Đề tài Hoạt động xuất khẩu của công ty Artex Thăng Long: thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu của công ty Artex Thăng Long: thực trạng và giải pháp: Trường đại học quản lý và kinh doanh hà nội Khoa quản lý doanh nghiệp *********** Luận văn tốt nghiệp Đề tài: hoạt động xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long thực trạng và giải pháp Giáo viên hướng dẫn : Sinh viên thực tập : Lớp : Khoá : Lời nói đầu Một trong những hình thức kinh doanh cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của mỗi quốc gia là xuất khẩu. Đối với Việt Nam xuất khẩu hàng hoá đang là một vấn đề cấp thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước cũng như góp phần nâng cao đời sôngs nhân dân. Trong Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam ( ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu ). Và từ đó đến nay vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt đọng liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang là vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâmvới mục đích tim ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt ...

doc36 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu của công ty Artex Thăng Long: thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học quản lý và kinh doanh hà nội Khoa quản lý doanh nghiệp *********** Luận văn tốt nghiệp Đề tài: hoạt động xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long thực trạng và giải pháp Giáo viên hướng dẫn : Sinh viên thực tập : Lớp : Khoá : Lời nói đầu Một trong những hình thức kinh doanh cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của mỗi quốc gia là xuất khẩu. Đối với Việt Nam xuất khẩu hàng hoá đang là một vấn đề cấp thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước cũng như góp phần nâng cao đời sôngs nhân dân. Trong Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam ( ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu ). Và từ đó đến nay vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt đọng liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang là vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâmvới mục đích tim ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam ngày càng có hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước chiến lược thực hiện phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu " hướng về xuất khẩu", thay thế nhập khẩu có chọn lọc những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả nhằm tăng sản phẩm xã hội bình quân lên gấp đôi hiện nay. Với những mục tiêu đặt ra, việc đẩy mạnh xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất hàng hoá, đồng thời mở rộng kinh tế và có khả năng hội nhập kinh tế khu vực là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy các đơn vị xuất nhập khẩu trong nước phải hoạt động có hiệu quả hơn nữa trong tiến xuất nhập khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, nhập khẩu các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu. Đồng thời muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngoài việc thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển thì việc tìm kiếm thị trường nước ngoài là một trong những chiến lược lâu dài mà chúng ta cần phải chú trọng đến để góp phần làm tăng tốc quá trình này. Do đó, hoạt đọng kinh doanh xuất khẩu ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Nó góp phần làm cân bằng cán cân thương mại, tăng thu ngoại tệ về cho đất nước, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn. Nhận thức được tầm quan trọng này của hoạt đọng xuất khẩu, trong khoảng thời gian thực tập từ 10/07/2002 tại công ty Xuất Nhập Khẩu Thăng Long (tên giao dịch là ARTEX Thăng Long), em đã chọn đề tài : "Hoạt động xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long – Thực trạng và giải pháp" để góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành luận văn, em xin trân thành cảm ớnự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Xuân và các cô, các bác phòng kinh doanh nghiệp vụ I của công ty Xuất Nhập Khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long. Vì khả năng và thời gian có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy, cô và bạn đọc. Nội dung luận văn bao gồm: Chương I- Những vấn cơ bản về xuất khẩu Chương II- Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long Chương III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty ARTEX Thăng Long. Chương I Những vấn đề cơ bản của xuất nhập khẩu. I. Xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm chung về xuất khẩu . Hoạt động xuất khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước đối với một nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Sự trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường . 2.1. Sự cần thiết của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu là sự cần thiết vì lý do cơ bản là: nó khai thác được lợi thế của nước xuất khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với khối lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới khả năng sản xuất trong nước (nếu như thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài). Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu sản xuất dịch vụ và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với các nước khác. Chính chuyên môn hoá quốc dân nông thôn là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh, quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là phương thức của chìa khoá thương mại. Qui luật cũng khẳng định rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà nước đó có lợi htế so sánh (hoặc có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại quôc tế có lợi cho cả hai bên. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được phần nào về việc buôn bán giữa các nước, vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa các nước, nên sẽ có lợi nhiều hơn khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Mặt khác chuyên môn hoá qui mô lớnlàm chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối. Hai nước giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác về nhu cầu và sở thích. Hoạt động xuất khẩu đối với nước ta là vấn đề quan tâm hàng đầu do tầm quan trọng của nó. Do vậy Đảng và Nhà nước đã chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ, trong đó lĩnh vực quan trọng là vật tư thương mại hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Một đất nước không thể xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh trong điều kiện tự cung tự cấp, ngay cả với quốc gia hùng mạnh, vì nó đòi hỏi rất tốn kém về vật chất và thời gian. Chính vì lẽ đó cần phải nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng ngoại thương trên cơ sở hợp tác, bình đẳng không phân biệt chế độ và đôi bên cùng có lợi như Đại hội VIII của Đảng ta qui định. 2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế. *Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhâp khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục đói nghèo, chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Vốn nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn vốn sau đây: Đầu tư nước ngoài vay nợ, viện trợ Xuất khẩu lao động … Các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ… tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằng cách nay hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Nước ta vào những năm 1986-1990 nguồn thu tư xuất khẩu là ắ tổng nguồn thu từ ngoại tệ và đảm bảo được 56% vốn nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài cũng như đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu (nguồn vốn duy nhất để xuất khẩu ) trở thành hiện thực. *Xuất khẩu góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ chế sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới là tâts yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. -Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất thừa quá nhu cầu trong nước. Trong trường hợp nền kinh tế còn lac hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, do đó nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm. - Coi trọng thoả mãn mọi nhu cầu của thị trường (đặc biệt là thị trường của thế giới) là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu. Điều đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. *Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào nơi làm việc và có thu nhập khá, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật tư, thiết bị sản xuất và vật phẩm tiêu dìng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. *Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 3.1. Công cụ chính sách vĩ mô của nhà nước. Đây là các yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bắt buộc phải nắm rõvà tuân thủ một cách vô ddiều kiện bởi nó thể hiện thiện chí của Đảng và Nhà nước, sự thống nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của những người xuất khẩu, lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế. Những chính sách này sẽ có tác động rất lớn đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là chính sách ngoại thương. Chính sách ngoại thương nước ta có nhiệm vụ là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia vào sự pphân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất khẩu và bảo vệ thi trường. Để khuyến khích hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với nước ngoài chính phủ đã có những chính sách khuyến khích sau : ở điều 9 – Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triển mở rộng thị trường mới và xuất khẩu được những mặt hàng mà nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Điều 10 – Nhằm khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nếu tìm được khách hàng và thị trường xuất khẩu có hiệu quả với những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xét và giải quyết cụ thể từng hợp đồng xuất khẩu đối với những mặt hàng mới. Điều 9, 10 chương 4 nghị định 36 CP ngày 19/04/1999 về quản lý Nhà nước với hoạt động nhập khẩu. Bên cạnh đó Chính phủ cũng sử dụng các công cụ quản lý khác như : thuế quan, hạn ngạch… nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên. 3.2. Tác động của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ đến xuất khẩu. Có thể nói tỷ giá hối đoái như là "chiếc gậy vô hình" điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì tỷ giá hối đoái cảu đồng tiền thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu thì lại bất lợi cho nhập khẩu và ngược lại, sự biến động này sẽ gây ra tổn thất lớn cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Trong điều kiện nước ta hiện nay cần áp dụng tỷ giá thấp để đảm bảo xuất khẩu có lãi, tất nhiên tỷ giá đó không thoát ly quá nhiều so với tương quan cung cầu về ngoại tệ trên thị trường trong nước. 3.3. Tác động của hệ thống giao thông vận tải, liên lạc. Việc xuất khẩu không thể tách rời công việc vận chuyển và các thông tin liên lạc hiện đại này còn giúp cho việc thoả thuận giữa các bên có thể tiến hành nhanh chóng và kịp thời. Thực tế cho thấy sự phát triển của hệ thống thông tin hiện nay như: Fax, Telephone, Telex, DHL, Internet. Đã đơn giản hoá công việc của hoạt động xuất nhập khẩu rất nhiều, nó góp phần giẩm hàng loạt các chi phí và nâng cao tính kip thời, chính xác và nhanh gọn. Mặt khác, nước ta có hệ thống giao thông rất thuận lợi cho việc xuất khẩu, là một trong những trung tâm vận hành đường biển ở khu vực Đông Nam á, rất thận lợi cho hoạt động ngoại thương.Tuy nhiên, phương tiện vận chuyển, đường xá nước ta còn lạc hậu vì vậy việc khắc phục, tu dưỡng và bổ xung hệ thống vận tải mới là rất cần thiết. 3.4. Tác động cảu hệ thống tài chính ngân hàng. Hệ thống tài chính và ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Nó giúp cho việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác, thuận tiện và an toàn cho các doanh nghiệp. Diều nay rất có ý nghĩa dối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay hệ thống ngân hàng đã phát triển mạnh và có thể can thiệp đến tất cả các doanh ngiệp trong nền kinh tế thị trường và làm chức năng cho hoạt động xuất khẩu phát triển mạnh. 3.5. Các nhân tố thuộc về môi trương doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đều có một môi trường kinh doanh nhất định, nó tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc kinh doanh và ngược lại nó cũng ảnh hưởng bởi những tác động xấu đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Sự biến động của môi trường văn hoá, chính trị, xã hội, công nghệ. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việt Nam bị ảnh hưởng lệnh cấm vận của Mỹ nên hoạt động ngoại thương rất hạn chế. Bên cạnh đó sự phát triển vượt bậc của công nghệ tiên tiến trên thế gới làm cho đa dạng hoá chủng loại hàng hoá cao cấp, tạo ra nhiều hàng hoá mới cũng như sự hiện đại hoá các thông tin, giao thông, ngân hàng tài chính… ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoật động xuất khẩu của Việt Nam. II. Các hình thức xuất khẩu và phương tiện, phương thức thanh toán. 1. Các hình thức xuất khẩu 1.1. Xuất khẩu trực tiếp. Đây là hình thức doanh nghiệp đặt mua sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước (mua đứt), sau đó xuất khẩu những sản phẩm nay ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của doanh nghiệp mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hàng hoá của mình với khách hàng nước ngoài (bán đoạn). Các bước tiến hành gồm có : Ký hợp đồng ngoại : Cam kết bán hàng cho khách hàng nước ngoài với điều kiện hai bên thống nhất thoả thuận theo luật quốc tế. Ký hợp đồng nội : Mua hàng và trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước. Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà các đơn vị kinh doanh xuất khẩu thu được thường cao hơn các hình thức khác. đơn vị ngoại thương đứng ra với vai trò là người bán ra trực tiếp, do đó nếu hàng có quy cách, phẩm chất tốt sẽ nâng cao được uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải có vốn khá, vì trong điều kiện hiện nay thường các doanh nghiệp ngoại thương phải ứng trước tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước, số tiền này thường là lớn. Hơn nữa mức độ rủi ro của hình thức này cũng lớn (hàng hoá kém chất lượng, quy cách, phẩm chất …) rất rễ bị khiếu nại, thanh toán chậm thậm chí còn bị phạt. Bên cạnh đó hình thức này còn bị ảnh hưởng rất nhiều của tỷ giá hối đoái, lãi xuất vay của ngân hàng… Do vậy, áp dụng hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững về nghiệp vụ, có bạn hàng tốt, lâu dài. 1.2. Xuất khẩu uỷ thác. Trong hình thức xuất khẩu uỷ thác Doanh nghiệp thương mại với chức năng được Nhà nước cho phép đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu, làm thay đổi cho đơn vị sản xuất (bên co hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng hoá xuất khẩu. * Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng uỷ thác xuất khẩu cho đơn vị sản xuất trong nước. - Ký hợp đồng với bên nước ngoài, làm thủ tục giao hàng và thanh toán tiền hàng. - Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất trong nước… Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng tên xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt là không cần huy động vốn để mua hàng, vốn này do đơn vị sản xuất (có hàng hoá) phải bỏ ra và họ tự chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng… Tuy nhiên, hình thức này hiệu quả kinh tế không cao, nếu đơn vị sản xuất làm hàng không tốt, giao hàng không đúng thời hạn thì Doanh nghiệp Thương mại sẽ rất rễ bị mất uy tín và dẫn đến mất dần khách hàng. 1.3. Xuất khẩu gia công uy thác. Doanh nghiệp Thương mại đứng ra nhập khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm rồi đem cho đơn vị gia công sản xuất hàng hoá, sau đó thu hồi thành phẩm xuất khẩu trả lại cho phía nước ngoài. Doanh nghiệp được hưởng phần trăm phí uỷ thác gia công, phí này được thoả thuận trước với đơn vị sản xuất trong nước. Các bước tiến hành chính gồm có: Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị sản xuất trong nước. Ký hợp đồng gia công với bên nước ngoài và nhập nguyên vật liệu. Giao nguyên liệu gia công cho đơn vị sản xuất trong nước.( Định mức và cá thông số kỹ thuật đã được thoả thuận giữa bên nước ngoài và bên sản xuất trong nước). Xuất khẩu trả lại thành phẩm cho bên nước ngoài. Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất (do bên nước ngoài trả), và hưởng phí uỷ thác gia công. 1.4. Buôn bán đối lưu (hàng đổi hàng). Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương nhau, ở đây mục đích xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương đương với giá trị mà Doanh nghiệp đã xuất khẩu. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (áp dụng phổ biến hơn), trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ. Trong hình thức hàng đổi hàng, hai bên trao đổi trực tiếp những hàng hoá dịch vụ đổi 10 tấn cà phê lấy 01 ôtô. Trong nghiệp vụ mua đối lưu, thường một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua lại thành phẩm hoặc bán lại thành phẩm. 1.5. Xuất khẩu theo nghị thư. Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá ( thường là hàng trả nợ) được ký theo nghị định tư của hai chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả nhìn chung có lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu. 2. Các phương thức và phương tiện thanh toán. 2.1. Các phương tiện thanh toán thông dụng trong kinh doanh xuất nhập khẩu. a. Hối phiếu thương mại(Bill of exchange ) : Hối phiếu thương mại là một phương tiện thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi nhất. Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô diều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu của người này sau khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. b. Séc trong thành toán quốc tế ( Cheque) Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở lưu thông hàng hoá thì Séc hình thành trên cơ sở lưu thông tín dụng ngân hàng. Séc là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do khác hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình từ ngân hàng để trả cho người cầm Séc hoặc người được chỉ định trên Séc. 2.2. Các phương thức thường dùng trong thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế hiện nay người ta sử dụng rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau nhưng phổ biến và quan trọng hơn cả là một số phương thức thanh toán sau đây: a. Phương thức chuyển tiền. Phương thức chuyển tiền là phương thức trong đó khác hàng ( người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ( người hưởng lợi) ở một thời điển nhất định băng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. b. Phương thức nhờ thu. Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hàng hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho khách hàng, sẽ ký phát hối phiếu đòi người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên tờ hối phiếu đó. c. Phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó ngân hàng (ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở L/C) sẽ trả một số tiền nhất định cho một số người khác (người hưởng lợi số tiền của L/C) hoặc chấp nhận hối phiếu do người hưởng lợi thứ nhất ký phát (trong phạm vi số tiền nhất định đó) khi người hưởng lợi xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ hàng hoá phù hợp với quy định đề ra trong L/C. III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. 1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường và lập phương án kinh doanh. Bất cứ một thương vụ nào đều đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị hết sức chu đáo, đầy đủ, thận trọng. Nếu công tác đầu tiên này được thức hiện tốt sẽ tạo điều kiện để thực hiện một cách có hiệu quả quá trình xuất khẩu tiếp theo. Việc nghiên cứu tiếp cận thị trường bao gồm nhận biết về sản phẩm sẽ xuất khẩu, nghiên cứu thị trường và tìm hiểu đối tác. 1.1. Nghiên cứu hàng hoá xuất khẩu. Mục đích của việc nhận biết hàng hoá xuất khẩu là để lựa chọn mặt hàng kinh doanh thích hợp mạng lại hiệu quả cao nhất. Trong trường hợp mà các nhà kinh doanh phải bán các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu chứ không phải cái mà minh đã có. Do đó, khi sản xuất một mặt hàng nào đó để xuất khẩu nhà kinh doanh phải nghiên cứu kỹ thị trường bán hàng xuất khẩu, từ đó tiến hành hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu theo nhu cầu của khác hàng mà mình nghiên cứu. Phải thực hiện được tiêu đề sau tất cả những gì mà ngày hôm nay doanh nghiệp sản xuất ra thì trong tâm trí của họ những mặt hàng đó phải được bán hết ngày hôm qua. Tức là cần thoả mãn những yêu cầu sau: Mặt hàng mà thị trường đang cần là gì ? điều này nhà kinh doanh phải nhạy bén biết sử dụng, thu thập, phân tích các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng được các quan hệ bán hàng từ đó có được thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại, chất lượng… Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào ? việc tiêu dùng các mặt hàng không tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu. Khi nắm vững được tập quán tiêu dùng của thị trường người cán bộ kinh doanh sẽ dễ dàng hơn trong việc nắm bắt và thoả mãn nhu cầu, có cơ sở tiến hành hoạt động xuất khẩu. Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi một mặt hàng đều tồn tại ở một thời gian nhất định. Đó là bốn pha của chu kỳ sống của sản phẩm, các nhà kinh doanh cần phải xác định được sản phẩm mà mình muốn xuất khẩu đang nằm ở pha nào của chu kỳ để từ đó có các biện pháp thích hợp làm tăng doanh thu. Ngoài ra, cần phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà mình định xuất khẩu: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, thời vụ sản xuất. 1.2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài. Trong công tác kinh doanh xuất khẩu việc nghiên cứu thị trường ngoài nước phải trả lời được các câu hỏi sau: Thị trường nước ngoài và dung lượng thị trường: nắm bắt các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhòm hàng và các điều kiện cần thiết để hiểu sâu về hàng hoá đó trên thị trường. Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của ngành sản xuất hàng hoá được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông thị trường của hàng hoá đó. Nghiên cứu thị trường hàng hoá biểu hiện rõ quy luật vận động của chúng, thể hiện qua các biến đổi về nhu cầu, điều kiện cung cấp, giá cả hàng hoá đó trên thị trường. Từ đó người sản xuất có thể giải quyết hàng loạt các vấn đề như thái độ tiếp thị, yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, các hình thức và biện pháp xâm nhập thị trường. Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chất chu kỳ: sự vận động của tình hình kinh tế của các nước xuất khẩu các mặt hàng có tính thời vụ trong sản xuất hàng hoá. Việc này rất quan trọng đối với việc quyết định thời gian, địa điểm và đối tác giao dịch. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường. Đó là: thành tưu khoa học kỹ thuật, các biện pháp, chính sách của chính phủ, các tập đoàn tư bản lớn cũng có ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi dung lượng của thị trường, thị hiếu và tập quán tiêu dùng. Ngoài ra còn có các nhân tố về khả năng sản xuất thay thế. Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường đó là việc đầu cơ trên thị trường gây biến động về cung cầu và các biến động của các chính sách, chính trị xã hội và các biến động của thiên nhiên. Vấn đề biến động giá cả thị trường: Người xuất khẩu phải nắm vững và có đầy đủ thông tin về sự biến động giá cả trên thị trường thế giới cũng như giá cả của nguồn hàng cung cấp trong nước để có những biện pháp thích hợp tăng hiệu quả sản xuất. Việc theo dõi nắm bắt được những biến động này sẽ giúp người xuất khẩu có được mức giá tối ưu. Việc nghiên cứu giá cả trên thị trường là phương thức quan trong trong việc thành hay bại của một phương án kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có các thông tin đầy đủ về nó và phân tích chính xác tỉ mỉ để xem xét thời điểm nào là giá đó đem lại lợi nhuận cao nhất cho mình, hạn chế rủi ro. 1.3. Lựa chọn đối tác buôn bán. Khi tiến hành xuất khẩu người kinh doanh có thể có được nhiều bạn hàng để buôn bán, các nhà kinh doanh cần phải lựa chọn khách hàng tốt nhất để đảm bảo uy tín và tính an toàn về hiệu quả kinh doanh. Căn cứ vào đó mà ta có thể lựa chọn đối tác buôn bán tốt nhất đó là: Quan điểm kinh doanh cảu đối tác. Lĩnh vực kinh doanh của họ. Khả năng về tài chính (vốn liếng và cơ sở vật chất). Uy tín và các mối quan hệ của đối tác kinh doanh. Những người đại diện của công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện công ty. Khi lựa chọn đối tác giao dịch phương án tối ưu là những người trực tiếp có trức năng xuất nhập khẩu trực tiếp hạn chế những hoạt động trung gian. Các bạn hàng có hợp đồng làm ăn lâu dài, quen thuộc cũng là những ưu tiên khi chọn đối tác. Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có hiệu quả đó là khi thâm nhập vào thị trường mới, cần nắm bắt những thông tin về thị trường mới. Việc lựa chọn đối tác buôn bán sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để có sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. 1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân như mối quan hệ giữa cung cầu về hàng hoá, tích lũy-tiêu thụ, công nghiệp-nông nghiệp. Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường, giá cả luôn biến động và chịu tác đông của nhiều nhân tố. Để đạt được hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu đòi hỏi mỗi nhà kinh doanh luôn phải theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu sự biến động của giá cả, đồng thời phải có những biện pháp để tính toán, xác định giá cả một cách chính xác, khoa học để có mức giá tối ưu. Trong buôn bán quốc tế, giá cả hàng hoá được coi là giá gộp, trong đó gồm giá nguyên thuỷ và cả chi phí, giá cả thay đổi tuỳ theo điêu kiện cơ sở tính giá. Giá cả hàng xuất khẩu bao gồm các yếu tố: Giá trị hàng hoá đơn thuần. Bao bì. Chi phí vận chuyển. Thuế xuất khẩu. Chi phí bảo hiểm. Các chi phí khác của hàng hoá xuất khẩu. Nghiên cứu giá cả của hàng hoá xuất khẩu bao gồm việc nghiên cứu mức giá của hàng hoá xuất khẩu tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả mà nhà kinh doanh phải nghiên cứu đó là: Nhân tố chu kỳ, nhân tố cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ. Ngoài ra, giá cả còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác như chính sách của nhà nước tư bản, xung đột xã hội, đình công… Chính những nhân tố đó làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu luôn biến động gây nên việc nghiên cứu rất kho khăn và đòi hỏi chi phí lớn về vật chất. Nhưng điều này hết sức quan trọng trong công tác sản xuất và làm hạn chế rủi ro, đem lại hiệu quả kinh tế cao. 1.5. Lập phương án kinh doanh. Trên cơ sở đã nghiên cứu vững chắc và các kết quả đã thu được qua các khâu trên doanh nghiệp xuất khẩu đưa ra phương án kinh doanh cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ dự đoán về diễn biến khi thực hiện quá trình xuất khẩu hàng hoá, cũng như các mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Phương án kinh doanh này là kế hoạch hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xác định của doanh nghiệp. Để xây dựng được phương án kinh doanh tốt cần phải tiến hành theo trình tự sau: Đánh giá tổng quát về thị trường và đối tác buôn bán. Dựa trên cơ sở nghiên cứu phân tích về thị trường và đối tác nước ngoài rút ra được những kết luận cơ bản về tình hình thị trường mà doanh nghiệp xuất khẩu. Từ đó phân tích để thấy được những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện công tác xuất khẩu. Chọn mặt hàng và thời gian, địa điểm, điều kiện và phương thức kinh doanh. Bước này đòi hỏi phải được chuẩn bị thật đầy đủ, kỹ lưỡng dựa trên cơ sở phân tích thông tin có liên quan. Đề ra các mục tiêu cụ thể sẽ đạt được khi tiến hành kinh doanh, có thể là các mục tiêu về lợi nhuận, doanh số, mục tiêu về uy tín. Đây là một công việc cần thiết bởi vì phải xác định rõ ràng các mục tiêu thì từ đó mới có các cơ sở để xây dựng các biện pháp cụ thể với các chỉ tiêu phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của quá trình kinh doanh. Đây là việc làm tất yếu và quan trọng bởi vì nếu không đánh giá được hiệu quả kinh tế hoặc đánh giá sai, nâng cao hiệu quả kinh tế so với hiệu quả thực thì dễ dàng dẫn đến rủi ro, thua lỗ khi tiến hành thực hiện. Hiệu quả kinh tế của một hoạt động kinh doanh có thể đánh giá qua các chỉ tiêu chủ yếu sau: + Chỉ tiêu tỉ xuất ngoại tệ. + Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn. + Chỉ tiêu tỉ xuất doanh lợi. + Chỉ tiêu điểm hoà vốn. Cùng với các mặt khác như uy tín của công ty mối quan hệ cũng được củng cố và mở rộng với nhiều bạn hàng. Do vậy, mà công tác lập phương án kinh doanh là một công tác quan trọng và cần thiết, một phương án kinh tế mà được lập một cách khoa học, khéo léo dựa trên cơ sở các phân tích chuẩn xác và đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như về chúng tôi có ý nghĩa quyết định hêt sức quan trọng đến sự thành hay bại trong kinh doanh. 2. Nội dung chủ yếu trong nghiệp vụ xuất khẩu hàng hoá. 2.1. Ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Trong thương mại quốc tế có rất nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức đều có đặc điểm riêng, cách thức tiến hành khác nhau cho nên đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá chúng ta cũng có thể tuỳ ý lựa chọn các phương thức giao dịch làm sao để đạt được hiệu quả cao nhất. Có thể đưa ra một số phương thức mà thông thường hay được sử dụng trong hoạt động xuất khẩu, đó là: Giao dịch thông thường: Hai bên mua bán thoả thuận đàm phán trực tiếp hay thông qua thư từ điện tử… đây là hình thức giao dịch được tiến hành phổ biến hiện nay trong hoạt động thương mại, hình thức này tránh được hiểu lầm, giảm được chi phí trung gian, bám sát được thị trường nhiều biến động. Giao dịch qua trung gian: là hình thức giao dịch mà người mua ( hoặc bán), quy định những điều kiện trong giao dịch mua bán hàng hoá như giá cả hàng hoá, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán qua người thứ ba, đó là người buôn bán trung gian. Hình thức này tận dụng khả năng hiểu biết của trung gian về thị trường, giá cả, pháp luật, tập quán… Dùng hình thức này để thâm nhập thị trường mới. Đây là hình thức phổ biến trên thế giới, nó chiếm hơn 50% kim nghạch buôn bán trên thế giới hiện nay. Hình thức buôn bán đối lưu: Trong hình thức này, xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và ngược lại, lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký kết hợp đồng thanh toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá. Giao dịch tại sở giao dịch: Hàng hoá dịch vụ có khối lượng lớn, có tính chất đông loại, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau trên thị trường, đặc biệt là sở giao dịch thông qua các trung gian môi giới do sở giao dịch chỉ định. Giao dịch tại hội trợ triển lãm: Đây là hình thức giao dịch mà việc mua bán hàng hoá tại hội trợ triển lãm sau đó hai bên thoả thuận ký kết hợp đồng. Cần chú ý hội chợ triển lãm là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời điểm, ở một địa điểm nhất định. Sau khi tiến hành việc giao dịch, thoả thuận các vấn đề mấu chốt, các bên tiến hành ký kết hợp đồng, qua đó tiếp súc với nhiều nhóm khác hàng, hiểu hơn về nhu cầu của họ, hiểu thêm về đối thủ cạnh tranh, giá cả và giao dịch kiểu này có hiệu qua cho quảng cáo mạnh. Ngoài các phương thức kể trên còn có một số phương thức khác như: Đấu thầu quốc tế, đấu giá quốc tế nhưng chúng ít được sử dụng trong hoạt động buôn bán thông thường. Trong kinh doanh nói chung, mặc dù đã bàn bạc thoả thuận nhưng nếu không có bản hợp đồng thì nhiều khi vẫn có thể huỷ bỏ cam kết. Hợp đồng trong buôn bán quốc tế lại càn cần thiết bởi vì trong kinh doanh thương mại quốc tế giữa các nước khác nhau có sự khác nhau về ngôn ngữ, luật pháp, tập quán kinh doanh … Do đó, nếu không có sự thống nhất bằng văn bản thì rất dễ xảy ra những điều khó khăn, trục trặc, sinh sự tranh chấp kho giải quyết. Nói chung lại thì hợp đồng kinh doanh gồm 3 phần cơ bản: Những căn cứ pháp lý: Đó là những văn bản quy định của pháp luật, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, ngày giờ và địa điểm ký kết hợp đồng, tên, địa chỉ người đại diện, các ban ký kết hợp đồng… Những thông tin có liên quan đến các bên ký hợp đồng như tên doanh nghiệp, trụ sở, điện thoại, tài khoản của các bên. Những điều khoản chi tiết liên quan tới nội dung thương vụ như tên hàng, giá cả, điều kiện bao bì, điều kiện vận chuyển … Để đảm bảo cho các bên ký kết hợp đồng nên khi ký kết hợp đồng cần lưu ý các điểm sau: Hợp đồng được trình bầy sáng sủa, ro ràng, phản ánh được nội dung được thoả thuận tránh tình trạng mập mờ, nhiều suy luận. Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng luật của các quốc gia, các bên tham gia ký kết. Ngôn ngư trong hợp đồng là thứ ngôn ngư hai bên thông thạo. Người ký kết phải có đầy đủ thẩm quyền và chịu trách nhiệm về mọi nội dung ký kết. 2.2. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi ký kết hợp đồng với các bên buôn bán, người xuất khẩu tổ chức thực hiện hợp đồng mà mình đã ký, căn cứ vào các điều khoản đã ghi trong hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành các công việc phải làm ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời nắm bắt diễn biến tình hình, các văn bản đã gửi đi và nhận được để có thể có được các biện pháp giải quyết cụ thể. Các bước tiến hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm: Xin giấy phép nhập khẩu: Sau nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 của chính phủ về bãi bỏ thủ tục giấy phép xuất khẩu hàng hoá cho từng chuyến. Hàng hoá xuất khẩu được phát triển khá mạnh mẽ, thông thoáng và thuận tiện. Tất cả các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo ngành hàng do Bộ thương mại cấp dài hạn đều có thể tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá trong phạm vi của giấy phép. Các bước khai thông đáng kể trong thủ tục xuất khẩu năm 1997 ( quyết định 28 TTC ngày 31/01/1997 ) chính phủ đã ra chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hoá ở phạm vị rộng kể cả ngoài phạm vi ngành hàng mà giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu quy định ( trừ những ngành hàng cấm hoặc có điều kiện ). Thực chất đã tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu khai thác được nguồn hàng xuất khẩu, chủ động trong kinh doanh. Năm 1998 chính phủ đã tạo ra một bước tiến mạnh mẽ nữa là cho phép doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh và ký hợp đồng ngoại thương thanh toán qua ngân hàng đều dược phép xuất khẩu không cần phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Bằng các bước cải cách hành chính về quản lý xuất nhập khẩu, chính phủ đã thức chất tạo ra môi trường pháp luật thông thoáng để thu hút đầu tư và đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu. Vì vậy, khi xuất khẩu doanh nghiệp chỉ cần phải xin cấp hạn ngạch cho những hàng hoá xuất có điều kiện như: Sản phẩm mỹ nghệ chế biến từ gỗ rừng tự nhiên và rừng trồng, sản phẩm gia công may mặc. Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Thực hiện theo các cam kết đã ký trong hợp đồng xuất khẩu, người xuất khẩu phải chuẩn bị hàng xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu gồm 3 công đoạn sau: + Thu gom tập chung thành lô hàng xuất khẩu. + Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. + Ký mã hiệu hàng xuất khẩu. Kiểm tra hàng xuất khẩu: Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết và quan trọng . Làm thủ tục hải quan: đây là quy định bắt buộc với bất cứ loại hàng nào. Công tác này được tiến hành qua 3 bước sau: + Khai báo hải quan. + Xuất trình hàng hoá. + Thực hiện các quyết định của hải quan. Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của công ty ARTEX Thăng Long I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long (tên giao dịch quốc tế là ARTEX Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ thương mại. Công ty dược thành lập theo quyết định số 859KTĐN- TCCB với trụ sở chính tại : 16A Tôn Đức Thắng- Đống Đa- Hà Nội. Tel: (04)-8237814 Fax: (84-04)- 8456731. Kể từ khi ra đời công ty có một số mốc cần quan tâm sau đây: Ngày 7/4/1989 xí nghiệp xuất nhập khẩu (XNK) mỹ nghệ Thăng Long được thành lập trên cơ sở xác nhập xí nghiệp Hà Nội và bộ phận xản xuất phụ của tổng công ty XNK mỹ nghệ (viết tắt là ARTEXPORT). Ngày 7/5/1993 để phù hợp với cơ chế thị trường và tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ buôn bán quốc tế. Bộ thương mại và du lịch quyết định đổi tên thành công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long. Tháng 8 năm 1994 công ty tách một bộ phận may mặc xuất khẩu sang liên doanh với hãng Marochi của Nhật Bản để thành lập nên liên doanh có tên là công ty may mặc ARKSUN với tổng số vốn khoảng 1 triệu USD trong đó phía Việt Nam góp 49% tổng số vốn. Sản phẩm làm ra được phía Marochi chịu trách nhiệm bao tiêu. Sản phẩm chủ yếu của liên doanh này là quần áo đồng phục để cung cấp cho thi trường Nhật Bản và Hồng Kông. Việc liên doanh này đã giúp một lượng khá lớn công nhân trong công ty co việc làm ổn định. Đến năm 1999 thì công ty ARKSUN đã chuyển thành công ty có 100% vốn nước ngoài vì phía Việt Nam đã rút hết phần vốn đóng góp và chỉ để lại những công nhân đang làm việc tại đó. Đến nay, công ty đã có bề dầy chục năm hoạt động. Tuy kết quả thu được chưa cao nhưng đến thời điểm hiện nay có thể khẳng định rằng ARTEX Thăng Long đã từng bước vươn lên trụ cững trong cơ chế thị trường, tạo công ăn việ làm cho hàng trăm lao động. Sản phẩm chính của công ty là thủ công mỹ nghệ thêu ren và mây tre nứa lá. Sản phẩm được xuất đến những nước như: Đức, Italia, Nhật… sản phẩm mang nét độc đáo truyền thống với nhiều mẫu mã hấp dẫn đáp ứng nhu cầu của khách hàng về cả chất lượng, số lượng và giá thành. Và cho đến nay công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long chỉ hoạt động trên phương diện kinh doanh và các phân xưởng chỉ hoạt động trên phương diện kiểm tra và thẩm định hàng hoá, sản xuất hàng mẫu. Các nguồn lực của công ty 1. Về vốn : Khi mới thành lập công ty chỉ có số vốn khoảng 30 tỷ đồng trong đó vốn ngân hàng do nhà nước cấp, chỉ có khoảng 3 tỷ đồng vốn tự có do sự xác nhập 2 xí nghiệp lúc ban đầu, còn lại khoảng hơn 20 tỷ đồng công ty huy động được từ nhiều nguồn khác nhau(vay ngoài, vay nội bộ). Với một công ty xuất nhập khẩu thì số vốn nay quả thật là quá ít không đủ đáp ứng nhu cầu lâu dài.Và cũng chính bởi thiếu vốn cho nên phần lớn số vốn có được công ty đều tập trung vào việc kinh doanh trực tiếp. Số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất khiêm tốn, gây nhiều khó khăn cho công ty đặc khi gặp trục trặc trong kinh doanh. 2. Về công nghệ : Vì là hàng thủ công mỹ nghệ nên việc đầu tư máy móc là rất tốn kém, nên về mặt này công ty biết mình không đủ khả năngtài chính để đầu tư, một mặt hàng là động chủ yếu của công ty bây giờ là kinh doanh chứ không sản xuất nữa. Các máy móc mà công ty có thể đầu tư chỉ là các máy móc kiểm tra chất lượng hàng hoá. II. Cơ cấu tổ chức của công ty. ùSơ đồ cơ cấu của công ty Giám đốc Phó giám đốc Phòng TCHC Phòng TCKT Phòng T.T Ban Quản lý Phòng N.V Phân xưởng Cửa hàng bán sản phẩm Chi nhánh tại Thành phố HCM ù Cơ cấu tổ chức của công ty. ố Giám đốc công ty là người đứng đầu vận hành tổ chức công ty, trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước về tài sản, quản lý vốn nhà nước cấp, các khoản thuế … ố Giúp việc hay làm trợ lý cho giám đốc là phó giám đốc. ố Phòng tổ chức hành chính (TCHC) có chức năng tổ chức, quản lý, tuyển chọn đào tạo nhân viên, nâng cao trình độ quản lý cho các cán bộ quản lý và nâng cao tay nghệ cho công nhân viên. ố Phòng tài chính kế toán (TCKT) có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện các nghiệp vụ hạch toán quản lý vốn, các khoản thanh toán với ngân hàng,cấp phát vốn cho các hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Tổ chức công tác theo đúng thể lệ và pháp lệnh về công tác kế toán mà nhà nước ban hành. ố Phòng thị trường (T.T) tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển thị trường, thực hiện các hoạt động đón tiếp khách hàng, tổ chức triển lãm… III. Phân tích thực trạng xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long. 1. Quy trình xuất khẩu hàng hoá của công ty ARTEX Thăng Long Trước đây khi ta còn quan hệ chủ yếu với các nước khu vực I (khối XHCN), nhà nước giữ độc quyền ngoại thương, việc kinh doanh xuất khẩu phần lớn là theo các hiệp định, các thoả ước, thoả thuận mà nhà nước ta ký kết với các tổ chức, các quốc gia khác. khi khối thị trường này tan vỡ, ta phải tìm kiếm khách hàng từ các nước thuộc khu vực II ( các nước TBCN0 cùng với việc hình thành nền kinh tế thị trường trong nước và phá bỏ độc quyền ngoại thương. Hiện nay, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của Việt Nam lại là các nước khu vực II. Đây là thị trường có tiềm năng rất lớn nhưng khá khó tính và có trọn lọc, đặc biệt là với hàng dệt may trong đó có nhóm hàng thêu ren. Chính do nhu cầu của thị trường này tăng lên nhưng lực lượng lao động lại giảm đi hoặc chuyển sang những lĩnh vực khác do việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều lao động không thích hợp với nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, hiện tại thị trường này đang có xu hướng xuất khẩu hàng thêu. Rẻ, đẹp, chất lượng - đó chính là yếu tố chính quyết định thị trường nào sẽ là nguồn cung cấp hàng thêu cho khu vực này. Công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long hiện tại cũng chủ yếu là thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu hàng thêu, mây tre lứa lá…Việc gia công xuất khẩu này thông thường là do bên đặt hàng chủ động giao nguyên phụ liệu( vải, chỉ, nhãn mác, túi đựng..), mẫu mã cho công ty, công ty tiến hành sản xuất theo mẫu đặt. Khi sản xuất xong, bên nước ngoài nhận hàng thành phẩm và thanh toán tiền gia công cho công ty. Hợp đồng gia công ký kết thường ở hai dạng sau: Bên nước ngoài giao nguyên phụ liệu, mẫu mã( nếu có) cho công ty, công ty sản xuất và giao hàng thành phẩm cho bên nước ngoài à nhận tiền gia công. Trong hợp đồng gia công thường ghi rõ là giá gia công, không tính nguyên phụ liệu. Bên nước ngoài xuất nguyên phụ liệu cho công ty có ghi rõ giá nguyên phụ liệu, định mức tiêu hao… Công ty sản xuất và xuất khẩu lại nhưng với giá thành phẩm. Công thức tính giá: Giá xuất 40% 40% 5% 5% !0% FOB = nguyên + phí gia + phụ phí + phí chuyên chở + lãi Liệg công bao bì trong nước 2. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty trong những năm qua. Hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đặc biệt phát triển và tăng trưởng ở Việt Nam mà còn có một số nước châu á như: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… Trong đó, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam là những nước có khối lượng sản xuất lớn đặc biệt là Trung Quốc. Đối với nhiều nước trên thế giới, việc sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phát triển không ngừng không những tạo ra việc làm cho nhiều người kể cả những người tàn tật, mà còn làm cho nhiều nước trên thế giới có nhận thức, hiểu biết thêm về nền văn hoá Việt Nam, góp phần mở rộng thêm mối quan hệ mới thông qua buôn bán mặt hàng này. Đối với công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đã có vị trí là một trong những mặt hàng chủ lực của công ty ngay từ đầu mới thành lập. Trong những năm qua công ty đã xuất khẩu được một lượng hàng lớn, thu về cho công ty một lượng hàng đáng kể, góp phần tăng thu nhập của công ty. Trải qua một thời gian thành lập, tồn tại và hoạt động với những bước thăng trầm. Năm 1997, công ty tiếp tục duy trì được sự phát triển của mình. Các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ của công ty giờ đây đạt chất lượng cao và bạn hàng đánh giá tốt, có thể tiêu thụ mạnh ngay trên thị trường được coi là "khó tính". Được khích lệ và tạo đà của doanh thu năm 1997, năm 1998 doanh thu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đạt 926.963,9 USD tăng 31,4% so với năm 1997. Trong năm này, công ty còn mở rộng thêm một số khách hàng quan trọng đặc biệt là Đức và Pháp. Các sản phẩm xuất khẩu chính là khăn bàn, ga gối, khăn tay, áo kimônô… Năm 1999 là năm đầu tiên sau năm 1993, công ty đạt doanh thu hàng thủ công mỹ nghệ tính đến con số triệu đô la (USD) với 1.381.296,56 USD chiếm 29,86 tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đạt được kết quả này có sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của mỗi cán bộ công nhân viên trong công ty. Hàng sản xuất ra có chữ "tín" cao, chất lượng hàng được nâng cao một bậc, mẫu mã đa dạng, phong phú phù hợp với các yêu cầu của thị trường nhờ vậy các thị trường quan trọng của công ty đều đạt doanh số cao. Năm 2000 và năm 2001, công ty tiếp tục giữ mức tăng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ với doanh thu năm là 5.263.947 USD và năm 2001 là 5.984.368 USD. Tuy nhiên phải đánh giá khách quan rằng trong 2 năm này, công ty gặp khá nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của suy thoái, khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới. Doanh thu năm 2000 dù có đạt hơn 5,9 triệu USD nhưng chủ yếu là do công ty đã ký kết hợp đồng với một khách hàng Châu á hợp đồng này gia công trị giá 1,2 triệu USD, trong khi đó doanh thu ở các thị trường khác lại giảm sút. Năm 2001 công ty đã "cải tạo thị trường", củng có quan hệ với các thị trường, các khách hàng quan trọng nên luôn ký được nhiều hợp đồng có giá trị lớn. Về mặt hàng xuất khẩu trong 2 năm này không có nhiều thay đổi, các sản phẩm xuất khẩu chính vẫn là những sản phẩm mà công ty có thế mạnh: ga gối, ga phủ giường, chăn đệm, khăn bàn, rèm cửa… Bảng kết quả kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEX Thăng Long trong các năm qua. Năm 1998 1999 2000 2001 Tổng doanh thu (USD) 3.0044286,65 4.579.794,84 5.286.834 5.947.634 Theo kết quả báo cáo hàng năm của công ty ARTEX Thăng Long Năm 2001 vừa qua, công ty đã duy trì và phát triển thế mạnh của mình để đạt được tổng kim ngạch là 5.947.634 USD trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng thêu đạt 2.253.396 USD chiếm tỷ trọng khoảng 57,25% tổng doanh thu. Như vậy, đánh giá tổng kết 4 năm hoạt động của công ty cho thấy tuy còn những gập ghềnh nhưng con đường phát triển đi lên của công ty là chắc chắn. 3. Thị trường xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của công ty. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay có mặt trên 50 nước và lãnh thổ ở khắp các châu lục của thế giới. Thị trường xuất khẩu loại hàng hoá này trong mấy chục năm qua có những giai đoạn thăng trầm, có khi thuận lợi có khi khó khăn, nhưng nhìn chung trong những năm gần đây đã có chiều hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở được nhiều thị trường mới theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào các thị trường trên thế giới. Đơn vi : Nghìn USD Năm Thị trường 1999 2000 2001 Đức 300 320 607 Hà Lan 1.023 1.600 618 Anh 210 105 328 Nhật 265 650 1210 Đài Loan 780 1.300 1.500 Hồng Kông 172 628 810 Tổng 2750 4603 5073 Nguồn: Phòng tài chính – kế hoạch công ty ARTEX Thăng Long 3.1. Thị trường các nước Tây Âu, Bắc Âu. Thị trường EU khu vực thị trường rộng lớn. Xuất khẩu của công ty sang khu vực thị trường nảytong những năm gần đât tăng khá nhanh, hiện nay chiến tỷ trọng gần 1/4 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đây cũng là khu vực thị trường công ty xuất được nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ và có nhiều triển vọng mở rộng và đẩy mạnh tiêu thụ một số loại hàng hoá công ty có khả năng phát triển. Sản phẩm gỗ của công ty hiện nay đang thâm nhập rất tốt vào thị trường EU, thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới, là một trong các thị trường trọng điểm của đồ gỗ chế biến tại Việt Nam. Hàng gốm, sứ mỹ nghệ và hàng thêu ren cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang khu vực thị trường này. Thông qua hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đức, một số công ty của ta đã thành đạt trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Có thương nhân người nước ngoài đã chuyển toàn bộ đơn hàng đồ gốm sứ từ các nước xung quanh ta để tập trung đặt hàng tại Việt Nam và hứa hẹn giúp đầu tư mở rỗng sản xuất tăng lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên gấp 2-3 lần so với hiện nay. Thức tế đã chứng minh nếu phát hiện, và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường và có giải pháp thích hợp để đáp ứng thì mở rộng được thị trường tiêu thụ, phát triển được sản xuất, tạo được việc làm và thu nhập cho người lao động. Trong khu vức thị trường này, một số nước có nhập hàng thủ công mỹ nghệ của công ty trong đó có một số thị trường nhập khẩu tương đối lớn. Theo số liệu năm 2001, ta xuất sang Đức 607 nghìn USD, Hà Lan 618 nghìn USD, Anh 328 nghìn USD… hàng thủ công mỹ nghệ. 3.2. Thị trường Nga, các nước SNG và Đông Âu. Đây là khu vực thị trường rộng lớn, đã từng một thời trên 30 năm là thị trường chủ yếu tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch năm cao nhất đã đạt tới con số gần 20 triệu rúp. Từ sau những năm 1990, tại khu vực thị trường này có những biến đổi lớn mang tính đảo lộn về chính trị và kinh tế gây kho khăn lớn cho việc xuất khẩu những loại hàng hoá này của ta. Nhưng trong vài năm gần đây do cố gắng chung của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, hàng xuất khẩu của công ty trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ đã từng bước khôi phục. Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về nhiều loại hàng xuất khẩu của ta, nếu xét thị trường theo từng bước ( không theo nhu cầu thị trường) thì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta từ năm 1991 đến nay. Thị trường trường này có nhu cầu lớn về hàng gốm sứ, nhập khẩu tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 1996 Nhật nhập khẩu đồ gỗ tăng tới 40% so với năm 1995, đạt giá trị gần 800 triệu USD và nhập khẩu đồ sứ tăng 12% đạt gần 200 triệu USD. Tuy nhiên, thị phần của ta ở đó còn rất nhỏ, theo đánh giá của cơ quan thương vụ, kim ngạch xuất khẩu loại hàng này của ta vào đây chỉ khoảng5 triẹu USD/năm. 4. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của công ty. 4.1. Ưu điểm của công ty. Mặc dù còn gặp nhiều kho khăn trở ngại nhưng đã có cố gắng lớn để trụ vững, ổn định và tạo hướng đi lên nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó công ty đã tích cực khai thác thị trường, chủ động tìm nguồn hàng, tìm khách hàng trong nước và ngoài nước. Biết chấp nhận những khoản chi phí hợp lý để trả công cho người môi giới hợp đồng, tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của Uỷ ban khoa học Nhà nước, Bộ thương mại, Sở thương mại Hà nội để nhận được hạn ngạch xuất khẩu, tích cực tìm đầu mối nhận uỷ thác xuất khẩu … Mặt khác, để giữ uy tín công ty còn xem xét, giải quyết nhanh tróng các khiếu nại của bạn hàng về hàng xuất khẩu, đồng thời rút kinh nghiệm cho mình. Khi thị trường chính của công ty bị thu hẹp do biến động về chính trị ở các nước đó và các điều kiện khách quan khác, công ty đã phát huy được tính tự chủ trong kinh doanh, năng động sáng tạo trong việc mở rộng mối quan hệ của mình với khách hàng ở các nước Phương Tây và một số nước khác trong khu vực. Sản phẩm của công ty đã được khách hàng ở thị trường này chấp nhận, uy tín của công ty ngày càng được nâng cao. Do vậy, owr thời điểm khó khăn nhất, thị trường của công ty không những không bị thu hẹp mà còn được mở rộng, điều này đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì tốt các hoạt động kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó công ty vẫn duy trì và củng cố mối quan hệ sẵn có với những nước là khách hàng truyền thống của mình ở thị trường chính trước kia (Liên Xô, Đông Âu) là nơi mà công ty đã từng ký được những hợp đồng có giá trị cao, nhằm chờ cơ hội quay lại chiếm lĩnh thị trường, và thực tế là công ty đã đạt được điều đó, thể hiện qua số liệu kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này những năm gần đây. Đối với ngành hàng, công ty đã chọn được một chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng loại thị trường, sản phẩm ngày càng được đa dạng hoá, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, kể cả những khách hàng khó tính nhất. Việc mở rộng thị trường sang các nước EU đã làm tăng đáng kể số lượng các mặt hàng xuất khẩu như thêu ren. Khách hàng đến với công ty ngày càng đông, kể cả trong nước lẫn ngoài nước, đặc biệt là khách hàng Tây Âu. Điều này chứng tỏ uy tín của công ty ngày càng được củng cố và công ty đã tạo được niềm tin với khách hàng. Với đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu giầu kinh nghiệm, giỏi nghiệp vụ, công ty đã sử dụng một cách linh hoạt các hình thức xuất khẩu. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng đúng thời hạn, hàng hoá được đảm bảo chất lượng. Trước khi ký kết hợp đồng công ty luôn chú trọng đến công tác nghiên cứu nguồn hàng để đảm bảo được lượng hàng xuất khẩu, tránh tình trạng thiếu hụt dẫn đến vi phạm hợp đồng hay dư thừa gây nên tình trạng ứ đọng vốn. Vì vậy, số lượng hợp đồng ký kết đạt tỷ lệ hoàn thành cao, ít hợp đồng không thực hiện được do thiếu hàng hay hàng hoá bị trả lại do vi phạm điều khoản chất lượng. Đây là một cố gắng rất lớn của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Việc áp dụng linh hoạt các hình thức thanh toán trong kinh doanh cũng là một ưu điểm của công ty. Cùng với việc thâm nhập thị trường mới là chính sách giữ vững thị trường truyền thống, vì thế thị trường tiêu thụ của công ty ngày càng được mở rộng. Với những bạn hàng khác nhau công ty đã áp dụng những hình thức thanh toán khác nhau như chuyển tiền, tín dụng chứng từ (L/C), phương thức nhơ thu phiếu trơn, nhờ thu kèm chứng từ (DA; DP). Việc áp dụng linh hoạt các phương thức thanh toán không những đã tạo điều kiện cho bạn hàng thực hiện hợp đồng, giúp công ty bảo đảm được hiệu quả kinh doanh mà còn thể hiện thiện chí của công ty: tin cậy bạn hàng, muốn hợp tác làm ăn lâu dài với bạn hàng ( như phương thức chuyển tiền nhờ thu phiếu trơn). Để đạt được kết quả như vậy, công ty ARTEX Thăng Long đã phải trải qua một thời gian dài phấn đấu với sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty. Bên cạnh đó phải kể đến những thuận lợi cả chủ quan lẫn khách quan trong hoạt động của công ty-yếu tố góp phần không nhỏ vào thành công của công ty. 4.2. Những tồn tại và khó khăn của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Bên cạnh những ưu điểm, công ty còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Những hạn chế này chính là nguyên nhân giảm tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của công ty. Về mặt hàng: Tuy đã có nhiều chiến lược đúng đắn đó là đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh trên cơ sở tập trung vào một số mặt hàng mũi nhọn nhưng qua trình thực hiện và hiệu quả đạt được chưa cao. Về thị trường: Công ty đã mở rộng được thị trường xuất khẩu, tìm kiếm được rất nhiều thị trường mới nhưng lại chưa quan tâm đúng mức đến củng cố và phát triển thị trường hiện có. Làm cho một số thị trường truyền thống bị mai một dần đi như Hungary, Tiệp Khắc… Về hình thức xuất khẩu: Đã coi trọng hình thức xuất khẩu trực tiếp nhưng tỷ trọng loại hình xuất khẩu này còn thấp. Ngoài ra công ty chưa có biện pháp để khai thác hiệu quả hình thức xuất khẩu tại chỗ. Đây là một sai sót lớn trong hoạt động kinh doanh của công ty. Công tác liên doanh, liên kết: Công ty chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực liên doanh, liên kết, vì vậy một số liên doanh của công ty khi hình thành và hoạt động không mang lại hiệu quả, gây nên tình trạng lỗ, ứ đọng vốn. Số hợp đồng hoàn thành chưa đạt tỷ lệ tuyệt đối. Mặc dù công ty đã có cố gắng lớn trong việc trong việc thực hiện hợp đồng nhưng lại chưa quan tâm đúng mức đến các yếu tố khách quan cản trở việc thực hiện hợp đồng để tìm biện pháp khắc phục do đó nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ gây thiệt hại cho công ty, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chung. Nguyên nhân khách quan. Sự biến động về kinh tế và chính trị thế giới cũng như trong nước đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. ở trong nước sẽ làm cản trở đến việc sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu của công ty, ảnh hưởng đến các vấn đề đối nội. Trên thị trường quốc tế sẽ làm cho thị phần của công ty giảm sút, gây kho khăn cho việc thâm nhập thị trường mới. Do tác động của cơ chế thị trường những năm đầu vào ngành nghề truyền thống đã làm cho các làng nghề thủ công mỹ nghệ bị mai một, nhiều nơi phải giải thể hoặc chuyển hướng thành nghề phụ do sản phẩm không có thị trường tiêu thụ. Vì vậy đã gây khó khăn cho công ty trong việc huy động hàng xuất khẩu và đảm bảo chất lượng hàng. Thêm vào đó, do khai thác bừa bãi các vùng nguyên liệu khiến cho các cơ sở phải nhậpnguyên liệu đầu vào làm cho việc xuất khẩu bị phân tán và giá thành cao. Nguyên nhân xuất phát từ phía công ty. Trước hết là công ty phải hoạt động trong điều kiện eo hẹp về vốn, điều này đã cản trở rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của công ty. Nếu như có đủ vốn, công ty có khả năng mở rộng liên doanh, liên kết, đầu tư máy móc, phương tiện hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực để sản xuất hàng xuất khẩu hay ứng trước vốn cho các đơn vị sản xuất để chủ động trong huy động hàng xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay nằm ngoài khả năng của công ty nên công tác thu gom hàng xuất khẩu thường bị động, thiếu đồng bộ, nhiều khi còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng “tranh mua, tranh bán” của các công ty khác. Điều này giải tại sao một số hợp đồng công ty không hoàn thành do thiếu hàng hay hàng hoá bị trả lại do không đúng với yêu cầu của hợp đồng. Công tác nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng, vì thế chưa đóng góp được dung lượng của thị trường nước ngoài, nhu cầu của khách hàngvf khả năng thanh toán của họ, do đó đáp ứng thị trường nước ngoài nhiều khi bị động. Công ty chỉ chú trọng thâm nhập thị trường mà không thâm nhập sâu, đánh giá kỹ từng khu vực thị trường, do vậy nhiều thị phần đã bị mất. Mặc dù nhu cầu sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ là rất lớn, song nó không phải là mặt hang thiết yếu. Đời sống của nhân dân ngày càng cao, người dân càng kho tính trong việc lựa chọn mặt hang này, đòi hỏi phải đa dạng về chủng loại, phong phú về mầu sắc, đặc biệt là phải có những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Trước những yêu cầu đó, công ty vẫn chưa đáp ứng được, mà nguyên nhân chủ yếu là công ty chưa chủ động đưa ra các biện pháp Marketing cần thiết để tìm hiểu nhu cầu như quảng cáo, tham gia hội trợ triển lãm… và chưa sáng tạo trong sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty ARTEX Thăng Long. I. Phương hướng và mục tiêu của công ty trong thời gian tới. Trải qua bao khó khăn và cũng thu được những thành công đáng kể, trong những năm qua công ty ARTEX Thăng Long đã không ngừng tự hoàn thiện và phát triển mình, đó chính là nhờ sự nỗ lực vượt bậc của toàn thể công nhân viên trong công ty và đã hoàn thành khá tôt các chỉ tiêu và kế hoạch đề ra. Trong năm 2002 và những năm tiếp theo để có thể giữ vững những thành quả đã đạt được và phát triển hơn nữa công ty đã căn cứ vào tình hình khách quan bên ngoài và tình hình cụ thể của mình đã đề ra một số phương hướng cụ thể sau: Về thu nhập của công nhân viên: Ngoài phần lương mà Nhà nước quy định công ty sẽ có những khoản thù lao khác để tăng thu nhập của công nhân viên, giúp họ có thể yên tâm cống hiến cho công ty. Về nhân sự: Công ty sẽ tuyển thêm những nhân viên mới có năng lực thực sự, đào tạo và đào tạo lại các nhân viên cũ của công ty, giúp họ tăng khả năng chuyên môn của mình để giúp công ty đi lên. Về nguồn vốn: Ngoài việc bào toàn nguồn vốn sẵn có công ty sẽ tìm mọi cách tăng nguồn vốn kinh doanh để phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, cơ cấu nguồn vốn cho hợp lý hơn. Về thị trường: Ngoài việc giữ vững thị trường cũ, công ty sẽ tăng cường các hoạt động để tìm kiếm các thị trường mới, xác định rõ đâu là thị trường mục tiêu. Về mặt hàng: Công ty sẽ đa dạng các mặt hàng xuất khẩu, thay đổi cơ cấu mặt hàng cho phù hợp với từng thị trường. Nâng cao chất lượng hàng hoá không chỉ ở khâu tiêu thụ mà công ty sẽ có chiến lược hỗ trợ các nhà sản xuất, hạ giá thành sản xuất xuống mức có thể. Về đối ngoại: Công ty sẽ đề ra các chiến lược quảng cáo để các đối tác biết về mình, xây dựng hệ thống thương mại điện tử để có thể tiếp cận được với tất cả các đối tác trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới. I. Giải pháp về phía doanh nghiệp. 1. Tăng cường nghiên cứu thị trường và công tác tiếp thị. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó cho phép đánh giá quy mô và tiềm năng thị trường xuất khẩu và là cơ sở để lựa chọn thị trường đó, có nghĩa là lựa chọn đối tượng giao dịch, phương htức kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Nghiên cứu thị trường để tìm thị trường cho các hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian và nguồn tài lực hạn chế. Để thực hiện tốt vấn đề này, doanh nghiệp cần có phòng điều tra nghiên cứu thị trường tổng hợp tập hợp và sử lý thông tin để đưa ra định hướng sản xuất cũng như quyết định kinh doanh kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao. Muốn tổ chức hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường có hiệu quả doanh nghiệp cần phải chú ý 3 vấn đề sau: Nghiên cứu thị trường ngoại thương của các quốc gia: Xác định và dự báo nhu cầu biến động hàng hoá trên thị trường thế giới. Thông tin giá cả và phân tích cơ cấu các loại giá quốc tế. 1.1. Đẩy mạnh thâm nhập thị trường. Khi công ty đã lựa chọn được một số thị trường nước ngoài làm mục tiêu mở rộng của mình, công ty phải tìm được phương thức tốt nhất để thâm nhập vào thị trường đó. Chiến lược thâm nhập vào thị trường nước ngoài phải được xem như một kế hoạch toàn diện. Nó đặt ra cho công ty những mục tiêu, biện pháp và chính sách để hướng dẫn hoạt động của công ty trong một thời gian dài. 1.2. Lựa chọn thị trường trọng điểm. Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu của từng thị trường trên từng khu vực, công ty đã biết được các yếu tố liên quan đến tiêu dùng của dân cư trên các thị trường đó, công ty nên tiến xem xét kỹ các thị trường và tuỳ thuộc vào điều kiện của mình để chọn ra các thị trường trọng điểm và tiến hành thâm nhập sâu vào một thị trường trọng điểm sẽ giúp công ty khai thác được tối đa hiệu quả của các thị trường đó đồng thời có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Lựa chọn thị trường trọng điểm công ty sẽ tiến hành thâm nhập sâu vào thị trường này với mức độ rủi ro thấp nhất và điều này có nghĩa là thị phần của công ty ở thị trường này gần như chắc chắn nếu công ty biết khai thác tốt. 2. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh. Có câu “biết người biết ta trăm trận trăm thắng” vì vậy muốn đưa ra được đường lối đúng đắn để phát triển, công ty ARTEX Thăng Long cũng cần phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để xác định được điểm mạnh, điểm yếu của họ, từ đó có chiến lượng phù hợp cho mình. Đối thủ cạnh tranh của công ty có rất nhiều, cả trong nước và nước ngoài. Trong nước có các công ty như TOCOTAP, VIHATEX… nhưng đặc biệt là các đối thủ nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan… 3. Đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Trước tình hình hiện nay, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì phải đa dạng hoá thị trường vì vậy doanh nghiệp cần phải cung cấp nhiều loại sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của từng quốc gia nhập khẩu. Trên cơ sở những thông tin thu thập được và kết quả thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, doanh nghiệp cần phải cải tiến mẫu mã sản phẩm của mình sát với nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường trong từng thời gian nhất định. Một mặt, doanh nghiệp cần chủ động có thể trực tiếp hoặc thông qua cơ quan thương vụ để hợp tác hoặc thuê Việt kiều ở nước sở tại, mời hoặc thuê chuyên gia của khách mua hàng thiết kế mẫu mã phù hợp với sở thích, thị hiếu ở từng nơi. Chất lượng sản phẩm nâng cao chữ tín của người kinh doanh phải chú trọng coi chất lượng là vấn đề then chốt. Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay còn hạn chế do việc tổ chức sản xuất, chế biến, xuất khẩu phân tán nhiều đầu mối, thiếu quy định cụ thể về chất lượng, người sản xuất chế biến không theo tiêu chuẩn thống nhất. Trước tình hình như vậy doanh nghiệp phải có một cơ chế chọn mẫu thật chặt chẽ đối với các sản phẩm sản xuất xuất khẩu. Tổ chức sản xuất kinh doanh bảo đảm chất lượng hàng hoá và thời gian giao hàng đúng theo hợp đồng đã cam kết vừa nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ mua bán quốc tế vừa là cách tốt nhất để duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Kết luận Trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng là một cơ hội cũng là một thách thức rất lớn đối với công ty ARTEX Thăng Long. Những kết quả trong thời gian qua dù chưa đạt được hoàn toàn các mục tiêu đề ra nhưng điều đó đã thể hiện sự nỗ lực không ngừng của tập thể ban lãnh đạo và nhân viên trong công ty. Điều kiện kinh doanh trên thế giới và ngay cả trong nước hiện nay cũng luôn luôn biến đổi đòi hỏi doanh nghiệp phải thật tỉnh táo, có những quyết định đúng đắn để bắt kịp những thay đổi đó, hướng doanh nghiệp theo đúng con đường đã lựa chọn, vừa đảm bảo lợi ích doanh nghiệp vừa xây dựng đất nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đem lại nhiều triệu USD cho Nhà nước. Vì vậy, việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu cũng phải được nhà nước quan tâm đúng mức. Mỗi chính sách, biện pháp thường chỉ phù hợp với từng khoảng thời gian nhất định, từng đối tượng nhất định nên việc dự báo tình hình bắt kịp với thực tế để có những thay đổi thích hợp luôn đòi hỏi những người làm chính sách phải có trình độ chuên môn cao, nhạy bén và sáng suốt. Tuy hạn hẹp về nguồn tài liệu, thời gian cũng như kinh nghiệm thực tế nhưng với sự giúp đỡ và hướng dẫn tân tình tư nhiều phía, bài chuyên đề này tìm hiểu về tình hình hoạt đông kinh doanh xuất khẩu tại công ty ARTEX Thăng Long, có liên hệ thực trạng tình hình xuất khẩu của Việt Nam nói chung và kinh nghiệm xuất khẩu của một số nước, từ đó đưa ra những giải pháp với hy vọng phần nào góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty. Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế (chủ biên PGS. PTS Nguyễn Duy Bột). Giáo trình quản trị kinh doanh quốc tế (chủ biên PGS. PTS Trần Chí Thanh). Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (NXB Giáo dục). Luật thương mại (1996) Marketing can bản (NXB Thống kê). Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty ARTEX Thăng Long. Niên giám thống kê 1998 – NXB Thống kê 1999. Niên giám Chính phủ 1998 – NXB Chính trị quốc gia, 1999. Giáo trình kinh tế ngoại thương (Bùi Xuân Lưu – NXB Giáo dục 1997). Hệ thống chính sách nước Cộng hoà xã hội chủ nghịa Việt Nam. Chính sách thương mại, đầu tư và phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam (chủ biên Võ Đại Lược – NXB Khoa học xã hội). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020 (Báo cáo của Bộ thương mại trình Thủ tướng Chính phủ). Báo, tạp chí thương mại. Thời báo tài chính Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Báo diễn đàn doanh nghiệp. 17.Luật khuyến khích đầu tư trong nước và văn bản hướng dẫn thi hành (NXB Chính trị quốc gia 1999). Và một số tài liệu khác. Nhận xét của đơn vị thực tập .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... Nhận xét của giáo viên hướng dẫn .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I- Những vấn đề cơ bản về xuất nhập khẩu 3 I- Xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 3 1.Khái niệm trung về xuất khẩu 3 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thi trường 3 3.Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 5 II- Các hình thức xuất khẩu và phương tiện, phương thức thanh toán 7 1.Các hình thức xuất khẩu 7 2.Các phương thức và phương tiện thanh toán 9 III- Nội dung của hoạt động xuất khẩu 10 1.Nghiên cứu tiếp cận thi trường và lập phương án kinh doanh 10 2.Nội dung chủ yếu trong nghiệp vụ xuất khẩu hàng hoá 13 Chương II- Tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty artex Thăng Long 17 I- Quá trình hình thành và phát triển cảu công ty 17 1. Sự ra đời của công ty 18 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty 18 II. Cơ cấu tổ chức của công ty 18 III- Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long 19 Kim nghạch xuất khẩu của công ty từ năm 1998 – 2001 19 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty 20 Thị trường xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của công ty 22 4- Đánh giá hoạt động xuất khẩu của công ty 23 Chương III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đấy hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty ARTEX Thăng Long 27 I- Phương hướng và mục tiêu của công ty trong thời gian tới 27 II- Giải pháp về phía doanh nghiệp 27 1. Tăng cường nghiên cứu thị trường và công tác tiếp thị 27 2. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh 28 Kết luận 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100393.doc