,65) 
15 (9,62) 
22 (12,72) 
23 (14,84) 
17 (9,66) 
14 (10,37) 
9 (6,25) 
I20-I25 
96 (10,22) 
16 (10,26) 
26 (15,03) 
12 (7,74) 
20 (11,36) 
8 (5,93) 
14 (9,72) 
C00-C97 
82 (8,73) 
13 (8,33) 
9 (5,20) 
13 (8,39) 
14 (7,95) 
14 (10,37) 
19 (13,19) 
J40-J47 
56 (5,96) 
9 (5,77) 
10 (5,78) 
8 (5,16) 
15 (8,52) 
7 (5,19) 
7 (4,86) 
K70-K77 
44 (4,69) 
6 (3,47) 
9 (5,81) 
11 (6,25) 
10 (6,94) 
E10-E14 
36 (3,83) 
11 (6,36) 
8 (5,16) 
7 (3.98) 
4 (2,96) 
I60-I69 
31 (3,30) 
8 (5,13) 
7 (4,52) 
7 (5,19) 
I30-I52 
30 (3,19) 
6 (3,85) 
6 (3,87) 
4 (2,96) 
7 (4,86) 
J10-J18 
30 (3,19) 
5 (3,21) 
10 (5,68) 
7 (5,19 
I70-I79 
29 (3,09) 
10 (5,68) 
10 (7,41) 
6 (4,17) 
R50-R69 
28 (2,98) 
5 (2,89) 
5 (2,84) 
9 (6,25) 
J95-J99 
15 (1,60) 
4 (2,56) 
A15-A19 
12 (1,28) 
4 (2,56) 
5 (2,89) 
B15-B19 
11 (1,17) 
4 (2,78) 
I05-I09 
10 (1,06) 
3 (1,94) 
BÀN LUẬN 
Xu hướng bệnh tật và tử vong của bệnh viện Nguyễn Trãi là mô hình 
bệnh tật và tử vong của các nước phát triển, trong đó bệnh không lây là ưu 
thế, rồi đến bệnh dịch lây, và tai nạn ngộ độc chấn thương (Bảng 1). Một lý 
giải khác cho tỉ lệ thấp cuả các bệnh lây là vì TP. HCM có nhiều bệnh viện 
chuyên khoa sâu nên bệnh nhân nhập bệnh viện Nguyễn Trãi chủ yếu là 
bệnh không lây. Với mô hình bệnh tật và tử vong của các nước phát triển, 
vấn đề đặt ra cho bệnh viện Nguyễn Trãi là trang thiết bị y tế và nhân lực 
phải được đầu tư ngang tầm, để đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh và sự phát 
triển bền vững. 
Mười chương bệnh và mười phân nhóm bệnh mắc hàng đầu 
Các chương bệnh hàng đầu trong 6 năm là tuần hoàn, tiêu hoá, hô hấp, 
bệnh nhiểm trùng và ký sinh trùng, bệnh mắt và phần phụ, nội tiết-dinh 
dưỡng-chuyển hoá, bướu, niệu-sinh dục; trong đó, ba chương tuần hoàn 
(chương 9), tiêu hoá (chương 11), và hô hấp (chương 10) luôn luôn ở vị trí 
đầu trong tất cả các năm (Bảng 2). Những dữ kiện của nghiên cứu này là 
những dữ kiện từ bệnh viện, với những bệnh nhân đến từ nhiều địa phương 
khác nhau, do đó, kết quả có thể không đại diện cho một cộng đồng dân cư 
cụ thể. Tuy nhiên, trong mô hình bệnh tật chung của cả nước, của hai khu 
vực đông nam bộ, và khu vực đồng bằng sông Cửu Long theo niên giám 
thống kê y tế trong cùng thời khoảng [1] [2] [3] [4] [5] [6] ba chương tuần 
hoàn, tiêu hoá, và hô hấp luôn ở những vị trí cao. Trong số mười phân nhóm 
bệnh nhập viện hàng đầu, năm nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện cao nhất là tăng 
huyết áp, viêm thực quản-dạ dày-tá tràng, bệnh đường hô hấp dưới mạn tính, 
bệnh tim do thiếu máu cục bộ, và tiểu đường (Bảng 3). Với sự phân bố của 5 
phân nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao, đặt ra vấn đề tập trung đầu tư xây dựng các 
chuyên khoa phù hợp để đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cũng như sự phát 
triển lâu dài của bệnh viện. 
Mười chương bệnh và mười phân nhóm bệnh tử vong hàng đầu 
Tỉ lệ tử vong chung trong 6 năm là thấp và giảm dần cho thấy hiệu 
quả cao của điều trị (Bảng 4). Theo bảng 5, trong mười chương bệnh có tỉ lệ 
tử vong hàng đầu, chương bệnh hệ tuần hoàn, triệu chứng dấu chứng và 
những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường không phân loại nơi 
khác, bệnh hô hấp, bướu tân sinh, và bệnh hệ tiêu hóa luôn ở vị trí đầu trong 
tất cả các năm và có khuynh hướng giảm nhẹ, riêng chương bệnh hô hấp 
nhập viện tăng và tử vong tăng nhẹ. Mô hình này tương tự với thống kê tại 
Úc năm 2000-2002, các chương bệnh tử vong hàng đầu là tuần hoàn, hô hấp, 
nội tiết-dinh dưỡng và rối loạn chuyển hoá, tiêu hoá, triệu chứng-dấu chứng 
và những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi 
khác [7]. 
Chương triệu chứng dấu chứng và những phát hiện lâm sàng-cận lâm 
sàng bất thường, không phân loại nơi khác) có tỉ lệ tử vong cao chủ yếu là 
do bệnh nhân khi đến bệnh viện đã ngưng tim ngưng thở (tạm gọi là chết 
truớc nhập viện) nhưng theo qui định chuyên môn sau 30 phút hồi sinh vô 
hiệu thì được nhìn nhận là tử vong. Việc mổ xác để xác định nguyên nhân 
chỉ tiến hành khi có yêu cầu của công an, hoặc được người nhà bệnh nhân 
đồng ý. Tuy nhiên, hầu hết gia đình bệnh nhân đều không đồng ý, do đó, 
nguyên nhân tử vong được chọn là triệu chứng dấu chứng và những phát 
hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi khác. 
Tử vong của chương bướu tân sinh có khuynh hướng tăng nhẹ cho dù 
tỉ lệ nhập viện của nhóm bệnh chương này giảm theo từng năm. Điều này 
xảy ra vì bệnh nhân bướu ác tính khi điều trị ở bệnh viện chuyên khoa đến 
giai đoạn xấu được cho ra viện và bệnh nhân nhập viện trở lại bệnh viện 
Nguyễn Trãi để được chăm sóc trong giai đoạn cuối cùng của cuộc sống. 
Chương nhiễm trùng-ký sinh trùng có khuynh hướng nhập viện tăng nhẹ 
hàng năm và tỉ lệ tử vong giảm dần, có thể việc điều trị của bệnh viện được 
nâng lên, hoặc có thể những bệnh nhân nặng ở nhóm bệnh này đã đến bệnh 
viện chuyên khoa lây. 
Mười bệnh tử vong hàng đầu là tăng huyết áp, nguyên nhân tử vong 
không rõ ràng hay không biết, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bướu ác tính, 
bệnh đường hô hấp dưới mạn tính, bệnh của gan, tiểu đường, bệnh động 
mạch, tiểu động mạch và mao mạch, thể bệnh tim khác, và bệnh mạch máu 
não (Bảng 6). So sánh với các nước, mô hình tử vong của bệnh viện Nguyễn 
Trãi gần giống với mô hình tử vong của các bệnh viện ở Úc, cụ thể là bướu 
ác tính, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bệnh mạch máu não, bệnh đường hô 
hấp dưới mạn tính, tai nạn chấn thương ngộ độc, tiểu đường, cảm cúm và 
viêm phổi, suy tim, bệnh động mạch, tiểu động mạch và mao mạch [8], và 
cũng gần giống với những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Singapore [9]. 
Sự so sánh này không thật sự sát hợp vì bệnh viện Nguyễn Trãi là bệnh viện 
đa khoa không có chuyên khoa sản, nhi, và ở TP. HCM có những bệnh viện 
chuyên khoa (Ung bướu, Chấn thương - Chỉnh hình, Sản, Nhi, Tai nạn, chấn 
thương sọ não) nên tần số nhập viện về bệnh ung bướu, bệnh nhiễm trùng, 
tai nạn- chấn thương là thấp. Với thứ tự các nhóm bệnh tử vong hàng đầu 
cũng cho thấy một phần mô hình tử vong đang dần dịch chuyển sang những 
bệnh bị ảnh hưởng bởi lối sống hiện đại như tim mạch, hô hấp, ung thư, nội 
tiết. 
Tóm lại, mô hình bệnh tật và tử vong tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong 
sáu năm đầu thế kỷ 21 có đặc tính mô hình bệnh tật của các nước phát triển 
ở giai đoạn đầu. Với những tiến bộ của tình trạng kinh tế, khoa học, và công 
nghiệp, đời sống của con người không còn lệ thuộc nhiều vào môi trường tự 
nhiên, mà chịu ảnh hưởng của cách sống và hành vi. Bệnh không lây, tai nạn 
chấn thương chiếm ưu thế trong số các bệnh nhập viện, và tử vong nghiêng 
về những bệnh tim mạch, hô hấp, ung thư, và nội tiết. Những điều mà bệnh 
viện Nguyễn Trãi cần quan tâm trong những năm sắp tới là phát hiện sớm 
bệnh, đẩy mạnh giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, tăng cường hiệu quả của 
các biện pháp điều trị sẵn có, và đầu tư cho những phương tiện chẩn đoán và 
điều trị tốt hơn. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Đề tài - MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở BỆNH NHÂN NỘI TRÚ.pdf Đề tài - MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở BỆNH NHÂN NỘI TRÚ.pdf