Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An: Lời mở đầu Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới và phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá đang đặt ra những yêu cầu bức xúc cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Đặc biệt với điều kiện và đặc điểm nền kinh tế nước ta với 80% dân cư sống ở nông thôn, có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp cho nên phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn giữ một vai trò quan trọng trong những năm tới. Thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý kinh tế, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực, nổi bật nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành quả to lớn, có những bước tiến vững chắc song vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn đang là vấn đề nan giải cần được quan tâm đúng mức, nhiều vùng nông thôn ở nước ta còn phát triển thấp kém, lạc hậu trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, đưa nông nghiệ...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới và phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá đang đặt ra những yêu cầu bức xúc cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Đặc biệt với điều kiện và đặc điểm nền kinh tế nước ta với 80% dân cư sống ở nông thôn, có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp cho nên phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn giữ một vai trò quan trọng trong những năm tới. Thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý kinh tế, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực, nổi bật nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành quả to lớn, có những bước tiến vững chắc song vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn đang là vấn đề nan giải cần được quan tâm đúng mức, nhiều vùng nông thôn ở nước ta còn phát triển thấp kém, lạc hậu trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, đưa nông nghiệp nông thôn Việt Nam có được một thế đứng nhất định trong nền kinh tế quốc dân và có sự phát triển ổn định nhằm góp phần đắc lực cho sự phát triển đất nước, thì vấn đề cần quan tâm trước hết là ngân sách xã (NSX). Bởi vì ở nông thôn NSX chiếm giữ vị trí vai trò rất quan trọng và to lớn. Xuất phát từ xã là một đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn do đó chính quyền xã là đại diện trực tiếp của nhà nước giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, thực hiện những nhiệm vụ về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác, NSX có vai trò cung cấp phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của chính quyền xã - cấp chính quyền cơ sở, đồng thời là một công cụ để chính quyền cấp xã thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội trên địa bàn xã. Cho nên chính quyền xã muốn thực thi hiệu quả được những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước giao cho, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế địa phương trên các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp nông thôn tại địa bàn thì cần có một NSX đủ mạnh và phù hợp là một đòi hỏi thiết thực, là một mục tiêu phấn đấu đối với cấp xã. Vì thế hơn bao giờ hết hoàn thiện trong đổi mới công tác quản lý NSX là một nhiệm vụ luôn được quan tâm. Xuất phát từ những vấn đề này, trong thời gian thực tập tại phòng tài chính – kế hoạch huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, với những kiến thức đã đựơc tiếp thu ở nhà trường cùng với sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo cô giáo đặc biệt là cô giáo Hoàng Thị Thuý Nguyệt cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng tài chính – kế hoạch đã hướng dẫn em tập trung tìm hiểu và phân tích tình hình quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An với đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An”. Mục đích của đề tài là thông qua nghiên cứu tình hình quản lý NSX trên địa bàn huyện nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực góp phần củng cố tăng cường công tác quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn được tốt hơn. Đề tài được trình bày theo nội dung sau: Chương 1: Ngân sách xã và những vấn đề chung về ngân sách xã. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong thời gian qua. Chương 3:Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã theo luật ngân sách trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong những năm tới. Với kiến thức của một sinh viên về lý luận và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót khi nhìn nhận đánh giá các vấn đề. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ tài chính và các bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương 1: Ngân sách xã và những vấn đề chung về ngân sách xã. 1.1.Những vấn đề chung về NSX. 1.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của NSX. Trong tiến trình lịch sử, NSNN nói chung và Ngân sách xã nói riêng đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Ngân sách xã ra đời , tồn tại và phát triển dựa trên cơ sở hai tiền đề là “làng xã” và quỹ làng. Trong lịch sử việt Nam, làng xã bắt đầu từ rất sớm. Vào thời triều đại nhà Đường thống trị nước ta ( thế kỷ 7) tổng quản Khâu Hoàn là người đầu tiên đặt định cấp xã. Đất An Nam ngày ấy có 12 châu, 59 huyện dưới huyện là Hương và xã. Đến buổi đầu kỷ nguyên tự chủ ( đầu thế kỷ 10) nhà cải cách Khúc Hạo đã chia cả nước thành các đơn vị hành chính gồm các cấp: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. “Giáp” chính là hương ngày trước. Mỗi “giáp” có một quản giáp và một phó chi giáp để trông nom việc chi thuế. Còn mỗi xã thì đặt xã quan gồm một chánh lệnh trưởng và một tá lệnh trưởng. Sang thời Trần thế kỷ (12-14), triều đình ra lệnh phân bổ các chức”Đại tư xã và tiểu tư xã”, cùng với các “ Xã Trưởng”, “Xã giám”chịu trách nhiệm hộ khẩu, đôn đốc binh dịch, thuế khoá. Trong bảng “Hương ước” của làng phú thôn, tổng phú lão, huyện vụ bản, tỉnh Nam Định ngày trước có ghi: “nước có thuế của nước như thuế đinh, điền, môn bài, để chi công việc công ích trong nước. Dân phải đóng thuế ở dân như: Thuế trâu bò, ngựa, nhà cữa để lo việc công cho dân” (trong câu văn cổ này thuật ngữ và khái niệm “dân” chính là trùng với làng xã). Có thể coi đây là một “tuyên ngôn” cho sự ra đời và tồn tại Ngân sách xã trong xã hội và văn minh làng xã ngày xưa, với ly do: Làng xã là một đơn vị có tính tự tồn tại – tự trị – tự quản cao, nên cũng cần có quỹ làng để chi tiêu trong các công việc làng xã.Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân sách xã là hiển nhiên và thành một tất yếu khách quan. Trải qua các hình thái khác nhau trong tiến trình lịch sữ, ta đã thấy được vai trò quan trọng của Ngân sách xã. Và trong những năm (1946-1954); (1955-1975) của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Ngân sách xã đã trở thành, phương tiện vật chất có tác dụng to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong cuộc kháng chiến chống pháp các khoản chi tiêu của Ngân sách xã nhằm đài thọ cho các biện pháp xã hội trong phạm vi xã và đảm bảo kinh phí cho du kích xã. Ngân sách xã cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong những năm dài(19955-1975) của cuộc đấu tranh giảiphóng miền nam khỏi ách chiếm đóng của bọn xâm lược Mỹ. Ngày mồng 8 tháng 4 năm 1972 điều lệ Ngân sách xã được ban hành, từ đó Ngân sách xã được quản lý theo luật lệ thông nhất của nhà nước. Ngân sách xã lúc này đã trỡ thành công cụ thực sự để góp phần huy động tài lực, vật lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được bắt đầu trên quy mô toàn quốc, theo kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980). Cuối năm 1983 Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ) nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩ Việt Nam đã có quyết định hoàn thiện cơ cấu hệ thống ngân sách và phân cấp Ngân sách, Ngân sách xã lúc này đã là khâu độc lập trong hệ thông thống nhất chung với hệ thống Ngân sách nhà nước gồm bốn cấp: Trung ương- tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) – huyện( quận, thị xã) - xã( phường , thị trấn). Để đáp ứng yêu cầu quản lý NSNN nói chung và Ngân sách xã nói riêng, quốc hội đã ban hành luật NSNN ngày 20-3-1996. Luật NSNN đã khẵng định Ngân sách xã là một trong bốn cấp ngân sách mang tính độc lập, là một bộ phận của Ngân sách nhà nước, nó là phương tiện vật chất để chính quyền cấp xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do pháp luật qui định. Sự ra đời của luật Ngân sách, Nghị định của Chính Phủ, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính là căn cứ pháp lý đáp ứng cho yêu cầu quản lý NSNN nói chung và NSX nói riêng. Đặc biệt là thông tư số 60/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc quản lý NSX một cách cụ thể,bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý NSX hiện nay. 1.1.2. Khái niệm,nội dung thu chi của NSX. 1.1.2.1. Khái niệm: NSX là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý. - NSX là một loại quỹ tiền tệ của cơ quan chính quyền Nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Huy động nguồn thu vào quỹ (gọi tắt là thu NSX) và phân phối, sử dụng các khoản vốn quỹ đó (gọi tắt là chi NSX). - Hoạt động thu, chi của NSX luôn gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền xã đã được phân công, phân cấp; đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã. Chính vì vậy, các chỉ tiêu thu, chi của NSX luôn mang tính pháp lý. - Các quan hệ thu, chi NSX rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc số chi theo từng hình thức chỉ có thể được thực thi một khi nó đã được ghi vào dự toán và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 1.1.2.2. Nội dung thu chi của NSX. Nguồn thu của NSX do Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định phân cấp trong phạm vi nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng. Nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được hình thành trên cơ sở tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm vụ về quản lý kinh tế, xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp thực hiện. Đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế, xã hội với sự phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách. Và trên một phương diện nhất định, căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được phân giao, người ta có thể coi đó là nội dung của NSX. Theo thông tư số 60/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính ra ngày 23/06/2003 về việc quy định quản lý NSX và các hoạt động tài chính ở xã, phường, thị trấn thì nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được quy định như sau: 1.1.2.1.1 Nguồn thu của Ngân sách xã. * Các khoản thu 100%: Các khoản thu NSX hưởng một trăm phần trăm là các khoản thu dành cho xã sữ dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên, đầu tư phát triển. Căn cứ vào nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế – xã hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các khoản thu, chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu, HĐND cấp tỉnh xem xét dành cho NSX hưởng 100% các khoản thu dưới đây: - Các khoản phí, lệ phí thu vào NSX theo quy định. - Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã, phần nộp vào NSNN theo chế độ quy định. - Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác theo quy định của pháp luật do xã quản lý. - Các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: các khoản huy động đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý và các khoản đóng góp tự nguyện khác. - Viện trợ không hoàn lại của các cá nhân và tổ chức ở ngoài nước trực tiếp cho NSX theo chế độ quy định. - Thu kết dư Ngân sách xã năm trước. - Các khoản thu khác của NSX theo quy định của pháp luật. * Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách xã với ngân sách cấp trên: Theo quy định của luật Ngân sách Nhà Nước thì các khoản này gồm: - Thuế chuyển quyền sử dụng đất. - Thuế nhà đất. - Thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh . - Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình. - Lệ phí trước bạ nhà đất. Các khoản thu trên tỷ lệ NSX được hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã, thị trấn . HĐND cấp tỉnh có thể quy định tỷ lệ Ngân sách xã, thị trấn được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100%. Ngoài các khoản thu phân chia như trên NSX còn được HĐND các cấp tính bổ sung thêm các nguồn thu phân chia sau khi các khoản thuế, phí, lệ phí phân chia theo luật ngân sách nhà nước đã dành 100% cho NSX và các khoản thu NSX được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối đựơc nhiệm vụ chi. * Thu bổ sung từ ngân sách cấp trêncho ngân sách xã. Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã gồm: -Thu bổ sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp (gồm các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ). Số bổ sung cân đối này được xác định từ đầu thời kỳ ổn định ngân sách và được giao từ 3 đền 5 năm. -Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể. 1.1.2.2.2. Nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã. Chi của Ngân sách gồm: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX. Căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý Kinh tế – Xã hội của nhà nước, các chính sách chế độ về hoạt động của các cơ quan nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã khi phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX, HĐND tỉnh xem xét giao cho NSX thực hiện các nhiệm vụ thu chi dưới đây. * Chi thường xuyên: Chi cho hoạt động của các cơ quan nhà nước ở xã: - Tiền lương, tiền công của cán bộ công chức cấp xã. - Sinh hoạt phí đại biểu hội đồng nhân dân. - Các khoản phụ cấp khác theo quy định của nhà nước. - Công tác phí. - Chi về các hoạt động văn phòng như: chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết… - Chi mua sắm sữa, chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc. - Chi khác theo chế độ quy định. Kinh phí hoạt động của các cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam ở xã. Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã - hội ở xã( Mặt trân tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam). Sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác( nếu có). Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ xã và các đối tượng khác theo chế độ quy định. Chi cho công tác dân quân tự vệ, trật tự, an toàn xã hội: - Chi huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của NSX theo quy định của pháp lệnh về dân quân tự vệ. - Chi thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm vụ chi của NSX theo quy định của pháp luật. - Chi tuyên truyền, vận động tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. - Các khoản chi khác theo chế độ quy định. Chi cho công tác xã hội và các hoạt động văn hoá, thông tin , thể duc thể thao do xã quản lý: -Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã việc theo chế độ quy định ( không kể cả trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã nghĩ việc và trợ cấp thôi việc một lần cho cán bộ xã nghỉ việc từ ngày 01/01/1998 trở về sau do tổ chức bảo hiểm xã hội chi ), chi thăm hỏi các gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác. Chi cho hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, truyền thanh do xã quản lý. Chi sự nghiệp giáo dục: hỗ trợ các lớp học bổ túc văn hoá, trợ cấp nhà trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp cho giáo viên và cô nuôi dạy trẻ do xã quản lý. Chi cho sự nghiệp y tế: Hỗ trợ chi thuờng xuyên và mua sắm các khoản trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh của trạm y tế xã. Chi sữa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình kết cấu hạ tầng do xã quản lý như: Trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao, cầu, đường giao thông, công trình cấp thoát nước công cộng… Hỗ trợ khuyến khích phát triển các sự nghiệp kinh tế như: Khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm theo chế độ quy định. Các khoản chi thường xuyên khác ở xã theo quy định của pháp luật. *Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn theo phân cấp của tỉnh. Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của xã từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định theo quy định của pháp luật, do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý. Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. 1.1.3.Vai trò của Ngân sách xã trong hệ thống ngân sách nhà nước và trong việc phát triển kinh tế nông thôn hiện nay. Ngân sách xã là một bộ phận hữu cơ của ngân sách nhà nước. Là phương tiện vật chất để chính quyền cấp xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, là nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy chính quyền cấp xã - một đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống phân cấp quản lý hành chính nước ta. Do vậy việc hình thành ngân sách cấp xã thuộc ngân sách nhà nước là hoàn toàn cần thiết, để đảm bảo chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi và trách nhiệm được phân công. Nhất là đối với nước ta, một nước đi lên từ nông nghiệp, điểm xuất phát thấp, dân cư sống chủ yếu ở các làng xã, thì xã là một cấp hành chính cơ sở trực tiếp quan hệ với dân. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế càng có nhiều chuyển biến sâu sắc và chuyển dần sang nền kinh tế thị trường – NSX , công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền xã thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội tại địa phương. Xã là một đại diện của nhà nước, là một cấp chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý nhà nước, nó trực tiếp giải quyết mỗi quan hệ giữa nhà nước với người dân, từ đó mới biết được chính sách, chế độ của nhà nước được thực thi tới mức độ nào, mọi quan tâm của nhà nước cho đến tâm tư, nguyện vọng của người dân ra sao đều được thể hiện ở đây, và giúp chính quyền giải quyết các mối quan hệ thì công cụ đắc lực nhất chính là Ngân sách xã. Thông qua NSX để giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa người dân với nhà nước. Thông qua hoạt động thu ngân sách, không chỉ đạt mục đích là tạo Lập dự toán ngân sách - quỹ tiền tệ ngân sách (NSX) mà còn thể hiện việc kiểm tra, kiểm soát,điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ mà các hoạt động khác trên địa bàn nông thôn tuân thủ theo đúng hành lang pháp lý quy định. Việc kiểm tra giám sát đó thông qua cơ cấu nghành nghề kinh doanh, qua mặt hàng kinh doanh, qua sự lưu chuyển hàng hoá… Từ đây có những điều tiết, tác động nhằm kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nông thôn phát triển theo hướng tích cực góp phần ngăn chặn những việc hành vi làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn xã quản lý. Đồng thời thu Ngân sách xã còn góp phần thực hiện các chính sách xã hội như: đảm bảo công bằng giữa những người có nghĩa vụ với ngân sách…trợ giúp cho những đối tượng khó khăn, bằng chính sách miễn, giảm thu ngân sách. Ngoài ra kỷ luật tài chính (thưởng - phạt) cũng là biện phát bắt buộc để mọi người dân thực hiện tốt nghĩa vụ đối với cộng đồng. Thông qua chi ngân sách, các hoạt động của Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội được duy trì và phát triển không ngừng, ổn định qua đó nâng cao hiệu lực quản lý nhà nứơc ở cơ sở. Với các khoản chi cho sự nghiệp giáo giục, sự nghiệp y tế của Ngân sách xã đã thiết thực làm nâng cao dân trí, sức khoẻ cho mọi người dân và cộng đồng xã hội. Các khoản chi cho xây dựng cơ bản của Ngân sách xã ngày càng làm cho bộ mặt nông thôn đổi mới khang trang, đưa nông nghiệp nông thông ra khỏi lac hậu. Trong thời gian qua cùng với những đổi thay của đất nước, xây dựng nông thôn mới ngày càng khẳng định vai trò của Ngân sách xã. Ngân sách xã không những tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước mà còn hướng cho các doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh tế gia đình ở khu vực nông thôn theo hướng mới để phù hợp với nền kinh tế thị trường và dần theo kịp với tốc độ phát triển về mọi mặt của thế giới và khu vực trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Xét trong hệ thống ngân sách nhà nước thì Ngân sách xã là một cấp ngân sách cơ sở và nắm giữ một vị trí rất quan trọng trong hệ thống ngân sách. Xã là một đơn vị hành chính có cơ sở ở nông thôn. Hội đồng nhân dân xã với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương được quyền ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và nghị quyết liên quan đến xã mình. Đồng thời chính quyền xã là đại diện trực tiếp giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước với nhân dân trên cơ sở các văn bản hiện hành. Cho nên trên góc độ kinh tế về quy mô, mức độ thực hiện các nhiệm vụ của xã phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn ngân sách. Từ sự phân tích trên đây ta thấy Ngân sách xã chiếm giữ vai trò tích cực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, xúc tiến quá trình đô thị hoá ,đổi mới bộ mặt nông thôn, đồng thời góp phần đưa nông thôn việt nam phát triển đi lên công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. Nội dung quản lý Ngân sách xã: Để xứng đáng với vị trí , vai trò trên của Ngân sách xã thì cần phải quản lý tốt Ngân sách xã. Ngân sách xã cũng là một cấp ngân sách nhà nước nên nội dung quản lý Ngân sách xã cũng gồm ba khâu: Lập dự toán Ngân sách xã, chấp hành dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách xã. Để quản lý tốt Ngân sách xã thì cần phải quản lý tốt cả ba khâu của chu trình này. Theo Nghị Định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính Phủ và Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn công tác quản lý NSX và các quỹ tài chính khác của xã thi nội dung ba khâu đó như sau: 1.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã: Hàng năm trên cơ sở hướng dẫn của uỷ ban nhân dân cấp trên, uỷ ban nhân dân xã Lập dự toán ngân sách năm sau trình Hội Đồng Nhân Dân xã quyết định. - Căn cứ Lập dự toán Ngân sách xã: Các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của xã . Chính sách, chế độ thu ngân sách nhà nước, cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi Ngân sách xã và tỷ lệ phân chia nguồn thu do HĐND tỉnh quy định. Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do chính phủ, thủ tướng chính phủ, Bộ Tài Chính và HĐND cấp tỉnh quy định. Số kiểm tra về dự toán Ngân sách xã do UBND huyện thông báo. Tình hình thực hiên dự toán Ngân sách xã năm hiện hành và các năm trước đó. - Trình tự Lập dự toán Ngân sách xã: Ban tài chính và ngân sách xã kết hợp với cơ quan thuế hoặc đội thu thuế( nếu có) tính toán các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (trong phạm vi phân cấp do xã quản lý) Các ban, tổ chức thuộc UBND xã căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi Lập dự chi của đơn vị tổ chức này. Ban tài chính và ngân sách xã lập dự toán thu, chi và cân đối ngân sách trình UBND xã, bào cáo chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND xã để xem xét gửi UBND huyện và phòng tài chính huyện. Thời gian báo cáo dự toán Ngân sách xã do UBND cấp tĩnh quy định. Đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, phòng tài chính huyện làm việc với UBND xã về việc cân đối thu chi Ngân sách xã thời kỳ ổn định mới theo khả năng bố trí cân cân đối chung của ngân sách địa phương. Đối với những năm tiếp theo của thời kỳ ổn định phòng tài chính huyện chỉ tổ chức làm việc với UBND xã khi UBND xã có yêu cầu. - Quyết định dự toán Ngân sách xã: Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi do UBND huyện quyết định UBND xã hoàn chỉnh dự toán Ngân sách xã và phương án bổ sung Ngân sách xã trình HĐND xã quết định sau khi dự toán xã được HĐND xã quyết định UBND xã báo cáo với UBND huyện, phòng tài chính huyện đồng thời công khai Ngân sách xã cho nhân dân biết theo chế độ công khai tài chính về Ngân sách xã. Điều chỉnh Ngân sách xã hàng năm( nếu có) trong các trường hợp có yêu cầu của UBND cấp trên để đảm bảo phù hợp với định hướng chung hoặc có sự biến động lớn về nguồn thu và nhiệm vụ chi. 1.2.2.Chấp hành dự toán Ngân sách xã Hàng năm xã phải tổ chức chấp hành dự toán ngân sách theo đúng điều khoản về luật ngân sách và nghị định của chính phủ, các thông tư hướng dẫn chấp hành dự toán ngân sách của Bộ Tài chính. Căn cứ dự toán Ngân sách xã và phương án phân bổ Ngân sách xã cả năm đã được HĐND xã quyết định, UBND xã phân bổ chi tiết dự toán chi Ngân sách xã theo mục lục NSNN (kèm theo biểu mẫu) gửi KBNN nơi giao dich để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi. Căn cứ vào dự toán và khả năng thu, nhu cầu chi của từng quý, UBND xã Lập dự toán thu, chi quý (có chia ra tháng gửi KBNN nơi giao dịch. Đối vời những xã có các nguốn thu chủ yếu theo mùa vụ, UBND xã đề nghị cơ quan tài chính cấp trên thực hiện tiến độ cấp số bổ sung cân đối trong dự toán được giao (nếu có) cho phù hợp để điều hành chi theo tiến độ công việc. Chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) là chủ tài khoản thu chi Ngân sách xã. Xã có quỹ tiền mặt tại xã để thanh toán các khoản có gía trị nhỏ. Định mức tồn quỹ tiền mặt tại xã do KBNN huyện quy định cho từng loại xã. Riêng những xã ở xa KBNN, điều kiện đi lại khó khăn, chưa thể thực hiện việc nộp trực tiếp các khoản thu của Ngân sách xã vào KBNN, định mức tồn quỹ tiền mặt được quy định ở mức phù hợp. Ban tài chính và ngân sách xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời. Nghiêm cấm thu không biên lai, thu để ngoài sổ sách. Khi thu phải giao biên lai lại cho đối tượng nộp cho cơ quan thuế, phòng tài chính huyện có nhiệm vụ cung cấp biên lai đầy đủ, kịp thời cho ban tài chính xã để thực hiện thu nộp ngân sách nhà nước. Việc hoàn trả khoản thu Ngân sách xã, KBNN xác nhận rõ số tiền đã thu vào Ngân sách xã hoặc cơ quan thu xác nhận (đối tượng nộp ngân sách qua cơ quan thu) để ban tài chính làm căn cứ hoàn trả. Đối với các khoản thu Ngân sách xã được hưởng 100%, KBNN chuyển một liên chứng từ cho ban tài chính xã. Đối với các khoản thu phân chia với ngân sách cấp trên, KBNN Lập dự toán ngân sách bảng kê các khoản thu ngân sách có phân chia cho xã gửi ban tài chính xã. Đối với số thu bổ sung ngân sách huyện cho Ngân sách xã, phòng tài chính huyện căn cứ vào dự toán số bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu, chi từng quý của các xã và khả năng cân đối của ngân sách huyện, thông báo số bổ sung hàng quý cho xã chủ động điều hành ngân sách. Phòng tài chính huyện cấp số bổ sung cho xã theo định kỳ hàng tháng. Khi thực hiện nhiệm vụ chi, ban tài chính và ngân sách xã phải thẩm tra nhu cầu sử dụng kinh phí của các tổ chức, đơn vị. Bố trí nguồn theo dự toán năm và dự toán quý để đáp ứng nhu cầu chi. Kiểm tra giám sát việc thực hiện việc chi ngân sách, sử dụng tài sản của các tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và báo cáo, đề xuất kịp thời chủ tịch UBND xã những trường hợp vi phạm chế độ, tiêu chuẩn, định mức để có biện pháp giải quyết việc chấp hành dự toán chi ngân sách phải đảm bảo nguyên tắc: Đã ghi trong dự toán, đúng chề độ, tiêu chuẩn, định mức quy định được chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) chuẩn chi. Cấp phát Ngân sách xã chỉ dùng hình thức lệnh chi tiền. Trường hợp thanh toán bằng tiền mặt phải kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. KBNN kiểm tra nếu đủ điều kiện thì tiến hành thanh toán. Trong trường hợp thật cần thiết như tạm ứng, công tác phí, ứng tiền trước cho khách hàng, cho nhà thầu theo hợp đồng, chuẩn bị hội nghị, tiếp khách,……được tạm ứng để chi. Trong trường hợp này, trên lệnh chi tiền chỉ ghi tổng số tiền tạm ứng, kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. Nếu như các khoản thanh toán Ngân sách xã qua KBNN cho đối tượng có mở tài khoản giao dịch tại KBNN hoặc ngân hàng thì phải thực hiện bằng hình thức chuyển khoản. Khi đó phải sử dụng lệnh chi tiền bằng chuyển khoản. Các khoản chi từ nguồn thu được giữ tại xã, Ban Tài chính và ngân sách xã phối hợp với KBNN định kỳ làm thủ tục hạch toán thu, chi vào Ngân sách xã. Đối với chi thưòng xuyên, ưu tiên chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, nghiêm cấm việc nợ lương. Các khoản chi cấp bách phải căn cứ dự toán năm, tính cấp bách của công việc, khả năng của Ngân sách xã tại thời điểm chi. Đối với chi đầu tư phát triển: việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách xã phải thực hiện theo quy định của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và phân cấp của tỉnh. Bộ Tài Chính sẽ quy định việc cấp phát thanh toán và quuyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách xã. Đối với các dự án đầu tư băng nguồn đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện ngoài các quy định chung cần phải mở sổ theo dõi và phản ánh kịp thời mọi khoản đóng góp bằng tiền, ngày công lao động, hiện vật của nhân dân. Quá trình thi công, nghiệm thu và thanh toán phải có ban giám sát do nhân dân cử ra. Kết quả đầu tư và quyết toán phải thông báo rộng rãi cho nhân biết. 1.2.3. Quyết toán Ngân sách xã: Ban Tài chính và ngân sách xã lập báo cáo quyết toán thu, chi Ngân sách xã hàng năm trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gữi phòng Tài Chính huyện để tổng hợp trình UBND Huyện. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho phòng Tài Chính Huyện do UBND Tỉnh qui định. Quyết toán Ngân sách xã không được lớn hơn quyết toán chi Ngân sách xã. Toàn bộ kết dư Ngân sách năm trước (nếu có), được chuyển vào thu Ngân sách năm sau. Sau khi HĐND xã phê chuẩn báo cáo quyết toán được lập thành 5 bản, gửi cho HĐND xã, UBND xã, phòng Tài Chính Huyện, KBNN nơi xã giao dịch, lưu ban Tài Chính xã và thông báo công khai nơi công cộng cho nhân dân xã biết. Phòng Tài Chính có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu , chi Ngân sách xã, trường hợp có sai sót phải báo cáo với UBND Huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh. Trên đây là toàn bộ nội dung quản lý Ngân sách xã đã được trình bày. Ta thấy quản lý Ngân sách xã là một quá trình đầy những khó khăn và phức tạp. Do vậy hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã là một yêu cầu cấp thiết hiện nay và mai sau nhằm làm lành mạnh hoá các hoạt động tài chính ở xã, nâng cao hiệu quả sử dụng ngồn vốn NSX. 1.2.4. Công khai Ngân sách xã: 1.2.4.1. Sự cần thiết của công khai minh bạch trong quản lý NSNN ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên việc công khai, minh bạch các hoạt động tài chính của nhà nước là một yêu cầu thiết thực, nhăm tăng sự giám sát của nhân dân, gây dựng lòng tin trong quần chúng nhân dân và tiến tới công bằng xã hội. Vì hoạt động thu, chi tài chính của nhà nước liên quan đến lợi ích của nhân dân cũng như nghĩa vụ của họ trong quá trình tạo lập và sữ dụng quỹ tiền tệ của nhà nước. Công khai ở đây là cho nhân dân được biết việc nhà nước đã thu những khoản thu đó có hợp lý không? có công bằng không? quá trình phân phối và sử dụng nguồn vốn của NSNN có đảm bảo được các nhiệm vụ và chức năng mà nhà nước đảm nhận hay không? hiệu quả của công tác này như thế nào? quy trình quản lý các khoản thu, chi có thực hiện tốt hay không? kết quả của các khoản chi có tuân thủ yêu cầu về tiết kiệm và hiệu quả hay không? lợi ích các khoản chi có đem lại sự cải thiện về đời sống vật chất, tinh thần cho đa số người dân hay không? Vì thế công khai minh bạch trong quản lý ngân sách đã trở thành yêu cầu đòi hỏi phải tuân thủ đối với mọi cấp ngấn sách, đặc biệt với ngân sách cấp xã một cấp ngân sách trược tiếp giải quyết quan hệ giữa nhà nước và người dân. Công khai chính là biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức nhà nước, tập thể người lao động và nhân dân trong việc quyền kiểm tra, giám sát quá trình quản lý và sữ dụng vốn, tài sản nhà nước; huy động và sữ dụng các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; phát hiện và ngăn ngưa kip thời các hành vi vi pham chế độ quản lý tài chính; đảm bảo sữ dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Do vậy công khai, minh bạch trong quá trính quản lý và sữ dụng quỹ tiền tệ của nhà nước là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay và mai sau. 1.2.4.2 Nội dung công khai ngân sách xã: Theo quyết định 192/2004/QĐ-TTG ngày 16/11/2004 của Thủ Tưởng Chính Phủ và Thông tư số 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005 của Bộ Tài Chính qui định về việc công khai Ngân sách xã thì: - Nội dung công khai Ngân sách xã gồm: Cân đối dự toán, quyết toán Ngân sách xã đã được HĐND cấp xã qui định, phê chuẩn. Dự toán, quyết toán thu chi Ngân sách xã đã được HĐND cấp xã quyết định, phê duyệt. Dự toán, quyết toán chi đầu tư XDCB đã được HĐND cấp xã quyết định , phê chuẩn. Dự toán, quyết toán chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình mục tiêu, nhiệm vụ khác do cấp xã thực hiện đã được HĐND quyết định, phê chuẩn. Tỷ lệ phần trăm(%) phân chia các khoản thu giửa Ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện và Ngân sách cấp xã đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, UBND cấp tỉnh giao. Chi tiết kế hoạch và kết qủa các hoạt động tài chính khác của cấp xã. -Hình thức công khai: Việc công khai các nội dung trên được thực hiện bằng các hình thức sau: niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã ít nhất trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày niêm yết ; thông báo bằng văn bản cho đảng uỷ, các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp xã và trưởng các thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố ở phường, thị trấn; thông báo trên hệ thống truyền thanh cấp xã. -Thời gian công khai: Châm nhất sau 60 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp xã ban hành Nghị quyết về quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán Ngân sách và các hoạt động tài chính khác. 1.3.Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác Quản Lý Ngân sách xã. - Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã ở nước ta hiện nay. Công tác quản lý Ngân sách xã ở nước ta hiện nay tuy đã đạt được những thành quả như: Về thu Ngân sách xã: Dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước, toàn nước ta nhìn chung thu Ngân sách tăng và có xu hướng ngày càng tăng. ở các địa phương xã đã chủ động khai thác các nguồn thu tiềm năng, phát huy tích cực việc tăng thu và nuôi dưỡng nguồn thu bằng nhiều hình thức khác nhau. Về chi Ngân sách xã: Nhìn chung việc bố trí chi Ngân sách xã là tương đối hợp lý, đáp ứng nhu cầu chi một cách tốt nhất . Về chấp hành chính sách chế độ : Nhìn chung các xã đã thực hiện tốt các chế độ chính sách được ban hành. Đặc biệt là chế độ chính sách đối với người , gia đình có công với cách mạng … Bên cạnh đó công tác quản lý Ngân sách xã trên cả nước vẫn còn nhiều tồn tại đáng kể. Về công tác thu Ngân sách xã vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thu, cơ cấu thu chưa hợp lí, chưa quan tâm đặc biệt tới việc nuôi dưỡng nguồn thu, nhiều xã trên cả nước đã đặt ra các khoản thu, mức thu chưa hợp lí . Gây nhiều tranh cãi , bất đồng trong quần chúng nhân dân. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chi, quản lí chi vẫn còn buông lỏng, cơ cấu chi vẫn còn nhiều bất hợp lí chưa đáp ứng được nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Công tác lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách chưa thực sự hoàn thiện. Từ thực trạng đó ta thấy hoàn thiện công tác quản lí Ngân sách xã là yêu cầu bức thiết, là việc cần làm ngay và làm triệt để. - Xuất phát từ nền Tài chính quốc gia của nứơc ta đã và đang dựoc đổi mới toàn diện trong sự chuyển đổi sâu sắc về cơ chế quản lý kinh tế xã hội . Đất nứoc ta đang trong thời kì đổi mới đi lên CNH - HĐH đất nước, nền kinh tế đang đi theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trương có sự quản lý của nhà nước. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội là tất yếu để phù hợp với cơ chế thị trường, phù hợp với đường lối phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Công tác quản lý NSX trong điều kiện hiện nay cũng cần phải được củng cố và tăng cường, góp phần làm lành mạnh nền Tài chính quốc gia và tăng cường nội lực, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nứớc , làm cho công qũy được quản lý chặt chẽ, thống nhất, phát huy tối đa quyền làm chủ của người dân. Hoàn thiện công tác quản lí Ngân sách xã không những tăng cường quản lý Ngân sách xã mà còn là vấn đề phát huy được vai trò của chính quyền cấp xã , trong việc chủ động khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương, đảm bảo công bằng, thực hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Để phù hợp với sự vận hành theo cơ chế mới - cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa nền kinh tế và hội nhập cùng các nước trong khu vực, trên toàn thế giới thì cơ chế quản lý Ngân sách xã đòi hỏi phải sớm đổi mới, hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã . Trước những đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội và đứng trước thực trạng quản lý Ngân sách xã như trên, cần phải có các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã góp phần hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã, đảm bảo Ngân sách xã đủ mạnh đáp ứng được các yêu cầu, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, tiến tới làm lành mạnh hoá nền Tài chính quốc gia, phát huy hết nội lực, thực hiện đúng chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong trong thời gian qua. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 2.1.1 Đặc diểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Nam Đàn. Nam Đàn là một huyện nằm phía tây nam tỉnh Nghệ An, với dân số 148.575 người năm 2004. Dân số huyện phân bố chủ yếu ở nông thôn, dân số ở thành thị chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nhân dân trong huyện chủ yếu sống bằng nghề nông. Toàn huyện có 23 xã và một thị trấn. Nam Đàn vẫn là huyện nghèo, thu chưa đủ bù đắp chi còn phải nhờ sự trợ giúp của ngân sách cấp trên, đời sống nhân dân còn thấp , nền kinh tế phát triển không đồng đều, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện. Nông nghiệp có vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế của huyện, nó đảm nhiệm phần tự túc lương thực cho toàn bộ nhân dân trên địa bàn huyện. Cây lương thực của huyện chủ yếu gồm lúa, ngô, lạc, sắn. Diện tích trồng cây lương thực trong những năm gần đây ngày một tăng. Cây lúa vẫn là cây lương thực chính của huyện, diện tích trồng lúa của toàn huyện gần như không thay đổi mấy, nhưng sản lượng thóc những năm gần đây lại tăng. Năng suất lúa của huyện năm 2003 là 55,5 tạ/ha; năm 2004 là 56,5 tạ/ha. Về chăn nuôi: Huyện đang tiếp tục phát triển chăn nuôi. Các giống vật nuôi chính của huyện là trâu, bò, lợn và gia cầm. Năm 2004 số lượng đàn trâu bò là 43200 con, đàn gia cầm là 985000 con. Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tỷ trọng các ngành này con thấp nhưng có chiều hướng tăng trong những năm tới. Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp xây dựng, khai thác cát sạn phục vụ cho xây dựng, sản xuất gạch các loại. Công nghiệp chế biến phát triển chậm, đa phần là chế biến gỗ, thức ăn gia súc,….. với qui mô nhỏ lẻ. Tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là sản xuất dày dép da, đan, lát………. Về kinh tế- xã hội: Huyện đã quan tâm chú trọng nhiều tới giáo dục ở địa phương từ bậc tiểu học, trung học cơ sở cho đến phổ thông trung học. Hàng năm huyện dành một phần lớn ngân sách của mình cho việc sửa chửa, nâng cấp và xây dựng mới các trường lớp tạo cơ sở cho con em trong huyện. Trong thời gian tới huyện đang phấn đấu hơn nữa mặt bằng giáo dục chung đảm bảo 100% các xã trên địa bàn huyện có trường, lớp đạt tiêu chuẩn qui định. Nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện. Bên cạnh việc chú trọng giáo dục, huyện cũng đã quan tâm cũng cố nghành y tế triển khai các nội dung chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong huyện ngày một tốt hơn. Phấn đâu tới năm 2010 một trăm phần trăm số xã có bác sỹ về phục vụ tận xã. Phong trào xây dựng làng văn hoá, xóm văn hoá vẫn đang được triển khai mạnh mẽ. Tiếp tục nâng cấp cải tạo hệ thống điện phục vụ tốt hơn cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong huyện. Những đặc điểm trên cho thấy, cần phải đẩy mạnh công tác tài chính- Ngân sách để tăng thu ngân sách góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân trong huyện. 2.1.2.Khái quát tổ chức bộ máy của phòng tài chính huyện Nam Đàn: Phòng tài chính- kế hoạch là cơ quan chuyên môn của UBND huyện, tham gia giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, giá cả, kế hoạch đầu tư, đăng kí kinh doanh. Phòng tài chính - kế hoạch chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của sở tài chính tỉnh, sở kế hoạch và đầu tư với nhệm vụ tham mưu cho UBND huyện ban hành các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ tài chính ngân sách, giá cả trên địa bàn huyện theo luật ngân sách. Hướng dẫn các đơn vị dự toán thuộc huyện xã, xây dựng dự toán ngân sách hàng năm theo hướng dẫn của tổ chức tài chính trình UBND huyện xem xét để trình hội đồng nhân dân huyện quyết định, tổ chức, kiểm tra, giám sát, quản lý và quyết toán ngân sách cấp xã. Tổ chức kiểm tra quản lý các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước. Cấp huyện, phối hợp với các cơ quan chức năng quản lý công tác thu chi theo quy định. Chủ trì phối hợp với các phòng ban chức năng xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế-xã hội hàng năm của huyện, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện. Tham mưu cho UBND huyện giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho các xã và đơn vị thụ hưởng ngân sách, phối hợp với các cơ quan sản xuất kinh doanh cùng xây dựng và thực hiện công tác đăng ký kinh doanh theo nghị định 02/NĐ-CP, Nghị định 51/NĐ-CP của chính phủ. Phòng tài chính kế hoạch huyện là phòng quản lý nghiệp vụ đối với ban tài chính các xã giúp uỷ ban nhân dân huyện quản lý thu ,chi Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước từ khâu lập , chấp hành và quyết toán Ngân sách xã. Phân tích tình hình thực hiện ngân sách, đề xuất những ý kiến, biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách cấp xã có thẩm quyền quyết định. Phòng tài chính huyệm có nhiệm vụ tổ chức, triển khai hướng dẫn các xã thực hiện chế độ chính sách của Đảng và nhà nước quy định về công tác quản lý tài chính, NSX. Thường xuyên chỉ đạo và kiểm tra về công tác nghiệp vụ để đảm bảo cho công tác chi thường xuyên, kịp thời đúng và đủ. Chi đầu tư xây dựng các công trình, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội theo phân cấp cho xã có hiệu quả. Tổ chức đánh giá thực trạng quản lý có Ngân sách xã trong từng thời gian, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt ngân sách nhà nước và chế độ tài chính kế toán tại xã. Phòng tài chính phải báo cáo tình hình quản lý ngân sách huyện xã theo định kỳ lên uỷ ban huyện và sở tài chính. đồng thời phải có giải thích rõ ràng về những khó khăn và thuận lợitrong quá trình thực hiện. Đưa ra các gíải pháp khắc phục khó khăn và khai thác tốt tiềm năng và thế mạnh trên địa bàn huyện. 2.2 Thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong thời gian qua. Năm 1997 là năm đầu tiên luật ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành trên toàn quốc. Cho đến nay luật ngân sách nhà nước đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế, yêu cầu của quản lý nhà nước và năm 2004 là năm áp dụng luật ngân sách nhà nước sửa đổi. Do địa bàn cách trở, có nhiều xã xa trung tâm nên lực lượng cán bộ xã chưa đủ mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính của đội ngũ cán bộ xã chưa bắt kịp nhịp độ triển khai Ngân sách xã, chưa nắm bắt được sự thay đổi giữa luật ngân sách nhà nước cũ với luật ngân sách nhà nước mới (sửa đổi và bổ sung) cũng nhựư phát triển của khoa học công nghệ. Qua thực tế thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước, công tác quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Hầu hết các xã trong huyện đều nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa, nội dung của quản lý Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước. Các xã đã bước đầu cải tổ sắp xếp lại ban tài chính xã, xác định rõ chức danh kế toàn Ngân sách xã trong bộ máy cán bộ xã. Chính quyền ở xã dần dần đã thay đổi cách nghĩ, cách làm, từ chỗ thụ động, trông chờ vào ngân sách cấp trên nay đã chủ động bàn biện pháp khai thác nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu, phát huy tối đa thế mạnh của từng xã để tăng thu, chú trọng quản lý giám sát chặt chẽ các khoản thu, sửa đổi cơ cấu chi nhằm hướng tới ngày càng phù hợp hơn với nhiệm vụ quản lý nhà nước ở cấp chính quyền cơ sở được giao. Quản lý thu, chi đều dựa trên cơ sở nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội …được giao. Dưới đây là toàn bộ thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã của huyện Nam Đàn trong ba khâu: lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã trong thời gian qua. 2.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã. Để việc chấp hành và quyết toán NSX được thực hiện theo đúng quy định của luật ngân sách nhà nước, và các văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính thì trước hết phải tôn trọng khâu “lập dự toán Ngân sách xã”. Lập dự toán Ngân sách xã là tiền đề cực kỳ quan trọng để thực hiện tiếp hai khâu sau. Nhận thức được điều này các xã trên địa bàn huyện đã tiến hành tuân thủ qui trình lập dự toán theo quy định của luật ngân sách nhà nước. Lập dự toán ngân sách gồm hai phần đó là: Dự toán thu ngân sách được phân cấp cho xã quản lý và dự toán chi ngân sách, trong đó có dự toán chi chi tiết cho chi thướng xuyên và chi đầu tư phát triển. Trên cơ sở hướng dẫn của thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Bộ tài chính về việc hưỡng dẫn quản lý Ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn. Phòng tài chính huyện cùng uỷ ban nhân dân huyện đã hướng dẫn 24 xã, thị trấn của huyện Lập dự toán Ngân sách xã hàng năm, đồng thời hướng dẫn các xã thực hiện mở tài khoản thu- chi ngân sách và các khoản thu chi của xã tại uỷ ban nhân dân huyện Nam Đàn. Trước đây việc Lập dự toán ngân sách chỉ mang tính hình thức chứ không làm căn cứ điều hành. Nhưng sau khi thực hiện luật ngân sách nhà nước, nhận thức được việc quản lý Ngân sách xã phải được tổ chức quản lý từ khâu Lập dự toán, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã. Công tác Lập dự toán ngân sách háng năm dần đi vào nề nếp. Ban đầu , việc Lập dự toán Ngân sách xã chi tiết đầy đủ theo mục lục ngân sách nhà nước, áp dụng chế độ kế toán ngân sách mới, quản lý Ngân sách xã qua kho bạc nhà nước đối với các xã vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, không khỏi lúng túng khi xây dựng dự toán thu, chi cho Ngân sách xã. Nhưng cho đến nay đã trai qua 4 năm thực hiện luật ngân sách nhà nước công tác Lập dự toán Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn về cơ bản đã chấp hành tốt, cùng với sự hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan tài chính cấp trên và sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ trong ban tài chính xã và ngân sách xã, đặc biẹt là kế toán Ngân sách xã, các xã trong huyện đã tiến hành Lập dự toán ngân sách một cách khoa học, hợp lý hơn và tuân thủ theo biểu mẫu quy định. Dự toán chi Ngân sách xã đã được tính toán phân bổ theo mục lục ngân sách, tạo cơ sở cho công tác kiểm soát thu chi Ngân sách xã của Kho Bạc. Hàng năm căn cứ vào quyết định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, địa phương, uỷ ban nhân dân tỉnh hướng dẫn chính quyền xã Lập dự toán Ngân sách xã. Ban tài chính và ngân sách xã có trách nhiệm Lập dự toán Ngân sách xã theo mục lục ngân sách và biểu mẫu do Bộ tài chính quy định để UBX xét trình HĐND xã thảo luận và quyết định. Dự toán thu gồm: Các chương, loại, khoản, nhóm, tiểu nhóm, mục và tiểu mục theo quy định của mục lục ngân sách nhà nước và luật ngân sách nhà nước. Dự toán các khoản thu của Ngân sách xã được xã xây dựng trên cơ sở các chi tiêu sản xuất kinh doanh của đia phương theo đúng các luật thuế và chế độ hiện hành, có tính đến yếu tố trượt giá và dự toán thu thường được lập dự toán ngân sách lớn hơn dự toán chi (hoặc bằng chứ không nhỏ hơn) và lớn hơn hoặc bằng tốc độ tăng thu hàng năm. Số tăng hay giảm thu so với năm trước phải được giải thích rõ ràng. Hướng phấn đấu của các xã hiện nay là cố gắng tự cân đối thu và chi ngân sách trên địa bàn, đặc biệt hạn chế trường hợp có số giao thu bổ sung rồi mà vẫn còn thiếu hụt do thu thường xuyên (gồm các khoản thu 100% Ngân sách xã hưởng và khoản thu phân chia theo % với ngân sách cấp trên) nhỏ hơn chi thường xuyên, phải cắt giảm số chi thường xuyên tương ứng với số thiếu hút đó (với các khoản chi chưa thực sự cần thiết) hoặc tăng dự toán thu thường xuyên (với các khoản mà nguồn huy động vẫn còn có khả năng tăng thu). Các xã đều cố gắng tự cân đối thu chi Ngân sách xã mình và hạn chế việc xin bổ sung từ ngân sách cấp trên, chỉ thực hiện khi thực sự cần thiết và tuỳ theo mục đích nhất định đối với các xã còn nghèo, khó khăn, gặp rủi ro không lường trước được như: Thiên tai, dịch bệnh… Đối với khoản thu do đóng góp tự nguyện của nhân dân để đầu tư và lo việc chung cho chính quyền xã là khoản không mang tính thường xuyên nên được các xã ghi ghi chú trong dự toán, không tổng hợp vào số thu trong ngân sách. Do địa bàn quản lý rộng, thêm vào đó có một số cán bộ kế toán Ngân sách xã ở vài xã trên địa bàn huyện mới chỉ được bồi dưỡng kiến thức sơ qua, tập huấn ngắn ngày. Một số cán bộ kế toán Ngân sách xã vào làm việc dựa trên cơ sở quen người, biết việc chứ chưa nắm rõ nghiệp vụ kế toán Ngân sách xã, chưa nắm bắt được kịp thời các chính sách, chế độ kế toán mới áp dụng đối với xã. Nên việc nhận thức coi thường, nhiều khi còn làm cho đầy đủ thủ tục. Theo thông lệ chế độ kiểm tra giám sát thu chi Ngân sách xã qua kho bạc nhà nước vẫn còn mới mẻ đối với một số cán bộ kế toán Ngân sách xã trên địa bàn. Trong một số công việc, như mở tài khoản, thanh toán chuyển khoản...Do vậy việc Lập dự toán ngân sách và gữi dự toán ngân sách ở một số xã đó còn chậm so với thời gian quy định. Bên cạnh đó vấn đề tôn trọng nguyên tắc minh bạch và công khai tài chính theo quyết định 192/2004/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ và thông tư 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành quyết định 192 vẫn chưa được thực hiện triệt để. Mặc dù uỷ ban nhân dân huyện, xã thông báo bằng văn bản cho Đảng uỷ, các tổ chức chính trị - xã hội ở xã và trưởng các thôn, thông bảo trên các phương tiện truyền thông đến cơ sở song xã thực hiện không đầy đủ, chỉ làm cho qua chuyện với các con số trong dự toán và các khoản thu chi, tỷ lệ phân bổ các khoản thu…mà chỉ đọc qua loa qua hội nghị, qua đài truyền thanh xã một vài lần là xong chuyện. Tóm lại, còn một số xã trong huyện chưa chú trọng công tác lập dự toán ngân sách dự toán Ngân sách xã mà chỉ làm theo hình thức lấy lệ, vẫn đề công khai tài chính ở một số xã chưa được thực hiên triệt để, chỉ làm để lấy hình thức. Nhưng phần lớn các xã đều nhận thức được việc quản lý Ngân sách xã phải được tổ chức quản lý từ khâu Lập dự toán, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã trở đi. Bởi vì thông qua việc Lập dự toán ngân sách dự toán Ngân sách xã, xã mới thực hiện tốt được hai khâu còn lại và hơn nữa xã mới có thể thực hiên thu đúng, thu đủ, chi đúng chế độ chính sách, nhiệm vụ được giao đã có trong dự toán, đồng thời góp phần giảm bớt việc chi sai chế độ hiện hành làm lãng phí tiền của ngân sách. Bên cạnh đó nhiều xã đã tuân thủ đúng quy chế công khai tài chính theo văn bản pháp luật hiện hành, gây được lòng tin trong nhân dân, tránh được tình trạng sử dụng tiền của ngân sách sai mục đích, thu sai đối tượng chế độ, định mức theo quy định của nhà nước. 2.2.2 Chấp hành dự toán Ngân sách xã. Hàng năm, xã phải tổ chức chấp hành dự toán Ngân sách xã theo đúng quy định của điều khoản về luật NSNN và các thông tư hướng dẫn chấp hành dự toán Ngân sách xã. Có thể nói chấp hành dự toán Ngân sách xã thực chất là việc tổ chức thực hiện theo đúng dự toán ngân sách mà xã đã xây dựng. Trong đó để tổ chức thu và thực hiện chi Ngân sách xã ở khâu chấp hành dự toán là công việc vô cùng quan trọng phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu, nguyên tắc trong thu, chi ngân sách là thực sự cần thiết cho công tác quản lý Ngân sách xã. Cần phải sử dụng đồng bộ và thống nhất các biện pháp nhằm động viên khai thác tối đa các nguồn thu trên địa bàn và phân phối nguồn thu đó làm sao cho có hiệu quả và hợp lý. Điều này đòi hỏi xã phải có những biện pháp tổ chức thật cụ thể, linh hoạt, tự lực tự cường, khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương, phát huy tối đa nội lực và tranh thủ sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức để khắc phục và tăng nguồn thu cho Ngân sách xã. Bước đầu thực hiện Luật NSNN (có sửa đổi bổ sung) và thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách xã theo Luật, công tác chấp hành dự toán Ngân sách xã trên địa bàn huyện đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Việc làm đầu tiên và thực sự cần thiết trong khâu chấp hành dự toán Ngân sách xã là Ban Tài chính xã và ngân sách xã tiến hành lập dự toán Ngân sách xã quý, có chia ra chi tiết cho các tháng để thực hiện và quản lý, sau đó trình UBND xã duyệt. Đây cũng là cơ sở để ngân sách cấp trên và KBNN kiểm soát quá trình thu chi ngân sách của các xã. Với đặc thù, xã vừa là đơn vị dự toán ngân sách vừa là đơn vị thụ hưởng ngân sách (tự quyết định, tự chuẩn chi), có nhiều khoản thu nhỏ lẻ ít tiền, chi tiêu nhiều việc đột xuất, tạp vụ, tiếp khách, hội nghị....Có những xã xa trung tâm, KBNN Huyện, đường xá đi lại xa xôi cách trở nên có những khoản tiền bị ứng đọng trong túi cán bộ thu nhiều ngày và do địa bàn quản lý khá rộng nên KBNN Huyện Nam Đàn chưa thể tổ chức đến từng cụm xã để tạo điều kiện cho những xã này thi hành đúng luật, đúng chế độ. Nhìn chung có thể khái quát quá trình tổ chức thu và tổ chức chi Ngân sách xã trong khâu chấp hành dự toán ngân sách của xã trong khâu chấp hành dự toán ngân sách của xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong 2 năm qua (2003-2004) như sau: 2.2.2.1. Tình hình tổ chức, quản lý thu ngân xã trên địa bàn . Nguồn thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn còn rất hạn hẹp, phần lớn thu từ nông nghiệp, nguồn thu mang tính chất mùa vụ. Để Ngân sách xã đủ mạnh, có khả năng tự cân đối thu, chi ngân sách và đảm bảo phương tiện vật chất để chính quyền xã thực hiện chưc năng, nhiệm vụ của mình theo luật định . Đồng thời tự cân đối để chi đầu tư phát triển góp phần xây dựng nông thôn mới. Đưa nông thôn ngày càng gần với thành thị nâng cao đời sống người dân khu vưc nông thôn. Nam Đàn đã và đang tăng cường củng cố công tác quản lý thu Ngân sách xã trên địa bàn huyện một cách tích cực.(xem bảng 1 và2). Bảng 1: Tình hình thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn. Đơn vị : Triệu đồng Nội Dung Năm Dự toán Thực hiện So sánh DT/TH Số tuyệt đối Số tương đối (%) 2003 29.111 34.033 4.922 116,90 2004 31.279 34.175 2896 109,26 (Nguồn: Phòng Tài Chính- Kế hoạch huyện) Bảng 2: Tình hình thực hiện thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn. Đơn vị tính : Triệu đồng Năm Nội Dung 2003 2004 Thực hiện Tỷ trọng(%) Thực hiện Tỷ trọng(%) Tổng thu 34.033 34.175 Thu 100% 15.556 45,71 16.989 49,71 Thu điều tiết 3.233 9,50 4.416 12,92 Thu bổ sung 15.244 44,79 12.770 37,37 (Nguồn : Phòng Tài chính – Kế hoạch Huyện Nam Đàn) Nhìn chung các xã trên địa bàn Huyện Nam Đàn đã cố gắng tích cực trong công tác tổ chức và quản lý thu Ngân sách xã trên dịa bàn, Kết quả đạt được trong 2 năm qua ( năm 2003, 2004) là tương đối khả quan và đáng mừng ( xem bảng 1 và 2). Cả 2 năm đều thu vượt dự toán Ngân sách xã. Thể hiện : Năm 2003 thu NSX đạt 116,90% so với dự toán ban đầu, như vậy vượt 16,9% so với kế hoạch, về số tuyệt đối là 4922 triệu đồng. Năm 2004 thu Ngân sách xã đạt 109,26% so với con số dự toán đặt ra và tăng 9,26% so với dự toán, về số tuyệt đối là 2.896 triệu đồng. Xét về tổng thể là như thế nhưng về cơ cấu các khoản thu (bảng 2) sang năm 2004 khoản thu 100% để lại tại xã đạt 49,71% trên tổng thu Ngân sách xã, tăng 4% so với năm 2003. Đây là con số tương đối khả quan vì các xã đã nhận thức được tầm quan trọng của khoản thu mang tính định hướng chiến lược lâu dài này. Khoản thu điều tiết với Ngân sách cấp trên năm 2004 tăng 3,42% so với năm 2003 và số tuyệt đối là 1.183 triệu đồng. Khoản thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên năm 2004 tuy có giảm so với năm 2003 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu Ngân sách xã, thể hiện năm 2003 là 44,79% trên tổng thu Ngân sách xã, năm 2004 chiếm 37,37 % trên tổng thu Ngân sách xã. Về số tuyệt đối thì khoản thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên năm 2004 là 12.770 triệu đồng, năm 2003 là 15.244 triệu đồng. Như vậy năm 2004 khoản nay đã giảm được 2.474 triệu đồng so với năm 2003. Con số này nói lên rằng Ngân sách các xã trên địa bàn đã ngày càng chú trọng tới các khoản thu khác, không ngồi chờ sự cấp phát của Ngân sách cấp trên, đã chủ động trong thu Ngân sách xã và ngày càng tiến tới tự cân đối thu chi Ngân sách cấp mình. Để đi sâu và tìm hiểu tình hình tổ chức và quản lý thu NSX ở huyện Nam Đàn được rõ hơn ta sẽ đi vào phân tích 1 số nguồn thu chủ yếu sau đây. * Thu 100% của Ngân sách xã: Đây là nguồn thu mang tính định hướng chiến lược lâu dài, ổn định, là nguồn thu cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu của Ngân sách xã. Khoản thu này có chiều hướng ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu NSX trên địa bàn huyện trong thời gian qua. Chính vì vậy mà Đảng uỷ và UBND các xã đã có nhiều biện pháp quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn thu này. Bảng số liệu sau sẽ minh chứng cho những nhận định trên (bảng 3) Năm 2003 chiếm 45,71% trong tổng thu Ngân sách xã. Năm 2004 chiếm 49,71% trong tổng thu Ngân sách xã. So sánh các khoản thu 100% này cho thấy hầu hết các khoản thu tằng như thuế môn bài tăng 72 triệu đồng, phí, lệ phí tăng 92 triệu đồng, thu khác tăng 92 triệu đồng. Song khoản đóng góp của dân năm 2004 giảm so với năm 2003 là -544 triệu đồng, lý do của sự giám sút này là năm 2003 là năm các xã tranh thủ sự hỗ trợ của UBND Tỉnh trong việc làm đường cứng nông thôn, nên năm 2003 các xã thu từ dân để thực hiện bê tông hoá giao thông nông thôn, thực hiện chủ trương Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Khoản thu từ Thuế môn bài. Khoản thu này những năm qua vẫn chiếm 1 tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng số thu Ngân sách xã. Những năm 2003 khoản thu này là 117 triệu đồng đạt 69,23 % so với kế hoạch đặt ra và năm 2004 là 189 triệu đồng đạt 125,17% so với kế hoạch tăng 61,54% so với năm 2003, đây là con số đáng mừng trong khâu tổ chức thu và quản lý thu, tuy số tuyệt đối năm 2004 tăng 72 triệu đồng so với năm 2003 nhưng nó phản ánh sự cố gắng tích cực trong quản lý thu của các xã. Tuy vậy nó vẫn chưa phản ánh đúng thực trạng nguồn thu so với khả năng có thể khai thác trên địa bàn Huyện. Do tính chất phức tạp của khoản thu này mà công việc quản lý nó rất khó khăn vì các cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ thưòng ít khai báo, đăng kí kinh doanh. Theo điều tra sơ bộ trên địa bàn Huyện thì thực tế chỉ mới thu được khoảng 70 đến 75% số hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Nếu ta tính bình quân số thu của các hộ kinh doanh như nhau ta thấy thuế môn bài thất thu tương đối lớn. Nếu năm 2003 và năm 2004 số không thu được là 30% thì số thuế thất thu sẽ là : Năm 2003: 30% x 117 = 35,1 triệu đồng Năm 2004 : 30% x 189 = 56,7 triệu đồng Đây là vướng mắc không chỉ trên địa bàn Huyện Nam Đàn mà còn là trên nhiều Huyện khác, thậm chí là trên cả nước. Trong thời gian tới Huyện cần có những biện pháp đẩy mạnh công tác quản lý khoản thu này nhằm, hạn chế thất thu cho Ngân sách xã. Khoản thu từ phí, lệ phí: Xã cung cấp các dịch vụ cho nhân dân mà chi phí để bù đắp cho hoạt động này là từ phí và lệ phí mà xã được hưởng theo nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Quản lý khoản thu này được các xã trên địa bàn triể khai theo đúng sự hướng dẫn của cấp trên( tỉnh, huyện) nhằm quản lý thống nhất các nguồn thu. Thực tế 2 năm qua cho thấy: Năm 2004 thu đạt 114,16% so với năm 2003 và số chênh lệch là95 triệu đồng và chiếm 4,5% trong tổng thu 100% tại xã năm 2004. Có nhiều xã thự hiện công tác thu và quản lý thu phí , lệ phí tốt như: xã Khánh Sơn( dự toán giao năm 2004 là 39 triệu đồng, thực hiện 42 triệu đồng). Xã Nam Giang (dự toán giao năm 2004 là 88 triệu đồng, thự hiện 94 triệu đồng) ………… Bên cạnh đó còn nhiều xã vẫn còn buông lỏng việc quản lý, chưa thực sự tân thu cho Ngân sách xã như: Xã Xuân Lâm( dự toán năm 2004 giao 3 triệu đồng, thực hiện 1,34 triệu đồng). Xã Nam Cát (dự toán năm 2004 giao thu 8 triệu đồng, thực hiện 5,5 triệu đồng). Xã Nam Cường (dự toán năm 2004 giao thu 20 triệu đồng, thực hiện 17,45 triệu đồng). Hiện nay vẫn còn hiện tượng chưa sữ dụng chứng từ của cơ quan thuế khi thu. Sổ sách theo doi chưa đúng với qui định, không được theo dỏi kế toán chặt chẽ dẫn tới thất thu là điều hiển nhiên. Các qui định của nhà nước các xã này thực hiện chưa nghiêp túc. Do vậy trong nhưng năm tiếp theo cần phải thống nhất các khoản thu phí, lệ phí theo qui định của nhà nước, đồng thời phải theo dõi, kiểm tra việc sử dụng chứng từ, vào sổ kế toán một cách chặt chẽ nhằm tăng thu cho Ngân sách xã. Khoản thu đóng góp của dân: Những năm gần đây trên địa bàn huyện các xã đã và đang đẩy mạnh việc huy động các nguồn thu do dân đóng góp để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, các công trình kết cấu hạ tầng thuộc xã quản lý như: Trạm xá, trường học, làm dường bê tông, xây dựng khu văn hoá xã, nhà văn hoá xóm……….. Đặc biệt năm 2003 có chương trình kiên cố hoá kênh mương, xoá phòng học tạm bợ, bê tông hoá giao thông nông thôn, khoản thu này mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì thế mà số thu từ khoản thu này là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu Ngân sách xã 100%. Thực hiện phương châm”nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chính quyền, các đoàn thể đã tuyên truyền vận động, thuyết phục mọi người dân trong xã đóng góp vì lợi ích chung của xã, của con em trong xã, đồng thời tranh thủ sự hổ trợ của chính quyền cấp Tỉnh, huyện trong công cuộc đổi mới nông thôn. Do vậy trong 2 năm qua (2003-2004) nguồn thu do dân đóng góp rất lớn và không chỉ đạt mà còn vượt kế hoạch đề ra. Thể hiện: Năm 2003 thu từ nguồn đóng góp của nhân dân là 8289 triệu đồng đạt 106,43% so với dự toán đặt ra và năm 2004 là 7745 triệu đồng gần bằng con số dự toán đưa ra. Năm 2004 giảm 6,56% so với năm 2003, số chênh lệch tuyệt đối là -544 triệu đồng và chiếm 45,59% trong tổng thu ngân sách tại xã năm 2004. Lý do của sự giảm sút này là năm 2003 là năm mà các xã đồng loạt các công trình kết cấu hạ tầng tại xã mình nên số thu từ khoản này là lớn hơn năm 2004. Trong thực tế thu từ nguồn này còn cao hơn nữa, nhưng do có những khoả đóng góp bằng ngày công lao động, mà không thể hạch toán đầy đủ vào đây được. Nhưng nhìn chung công tác tổ chức và quản lý nguồn thu đóng góp của nhân dân được hầu hết các xã làm tốt. Đảm bảo hạch toán đày đủ chính xác. Các xã khi quyết toán đều công khai thông báo các khoản thu huy động từ nhân dân, trình HĐND huyện Nam Đàn kiểm tra xét duyệt quyết tóan. Mang lại niềm tin trong nhân dân, tạo tiền đề cho để huy động khoản thu này trong những năm tiếp theo. Thực hiện chính sách chống lãng phí, thu đủ, chi đúng vì thế mà dù nguồn thu còn eo hẹp nhưng các xã đã cố gắng tận dụng triệt để các nguồn thu, khai thác tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, cố gắng loại bỏ những khoản chi chưa thực sự cần thiết, thay vào đó là ưu tiên cho những khoản chi mang tính cấp thiết hơn đối với con người và cộng đồng xã hội. Chính nhờ đó mà hàng năm kết dư ngân sách năm trước vẫn là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách xã 100% năm sau. Thể hiện: Năm 2003 thu kết dư ngân sách năm 2002 là 2398 triệu đồng chiếm 15,42% trong tổng thu Ngân sách xã 100% năm 2003. Năm 2004 con số đó là 4196 triệu đồng chiếm 24,70% tổng thu Ngân sách xã 100%. Các khoản thu từ quỷ đất công ích, hoa lợi công sản cũng là khoản thu lớn trong Ngân sách xã. Năm 2003 khoản thu này là 2334 triệu đồng chiếm 15% tổng thu Ngân sách xã 100%. Năm 2004 con số đó tuy giảm xuống và đạt 2.255 triệu đồng chiếm 13,27% trong tổng thu Ngân sách xã100% nhưng vẫn là khoản thu mà xã cần phải chú trọng khai thác triệt để. Bên cạnh đó thì các khoản thu sự nghiệp, thu khác cũng đã được các xã quan tâm tổ chức và quản lý thu một cách nghiêm chỉnh, hạch toán theo dõi đầy đủ. * Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ% giữa ngân sách xã với Ngân sách cấp trên.(xem bảng 4) Thực hiện triển khai theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính, các xã trên địa bàn huyện đã tiên hành thu và quản lý các khoản thu phân chia theo tỷ lệ với Ngân sách cấp trên một cách tích cực. Khoản thu này gồm: Thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, lệ phí trước bạ nhà đất được phân chia theo tỷ lệ Ngân sách huyện 30%, Ngân sách xã 70% . Thuế giá trị gia tăng , thuế thu nhập doanh nghiệp và thu khác của công thương nghiệp- dịch vụ ngoài quốc doanh( trừ thu từ kinh doanh vận tải và xây dựng tư nhân) và thu khác của công thương nghiệp- dịch vụ ngoài quốc doanh, được phân chia theo tỷ lệ Ngân sách Huyện 80% và Ngân sách xã là 20%. Tiền cấp quyền sử dụng đất được phân chia theo tỷ lệ : Ngân sách Tỉnh 30%, Ngân sách xã 30% và 40% để lại Ngân sách Huyện. Khoản thu từ Thuế sử dụng đất nông nghiệp . Thuế sử dụng đất nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng đối với Ngân sách xã vì nó góp phần làm đổi mới bộ mặt nông thôn và giúp cho bộ máy chính quyền xã tồn tại và đảm bảo hoạt động. Xét về mặt ý nghĩa nó là một loại thuế đánh vào quyền sử dụng đất nông nghiệp, thông qua đó nhằm động viên một phần thu nhập của người sử dụng đất nông nghiệp vào Ngân sách Nhà nước. Thời gian qua chính quyền xã có nhiều cố gắng trong công tác phối hợp với đội thuế của xã, đôn đốc, kiểm tra việc thu nộp loại thuế này. Năm 2003 số thu được từ loại thuế này là 100 triệu đồng đạt 162,29% so với dự toán đặt ra. Năm 2004 số thu được từ thuế này là 150 triệu đạt 200% so với dự toán đặt ra và tăng so với năm 2003 là 50 triệu đồng. Hai năm qua nhờ có sự theo giõi, giám sát, đông đốc các hộ nộp thuế nên không có tình trạng nợ đọng thuế nông nghiệp như các năm trước đây. Bên cạnh đó do 2 năm qua ở Nam đàn tương đối được mùa nên các hộ đã hăng hái trong việc giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, mặc dù giá lúa và các cây lương thực khác có bị trượt giá nhưng bù lại các sản phẩm từ nông nghiệp lại được chuyển sang chăn nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thuế chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp. Trên địa bàn Huyện nhìn chung đạng chuểyn đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp còn manh mún, phát sinh không nhiều do vậy quản lý khoản thu nay là cưcj kỳ khó khăn. Năm 2003 số thu được từ khoản này trên địa bàn là 8 triệu đồng đạt 114, 29%. Tuy có vượt số kế hoạch đưa ra nhưng con số 8 triệu đồng quả thật là quá khiêm tốn, chỉ chiếm 0,25% trong tổng thu phân chia theo tỷ lệ phân cấp với Ngân sách cấp trên. Năm 2004 con số tuy có tăng vượt bậc so với năm 2003 và con số đạt được là 80 triệu đồng chiếm 1,81%. Nhưng vẫn chưa phản ánh đúng thực tế của việc chuyển quyền sử dụng đất trên địa bàn Huyện. Trong giai đoạn tới chính quyền các xã và các ban ngành liên quan cần nhanh chóng có sự phối hợp tốt và triển khai nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để người dân thực sự yên tâm là đất đã có chủ, từ đó tạo cơ sở quản lý khoản thu này và khai thác triệt để góp phần tăng thu cho Ngân sách xã. Tiền cấp quyền sử dụng đất. Đây là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % với Ngân sách cấp trên. Trong 2 năm qua năm 2003 tổng thu từ khoản thu này là 2730 triệu đồng đạt 226,37 % so với dự toán đặt ra. Năm 2004 tổng thu từ khoản thu này là 3603 triệu đồng đạt 139,92% so với số dự toán đặt ra trong năm . Ta thấy con số thu được từ khoản thu này trong năm 2004 tăng so với năm 2003 là 873 triệu đồng, tương ứng với số tuyệt đối là 131,98%. Con số này cho thấy 2 năm qua chính quyền xã đã cố gắng vượt bậc trong tổ chức thu và quản lý thu. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít xã chưa hoàn thành được dự toán được giao như xã Nam cát dự toán đặt ra là 394 triệu đồng mà thực hiện được 345 triệu đồng …. Trong những năm tới chính quyền các xã này cần có biện pháp khắc phục tình trạng trên. Thuế nhà đất : Thuế nhà đất là 1 khoản thu trong các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % với Ngân sách cấp trên. Năm 2003 thu được từ khoản này là 30 triệu đồng , đạt 111,11% chiếm 0,93% trong tổng thu phân chia theo tỷ lệ. Năm 2004 con số từ khoản này được tăng lên và đạt 198 triệu đồng , đạt 104,21% so với dự toán và chiếm 4,48% trong tổng thu các khoản phân chia theo tỷ lệ. Năm 2004 là năm chính quyền xã thực hiện khoản thu này triệt để hơn năm 2003 thể hiện ở chổ số thu năm 2004 từ khoản này tăng 168 triệu đồng so với năm 2003, về số tuyệt đối là 660%. Thuế GTGT – Thu nhập doanh nghiệp Cả 2 năm 2003 và 2004 khoản thu từ thuế GTGT và thu nhập doanh nghiệp đều hoàn thành số dự toán được giao. Năm 2003 số thu từ khoản này là 365 triệu đồng đạt 144,27% so với dự toán giao. Năm 2004 số thu tăng lên và đạt 385 triệu đồng, đạt 137,5% so với số kế hoạch được giao và tăng 20 triệu đồng so với năm 2003. Có thể nói rằng nguồn thu từ khoản thu phân chia theo tỷ lệ % với Ngân sách cấp trên đóng vai trò rất quan trọng nhưng các xã trên địa bàn huyện vẫn chưa khai thác triệt để mặc dù hoàn thành dự toán được giao. Để tăng nguồn thu này đòi hỏi các ban ngành liên quan có sự phối hợp chặt chẽ, tích cực tìm ra biện pháp phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu và từng bước quản lý chặt chẽ hơn nguồn thu này và làm tăng thu cho Ngân sách xã. * Thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên. Nam Đàn là huyện có nguồn thu chủ yếu từ nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ, du lịch vẫn ở dạng tiềm năng chưa được khai thác thế mạnh này. Do đó mặc dù huyện đã có những nổ lực, cố gắng cao, số thu Ngân sách xã ngày một tăng lên, đặc biệt là số thu 100% để tại Ngân sách xã. Nhưng do điều kiện tự nhiên, Kinh tế, xã hội với yếu tố chủ quan trong quản lý trên toàn Huyện mà nguồn thu giữa các xã có sự chênh lệch khá lớn, đặc biệt là thu 100%. Nhiều xã khó khăn về nguồn thu nên đã không đáp ứng được nhiệm vụ chi tối thiểu dẫn đến nguồn bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách xã chiếm 1 tỷ trọng khá lớn trong tổng thu Ngân sách xã ( xem bảng 5) Thu bổ sung cân đối Ngân sách Như đã nói ở trên 1 số xã trên địa bàn có sự chênh lệch về nguồn thu ảnh hưởng tới số thu của Ngân sách xã hàng năm. Điển hình như năm 2004 có nhiều xã chỉ thu được dưới 1 tỷ đồng từ khoản thu 100% và khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm với Ngân sách cấp trên, ví dụ như các xã Nam Thượng: 388 triệu đồng, xã Hồng Long : 682 triệu đồng. Bên cạnh đó có những xã thu đạt trên 2 tỷ đồng như : xã Nam Giang : 2163 triệu đồng, xã Kim Liên : 5237 triệu đồng. Nhưng số xã có nguồn thu này không nhiều mà nhiệm vụ chi ngày một lớn dần. Nên thu bổ sung cân đối Ngân sách của Huyện năm 2004 tăng so với năm 2003 là 14 triệu đồng. Năm 2003 thu bổ sung cân đối từ Ngân sách cấp trên là 7.613 triệu đồng, chiếm 108,76 % so với dự toán đặt ra. Năm 2004 con số này là 7.627 triệu đồng đạt 102,38% so với dự toán đặt ra. Thu bổ sung có mục tiêu. Thu bổ sung cho các mục tiêu chương trình của Nhà nước là tuỳ theo khả năng Ngân sách và chủ trương chung của Nhà nước. Hàng năm Nhà nước cấp 1 phần kinh phí cho các chương trình cụ thể đã được xét duyệt đầu tư, các khoản này đựơc các xã quản lý khá chặt chẽ. Năm 2004 số thu bổ sung có mục tiêu giảm so với năm 2003 là 2517 triệu đồng, số tương đối là 67,02% Năm 2004 đã kết thúc với tổng thu Ngân sách xã trên địa bàn Huyện đạt trên 34 tỷ đồng, tăng so với năm 2003. Tuy nhiên con số trên chưa thực sự thuyết phục. Nếu xét về mục đích của nguồn thu chưa đáp ứng tốt nhiệm vụ chi, nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Nguồn thu từ Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, các khoản phí, lệ phí…đều chưa cao. Trong khi đó nguồn thu từ huy động đóng góp lại tăng. Tăng thu từ khoản này đã bù đắp thiếu hụt Ngân sách góp phần phát triển Kinh tế, xã hội của địa phương. Song đây là nguồn thu không mang tính ổn định thường xuyên, lâu dài do đó cần tích cực và đẩy mạnh các biện pháp tổ chức và quản lý các nguồn thu sẵn có trên địa bàn, đảm bảo thu đúng, thu đủ và cương quyết chống thất thu dần dần giảm bớt số thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên trong những năm tới. Thực hiện đồng thời thu và nuôi dưỡng nguồn thu. 2.2.2.2. Tình hình tổ chức và quản lý chi Ngân sách xã. Hai năm qua tuy nguôn thu con hạn chế, song các xã vẫn phải đảm bảo nhưng khoản chi cần thiết cho hoạt động thường xuyên, chi đầu tư phát triển của xã trên địa bàn huyện. Tổng chi Ngân sách xã năm 2003-2004 được nhìn nhận qua bảng số liệu dưới đâĩnh( xem 6 và7). Nhìn vào số liệu trong bảng 6 ta thấy. Năm 2003 tổng chi Ngân sách xã là 28.442 triệu đồng đạt 103,67% so với con số dự toán đưa ra. Trong đó chi thường xuyên chiếm 14.491 triệu đồng đạt104,29% so với dự toán chi thường xuyên ban đầu, chi đầu tư phát triển là 13.951 triệu đồng đạt 103,04% so với dự toán. Năm 2004 tổng chi Ngân sách xã có tăng lên và con số thực hiện chi là 29880 triệu đồng, đạt104,66%. Trong đó chi thường xuyên chiếm 14.784 triệu đồng, đạt 102,02% so với dự toán ban đầu, chi đầu tư phát triển chiếm 15.096 triệu đồng, đạt 108,20% so với dự toán. Nhìn chung cả hai năm qua các xã trên địa bàn huyện đã dành một khoản chi cho đầu tư phát triển khả lớn so với tổng chi Ngân sách xã (xem bảng 7), cả hai năm thực hiện chi đều vượt dự toán giao ban đầu. Bảng 7 : Tỷ trọng các khoản chi trong tổng chi ngân sách xã. Đơn vị tính: Triệu đồng. Năm Nội dung 2003 2004 TH Tỷ trọng (%) TH Tỷ trọng (%) Chi thường xuyên 14.491 50,95 14.784 49,48 Chi đầu tư phát triển 13951 49,05 15.096 50,52 Tổng chi 28.442 29.880 (Nguồn phòng Tài Chính - Kế Hoạch huyện Nam Đàn) Đó là những đánh giá chung về chi Ngân sách xã trên địa bàn Huyện trong hai năm qua. Để đi sâu tìm hiểu việc tổ chức và quản lý chi Ngân sách xã ta đi xem xét cơ cấu chi của tường khoản chi. * Chi thường xuyên. Chi quản lý nhà nước, Đảng , đoàn thể: Khoản chi này gồm: - Chi quản lý nhà nước: Tiền lương, tiền công cho cán bộ công chức cấp xã; sinh hoạt phí đại biểu hội đồng nhân dân; Các khoản phụ cấp khác theo qui định của Nhà nước ; Công tác phí; chi về hoạt động, văn phòng ; chi mua sắm sữa chữa thường xuyên trụ sở , phương tiện làm việc và chi khác theo qui định của Nhà nước. Hàng năm các xã phải chi một khoản chi rất lớn cho bộ máy quản lý nhà nước, Đảng đoàn thể. Trong những năm tới các xã sẽ cố gắng giảm khoản chi này. Bằng việc quản lý chặt chẻ hơn các khoản chi như công tác phí, văn phòng, sửa chửa tài sản cố định. Bên cạnh đó cần quan tâm tới các khoản chi lương cho cán bộ công chức xã, kiên quyết không nợ lương cán bộ xã, ma phải trả đủ và kịp thời để các cán bộ yên tâm công tác. - Chi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đoàn thể ở xã. Kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng cộng Sản Việt Nam ở xã; kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội ở xã( mặt trận tổ quốc việt nam, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ việt nam…………). Thực tế hai năm qua 2003 – 2004 khoản chi này rất lớn (xem bảng 8) , chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi Ngân sách xã . Năm 2003 số chi cho khoản này là 8271 triệu đồng chiếm 57,08% trong tổng chi Ngân sách xã và đạt 108,17% so với dự toán ban đầu. Năm 2004 khoản chi này tiếp tục tăng lên tới 9175 triệu đồng chiếm 62,06% trong tổng chi Ngân sách xã và đạt 100,27% so với dự toán đặt ra, tăng so với năm 2003 là 904 triệu đồng, về số tương đối là 110,93%. Một sự chênh lệch rất lớn lý do cho sự tăng chi khoản chi này trong năm vừa qua là các xã hầu hết vừa mới sắm thiết bị văn phòng như máy tính, máy in……nhưng bên cạnh đó cung không thể loại trừ sự yếu kém trong quản lý chi của bộ máy quản lý tài chính xã, để thất thoát tiền của Ngân sách . Đặc biệt là khoản chi cho công tác phí, rất nhiều xã chi vượt dự toán, thường khoản này rất khó quản lý. - Chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục: Chi sự nghiệp giáo dục trên địa bàn huyện Nam Đàn được đặc biệt quan tâm.Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc trồng người là vấn đề “ quốc sách” mà khoản chi cho sự nghiệp giáo dục được quan tâm thể hiện: Năm2003 khoản chi này là 1025 triệu đồng và năm 2004 là 1162 triệu đồng tăng 137 triệu đồng về số tương đối là 113,37% . Trong tổng chi thường xuyên năm 2003 thì chi cho Giáo dục chiếm 7,07%. Năm 2004 tỷ trọng này là 7,85%. Cả 2 năm tỷ trọng chi cho Giáo dục so với tổng chi thường xuyên là khá cao và năm 2004 cao hơn năm 2003. Theo sự phân cấp quản lý thì Ngân sách xã chỉ đảm nhận phần chi cho Giáo dục mầm non với các chi phí về lương, phụ cấp Giáo Viên, mua sắm tài sản phục vụ cho công tác giảng dạy. các trường mầm non ở Huyện đều được quan tâm đầu tư sữa chữa tài sản cố định như lớp học, bàn ghế, bảng….đời sống của Giáo viên mầm non cũng được quan tâm hơn. Năm 2003 khoản chi này là 1025 triệu đồng , năm 2004 là 1162 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 137 triệu đồng . Về số tương đối là 113,37% . Trong tổng chi thường xuyên năm 2003 thì chi cho giáo dục chiếm 7,07% , năm 2004 tỷ trọng này là 7,85% cao hơn năm 2003 . Cả hai năm tỷ trọng chi cho giáo dục so với tổng chi thường xuyên là khá cao . - Chi thường xuyên cho sự nghiệp y tế : Những năm gần đây các xã trên địa bàn huyện đã đặc biệt quan tâm tới sức khoẻ người dân . Bên cạnh những khoản chi đúng , chi đủ các khoản sinh hoạt phí , phụ cấp cán bộ y tế xã , chi mua thuốc men , dụng cụ phục vụ công tác khám chữa bệnh , xã còn chú trọng và cố gắng thực hiện tốt các chương trình quốc gia , như chống suy dinh dưỡng, chống sốt rét … thực hiện đầy đủ các chương trình tiêm chủng mở rộng trên địa bàn huyện. Năm 2003 và năm 2004 các xã đã rất chú trọng tới công tác y tế , chăm sóc sức khỏe cho người dân . Thể hiện năm 2003 khoản chi cho y tế đạt 108,94% so với dự toán ban đầu , năm 2004 tỷ lệ này là 103,47% thấp hơn so với năm 2003 . Nhìn chung các xã đã có trạm xã xây dựng khang trang với trang bị dụng cụ khá đầy đủ . Hàng năm các cán bộ y tế của xã đều được đi tập huấn nâng cao chuyên môn, nhiều xã đã có bác sỹ về phục vụ . - Chi thường xuyên cho ANQP : Bên cạnh giáo dục và y tế thì quốc phòng an ninh cũng được củng cố và phát triển . Thể hiện năm 2003 khoản chi cho an ninh quốc phòng là 809 triệu đồng , năm 2004 là 614 triệu đồng . - Chi thường xuyên cho sự nghiệp xã hội : Khoản chi này gồm : chi cho hưu xã , thôi việc và trợ cấp. Chi trợ cấp cho những người già cả cô đơn, trẻ mồ côi, cứu tế và đột xuất khác . Hai năm qua các xã đã quan tâm tới vấn đề này rất lớn . Thể hiện : năm 2003 khoản chi này là 1993 triệu đồng đạt 104,95% so với kế hoạch chi ban đầu, năm 2004 là 2125 triệu đồng đạt 110,97% so với dự toán và tăng 132 triệu đồng so với năm 2003. - Chi thường xuyên cho sự nghiệp kinh tế : Chi cho sự nghiệp kinh tế là khoản chi nhằm khuyến khích phát triển các sự nghiệp kinh tế như khuyến nông , khuyến ngư ,khuyến lâm, nuôi dưỡng nguồn thu Ngân sách xã … giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo . Khoản chi này được tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo ổn định cuộc sống của người dân trong xã , giữ gìn an ninh trật tự , an toàn xã hội trên địa bàn và có vai trò không nhỏ trong nuôi dưỡng , phát triển nguồn thu ngày một lớn cho Ngân sách xã . Mặc dù con số Ngân sách xã dành cho khoản chi này còn thấp , song cũng là sự cố gắng vượt bậc của xã, khi mà nguồn kinh phí còn quá eo hẹp. Năm 2003 khoản chi này là 859 triệu đồng đạt 91,77% so với dự toán đưa ra. Năm 2004 là 664 triệu đồng đạt 115,48% so với dự toán đặt ra ban đầu. Huyện đang cố gắng tìm những biện pháp làm tăng khoản chi này tạo điều kiện cho nhân dân trong xã có điều kiện lao động để có thể tăng thu nhập cho cuộc sống hằng ngày . * Chi đầu tư phát triển . Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn chủ yếu cho xây dựng cơ bản (sửa chữa , xây dựng mới điện , đương, trương, trạm …) xem bảng 9 : Bảng 9: Chi đầu tư phát triển ở huyện Nam Đàn. Đơn vị : triêu đồng. Năm Nội dung 2003 2004 DT TH TH/DT (%) DT TH TH/DT (%) Tổng chi 13.540 13.951 103,04 14.000 15.096 108.02 Chi đầu tư XDCB 12.750 12.785 100,27 13175 13.665 103,71 Chi đầu tư phát triển khác 790 1.166 147,59 825 1.431 173,45 (Nguồn : Phòng Tài chính – kế hoạch huyện). Khoản chi này chủ yếu lấy từ nguồn đóng góp của nhân dân và một phần hỗ trợ của Ngân sách cấp trên. Trên cơ sở những nguồn thu này, các khoản chỉ được quản lý chặt chẽ trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả. Do làm tốt công tác Ngân sách , đến nay huyện đã cơ bản xây dựng được nhiều công trình cơ sở hạ tầng . Với sự hỗ trợ của Ngân sách cấp trên và chủ trương cho vay vốn bằng xy măng của tỉnh, huyện để làm giao thông nông thôn, kênh mương thuỷ lợi. Đến nay trên địa bàn huyện Nam Đàn đã gần hoàn thành giao thông nông thôn xóm bằng bê tông, nhiều xã đã tiến hành rải nhựa các trục đường chính liên xóm . Bên cạnh giao thông thì hệ thống lưới điện cũng cơ bản được nâng cấp từ trạm biến áp đến hệ thống đường giây tải điện. Trên toàn huyện có 17/24 xã dùng đường điện 3 pha phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. 100% số xã có điện sáng. Toàn huyện đến nay hệ thống trường mẫu giáo, nhà trẻ đã được tu sửa nâng cấp lợp mái ngói khang trang. Trạm xá xã cũng được xây mới và trang bị giường bệnh, về cơ bản đã đáp ứng được điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Toàn huyện có 24/24 trạm xá xã . Xây dựng mới 20 bưu điện văn hoá xã, đến nay đã đi vào hoạt động, làm cho bộ mặt nông thôn ở xã trên địa bàn huyện thay đổi, khởi sắc, nhân dân trong xã rất phấn khởi. Hệ thống loa truyền thanh công cộng đã đến được với dân cư trong xã. Những kết quả trên trong công tác Ngân sách xã của huyện Nam Đàn đã thúc đẩy kinh tế trên địa bàn huyện phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, một số xã đã gặp những vướng mắc, cụ thể là khi quyết toán thường chênh cao hơn so với dự toán. Lý do một phần do tốc độ trượt giá, giá nguyên vật liệu tăng … còn một phần là do yếu tố chủ quan của các cán bộ xã khi lập dự toán chưa chính xác, khách quan. Hiện nay còn nhiều km giao thông nông thôn liên xã còn là đường đất, nhiều km kênh mương chưa được kiên cố hoá… huyện cần có những chỉ đạo sát sao hơn trong tổ chức và quản lý khoản chi đầu tư phát triển để tạo cơ sở phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn. 2.2.3 Khâu quyết toán Ngân sách xã : Để thực hiện tốt công tác khoá sổ và quyết toán Ngân sách xã hàng năm, ban tài chính các xã trên địa bàn huyện đã phối hợp với KBNN huyện Nam Đàn đối chiếu lại toàn bộ các khoản thu chi đầy đủ, chính xác các khoản thu chi theo mục lục NSNN, kiểm tra lại số thu được điều tiết từ Ngân sách cấp trên theo tỷ lệ quy định. Hàng tháng xã có báo cáo tình hình thu chi Ngân sách xã, mỗi quý xã đều tiến hành báo cáo quyết toán, lập bảng kê đối chiếu thu chi gửi phòng Tài chính kế hoạch huyện kiểm tra, chuyển sang KBNN huyện Nam Đàn để tổng hợp quyết toán Ngân sách xã và NSNN . Cuối năm phòng Tài chính kế hoạch căn cứ vào bản đối chiếu của mỗi xã lập báo cáo tổng hợp, đính kèm tổng hợp thu chi theo mục lục NSNN trình UBND huyện xem xét để trình UBND tỉnh, tỉnh căn cứ vào đó để làm báo cáo trình Bộ Tài chính, để bộ tổng hợp trình cấp trên và Ngân sách các cấp. Tuy nhiên việc quyết toán Ngân sách xã ở huyện có một số địa phương làm tốt, song bên cạnh đó còn có một số xã làm chưa tốt, chưa thực hiện tốt chế độ báo cáo quyết toán theo quy định của luật Ngân sách và hướng dẫn của các thông tư do Bộ Tài chính ban hành. 2.3 Thực hiện công khai tài chính Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn. * Chỉ đạo của huyện : Trong cơ chế quản lý, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và NSNN 2005 ban hành kèm theo quyết định số 155/2005/QĐ - UB ngày 8/3 năm 2005 có nội dung chỉ đạo thực hiện công khai tài chính đối với Ngân sách cấp xã.Yêu cầu: Ngân sách cấp xã phải thực hiện công khai tài chính. Nội dung, hình thức và thời gian công khai tài chính theo quy định tại quyết định số 225/1998/QĐ-TTG ngày 20/11/1998 nay thay thế bằng quyết định số 192/2004/QĐ-TTG ngày 16/11/2004 của thủ tướng chính phủ. Thông tư số 03 của BTC. Các văn bản khác của các cấp có thẩm quyền về việc thực hiện công khai tài chính và quy chế dân chủ. Trong đó huyện yêu câu lưu ý các nội dung sau : Tổng dự toán ngân sách, quyết toán thu, chi Ngân sách xã hàng năm đã được HĐND xã phê duyệt. Trong đó, chi tiết nhiệm vụ thu NSNN đã được giao trên địa bàn theo thành phần kinh tế , một số lĩnh vực thu và một số sắc thuế, công bố chi tiết của một số lĩnh vực, một số hoạt động tài chính khác của xã như : Các quỹ hoạt động sự nghiệp, các khoản huy động đóng góp của nhân dân. Tổng dự toán, quyết toán thu, chi Ngân sách , số bổ sung từ Ngân sách cấp trên. Các định mức, tiêu chuẩn, các nguyên tắc và phương thức phân bổ kinh phí Ngân sách. Nghiêm cấm mọi trường hợp giữ nguồn lại đề cấp phát ngoài kế hoạch. * Các xã thực hiện : Sau khi HĐND cấp xã ban hành nghị quyết về quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán Ngân sách và các hoạt động tài chính khác của xã. UBND xã thực hiện công khai tài chính trước công chúng và gửi số liệu công khai này cho UBND cấp huyện và phòng Tài chính kế hoạch huyện. Dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của UBND huyện trong việc công khai tài chính, thời gian qua các xã trên địa bàn huyện đã tiến hành công khai dự toán, quyết toán thu , chi Ngân sách xã trước HĐND xã trong các kỳ họp, và được truyền thanh trực tiếp trên hệ thống truyền thanh xã. Các cán bộ tài chính liên quan đã trả lời chất vấn trực tiếp của các đại biểu HĐND xã trong kỳ họp về tình hình thực hiện thu, chi Ngân sách xã, đối với các khoản thu, lĩnh vực chi rõ ràng chi tiết, đến từng hạng mục công trình. Đối với các khoản thu theo mùa vụ, ban tài chính tổng hợp thu từng ngày, tháng của các xóm trên địa bàn xã và công bố trên hệ thống truyền thanh xã, nhằm tuyên dương các đơn vị xóm hoàn thành tốt công tác giao nộp sản phẩm đồng thời đôn đốc các đơn vị xóm còn chậm trễ trong công tác giao nộp sản phẩm. Đặc biệt các khoản thu, chi liên quan tới nguồn đóng góp của nhân dân được các xã công khai đến từng đơn vị xóm trên địa bàn xã. Trong các kỳ tiếp xúc cử tri các cán bộ xã liên quan đến công tác quản lý Ngân sách xã trả lời chất vấn trực tiếp của nhân dân những vướng mắc trong quá trình thu, chi Ngân sách xã. Các xã trên địa bàn huyện chủ yếu công khai số liệu Ngân sách dưới hình thức thông báo bằng văn bản tới trưởng các thôn xóm ở xã, cho đảng uỷ và thông báo trên hệ thống truyền thanh xã. Nhìn chung các xã thực hiện tốt quy chế công khai tài chính Ngân sách xã. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số xã chưa ý thức đúng đắn mục đích, tác dụng của việc công khai tài chính nên chỉ làm lấy lệ, thủ tục là chủ yếu, nhiều xã trên địa bàn huyện chỉ thông báo sơ bộ dự toán, quyết toán Ngân sách xã trên hệ thống truyền thanh một vài lần. Đặc biệt gần như 100% các xã chưa thực hiện niêm yết công khai tài chính Ngân sách xã tại trụ sở uỷ ban xã. 2.4 Những nhận xét chung về công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Qua thực tế hai năm thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách xã theo luật NSNN trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đã góp phần tăng cường nội lực về tài chính cho bộ máy chính quyền cấp cơ sở ngày một lớn mạnh. Làm cho công quỹ được quản lý chặt chẽ, thống nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời qua công tác quản lý Ngân sách xã đã tạo thuận lợi cho phòng Tài chính kế hoạch huyện Nam Đàn giảm bớt được công việc sự vụ so với trước, có điều kiện tăng cường hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động tài chính của cấp xã, cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế (đội thuế) khai thác tốt nguồn thu trên địa bàn xã. 2.4.1 Những kết quả và nguyên nhân. 2.4.1.1.Về kết quả . Khâu lập dự toán Ngân sách xã đã được các xã quan tâm và từng bước triển khai theo đúng quy định của luật NSNN. Dự toán, thu chi Ngân sách xã đã được tính toán, phân bổ theo mục lục NSNN, tạo cơ sở cho công tác điều hành Ngân sách xã của chính quyền cơ sở và công tác kiểm soát chi của KBNN. Hiện nay hầu hết các xã đã biết lập dự toán một cách khoa học và hợp lý. Khâu lập dự toán Ngân sách xã, nhiều xã đã biết chủ động quản lý huy động nguồn thu và bố trí chi tiêu một cách hợp lý. Hầu hết các xã trên phạm vi toàn huyện đã biết tổ chức khai thác nguồn thu và nuôi dưỡng nguồn thu tại chỗ bằng cách đầu tư mở rộng các khu chợ, bến bãi để tạo thêm nguồn thu lâu dài. Các xã trên địa bàn đã biết cách bố trí, sử dụng Ngân sách xã có khoa học và hiệu quả. Đối với việc quyết toán Ngân sách xã thực hiện theo chế độ ghi chép, mở sổ sách kế toán Ngân sách xã theo hình thức ghi sổ kép. Được thống nhất trong toàn huyện, thay thế cho ghi sổ đơn, sổ chợ trước đây. Đồng thời, chế độ kế toán Ngân sách xã đã và đang được thương xuyên tập huấn, bồi dưỡng cho các kết toán ở xã về kế toán Ngân sách xã nên đã góp phần làm cho kế toan xã thực sự trở thành công cụ quan trọng, phục vụ cho công tác quản lý Ngân sách xã. Trên cơ sở này, kết toán Ngân sách xã đã tổng hợp và lập báo cáo quyết toán Ngân sách xã theo đúng yêu cầu quản lý NSNN hiện hành. 2.4.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả trên . Đạt được kết quả trên là do : Kế hoạch thu chi Ngân sách xã được xây dựng ngay từ đầu năm, thảo luân dân chủ, công khai và được HĐND xã thông qua. Các xã tiến hành lập kế hoạch đều tuan thủ căn cứ vào khả năng thu ngân sách tại xã để lập dự toán Ngân sách xã. Các khoản chi ngoài kế hoạch được bàn bạc thống nhất trong lãnh đạo để xác định nguồn thu. Chi Ngân sách xã xuất phát từ ý nguyện nhân dân trong định hướng phát triển kinh tế của địa phương, đồng thời thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát của các cấp, ngành chuyên môn. Xã đã kết hợp phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” . Thu chi gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng người. Báo cáo thu chi Ngân sách xã được duy trì thành nề nếp tại địa phương, hàng tháng báo cáo tại hội nghị UBND, 6 tháng hoặc một năm báo cáo tại kỳ họp HĐND xã .Nhờ có sự kết hợp giữa cán bộ phòng Tài chính kế hoạch huyện cho nên công tác lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã về cơ bản đã được thực hiện đúng theo chế độ hiện hành. 2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân. 2.4.2.1.Những tồn tại. Khâu lập dự toán Ngân sách xã: Có những xã trên địa bàn huyện nhận thức về công tác quản lý Ngân sách xã còn đơn giản. Vì thế công tác lập dự toán Ngân sách xã bị coi nhẹ, chỉ làm lấy lệ. Việc lập dự toán Ngân sách xã ở một số xã trên địa bàn khống sát với thực tế, không phù hợp với yêu cầu của địa phương dẫn đến phải bổ sung thay đổi nhiều lần. Ban tài chính một số xã trình độ còn yếu kém dẫn đến không nắm hết chế độ, quy định hiện hành, có xã cho rằng chi tiêu như thế nào là quyền của xã. Vì vậy công tác lập dự toán Ngân sách xã theo luật NSNN bị coi nhẹ, chưa lập theo đúng mục lục NSNN tới từng mục thu, chi một cách cụ thể và theo biểu mẫu lập dự toán Ngân sách xã của Bộ Tài chính ban hành. Thời gian lập và gửi dự toán để xét duyệt thường bị chậm trễ so với thời gian quy định. Khâu chấp hành dự toán Ngân sách xã: Do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tài chính của đội ngũ cán bộ xã chưa theo kịp với nhịp độ triển khai Ngân sách xã. Việc lập dự toán chi tiết, đầy đủ theo đúng mục lục NSNN đối với các xã còn lúng túng, dẫn đến những khó khăn trong việc chấp hành dự toán Ngân sách và sự kiểm soát của KBNN huyện Nam Đàn. Vẫn còn một số xã chưa năng động trong khai thác nguồn thu trên địa bàn trông chờ vào khoản chi hỗ trợ, bổ sung từ Ngân sách cấp trên. Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nhưng trong thực tế nhiều xã không ý thức được điều đó, dẫn đến tình trạng buông lỏng công tác quản lý hoặc sử dụng đất đai không có hiệu quả. Chưa thực sự biết khai thác khả năng sinh lợi của đất, để lảng phí làm suy giảm tiềm lực tài chính của địa phương một trong những nguồn thu của Ngân sách xã. Công tác quản lý thu các khoản thuế phí, lệ phí còn buông lỏng gây tổn thất cho Ngân sách xã. Thu hoa lợi công sản từ đất công ích hầu hết các xã đều không khai thác triệt để nguồn thu này . Khâu quyết toán Ngân sách: Tuy có một số xã đã làm tốt song số còn lại thực hiện chế độ báo cáo quyết toán chưa thực sự trung thực gây khó khăn cho việc đánh giá thu, chi Ngân sách tại xã. Công tác duyệt quyết toán thiếu chính xác, báo cáo không kịp thời theo quy định. Tình trạng nợ nần sinh hoạt phí, trợ cấp cán bộ xã ở một số xã còn xuất hiện. Công tác quản lý Ngân sách ở các xã đã gặp phải khó khăn vì thông tin không đầy đủ, đồng thời gây khó khăn lớn cho cơ quan tài chính cấp trên trong việc phân tích số liệu đề nghị quyết toán của Ngân sách xã. 2.4.2.2. Nguyên nhân dẫn tới tồn tại trên. Nguyên nhân khách quan: Nam Đàn là huyện địa bàn rộng lớn, địa bàn đi lại một số xã cách trở, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân trong xã còn thấp đây là nguyên nhân dẫn tới nguồn thu của xã còn hạn hẹp. Quy trình quản lý thu, chi Ngân sách xã đã có hướng dẫn của các cấp trên nhưng chưa bao quát yêu cầu quản lý, dẫn đến hiện tượng có xã tự quy định quy trình quản lý thu, chi Ngân sách xã, gây khó khăn trong tổng hợp và điều hành NSNN ở cấp xã. Mục lục NSNN còn phức tạp chưa phù hợp với trình độ chung của cấp xã hiện nay. Do vậy Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung cho phù hợp. Tham gia vào quản lý tài chính Ngân sách ở xã vẫn còn có người chưa có trình độ chuyên môn ở mức tối thiểu, vì vậy khi nghiên cứu các văn bản pháp quy về quản lý Ngân sách họ chưa hiểu. Từ đó không nắm bắt được nội dung, yêu cầu cơ bản của công tác quản lý Ngân sách xã. Nguyên nhân chủ quan: Cồng việc quản lý tài chính Ngân sách xã chưa được coi là một nghề thay vào đó, lãnh đạo ở một số cơ quan chính quyền địa phương lại coi nó là hoàn toàn như một công cụ thuần tuý mà ai cũng có thể làm được. Vì vậy sự ổn định vị trí cho những người làm công tác quản lý tài chính Ngân sách xã chưa được quan tâm đúng mức. Họ thường bị thay đổi sau mỗi kỳ bầu cử HĐND .Chính vì vậy những tích luỹ kinh nghiệm mà mỗi người đã từng tham gia quản lý tài chính Ngân sách xã sau mỗi thời gian công tác không được tiếp tục sử dụng ở những năm sau. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý tài chính và Ngân sách xã ở các cấp, ngành địa phương chưa được tăng cường đúng mức về số lượng và chất lượng theo yêu cẩu công việc, điều này gây khó khăn trong tổ chức kế toán , giám sát kiểm tra và tổng hợp, phân tích đánh giá về Ngân sách. Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NSX theo quy định của pháp luật trên địa bàn huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong những năm tới. 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tới của huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong những năm (giai đoạn 2005-2010). Phát huy tiềm năng, khai thác có hiệu quả các công trình kinh tế, xã hội hiện có; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá; tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, có giá trị cạnh tranh trên thi trường. Phát triển nguồn lực, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chăm lo tốt các vấn đề xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh vững chắc. Phấn đấu đến năm 2010 đưa Nam Đàn trở thành huyện có đời sống văn hoá phát triển toàn diện. Cụ thể: Về kinh tế: Tốc độ tanư trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2010 đạt 12,5%; tổng giá trị sản phẩm tăng gấp 3 lần so với hiện nay; thu nhập bình quân theo đầu người năm 2010 đạt 761,9 USD tăng 323,9 USD so với năm 2005; trong cơ cấu kinh tế giảm dần tỷ trong nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ thương mại du lịch và công nghiệp xây dựng. Về xã hội: Nam Đàn đang từng bước giảm tỷ lệ gia tăng dân số cố gắng đến năm 2010 quuy mô dân số là 162.600 người; đến năm 2010 phấn đấu 100% các xã có trường mầm non đạt tiêu chuẩn quốc gia; thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đàu cho người dân đến năm 2010 phấn đấu 100% số xã có bác sỹ; xoá đói giảm nghèo cố gắng đến năm 2010 về cơ bản hoàn thành. Quản lý chặt chẽ NSX là một nội dung quan trọng để xây dựng thiết chế dân chủ ở xã, đồng thời là công việc hết sức cần thiết của đảng và nhà nước nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình CNH – HĐH ở nông thôn hiện nay. Để làm tốt việc này cần khắc phục những tồn tại ở trên. Từng bước đưa NSX đi vào ổn định hoạt động theo đúng yêu cầu, quy định của luật NSNN. Tôi xin được đề xuất một số giải pháp sau: 3.2. Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NSX theo luật ngân sách trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 3.2.1. Khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. Việc đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn đã và đang được đảng và nhà nước coi là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt vấn đề thực hiện quản lý tốt NSX theo luật NSNN không thể không quan tâm tới việc khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội nhằm khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu cho NSX một cách ổn định và phát triển, ổn định nguồn thu đảm bảo cân đối ngân sách trên địa bàn. Huyện Nam Đàn còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt cơ sở hạ tầng nông thôn điện, đường, trường, trạm của các xã trong huyện còn nhiều yếu kém. Điểm bức xúc này cần được coi là một nhóm công trình trọng điểm, ưu tiên số một, nên dành một khoản tiền ngân sách thích đáng để đầu tư, phục vụ nhu cầu dân sinh đồng thời thực hiện các nhiệm vụ chính trị – kinh tế – xã hội của địa phương. Huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” trong xây dựng trường học làm đường và các công trình công cộng khác. Song song với các công trình về điện, đường giao thông nông thôn và các công trình phúc lợi dân sinh. Việc khuyến khích đầu tư phát triển công, nông, lâm, ngư nghiệp cũng cần phải được quan tâm chú trọng để đẩy mạnh sản xuất, khơi dậy ngành nghề truyền thống, mở mang ngành nghề mới, tăng nguồn thu cho NSX đồng thời nâng cao đời sống của nhân dân xã. Đề nghị chính phủ, Bộ Tài chính, Sở Tài chính và các cấp bộ ngành có liên quan sớm nghiên cứu sửa đổi một số chính sách, chế độ phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nông thôn, quỹ tín dụng phát triển NSX, xây dựng chương trình tiến tới không còn xã nghèo. 3.2.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ. 3.2.2.1. Tăng cường quản lý NSX theo đúng nội dung quản lý NSX. Để tăng cường quản lý NSX theo đúng nội dung quản lý NSX cần tiếp tục tuyên truyền, quán triệt sâu sắc luật NSNN trong cán bộ và nhân dân. Đồng thời trong quá trình thực hiện phải tuân thủ nghiêm ngặt toàn bộ nội dung quản lý NSX theo đúng tinh thần thông tư số 60/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính, quy định về quản lý NSX…Đây là căn cứ để quản lý NSX và là một bước rất quan trọng tạo tiền đề để cho việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã được chính phủ ban hành. Địa phương (huyện) cần triển khai và áp dụng thống nhất trong phạm vi toàn huyện, để các xã trên địa bàn huyện áp dụng và thực hiện theo đúng quy định. Trong quá trình thực hiện các xã phải tuân thủ nghiêm ngặt tất cả các khâu sau: Lập dự toán NSX; chấp hành dự toán NSX; kế toán và quyết toán NSX. Lập và quyết định dự toán NSX: Hàng năm trên cơ sở hướng dẫn của UBND tỉnh và chỉ đạo của UBND huyện, UBND xã lập dự toán NSX cho năm sau, trình HĐND xã quyết định. Căn cứ vào quyết định của chính phủ; thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính; chế độ phân cấp về nguồn thu nhiệm vụ chi ngân sách; các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của xã; số kiểm tra về dự toán ngân sách do UBND huyện thông báo; tình hình thực hiện dự toán NSX năm hiện hành. Các ban hoặc tổ chức thuộc UBND xã căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao và chế độ định mức, tiêu chuẩn chi lập dự trù nhu cầu chi. Ban tài chính và NSX phối hợp với đội thu thuế xã tính toán các khoản thu NSNN trên địa bàn (chỉ trong phạm vi phân cấp do xã quản lý)…Ban tài chính và NSX tính toán cân đối, lập dự toán thu, chi NSX trình UBND xã báo cáo HĐND xã xem xét gửi UBND huyện và phòng tài chính huyện. Dự toán thu: Phải lập theo mục lục NSNN gồm các chương, loại, khoản, nhóm, tiểu nhóm, mục, tiểu mục đã có trong quy định của mục lục NSNN áp dụng đối với xã. Dự toán chi: Gồm các chương theo mã số quy định của mục lục NSNN. Cân đối NSX nên dựa trên nguyên tắc chi cân đối với nguồn thu tự có của NSX. Việc bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên chỉ thực hiện khi thực sự cần thiết và theo những mục đích nhất định. Quyết định dự toán NSX: Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của UBND huyện, UBND xã hoàn thành dự toán ngân sách theo lĩnh vực trình HĐND xã quyết định. Sau khi dự toán NSX được HĐND xã quyết định, UBND xã báo cáo UBND huyện, phòng tài chính huyện đồng thời công khai cho nhân dân biết theo quy chế công khai tài chính về NSNN. Chấp hành dự toán NSX: Các xã phải tổ chức thực hiện dự toán đúng quy định của điều khoản về luật ngân sách và nghị định, thông tư của Chính Phủ hướng dẫn chấp hành dự toán NSX. Nghiệp vụ quản lý tài chính NSX đòi hỏi phải chặt chẽ phù hợp và không được trái với các điều luật, các văn bản quy chế về quản lý NSX trong khâu chấp hành dự toán NSX. Quỹ NSNN phải được quản lý tại KBNN, mở tài khoản NSX tại KBNN huyện để hạch toán khớp đúng với thu, chi NSNN. Việc chấp hành dự toán chi NSX phải đảm bảo nguyên tắc: Kinh phí đã được ghi trong dự toán năm và kế hoạch hàng tháng chi tiêu tuỳ thuộc vào số thu của NSX. Nghiệp vụ quản lý chi tiêu, xuất quỹ NSX phải quy định rõ ràng đúng quy định của luật ngân sách. Kế toán và quyết toán NSX: Ban tài chính và ngân sách xã có trách nhiệm thực hiện công tác hạch toán kế toán và quyết toán NSX theo mục lục NSNN áp dụng đối với cấp xã và chế độ kế toán NSX hiện hành (Theo quyết định 130/2003/QĐ-BTC ngày 18/8/2003 của Bộ Tài chính và công văn số 1139KB/KT ngày 11/9/2003 của KBNN TW về việc ban hành chế độ kế toán hiện hành); thực hiện chế độ báo cáo kế toán và quyết toán theo quy định. KBNN huyện nơi giao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12598.DOC
Tài liệu liên quan