Tài liệu Đề tài Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại: 1 
CHƢƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA 
 TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƢƠNG MẠI. 
1.1 Tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại 
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái. 
Trong điều kiện của một nền kinh tế mở, thương mại quốc tế trở thành 
phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của 
nước này hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ các nước, các quốc 
gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái. 
Theo quan điểm kinh tế học, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế 
quan trọng trong thương mại, đầu tư quốc tế. Tỷ giá ảnh hưởng tới giá cả và tác 
động đến các hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. 
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan 
giá trị giữa hai đồng tiền phát sinh trong các hoạt động liên quan đến xuất nhập 
khẩu hàng hóa, đầu tư, giao dịch tài chính quốc tế… Hoặc tỷ giá là giá cả của 
một đồng tiền được biểu thị bằng số lượng đơn vị tiền tệ khác. 
Bảng 1.1 Tỷ giá của một số ngoại tệ ngày 28...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
56 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
CHƢƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA 
 TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƢƠNG MẠI. 
1.1 Tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại 
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái. 
Trong điều kiện của một nền kinh tế mở, thương mại quốc tế trở thành 
phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của 
nước này hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ các nước, các quốc 
gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái. 
Theo quan điểm kinh tế học, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế 
quan trọng trong thương mại, đầu tư quốc tế. Tỷ giá ảnh hưởng tới giá cả và tác 
động đến các hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. 
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan 
giá trị giữa hai đồng tiền phát sinh trong các hoạt động liên quan đến xuất nhập 
khẩu hàng hóa, đầu tư, giao dịch tài chính quốc tế… Hoặc tỷ giá là giá cả của 
một đồng tiền được biểu thị bằng số lượng đơn vị tiền tệ khác. 
Bảng 1.1 Tỷ giá của một số ngoại tệ ngày 28/03/2010 
Mã NT Tên ngoại tệ Mua tiền mặt Bán tiền mặt 
USD US DOLLAR 19,050.00 19,100.00 
EUR EURO 25,122.90 25,198.50 
JPY JAPANESE YEN 201.41 207.48 
( Theo tỷ giá công bố của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank) 
1.1.2 Những nhân tố tác động đến tỷ giá 
Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động, mức giá 
cả tương đối ở thị trường trong nước, thuế quan và hạn mức nhập khẩu, ưa thích 
hàng nội so với hàng ngoại. 
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nƣớc: đóng một vai trò quan trọng 
trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ. NSLĐ trong nước tăng 
lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể 
2 
hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập, dẫn 
đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội địa so với hàng ngoại nhập, làm cho hàng 
nội địa vẫn bán tốt. Thực tế trên thị trường thế giới, TGHĐ của đồng tiền phụ 
thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó. Một nền kinh tế phát 
triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự 
tăng giá của đồng tiền nước đó. 
- Mức giá tƣơng đối ở thị trƣờng trong nƣớc: là nhân tố quan trọng ảnh 
hưởng trực tiếp đến TGHĐ. Theo thuyết mức giá cả tương đối, khi mức giá cả 
hàng nội địa tăng tương đối so với hàng ngoại nhập thì cầu của hàng nội địa sẽ 
giảm xuống và đồng nội tệ có xu hướng giảm giá để cho hàng nội bán được tốt 
hơn và ngược lại nó sẽ làm đồng nội tệ có xu hướng tăng giá, bởi vì hàng nội địa 
vẫn bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ. 
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu: là những công cụ kinh tế mà 
Chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này nhiều hay 
ít đã tác động và làm tăng giá cả của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu 
cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản 
xuất trong nước. Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh 
hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài. 
- Ƣa thích hàng nội so với hàng ngoại : Nếu sự ham thích của người 
nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm 
đồng nội tệ tăng giá, bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao 
hơn của đồng nội tệ. Cầu đối với hàng xuất khẩu của một nước tăng lên làm cho 
đồng tiền nước đó giảm giá. 
1.1.3. Chính sách tỷ giá hối đoái 
1.1.3.1 Khái niệm chính sách tỷ giá hối đoái 
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ được dùng để tác 
động vào quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, từ đó giúp điều 
chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính 
sách tỷ giá tập trung chú trọng vào giải quyết hai vấn đề lớn: lựa chọn chế độ tỷ 
giá hối đoái và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 
3 
1.1.3.2 Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái 
Chính sách tỷ giá hối đoái nằm trong hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ, 
là một trong những hệ thống chính sách cơ bản để thực hiện các mục tiêu cuối 
cùng của nền kinh tế. 
 Trong nền kinh tế mở cửa, động cơ của việc hoạch địch chính sách nói 
chung, chính sách tài chính - tiền tệ và chính sách tỷ giá nói riêng là nhằm đạt 
được các cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. Các cân đối bên trong 
và bên ngoài của một nền kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tỷ giá 
hối đoái là một biến số có khả năng ảnh hưởng đến cả hai cân đối đó lẫn mối 
quan hệ giữa chúng. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tỷ giá cũng nhằm phục vụ 
để đạt được cả hai mục tiêu này. 
1.1.3.3 Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái. 
Tỷ giá hối đoái là một biến số quan trọng có liên quan đến rất nhiều biến 
số kinh tế khác nên mọi sự thay đổi của các biến số kinh tế ít nhiều đều có tác 
động đến những giao dịch dân cư, Chính phủ một nước với dân cư và nền kinh tế 
thế giới và như vậy sẽ có tác động đến tỷ giá hối đoái. Vì vậy, tất yếu sẽ có rất 
nhiều các công cụ và thách thức khác nhau để thực hiện cơ chế tác động của 
chính sách tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ngoài các biện pháp có tính chất hành 
chính mà các nước thường sử dụng điều chỉnh tỷ giá hối đoái thì có hai công cụ 
cơ bản và mang tính kinh tế thuần túy thường được các nước phát triển sử dụng 
để can thiệp vào điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hai công cụ đó là lãi suất chiết khấu 
và nghiệp vụ thị trường mở. 
- Công cụ lãi suất tái chiết khấu: Cách thức dùng lãi suất tái chiết khấu 
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái được thực hiện với mong muốn tạo ra sự thay đổi 
tức thời về tỷ giá. Lãi suất tái chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều 
của lãi suất thị trường, làm thay đổi hướng chảy của các dòng vốn đầu tư bằng 
việc các nhà đầu tư trong một nước sẽ chuyển đổi đồng tiền mình đang sở hữu 
sang đồng tiền có lãi suất cao hơn, cung - cầu ngoại tệ thay đổi làm cho tỷ giá 
thay đổi theo (phân tích trong ngắn hạn). Cụ thể, khi lãi suất trong nước tăng, 
dòng vốn ngắn hạn trên thị trường tài chính quốc tế sẽ đổ vào trong nước, các 
4 
nhà đầu tư trong nước cũng chuyển vốn của mình sang đồng nội tệ. Ngược lại, 
khi muốn điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng, ta sẽ tiến hành giảm lãi suất tái chiết 
khấu. 
- Công cụ nghiệp vụ thị trƣờng mở ngoại tệ: Nghiệp vụ thị trường mở 
ngoại tệ thực chất là hoạt động của NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để 
điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 
Các Chính phủ thực hiện can thiệp vào tỷ giá hối đoái thông qua việc điều 
chỉnh mức dự trữ ngoại tệ. Tùy theo mục tiêu muốn tăng hay giảm giá đồng nội 
tệ mà NHTW sẽ bán ra hay mua vào đồng ngoại tệ, thay đổi mức dự trữ ngoại tệ 
và thay đổi tỷ giá hối đoái. Có hai khả năng có thể xảy ra khi NHTW tiến hành 
can thiệp vào thị trường ngoại hối. Đó là, khả năng can thiệp hữu hiệu và khả 
năng can thiệp vô hiệu. 
Một sự can thiệp hữu hiệu của Chính phủ vào thị trường ngoại hối diễn 
ra khi NHTW tiến hành mua, bán đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, nhờ đó 
làm thay đổi cơ số tiền, làm thay đổi mức cung tiền, lãi suất và làm thay đổi tỷ 
giá hối đoái. 
Sự can thiệp vô hiệu sẽ diễn ra khi hành động mua bán này của NHTW 
được phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường tiền tệ tương ứng. 
Việc mua bán đồng nội - ngoại tệ diễn ra đồng thời với việc mua bán chứng 
khoán. Kết quả của sự phối hợp các nghiệp vụ này chỉ dẫn đến sự thay đổi trong 
mức dự trữ quốc tế của một nước, chứ không làm thay đổi mức cung tiền và do 
đó không dẫn đến sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái và giá trị của các đồng tiền. 
Ngoài hai công cụ cơ bản và thuần túy mang tính chất kinh tế trên, các 
quốc gia còn sử dụng một loạt các công cụ khác mang tính hành chính như : quy 
định quản lý ngoại hối, điều chỉnh các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trên thị 
trường, những điều chỉnh trong chính sách tài chính (thuế khóa, chi tiêu...) để 
điểu chỉnh tỷ giá hối đoái . 
1.1.4. Cán cân thƣơng mại. 
1.1.4.1 Khái niệm cán cân thƣơng mại 
5 
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân 
thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu 
và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc 
năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. 
Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. 
Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. 
Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. 
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương 
mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại 
mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng 
dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. 
1.1.4.2 Những nhân tố tác động đến cán cân thƣơng mại 
- Ảnh hƣởng của thu nhập quốc dân (GDP): Thu nhập thực tế (đã điều 
chỉnh theo lạm phát) tăng làm gia tăng mức tiêu thụ hàng hóa. Một sự gia tăng 
trong chi tiêu hầu như phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước 
ngoài. Vì vậy, GDP tăng đã làm nhập khẩu có xu hướng tăng. Sự gia tăng của 
nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là 
phần của GDP tăng thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. 
- Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng 
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập 
khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho 
nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản 
xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng 
tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. 
- Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc 
gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó 
chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính 
vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. 
- Tỷ giá hối đoái : là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh 
hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị 
6 
trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của 
hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt 
đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây 
bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu 
ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế 
trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. 
1.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm điển hình trên thế giới về mối quan hệ 
giữa chính sách tỷ giá và cán cân thƣơng mại. 
1.2.1 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại, kinh nghiệm 
của các quốc gia Châu Á. 
Công trình nghiên cứu của các tác giả Khim _Sen Liewa, Kian_Ping Limb 
và Huzaimi Hussainc xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân 
thương mại, thông qua việc nghiên cứu tình hình thay đổi tỷ giá hối đoái và cán 
cân thương mại của Các quốc gia Asean (Thái Lan, Malaysia, Indonesia 
,Singapore, Philippin) với Nhật Bản - một quốc gia có mối quan hệ giao thương 
chính. 
Thế nhưng kết quả thu được không mấy rõ ràng về mối quan hệ giữa tỷ 
giá hối đoái và cán cân thương mại. Bởi lẽ theo lý thuyết, khi đồng nội tệ giảm 
giá thì thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện cán cân thương 
mại, tuy nhiên trong một số mốc thời gian thì lý thuyết này không đúng và không 
đưa ra một sự giải thích rõ ràng cho kết quả thu được. Các nhà nghiên cứu đã đưa 
ra giả thuyết là có nhân tố khác tác động nhiều hơn đến cán cân thương mại thay 
vì sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Bài nghiên cứu này đề cập đến yếu tố cung tiền 
thực (real money). Những vấn đề về cung tiền thực và hiệu ứng cung tiền thực 
được trình bày trong phần phụ lục. 
 Nghiên cứu cho thấy rằng cán cân thương mại nhạy cảm với cung tiền 
thực hơn là nhạy cảm với tỷ giá hối đoái. Thông qua đó, nghiên cứu đã chỉ ra tỷ 
giá hối đoái của quốc gia sẽ cải thiện nếu cung tiền thực của chúng nhỏ hơn cung 
tiền thực của Nhật . Về mặt logic kinh tế của giả thuyết thì bất cứ khi nào cung 
tiền thực của quốc gia nội địa nhỏ hơn cung tiền thực của Nhật , thì sức mua của 
7 
đồng nội tệ sẽ tăng lên tương đối so với đồng Yên Nhật. Chính vì vậy , hàng hóa 
trong nước và dịch vụ được xem là rẻ hơn trong mắt người Nhật, vì thế có sự 
tăng lên trong xu hướng là Nhật sẽ nhập khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn từ 
quốc gia nội địa. Mặt khác, người dân trong nước sẽ mua ít hàng hóa và dịch vụ 
từ Nhật Bản, vì họ thấy rằng hàng hóa từ Nhật đắt hơn. Từ đó cho thấy cán cân 
thương mại của quốc gia nội địa sẽ giảm sút nếu cung tiền thực của nó lớn hơn 
của Nhật. 
 Phân tích thực nghiệm dữ liệu thống kê của nghiên cứu này đề xuất rằng 
cung tiền thực có thể giải thích được sự thay đổi của cán cân thương mại giữa các 
quốc gia Asean (Malaysia, Singapore, Thái lan và Philippines) với Nhật Bản 
trong suốt thời kỳ quan sát. Vì vậy, khi đối mặt với cán cân thương mại thâm hụt, 
Chính phủ của các quốc gia Asean nên dùng chính sách đo lường trọng tâm biến 
số cung tiền thực. Và một điều quan trọng nữa là tỷ giá hối đoái không chỉ là 
chính sách duy nhất đề điều hành chính sách cán cân thương mại của các quốc 
gia ASEAN. 
1.2.2 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại: đƣờng cong 
chữ J 
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại 
được thực hiện bởi các tác giả thuộc đại học Olugbenga Onafowora Susquehann . 
Đây là nghiên cứu trong ngắn hạn và dài hạn của hiệu ứng tỷ giá hối đoái thực 
lên cán cân thương mại của 3 quốc gia ASEAN trong thương mại song phương 
với Mỹ và Nhật Bản với mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số(VECM). Mặc dù có sự 
biến đổi trong kết quả nhưng xét tổng thể thì nghiên cứu này vẫn tiến tới đề nghị 
là neo đồng nội tệ trong dài hạn mặc dù bị ảnh hưởng bởi tác động của hiệu ứng 
đường cong chữ J trong ngắn hạn…. 
Trong nghiên cứu thực nghiệm này, cả hai phương tiện quan sát là hồi 
quy và kinh tế lượng đều được áp dụng cho riêng mỗi quốc gia trong quá trình 
nghiên cứu, kết quả cho thấy tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng như thế nào đến sự 
thay đổi của cán cân thương mại và sự phát triển của quốc gia. Nghiên cứu còn 
chỉ ra một sự khác biệt lớn về mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và tác động 
8 
giảm giá tiền tệ trong việc cải thiện cán cân thương mại của quốc gia. Bởi vậy, 
tác động tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại phải cân nhắc kỹ cho câu hỏi từ 2 
hướng là phân tích và kinh nghiệm dự báo tương lai. Những kết quả nghiên cứu 
gần đây là một sự tiến bộ, một phát hiện mới mẻ trong chuỗi các nghiên cứu về 
kinh tế lượng. 
Nghiên cứu này xem xét, kiểm định tác động trong ngắn hạn và dài hạn 
của tỷ giá hoái đoái thực lên cán cân thương mại của 3 quốc gia ASean : Thái 
Lan, Malaysia, và Indonesia với Mỹ và Nhật Bản để xác định có hay không sự 
biến đổi trong ngắn hạn của cán cân thương mại. Và dựa vào mô hình nghiên 
cứu véc tơ hiệu chỉnh sai số kiểm định tính ổn định của các biến số để khẳng 
định lại một lần nữa rằng trong dài hạn thì sẽ có mối quan hệ bền vững và ổn 
định giữa cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái. 
Nghiên cứu tìm thấy trong thương mại song phương giữa Indonesia, 
Malaysia với Mỹ, Nhật Bản và giữa Thái Lan với Mỹ có hiệu ứng đường cong 
chữ J trong ngắn hạn. Với sự giảm giá của tỷ giá hối đoái ban đầu dẫn đến sự trì 
trệ trong cán cân thương mại ở 4 quý trong ngắn hạn, nhưng lại được cải thiện 
đáng kể trong dài hạn. Thái Lan đối diện với biến động trong cán cân thương mại 
song phương với Nhật : một sự giảm giá đột ngột trong tỷ giá hối đoái ban đầu 
giúp cán cân thương mại được cải thiện rồi thâm hụt và sau đó lại được cải thiện. 
Tóm lại, theo kết quả nghiên cứu là neo giữ đồng nội tệ trong dài hạn với 
mức độ biến đổi của hiệu ứng đường cong J trong ngắn hạn. Những tìm kiếm này 
có nhiều ứng dụng cho cán cân của những quốc gia khu vực Đông Á với Nhật và 
Mỹ. Điều căn bản đó là tiếp tục giảm giá tiền tệ của các quốc gia Đông Á so với 
đồng USD và Yên Nhật để có thể dẫn đến một sự cải thiện trong cán cân thương 
mại của họ với Nhật và Mỹ. Dù thế nào đi nữa thì sự cải thiện này cũng sẽ xảy ra 
chỉ trong 3 hoặc 4 thời kỳ sau khi có sự giảm giá thực sự. 
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng chính sách tỷ giá để cải thiện 
cán cân thƣơng mại. 
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc: 
9 
Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc được thực hiện có tính nhất 
quán gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng hóa rẻ và khối lượng lớn của 
Trung Quốc. 
Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp 
thực tế đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác đặc biệt với đồng đô la Mỹ để 
tạo lợi thế thương mại ngắn hạn. Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị 
tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, tương ứng với tỷ 
lệ phá giá 50% (8,7/5,8). Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 
0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ lệ phá giá thực tế là 50,14%. Có thể thấy rõ đây 
chính là sự kết hợp giữa việc điều chỉnh và phá giá đồng Nhân dân tệ trong chính 
sách tỷ giá của Chính phủ Trung Quốc. 
Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng 
bộ phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích 
cực nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh 
tế Trung Quốc (xem bảng 2). 
Bảng1. 2 : Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 1994 - 1997. 
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997 
Tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu (tỷ 
USD) 
236.73 280.90 289.90 325.05 
Tốc độ tăng trưởng của XN khẩu (% 
năm) 
20.97 18.65 6.41 12.12 
Cán cân tài khoản vốn (Triệu USD) 32,645 38,647 39,966 22,978 
Lạm phát (% năm) 24.24 16.90 8.32 2.80 
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8.6187 8.3514 8.3142 8.2898 
Tốc độ tăng trưởng (% năm) 12.70 10.50 9.50 8.80 
(Nguồn: Ngân hàng Phát triển đầu tư Châu Á – ADB) 
10 
Vào tháng 7/2005, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng 
nâng giá đồng Nhân dân tệ và tỷ giá giữa đồng đô la và Nhân dân tệ vào thời 
điểm này là 1 USD = 8.27 CNY sau đó Ngân hàng trung ương tiến hành cải cách 
tỷ giá, cho phép thả nổi tỷ giá trong giới hạn biên độ 0.3% so với tỷ giá chính 
thức của Ngân hàng Trung ương. Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối 
đoái khá linh hoạt và gắn với từng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời 
điểm cụ thể. 
 Trong điều kiện đồng đô la lên giá, Trung Quốc đã tìm cách để định giá 
đồng nhân dân tệ thấp. Với cách thức này, Trung Quốc đã gần như khai thác triệt 
để lợi thế thương mại không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với các đối tác thương mại 
khác. 
Cụ thể hơn, trong giai đoạn 2001 – 2005, tốc độ tăng GDP bình quân mỗi 
năm đạt 9,5% (năm 2006 đạt 11,5%). Tính theo USD, GDP của Trung Quốc đã 
tăng gấp đôi, từ 1.325 tỷ USD năm 2001 lên 2.235 tỷ USD năm 2005. Trước đây, 
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới; sau 5 năm, Trung Quốc đã đứng thứ 
3. Chất lượng hàng hóa của Trung Quốc được cải thiện nhiều để đạt tiêu chuẩn 
quốc tế và ngành dịch vụ mở rộng với quy mô chưa từng có. Mức tăng trưởng 
thương mại của Trung Quốc cũng nhanh nhất thế giới và hiện nay Trung Quốc là 
nước có giá trị thương mại lớn thứ 3 sau EU và Mỹ. Kim ngạch thương mại 
chiếm 40% GDP năm 2001 đã lên đến 80% GDP năm 2005. 
Và có thể thấy trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của nền kinh 
tế Trung Quốc được đánh giá là cao, cùng với sự thặng dư trong cán cân thương 
mại, và nguồn dự trữ ngoại tệ khá lớn. 
Bảng 1.3: Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 2005-2008 
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 
Tốc độ tăng trưởng nhập 
khẩu (% năm) 
28.1 28.3 26.7 24.8 
Tốc độ tăng trưởng của XN 
khẩu (% năm) 
34.1 36.5 36.1 33.2 
Tỷ giá hối đoái (NDT/USD) 8.1943 7.9734 7.6075 6.9487 
11 
Tốc độ tăng trưởng (% 
năm) 
10.4 11.6 13.0 9.0 
(Nguồn: Ngân hàng Phát triển đầu tư Châu Á – ADB) 
Trung Quốc thực hiện chính sách neo buộc chặt hay nói cách khác cố định 
đồng nhân dân tệ với đồng đô la để tiếp tục làm giảm giá đồng nhân dân tệ nhằm 
tăng lợi thế thương mại và tiến hành chuyển đổi một phần đô la ra vàng để bảo 
hiểm giá trị của lượng dự trữ. 
Hình 1.1: Tỷ giá hối đoái giữa đồng Nhân dân tệ với Đô la Mỹ 1980 -2010 
(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF) 
Đầu năm 2010, các đối tác thương mại với Trung Quốc đã thống nhất lên 
tiếng yêu cầu Trung Quốc phải nâng giá đồng nhân dân tệ song Trung Quốc vẫn 
cố tìm mọi cách thức để tránh phải đáp ứng yêu cầu của các đối tác thương mại 
này. 
1.3.2 Kinh nghiệm của Thái Lan: 
 Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua 
nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo phát 
triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% trong một thập kỷ cho 
12 
đến năm 1996. Các yếu tố mang lại thành công kinh tế đó là nhờ Thái Lan đã 
tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, chủ nghĩa 
bảo thủ tài chính, các chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở và sự khuyến khích 
lĩnh vực tư nhân, thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo 
hướng phục vụ xuất khẩu. 
 Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan trong những năm gần đây chủ yếu 
tăng được thể hiện qua bảng sau: 
Bảng 1.4: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 2003-2008 
ĐVT: Triệu USD 
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 
E(THB/USD) 39.59 41.08 41.03 36.05 33.72 34.90 
Cán cân 
thương mại 
4,496 1,809 -7,983 -49 11,114 -5,291 
 (Nguồn: Tổng hợp từ Ngân hàng phát triển Châu Á ADB) 
Có được những thành quả trên, Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ lực 
cải thiện cán cân thương mại như: cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện cơ cấu 
chính sách thương mại và phá giá mạnh đồng Bath và tác động đến cán cân thanh 
toán quốc tế của Thái Lan. 
Do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên trong giai đoạn 
trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với 
Thái Lan, việc thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD đồng 
nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD 
với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với 
USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã 
giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). 
Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị 
đích thực của nó.Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm 
đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. 
13 
 Có nhiều nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn 
này bao gồm: tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của 
các nước Đông Á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt 
là hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 
lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn ngắn hạn 
nước ngoài chảy vào.Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc 
kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt 
chảy vào Thái Lan. 
Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, 
trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài chính trong 
nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần 
như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương 
mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng. 
Hình 1.2: Biến động của tỷ giá Baht/USD trong giai đoạn 1994-2008 
tỷ giá hối đoái Thái Lan
0.00
5.00
10.00
5.00
20.00
25.00
30.00
35.00
40.00
45.00
50.00
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
 (Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, 
mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng 
Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước 
việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn 
thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. 
14 
Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 
20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 
đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan 
nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm 
nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng 
dư là 11,973 tỷ USD năm 2007. 
Hình 1.3: Cán cân thương mại Thái Lan giai đoạn 1994-2008 
cán cân thương mại Thái Lan
-50000
0
50000
100000
150000
200000
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
xuất khẩu
nhập khẩu
cán cân thương mại
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ 
lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc phải thả 
nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền 
đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng 
kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc. 
Từ cuối năm 1998 – 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng 
nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 
lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù 
luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội 
tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 
2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế 
thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn. 
15 
1.3.3 Kinh nghiệm của Hàn Quốc: 
Chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, từ một nước nông nghiệp nghèo 
nàn, GDP đầu người chỉ khoảng 87USD thì giờ đây Hàn Quốc đã đạt được 
những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. 
Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết 
nền kinh tế, trong đó đặt trọng tâm là hướng về xuất khẩu. 
- Chính sách hƣớng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế 
Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường trong 
nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Để đối 
phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất 
khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông 
qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội 
tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ 
trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp 
xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi 
nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt. 
Hình 1.4: Cán cân thương mại Hàn Quốc giai đoạn 1994-2008 
Cán cân thương mại Hàn Quốc
-100000
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
CCTM
xuất khẩu
nhập khẩu
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết 
sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển 
16 
kinh tế nhanh nhất thế giới. Cán cân thương mại đã được cải thiện đáng kể. 
Trong giai đoạn từ năm 1994-1996, nhập khẩu tăng, sản xuất trong nước chưa 
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, cán cân thương mại bị thâm hụt. Từ 
sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 cho đến nay, thì cán cân 
thương mại của Hàn Quốc luôn thặng dư, tốc độ tăng ổn định. Trong suốt giai 
đoạn 2001-2008, xuất khẩu tăng với tốc độ rất cao. 
- Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn 
Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái hướng vào 
xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. 
Hình 1.5: Xu hướng biến động tỷ giá KRW/USD giai đoạn 1994 -2008 
tỷ giá hối đoái của Hàn Quốc
0.00
200.00
400.00
600.00
800.00
1000.00
1200.00
1400.00
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Hàn Quốc kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng 
xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng 
máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ cũng như vay nợ nước ngoài để đầu 
tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở 
đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất khẩu. 
Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất khẩu 
ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu và gánh 
nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won, Hàn Quốc đã tăng 
cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên đã đạt tốc độ tăng 
trưởng xuất khẩu cao. 
17 
Tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ 
trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc chuyển từ chế độ tỷ 
giá cố định sang thả nổi. 
Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các 
yếu tố thị trường và chỉ điều chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ 
động tạo ra các điều kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở 
tới hoạt động xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, 
còn khi USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất 
khẩu. 
1.3.4 Bài học sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thƣơng mại 
đối với Việt Nam: 
Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, 
Thái Lan , một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau: 
- Cần có phản ứng chính sách linh hoạt về tỷ giá trong những tình huống 
cụ thể và cần có định hướng rõ ràng về tỷ giá trong dài hạn làm căn cứ cho các 
điều chỉnh ngắn hạn. Do đó, cần có cơ chế giám sát và theo dõi chặt chẽ sự biến 
động của tỷ giá cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài để nhận dạng 
xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái đặc biệt giữa các đồng tiền đại diện cho 
các trung tâm kinh tế lớn và toàn cầu như đồng đô la, đồng EUR … 
- Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải cách. 
Trong chính sách tỷ giá hối đoái, việc điều chỉnh tỷ giá có ảnh hưởng đến giá cả 
trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi 
chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy nhiên, không có 
thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá sẽ vận hành không 
có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, việc điều 
chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất cứng nhắc mà được xem 
như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. 
- Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát 
triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá hối đoái 
được coi là phù hợp bao gồm: 
18 
+ Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong 
việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá 
hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung 
Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với 
bên ngoài. 
+ Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao 
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc 
duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo ra sự 
phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để 
giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường 
xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ 
giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt 
nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng 
dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. 
+ Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ 
mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh được 
cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 
1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng là trong 
giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ trương ổn định tỷ 
giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ 
trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho 
thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên 
sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các nước này. 
19 
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 
Trong Chương 1, tác giả đã hệ thống các vấn đề lý luận về tỷ giá hối đoái 
và cán cân thương mại, đề cập đến các nghiên cứu điển hình trên thế giới về mối 
quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại, cùng với việc xem xét các chính sách 
điều hành tỷ giá của các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan … Và 
tác giả cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc điều 
hành chính sách tỷ giá để cải thiện cán cân thương mại. 
20 
CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở 
VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN CÁN CÂN 
THƢƠNG MẠI 
2.1. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam và những tác động đến 
xuất, nhập khẩu: 
Các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến việc quản lý, lựa chọn cơ chế 
hay chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp nhằm phát huy tính hiệu quả trong việc ổn 
định thị trường tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong 
nước đối với hàng hóa nước ngoài. 
Đối với Việt Nam, việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp 
cũng đã và đang là vấn đề được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế 
tăng trưởng có nhiều dấu hiệu chưa bền vững và tình hình lạm phát gia tăng. 
Trong thập niên 80: tỷ giá và lạm phát cao với sự đóng cửa với thị 
trường thế giới. 
Từ năm 1990-2006, cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam có nhiều thay 
đổi hơn trước, theo hướng linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường, nhất là từ năm 
1999 đến nay. 
- Năm 1991-1996: cố định tỷ giá với mức 1$=11.000VND 
- Năm 1996-1998:giảm giá dần đồng nội tệ do chịu ảnh hưởng của khủng 
hoảng tiền tệ châu Á 1997 
- Ngày 26/2/1999:Nhà nước chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ tỷ 
giá xuống còn 0.1%. Và biên độ tỷ giá được nới rộng dần từ năm 1999 đến nay. 
Từ 26/2/1999-30/6/2002: áp dụng biên độ giao động 0,1%. Năm 1999, tỷ 
giá giữa đồng VN và USD khá ổn định, tỷ giá liên ngân hàng tăng 1%, tỷ giá trên 
thị trường tự do tăng 1,1% so với năm 1998. Năm 2000 tỷ giá giao dịch trên thị 
21 
trường liên ngân hàng tăng 3,45%, tỷ giá trên thị trường tự do tăng 3,18% so với 
năm 1999. Năm 2001 tỷ giá tăng 3,9% so với cuối năm 2000. Trong năm 2002 tỷ 
giá bình quân VND/USD trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,97%, so với năm 
2001. Năm 2003 tỷ giá tăng khoảng 1% so với năm 2002. 
Hình 2.1: Xu hướng biến động tỷ giá giai đoạn từ năm 1999-2002 
Tỷ giá danh nghĩa VND/USD
13000
13500
14000
14500
15000
15500
16000
Q1
/19
99
Q2
/19
99
Q3
/19
99
Q4
/19
99
Q1
/20
00
Q2
/20
00
Q3
/20
00
Q4
/20
00
Q1
/20
01
Q2
/20
01
Q3
/20
01
Q4
/20
01
Q1
/20
02
Q2
/20
02
Q3
/20
02
Q4
/20
02
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Tuy nhiên, giai đoạn này (1999 – 2002), mặc dù tỷ giá tăng nhưng mức độ 
giảm giá trị của Việt Nam đồng vẫn còn thấp hơn nhiều so với một số nước trong 
khu vực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 
làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương mại. 
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu vĩ mô giai đoạn 1999 – 2002 
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 
Lãi suất (%) 7,2 6,24 6,84 7,8 
Dự trữ ngoại tệ kể cả vàng (tỷ USD) 2.711 3.030 3.387 3.692 
Cán cân TKVL (%GDP) 2,6 2,1 1,5 -1,9 
( Nguồn: NHNN, IMF, Tổng cục thống kê) 
22 
Bên cạnh đó, sự ổn định của của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ, kết 
hợp với cơ chế lãi suất tự do ổn định, qua đó dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng từ 
2.711 tỷ USD năm 1999 đến 3.692 tỷ USD năm 2002 (tăng 36,19%). Tình hình 
cán cân tài khoản vãng lai được cải thiện từ thâm hụt 3,9% năm 1998 sang thặng 
dư 2.6% năm 1999 và 2.1% năm 2000 đã tiếp tục cải thiện được cán cân thanh 
toán quốc tế. 
Ngày 1/7/2002, Ngân hàng Việt Nam công bố nới rộng biên độ lên 0.25% 
so với giá giao dịch bình quân trên thị trường bình quân liên ngân hàng. Đối với 
các ngoại tệ khác không phải là USD, các NHTM được quyền chủ động tự định 
tỷ giá giữa VND và ngoại tệ đó. 
Từ năm 2002-2006: biên độ 0.25% được cố định, tỷ giá năm 2003 tăng 
3% so với năm 2002 và ổn định với việc đồng Việt Nam được định giá thấp đã 
cải thiện rõ rệt tình trạng thâm hụt cán cân thương mại từ -12,8% GDP năm 2003 
xuống còn -8,8 %GDP năm 2006, góp phần cải thiện cán cân tài khoản vãng lai 
từ -4,9 % GDP năm 2003 xuống còn -0,3 % GDP năm 2006, đã tiếp tục cải thiện 
được cán cân thanh toán quốc tế, qua đó dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng. Đồng thời, 
sự ổn định của tỷ giá đã góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, từ đây các 
nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng, tốc độ tăng trưởng GDP ổn định. 
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam từ 2003 đến 2006 
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 7,3 7,8 8,4 8,2 
Lạm phát (%) 4,3 7,8 8,4 6,6 
FDI (tỷ USD) 3,15 4,22 6,34 10,2 
Cán cân thương mại (%GDP) -12,8 -12,1 -8,1 -8,8 
Cán cân TK vãng lai (%GDP) -4,9 -3,4 -0,9 -0,3 
Dự trữ ngoại tệ (tỷ USD) 5,6 6,3 8,5 11,5 
23 
( Nguồn: NHNN, IMF, Tổng cục thống kê) 
Đầu năm 2007, có những biến động lớn trong điều hành tỷ giá của ngân 
hàng Nhà nước: 
 Nới rộng biên độ tỷ giá: Ngày 02/01/2007, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ 
giá ngoại tệ từ + 0,25% lên so với tỷ giá liên ngân hàng. Việc điều chỉnh này 
được cho là mở đường cho sự giảm giá của VND so với USD. 
 Sự can thiệp vào chính sách tỷ giá của +0,5% NHNN: 
- Trong ngày 2 và 3 tháng 01 năm 2007, NHNN đã mua ngoại tệ của các 
NHTM với số lượng nhiều hơn nhằm giảm bớt tình trạng thừa USD trên thị 
trường.Ước tính trong 2 ngày, NHNN đã mua vào trên 140 triệu USD. 
- Tỷ giá VND/USD bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp 
dụng cho ngày giao dịch do Ngân hàng Nhà nước công bố có cao hơn một chút 
(nếu ngày 26.1.2006 là 16.090 thì ngày 2.1.2007 là 16.101, ngày 3.1 là 16.096, 
ngày 4.1 là 16.100); 
- Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương 
Việt Nam) bán ra vẫn cơ bản ổn định ở mức trên dưới 16.055 một chút và thấp 
hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (tương ứng ngày 
26.12.2006 là 16.050, ngày 2.1.2007 là 16.051, ngày 3.1 là 16.055, ngày 4.1 là 
16.055). 
- Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do cũng cơ bản ổn định và chỉ cao 
hơn không đáng kể so với tỷ giá do các ngân hàng thương mại bán ra và cũng 
thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (ngày 2.1.2007 là 
16.070, ngày 3.1 là 16.070, ngày 4.1 là 16.070). 
- Ngày 10.10.2007, giá bán ra đô la Mỹ của ngân hàng là 16.084 đồng, 
nhưng cũng ngày này tháng trước thì giá bán ra là 16.244 đồng. Diễn biến này 
nếu xem tỷ giá của Việt Nam là tự do biến động theo thị trường thì chúng ta gọi 
24 
là tiền đồng Việt Nam tăng giá (appreciation) 160 đồng, hay ngược lại đô la Mỹ 
giảm giá. 
Ngay từ đầu năm 2007, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ dao động, 
nhưng tỷ giá VND/USD vẫn giảm, ngay những tháng đầu năm, tỷ giá giảm 
0,33%. Tỷ giá giao dịch ở các NHTM cũng như ở thị trường tự do đều thấp hơn 
tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước 
công bố. 
Khi kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định ở mức cao, tỷ giá giảm, đồng 
Việt Nam có xu hướng lên giá đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. 
Chính vì thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) năm 2007 đạt mức 
kỷ lục 21,3 tỷ USD và 6 tháng đầu năm 2008 đạt mức 31,6 tỷ USD vượt xa mốc 
21,3 tỷ USD của cả năm 2007. Dự trữ ngoại tệ 09 tháng đầu năm 2008 đạt 22,3 
tỷ USD đạt hơn 20 tuần nhập khẩu. Nhưng cán cân thương mại và cán cân tài 
khoản vãng lai thâm hụt và mức lạm phát tương đối lớn là27,9 %. 
Ngày 24/12/2007 Ngân hàng Nhà nước quyết định mở rộng biên độ từ +/-
0.5% lên +/-0.75% nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường và tăng cường sự 
linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn, 
tạo điều kiện cho dòng vốn ra và vào nhịp nhàng hơn. Theo NHNN, việc mở 
rộng biên độ lần này nằm trong chủ trương tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam 
thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới. 
Tỷ giá có tính thị trường hơn, nhưng khi mà cung lớn hơn cầu thì điều đó 
đồng nghĩa với việc tỷ giá sẽ phải giảm. Sau gần 10 ngày kể từ khi NHNN chính 
thức nới rộng biên độ, tỷ giá đã mất hơn 30 VND/USD, tụt xuống dưới ngưỡng 
16.000 VND/USD. 
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2007, VND đã giảm giá danh 
nghĩa khoảng 14% so với USD do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá 
theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối 
25 
cảnh đồng USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn 
đang vào Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá. 
Từ tháng 10/2007 đến 04/04/2008, nhất là sau khi NHNN nới lỏng biên 
độ dao động tỷ giá từ 0,75% lên 1%, tỷ giá danh nghĩa USD/VND giảm khoảng 
1,2% (VND lên giá), tỷ giá ngày 04/04/2008 là 1USD =15.960 VND. Kim ngạch 
xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2008 đạt 23,39 tỷ USD tăng 27,2% so với cùng kỳ 
năm 2007. Trong khi 5 tháng đầu năm 2008, nhập khẩu đạt 37,81 tỷ USD, tăng 
67,0% so với cùng kỳ năm 2007. 
Như vậy, 5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ 
USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm 
phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài 
sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến 
mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các 
ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND. Việc VNĐ 
được giao dịch trong biên độ hẹp đã làm mất tính thanh khoản của thị trường.Do 
đó nới rộng biên độ tỷ giá hối đoái là hoàn toàn phù hợp. 
Trong năm 2008 Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh biên độ tỷ giá, 
một thời gian ngắn chưa từng có trong lịch sử. Với mục đích điều hành chính 
sách tỷ giá linh hoạt giúp cho các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng thích nghi 
tốt hơn với những biến động của kinh tế thế giới. 
Trong nửa cuối của năm 2008, khi lạm phát đang có xu hướng giảm cùng 
với giá cả hàng hoá trên thế giới và dẫn đến giảm tình trạng đầu cơ tích trữ 
nguyên vật liệu và nhập siêu thì nền kinh tế Việt Nam lại phải đối mặt với một 
vấn đề hoàn toàn khác - nguy cơ suy giảm tăng trưởng kinh tế do tác động của 
suy thoái toàn cầu dẫn đến giảm xuất khẩu. 
Tuy nhiên, việc nới lỏng tiền tệ đã khởi động lại làn sóng tích trữ USD và 
tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng trở lại, có lúc đạt mức 17.400 VND/USD. Do 
mức giảm lãi suất và điều chỉnh tỷ giá chưa đạt đến kỳ vọng của thị trường (xuất 
26 
phát từ việc VND bị mất giá mạnh trong những năm qua và nguồn cung ngoại tệ 
có nguy cơ bị giảm sút do suy thoái kinh tế toàn cầu), tâm lý chờ đợi vẫn phổ 
biến trên thị trường tiền tệ - tín dụng trong những tháng cuối năm. Nhu cầu nắm 
giữ USD vẫn cao và các doanh nghiệp vẫn chần chừ trong việc vay vốn cho đầu 
tư và sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó các ngân hàng cũng chưa thật mặn mà 
với việc cho vay, bởi đầu tư vào trái phiếu có thể mang lại một khoản lợi nhuận 
lớn, nhanh chóng và ít rủi ro trong bối cảnh lãi suất được dự báo sẽ còn tiếp tục 
giảm. 
Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất 
lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu, thâm hụt ngân 
sách, dự trữ ngoại hối và những tác động gián tiếp. 
Hình 2.2: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009 
Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2007-2009
0.00
5000.00
10000.00
15000.00
20000.00
25000.00
30000.00
Q1
/20
07
Q2
/20
07
Q3
/20
07
Q4
/20
07
Q1
/20
08
Q2
/20
08
Q3
/20
08
Q4
/20
08
Q1
/20
09
Q2
/20
09
Q3
/20
09
Q4
/20
09
XK VN
NK VN
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ 
USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 
29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, 
tăng 28,8%. Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD 
đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của 
năm 2007. 
27 
Có doanh nghiệp nhập khẩu cho biết đầu tháng vay USD của ngân hàng 
để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh 
nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm 
doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 
USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển 
ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 
1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng. 
24/3/2009 Ngân hàng Nhà nước đưa ra 1 biên độ mới là +/-5% 
Hình 2.3: Biến động tỷ giá từ năm 2006-2009 
 ( Nguồn:IMF – Quỹ tiền tệ quốc tế) 
Ngày 10/02/2010, Ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên 
ngân hàng từ mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời án 
định lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở 
mức 1%. Các quyết định này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tại 
28 
điều kiện kiểm soát cung tiền, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp 
phần ổn định nên kinh tế vĩ mô. 
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ 
giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo hướng ngày càng linh 
hoạt hơn. NHNN đang thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua 
nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng 
chênh lệch lãi suất (tháng 5-2004). 
Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh, cho 
phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng 
quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004).Các ngân hàng thương mại tiến hành thí 
điểm quyền chọn USD và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí 
quyền chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch USD tiền mặt, cho thí điểm cơ 
chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). 
Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào 
mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn (independent 
floating ).Rõ ràng trong điều hành chính sách tỷ giá, NHNN luôn coi trọng tính 
thị trường, đã cung ứng cho thị trường nhiều công cụ để xác lập tỷ giá cân bằng. 
2.2. Phân tích ảnh hƣởng của biến động tỷ giá lên cán cân thƣơng mại Việt 
Nam. 
2.2.1 Tác động của tỷ giá thƣơng mại song phƣơng lên cán cân thƣơng mại 
của Việt Nam: 
2.2.1.1 Tỷ giá thƣơng mại song phƣơng (RER) 
Tỷ giá thực song phương là tỷ giá được xác định trên cơ sở tỷ giá danh 
nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở ngoài nước, do đó, 
nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. 
Trong thực tế để theo dõi và phân tích sự biến động của tỷ giá thực, người 
ta sử dụng công thức tỷ giá thực dạng chỉ số như sau: 
ERi = ei x (CPIi
* 
/ CPIi ) 
29 
Trong đó: ER là tỷ giá thực, e là chỉ số tỷ giá danh nghĩa, CPI
*
 là chỉ số giá tiêu 
dùng ở nước ngoài, CPI là chí số giá tiêu dùng trong nước, i là số thứ tự kỳ tính 
toán. 
Tỷ giá thực có ý nghĩa quan trọng bời vì: 
a) Xét ở trạng thái tĩnh: 
- Nếu ER > 1, thì nội tệ được coi là định giá thực quá thấp và ngoại tệ được coi là 
định giá thực quá cao. Điều này có nghĩa là: i) nếu chuyển đổi mỗi đồng nội tệ ra 
ngoại tệ ta chỉ mua được ít hàng hóa hơn ở nước ngoài so với ở trong nước; và ii) 
nếu chuyển đổi mỗi đồng ngoại tệ ra đồng nội tệ ta sẽ mua được nhiều hàng hóa 
hơn ở trong nước so với ở nước ngoài. Do đó, khi tỷ giá thực lớn hơn 1 sẽ giúp 
cải thiện được cán cân thương mại. 
- Nếu ER < 1, thì nội tệ được coi là định giá thực quá cao và ngoại tệ được coi là 
định giá thực quá thấp. Khi tỷ giá thực nhỏ hơn 1 sẽ tác động làm cho cán cân 
thương mại trở nên xấu đi. 
- Nếu ER = 1, thì sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của hai đồng tiền là như 
nhau, tức hai đồng tiền là ngang giá sức mua, do đó, tác động làm cho cán cân 
thương mại cân bằng. 
b) Xét ở trạng thái động: 
- Nếu tỷ giá thực tăng, có tác dụng kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập 
khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai. 
- Nếu tỷ giá thực giảm, có tác dụng kích thích tăng nhập khẩu và hạn chế xuất 
khẩu, làm cho cán cân thương mại trở nên xấu hơn. 
- Nếu tỷ giá thực không đổi, thì trạng thái cán cân thương mại cân bằng. 
Vì giá cả hàng hóa ít thay đổi trong ngắn hạn, do đó phá giá, tức chỉ số e 
tăng làm cho tỷ giá thực tăng, tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân thương mại. 
Đây chính là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tỷ giá được 
nhiều nước áp dụng thành công. 
30 
2.2.1.2 Tác động của tỷ giá thực song phƣơng lên cán cân thƣơng mại: 
Hình 2.4: Ảnh hưởng của RER lên cán cân thương mại Việt Nam 
Ảnh hưởng của RER lên cán cân thương mại Việt Nam
0.000
0.200
0.400
0.600
0.800
1.000
1.200
1.400
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
RER Tỷ lệ X/N
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Trong các năm từ 1999 đến 2006, tỷ giá thực RER luôn lớn hơn 1 đơn vị, 
sau đó bắt đầu giảm dần. Tỷ giá thực thấp làm suy yếu vị thế cạnh tranh thương 
mại của Việt Nam, điều này thể hiện là tỷ lệ “xuất khẩu/nhập khẩu” của Việt 
Nam từ năm 2007 đến năm 2009 luôn thấp hơn 1 đơn vị (đường thẳng X/N luôn 
nằm phía dưới 1 đơn vị). 
Từ năm 1999 đến năm 2006, tỷ giá thực luôn lớn hơn 1 đơn vị. Về mặt lý 
thuyết, tỷ giá thực tăng sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại, nhưng thực tế lại 
không diễn ra như vậy. 
Trong giai đoạn 1999-2001, tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân thương 
mại với tỷ lệ X/N luôn nằm trên mức 1. Nguyên nhân làm cho tỷ giá thực tăng 
trong thời gian này chủ yếu là do tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (thể hiện ở chỉ số 
giá tiêu dùng CPI) thấp hơn so với Mỹ, đồng thời tỷ giá cũng được điều chỉnh 
tăng lên nhưng mức độ giảm giá trị của Việt Nam đồng vẫn còn thấp hơn nhiều 
so với một số nước trong khu vực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc 
31 
độ tăng trưởng xuất khẩu làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương 
mại. 
Sang những năm 2001-2007, mặc dù tỷ giá thực vẫn xấp xỉ nằm trên mức 
1, nhưng cán cân thương mại của nền kinh tế vẫn bị thâm hụt. Bởi vì do các 
nguyên nhân sau: 
- Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn định, khối 
lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001-
2006, sau đó giảm dần. Sở dĩ có sự tụt giảm đó là do các mỏ dầu cạn kiệt trong 
việc thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển. 
- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản thì chịu nhiều tác động của thị trường thế 
giới những năm 2001-2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới sụt giảm. Kim 
ngạch xuất khẩu tăng rất chậm trong giai đoạn này. 
- Giá trị gia tăng xuất khẩu của nhóm hàng chế biến này chưa cao. 
- Trong giai đoạn này, tình trạng nhập siêu xảy ra liên tục. Ngoại trừ năm 
2005, nhập siêu giảm nhẹ, các năm còn lại nhập siêu liên tục. Theo đánh giá của 
Bộ Công Thương, nhập siêu tăng mạnh trước hết do nhu cầu nhập khẩu để phục 
vụ sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng đáng lo ngại là một số 
ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày và mới đây là thủy sản, điều…, 
muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên, phụ liệu. Trong khi, VN 
hoàn toàn có khả năng để sản xuất, nhưng đáng tiếc nền công nghiệp phụ trợ 
chưa đáp ứng được. 
- Về sâu xa, nhập siêu tăng cao cũng có nguyên nhân là tốc độ tăng trưởng 
xuất khẩu thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản 
xuất và đầu tư phát triển tăng cao thì khối lượng và giá trị xuất khẩu một số mặt 
hàng chủ lực lại có xu hướng giảm, các nhóm hàng công nghiệp chế tạo được kỳ 
vọng lại chưa có sự tăng trưởng bức phá. Điều này thể hiện một thực tế là năng 
lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. 
32 
 Hình 2.5: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 1999-2006 
Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 - 2006
0.00
2000.00
4000.00
6000.00
8000.00
10000.00
12000.00
14000.00
Q1
/19
99
Q3
/19
99
Q1
/20
00
Q3
/20
00
Q1
/20
01
Q3
/20
01
Q1
/20
02
Q3
/20
02
Q1
/20
03
Q3
/20
03
Q1
/20
04
Q3
/20
04
Q1
/20
05
Q3
/20
05
Q1
/20
06
Q3
/20
06
XK VN
NK VN
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
Năm 2007 đến năm 2009, tỷ giá thực giảm liên tục dưới trị số 1 đơn vị, 
đạt giá trị thấp nhất là 0.803 vào năm 2009. Tỷ giá thực thấp và giảm liên tục làm 
cho tỷ lệ xuất khẩu/nhập khẩu cũng giảm mạnh trong thời gian này. Nguyên nhân 
làm cho tỷ giá thực thấp trong thời gian này chủ yếu là do tỷ lệ lạm phát của Việt 
Nam cao, biên độ giao động tỷ giá liên tục tăng và đạt trần +/- 5% vào ngày 
24/03/2009. Mặt khác, do biến động của nền kinh tế thế giới dưới tác động của 
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền 
kinh tế nước ta. 
- Năm 2007, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày 
dép, sản phẩm gỗ, cao su, gạo… đều có mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng 
xuất khẩu tăng khá, nhưng chưa có nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có 
khả năng bù đắp phần thiếu hụt khi giá và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất 
lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là thủy sản và thực phẩm chưa thực sự ổn 
định, vẫn còn nhiều lô hàng bị trả lại. 
- Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con 
số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 
2007. 
33 
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đạt 90,06 tỷ USD, giảm 
20,05% so với cùng kỳ năm trước (113,3 tỷ USD), trong đó xuất khẩu là 41,60 tỷ 
USD, giảm 14,6%; nhập khẩu là 48,47 tỷ USD, giảm 25%. Cán cân thương mại 
hàng hóa thâm hụt 6,86 tỷ USD, bằng 16,5% kim ngạch xuất khẩu. 
 Tóm lại, cho dù mối quan hệ giữa tỷ giá thực song phương với cán cân 
thương mại không hoàn toàn khăng khít với nhau, nhưng những gì phân tích ở 
trên và đã được chỉ ra trên đồ thị cho thấy rằng tỷ giá thực có tác động nhanh và 
mạnh đến trạng thái cán cân thương mại. 
2.2.2Tác động của tỷ giá thƣơng mại đa phƣơng lên cán cân thƣơng mại Việt 
Nam 
2.2.2.1 Tỷ giá thƣơng mại đa phƣơng (REER) 
 Tỷ giá danh nghĩa đa biên (NEER) 
Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ gọi là tỷ giá song phương. Đối với mỗi sự 
thay đổi song phương, ta đều biết được chính xác đồng tiền nào lên giá và đồng 
tiền nào giảm giá. Vấn đề phức tạp đặt ra là, tại một thời điểm nhất định, một 
đồng tiền có thể lên giá với đồng tiền này, nhưng lại giảm giá với đồng tiền kia, 
vậy làm thế nào để biết được một đồng tiền là lên giá hay giảm giá đối với tất cả 
các đồng tiền còn lại? Để giải quyết vấn đề này, trong thực tế người ta dùng khái 
niệm tỷ giá danh nghĩa đa biên (NEER). NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của 
một đồng tiền đối với tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ các đồng tiền đặt 
trưng) và được biểu diễn dưới dạng chỉ số; do đó, phương pháp NEER cũng 
tương tự như phương pháp xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI. Hiện nay, có tới 
150 tỷ giá song phương, do đó, nếu ta bao gồm tất cả các tỷ giá song phương để 
tình tỷ giá đa biên thì rất phức tạp và không cần thiết. Chính vì thế, trong thực tế, 
khi tính NEER người ta tiến hành theo một số bước như sau: 
Bƣớc 1: Chọn một số các đồng tiền đặc trưng đã vào trong rổ. Đồng tiền 
đặc trưng là đồng tiền của nước có quan hệ thương mại chủ yếu; ví dụ đối với 
34 
Việt Nam có thể là USD, EUR, CNY, JPY... Tùy theo mục đích và mức 
độ chính xác cần thiết có thể mở rộng hay thu hẹp các đồng tiền trong rổ. 
Bƣớc 2: Căn cứ vào tỷ trọng thương mại với từng nước để phân bổ tỷ 
trọng cho từng tỷ giá song phương của các đồng tiền trong rổ theo nguyên tắc tỷ 
trọng thương mại càng lớn thì tỷ trọng song phương cũng càng lớn. 
Bƣớc 3: Tính NEER tương tự như tính CPI như sau: 
n
1J
jiji weNEER .
Trong đó: NEER là tỷ giá danh nghĩa đa biên, e là chỉ số tỷ giá danh nghĩa 
song phương, w là tỷ trọng của tỷ giá song phương, j là số thứ tự của các tỷ giá 
song phương, i là kỳ thanh toán. Cách tính cụ thể xem trường hợp của Việt Nam. 
Tỷ giá thực đa biên (REER) 
Vì NEER là số trung bình của các chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương, 
cho nên NEER cũng thuộc loại tỷ giá danh nghĩa, tức là không đề cập đến tương 
quan sức mua hàng hóa giữa nội tệ với các đồng tiền còn lại, do đó, khi NEER 
thay đổi không nhất thiết phải tác động đến cán cân thương mại. Chính vì vậy, để 
biết được tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại ta phải 
dùng đến khái niệm tỷ giá thực đa biên (REER). 
REER được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đa biên được điều chỉnh 
bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh 
tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại. Để tính được 
REER ta tiến hành một số bước sau: 
Bƣớc 1: Tính tỷ giá NEER 
Bƣớc 2: Tính chỉ số lạm phát của tất cả các đồng tiền trong rổ theo tỷ 
trọng GDP của mỗi nước. 
Bƣớc 3: Tính REER theo công thức 
VN
i
w
i
ii
CPI
CPI
NEERREER 
35 
Trong đó, CPIi
w 
 là chỉ số giá tiêu dùng trung bình của các đối tác thương 
mại với Việt Nam qua các thời kỳ, CPI
VN
 là chỉ số giá tiêu dùng của nội tệ, i là 
kỳ tính toán. 
Về ý nghĩa của REER tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng tương 
tự như tỷ giá thực song phương, nhưng REER thể hiện tương quan sức mua của 
đồng nội tệ với tất cả các đồng tiền trong rổ, do đó, nó phản ánh vị thế tổng hợp 
về sức cạnh tranh thương mại quốc tế của một nước với tất cả các nước còn lại; 
trong khi đó, tỷ giá thực song phương, đơn thuần chỉ đề cập đến vị thế cạnh tranh 
thương mại quốc tế giữa hai quốc gia mà thôi. 
2.2.2.2 Tác động của tỷ giá thực đa phƣơng lên cán cân thƣơng mại 
Xu hướng biến động của tỷ giá thực song phương VND/USD không phản 
ánh hoàn toàn xu hướng biến động của tỷ giá thực đa phương; trong khi tỷ giá 
thực song phương có xu hướng tăng thì xu hướng biến động của tỷ giá thực đa 
phương lại giảm chút ít; tuy nhiên trong dài hạn thì xu hướng biến động của tỷ 
giá thực đa phương chịu tác động bởi tỷ giá thực song phương VND/USD, điều 
này phản ánh tại năm 2002, hai tỷ giá này có xu hướng xích lại gần nhau. 
Hình 2.6: Ảnh hưởng của REER lên cán cân thương mại Việt Nam 
Ảnh hưởng của REER lên cán cân thương mại Việt Nam
0.000
0.200
0.400
0.600
0.800
1.000
1.200
1.400
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
REER
Tỷ lệ X/N
Tỷ giá USD/VND
(Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) 
36 
Đồ thị cũng chỉ ra rằng, động thái của tỷ giá thực đa phương phản ánh 
trạng thái cán cân thương mại tốt hơn tỷ giá thực song phương VND/USD. Điều 
này được thể hiện ở chỗ tuyến REER bám sát tuyến X/N hơn là tuyến tỷ giá thực 
VND/USD. 
Căn cứ vào đồ thị, cho thấy trong suốt giai đoạn từ 1999-2006, tuyến tỷ 
giá song phương VND/USD luôn nằm trên tuyến tỷ giá thực đa phương. Tuy 
nhiên, vào những năm 2007-2009, thì điều này lại ngược lại. Nguyên nhân của sự 
khác biệt này là: 
- Năm 2007, xuất hiện những thông tin đáng lo ngại về cuộc khủng hoảng 
tín dụng tại Mỹ, bắt nguồn từ thị trường cho vay thế chấp bất động sản sẽ lan 
rộng ra thế giới. Đồng USD bị mất giá nhiều nhất trong số các đồng tiền chủ chốt 
khi giá dầu cao. Điều này do Mỹ là nước sử dụng nhiều dầu hơn so với các nước 
phát triển khác, do đó chi phí năng lượng cao đã làm ảnh hưởng nhiều hơn đến sự 
tăng trưởng kinh tế và theo đó là đồng USD. Mức giảm giá đồng USD còn khiêm 
tốn vào những tháng đầu năm nhưng bắt đầu giảm rất mạnh vào tháng 8,9,10 và 
11; riêng tháng 11, USD giảm tới 12,14% so với EURO. 
- Đồng thời, chỉ số lạm phát tháng 11-2007 tại Mỹ tăng 4,31%, liên minh 
Châu Âu (EU) tăng 3,06%, Trung Quốc tăng 6,9%... 
Cộng thêm vào đó là một độ lệch pha giữa tỷ giá thực đa phương và chỉ số 
xuất khẩu trên nhập khẩu: ngay năm chỉ số REER tăng thì chỉ số X/N giảm, sau 
một khoảng thời gian nhất định, do tác động của REER tăng, chỉ số này mới 
tăng. Ngược lại, vào năm REER giảm thì ngay năm đó chỉ số X/N không giảm 
tương ứng mà có khi còn tăng. Vậy có thể thấy rằng tỷ giá thực đa phương tăng 
hay giảm sẽ không có tác động ngay lên cán cân thương mại trong năm đó mà có 
tác dụng chậm hơn. 
Cụ thể trong trường hợp này, hai năm sau kể từ lúc REER tăng, cán cân 
thương mại mới được cải thiện. Năm 2003, REER tăng so với năm 2002 
(115,557 so với 109,763) thì đến năm 2005, tỷ số X/N mới tăng so với năm 2003 
37 
( 93% so với 88%). Ngoài ra, cũng có hiện tượng khi REER giảm từ 109,896 
(năm 2004) xuống 99,768 (năm 2005) thì phải đến năm 2007,2008 (hai năm sau 
khi REER giảm) ta mới thấy tác động xấu lên cán cân thương mại (tỷ số X/N 
giảm chỉ còn 82% (năm 2007), 78% (năm 2008)). 
Ngoài ra, với nền kinh tế Việt Nam, một nước đang phát triển, nhiều mặt 
hàng trong nước chưa thể sản xuất được hay nếu có sản xuất được đi chăng nữa 
thì thường có chất lượng thấp, giá thành cao, tỷ lệ hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất 
khẩu thấp, tỷ lệ nguyên liệu đầu vào có nguồn gốc nhập khẩu cao… làm cho khối 
lượng hàng xuất khẩu tăng không đáng kể, khối lượng hàng nhập khẩu giảm 
chậm hơn. Tất cả những điều này hàm ý rằng tại Việt Nam, cái gọi là thời gian 
cán cân thương mại bị xấu đi trong thời gian ngắn hạn khi phá giá tiền tệ sẽ có 
thể kéo dài hơn và mức độ thâm hụt cán cân thương mại cũng cao hơn so với các 
nước phát triển. 
Ngoài ra, đó còn là do sự bất cập mang tính cơ cấu dẫn đến sự mất cân đối 
thương mại của Việt Nam, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn 
so với nhập khẩu. Nguyên nhân là do đầu tư quá ít vào các linh vực hỗ trợ phát 
triển các ngành phụ trợ hoặc dây chuyền sản xuất trong nước. Thực tế cho thấy 
Việt Nam chỉ là nơi thực hiện lắp ráp cho các tập đoàn đa quốc gia, chưa trở 
thành cơ sở sản xuất với giá trị gia tăng cao. Và do chính sách giảm thuế nhập 
khẩu thực hiện theo các cam kết thoản thuận thương mại khu vực và quốc tế. 
Một thực tế là, tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 
thời gian qua chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá chỉ là một 
trong những yếu tố quan trọng. Ảnh hưởng tổng hợp của các nhân tố này sẽ 
quyết định xu hướng biến động của cán cân thương mại Việt Nam. Như vậy, để 
cải thiện cán cân thương mại, ngoài yếu tố tỷ giá, ta cần quan tâm phân tích đến 
các yếu tố phi tỷ giá khác có liên quan. 
2.2.3 Mối quan hệ định lƣợng giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại. 
2.2.3.1 Tác động của tỷ giá VND/USD đối với hoạt động xuất – nhập khẩu. 
38 
Để tiến hành đánh giá những tác động của tỷ giá đối với xuất nhập khẩu, 
trước tiên nhóm nghiên cứu tập hợp dữ kiệu tỷ giá VND/USD, trị giá xuất – nhập 
khẩu lấy theo quý từ quý 1 năm 1999 đến quý 4 năm 2009. 
Theo lý thuyết, xuất khẩu (EM) có xu hướng tăng khi tỷ giá tăng, nên hệ 
số hồi quy sẽ mang dấu dương. 
Mô hình hồi quy có dạng: Y = a0+ a1 X 
Trong đó EM: trị giá xuất khẩu (triệu USD) 
 IM: trị giá nhập khẩu (triệu USD) 
 RATE: tỷ giá (VND/USD) 
 Số kỳ quan sát: 44 kỳ 
Bằng việc xử lý số liệu bằng Excel và kiểm định Eview, ta có kết quả hồi 
quy xuất khẩu, nhập khẩu theo tỷ giá như sau: 
EX = -54.243+ 3,9819*RATE (2.1) 
 (-9,4358) (10,821) 
R
2
 = 0,736 
IM = - 71.428 + 5,1598*RATE (2.2) 
 (-8,2528) (9,313) 
R
2
 = 0,674 
Từ kết quả hồi quy của mô hình (2.1) và (2.2): 
- R
2 
của mô hình (2.1) bằng 0,736 có ý nghĩa là 73,6% sự biến thiên của 
Y(xuất khẩu) được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số X (tỷ giá). 
- R
2
 của mô hình (2.2) bằng 0,674 có ý nghĩa là 67,4 % sự biến thiên của 
nhập khẩu được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số tỷ giá. 
Kiểm định sự phù hợp của mô hình: 
Giả thuyết: H0: a = 0 (Y và X không có quan hệ tuyến tính) 
39 
 H1: a # 0 (Y và X có quan hệ tuyến tính) 
Bác bỏ H0 nếu │t-stat│> tn-2,α/2 
Từ kết quả mô hình, ta có: 
(2.1): │t-stat│= 10,821 > tn-2,α/2 = 2,3246 (n=44, mức ý nghĩa α = 5%) 
(2.2): │t-stat│= 9,313 > tn-2,α/2 = 2,3246 (n=44, mức ý nghĩa α = 5%) 
Vì vậy, ta bác bỏ giả thuyết H0 tức là tỷ giá hối đoái có mối quan hệ tuyến tính 
với xuất khẩu và nhập khẩu trong nước. 
Giải thích mô hình nhƣ sau: 
- Tỷ giá có mối quan hệ tỷ lệ thuận với xuất nhập khẩu. 
- Khi tỷ giá tăng 1 đồng thì xuất khẩu sẽ tăng 3,9819 triệu USD 
- Khi tỷ giá tăng 1 đồng thì nhập khẩu sẽ tăng 5,1598 triệu USD 
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu trong nhiều năm qua liên tục tăng nhưng cán 
cân thương mại vẫn thâm hụt là vì khi tỷ giá tăng, xuất khẩu và nhập khẩu đều 
tăng, nhưng xuất khẩu tăng ít hơn nhập khẩu 
Hình 2.7: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với xuất khẩu 
Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá đến xuất khẩu
y = 3.9819x - 54243
R2 = 0.736
0.00
2000.00
4000.00
6000.00
8000.00
10000.00
12000.00
14000.00
16000.00
18000.00
20000.00
0 5000 10000 15000 20000
XK VN
Linear (XK VN)
(Nguồn: Nhóm tác giả) 
40 
Đồ thị trên cho thấy sự biến động của xuất khẩu và tỷ giá có quan hệ đồng 
biến. Khi tỷ giá tăng 1 đồng, xuất khẩu tăng 3,9819 triệu USD. 
Hình 2.8: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với nhập khẩu 
Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá đến nhập khẩu
y = 5.1598x - 71428
R2 = 0.6738
0.00
5000.00
10000.00
1500 .00
20000.00
25000.00
30000.00
0 5000 10000 15000 20000
NK VN
Linear (NK VN)
(Nguồn: Nhóm tác giả) 
2.2.3.2 Tác động của tỷ giá thực đối với tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu 
a/ Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực song phƣơng đối với xuất nhập 
khẩu: 
Mô hình hồi quy: (X/N)t = a0 + a1 * GDPt + a2 * RERt + a3 * D 
Trong đó: 
- X/N : tỷ lệ xuất khẩu/nhập khẩu 
- GDP : tổng sản phẩm thu nhập quốc dân trong nước 
- RER: tỷ giá thực song phương 
- D : biến giả (=1: trong giai đoạn khủng hoảng; =0: trước và sau giai đoạn 
khủng hoảng) 
Sau khi hồi quy chuỗi số liệu từ năm 1999 đến năm 2009 theo quý với chỉ 
số GDP và tỷ giá thực. Ta có kết quả hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu 
41 
theo tỷ giá thực song phương VND/USD và chỉ số GDP bằng phần mềm 
EVIEW, cho kết quả sau: 
(X/N)t = -2,2956 – 0,3182 * GDPt + 3,5845 * RERt – 0.0542 * D (1*) 
 (-3,1952) (-4,7059) (4,7986) (-1.2403) 
R
2
 = 0.5572 
Kiểm định sự phù hợp của mô hình: 
Giả thuyết: H0: R
2
 = 0 
 H1: R
2
 > 0 
Bác bỏ H0 nếu F0 > Fα(k-1, n-k) 
Từ kết quả mô hình cho thấy: 
F0 = 16,778 > Fα(k-1, n-k) = 3,226 (với n=44, k=3, mức ý nghĩa α = 5%) 
Vì vậy, ta bác bỏ giả thuyết H0, tức là mô hình có ý nghĩa thống kê. 
Giải thích mô hình nhƣ sau: 
Mô hình giải thích được 55,72% sự phụ thuộc của tỷ số xuất khẩu trên 
nhập khẩu vào sự biến động của tỷ giá thực VND/USD và tỷ lệ tăng trong tổng 
sản phẩm quốc dân GDP của Việt Nam. 
Tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu đồng biến với tỷ giá thực và nghịch biến 
với chỉ số GDP trong nước. 
Khi RER tăng 1% thì tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu sẽ tăng 3,58%. 
Khi chỉ số GDP trong nước tăng 1%, tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm 
0,32%. 
Và trong mô hình, ta cũng đề cập đến biến giả D. Với kết quả có được cho 
thấy, dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đã tác động làm giảm tỷ 
lệ xuất khẩu trên nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt. Tuy nhiên, 
với con số 0,054%, vẫn chưa bộc lộ rõ được sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 
đến cán cân thương mại. Lý do có thể nhận thấy là chuỗi số liệu được lấy từ năm 
42 
1999 đến 2009, trong khi cuộc khủng hoảng diễn ra vào cuối năm 2007, đầu năm 
2008 nên mức độ giải thích thấp. 
Kết luận: Khi tỷ giá thực tăng đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, 
nhưng mức độ tác động thấp (chỉ khoảng 3,58%). Trong khi đó, một sự gia tăng 
của GDP trong nước đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu gây ra thâm hụt cán cân 
thương mại nhiều hơn. Lý do được đưa ra để giải thích cho việc chỉ số GDP 
trong nước tăng làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu là GDP gia tăng đã làm tăng nhu 
cầu nhập khẩu trang thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất trong nước tăng lên. 
Điều này cũng phù hợp với lý thuyết tài chính quốc tế. 
b/ Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực đa phƣơng đối với xuất nhập 
khẩu: 
Mô hình hồi quy: (X/N)t = a0 + a1 * GDPt+ a2 * REERt + a3 * D 
Trong đó: 
- REER: tỷ giá thực đa phương 
Sau khi hồi quy chuỗi số liệu từ năm 1999 đến năm 2009 theo quý với chỉ 
số GDP và tỷ giá thực. Ta có kết quả hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo 
tỷ giá thực đa phương và chỉ số GDP bằng phần mềm EVIEW, cho kết quả sau: 
(X/N)t = 0,0619 – 0,1485 * GDPt + 1,0507 * REERt – 0.1522 * D (2*) 
 (0,1264) (-2,0478) (2,2247) (-3,4059) 
R
2
 = 0.3791 
Kiểm định sự phù hợp của mô hình: 
Giả thuyết: H0: R
2
 = 0 
 H1: R
2
 > 0 
Bác bỏ H0 nếu F0 > Fα(k-1, n-k) 
Từ kết quả mô hình cho thấy: 
F0 = 8,142 > Fα(k-1, n-k) = 3,226 (với n=44, k=3, mức ý nghĩa α = 5%) 
43 
Vì vậy, ta bác bỏ giả thuyết H0, tức là mô hình có ý nghĩa thống kê. 
Giải thích mô hình nhƣ sau: 
Mô hình giải thích được 37,91% sự phụ thuộc của tỷ số xuất khẩu trên 
nhập khẩu vào sự biến động của tỷ giá thực đa phương và tỷ lệ tăng trong tổng 
sản phẩm quốc dân GDP của Việt Nam. 
Tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu đồng biến với tỷ giá thực và nghịch biến 
với chỉ số GDP trong nước. 
Khi REER tăng 1% thì tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu sẽ tăng 1,05%. 
Khi chỉ số GDP trong nước tăng 1%, tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm 
0,15%. 
Với mô hình này (2*), ta thấy được tác động của cuộc khủng hoảng đến 
cán cân thương mại cao hơn so với mô hình (1*). Tỷ lệ xuất khẩu trên nhập khẩu 
giảm 0,15% do ảnh hưởng của khủng hoảng. 
Kết luận: Kết quả mô hình cho thấy sự biến động của tỷ số xuất khẩu trên 
nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực song phương và đa phương và sự tác 
động này nhỏ. Hay nói cách khác, sự giảm giá thực của tiền đồng so với đồng 
tiền của các đối tác thương mại chủ yếu làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng 
hóa xuất khẩu thể hiện qua việc tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, 
do hệ số xác định của mô hình nhỏ cho thấy rằng ngoài tỷ giá thực, xuất nhập 
khẩu còn chịu sự tác động rất lớn từ các nhân tố khác. 
44 
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 
Nội dung Chương 2 được tác giả đi sâu vào phân tích chính sách điều 
hành tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn từ 1999 đến 2009 và những tác động 
của tỷ giá đến cán cân thương mại. 
Trong Chương 2, vấn đề trọng tâm mà tác giả muốn hướng tới là phân tích 
tác động của tỷ giá thực song phương RER và tỷ giá thực đa phương REER lên 
cán cân thương mại Việt Nam. Bằng việc phân tích định tính và định lượng các 
yếu tố như tỷ giá, xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại được thể hiện qua 
các phương trình hồi quy, tác giả đã cho thấy mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân 
thương mại không hoàn toàn khăng khít với nhau, nhưng qua những kết quả đạt 
được cho thấy tỷ giá thực có tác động nhanh và mạnh đến trạng thái cán cân 
thương mại. Động thái của tỷ giá thực đa phương phản ánh trạng thái cán cân 
thương mại tốt hơn tỷ giá thực song phương VND/USD. 
Đồng thời, các hệ số xác định của mô hình nhỏ cho thấy rằng ngoài tỷ giá 
thực, xuất nhập khẩu còn chịu sự tác động rất lớn từ các nhân tố khác như : khả 
năng tăng lượng hàng xuất khẩu theo nhu cầu thị trường, kim ngạch xuất khẩu, 
tâm lý tiêu dùng, hàng thay thế và hàng bổ sung, hàng thông thường và hàng cao 
cấp, các nguyên liệu và máy móc đặc chủng trong nước chưa sản xuất được… 
45 
CHƢƠNG 3: CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ NHẰM 
CẢI THIỆN CÁN CÂN THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM 
TRONG NĂM 2010 
3.1 Triển vọng nền kinh tế Việt Nam năm 2010 
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam sẽ ổn định hơn dù còn nhiều khó khăn 
và thách thức. Xuất khẩu sẽ tăng trưởng trở lại và trở thành một trong những 
động lức chính giúp nền kinh tế tăng trưởng. 
Năm 2009, năm đầu tiên sau nhiều năm cả xuất khẩu và nhập khẩu đều 
giảm mạnh (xuất khẩu giảm 10% và nhập khẩu giảm 15%), điều đó thể hiện rõ 
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm nền kinh tế toàn cầu đến cán 
cân thương mại trong nước. Nhưng đáng mừng là xuất khẩu có tốc độ giảm chậm 
hơn so với nhập khẩu nên thâm hụt thương mại năm 2009 cũng giảm bớt so với 
năm trước. 
Tuy nhiên nếu nhìn vào số liệu của từng tháng thì thâm hụt có chiều hướng 
tăng dần vào cuối năm. Loại trừ ảnh hưởng của việc nhập khẩu vàng trong 3 
tháng đầu năm thì thâm hụt đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 2, có hai nguyên nhân 
chính ảnh hưởng tới tình trạng này: 
- Thứ nhất, tác động của gói kích cầu đã khiến tiêu dùng trong nước tăng 
mạnh, trong khi hàng hóa trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thì nhập 
khẩu sẽ tăng lên. 
- Thứ hai, khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục, sản xuất tăng dần, từ đó nhu 
cầu nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng tăng theo. Mặt khác, xuất 
khẩu hồi phục có phần chậm hơn nhập khẩu do độ lệch tăng trưởng của Việt 
Nam so với tình hình chung của nền kinh tế thế giới. Theo IMF, kinh tế thế giới 
được dự báo chỉ tăng trưởng 1,4% trong năm 2009, trong khi Việt Nam đạt tốc 
độ tăng trưởng 5,32%. 
46 
Bước sang năm 2010, nền kinh tế trở lại quỹ đạo bình thường. Bên cạnh 
đó, với những kỳ vọng từ sự phục hồi của thị trường thế giới, xuất khẩu sẽ là 
động lực lớn cho tăng trưởng năm 2010. Nếu như năm 2009, xuất khẩu giảm 
10% so với năm trước thì trong năm 2010 tốc độ tăng trưởng sẽ đạt mức 6% so 
với năm 2009 do giá cả và sản lượng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như 
gạo, cao su, may mặc đã khôi phục đà tăng trong nửa cuối năm 2009. Song song 
với xuất khẩu, nhập khẩu cũng sẽ tăng trở lại sau năm 2010. Tuy nhiên, mức tăng 
của nhập khẩu được dự báo sẽ chậm hơn xuất khẩu và đạt mức 5% cả năm. GDP 
sẽ tăng khoảng 6,5% so với năm 2009 (GDP theo giá trị thực tế khoảng 1.931,3 
nghìn tỷ đồng, tương đương 106 tỷ USD, bình quân đầu người trên 1.200USD). 
Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 4.456,4 nghìn tỷ đồng; Tổng chi ngân sách nhà 
nước 581,9 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước 125,5 nghìn tỷ đồng, bằng 
6,5% GDP. CPI tăng khoảng 10%. 
Một trong những thách thức kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt trong năm 
nay chính là lạm phát. Nhiều khả năng lạm phát sẽ quay trở lại do mặt bằng của 
các yếu tố chi phí trong cả nước có xu hướng tăng. Thực tế đến cuối năm 2009, 
mặc dù tăng trưởng CPI theo năm vẫn đang trên đà giảm nhưng CPI hàng tháng 
lại biểu hiện xu hướng tăng. Các số liệu thống kê cho thấy cung tiền đã tăng đáng 
kể trong một thời gian ngắn, tăng 27% trong năm 2009, trong khi đó con số này 
chỉ là 20% trong năm 2008. 
Thêm vào đó, lạm phát có thể được tiếp sức bởi chiều hướng gia tăng của 
các yếu tố chi phí trong năm 2010 do giá dầu và các nguyên liệu cơ bản đang có 
xu hướng tăng lên. Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguồn 
nguyên vật liệu cho sản xuất và phải phụ thuộc khá lớn vào nguồn nguyên liệu 
nhập khẩu, trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam nguyên vật liệu đã chiếm đến 
60% còn lại là nhập khẩu máy móc thiết bị để phục vụ cho phát triển sản xuất 
nên xu hướng tăng của giá cả nguyên vật liệu thế giới sẽ làm tăng rủi ro lạm phát. 
3.2 Dự báo cán cân thƣơng mại năm 2010: 
3.2.1 Mô hình dự báo tỷ giá thực song phƣơng và tỷ giá thực đa phƣơng 
47 
Phương pháp dự báo được sử dụng là mô hình kinh tế lượng về nhân tố xác định 
tỷ giá. Theo đó, tỷ giá hối đoái được xem như một biến phụ thuộc có thể được 
giải thích bằng các biến kinh tế vĩ mô cơ bản như: tăng trưởng, lạm phát, lãi suất, 
tỷ giá thực, lý thuyết PPP… 
Và trên cơ sở những dữ liệu, và quá trình phân tích, nhóm nghiên cứu chọn biến 
lạm phát thể hiện qua chỉ số CPI để chạy mô hình kinh tế lượng và dự báo tỷ giá. 
3.2.1.1 Mô hình hồi quy tỷ giá thực song phƣơng 
RERt = a0 + a1 * CPIt
Mỹ
 + a2 * CPIt
VN
Sau khi hồi quy chuỗi số liệu từ năm 1999 đến năm 2009 theo quý với chỉ 
số CPI của Mỹ và Việt Nam. Ta có kết quả hồi quy bằng phần mềm EVIEW: 
RERt = 63.91497055 - 0.6442629916*CPI
VN
 + 1.067405959*CPI
Mỹ 
 (3*)
(5,048) (-12,9432) (6,8662) 
R
2
 = 0,88 
Dấu của hệ số hồi quy phù hợp với lý thuyết ngang giá sức mua. RER đồng biến 
với lạm phát của Mỹ và nghịch biến với lạm phát trong nước, nghĩa là lạm phát 
của Mỹ tăng thì RER tăng, lạm phát trong nước tăng RER giảm. 
Prob gần bằng 0, mô hình có độ tin cậy gần bằng 100%. 
Kết quả của mô hình cho thấy mức ý nghĩa của mô hình khá cao, giải thích được 
88% sự phụ thuộc của tỷ giá thực song phương vào sự biến động của chỉ số CPI. 
Kiểm định giả thuyết về ý nghĩa các hệ số hồi quy 
Giả thuyết: H0: a = 0 (Y và X không có quan hệ tuyến tính) 
 H1: a # 0 (Y và X có quan hệ tuyến tính) 
Bác bỏ H0 nếu │t-stat│> tn-2,α/2 
Từ kết quả mô hình, ta có: 
(3*): │t-stat│= 12,94 > tn-2,α/2 (n=44, mức ý nghĩa α = 5%) 
(3*): │t-stat│= 6,86 > tn-2,α/2 (n=44, mức ý nghĩa α = 5%) 
48 
Vì vậy, ta bác bỏ giả thuyết H0 tức là RER có quan hệ tuyến tính với lạm phát 
của Mỹ và lạm phát trong nước. 
Giải thích mô hình nhƣ sau: 
Khi lạm phát của Mỹ tăng 1 đơn vị thì RER tăng 1,067 đơn vị, khi lạm phát trong 
nước tăng 1 RER giảm 0,644. 
3.2.1.2 Mô hình hồi quy tỷ giá thực đa phƣơng. 
REERt = a0 + a1 * CPI
VN
 + a2 * CPI
Mỹ
 + a3 * CPI
Pháp
 + a4 * CPI
TQ
 + a5 * CPI
Nhật 
Sau khi hồi quy chuỗi số liệu từ năm 1999 đến năm 2009 theo quý với chỉ 
số CPI của Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nhật và Việt Nam bằng phần mềm Eview 
cho kết quả sau: 
REERt = 226,1707 – 0,1419 * CPI
VN
 – 2,1342 * CPIMỹ + 2,6812 * CPIPháp – 
0,2224 * CPI
TQ
 - 1,5485 * CPI
Nhật 
R
2
 = 0,8560 
Kết quả hồi quy cho thấy 2 biến số CPI của Trung Quốc và Nhật Bản 
không có ý nghĩa thống kê (xem phụ lục 6.1). Tuy nhiên, trên thực tế, Trung 
Quốc và Nhật Bản là 2 nước giao thương lớn của Việt Nam, với tỷ trọng thương 
mại cao. Do vậy, việc đưa hai biến này vào mô hình là vẫn phù hợp. Và mô hình 
giải thích được 85,60% sự phụ thuộc của tỷ giá thực đa phương vào sự biến đổi 
của các biến số CPI. 
3.2.2 Dự báo tỷ giá thực song phƣơng, tỷ giá thực đa phƣơng và tác động 
đến cán cân thƣơng mại : 
Năm 2009, Việt Nam là nước có tốc độ phát triển đứng thứ hai trong khu 
vực Đông Nam Á và đã thành công khi khống chế lạm phát ở 1 con số. Năm 
2010, theo dự báo của nhiều tổ chức kinh tế có uy tín như Ngân hàng Thế giới 
WB, Quỹ tiền tệ thế giới IMF nhiều khả năng kinh tế thế giới sẽ có những biến 
chuyển tích cực hơn. 
49 
Kinh tế thế giới phục hồi sẽ làm cho nhu cầu các loại nguyên nhiên liệu, 
vật liệu tăng dần. Thêm vào đó, sang năm 2010, nhiều nước đã quyết định tiếp 
tục duy trì gói kích thích kinh tế, lượng tiền tiếp tục được bơm thêm ra lưu thông 
sẽ tạo sức ép khá mạnh đến lạm phát. IMF dự báo mức lạm phát của Việt Nam 
năm 2010 sẽ là khoảng 10%. 
Theo IMF dự báo ( Chapter 2 Country and Regional Perspectives (World 
Economic Outlook (WEO), Rebalancing Growth April 2010, ©2010 
International Monetary Fund) % CPI năm 2010 của Mỹ là 2.1%, của Pháp là 
1.2%, của Trung Quốc là 3.1%, của Nhật là -1.4%, chúng ta có thể tính toán số 
liệu CPI của 4 quốc gia chính so với cùng kỳ năm trước . 
Bảng số liệu chỉ số CPI dự báo năm 2010 so với cùng kỳ năm ngoái: (%) 
 Mỹ Pháp TQ Nhật VN 
Q1/2009 2.8 0.7 3.2 1.2 4.9 
Q2/2009 2.3 1.2 3.1 0.8 4.5 
Q3/2009 2.5 1.1 2.8 0.3 4 
Q4/2009 2.1 1 2.9 0.3 4.2 
Dựa vào Exel chúng ta có kết quả như sau: 
 Qúi 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
Việt nam 197.9512 215.6521 226.4326 225.7741 
Mĩ 125.3803 128.1328 129.6231 125.9565 
Pháp 117.7964 119.4334 119.6333 119.0244 
TQ 125.7676 125.5342 122.6236 119.3629 
Nhật bản 95.79339 96.61781 97.56862 96.87058 
Để phù hợp với việc tính toán chúng tôi tính toán CPI hiệu chỉnh (so với 1999) 
cho phù hợp với kết quả, kết quả như sau : 
Việt nam 179.396 194.693 203.447 203.246 
Mĩ 132.068 134.311 136.139 131.772 
Pháp 118.7375 120.9854 121.0682 120.332836 
TQ 110.333 110.021 107.158 104.410 
50 
Nhật bản 97.715 98.166 98.640 97.935 
3.2.2.1 Dự báo tỷ giá thực song phƣơng và tác động đến cán cân thƣơng mại: 
Ta đưa tất cả các số liệu được dự báo ở trên vào kết quả hồi quy, chúng ta có 
được kết quả RER năm 2010 như sau: 
RERt = 63.91497055 - 0.6442629916*CPI
VN
 + 1.067405959*CPI
Mỹ 
RER 80.52416136 72.56322 67.50693 63.82296 
2010 Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
Với kết quả chúng ta đạt được chúng ta có thể dùng nó để dự báo cán cân thương 
mại năm 2010 như sau. 
Do mô hình nhóm ở hồi quy ở phía trên đạt được kết quả như sau : 
(X/N)t = -2,2956 – 0,3182 * GDPt + 3,5845 * RERt – 0.0542 * D (1*) 
Số liệu GDP được tổng cục thống kê dự báo là tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 
ngoái. Vì vậy chúng ta có thể tính được GDP của Việt Nam năm 2010 như sau: 
GDP thực Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
 19488.88 19533.71 20241.45 24423.31 
Thế tất cả dữ liệu vào mô hình của cán cân thương mại ta được kết quả như sau: 
X/N 1.008400077 0.625788 0.560863 0.32191 
 Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
51 
3.2.2.2 Dự báo tỷ giá thực đa phƣơng và tác động đến cán cân thƣơng mại: 
Thế tất cả các số liệu được dự báo ở trên vào kết quả hồi quy chúng ta có được 
kết quả REER năm 2010 như sau: 
REERt = 226.1707155 - 0.1418768175*CPI
VN
 - 2.134175934*CPI
Mỹ
 + 
2.681183766*CPI
Pháp
 - 0.02242374694*CPI
TQ
 - 1.548524978*CPI
Nhật 
REER 83.43170719 81.80982 76.21863 84.75026 
2010 Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
Với kết quả chúng ta đạt được chúng ta có thể dự báo cán cân thương mại năm 
2010 như sau. 
Sử dụng kết quả hồi quy ở Chương 2 về mối quan hệ giữa tỷ giá thực đa phương 
REER và tỷ lệ xuất khẩu/nhập khẩu, từ đó chúng ta có được kết quả dự báo như 
sau: 
(X/N)t = 0,0619 – 0,1485 * GDPt + 1,0507 * REERt – 0.1522 * D (2*) 
Và kết quả đạt được là: 
X/N 0.974325481 0.932625 0.857905 0.938932 
 Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 
Như vậy theo kết quả dự báo cho thấy xu hướng cán cân thương mại sẽ thâm hụt 
vào năm 2010 . Tỉ giá thực đa phương giải thích chính xác hơn tỉ giá thực song 
phương về sự biến động của cán cân thương mại. 
Theo tổng cục thống kê, trong quý 1 năm 2010 cán cân thương mại thâm hụt 
nhưng trong mô hình dự báo cán cân thương mại tác động bởi chỉ số RER thì 
không thể hiện được điều đó. Nhưng mô hình cán cân thương mại bị tác động bởi 
REER thì thể hiện rõ rệt điều này. Vì vậy, chúng ta khẳng định rằng tỉ giá hối 
đoái thực đa phương có ý nghĩa phân tích hơn . 
Kết luận: Kết quả mô hình dự báo cho thấy xu hướng thâm hụt cán cân thương 
mại vào năm 2010 sẽ còn tiếp diễn trước sự biến động của thị trường. Mô hình 
52 
chỉ có thể cho thấy sự giảm giá thực của tiền đồng so với đồng tiền của các đối 
tác thương mại chủ yếu làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu thể 
hiện trên tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu. Tuy nhiên, trước sự biến động của nền 
kinh tế Mỹ, tỷ giá thực song phương VND/USD không có ý nghĩa trong dự báo. 
Mặc dù, tỷ giá thực đa phương có thể giải thích được mối quan hệ giữa biến động 
tỷ giá và cán cân thương mại tốt hơn, nhưng kết quả dự báo vẫn còn nhiều hạn 
chế: 
- Trước tiên, đó là việc lựa chọn năm gốc. Như đã xác định trong phần lựa 
chọn năm gốc cho việc tính REER, khi chọn năm gốc khác nhau sẽ cho 
kết quả tính REER khác nhau. 
- Thứ hai, vấn đề lựa chọn chỉ số giá (có thể chọn chỉ số giá tiêu dùng, chỉ 
số giá sản xuất hay lấy mẫu giá…) mỗi chỉ số khác nhau cũng cho kết quả 
tính REER khác nhau. 
- Thứ ba, trọng số thương mại. Số lượng các đối tác thương mại khác nhau 
sẽ cũng cho REER khác nhau. 
- Thứ tư, là rổ hàng hóa tính chỉ số giá ở các nước cũng có sự khác nhau 
làm ảnh hưởng tới REER. 
- Thứ năm, vấn đề chất lượng nguồn dữ liệu, sự khó khăn trong việc tìm 
kiếm dữ liệu … có thể sẽ ảnh hưởng đến chỉ số này. 
- Và cuối cùng, ý định chủ quan của người nghiên cứu cũng tác động đến 
kết quả. 
Tuy nhiên, bên cạnh tỷ giá, vấn đề cán cân thương mại còn tùy thuộc nhiều yếu 
tố như: khả năng tăng lượng hàng xuất khẩu theo nhu cầu thị trường, kim ngạch 
xuất khẩu, tâm lý tiêu dùng, hàng thay thế và hàng bổ sung, hàng thông thường 
và hàng cao cấp, các nguyên liệu và máy móc đặc chủng trong nước chưa sản 
xuất được… 
Như vậy, giữa điều kiện và khả năng cũng như cơ hội để Việt Nam thu hẹp 
khoảng cách cán cân thương mại không hoàn toàn phụ thuộc vào tỷ giá. Vấn đề 
53 
cốt lõi vẫn nằm ở tiềm lực của nhà sản xuất, cơ cầu hàng xuất – nhập khẩu, hiệu 
lực định hướng của Nhà nước trong thị hiếu tiêu dùng… hiện nay và tương lai. 
3.3 Chính sách điều hành tỷ giá hƣớng tới cải thiện cán cân thƣơng mại Việt 
Nam trong năm 2010: 
Chính sách tỷ giá cần đặt trong bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt 
Nam, từ chính sách tài khóa, tiền tệ đến các tác động từ bên ngoài. Chính phủ cần 
phối hợp đồng bộ các chính sách giá cả, tiền tệ và tài khóa, tập trung cho dự báo 
kinh tế, phản ứng kịp thời trước những biến động của nền kinh tế. 
Để chính sách tỷ giá có thể hỗ trợ mục tiêu duy trì khả năng cạnh tranh 
của hàng hóa, hay bất cứ mục tiêu nào khác, nhất thiết phải có một cơ chế tỷ giá 
thích hợp và một môi trường thuận lợi để tỷ giá vận động theo các quy luật kinh 
tế để nó có thể phản ánh tín hiệu của thị trường. Vì vậy, việc lựa chọn và hoàn 
thiện cơ chế tỷ giá và có các biện pháp thúc đẩy sự phát triển thị trường ngoại hối 
là công việc chính phủ nên triển khai sớm. 
Thứ nhất, vấn đề lựa chọn một cơ chế tỷ giá thích hợp không có một công 
thức chung cho tất cả các quốc gia. Xét trong điều kiện Việt Nam là nước có thu 
nhập thấp, thị trường kém phát triển, và tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 
tài chính toàn cầu vẫn còn lớn nên thả nổi hoàn toàn tỷ giá là không thực tế. Tuy 
nhiên, tỷ giá quá cố định, hay neo chặt vào USD có thể kết thúc bằng một cuộc 
khủng hoảng tiền tệ (khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997). Vì vậy, ở đâu đó giữ cố 
định hay thả nổi vẫn là lựa chọn hợp lý cho cơ chế tỷ giá của Việt Nam. Cho nên, 
vấn đề cần đánh giá là giữa nồng độ thả nổi và can thiệp cái nào đang trội hơn và 
trong tương lai thì nên tăng tỷ trọng của cái nào. 
Thứ hai, do sự bất ổn ngày càng cao của thị trường tài chính, cho nên đối 
với việc thực thi chính sách tỷ giá có thể NHNN sẽ nghiên về mục tiêu ổn định 
giá cả hơn so với mục tiêu duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. 
Suy cho cùng, cơ chế tỷ giá chỉ thành công nếu nó góp phần tạo ra nền tảng kinh 
tế vĩ mô ổn định tạo điều kiện cần thiết cho kinh tế phát triển chứ không nhất 
54 
thiết chỉ nhằm vào mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa 
quốc nội. 
Thứ ba, trong điều kiện cơ chế thị trường chưa phát triển đầy đủ, thả nổi 
hoàn toàn tỷ giá, để giá cả tiền tệ do thị trường tự điều tiết, thật sự là một nhân tố 
gây bất ổn rất lớn cho nền kinh tế. 
Tại Việt Nam, thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng 
còn rất sơ khai. Vì lẽ đó, NHNN Việt Nam phải “tạo” ra một thị trường tiền tệ và 
mang một trách nhiệm nặng nề trong việc kiểm soát chặt chẽ tỷ giá. Tuy nhiên, 
cũng đã đến lúc NHNN nên giảm bớt dần việc kiểm soát và thả nổi tỷ giá 
thêm để nó vận hành ngày càng theo sát thị trƣờng. Bởi vì những nguyên 
nhân sau: 
- Cố định tỷ giá làm tăng nguy cơ khủng hoảng tiền tệ. Ổn định tỷ giá 
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với ổn định kinh tế. Đồng nội tệ bị “ổn 
định” quá lâu, trong khi lạm phát trong nước tăng cao hơn đã làm cho tiền đồng 
ngày càng bị định giá cao, tỷ giá không phản ánh các quan điểm của thị trường. 
Đến một lúc nào đó, nó có thể bị tấn công toàn diện bởi hoạt động đầu cơ. Cuộc 
khủng hoảng tài chính Châu Á cho một bài học kinh nghiệm quý giá về việc cố 
định tỷ giá. 
- Thả nổi thêm tỷ giá chính là để cho thị trường tham gia vào quá tình hình 
thành tỷ giá mục tiêu, và cái neo “quản lý của NHNN” với sợi dây buộc dài hơn 
giúp cho tỷ giá linh hoạt giao động nhiều hơn nhưng không thể chệch khỏi quá 
xa tỷ giá trung tâm. 
- Quản lý tỷ giá là nhằm bình ổn tỷ giá, tạo ra không gian rộng rãi hơn 
cho tỷ giá có dịp thể hiện đúng bản chất và hoạt động theo các quy luật kinh tế 
vốn có của nó và không can thiệp quá sâu vào các quy luật vận động của thị 
trường. NHNN nên tăng nồng độ thả nổi (chứ không phải là thả nổi hoàn toàn), 
để thị trường tham gia vào quá trình xác định tỷ giá cân bằng. 
55 
- Việc tăng nồng độ thả nổi tỷ giá nhằm tăng hiệu lực của chính sách tỷ 
giá tiền tệ. Tình hình kinh tế thế giới đã có nhiều thay đổi so với trước đây, xu 
hướng liên kết giữa các nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ, các tổ chức như khu vực 
mậu dịch tự do ASEAN, liên minh Châu Âu EU (với 27 nước thành viên từ năm 
2007), tổ chức thương mại thế giới WTO… Và Việt Nam hiện tại là thành viên 
của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn chắc chắn phải tuân thủ các quy định và 
thông lệ quốc tế như giảm thuế quan, tự do thương mại, đầu tư… Nói chung, 
kinh tế Việt Nam có độ mở khá rộng nên việc kiểm soát vốn rất là khó khăn. 
Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, để cho chính sách tiền tệ độc lập hơn và dồn sức 
cho kiểm soát lạm phát thì NHNN cần thả nổi hơn nữa tỷ giá hối đoái. Tỷ giá 
linh hoạt hơn sẽ giảm bớt áp lực của NHNN trong vấn đề đối phó với dòng vốn 
chảy vào hay chảy ra, giảm bớt nguy cơ xung đột chính sách theo kiểu bộ ba bất 
khả thi. 
Tuy nhiên, việc giảm giá tiền đồng phải nên tiến hành từ từ, phù hợp 
trong từng giai đoạn cụ thể. Nó sẽ hỗ trợ các nhà xuất khẩu đôi chút, bằng cách 
làm giá các sản phẩm xuất khẩu rẻ hơn. Động thái tích cực này sẽ giúp cải thiện 
cán cân thương mại trong thời gian ngắn. 
Chúng ta cũng nên nhớ rằng Việt Nam cũng là một nước nhập khẩu rất 
nhiều hàng hóa, đặc biệt các sản phẩm hóa dầu, thép, nhựa, máy móc và giá của 
những hàng hóa này cũng sẽ giâ tăng, nhập khẩu của Việt Nam cũng sẽ tăng 
thêm. Vì vậy, giải quyết vấn đề mất cân đối cán cân thương mại có thể là vấn đề 
dài hạn, mất nhiều năm mới thực hiện được. Biên độ và tỷ giá tham chiếu quan 
trọng nhƣng không phải là yếu tố quyết định hàng đầu trong điều hành tỷ 
giá. Quan trọng nhất là phƣơng thức điều hành. Nhưng cách điều hành chính 
sách tỷ giá của Ngân hàng nhà nước từ xưa đến nay hơi bảo thủ, cứng nhắc. 
Tóm lại, linh hoạt tỷ giá nhằm giảm bớt sự xuất hiện của NHNN trên thị 
trường, hạn chế sự can thiệp gây méo mó các chức năng cơ bản của thị trường, 
giảm nguy cơ gây khủng hoảng tiền tệ. 
56 
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 
Trong Chương 3, tác giả đề cập đến triển vọng nền kinh tế Việt Nam năm 
2010. Và tác giả cũng tiến hành dự báo tỷ giá thực song phương RER và tỷ giá 
thực đa phương REER trên cơ sở số liệu dự báo CPI của các nước có mối quan 
hệ thương mại với Việt Nam như Mỹ, Nhật, Trung Quốc và Pháp. Sử dụng mô 
hình hồi quy trong Chương 2 về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại, 
tác giả đã dự báo xu hướng của cán cân thương mại Việt Nam sẽ thâm hụt vào 
năm 2010. 
Tuy nhiên, trước sự biến động của nền kinh tế Mỹ, tỷ giá thực song 
phương không có ý nghĩa trong dự báo. Mặc dù, tỷ giá thực đa phương có thể 
giải thích được mối quan hệ giữa biến động tỷ giá và cán cân thương mại tốt hơn, 
nhưng kết quả dự báo vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một 
số biện pháp trong chính sách quản lý và điều hành tỷ giá hướng tới cải thiện cán 
cân thương mại trong thời gian tới. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
bai luan van hoan thanh.pdf