Đề tài Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất -Xuất nhập khẩu Hà Nội

Tài liệu Đề tài Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất -Xuất nhập khẩu Hà Nội: Lời mở đầu Nói đến sản xuất kinh doanh dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào không ai có thể quên vấn đề hiệu quả. Năng suất - chất lượng- hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ phát triển về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị cơ sở. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo tiền đề phấn đấu đạt mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tích luỹ cho xã hội. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp không chủ động khai thác hết khả năng sẵn có của mình để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao mà có thái độ ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Từ khi bước sang cơ chế thị trường với sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã có không ít các doanh nghiệp do không thích nghi được với cơ chế mới nên đã bị đào thải (giải thể hoặc phá sản). Nền kinh tế thị trường đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hội nhập và phát...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất -Xuất nhập khẩu Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nói đến sản xuất kinh doanh dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào không ai có thể quên vấn đề hiệu quả. Năng suất - chất lượng- hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ phát triển về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị cơ sở. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo tiền đề phấn đấu đạt mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tích luỹ cho xã hội. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp không chủ động khai thác hết khả năng sẵn có của mình để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao mà có thái độ ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Từ khi bước sang cơ chế thị trường với sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã có không ít các doanh nghiệp do không thích nghi được với cơ chế mới nên đã bị đào thải (giải thể hoặc phá sản). Nền kinh tế thị trường đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hội nhập và phát triển nhưng để thực hiện được điều đó thì mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là phải tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, trình độ tổ chức sản xuất sản phẩm. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội cùng với sự hướng dẫn giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS-TS Nguyễn Đình Kiệm và các cô chú trong phòng kế toán tổng hợp của công ty, em đã nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội ” Nội dung chính của bản luận văn này gồm 3 chương: Chương I: lý luận chung về lợi nhuận của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội Chương III: một số giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội Do trình độ lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên bản luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót khuyết điểm. Em rất monh nhận được sự đóng góp giúp đỡ của các thầy cô giáo để bản luận văn của em được hoàn thiện hơn Chương I: lí luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Lơị nhuận và vai trò của lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 1. Khái niệm a. Lợi nhuận và bản chất của lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp đều hướng tới . Khi tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào người ta đều tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Thực tế, có nhiều đối tượng quan tâm đến kết quả kinh doanh- lợi nhuận của doanh nghiệp , do đó tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận , xét trên góc độ khác nhau có thể có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau: Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mark cho rằng:" Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất gọi là lợi nhuận " Theo Mark:'' Giá trị thặng dư hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận "1 Các nhà kinh tế học hiện đại mà đại diện là David-Beggs, Samuelson cho rằng"Sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định '' là lợi nhuận Các quan điểm trên tuy được phát biểu khác nhau nhưng họ đều cho rằng lợi nhuận là phần dôi ra so với cho phí đã bỏ ra. Đó chính là bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Có thể nói kinh tế thị trường là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội mà ở đó các doanh nghiệp , các tổ chức , các cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách này hay cách khác , cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận . Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát huy tối đa khả năng và tinh thần tự chủ của mình để tạo ra thu nhập và lợi nhuận vì sự phát triển của chính bản thân. Như vậy lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp , đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các khoản chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định . Trong đó các khoản thu nhập của doanh nghiệp là toàn bộ khoản tiền mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động tài chính , hoạt động bất thường trong một thời kỳ nhất định Ta có công thức xác định: Lợi nhuận =Tổng thu nhập - Tổng chi phí 2. Nội dung lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường với cơ chế hạch toán kinh doanh , phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, đồng thời để có thể tối đa hoá được lợi nhuận , các doanh nghiệp đã đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của doanh nghiệp .Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp thường bao gồm: - Lợi nhuận hoạt động kinh doanh : Là khoản chênh lệch giữa doanh thu hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp ). Bộ phận lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp . - Lợi nhuận hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là những hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như :góp vốn liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần,hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu , cổ phiếu cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay khác ngoài nguồn vốn kinh doanh và quỹ…. Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng góp phần lớn vào việc làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp . - Lợi nhuận hoạt động bất thường: Đó là khoản lãi thu được từ các hoạt động (nghiệp vụ ) riêng biệt khác ngoài những nghiệp vụ nêu trên. Những khoản này phát sinh không thường xuyên, doanh nghiệp không thể dự kiến trước được. Lợi nhuận từ hoạt động bao gồm: lợi nhuận các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ, các khoản thu từ bán vật tư tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt-mất mát,lãi thu từ nhượng bán , thanh lý tài sản,tiền được phạt, được bồi thường. Vậy nói chung tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo thành từ 3 bộ phận nói trên. Tuy nhiên tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác biệt nhau trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và môi trường kinh tế khác nhau. Nhưng nhìn chung lợi nhuận hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng cao và có ý nghĩa quyết tổng lợi nhuận của doanh nghiệp . Việc xem xét nội dung lợi nhuận doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng -giúp ta thấy được khoản mục nào tạo nên lợi nhuận và tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp , từ đó có thể xem xét đánh giá kết quả từng hoạt động để tìm ra và phát huy các mặt tích cực cũng như khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực góp phần giúp doanh nghiệp đề ra quyết định thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận của doanh nghiệp . 3. Vai trò của lợi nhuận Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Đối với doanh nghiệp : Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp . Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều kiện tiên quyếtlà doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời nó là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ,là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh . Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp . Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên 4 phạm vi chính: mức nộp ngân sách với Nhà nước, đảm bảo đời sống cho các bộ công nhân viên, mở rộng quy mô kinh doanh và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường . - Lợi nhuận giúp cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô sản xuất : Cơ chế quản lý mới đã xoá bỏ sự bao cấp của Nhà nước , điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chủ vè tài chính , phải chủ động tìm nguồn tài nguyên cho mọi như cầu sản xuất . Lợi nhuận không những trở thành mục đích thiết thực mà còn là động lực mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không mở rộng được quy mô sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải thiện đời sống cho cán bộ công viên…từ đó sản phẩm bán ra không đáp ứng yêu cầu về chất lượng , giá thành cao dẫn đến thất bại trong cạnh tranh, về lâu dài có thể dẫn tới phá sản. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật chất lượng sản phẩm chủ yếu được quyết định bởi trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn bổ xung từ lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện đầu tư vốn phát triển kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh , từ đó góp phần tăng năng suất lao động , tăng khối lượng sản xuất ,nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm phục vụ tối đa nhu cầu người tiêu dùng, nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp . Đối với doanh nghiệp thương mại nhờ có thêm vốn doanh nghiệp sẽ mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng hàng hoá vận chuyển đa dạng hoá chủng loại hàng hoá kinh doanh .Nhờ vậy mà quy mô kinh doanh tăng lên. - Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất ,nâng cao chất lượng sản phẩm Mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người cung cấp sức lao động là tiền lương.Tiền lương có hai chức năng:đối với nhà sản xuất nó là một yếu tố chi phí- đối với người lao động nó là thu nhập, là lợi ích kinh tế của họ. Đối với doanh nghiệp chi phí thuê sức lao động là thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận -vì vậy đó là chi phí được bù đắp ở kết quả lao động , năng suất lao động của cán bộ công nhân viên tăng lên là điều kiện để doanh nghiệp tăng lợi nhuận . Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất lao động . Doanh nghiệp có lợi nhuận thì nhập của người lao động được đảm bảo , từ đó sẽ kích thích họ hăng say lao động , có trách nhiệm với chất lượng sản phẩm , phát huy tối đa sức sáng tạo của họ trong sản suất. Ngoài ra, khi lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên đồng nghĩa với việc tăng thêm các quỹ trong đó có quỹ khen thưởng , phúc lợi và lợi ích của người lao động cũng tăng lên. - Lợi nhuận cũng góp phần khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả , sử dụng vốn kinh doanh hợp lý, bộ phận quản lý có tài năng lãnh đạo, lực lượng cán bộ công nhân viên có trình độ có thực lực. Nhờ vậy mà uy tín, thế lực của doanh nghiệp ngày càng tăng, được khách hàng -nhà cung cấp-các tổ chức tín dụng và nhà nước tín nhiệm, từ đó hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi- hàng hoá được tiêu thụ nhanh hơn , doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn bằng cách sử dụng tín dụng hàng hoá, phát hành cổ phiếu liên doanh kết… * Đối với xã hội: Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh có lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp có thể tích luỹ vốn thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp mình . Khi mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào trong nền kinh tế thực hiện tái sản xuất xã hội cũng tất yêú là qúa trình tái sản xuất mở rộng.Mặt khác, khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lợi thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước cũng tăng lên (thông qua sắc thuế theo quy định của pháp luật ) đáp ứng nhu cầu tích luỹ vốn để thực hiện quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo các chức năng của Nhà nước như: phát triển kinh tế , củng cố tiềm lực quốc phòng,duy trì bộ máy quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân. Qua việc phân tích trên ta thấy lợi nhuận không chỉ có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nền quốc dân, bởi lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của Nhà nước , của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Lợi nhuận làm cho Nhà nước ,doanh nghiệp , người lao động có quan hệ gắn bó và cùng phát triển . II. phương pháp xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp 1. Phương pháp xác định lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường, để tăng cường khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá hoạt đông kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó lợi nhuận doanh nghiệp thu được từ các hoạt động khác nhau như :hoạt động kinh doanh , hoạt động tài chính , hoạt động bất thường -tổng lợi nhuận sẽ là tổng hợp lợi nhuận từ các hoạt động đó Lợi nhuận = Lợi nhuận hoạt + Lợi nhuận hoạt + Lợi nhuận Doanh nghiệp động kinh doanh động tài chính hbt Xem xét từng nhân tố ta có: - Lợi nhuận hoạt động kinh doanh :Là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp và được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động= Doanh thu - Trị giá vốn- Chi phí - Chi phí quản Kinh doanh thuần hàng bán bán hàng lý doanh nghiệp. Trong đó: Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản giảm trừ, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Trong đó doanh thu thuần được xác đinh: Doanh thu = Tổng doanh thu - Khoản giảm giá - Trị giá hàng - Thuế gián thuần bán hàng hàng bán bán bị trả lại thu + Tổng doanh thu (thu nhập từ hoạt động kinh doanh) có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp , nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và các nghĩa vụ với Nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu quan trọng chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh . Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng,sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền + Các khoản giảm trừ bao gồm: Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. + Thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…là các loại thuế theo luật định áp dụng cho các loại hàng hoá thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá . Sau khi xác định được chỉ tiêu doanh thu thuần và giá vốn hàng bán (hay giá thành hàng bán)ta có chỉ tiêu tài chính trung gian là "lãi gộp " Lãi gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá , dịch vụ như:tiền lương ,các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng,tiếp thị đóng gói bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu bao bì , dụng cụ đồ dùng , chi phí dịch vụ mua ngoài , chi phí bảo hành, quảng cáo…. + Chi phí quản lý doanh nghiệp:bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh , quản lý hành chính,và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốcvà nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu tiêu dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung toàn doanh nghiệp …. Qua việc xác định trên ta có thể tổng kết cách xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo sơ đồ sau: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ Doanh thu thuần Lãi gộp Lợi nhuận từ HĐKD Giá vốn hàng bán CFBH & CPQLDN Các khoản giảm trừ * Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa hoạt động tài chính và thu nhập hoạt động tài Lợi nhuận hoạt động tài chính được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động Doanh thu hoạt- Chi phí hoạt -Thuế gián Tài chính = động tài chính động tài chính thu (nếu có) Các khoản này bao gồm: Lợi nhuận từ hoạt động góp vốn liên doanh Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư , mua bán chứng khoán ngắn và dài hạn Lợi nhuận về cho thuê tài sản Lợi nhuận do kinh doanh ngoại tệ Hoàn nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn và dài hạn Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác. *Lợi nhuận từ hoạt động bất thường Là những khoản lợi nhuận không dự tính trước hoặc có dự kiến nhưng ít có khả năng thực hiện hoặc những khoản thu mang tính chất không thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan hoặc do khách quan mang lại. Lợi nhuận hoạt động bất thường được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động Doanh thu - Chi phí - Thuế gián bất thường = bất thường bất thường thu (nếu có) Thu nhập bất thường gồm: Các khoản nợ khó đòi đã duyệt bỏ (theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán) nay đòi được. Các khoản phải trả nhưng không có chủ nợ Chênh lệch nhượng bán thanh lý tài sản Thu từ việc bán vật tư , phế liệu tài sản thừa Các khoản lợi tức năm trước bỏ sót chưa ghi sổ. Số dư hoàn nhập quỹ các khoản dự phòng, giảm giá , phải thu khó đòi. Các khoản thu nhập bất thường khác: tiền được phạt, tiền được bồi thường, ngân sách thoái thu thuế, các khoản trích thành sản phẩm thừa khi hết hạn… + Chi phí bất thường là những chi phí liên quan đến các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động bất thường, cũng có thể là những khoản chi phí bị bỏ sót từ những năm trước khi lên báo cáo. Những khoản chi phí bất thường có thể do .chủ quan hay khách quan doanh nghiệp mang lại bao gồm.: -Chi phí thanh lý ,nhượng bán tài sản cố định. -Hao hụt vật tư hàng hoá trong quá trình trong quá trình vận chuyển trong kho - Các khoản lỗ hoặc chi phí do kế toán bị nhầm lẫn hay bỏ sót khi vào sổ - Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xoá. - Các chi phí bất thường khác như: tiền phạt, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng, tiền phạt thuế, truy nộp thuế… Sau khi thu được lợi nhuận, doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, phần còn lại là lãi thực của doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế = Tổng lợi nhuận -thuế thu nhập doanh nghiệp ý nghĩa: Xác định chính xác lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), là cơ sở cho việc đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời là cơ sở cho việc phân phối đúng đắn lợi nhuận đặt ra để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục 2. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tồng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp . Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển , tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình và ngược lại. 2.1 Yêu cầu của việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp Quá trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây: -Doanh nghiệp cần giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Mối quan hệ này thể hiện ở tỷ lệ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và tỷ lệ trích lập các quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp . -Quá trình phân phối lợi nhuận phải đảm bảo mối quan hệ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tái sản xuất kinh doanh giản đơn và tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Mối quan hệ này được thể hiện ở tỷ lệ trích lập các quỹ của doanh nghiệp , trong đó phần lợi nhuận để tái đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh được chú trọng một cách thoả đáng. 2.2 Trình tự phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Nội dung cơ bản của việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tuỳ thuộc vào đặc điểm sở hữu của từng loại hình doanh nghiệp khác nhau Dựa theo các yêu cầu về phân phối lợi nhuận quy trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại được tiến hành theo trình tự sau: Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách theo luật định (32%) Doanh nghiệp nộp tiền thu sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước (nếu là doanh nghiệp Nhà nước ) (3.6%-6%) Trừ các khoản tiền phạt, vi phạm kỷ luật thu nộp ngân sách, vi phạm hành chính hợp đồng, phạt nợ quá hạn, các khoản chi phí không hợp lệ chưa được trừ khi xác định thuế thu nhập phải nộp, các khoản lỗ chưa được trừ vào thu nhập trước thuế thu nhập doanh nghiệp . Phân chia kết qủa hoạt động cho các bên tham gia liên doanh theo hợp đồng đã ký kết hoặc chia lãi cổ phần cho các cổ đông Trích lập các quỹ của doanh nghiệp Quy trình phân phối lợi nhuận có thể tổng quát theo sơ đồ sau: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phụ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính Lợi nhuận từ hoạt động bất thường Tổng lợi nhuận Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp Nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách (nếu là DNNN) Bù đắp chi phí bất hợp lý ... (nếu có) Chia liên doanh hoặc lãi cổ phần Trích lập các quỹ doanh nghiệp Thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập bổ sung Quỹ đầu tư phát triển Quỹ dự phòng tài chính Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm Quỹ khen thưởng và phúc lợi III. Kế hoạch hoá lợi nhuận và các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận doanh nghiệp 1. Kế hoạch hoá lợi nhuận và sự cần thiết phải lập kế hoạch lợi nhuận Kế hoạch lợi nhuận hàng năm là một kế hoạch tài chính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và là một bộ phận của hệ thống kế hoạch tài chính doanh nghiệp . Trong sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường , các doanh nghiệp đều rất chú ý đến hiệu quả của công việc chi phí , lao động, vật tư, tiền vốn. Việc sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp phải tính toán xây dựng mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập, sản xuất ra bao nhiêu sản phẩm với giá bán là bao nhiêu thì đảm bảo hoà được vốn bỏ ra và bao nhiêu sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ thì mang lại mức lãi theo dự kiến. Như ta đã biết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và nó có sự bù trừ lẫn nhau. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải đứng trước những tình huống phát sinh ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Các tình huống đó có thể do bên ngoài tác động như: khí hậu, thời tiết… kết quả là làm cho một phần lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm đi. Như vậy, nhà quản lý có thể phải chấp nhận một mức lỗ cá biệt để thu được lợi nhuận tổng thể cao. Tuy nhiên để chấp nhận một mức lỗ như vậy đòi hỏi người quản lý phải tính toán kỹ, kiểm soát chặt chẽ nếu không sẽ làm cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ. Hơn nữa do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông vận tải, vận chuyển hàng hoá, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận thu được giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. Việc bố trí sắp xếp mạng lưới kinh doanh cho thuận tiện làm giảm các chi phí vận chuyển bốc dỡ, bảo quản phục vụ được tối đa người tiêu dùng cũng là một yếu tố làm chi phí của doanh nghiệp giảm xuống, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao chất lượng mẫu mã, hoàn thiện thêm chức năng sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Tất cả những yếu tố trên làm cho số lợi nhuận giữa các hoạt động trong từng thời kỳ của doanh nghiệp cũng không giống nhau. Do đó hàng năm trước khi bước vào năm kế hoạch của hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch lợi nhuận. Kế hoạch lợi nhuận giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp dự kiến được số lãi mà doanh nghiệp sẽ tạo ra trong năm, từ đó giúp cho doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đề ra các giải pháp hữu hiệu để thực hiện thành công mục tiêu. Mặt khác biết trước quy mô lợi nhuận sẽ đạt được giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động trong việc phân phối và sử dụng lợi nhuận một cách hiệu quả nhất. 1.2 Phương pháp lập kế hoạch hoá lợi nhuận Việc lập kế hoạch phải kết hợp với việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, phân tích tài chính, phân tích điểm hoà vốn. Thông qua việc phân tích điểm hoà vốn, doanh nghiệp có thể rút ra những kết luận cần thiết đối với từng mặt hàng như: khối lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán tối ưu để đạt được mức lợi nhuận dự tính. Các chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận bao gồm: tổng mức lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận doanh thu, tỷ suất lợi nhuận vốn, tỷ suất lợi nhuận chi phí (cách thức xác định đã được đề cập ở phần trên). Để dự kiến mức lợi nhuận trong kỳ người ta sử dụng phương pháp xác định lợi nhuận trực tiếp và phương pháp sản lượng hoà vốn. Phương pháp xác định lợi nhuận trực tiếp có ưu điểm đơn giản dễ tính nhưng không phù hợp với doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng. Phương pháp sản lượng hoà vốn giúp doanh nghiệp thấy được mối quan hệ giữa lợi nhuận đạt được trong kỳ với quy mô kinh doanh và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa to lớn cho việc lựa chọn quy mô kinh doanh hợp lý để tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp. Dù xác định lợi nhuận theo phương pháp nào thì chúng ta đều thấy sự cần thiết phải lập kế hoạch hoá lợi nhuận. 2. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình lợi nhuận doanh nghiệp Để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp người ta có thể sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối. Tuy nhiên ta không thể coi nó là chỉ tiêu duy nhất , cũng không thể chỉ dùng nó để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì : Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau. Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. Ơ các doanh nghiệp có quy mô lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn nhiều những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Cho nên để đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ suât lợi nhuận hay hệ số sinh lời. * Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận , mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau cụ thể: 2.1 Tỷ suất lợi nhuận vốn: Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ với số vốn sử dụng bình quân ( gồm cả vốn cố định và vốn lưu động ) hoặc vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: Tsv= Trong đó: Tsv Tỷ suất lợi nhuận vốn P :Lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ Vbq: Tổng số vốn sản suất được sử dụng bình quân trong kỳ (cả vốn cố định và vốn lưu động) hoặc vốn chủ sở hữu. Vốn cố định được xác định bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi số tiền khấu hao luỹ kế đã thu hồi . Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm. ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ bỏ ra 100 đồng vốn thì doanh nghiệp thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận . Tỷ suất lợi nhuận vốn cho phép ta đánh giá được hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra những khả năng tiềm tàng và những biện pháp thích hợp làm cho công tác quản lý và sử dụng vốn cao hơn. 2.2 Tỷ suất lợi nhuận giá thành : Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tsg = Trong đó: Tsg :Tỷ suất lợi nhuận giá thành P :Lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế đạt được trong kỳ Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng doanh thu thì doanh nghiệp thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận, đồng thời nó cũng phản ánh hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ trong kỳ . 2.3 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu :Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế sản phẩm tiêu thụ với doanh thu tiêu thụ sản đạt được trong kỳ. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tst = Trong đó: Tst: Tỷ suất lợi nhuận giá thành P: Lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ T: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ ý nghĩa : Chỉ tiêu này phản ánh doanh nghiệp cứ bán được 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận . Nếu chỉ tiêu này của doanh nghiệp thấp hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp đã bán hàng với giá thấp hoặc giá thành của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp khác IV. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp 1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao lợi nhuận Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận cũng như từ mục tiêu và động lực phát triển của doanh nghiệp ta thấy việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì: Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường , doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Hay nói một cách khác, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ của pháp luật.Xuất phát từ mục tiêu đó, trong kinh doanh , các doanh nghiệp luôn tìm cho mình một con đường riêng tối ưu để có thể thoả mãn cao nhất nhu cầu của thị trường và đạt tới mức lợi nhuận tối đa. Như vậy động lực lợi nhuận đã thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động ngày càng mở rộng. Và ngược lại khi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được mở rộng thì tất yếu sẽ đưa lợi nhuận doanh nghiệp ngày một tăng lên. Mặt khác muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả , tức là có lợi nhuận. Có lợi nhuận các doanh nghiệp mới có tiền đề vật chất để bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh , mở rộng quy mô kinh doanh hay nói cách khác là để tồn tại vầ phát triển , còn ngược lại nếu doanh nghiệp kinh doanh không có lợi nhuận , vốn của doanh nghiệp sẽ mất dần và đẩy doanh nghiệp tới bên bờ của sự phá sản. Hơn nữa, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, tức là có lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh để từng bước thay đổi quy trình công nghệ tiên tiến cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Lợi nhuận cao sẽ giúp cho tốc độ tích luỹ của doanh nghiệp càng nhanh, vốn kinh doanh cũng tăng nhanh tạo uy tín và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giành thắng lợi với hiệu quả kinh doanh cao nhất trên cơ sở đáp ứng tốt nhất các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cho nhu cầu xã hội. Và chính lợi nhuận năm trước sẽ là cơ sở để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp vào năm sau. Khi lợi nhuận tăng, cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp sẽ có mức thu nhập thoả đáng, doanh nghiệp có tiền để chi các khoản lương, phúc lợi khen thưởng. Đây chính là đòn bẩy kinh tế kích thích tính năng động sáng tạo, tự giác, phát huy hết khả năng tiềm tàng của người lao động, tạo ra sự gắn kết giữa người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, nhờ vậy mà năng suất lao động sẽ không ngừng tăng lên. Rõ ràng đây là nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Ngoài ra, khi lợi nhuận doanh nghiệp tăng thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước (trên cơ sở nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp) cũng tăng, điều này góp phần vào việc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Như vậy, lợi nhuận không chỉ là niềm mơ ước của các nhà đẩu tư, nhà kinh doanh mà còn của cả những người lao động và ngân sách Nhà nước. Lợi nhuận là phương tiện để doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh và là yếu tố quyết định sự sống còn cũng như sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp là điều tất yếu khách quan đối với mọi doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận Để có thể tìm những biện pháp hữu hiệu nhằm đạt tới mức lợi nhuận mong muốn, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong các nhân tố đó có những nhân tố thuộc về bên trong (chủ quan của doanh nghiệp) nhưng cũng có thể là những nhân tố khách quan bên ngoài không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Tất cả các nhân tố đó có thể tác động có lợi hoặc bất lợi tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể: 2.1 Các nhân tố khách quan Thứ nhất là thị trường và sự cạnh tranh: thị trường ảnh hưởng trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp cung cấp hàng hoá ra thị trường là nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lời. Sự biến động của cung và cầu trên thị trường sẽ ảnh hưởng tới khối lượng hàng hoá bán ra của doanh nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, chứng tỏ nhu cầu về mặt hàng kinh doanh đã được đáp ứng đầy đủ, việc tăng khối lượng hàng hoá bán ra là hết sức khó khăn - điều này ảnh hưởng bất lợi tới yêu cầu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu chứng tỏ mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp đang được người tiêu dùng quan tâm và ưa thích - nói cách khác doanh nghiệp chưa đáp ứng được hết nhu cầu thị trường, lúc này doanh nghiệp dễ dàng đẩy mạnh hoạt động bán ra để tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Khi nhắc tới thị trường ta không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh bởi cạnh tranh là một quy luật tất yếu của thị trường. Ngày nay mọi doanh nghiệp đều phải đối mặt với vấn đề này. Cạnh tranh trên thị trường luôn ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, do đó nó tác động lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Vì thế, doanh nghiệp cần nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để có thể xác định vị thế của mình trên thị trường, từ đó xây dựng một chiến lược cạnh tranh đúng đắn, phương thức cạnh tranh có lợi nhất để thu được hiệu quả kinh doanh cao nhất tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thứ hai là giá cả hàng hoá tiêu thụ: giá bán tác động đến khối lượng hàng hoá và do đó tác động đến doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Về nguyên tắc theo quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu khi giá giảm thì mức tiêu thụ tăng và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường giá cả hàng hoá nhất trí với giá trị và dao động theo quy luật cung cầu. Doanh nghiệp không thể kiểm soát được mức giá trên thị trường. Lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không bị giảm nếu mức giảm giá bán nhỏ hơn mức tăng khối lượng hàng bán và doanh thu vượt quá điểm hoà vốn hay mức tăng của giá bán lớn hơn mức giảm của khối lượng hàng bán. Thứ ba là chính sách kinh tế của Nhà nước: vai trò chủ đạo của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng bằng chính sách, luật lệ và các công cụ tài chính. Cụ thể Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động của mọi doanh nghiệp, đồng thời thông qua các chính sách thuế Nhà nước thực hiên tốt công việc điều tiết vĩ mô của mình. Tóm lại, thuế và các chính sách kinh tế khác của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá dịch vụ trên thị trường… và vì vậy nó tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra, sự biến động của giá cả tiền tệ, nhân tố chất lượng hàng hoá (đối với doanh nghiệp chỉ hoạt động kinh doanh thuần tuý) cũng là nhân tố khách quan ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.2 Các nhân tố chủ quan: Thứ nhất là nhân tố con người: có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đăc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là nhân tố quan trọng tạo ra lợi nhuận. Chỉ trên tinh thần hăng say lao động , phát huy hết sức sáng tạo và tâm huyết của mình thì năng suất lao động của người lao động mới được nâng cao - từ đó nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Khoa học phát triển mạnh mẽ đã tạo ra nhiều máy móc góp phần giải phóng sức lao động song không vì thế mà vai trò của con người giảm đi mà càng khẳng định sự cần thiết của đội ngũ cán bộ có ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đặc biệt là trình độ quản lý. Thứ hai là nhân tố chất lượng và khối lượng hàng hoá tiêu thụ: khối lượng hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp thương mại bởi: "Doanh thu = SLHH tiêu thụ * giá bán ". Do đó khi các yếu tố khác không đổi thì khối lượng hàng hoá tiêu thụ tăng, doanh thu sẽ tăng kéo theo lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại. Như vậy, khối lượng hàng hoá tiêu thụ thông qua doanh thu ảnh hưởng gián tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì chất lượng sản phẩm sản xuất ra, còn đối với doanh nghiệp chỉ tiên hành hoạt động kinh doanh thuần tuý thì chất lượng dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra trong bán hàng là nhân tố chủ quan tác động rất lớn đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ - vì vậy ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ba là nhân tố kết cấu hàng hoá tiêu thụ: trong nền kinh tế thị trường để nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm rủi ro trong kinh doanh các doanh nghiệp thường kinh doanh nhiều loại hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên giá cả, tốc độ tiệu thụ, mức độ phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của các loại hàng hoá khác nhau là khác nhau. Từ đó cho thấy cơ cấu mặt hàng kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận. Do vậy, nếu doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm, đưa ra kết cấu hàng hoá hợp lý sẽ tránh được tình trạng ứ đọng khi khối lượng hàng hoá quá lớn so với mức cầu của thị trường hoặc có thể bỏ lỡ cơ hội tốt trong kinh doanh khi nhu cầu của thị trường lớn nhưng doanh nghiệp lại dự trữ quá ít. Thứ tư là khả năng về vốn: vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế trong kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến trang thiết bị máy móc kỹ thuật, mở rộng thị trường từ đó tạo điều kiện cho việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 3. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp Không ngừng nâng cao lợi nhuận là mục tiêu mà các doanh nghiệp luôn hướng tới trong sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ mục tiêu đó, trong kinh doanh các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những giải pháp tối ưu để phát huy một cách tốt nhất lợi thế của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp khác nhau có lợi đặc điểm kinh doanh khác nhau nên các giải pháp cụ thể sẽ không giống nhau. Tuy nhiên dưới góc độ lý luận chúng ta có thể đề cập đến một số giải pháp mang tính chất chung như sau: 3.1 Xây dựng phương án kinh doanh phù hợp Xây dựng phương án kinh doanh phù hợp là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Xây dựng phương án kinh doanh đúng đắn sẽ làm doanh nghiệp tốn ít công sức mà vẫn thu được nhiều kết quả, ngược lại xây dựng phương án sai không hợp lý sẽ dẫn đến thua lỗ, thậm chí phá sản. Do vậy phải xây dựng phương án kinh doanh một cách thận trọng, khoa học và chính xác. Vấn đề đặt ra trong việc xây dựng phương án kinh doanh phù hợp là phương án phải khả thi, phù hợp với tình hình thực tế, khai thác hết thế mạnh tiềm năng của doanh nghiệp mình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thu về lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. 3.2 Phấn đấu tăng năng suất lao động Tăng năng suất lao động là tăng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Để tăng năng suất lao động cần thực hiện các biện pháp: Cải tiến đổi mới trang thiết bị cho phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường về chất lượng sản phẩm . Nâng cao hiệu suốt sử dụng máy móc thiết bị, sử dụng hết công suất của máy nhằm giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm Tổ chưc sắp xếp lao động một cách hợp lý,đảm bảo đúng người, đúng việc, có biện pháp khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động . 3.3 Tiết kiêm chi phí, giá thành sản phẩm Đây là biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, bởi mối quan hệ giữa chi phí và lợi nhuận là mối quan hệ tỷ lệ nghịch, nếu giảm chi phí thì lợi nhuận tăng và ngược lại,chi phí doanh nghiệp tăng thì lợi nhuận lợi nhuận giảm và ngược lại. Chi phí doanh nghiệp bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp bao gồm:chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung đó là những khoản chi phí bỏ trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh do đó chúng ta không thể cắt giảm khoản chi phí nào mà phải giảm định mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm . Chi phí gián tiếp bao gồm: chi phí khấu hao tài sản cố định,tiền lương công nhân gián tiếp, chi phí văn phòng tiếp khách…các khoản chi phí này không liên quan trực tiếp tới quá trình tạo ra sản phẩm, vì vậy phải giảm tỷ trọng của nó trong tổng chi phí như tinh giảm bộ máy quản lý, có kế hoạch khấu hao tài sản cố định và định mức sử dụng chúng… Ngoài ra tiết kiệm chi phí còn tạo điều kiện để hạ thấp giá thành sản phẩm,từ đó giảm giá bán, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường mà vẫn đảm bảo được mức lãi mong muốn Như vậy nếu giá bán và mức thuế đã xác định thì lợi nhuận đơn vị sẽ tăng lên hay giảm đi là do giá thành sản phẩm quyết định. Bởi vậy để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm . 3.4 Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng. hiện nay, cạnh tranh trong cơ chế thị trường ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không những cạnh tranh về giá cả mà chuyển sang cạnh tranh về chất lượng và dịch vụ sau bán hàng như tín dụng, bảo hành,sửa chữa lắp đặt ….đòi hỏi doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề này 3.5 Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý Tổ chức tốt hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh , khâu cung ứng sản phẩm hàng hoá , khai thác tối đa khả năng người lao động sẽ góp phần nâng cao kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tổ chức tốt các phòng ban chức năng và xắp xếp lao động hợp lý đảm bảo sự quản lý của cấp trên đối với cấp dưới và sự kiểm soát giữa các bộ phận với nhau 3.6 Phân phối lợi nhuận hợp lý Thực chất đây là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ dự phòng và tiêu dùng để vừa đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh vừa thoả mãn tiêu dùng hợp lý của người lao động trong doanh nghiệp. Trong trường hợp vốn còn hạn chế thì việc phân phối lợi nhuận cần dành phần lớn cho tích luỹ vì có như vậy mới có điều kiện mở rộng và cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận đồng thời tạo điều kiện tích luỹ vốn nhiều hơn. Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội I. giới thiệu chung về công ty Tên gọi: Công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp se máy Hà Nội Tên giao dịch: LIXEHA Trụ sở :231 Tôn Dức Thắng - Đống Đa- Hà Nội Ngành nghề kinh doanh:sản xuất -xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Giấy phép xuất nhập khẩu số: 051074 1. Quá trình hình thành và phát triển công ty Công ty xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nôi tực thuộc liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội, tiền thân của liên hiệp là nhà máy xe đạp Thống Nhất được thành lập vào nawm 1960 trực thuộc bộ công nghiệp nặng.Trong giai đoạn đầu tiên liên hiệp gồm 3 thành viên: Nhà máy xe đạp Thống Nhất.nhà máy Xuân Hoà và nhà máy tuýp Kim Anh.Sau một thời gian hoạt động đến năm 1978 nhà máy xe đạp Thống Nhất chuyển sang trực thuộc sở công nghiệp Hà Nội ,liên hiệp lúc này gồm có 4 thành viên: Xí nghiệp dụng cụ cơ điện Xí nghiệp gia công và thu mua Xí nghiệp phụ tùng xe đạp Xí nghiệp xe đạp Thống Nhất Tuy nhiên các xí nghiệp thành viên trong liên hiệp không có đủ tư cách pháp nhân để hạch toán độc lập mà chỉ là đơn vị hạch toán nội bộ phụ thuộc vào liên hiệp. Để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất mới, tạo điều kiện hỗ trợ sản xuất và thống nhất quản lý,năm 1989 liên hiệp đổi tên từ "Liên hiệp xe đạp Hà Nội" thành "Liên hiệp xe đạp xe máy Hà Nội" gọi tắt là LIXEHA. Liên hiệp được thành lập dựa trên nguyên tắc tự nguyện đối với các thành viên và lúc này liên hiệp có thêm nhiệm vụ sản xuất phu tùng xe máy và lắp ráp xe máy. Đến năm 1995 công ty đã xác định được nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất và xuất nhập khẩu các sản phẩm tiêu thụ theo yêu cầu của thị trường và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, công ty đã thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm như các mặt hàng gia dụng nội thất văn phòng….Vì vậy theo chỉ thị 388/CP của thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp lạo các doanh nghiệp nhà nước và theo quyết định số 512/QD-UB của UBNN thành phố Hà Nội ngày 14/03/1995 công ty đã được thành lập và đổi tên thành công ty SX - XNK xe đạp xe máy Hà Nội có giấy phép kinh doanh số 100647 ngày 01/04/1995 và giấy phép XNK số2051047 2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty. 1.1. Chức năng của công ty. Là một doanh nghiệp nhà nước được tách ra từ bộ phận kinh doanh thuộc văn phòng liên hiệp xí nghiệp xe đạp xe máy Hà Nội, cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, công ty sản xuất xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội thực hiện chế độ hạch toán kinh tế với các chức năng chủ yếu sau: -tổ chức kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng với mặt hàng kinh doanh chính là xe đạp xe máy và những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu cao -thực hiện sản xuất, gia công liên kết với các xí nghiệp sản xuất xe đạp xe máy khác để tạo nguồn kinh doanh phù hợp với nhu cầu trên thị trường - Tiếp thu công nghệ tiên tiến và hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, lắp ráp, xe máy, góp phần cải tiến nâng cao trình độ của công nhân. 2.2 nhiệm vụ của công ty Theo QĐ số 521/QĐ-UB ngày 14/3/1995 về việc thành lập lại doanh nghiệp và dựa vào giấy phép kinh doanh thì công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội có nhiệm vụ: - Sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu xe đạp xe máy và phụ tùng, đồ nồi thất văn phòng, gia đình, kinh doanh vật tư tổng hợp -Được cho thuê văn phòng đại diện, nhà khách khách sạn và dịch vụdu lịch -Được liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh, làm đại lý,mở chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của liên hiệp và các sản phẩm liên doanh 2.3 trách nhiệm và quyền hạn của công ty 2.3.1 trách nhiệm Phải thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch do Nhà nước giao cho Phải bảo toàn tăng trưởng và phát triển được vốn do Nhà nước giao Thực hiện việc nộp thuế đầy đủ theo quy định Thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ , chính sách đối với người lao động theo chế độ hiện hành của nhà nước , thành phố Chấp hành các quyết định về văn minh thương nghiệp, trật tự an toàn xã hội, vệ sinh môi trường do nhà nước,thành phố quy định. Quyền hạn Công ty có quyền tự chủ trong việc ký kết các hoạt động kinh tế với các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp của nhà nước Việt Nam quy định theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi Công ty được phép xuất khẩu các sản phẩm ,hàng hoá và được nhập khẩu hàng hoá thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mình theo đúng qui định của nhà nước Công ty được quyền tham dự các hội chợ kinh tế trong và ngoài nước về các sản phẩm xe đạp. Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính 3.1 cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh Công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội được thành trên cơ sở bộ máy văn phòng liên hiệp. Vì vậy khối quản lý của công ty vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý công ty kiêm quản lý liên hiệp và có cơ cấu quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Tổng Giám đốc Phó Giám đốc kinh doanh Phó Giám đốc kỹ thuật Phòng tổng hợp P. kỹ thuật và đầu tư Phòng kế toán P. nhập khẩu P. kinh doanh vật tư P. kinh doanh xe máy nội thất Cửa hàng sản xuất kinh doanh dịch vụ Bộ máy quản lý của công ty bao gồm:Ban giám đốc, 3 phòng ban và 5đơn vị trực thuộc a. Ban giám đốc Có nhiệm vụ điều hành quản lý toàn bộ hoạt động của công ty và của liên hiệp, chịu trách nhiệm trước liên hiệp nhà nước và các cơ quan quản lý cấp trên trong việc thống nhất sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, vật tư hàng hoá,lao động. Đứng đầu ban giám đốc là giám đốc công ty kiêm luôn giám đốc liên hiệp là đại diện pháp nhân cho toàn công ty điêù hành hoạt động công ty theo hai phương pháp: Trực tiếp và thông qua hai phó giám đốc b. Các phòng ban - Phòng tổng hợp: Có chức năng tham mưa, đề đạt các yêu cầu của cán bộ công nhân viên trong công ty tới các ban lãnh đạo. Có nhiệm vụ giải quyết các mối quan hệ đối nội và đối ngoại tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh, làm thủ tục cho đoàn đi nước ngoài khảo sát và ký hợp đồng, đánh máy in ấn tài liệu, giải quyết các thủ tục hành chính phục vụ quản lý và các chế độ chính sách. - Phòng kinh tế: Thực hiện chức năng tài chính kế toán, thống kê kế hoạch của công ty và toàn liên hiệp Có nhiệm vụ huy động vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất xuất nhập khẩu, kiểm tra thanh quyết toán đảm bảo cho đồng vốn được bảo toàn, giúp cho giám đốc biết được tình hình công ty. -Phòng kỹ thuật: Có chức năng đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý chất lượng sản phẩm Có nhiệm vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, phối hợp với các phòng và các đơn vị kinh doanh để kiểm tra và đánh giá hàng tồn đọng để có biện pháp giải quyết kịp thời c. Các đơn vị kinh doanh hạch toán nội bộ thuộc công ty Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu xe đạp, phụ tùng xe đạp là chủ yếu và có nhiệm vụ tổ chức, khai thác hàng xuất nhập khẩu (Phòng này chủ yếu thực hiện các hoạt động bán buôn , đại lý uỷ thác không có bán lẻ ) Phòng kinh doanh vật tư: địa điểm kinh doanh tại 181 Nguyễn Lương Bằng-Đống Đa -Hà Nội .Phòng được nhà nước cấp hạn ngạch (quota) hàng năm để nhập nguyên chiếc, linh kiên xe máy CKD và lắp ráp tại xưởng, đồng thời nhập các thiết bị văn phòng, nội thất gia đình và làm đầu mối tiêu thụ vật tư phía bắc của LIXEHA Cửa hàng sản xuất kinh doanh dịch vụ:Địa điểm kinh doanh tại 181 Nguyễn Lương Bằng Đống Đa-Hà Nội.Chuyên sản xuất kinh doanh xe đạp, phụ tùng xe đạp và các sản phẩm cơ khí tiêu dùng, liên doanh liên kết để sản xuất các sản phẩm xe đạp , làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức kinh tế trong nước( chủ yếu thực hiện phương thức bán lẻ) Phòng kinh doanh xe máy nội thất:Đơn vị này chuyên kinh doanh các loại xe máy, phụ tùng, hàng nội thất, tổ chức lắp ráp xe đạp-xe máy, dịch vụ sửa chữa thay thế bảo dưỡng bảo hành xe máy, sửa chữa trang thiết bị phục vụ sản xuất, liên doanh liên kết sản xuất những sản phẩm xe đạp phục vụ nhu cầu tiêu dùng (chủ yếu thực hiện hoạt động bán buôn, bán đại lý, uỷ thác, không bán lẻ) 3.2 Tổ chức bộ máy quản lý tài chính của công ty Tổ chức khoa học và hợp lý bộ máy quản lý tài chính của công ty là điều kiện cần thiết để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời đảm bảo việc quản lý tài sản được tiến hành chặt chẽ, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, phát huy đầy đủ vai trò của hạch toán kế toán trong quản lý kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp. Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của công ty Ban Giám đốc Kế toán trưởng Kế toán tài sản cố định kiêm kế toán thanh toán Kế toán tổng hợp Kế toán với Ngân hàng kiêm thủ quỹ Bộ phận kế toán các đơn vị trực thuộc Tổ chức bộ máy kế toán của công ty bao gồm: + Phòng kế toán của công ty kiêm kế toán liên hiệp ( phòng kinh tế): hoạt động kế toán của công ty là chủ yếu với nhiệm vụ cung cấp đầy đủ chính xác các thông tin về tình hình và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh, phục vụ cho công tác chỉ đạo và quản lý kinh doanh của giám đốc công ty. Phòng gồm 4 người: Đứng đầu là kế toán trưởng: là người điều hành chung mọi công việc trong phòng, chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về công tác kế toán, thống kê, hạch toán kinh tế, lập kế hoạch tài chính, thực hiện đầy đủ các chức năng nhiệm vụ của kế toán trưởng chấp hành tốt các quy định của nhà nước, công ty. Dưới kế toán trưởng là các kế toán viên thực hiện các nhiệm chuyên trách: Kế toán tổng hợp: có nhiệm vụ tổng hợp các số liệu của các đơn vị nội bộ gửi lên hàng tháng, quý vào các sổ cái theo dõi và kiểm soát tình hình tài chính nội bộ của công ty, tính thuế, công nợ hàng tháng để nộp thanh toán và giúp kế toán trưởng lập các bản báo cáo quyết toán. Kế toán tài sản cố định kiêm kế toán thanh toán: có nhiệm vụ xem xét, tính, trích lập quỹ khấu hao tài sản cố định. Đồng thời căn cứ vào chứng từ gốc đã được giám đốc duyệt để viết phiếu thu chi, phản ánh số hiện có, tình hình tăng, giảm của các loại vốn bằng tiền của công ty. Theo dõi các khoản tạm ứng, tình hình biến động của quỹ quản lý công ty và liên hiệp. Kế toán các khoản tiền vay, tiền gửi ngân hàng kiêm thủ quỹ: Có nhiệm vụ quản lý quỹ, quản lý việc thu chi và lập báo cáo các quỹ. Theo dõi sự biến động của tiền gửi ngân hàng, hoàn thành các thủ tục để công ty vay tiền ngân hàng. Để phù hợp với quy mô, đặc điểm tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh công ty áp dụng mô hình tổ chức bộ máy vừa tập trung vừa phân tán. Kế toán của các đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập phản ánh chi tiết các hoạt động mua bán hàng hoá, sau đó định kỳ gửi báo cáo và bảng cân đối phát sinh theo quý của mình về phòng kinh tế để bộ phận kế toán tổng hợp số liệu cho cả công ty. Năm đơn vị kinh doanh nội bộ được phân cấp hạch toán nội, riêng phòng kinh doanh vật tư và xuất nhập khẩu có tài khoản phụ. Các đơn vị kinh doanh nội bộ được giao kế hoạch sản xuất kinh doanh, tiền lương nhân lực, vốn kinh doanh , tự ký kết hợp đồng mua bán, duyệt thu, duyệt chi và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh trước giám đốc công ty. Riêng việc vay trả ngân hàng và các khoản nộp ngân sách phải thông qua phòng ngân sách của công ty. Hiện nay công ty đã đưa máy vi tính vào h ỗ trợ một số hoạt động như: lập bảng biểu tổng hợp,lên các báo cáo kế toán …Với bộ máy kế toán gọn nhẹ, tổ chức khoa học và hợp lý, đảm bảo sự chỉ đạo tập chung của kế toán trưởng, với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, xử lý thông tin,công tác kế toán của công ty đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý, lập kế hoạch kinh doanh của công ty Công ty áp dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ giúp cho số lượng ghi chép của kinh tế giảm xuống rất nhiều do quá trình ghi sổ trùng lặp, cung cấp thông tin kịp thời cho việc quản lý và lập báo cáo tài chính, thuận lợi cho việc phân công công tác, chuyên môn hoá cán bộ kế toán. Tuy vậy kết cấu sổ khá phức tạp đã gây trở ngại rất nhiều cho công ty trong việc có ý định áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán. Hiện nay công ty đang nghiên cứu mẫu sổ vừa phù hợp với chế độ kế toán, vừa phù hợp với công việc làm kế toán trên máy vi tính để sớm máy tính hoá được hoạt động kế toán góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. II. tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 1. Tình hình sử dụng tài và nguồn vốn của công ty Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài sức lao động các doanh nghiệp còn cần có tư liệu lao độngvà đối tượng lao động-mà nếu xét về hình thái hiện vật đó là các tài sản cố định và tài sản lưu động còn nếu xét về hình thái giá trị được gọi là vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính gắn liền với sản xuất hàng hoá góp phần đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp . Do vậy quản lý, sử dụng vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp. Để có thể nhận xét đúng đắn về tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty trong những năm qua tài sản lập bảng cơ cấu tài sản và nguồn vốn để không những có thể thấy được cơ cấu tài sản, nguồn vốn mà còn theo dõi được sự thay đổi của các khoản mục. 1.1. Tình hình sử dụng tài sản Để thấy được doanh nghiệp sử dụng tài sản như thế nào tài sản sử dụng biểu cơ cấu tài sản Biểu : Cơ cấu tài sản Tài sản Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền tỷ lệ I. TSLĐ và ĐTNH Tiền Các khoản ĐTTCNH Các khoản phải thu Hàng tồn kho Tài sản lưu động khác Chi sự nghiệp II. TSCĐ và ĐTDH TSCĐ Các khoản đầu tư dài hạn 3. CPXDCB dỡ dang 19.562 1209 9236 6428 1055 1632 2177 2177 90 6,2 47 33 5,4 8,3 10 100 19.495 1132 5004 4235 7652 1472 2164 2118 46 90 5,8 25,6 22 39 7,6 10 98 2 -67 -77 -4232 -2193 6597 -160 -13 -59 -0,3 -6,4 -46 -34 625 -10 -0,4 -3 Tổng tài sản 21737 100 21658 100 -79 -0,4 Qua bảng trên ta thấy so với năm 2000 tổng tài sản của công ty giảm 79 (tr đồng) ứng với tỷ lệ giảm là 0.4%, số giảm nói trên phản ánh quy mô tài sản của công ty có sự giảm sút. Nguyên nhân chíng của sự giảm quy mô tài sản là do tài sản lưu động giảm là chủ yếu: 67 (tr đồng) đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 0.3%. Thực ra so với số giảm 67 (tr đồng) của tài sản cố định và 79 (tr đồng) của tổng tài sản là không đáng kể nhưng nó chứng tỏ trong năm doanh nghiệp chưa có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh. Nhận thấy là tài sản lưu động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của công ty ( khoảng 90 % )từ đó thấy được rằng sự biến động của tài sản lưu động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đi sâu vào nghiên cứu chi tiết ta thấy các khoản phải thu năm 2001 giảm mạnh so với năm 2000 với số giảm là 4232 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 46 %, đây là biểu hiên tích cực trong công tác thanh toán của doanh nghiệp. Hàng tồn kho năm 2001 giảm 2193 (tr đồng) so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm là 34%, đó cũng là dấu hiệu tốt nhưng cần phải xem xét hàng tồn kho được giải phóng là nhờ có sự biến động thuận lợi của thị trường hay là nỗ lực của công ty trong công tác này Tuy nhiên, nhìn vào khoản mục vốn bằng tiền năm 2001 lại giảm so với năm 2000 là 77 (tr đồng) - tỷ lệ giảm là 6.4 %. Vậy tại sao hàng tồn kho được giải phóng nhiều, các khoản phải thu được thu hồi rất tốt nhưng vốn bằng tiền lại giảm. Điều này có thể được lý giải bởi sự tăng của tài sản lưu động khác là khá lớn: 6597 (tr đồng) tăng 625 % so với năm 2000- cũng có thể công ty đang chuyển hướng đầu tư nhằm thu được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến ở phần sau. Xét về tài sản cố định và đầu tư dài hạn nhìn chung có sự biến động nhưng không đáng kể. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn chỉ chiếm khoảng 10 % trong tổng tài sản và năm 2001 lại giảm so với năm 2000. Trong khoản mục này tài sản cố định chiếm tỷ trọng chủ yếu, trong đó tài sản cố định hữu hình tăng 150 (tr đồng) từ 4229 (tr đồng) lên 4379 (tr đồng) năm 2001, điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã quan tâm đến đầu tư mua sắm tài sản cố định mới. Cụ thể doanh nghiệp đã mua sắm được hai dây chuyền đồ gá, xe máy hàn khung và một máy cắt tôn. Tuy nhiên tổng tài sản cố định vẫn giảm 59 (tr đồng) từ 2177 (tr đồng) năm 2000 xuống 2118 (tr đồng) năm 2001,lý do là nhà cũ 231 Tôn Đức Thắng phá dỡ, đã khấu hao hết, xây dựng mới. Riêng năm 2001 doanh nghiệp mới có chi phí xây dựng cơ bản dở dang là 46 (tr đồng) nhưng tài sản cố định lại giảm 59 (tr đồng) chứng tỏ doanh nghiệp cũng đã có quan tâm xây dựng nhà xưởng, cơ sở làm việc, tuy nhiên doanh nghiệp cần chú trọng vào việc đổi mới nâng cấp tài sản cố định để phát huy tối đa năng lực sẵn có của mình. 1.2 Cơ cấu nguồn vốn Biểu: Cơ cấu nguồn vốn Nguồn vốn Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền tỷ lệ I. Nợ phải trả Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn Nợ khác II. Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn kinh doanh Vốn khác Trong đó: Nguồn vốn ĐTXDCB 11010 10984 26 10727 8809 1918 29 50,7 99,7 0,3 49,3 82 18 9017 8763 255 12641 9834 2807 1048 42 97 3 58 78 22 -1993 -2221 299 1914 1025 889 -18 -20 880 18 12 46 Tổng nguồn vốn 21737 100 21658 100 -79 Cơ cấu tài sản thay đổi làm cho cơ cấu nguồn vốn thay đổi theo. Điều đáng quan tâm ở đây là sự biến động của hai thành phần chính: nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, hai thành phần này biến động theo chiều hướng trái ngược nhau. Vốn chủ sở hữu của công ty tăng do vốn kinh doanh và vốn khác đều tăng trong đó vốn kinh doanh tăng là chủ yếu từ 8806 (tr đồng) lên 9834 (tr đồng) tương ứng với số tuyệt đối là 1025 (tr đồng) và số tương đối là 12 %. Cụ thể nguồn vốn kinh doanh tăng 1025 (tr đồng) do được ngân sách nhà nước cấp bổ sung bằng nguồn tạm ứng làm hàng xuất khẩu. Tăng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản do được cấp 1000 (tr đồng ) (bán nhà 27 Tràng Tiền để đầu tư xây dựng nhà cửa hàng xe đạp 231 Tôn Đức Thắng) và được cấp hỗ trợ vốn đầu tư dự án xe đạp trẻ em: 18.675 nghìn đồng. Tuy nhiên một số quỹ như quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ quản lý cấp trên giảm làm cho vốn chủ sở hữu chỉ tăng 1914 (tr đồng). Chúng ta có thể đặt ra hai giả thiết: việc công ty bổ xung vốn kinh doanh một mặt mang tính tích cực bởi nó cho phép công ty chủ động hơn trong việc kinh doanh của mình mặt khác nó có tác động ngược chiều đến hoạt động kinh doanh của công ty nếu vốn kinh doanh của công ty đã tăng quá mức cần thiết so với quy mô của công ty hiện tại,từ đó làm cho cơ cấu vốn của công ty ngày càng cáchủ sở hữu xa cơ cấu vốn tối ưu để có kết luận chính xác chúng ta sẽ đi nghiên cứu vấn đề này ở phần sau. Nợ phải trả của công ty giảm khiến tỷ trọng của thành phần này trong tổng nguồn vốn cũng giảm. Trong 1993 (tr đồng) giảm của nợ phải trả thì nợ ngắn hạn giảm từ 10984 (tr đồng) xuống còn 8763 (tr đồng) tương ứng với số tuyệt đối là -2221 (tr đồng), số tương đối là 20 % và nợ khác tăng 229 (tr đồng) từ 26 (tr đồng) năm 2000 lên 255 (tr đồng) năm 2001 (nợ dài hạn không có). Nếu nhìn một cách tổng quát ta có thể đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp có chiều hướng tốt, tỷ trọng của nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên chiếm 58 % còn nợ phải trả chỉ chiếm 42 %, nó thể hiện doanh nghiệp có khả năng tự chủ về mặt tài chính. Tuy nhiên để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong những năm tới có hiệu qủa hơn thì công ty chắc chắn phải tăng tỷ trọng nợ phải trả lên trong tổng nguồn để thấy được điều này ta quay trở xem xét tình hình sản xuất kinh doanh năm 1999. Trong năm 1999 tỷ trọng vốn chủ sở hữu và nợ phải trả trong tổng nguồn vốn là khá chênh lệch, cụ thể vốn chủ sở hữu là: 10494 (tr đồng) chiếm 32,37 % còn nợ phải trả là 21924 (tr đồng) chiếm 67.63 %. Ta không thể khẳng định chắc chắn rằng cơ cấu này là tối ưu nhưng điều chúng ta có thể nhận thấy là qua kết qủa sản xuất kinh doanh năm 1999 thì đây là một năm tương đối thành công (doanh nghiệp có xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu là 33500 (tr đồng) và lợi nhuận đạt được là 139 (tr đồng)) 2. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội trong hai năm 2000-2001 So với năm 2000 tình hình sản xuất kinh doanh của công ty năm 2001có nhiều biến động không thuân lợi, về khách quan đó cũng là tình hình khó khăn của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa do mặt hàng xe đạp đơn giản nhiều thành phần kinh tế có khả năng sản xuất trong khi hàng Trung Quốc (TQ) nhập vào Việt Nam nhiều giá cả lại rẻ, vì vậy việc tiêu thụ xe đạp là sự cạnh tranh gay gắt. Về chủ quan hầu hết lãnh đạo công ty và cán bộ công nhân viên là cán bộ trong thời kỳ bao cấp nên kinh doanh theo cơ chế thị trường là một việc hết sức khó khăn và kết quả là hiệu quả kinh tế công ty đạt được chưa cao. Tuy nhiên để thấy rõ hơn kết quả mà công ty đạt được ta sử dụng biểu sau: Biểu KQSXKD trong 2 năm 2000 và 2001 Chỉ tiêu ĐVT 31/12/2000 31/12/2001 Tăng/giảm 1. Giá trị công nghiệp Trđ 6311 6091 -220 2. Tổng doanh thu Trđ 115.306 60.241 -55.065 3. Nộp ngân sách Trđ 11.412 8451 -10.947 4. Nộp thuế nhập khẩu Đồng 4771 6.661 -3.804 5. Thu nhập bq Người 980.000 770.000 -210.000 6. Bình quân lao động Cái 91 80 -5 7. Xe đạp SX và tiêu thụ USD 12.466 10.376 -2090 8. Xe máy bán được USD 7.347 4751 2.596 9. Kim ngạch NK USD 700.000 142.000 -558.00 10. Kim ngạch XK Trđ 0 0 11. Tổng lợi nhuận Trđ 14,3 5,4 Tổng LN sau thuế Trđ 14,3 3,7 -10,6 Qua bảng trên ta thấy các chỉ tiêu năm 2001 đều giảm so với năm 2000 nhưng cơ bản vẫn giữ được ổn định- đó là nhờ có sự nỗ lực phấn đấu của các đồng chí lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Giá trị sản xuất công nghiệp tuy có giảm so với năm 2000 từ 6311 (tr đồng) xuống 6091 (tr đồng) và mức giảm là không đáng kể (222 triệu đồng). Tổng doanh thu năm 2001 giảm so với năm 2000 là 55056 (tr đồng), mức giảm này là khá lớn. Cùng với việc giá trị sản xuất công nghiệp giảm tổng doanh thu cũng giảm mạnh thể hiện chiều hướng xấu trong sản xuất và tiêu thụ của công ty. Nguyên nhân của sự sụt giảm doanh thu trước hết là do sự giảm sút của việc tiêu thụ các mặt hàng chủ yếu. Cụ thể xe đạp sản xuất và tiêu thụ năm 2000 là 12466 (cái), năm 2001 chỉ còn là 10376 (cái) giảm 2090 chiếc so với năm 2000. Vấn đề đặt ra là công ty phải có chiến lược sản xuất kinh doanh, thay đổi mẫu mã kiểu dáng màu sắc sản phẩm để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và thị trường quốc tế. Cả hai năm kim ngạch xuất khẩu của công ty đều bằng không, chứng tỏ các mặt hàng của công ty chưa chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Trong năm 2001 công ty vẫn tiếp tục đẩy mạnh công việc hợp tác với công ty cổ phần Phương Đông để nhập xe IKD của TQ , tuy nhiên với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường làm cung vượt cầu gây khó khăn cho hoạt động của công ty nên kim ngạch nhập khẩu của công ty cũng chỉ là 142000 USD. Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước năm 2001 tương đối tốt. Năm 2000 công ty nộp ngân sách 11412 (tr đồng) bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu. Năm 2001 số phải nộp là 7403 (tr đồng) và số đã nộp là 8451 (tr đồng) trong đó thuế nhập khẩu là 6661 (tr đồng) . Bình quân lao động năm 2001 là 86 người giảm 5 người so với năm 2000. Đây là kế hoạch tinh giảm lao động của công ty nhằm đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, bởi vậy tổng lợi nhuận trước thuế năm 2001 chỉ đạt 5.4 (tr đồng) giảm 62 % so với năm 2000 nhưng thu nhập vẫn tương đối ổn định: 77000 đồng/người không kể tiền thưỏng và các khoản phụ thu khác. Điều này chứng tỏ sự cố gắng phấn đấu của ban lãnh đạo công ty trong việc nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ công nhân viên II. tình hình lợi nhuận của công ty 1.Tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận Mặc dù kết qủa đạt được chưa cao nhưng có thể nói năm 2001 doanh nghiệp đã thu được những thành công đáng khích lệ từ sự cố gắng vượt khó khăn đứng vững trong cơ chế thị trường và nền kinh tế quốc tế với sự cạnh tranh gay gắt của toàn thể công ty . kết quả đó là nền tảng là tiền đề cho bước phát triển của công ty trong những năm tới. Để hiểu rõ vấn đề này ta sử dụng biểu. STT Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch ST Tỷ trọng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tổng doanh thu Các khoản giảm trừ Doanh thu thuần Giá vốn hàng bán Lợi nhuận gộp Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Lợi nhuận từ HĐKD Lợi nhuận hoạt động tài chính - Thu nhập hoạt động tài chính - Chi phí hoạt động tài chính Lợi tức bất thường - Thu nhập hoạt động bất thường - Chi phí bất thường Tổng lợi nhuận trước thuế Tổng lợi nhuận sau thuế 115.306 148 115.158 112.739 2.419 625 3035 -1241 1225,3 1898,3 673 30 40 10 14,3 14,3 60.241 87 60.154 57.954 2200 237 1974 -11 -97 333 430 113,4 114,4 1 5,4 3,7 -55.065 -61 -55004 -54.785 -219 -388 -1061 1230 -1322,3 -1565,3 -243 83,4 74,4 -9 -8,9 -10,6 47,8 -41 -47,7 -49 -9 -62 -35 99 108 -82 -36% 278 186 -90 -62 74 Qua biểu trên ta thấy hầu hết các chỉ tiêu kinh tế năm 2001 đạt được đều có sự giảm sút so với năm 2000, tuy nhiên để thấy rõ vấn đề hiệu quả của công tác sản xuất kinh doanh của công ty chúng ta cần xem xét kế hoạch lợi nhuận của công ty trong hai năm như thế nào: Năm 2000: 40 (tr đồng) Năm 2001: 50 (tr đồng) Kế hoạch lợi nhuận là một trong những vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần hoạch định. Tuy nhiên do tình hình kinh doanh khó khăn nên quý III năm 2001 công ty đã phải điều chỉnh giảm chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp với tình hình và kế hoạch liên hiệp giao (kế hoạch lợi nhuận chỉ còn là 26 triệu đồng bằng 52 % kế hoạch đầu năm). Vâỵ tại sao kế hoạch đặt ra là 40 (tr đồng) và 50 (tr đồng) tương ứng với 2 năm nhưng thực hiện chỉ được là 14.3 (tr đồng) bằng 35.8 % kế hoạch và 5.4 (tr đồng) giảm 8.9 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm 62 % so với năm 2000. Có rất nhiều nguyên nhân, nguyên nhân khách quan phải kể đến là thị trường và chính sách của nhà nước, nguyên nhân chủ quan đó là chất lượng , mẫu mã trình độ tổ chức và trình độ quản lý. Vấn đề này sẽ được lý giải ở phần sau. Biểu cơ cấu lợi nhuận cho ta thấy cả hai năm lợi nhuận hoạt động kinh doanh đều âm tức là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ. Tuy nhiên hoạt động tài chính của năm 2000 là 1225,3 (tr đồng) tăng 142% so với năm 1999 (năm 1999 là 506(tr đồng)) - đây chính là nguồn bù lỗ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại lợi nhuận chung cho toàn công ty. Năm 2001 hoạt động tài chính bị lỗ 97 (tr đồng) và giảm 108 % so với năm 2000 (năm 2000 là - 1322,3 (tr đồng)), nguyên nhân là thu nhập hoạt động tài chính giảm mạnh (giảm 82%) trong khi đó chi phí hoạt động tài chính chỉ giảm 36%, mức giảm của thu nhập lớn hơn mức giảm của chi phí kết quả dẫn đến lợi nhuận hoạt động tài chính giảm mạnh . Tuy nhiên hoạt động bất thường năm 2001 lại khá hiệu quả, trong khi hai thành phần trên cấu thành tổng lợi nhuận trước thuế đều âm thì hoạt động bất thường lại đem lại lợi nhuận khá lớn: 113,4 (tr đồng) và tăng 278% so với năm 2000, đây chính là nguồn bù lỗ cho hai hoạt động trên và đem lại lợi nhuận cho công ty là 5,4 (tr đồng). Nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận bất thường tăng mạnh là thu nhập bất thường tăng 68% (74,4 (tr đồng)) trong khi đó chi phí bất thường chỉ có1 (tr đồng) giảm 90%. Song điều này không thể hiện kết quả tốt mà thể hiện một dấu hiệu xấu, nếu công ty không thật sự chú ý đến hoạt động này thì sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận chung của công ty (năm 2000 cũng có biểu hiện như vậy). Hoạt động bất thường trong năm của công ty chủ yếu liên quan đến việc nhượng bán thanh lý một số tài sản cố định đồng thời trích dự phòng phải thu khó đòi một số khoản nợ của công ty và các khoản dự phòng giảm giá, cụ thể là trong năm 2001 công ty tiếp tục nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Vậy để có kết quả tốt thì doanh nghiệp cần đánh giá đúng giá trị thực còn lại của các tài sản này, đồng thời sau khi thanh lý nhượng bán cần có kế hoạch chuẩn bị bổ sung các tài sản cố định khác nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh không gặp khó khăn. Hoạt động kinh doanh năm 2001 mặc dù chưa đem lại hiệu quả nhưng so với năm 2000 đã là một sự cố gắng lớn. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh năm 2001 là -11(tr đồng) so với mức –1241(tr đồng) của năm 2000 thì lợi nhuận đã tăng được là 1230 (tr đồng). Cụ thể doanh thu thuần năm 2001 là 60154 (tr đồng) và giảm 55004 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 47,7% trong khi nhân tố giá vốn giảm 54785 (tr đồng) tương đương với tỷ lệ giảm là 49% làm cho lợi nhuận gộp năm 2001 là 2200 (tr đồng) chỉ thấp hơn năm 2001 có 219 (tr đồng). Hơn nữa chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lại giảm mạnh hơn so với năm 2000 và vì vậy mức lỗ của năm 2001 ít hơn rất nhiều so với năm 2000. Vậy nguyên nhân nào làm cho lợi nhuận của công ty đạt được âm ? Có hai giả thiết đặt ra: thứ nhất là do giá vốn hàng bán quá lớn khiến lợi nhuận gộp quá nhỏ, thứ hai là chi phí gián tiếp (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp) lớn và lớn hơn cả lợi nhuận gộp. Chính điều này làm cho lợi nhuận thu được trong hai năm đều âm,vậy cụ thể nhân tố giá vốn hàng bán và chi phí gián tiếp ảnh hưởng tới tình hình lợi nhuận như thế nào? 2. Tỷ suất lợi nhuận Như đã trình bày ở phần lý luận, lợi nhuận tuyệt đối không phải là tiêu chí duy nhất đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy để có cái nhìn tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty ta cần xem xét một số chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận (ở đây ta chỉ xem xét các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế ) Biểu : Tỷ suất lợi nhuận STT Chỉ tiêu Đơn vị 31/12/00 31/12/01 Chênh lệch 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Doanh thu thuần Giá thành toàn bộ Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Vốn kinh doanh bình quân Vốn chủ sở hữu bình quân Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận vốn Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu Tỷ suất lợi nhuận giá thành Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ % % % % 115 158 116 399 112 739 625 3 035 27078 10588 14,3 0,053 0,135 0,012 0,0124 60 154 60 165 57 954 237 1 974 21698 11684 3,7 0,017 0,032 0,06 0,0022 -55 004 -56 234 -54 785 -388 1 061 -5380 1096 -10,6 -0,036 -0,00614 -0,00627 -0,103 -47,7 -48 -49 -62 -35 -20 -10,4 -74 -67,71 -49,94 -50,47 -76,55 - Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh: qua chỉ tiêu này cho ta thấy doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả không và qua bảng trên ta thấy doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh không có hiệu quả. Năm 2000 cứ bỏ 100 đồng vốn vào hoạt động kinh doanh thì thu được 0,053 đồng lợi nhuận trong khi đó năm 2001 nếu công ty bỏ vào 100 đồng vố kinh doanh thì công ty chỉ thu được 0,017 đồng lợi nhuận tức là giảm 0,036 đồng. Điều này có thể được lý giải là do năm 2001 lợi nhuận giảm 74% so với năm 2000 trong khi vốn kinh doanh chỉ giảm 20 % tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh giảm mạnh. - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: tỷ suất này phản ánh khả năng sinh lơì của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào công ty. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cùng thuộc một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu năm 2000 là 0,135% nghĩa là cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh thì công ty đạt được 0,135 đồng lợi nhuận. Trong khi đó tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu năm 2001 chỉ là 0,032 % giảm 76,55% so với năm 2000. Sự giảm sút này gây ra tâm lý lo ngại cho chủ sở hữu công ty, vì so với người cho vay thì việc bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh tính mạo hiểm cao và đem lại hiệu quả kém, mà đáng lẽ ra nó phải đem lại cơ hội lợi nhuận nhiều hơn. Trong khi vốn chủ sở hữu năm 2001 tăng lên 1096 (tr đồng) nhưng lợi nhuận sau thuế đạt được lại giảm 10,6 (tr đồng), do vậy tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu giảm là điều dễ hiểu. - Tỷ suất lợi nhuận giá thành: chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được và giá thành toàn bộ hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Cụ thể trong 100 đồng giá thành toàn bộ năm 2000 tạo ra 0,012 đồng lợi nhuận nhưng đến năm 2001 doanh nghiệp chỉ đạt được 0,006 đồng lợi nhuận và đó cũng là mức giảm so với năm 2000 ứng với tỷ lệ giảm là 49.94 %. Như vậy, công ty sử dụng chi phí không hiệu quả, lãng phí chi phí làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nguyên nhân thì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy giá vốn hàng bán quá cao gần bằng doanh thu thuần và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng quá lớn gần bằng lợi nhuận gộp dẫn đến lợi nhuận sau thuế rất thấp (năm 2000 là 14,3 và năm 2001 là 3,7). Đây là vấn đề làm đau đầu ban lãnh đạo và toàn thể công nhân viên trong công ty. So với các doanh nghiệp trong cùng ngành thì tỷ suất này là quá thấp, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh gần như không có. - Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng: phản ánh mối quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận đạt được trong kỳ. Cụ thể cứ trong 100 đồng doanh thu năm 2000 thu được tạo ra 0,0124 đồng lợi nhuận và trong năm 2001 cứ 100 đồng doanh thu chỉ tạo ra 0,0022 đồng lợi nhuận. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng năm 2001 thấp hơn năm 2000 là 0,0102 % nguyên nhân chính là giá vốn hàng bán quá cao so với doanh thu thuần khiến cho lợi nhuận sau thuế giảm mạnh và khiến cho tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng đã thấp lại càng thấp hơn. Nhận xét: nhìn chung các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của công ty là rất thấp, đặc biệt năm 2001 lại có sự giảm mạnh, điều này thể hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là các cấp lãnh đạo công ty cần có giải pháp kịp thời để từng bước tăng mức doanh lợi của công ty. 3. Phân tích lợi nhuận theo các đơn vị trực thuộc Thực hiện hạch toán trong nội bộ doanh nghiệp đòi hỏi phải tính toán phân tích lợi nhuận kinh doanh theo đơn vị trực thuộc qua đó ta có thể thấy được đơn vị nào đạt kết quả cao, đơn vị nào chưa có hiệu quả và thấy được mức độ ảnh hưởng của từng đơn vị đến kết quả chung của toàn công ty. Để phân tích nội dung này ta sử dụng biểu Biểu : Tình hình thực hiện lợi nhuận theo các đơn vị trực thuộc Các đơn vị Năm 2000 Năm 2001 So sánh 2001/2000 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ lệ 1 2 3 4 5 6 = 4-2 7 = 6/2 Phòng xe máy nội thất Phòng XNK Phòng vật tư Cửa hàng KD dịch vụ Văn phòng công ty 6. Toàn Công ty -24,7 40 -12 0 11 14,3 -173 280 -84 0 77 100 -47,2 16 0 0 36,6 5,4 -874 296 0 0 678 100 -22,5 -24 12 0 25,6 -8,9 -91 -60 100 0 233 -62 Từ kết quả tính toán được ở bảng trên ta thấy lợi nhuận trước thuế của công ty được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của 5 đơn vị trực thuộc, trong đó khối văn phòng công ty và phòng XNK đóng góp nhiều nhất và đó chính là nguồn để bù lỗ cho các đơn vị khác và đem lại lợi nhuận cho công ty. Cụ thể năm 2000 phòng XNK đem lại 40 (tr đồng) lợi nhuận và chiếm 280% so với tổng lợi nhuận của toàn công ty và năm 2001 phòng XNK cũng đem lại 16 (tr đồng) tiền lãi chiếm 296% lợi nhuận của công ty và cũng là đơn vị đạt doanh thu cao nhất 18593 (tr đồng). Lợi nhuận của đơn vị thu được chủ yếu từ hoạt động kinh doanh XNK và hoạt động bất thường, mặc dù đơn vị chưa có thị trường xuất khẩu song với sự cố gắng nỗ lực đơn vị đã thu được 32 (tr đồng) từ hoạt động kinh doanh và 30 (tr đồng) từ hoạt động bất thường không những bù đắp được 45 (tr đồng) tiền lỗ từ hoạt động tài chính mà còn đem lại lợi nhuận cho công ty. Văn phòng công ty cũng có một vai trò to lớn trong hoạt động chung của toàn công ty, cụ thể đã tạo ra 11 (tr đồng) chiếm 17% trong tổng số 14,3 (tr đồng) tiền lãi trong năm 2000 và 36,6 (tr đồng) trong số 5,3 (tr đồng) tiền lãi năm 2001. Đây là một thành tích đáng ghi nhận đặc biệt trong hoạt động kinh doanh Văn phòng công ty đã tạo 61,4 (tr đồng) tiền lãi từ hoạt động mua bán hàng hoá cùng với phòng XNK bù lỗ cho hoạt động kinh doanh của các đơn vị khác. Phòng kinh doanh vật tư và cửa hàng dịch vụ xe đạp là các đơn vị có cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh, đảm bảo không lỗ và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên. Điều đáng quan tâm ở đây là phòng xe máy nội thất năm 2001 lỗ 47,2 (tr đồng) lỗ nhiều hơn năm 2000 là 22,5 (tr đồng): năm 2000 là 24,7(tr đồng). Đây chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận của công ty giảm sút. Sự thua lỗ này có nguyên nhân chủ quan song không thể không kể đến các nguyên nhân khách quan như: sự thay đổi trong chính sách sản xuất và kinh doanh xe máy, sự không kiểm soát được của hàng nhập làm giá giảm, thị trường cạnh tranh quyết liệt và vì vậy việc tạo lợi nhuận là rất khó. Tóm lại, thông qua việc phân tích tình hình hoạt động của các đơn vị trực thuộc ta thấy rằng tuy đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị chưa đạt kết quả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng này trong năm tới cần có sự cố gắng nỗ lực của từng đơn vị nói riêng và toàn thể công ty nói chung để đem lại hiệu kinh doanh cao nhất. 4. Phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu, chi phí Để có kết luận chính xác về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ta cần phải tiến hành phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu và chi phí. 4.1 ảnh hưởng của tình hình thực hiện doanh thu tiêu thụ hàng hoá tới lợi nhuận của công ty. Doanh thu tiêu thụ hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp vì: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí. Doanh thu cao hay thấp làm cho lợi nhuận cũng cao hay thấp. Doanh thu tiêu thụ phản ánh kết quả hoạt động bán hàng, hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty.Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của doanh thu tới lợi nhuận ta sử dụng biều sau Biểu : Mức biến động của doanh thu tiêu thụ sản phẩm và một số mặt hàng chủ yếu. STT Chỉ tiêu ĐVT 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch Số tđối % 1 2 3 4 5 Xe đạp sản xuất và tiêu thụ Xe máy bán được Tổng doanh thu Các khoản giảm trừ Giảm giá hàng bán Hàng bán bị trả lại Thuế XNK, TTB Doanh thu thuần Cái Cái Trđ Trđ Trđ Trđ Trđ Trđ 12.466 7347 115.306 148 44 104 0 115.158 10.376 4751 60.241 87 0,8 86,1 0 60.154 -2090 -2596 -55.065 -61 -43,2 -17,9 0 -55.004 -17 -35 -47,7 -41,2 -97,9 -17 0 -48 Qua bảng trên ta thấy tổng doanh thu năm 2001 là 60 241 (tr đồng) giảm so với năm 2000 55 065 (tr đồng) tức là giảm 47,7% . Vậy tại sao lại có sự giảm này ? Ngay từ đầu năm công ty đã nhận định đây là một năm hết sức khó khăn, là năm có sự thay đổi trong chính sách sản xuất và kinh doanh xe máy, công tác xuất khẩu chưa có thị trường… do vậy mặc dù có nhiều cố gắng nhưng kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Cụ thể xe đạp sản xuất và tiêu thụ giảm từ 12466 cái năm 2000 xuống còn 10376 cái năm 2001, xe máy bán được (mặt hàng đem lại doanh thu cao cho công ty) cũng giảm với mức giảm 2596 chiếc ( với tỷ lệ giảm 35%). Để thấy rõ được vấn đề này ta quay lại năm 1999 số xe đạp sản xuất và tiêu thụ là 16000 cái tức là năm 2000 giảm 3524 cái so với năm 1999, xe máy bán được năm 2000 tăng lên 4256 cái. Điều này có thể lý giải là trong năm 2000 công ty đã đẩy mạnh việc hợp tác với công ty cổ phần Phương Đông để nhập xe IKD của Trung Quốc chớp cơ hội tiêu thụ nhanh. Tuy nhiên do Nhà nước cho nhập xe máy IKD ồ ạt, cung vượt cầu, thị trường cạnh tranh giảm giá liên tục và mặc dù công ty Phương Đông không tính lãi song công tác kinh doanh xe máy của công ty năm 2001 là rất khó khăn và việc tăng doanh thu tiêu thụ là rất khó. Các loại xe máy công ty tiêu thụ là: 1. Xe máy Quang ta 2. Xe máy Super Viva 3. Xe máy Qrienta 4. Quich new war 5. Xe máy Darling 100 Về mặt hàng xe đạp số lượng xe đạp sản xuất và tiêu thụ năm 2001 giảm so với năm 2000 là 2090 cái. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân: Về phía công ty: Mẫu mã, màu sắc xe không đa dạng phong phú Giá cả so với thị trường quá đắt Kiểu dáng xe không còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Về phía thị trường: Hàng Trung Quốc bày bán nhiều, mẫu mã kiểu dáng đa dạng, giá cả hợp lý. Doanh nghiệp tư nhân sản xuất vơí nhãn mác mập mờ xe liên doanh, họ đóng thuế ít so với số bán ra, vì vậy có điều kiện hạ giá thành từ 50 á 100 ngàn đồng một chiếc. Vậy tại sao giá bán của công ty lại quá cao như vậy? Các loại xe đạp công ty tiêu thụ là: xe 1 dóng 8 dầu, xe 1 dóng thủ đô, xe võng dầu, xe võng sơn thủ đô, xe pha dầu, xe pha thủ đô, xe mini 62, xe mini 68, xe mini Inox, xe thể thao 62, xe thể thao 72, xe liên doanh. Trị giá vốn của một chiếc xe trung bình là 420 000 đồng và do vậy giá bán trung bình lên tới 460 000 đồng. Với trị giá vốn khá lớn buộc doanh nghiệp phải bán với giá tương đối cao để đảm bảo kinh doanh có lãi song chính điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và vì vậy việc tiêu thụ sản phẩm là hết sức khó khăn. Hơn nữa việc dán tem của ta không còn có tác dụng vì quản lý thị trường không quản lý nổi đã gây không ít khó khăn cho ngành xe đạp của ta. Bên cạnh đó thị trường tiêu thụ vật tư không ổn định. Tất cả những điều này giải thích được tại sao doanh thu năm 2001 lại giảm mạnh, giảm 47,7% so với năm 2000 và dẫn đến lợi nhuận công ty thu được cũng giảm. Các khoản giảm trừ cũng có sự thay đổi: trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi thì các khoản giảm trừ có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận, nếu các khoản giảm trừ tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Cụ thể các khoản giảm trừ năm 2001 thay đổi làm cho lợi nhuận năm 2001 thay đổi một lượng là: - (87-148) = 61 (tr đồng) Điều đó có nghĩa là nếu các nhân tố khác không đổi thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng 61 (tr đồng). Tuy nhiên qua bảng trên ta thấy sự giảm sút của doanh thu tiêu thụ dẫn đến khoản giảm trừ giảm là điều dễ hiểu . Các khoản giảm giá hàng bán năm 2001 giảm mạnh chỉ còn 799 998 (tr đồng) giảm 43,2 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 97,9 %. Đây là một thành tích đáng khen ngợi, hầu hết các sản phẩm được bán đều được thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Điều này góp phần làm tăng doanh thu thuần và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hàng bán bị trả lại tuy có giảm 17,9 (tr đồng) nhưng vẫn chiếm một số lớn 86,1 (tr đồng). Nguyên nhân là còn có một phần nhỏ sai sót của bộ phận giám sát chất lượng sản phẩm khiến một số lô hàng của công ty sau khi vận chuyển đến nơi an toàn vẫn bị trả lại do một số lỗi kỹ thuật của một số ít sản phẩm. Thuế xuất khẩu của công ty trong hai năm không có là do hoạt động xuất khẩu của công ty trong năm không thực hiện được, nguyên nhân chính là sự cạnh tranh gay gắt của lĩnh vực xuất khẩu và chất lượng sản phẩm của công ty chưa đạt đến những tiêu chuẩn của đối tác nước ngoài. Qua phân tích ở trên ta thấy doanh thu tiêu thụ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Điều đó đặt ra vấn đề doanh nghiệp phải có biện pháp tăng doanh thu và giảm thiểu chi phí. 4.2 ảnh hưởng của tình hình quản lý chi phí tới lợi nhuận của công ty. Để thấy được mối quan hệ giữa chi phí và lợi nhuận ta nghiên cứu biểu sau: Bảng: Tình hình thực hiện chi phí của doanh nghiệp STT Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch Số tiền % 1 2 3 4 Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí QLDN Tổng chi phí 112.739 625 3035 116399 57.954 236 1974 60164 -54785 -388 -1061 -56235 -49 -62 -35 -48 Qua bảng trên ta thấy sự thay đổi giảm của giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp chưa hẳn đã là một dấu hiệu tốt bởi sự giamr sút của doanh thu tiêu thụ hàng hoá dẫn đến sự giảm sút của các loại chi phí trên là điều tất yếu. Nhưng tại sao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2001 vẫn âm, nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận của công ty thấp là gì? Một điều có thể dễ dàng nhận thất là trong tổng chi phí thì giá vốn hàng bán chiếm tỷ trọng rất cao, năm 2000 là 96,8 % và năm 2001 là 96,3 %, từ đó ta thấy giá vốn hàng bán có ảnh hưởng lớn thế nào đến tổng chi phí cũng như lợi nhuận của công ty. Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này ta đi nghiên cứu bản chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố Bảng : Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố ĐVT: Trđ STT Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch ST Tỷ trọng 1 2 3 4 5 6 7 Chi phí NVL Gvốn Chi phí nhân công Lương CBCNV BHXH, BHYT, KPCĐ Chi phí KHTSCĐ Chi phí dịch vụ mua ngoài Chi phí khác bằng tiền Các chi phí hoạt động khác S chi phí 112.739 1706 1584 122 297 1120 537 683 117.082 57.954 916 811 105 220 617 458 431 60.596 -54.785 -790 -773 -17 -77 -503 -79 -252 -56.486 -49 -46 -49 -14 -26 -45 -15 -37 -48 Từ số liệu tính toán được ta thấy tổng chi phí năm 2000 là 117082 (tr đồng) năm 2001 là 60596 (tr đồng) giảm 56486 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 48 %. Cụ thể giá vốn hàng bán giảm 54785 (tr đồng) tỷ lệ giảm là 49%, chi phí bán hàng chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 252 (tr đồng) tỷ lệ giảm 37%, song sự giảm này đi kèm với sự giảm của doanh thu tiêu thụ hàng hoá từ 115158 (tr đồng) năm 2000 xuống còn 60154 (tr đồng) tức là giảm 55004 (tr đồng) ứng với tỷ lệ là 47,7%. Như vậy mức giảm của chi phí có phần lớn hơn mức giảm của doanh thu và làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp năm 2001 lỗ ít hơn năm 2000 là 1230 (tr đồng). Đây là sự cố gắng lớn của doanh nghiệp song có thể nhận thấy là giá vốn hàng hoá bán quá lớn làm lợi nhuận gộp thu được nhỏ và chi phí bán hàng chi phí quản lí doanh nghiệp lại lớn hơn lợi nhuận gộp dần đến kết quả kinh doanh lỗ. Năm 2001 doanh thu thuần là 60.154 (tr đồng) thì giá vốn là 57.954 (tr đồng) làm cho lợi nhuận gộp chỉ còn là 2200 (tr đồng) trong khi đó chi phí bán hàng,chi phí quản lí doanh nghiệp những 2211 (tr đồng) tất yếu lợi nhuận hoạt động kinh doanh thu được là -11 (tr đồng). Do lợi nhuận thu được giảm nên tổng quỹ lương năm 2001 chỉ còn 811 (tr đồng) giảm 49% so với năm 2000. Doanh nghiệp cần có biện pháp để nâng cao thu nhập của cán bộ công nhân viên. Chi phí hoạt động tài chính và hoạt động bất thường trong năm 2001 cũng giảm với mức giảm 252 (tr đồng) sự giảm này được lí giải là trong năm hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, hoạt động cho thuê tài sản và các hoạt động khác đều giảm làm thu nhập các hoạt động này giảm tất yếu dẫn đến chi phí giảm. Chi phí khấu hao tài sản cố định cũng giảm, giảm 77 (tr đồng) so với năm 2000. Điều đáng quan tâm ở đây là chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền ở cả 2 năm đều rất lớn. Năm 2000 chi phí dịch vụ mua ngoài là 1120 (tr đồng) bằng 70% tổng quỹ lương và năm 2001 là 617 (tr đồng). Có thể nói cùng với giá vốn hàng bán cao thì đây chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận giảm. Đi sâu nghiên cứu chi tiết ta thấy chi phí này cao là do sử dụng lãng phí chi phí tiền điện, tiền nước, điện thoại đường dài, điện thoại di động, phí vận chuyển, các chi phí giao dịch tiếp khách …Chẳng hạn như chi phí tiếp khách năm 2000 là 89,8 (tr đồng) năm 2001 là 49,8 (tr đồng), chi phí hội nghị giao dịch tương ứng cũng là 48,8 triệu và 84 triệu. Vẫn biết là các khoản chi phí này là cần thiết nhưng do sự không tiết kiệm, lãng phí trong việc quản lí chi phí là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp. Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu mối quan hệ doanh thu –chi phí là vấn đề hàng tồn kho. Do đặc điểm là doanh nghiệp thương mại nên hàng tồn kho của công ty chủ yếu là hàng hoá. Việc tổ chức quản lý tốt vốn hàng hoá dự trữ cho phép công ty đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động góp phần nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để có cái nhìn tổng quát về kết cấu hàng tồn kho của công ty chúng ta nghiên cứu bảng sau: Bảng : Bảng kết cấu hàng tồn kho của Công ty SX-XNK xe đạp xe máy HN Chỉ tiêu 31/12/2001 Giá trị % 1. Nguyên liệu, vật liệu 1.791.565 0,04 2. Công cụ dụng cụ trong kho 1.818.182 0,04 3. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 147.128.374 3,47 4. Thành phẩm tồn kho 358.012.522 8,45 - Xe đạp tại kho 265.093.922 74,05 - Xe đạp tại quầy bán 92.918.600 25,95 5. Hàng hoá tồn kho 3.725.833.498 87,99 - Xe máy 1.255.934.440 33,71 - Phụ tùng xe đạp và xe máy 1.155.775.803 31,02 - Vật tư, đồ dùng nội thất 1.314.123.255 35,27 Tổng số 4.234.584.141 100 Qua bảng trên ta thấy hàng tồn kho của công ty tính đến ngày 31/12/2001 là 4.234.584.141 (đồng) chiếm 21,7 % trong tổng tài sản lưu động, trong đó: Nhiên vật liệu tồn kho : 1.791.565 đ chiếm tỷ trọng 0,04 % Công cụ dụng cụ trong kho: 1.818.182 đ chiếm tỷ trọng 0,042 % Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang: 174.128.374 đ chiếm tỷ trọng 3,47 % Thành phẩm tồn kho:385.012.522 đ chiếm tỷ trọng 8.45 % hàng hoá tồn kho : 3.725.833 (đồng) chiếm 87,89 %. như vậy so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành và so với lượng vốn lưu động của công ty thì khối lượng hàng tồn kho của công ty là tương đối lớn. Sự tồn kho này ảnh hưởng đến chi phí mà công ty phải bỏ ra như: chi phí tồn kho, chi phí lưu kho, chi phí quản lý, chi phí trả lãi vay ngân hàng… những chi phí này sẽ làm tăng tổng chi phí, từ đó làm tăng giá vốn, tăng giá bán giảm sản lượng tiêu thụ và giảm lợi nhuận của công ty. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra đối với công ty năm 2002 là phải giải phóng nhanh chóng số tồn kho trên giúp công ty giảm bớt chi phí phát sinh nâng cao hiệu quả kinh doanh cho toàn công ty. Như vậy doanh thu- chi phí-lợi nhuận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ trên cơ sở tăng doanh thu, giảm chi phí công ty mới thu được hiệu quả kinh doanh mong muốn. Từ việc phân tích trên ta có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ở bảng sau Bảng : Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng Các nhân tố làm tăng lợi nhuận Giá vốn hàng bán giảm 54 785 CPBH và CPQLDN giảm 1449 Các khoản giảm trừ giảm 61 Cộng 56295 Các nhân tố làm giảm lợi nhuận Tổng doanh thu giảm -55 065 Cộng -55 065 Tổng biến động lợi nhuận từ HĐKD 1 230 5. Đánh giá chung tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 5.1các mặt làm được Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của các đồng chí lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên nên sản xuất kinh doanh vẫn giữ vững, bước đầu triển khai công tác sản xuất để thực hiện định hướng vừa sản xuất, vừa kinh doanh, thu nhập tuy có giảm so với năm 2000 nhưng cơ bản vẫn giữ được ổn định, các đơn vị kinh doanh vẫn có thu nhập khá Về công tác đầu tư: Đã bước đầu chuyển động tốt, công tác giải ngân đang tiến hành có hiệu quả, công tác xây dựng cơ bản đã hoàn thành 1400m2 nhà xưởng Pháp Vân và đưa vào sản xuất kinh doanh. Đã hoàn thành 550m2 cửa hàng 231 Tôn Đức Thắng và đang quảng cáo cho thuê Về cơ chế quản lý công ty tiếp tục được thông thoáng tạo quyền chủ động hoàn toàn cho các đơn vị kinh doanh trên các mặt hàng kinh doanh, chủ động trên số vốn tài sản được giao, chủ động trong quyết sách thu chi và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh ở đơn vị mình. Bộ phận văn phòng phục vụ , quản lý công ty bước đầu đã đi vào kinh doanh đang dần dần vươn lên tạo doanh thu và hiệu quả cho công ty 5.2. Tồn tại và nguyên nhân. Việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản xuất còn chậm. Công tác đầu tư do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có nguyên nhân chậm do tư vấn và các thủ tục đầu tư mô hình công ty liên hiệp chưa rõ ràng nên biên chế gián tiếp đối với công ty chưa thay đổi được ảnh hưởng lớn đến tình hình quản lý cũng như thực hiện kế hoạc sản xuất kinh doanh của công ty. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, lãi suất ngày càng thấp kinh doanh gặp khó khăn, một số cán bộ kinh doanh chưa thích ứng kịp thời. 5.3. Kết quả các chỉ tiêu thu đua của các đơn vị nội bộ công ty năm 2001 Đơn vị Doanh thu So với Phải nộp NS Nộp quỹ quản lý CT BQ lương (ngđ) Hiệu quả kinh doanh KH Thực hiện KH 2000 KH lãi Thực hiện P. xe máy nội thất P. kinh doanh vật tư P. Xuất nhập khẩu Cửa hàng xe đạp Bộ phận SXKD-VP Cộng 18000 4500 20000 6000 11500 60000 16143 4471 18593 5393 15641 60241 93% 99% 93% 90% 143% 103 % 21% 99% 93% 88% 54% 10,3 13 21 152 -33 163,3 244, 9 8,76 161,6 187,2 681,3 808 998,8 1295 732 3833,8 0 12 16 0 28 -47.2 0 16 0 36,6 5,4 Kết qủa chọn lọc các đơn vị đã thống nhất bình bầu đơn vị khá nhất là phòng XNK có nhiều cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu đầu năm, là đơn vị có kết quả và doanh thu cao nhất. Phòng kinh doanh vật tư, cửa hàng dịch vụ xe đạp cũng được chọn là đơn vị có cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh đảm bảo thu nhập đời sống và không lỗ. Chương III một số giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 1. Nhận định tình hình năm 2002 1.1. Thuận lợi: Công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội mới chính thức ra đời vào năm 1995 nhưng tiền thân lại là nhà máy xe đạp Thống Nhất được thành lập vào những năm 1960. Bởi vậy trải qua quá trình hoạt động lâu dài công ty đã đúc kết ra nhiều kinh nghiệm quý báu cho mình, đội ngũ quản lý của công ty có nhiều kinh nghiệm. Điều này tạo ra một nền tảng vững chắc cho công ty trong kinh doanh đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh hiện nay. Mặt khác do thời gian hoạt động lâu dài nên công ty có rất nhiều bạn hàng tin cậy luôn sẵn sàng cung ứng vật tư cho công ty . công ty có bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, có tập thể năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm có kinh nghiệm trong buôn bán kinh doanh . Nhìn chung công ty luôn có sự đoàn kết nhất trí cao từ lãnh đạo đến đội ngũ công nhân viên, có hệ thống cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh vận hành khá đồng bộ với quyết tâm xây dựng công ty ngày càng lớn mạnh Công ty là loại hình doanh nghiệp nhà nước nên được sự quan tâm giúp đỡ của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, sở khoa học công nghệ và môi trường….cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho công ty hoàn thành tốt nhiệm của mình. 1.2 Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên công ty cũng gặp phải nhiều khó khăn. mô hình công ty liên hiệp chưa rõ ràng nên biên chế gián tiếp đối với công ty chưa thay đổi được, điều này gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. Tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định của công ty đã lạc hậu, tuy công ty đang dần đổi mởinhưng không đồng bộ. Hầu hết máy móc thiết bị đã khấu hao hết, nhà xưởng chật hẹp đang bị xuống cấp. Công tác đầu tư công nghệ mới bắt đầu, sản phẩm dự kiến làm ra khâu tiêu thu chưa được chắc chắn. Công tác xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, mặt hàng vật tư liên tục giảm giá, mặt hàng xe đạp bị cạnh tranh gay gắt không chỉ bởi hàng liên doanh mà còn bởi hàng lậu, hàng giả phát triển tràn lan chưa được kiểm soát chặt chẽ. 2. Phương hướng cụ thể năm 2002. Từ những khó khăn thuận lợi trên, căn cứ vào chủ trương chỉ đạo kế hoạch của thành phố năm 2002 công ty xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch như sau: lấy công tác sản xuất xe đạp, phụ tùng xe máy và tiêu thụ xe đạp, xe máy, vật tư làm chính kết hợp với đa dạng hoá kinh doanh các mặt hàng, phát huy thế mạnh uy tín về vốn vị thế kinh doanh và tính năng động sáng tạo của bộ máy tạo đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, nâng cao năng suất lao động , phấn đấu đạt mức thu nhập cao hơn năm trước và đóng góp đầy đủ cho ngân sách. đưa nhanh vào sử dụng cửa hàng 231 Tôn Đức Thắng hoàn thành cơ bản dự án sản xuất xe đạp và các sản phẩm cơ khí khác tại khu vực Pháp Vân, các thiết bị máy móc đầu tư được đưa ngay vầo sản xuất, chuẩn bị tốt thị trường tiêu thụ Mục tiêu cụ thể: Doanh thu tăng 20 % so với năm 2001 Bình quân thu nhập( người/ tháng) tăng 15 % Nộp ngân sách Xe đạp lắp ráp và tiêu thụ Lợi nhuận Các chỉ tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị trong công ty. Chỉ tiêu được giao Đơn vị Lao động người Doanh thu Quỹ lương Quỹ QLCT Lãi (Tr) Quỹ lương BQ lương P. xe máy nội thất P. kinh doanh vật tư P. xuất nhập khẩu Cửa hàng xe đạp Bộ phận sản xuất kinh doanh văn phòng Cộng 7 4 4 20 50 85 18000 5400 23000 6200 19500 72100 108 70 77 170 500 925 1.285,7 1458,3 1604,2 708,3 888,3 1.106,9 296 95 130 176 377 1074 10 5 26 0 9 50 II. Một số giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24156.DOC
Tài liệu liên quan