Đề tài Hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo: PHẦN MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ cả về chất lẫn về lượng, quan hệ giữa các quốc gia ngày càng thắt chặt hơn trên nhiều lĩnh vực, hoạt động thương mại quốc tế đã mở ra trên phạm vi toàn thế giới với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Không nằm ngoài xu thế đó, vấn đề tham gia hội nhập kinh tế quốc tế phải tìm ra những bước đi cụ thể, tạo môi trường đầu tư theo hướng cạnh tranh thu hút các nguồn vốn, chất xám, công nghệ tạo điều kiện thuận lợi phát huy “nội lực” trên cơ sở kết hợp với “ngoại lực” để nhanh chóng vượt qua những yếu kém cũng như những thách thức của nền kinh tế, tạo đà tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Là một bộ phận của hoạt động thu hút vốn đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại…v.v. đã và đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh hoạt, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước ...

doc156 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ cả về chất lẫn về lượng, quan hệ giữa các quốc gia ngày càng thắt chặt hơn trên nhiều lĩnh vực, hoạt động thương mại quốc tế đã mở ra trên phạm vi toàn thế giới với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Không nằm ngoài xu thế đó, vấn đề tham gia hội nhập kinh tế quốc tế phải tìm ra những bước đi cụ thể, tạo môi trường đầu tư theo hướng cạnh tranh thu hút các nguồn vốn, chất xám, công nghệ tạo điều kiện thuận lợi phát huy “nội lực” trên cơ sở kết hợp với “ngoại lực” để nhanh chóng vượt qua những yếu kém cũng như những thách thức của nền kinh tế, tạo đà tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Là một bộ phận của hoạt động thu hút vốn đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại…v.v. đã và đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh hoạt, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa Hiện đại hóa. Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo chính là mô hình mới nhằm tìm kiếm động lực kinh tế vùng, kinh tế quốc gia trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới. Ngày 12/11/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 219/1998/QĐ-TTg ban hành Quy chế khu vực khuyến khích phát triển kinh tế và thương mại Lao Bảo (Khu thương mại Lao Bảo). Để tiếp tục hoàn thiện chính sách theo hướng ưu đãi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển khu thương mại Lao Bảo. Ngày 12/01/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số́ 11/2005/QĐ-TTG ban hành quy chế khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo - nơi được hưởng các chính sách ưu đãi cao nhất so với các khu vực kinh tế khác trong toàn quốc. Là mô hình khu kinh tế cửa khẩu còn rất mới mẻ ở khu vực miền Trung - một khu vực còn nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế. Sau gần 8 năm đi vào hoạt động, những thành tựu mà khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đạt được vẫn đang ở mức khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của khu. Cơ chế chính sách dành cho khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đưa vào vận dụng thực tiễn còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại nhất định. Để khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo trở thành “tâm điểm” thu hút vốn đầu tư của Miền Trung, là điểm đón đầu trên trục Hành lang kinh tế Đông - Tây, khai thác được những lợi thế chiến lược về phát triển kinh tế thương mại của khu vực và phát huy mối quan hệ hữu nghị đặc biệt hai nước Việt - Lào, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo” là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Mục tiêu tổng quát: Hoàn thiện các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. - Mục tiêu cụ thể + Hệ thống hóa một số vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tư. + Đánh giá toàn diện thực trạng thu hút vốn đầu tư, chỉ ra nguyên nhân hạn chế việc thu hút vốn đầu tư ở khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. + Đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo - Kết quả nghiên cứu + Những kết luận về môi trường đầu tư tại khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, làm cơ sở cho các nhà đầu tư, các đối tác liên doanh, các nhà quản lý, các nhà quản trị đầu tư tham khảo ý kiến để xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư. + Những giải pháp cụ thể, thiết thực để duy trì, cải thiện môi trường đầu tư. Nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn các nhà đầu tư đầu tư vốn vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu thực trạng thu hút vốn đầu tư không chỉ trong nước mà các cả nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài để từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. - Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Nghiên cứu tại khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, huyện Hướng Hóa Tỉnh Quảng Trị. Có tham chiếu so sánh với một số khu kinh tế điển hình khác. + Về thời gian: Giai Đoạn 2002- 20006 4. NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN - Chương 1: Cơ sở lý luận về thu hút vốn đầu tư vào các khu kinh tế - Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu - Chương 3: Tình hình thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo - Chương 4: Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ 1.1. ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ Nhà kinh tế học John M.keynes cho rằng đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản cố định tiến hành sản xuất, ông chủ yếu tập trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng) để thu về một khoảng lợi nhuận tương lai: “khi doanh nhân mua một tài sản tư bản hay một khoản đầu tư, là anh ta mua quyền để có thu hoạch tương lai. Đó là chênh lệch giữa số tiền bán hàng với phí tổn để cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó” [4,213]. Quan niệm của ông đã nói lên kết quả của đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm tài sản cố định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra song chưa phản ảnh kết quả đầu tư dùng vốn để đem lại vốn nhiều hơn. Khi đề cập đến khía cạnh rủi ro bất trắc, A.Samuelson đã quan niệm rằng “Đầu tư là đánh bạc với tương lai”, hay khi đề cập đến vai trò của tiết kiệm, từ bỏ tiêu dùng hiện tại với niềm tin kỳ vọng thu nhập do đầu tư mang lại sẽ cao hơn chi phí của đầu tư, các tác giả “Kinh tế học của sự phát triển” lại cho rằng “đầu tư là một sự hi sinh tất cả các nguồn lực của cải ngày hôm nay để hi vọng đạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai” [31,12-13]. Theo từ điển giải nghĩa, Tài chính, Đầu tư, Ngân hàng, Kế toán Anh - Việt nhà xuất bản khoa học kinh tế, năm 1999 thì đầu tư là dùng vốn để có nhiều tiền hơn, hoặc thông qua những phương tiện tạo ra thu nhập (lãi, lợi nhuận) hoặc thông qua những hình thức kinh doanh mạo hiểm có nhiều rủi ro hơn để kiếm lãi vốn - quan niệm này để tiếp cận khái niệm đầu tư dưới góc độ vốn, dùng vốn để đem lại vốn nhiều hơn, song chưa phản ánh kết quả đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm năng lực của nền kinh tế. Như vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về đầu tư, nhưng nhìn chung các quan điểm đều có chung một kết luận đầu tư đồng nghĩa với "sự bỏ ra", "sự hi sinh". Từ đó có thể coi "đầu tư" là sự bỏ ra, sự hi sinh cái gì đó ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho đầu tư trong tương lai [32,8]. Hoặc, “Đầu tư là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối dài (từ hai năm trở lên đến năm mươi năm, bảy mươi năm, hoặc lâu hơn) nhằm thu được lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư, cho xã hội và cho cộng đồng" [15,11]. Vốn đầu tư là yếu tố tiền đề cho mọi quá trình đầu tư. K.Marx đã khái quát phạm trù vốn qua phạm trù tư bản, việc gia tăng tư bản nhằm tăng cường năng lực sản xuất cho tương lai, theo Marx: tư bản là giá trị đem lại thặng dư [31,5]. Theo cách hiểu thông thường vốn đầu tư là toàn bộ những gì (tiền của, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ...v.v) bỏ vào một việc nhất định để thu lại lợi ích lớn hơn trong tương lai. Tiếp cận theo quan điểm thị trường, vốn đầu tư được hiểu là quá trình sử dụng những tài sản cá nhân, công ty hoặc những gì bỏ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời trong tương lai. Tổng quát, vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của đầu tư tạo ra các tài sản nhằm mục đích thu nhập trong tương lai [16,116]. Do đặc điểm của sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu ngày càng gia tăng về tài sản nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Như vậy, hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất, là quá trình chi tiêu cho dự án, trong đó các nguồn lực sản xuất được huy động và sử dụng nhằm tăng lực sản xuất với mục đích thu được lợi ích trong tương lai lớn hơn chi phí ban đầu mà nhà đầu tư đã bỏ ra. Xét ở góc độ kinh tế vĩ mô, chỉ có những hoạt động đầu tư thực sự làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh dưới góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân mới có ý nghĩa trực tiếp làm tăng trưởng sức sản xuất, tạo việc làm mới cho nền kinh tế [23,12-13]. 1.2. CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ Ở góc độ chung nhất trong phạm vi một quốc gia, nguồn vốn đầu tư có thể chia thành ngồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước - Đầu tư từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là một đạo luật dự trù các khoản thu chi bằng tiền của Nhà nước trong thời gian nhất định thường là một năm [34,48]. Nguồn chi ngân sách cho đầu tư theo nguyên tắc cấp phát không hoàn lãi, nó thể hiện sức mạnh nội lực quốc gia. Hướng ưu tiên chủ yếu của nguồn vốn này là dành cho các dự án đầu tư công cộng, kết cấu hạ tầng, phát triển mũi nhọn, phát triển nguồn nhân lực hoặc đầu tư cho các ngành, vùng hay khu vực khó khăn. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Về bản chất cũng giống như đầu tư từ ngân sách nhà nước nhưng theo nguyên tắc hoàn toàn trả vốn vay. Hướng ưu tiên chủ yếu của nguồn vốn này là dành cho các dự án thuộc các chương trình phát triển ưu tiên của quốc gia và trong nhiều trường hợp có khi huy động từ vay. - Đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước: Được hình thành từ nguồn lợi nhuận sau thuế, các quỹ không chia hoặc đi vay của các định chế tài chính. Quy mô nguồn vốn đầu tư này phụ thuộc nhiều vào chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước của từng quốc gia. - Đầu tư của khu vực dân doanh: Nguồn vốn này hoàn toàn do thành phần này tự quyết định. Cùng với sự cơ chế thị trường, nguồn vốn đầu tư dân doanh có vài trò to lớn và chiếm tỷ trọng càng cao trong tổng vốn đầu tư. 1.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Vốn nước ngoài được huy động thông qua các hình thức cơ bản sau: - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn [7,74]. Tuy nhiên, FDI không chỉ đơn thuần đưa ngoại tệ vào nước sở tại, mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận thị trường thế giới. FDI đã và đang trở thành hình thức huy động vốn nước ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát triển đang tìm cơ hội đầu tư nước ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh. - Viện trợ phát triển không chính thức (ODA) ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn lãi suất thấp) của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống LHQ, các tổ chức phi chính phủ (NGO) hay IMF, ADB, WB giành cho các nước nhận viên trợ [7,76]. Là nguồn vốn rất quan trọng đối với những quốc gia đang phát triển, các nước kém phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá trình phát triển và phúc lợi xã hội của các nước này. - Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ Viện trợ NGO là viện trợ không hoàn lại, chủ yếu là viện trợ vật chất với mục đích nhân đạo, quy mô nguồn vốn này khá nhỏ. - Nguồn vốn đầu tư tư nhân gián tiếp của nước ngoài (FPI) [25,19] Đó là nguồn vốn do tư nhân nước ngoài chảy vào các nước đang phát triển là vốn tư nhân nước ngoài đầu tư vào các chứng khoán cổ phần (equity securities) hoặc các chứng khoán nợ (dedt securities) của các nước phát triển. 1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ Thu hút vốn đầu tư là những hoạt động nhằm khai thác, huy động các nguồn vốn đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Thu hút vốn đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế địa phương, quốc gia, thể hiện ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và phát triển xã hội cũng như bảo vệ, cải thiện môi trường. Đầu tư là yếu tố cấu thành chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng cầu, chủ yếu là cầu đầu tư về tư liệu sản xuất. Đầu tư cũng có tác động đến tổng cung, về dài hạn nó quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mô hình kinh Harrod - Dorma nghiên cứu hệ số ICOR đã chỉ ra rằng: I =ICOR x DGDP Trong đó : ICOR là hệ số đầu tư, I là tổng vốn đầu tư cho xã hội và DGDP là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội [19,69-70]. Cụ thể, những nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với các chỉ số ICOR thấp, thường không quá 3%, có nghĩa là phải tăng đầu tư 3% để tăng 1% GDP [19,73]. Như vậy, kết quả của quá trình thu hút vốn đầu tư sẽ làm gia tăng vốn sản xuất, tức là tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế dưới dạng tài sản cố định. Sự thay đổi này thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Thứ hai, thu hút vốn đầu tư có vai trò quyết định đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu sở hữu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư nhiều hay ít tuỳ theo nhu cầu phát triển và chính sách đầu tư của nhà nước đối với từng vùng, ngành, thành phần kinh tế. Thứ ba, đầu tư tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và quốc gia đổi mới công nghệ, hiện đại hoá quá trình sản xuất, thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. 1.4. KHU KINH TẾ - MÔ HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ 1.4.1. Đặc khu kinh tế (Special Economic Zone - SEZ) SEZ là một mô hình đặc thù của chính sách mở cửa nền kinh tế Trung Quốc. SEZ được hiểu là khu vực mà quốc gia dành ra một phạm vi nhất định trong hoạt động kinh tế đối ngoại thực hành chính sách kinh tế đặc thù. Việc xây dựng SEZ lấy việc thu hút và lợi dụng đầu tư nước ngoài làm chính, sản phẩm xuất khẩu làm chính, hoạt động kinh tế của SEZ lấy việc điều tiết thị trường làm chính, SEZ được hưởng sự đãi ngộ tối huệ về miễn giảm thuế quan trọng mậu dịch đối ngoại [43]. Về cơ bản mô hình SEZ Trung Quốc mang 4 tính chất đặc biệt sau [5,408-418]: - Có chính sách thuế đặc biệt cho thu hút FDI. - Tính độc lập cao trong đầu tư và thương mại quốc tế. - Thoả mãn 4 điều kiện nền tảng: Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nguồn vốn xây dựng và phát triển SEZ được huy động từ các đối tác nước ngoài là chủ yếu, hàng hoá từ SEZ phải đáp ứng mục tiêu xuất khẩu. - Tách riêng SEZ ra khỏi kế hoạch cả nước, kể cả kế hoạch tài chính. Được Quốc hội thông qua quyết định thành lập. Chính quyền và hội đồng nhân dân có đầy đủ địa vị pháp lý như là cơ quan cấp Tỉnh. 1.4.2. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu phi thuế quan, khu kinh tế mở - Khu công nghiệp (KCN) là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp do chính phủ thành lập hoặc cho phép các tổ chức khác thành lập [22]. - Khu chế xuất (KCX) là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [22]. - Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập. Trong khu công nghiệp cao có thể có doanh nghiệp chế xuất [22]. - Khu phi thuế quan là khu được quy hoạch có ranh giới xác định, chủ yếu hoạt động thương mại với cơ chế chính sách ưu đãi riêng. Khu phi thuế quan là khu vực đặc biệt, mặc dù nằm trong lãnh thổ quốc gia và hoàn toàn chịu quyền tài phán của quốc gia nhưng với sự cho phép của Chính phủ, nó được hưởng quy chế như một khu cực ngoài lãnh thổ hải quan của quốc gia đó [35,128]. - Khu kinh tế mở là mô hình khu kinh tế tổng hợp, không chỉ có công nghiệp mà có tất cả các ngành kinh tế khác nhau: Thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, du lịch, nông nghiệp, thuỷ sản, văn hoá, thể thao, là sản phẩm mới mang tính đặc thù của Việt Nam, là đỉnh cao của sự phát triển lý luận thực tiễn về KCN, KCX, là sự tham khảo có chọn lọc các mô hình đặc khu kinh tế của Trung Quốc [42]. 1.5. VAI TRÒ CỦA CÁC KHU KINH TẾ 1.5.1. Đối với nước nhận đầu tư 1.5.1.1. Thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước Môi trường đầu tư hấp dẫn, an toàn và có tính cạnh tranh cao là yếu tố để kích thích đầu tư và gia tăng khả năng thu hút vốn đầu tư. Trong khi môi trường đầu tư trong nước chưa hoàn thiện về thể chế, chính sách, cơ sở hạ tầng (CSHT) còn kém, các yếu tố về dịch vụ trung gian như tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải chưa phát triển đồng bộ, việc phát triển các khu kinh tế là điều kiện hình thành nên các địa bàn trọng yếu tạo ra những cơ chế tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tính đến năm 2006, các KCN, KCX đã thu hút được 2.367 dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư là 113 nghìn tỉ đồng và 210 dự án vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 16.843 triệu USD, chiếm 45% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký [36]. Bên cạnh đó, các KCN, KCX còn là một trong những giải pháp để thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Chính sách, Pháp luật của Nhà nước về phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. 1.5.1.2. Góp phần đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động Các khu kinh tế với những ưu thế của nó đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản về CSHT kinh tế xã hội cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ và gắn liền theo đó là trình độ quản lý tiên tiến từ nước ngoài. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển cả quy mô lẫn chất lượng của các khu kinh tế, sức “hấp thu” công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ nước ngoài cũng ngày càng gia tăng. Cơ cấu sản phẩm và cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng chất xám và khoa học công nghệ cao. Từ đó, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. 1.5.1.3. Tạo ra việc làm tập trung và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực Đóng góp to lớn về mặt xã hội của các khu kinh tế là đã giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, trong đó phần lớn là lao động dư thừa ở các địa phương. Đến nay, việc thu hút lực lượng lao động nhiều nhất ở nước ta là từ các KCN, KCX. Trong thời kỳ 2001-2005, các KCN, KCX đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp bốn lần so với thời kỳ trước (1991-1996). Tính đến tháng 6/2006 đã thu hút khoảng 865.000 lao động trực tiếp và khoảng 1,2-1,5 triệu lao động gián tiếp [36]. Ngoài ra, việc thu hút một lực lượng lao động lớn tại các khu kinh tế, sẽ tập trung được nguồn lực lao động dồi dào phục vụ cho sản xuất, mặt khác với quy mô đầu tư và phát triển của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn đa quốc gia vị thế toàn cầu sẽ cần một lực lượng lao động chuyên môn và chất lượng cao trong nước, cũng như nguồn nhân lực ở nước ngoài. Khu kinh tế là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới - công nghệ áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Vì vậy, các khu kinh tế đóng góp quan trọng vào việc đào tạo, tập trung và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực cho nền công nghiệp hiện đại của đất nước. 1.5.1.4. Góp phần gia tăng xuất khẩu, cân bằng cán cân ngoại thương, tăng thu ngân sách Nhà nước Trình độ công nghệ, trình độ quản lý tương đối cao, sự am hiểu và những mối quan hệ sẵn có với thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp khu kinh tế là cơ sở để các doanh nghiệp này thực hiện có hiệu quả chiến lược sản xuất kinh doanh hướng về xuất khẩu. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong khu kinh tế tăng trưởng khá đều đặn và tỷ trọng xuất khẩu luôn tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, riêng năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu từ KCN, KCX đạt 4,6 tỉ USD tăng 43% so với năm 2003, từ năm 1996 đến 2005 ước đạt khoảng 28,5 tỉ USD [36]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KCX đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước, thời kỳ 2001-2006, tổng giá trị nộp ngân sách đạt khoảng 2 tỉ USD, tăng 45%/năm và gấp 6 lần thời kỳ 1996-2000 [45.1]. 1.5.1.5. Góp phần đổi mới cơ chế quản lý và cải thiện môi trường đầu tư Các khu kinh tế được Chính phủ trao cho cơ chế quản lý mang tính đặc thù, cơ chế “một cửa, tại chổ”, đã tạo nên bước “đột phá” to lớn trong cải thiện môi trường đầu tư, làm gia tăng tính hấp dẫn cũng như tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Sự thành công của cơ chế “một cửa, tại chổ” không chỉ tạo nên sức phát triển riêng có của các khu kinh tế mà nó còn có tác dụng lan toả, làm thay đổi cơ chế quản lý cải thiện môi trường đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. 1.5.2. Đối với nhà đầu tư 1.5.2.1. Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ ở các nước đang phát triển Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm, giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu chuẩn hoá như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện không đòi hỏi trình độ công nghệ cao, tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. 1.5.2.2. Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển các khu kinh tế, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thuế và các ưu đãi khác của các khu kinh tế nhằm tăng cường lợi ích của cho các nhà đầu tư. 1.5.2.3. Tận dụng sự quản lý “lỏng” về môi trường Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm soát nổi ở các khu đô thị đông dân cư, ở các nước phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trường ngày càng tăng. Xu hướng chung của các nhà đầu tư là muốn chuyển các ngành công nghiệp này đến các vùng thưa dân cư hơn nhằm tránh hàng rào kỹ thuật của cơ quan quản lý địa phương hoặc đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì muốn chuyển sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường nước họ và giảm chi phí sản xuất. 1.5.2.4. Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài Khi đầu tư vào khu kinh tế, các nhà đầu tư trong nước, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chổ đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ. Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó. Dù được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và thời điểm khác nhau, nhưng mục tiêu của khu kinh tế đều gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì vậy, liều lượng và tính chất ưu tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nước cũng rất khác nhau, thể hiện qua những ưu đãi mà Chính phủ các nước này dành cho khu kinh tế. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia, Philippin dường như đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và tạo việc làm Xirilanca và Ấn Độ chú trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung Quốc lại ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền kinh tế khu vực ngoài KCN, KCX [45.1]. Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để thu nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc thành lập các khu kinh tế ở Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó [9]. Song để có các khu kinh tế thành công, điều cơ bản là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác hai bên phải tìm được điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu kinh tế là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt được trong môi trường đầu tư do các khu kinh tế tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu tư của các nhà đầu tư. 1.6. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ 1.6.1. Xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới Sự phát triển khác biệt về tính chất, trình độ nền kinh tế của các quốc gia, khu vực đã tạo nên những tiền đề riêng cho quá trình dịch chuyển vốn đầu tư quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI nhằm tối đa hoá lợi nhuận vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến các địa điểm có lợi về chi phí và tiêu thụ, các khu vực kinh tế năng động trên thế giới nhanh chóng trở thành tiêu điểm trong quá trình luân chuyển đến và đi của các dòng vốn quốc tế. 1.6.2. Xu hướng vận động FDI trên thế giới Nghiên cứu một cách đầy đủ xu thế vận động FDI sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng môi trường đầu tư tương thích, đề ra các chiến lược thu hút đầu tư phù hợp, nhằm đón đầu thu hút mạnh mẽ các dòng vốn đầu tư quốc tế vào các khu kinh tế. Trong thời gian tới, FDI trên thế giới vận động theo những xu hướng cơ bản sau: [32,41-47] Thứ nhất, FDI đã phát triển nhanh và trở thành một hình thái quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới gắn với sự hình thành mạng lưới sản xuất toàn cầu. Thứ hai, xu thế thay đổi mô hình FDI từ vượt qua rào cản thương mại sang liên kết. Với xu thế đẩy mạnh tự do hoá thương mại, lý do vượt qua rào cản thương mại không còn ý nghĩa nhiều. Các nhà đầu tư sẽ dựa vào khả năng thiết lập các mối liên kết nhằm tận dụng lợi thế so sánh trong việc phân bổ sản xuất quốc tế. Thứ ba, sự phân bổ dòng vốn FDI không đồng điều, phần lớn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng vẫn còn bé. Trong những thập kỷ tới, mặc dù các nền kinh tế phát triển vẫn là địa chỉ đến của FDI, song khu vực Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc sẽ nổi lên như là những trung tâm thu hút FDI của thế giới. Các nước công nghiệp mới (NICs) ở Châu Á - Thái Bình Dương đang vươn lên thành các thế lực đầu tư mạnh. Thứ tư, Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia của các nước phát triển. Nếu như ODA chịu sự chi phối của các quốc gia, vay thương mại chịu sự chi phối của các tập đoàn tài chính quốc tế. Thì FDI lại chịu sự chi phối chủ yếu của các tập đoàn công nghiệp và thương mại, các công ty tư nhân. Thứ năm, nguồn vốn FDI đang có khuynh hướng dịch chuyển mạnh sang lĩnh vực dịch vụ, là xu hướng nổi bật của FDI trong thời gian tới. 1.6.3. Môi trường đầu tư của các khu kinh tế 1.6.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Đây là những nhân tố đặc trưng riêng có của mỗi khu kinh tế, đó là đặc điểm về khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ là lợi thế to lớn để thu hút các dòng vốn đầu tư. 1.6.3.2. Sự ổn định chính trị, an ninh xã hội Chiến tranh bùng nổ và tình trạng bạo lực tràn lan sẽ đặt dấu chấm hết cho tất cả các khoản đầu tư hiệu quả, và một mức độ ổn định nhất định là yêu cầu tiên quyết để mọi cải thiện chính sách khác có thể bám trụ được lâu, các cam kết của Chính phủ nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư về quyền sở hữu tài sản, các chính sách ưu tiên, định hướng đầu tư mới được đảm bảo. Đây là những vấn đề được nhà đầu tư quan tâm, là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu vì nó tác động mạnh đến tính rủi ro trong đầu tư. Môi trường pháp lý vững chắc, minh bạch và có hiệu lực, hệ thống chính sách đầy đủ, hợp lý, đảm bảo sự nhất quán trong chủ trương thu hút đầu tư sẽ là những yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. 1.6.3.3. Trình độ phát triển của nền kinh tế, đặc điểm nền văn hoá xã hội Quy mô, trình độ của nền kinh tế, CSHT, hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, nguồn nhân lực, đường lối phát triển kinh tế, là những nhân tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của các địa phương, quốc gia trong thu hút vốn đầu tư. Khi vận hành tốt, tài chính sẽ kết nối doanh nghiệp với những người sẵn sàng cấp vốn cho doanh nghiệp và chia sẽ rủi ro. CSHT tốt sẽ kết nối doanh nghiệp với khách hàng và nhà cung ứng, giúp họ tranh thủ các kỹ thuật sản xuất hiện đại. Trái lại, tài chính và CSHT không đủ sẽ gây trở ngại cho các cơ hội và làm gia tăng chi phí và rủi ro cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, sự thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút đầu tư. 1.6.3.4. Chính sách đầu tư, các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến đầu tư Chính sách đầu tư rõ ràng, hấp dẫn, nhất quán, sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, từ đó có tác động hấp dẫn, lôi cuốn nhà đầu tư. Ưu đãi đầu tư là công cụ nhằm thu hút đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định. Trọng số quan trọng của ưu đãi sẽ khác nhau cho những mục đích đầu tư khác nhau. Chẳng hạn, ưu đãi đầu tư sẽ ít quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp khai khoáng hay phục vụ thị trường nội địa, song các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chế tác hay các ngành định hướng xuất khẩu sẽ nhạy bén hơn với các ưu đãi về thuế. Chính vì vậy, ưu đãi đầu tư cần được thiết kế mang tính linh hoạt nhằm phù hợp với mục tiêu của từng dự án. 1.6.4. Mối quan hệ lợi ích giữa các bên Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác đầu tư giữa nơi nhận đầu tư với nhà đầu tư thực chất là tìm điểm gặp nhau về lợi ích để hợp tác cùng nhau sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc thoả thuận, tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Theo đó lợi ích mà mỗi bên nhận được phải phù hợp với tương quan và khả năng của bên này và bên kia trong hợp tác. Lợi ích đó còn phải có lựa chọn so sánh với cái giá phải trả cho các đối tác khác nhau trong cùng một mục tiêu và một thời điểm. Đồng thời còn phải có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, đảm bảo phát huy có hiệu quả lợi ích của mỗi bên, trong đó quan trong nhất đối với nhà đầu tư là kinh doanh có hiệu quả và được đảm bảo an toàn vốn, lợi nhuận của họ. 1.7. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ Để đánh giá mức độ thu hút vốn đầu tư chúng ta cần xây dựng một số chỉ tiêu nhằm lược hoá các quá trình và kết quả đầu tư trong một tỉnh. Các chỉ tiêu phản ảnh thu hút vốn đầu tư là cơ sở phân tích ở phần tiếp theo. Trong khuôn khổ đề tài sẽ trình bày một số chỉ tiêu cụ thể sau: [13,63] 1.7.1. Mức độ thu hút vốn đầu tư vào trong tỉnh - Tỷ trọng vốn đầu tư vào các khu kinh tế: Trong đó: Iv: Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư của các khu kinh tế so với vốn đầu tư toàn tỉnh. Iv là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung vốn đầu tư vào các khu kinh tế của một địa phương nghiên cứu. VKKT: Vốn đầu tư vào các khu kinh tế trong tỉnh V: Tổng vốn đầu tư vào trong tỉnh Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Trong đó: IFDI là tỷ trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài so với vốn đầu tư toàn tỉnh. Chỉ số IFDI phản ánh sức hấp dẫn của các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thể hiện được khả năng của các cơ quan công quyền tỉnh và những lợi thế so sánh của địa phương trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). VFDI: Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong tỉnh. 1.7.2. Mức độ thu hút vốn đầu tư của khu kinh tế - Tỷ trọng thu hút vốn của khu kinh tế nghiên cứu: Trong đó: Ii: Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư của khu kinh tế nghiên cứu so với các khu kinh tế trong tỉnh. Chỉ tiêu Ii là cơ sở phản ánh tính hấp dẫn của khu kinh tế nghiên cứu so với các khu kinh tế khác trong một tỉnh. i: Là số chỉ số khu kinh tế nghiên cứu Vi: Vốn đầu tư của khu kinh tế nghiên cứu VKKT : Tổng vốn đầu tư vào các khu kinh tế trong tỉnh - Tỷ trọng vốn đầu tư của khu kinh tế nghiên cứu so với toàn tỉnh: Trong đó: II: Tỷ trọng vốn đầu tư vào khu kinh tế nghiên cứu so với vốn đầu tư vào toàn tỉnh. Chỉ số này phản ánh khả năng thu hút vốn đầu tư của khu kinh tế nghiên cứu so với tổng số lượng vốn đầu tư vào toàn tỉnh. 1.8. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TỪ MỘT SỐ KHU KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI 1.8.1. Đặc khu kinh tế của Trung Quốc [5,409-427] Với ưu thế vượt trội của mình, các SEZ Trung Quốc đã tận dụng mọi khả năng và điều kiện cho phép, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư bên ngoài, thúc đẩy nhanh và hiệu quả quá trình hiện đại hoá kinh tế Trung Quốc. SEZ là "phòng thí nghiệm" các đường lối, cơ chế chính sách phát triển kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ ý tưởng xây dựng SEZ trở thành nơi du nhập vốn, công nghệ và kinh nghiêm quản lý tiên tiến, Trung Quốc đã nhanh chóng tiến hành cải tạo và nâng cấp CSHT, trang bị hệ thống giao thông, điện nước, thông tin liên lạc khá hoàn chỉnh tại các SEZ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đã tạo sức hấp dẫn lớn cho SEZ, góp phần thu hút ngày càng nhiều và hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Thực hiện thể chế quản lý đặc biệt và hệ thống chính sách ưu đãi mang tính khuyến khích cao. Chính quyền được trao quyền tự chủ, tự quyết lớn hơn trong việc hoạch định chương trình, kế hoạch phát triển và vận hành khu vực kinh tế của mình. Trung Quốc còn áp dụng hệ thống chính sách ưu đãi đặc biệt đối với SEZ, nhất là trong lĩnh vực thuế, tài chính và đầu tư xây dựng cơ bản. Những chính sách đó vừa giúp các đơn vị kinh tế trong SEZ giảm bớt khó khăn về tài chính, vừa tạo sức hấp dẫn và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đến đầu tư tại SEZ Trung Quốc, lựa chọn mô hình kinh tế phù hợp bao gồm sự phối hợp hài hoà giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, tài chính, các khu đô thị với mục tiêu xây dựng SEZ, đồng thời lựa chọn địa điểm thích hợp để xây dựng SEZ. 1.8.2. Hàn Quốc [18] Đến nay, có 5 KCX, trong đó có 2 khu được thành lập từ năm 1969. Thời điểm đó, Hàn Quốc đặt mục tiêu thu hút nguồn vốn và công nghệ nước ngoài, giải quyết nạn thất nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Riêng Khu Masan đã thu hút được 117 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó: 65% thuộc các nhà đầu tư Nhật Bản, 23% thuộc các xí nghiệp hỗn hợp với Nhật Bản, 2% thuộc sở hữu toàn bộ các nhà đầu tư từ Mỹ, 5% vốn hỗn hợp Mỹ - Hàn Quốc và 5% thuộc sở hữu trong nước. 1.8.3. Thái Lan [18] Năm 2004, đã thu hút trên 510 tỷ Baht, dịch vụ và CSHT là hai khu vực thu hút phần lớn vốn đầu tư vào các khu kinh tế ở Thái Lan [37]. Việc xây dựng CSHT trong các khu kinh tế dựa trên cơ sở vốn đầu tư của Nhà nước hoặc liên doanh giữa Nhà nước với tư nhân. Tư nhân có thể đầu tư xây dựng CSHT bằng cách liên doanh với ban quản lý dự án các khu hoặc đầu tư 100% vốn, Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền sở hữu đất ở đây. Bên cạnh đó, Chính phủ còn dành các ưu đãi khác cho các nhà đầu tư như giảm 50% thuế nhập khẩu máy móc, phụ tùng, thiết bị, được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu nhập về để sản xuất phục vụ xuất khẩu, miễn thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhưng nếu hàng hoá xuất khẩu vào nội địa từ khu kinh tế thì phải chịu các loại thuế xuất khẩu, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.8.4. Malaisia [18] Có tất cả 10 KCX được gọi là khu mậu dịch tự do, có nhiều ưu đãi hơn cho các nước đầu tư nước ngoài về giá thuê đất, thời hạn thuê đất, các ưu đãi về thuế. Nhờ có ưu đãi cao, vốn đầu tư nước ngoài được thu hút vào các KCX được xếp loại cao chỉ sau các SEZ của Trung Quốc, chi phí để xây dựng các KCX là rất thấp, chỉ khoảng 8-9 triệu USD, vì được thiết lập ở các nơi có CSHT khá phát triển. Tập trung thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản và Đức, chú trọng vào các ngành điện tử. Hình thức đầu tư là lập chi nhánh lắp ráp sử dụng nhiều lao động, sản xuất sản phẩm có quy trình công nghệ tương đối hoàn chỉnh. Như vậy, với vốn xây dựng CSHT thấp thì lợi ích thu được ở các KCX là rất to lớn. Đến nay, để thu hút mạnh mẽ hơn nữa công nghệ cao, Chính phủ đã chủ trương giảm thuế phải nộp từ 25%-50% cho những doanh nghiệp du nhập vào KCX những công nghiệp điện tử hiện đại nhất. 1.8.5. Philippin [18] Kinh nghiệm thất bại về KCX tại Philippin để tham khảo. Năm 1972, Chính phủ thành lập KCX Bantan với diện tích 1200 ha. Chi phí đầu tư xây dựng CSHT lấy một phần từ nguồn của Chính phủ, các nguồn vốn khác được huy động từ các quỹ khác, từ vốn vay ODA. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, các mục tiêu ban đầu của các KCX không thực hiện được, thu hút ngoại tệ và chuyển giao công nghệ kém hiệu quả, liên kết kinh tế bị gián đoạn, không hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, lợi ích do KCX đem lại không bù đắp đủ các khoản chi phí đã bỏ ra. Theo các chuyên gia, sự không thành công này do một số nguyên nhân sau: Lựa chọn vị trí không thuận lợi (chi phí lớn cho san lấp đồi núi, xây cầu, cảng, đường sá, di dời dân từ nơi khác đến phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng); Chính sách không đồng bộ, do sau khi thành lập KCX này, Chính phủ lại đề ra chính sách mở rộng kho hàng thuế quan cho tất cả các KCX trên toàn quốc, làm loảng đi tính hấp dẫn của Bantan và nơi này trở nên thừa; Giá dịch vụ khá cao, phiền hà về thủ tục; An ninh chính trị phức tạp, nạn trộm cướp hoành hành. 1.9. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN VỀ SỰ THẤT BẠI CỦA CÁC KHU KINH TẾ Không phải mọi đặc khu kinh tế đều thành công, chẳng hạn, như Ấn Độ và Philippin đã chứng kiến những thí điểm không thành công mà lý do đã không đề ra được những quyết sách mang tính đột phá. Những yếu tốt chủ yếu dẫn đến những thất bại của các khu kinh tế là: - Thủ tục đầu tư, hải quan phức tạp, phiền hà và quản lý quan liêu, yêu cầu về giám sát và báo cáo quá nhiều. Như ở KCX của philipin, các dịch vụ phải trả khá cao, có nhiều phiền hà về thủ tục, giấy tờ, nạn trộm cắp, chi phí vận tải tăng...v.v, tất cả những vấn đề đó đã không thu hút được các công ty xuyên quốc gia đầu tư. - Thiếu cách tiếp cận phát triển tổng hợp, chẳng hạn, như không có CSHT bên ngoài khu hay có những phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết, sai lầm trong việc chọn vị trí xây dựng các khu kinh tế. Dẫn chứng, như ở Philipin vị trí chọn xây dựng khu chế xuất Bantan được xây dựng ở bờ biển, núi non biệt lập kém phát triển, hơn nữa dân số ở đây chỉ có 5.000 người vì vậy, phải di dân từ các vùng lân cận đến, đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng khá lơn, tất cả điều đó làm chi phí cho kết cấu hạ tầng tăng nhanh. Trong khi đó, KCX chỉ thu hút được khoảng nửa số công ty vào hoạt động so với dự kiến, làm chi phí sử dụng hạ tầng tăng cao hơn mức bình thường. - Chiến lược phát triển không phù hợp như không quy hoạch thành từng giai đoạn để đầu tư, các tiện ích được bao cấp hay thiết kế quá mức, các chế độ dịch vụ, khuyến khích trong và ngoài các khu kinh tế quá kém. - Các chính sách phức tạp, không có tính cạnh tranh như cứng nhắc trong yêu cầu, hạn chế sử dụng và di chuyển lao động tư ngoài vào trong khu. CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. TIỀM NĂNG VỀ KINH TẾ TỈNH QUẢNG TRỊ 2.1.1. Về vị trí địa lý Tỉnh Quảng Trị nằm ở Miền Trung Việt Nam, là giao điểm của các huyết mạch giao thông quan trọng: quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 9 - tuyến đường xuyên Á ngắn nhất và thuận lợi nhất nối liền các nước Mianma, Thái Lan, Lào và Việt Nam qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển miền Trung như: Cửa Việt, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, nằm trên Hành lang kinh tế Đông - Tây thuộc tiểu vùng sông Mêkông rộng lớn (GMS) là điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng giao thương và phát triển kinh tế - thương mại trong và ngoài nước. 2.1.2. Về tài nguyên thiên nhiên [55] Vị trí địa lý thuận lợi cùng với tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản khá phong phú đang mở ra cho Quảng Trị một tiềm năng to lớn để phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội của Tỉnh trong xu thế hội nhập. Với diện tích trên 474.000 ha đất, tài nguyên, khoáng sản tương đối đa dạng. Với 75 km bờ biển và một ngư trường rộng lớn 8.400 km2. Theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nông nghiệp thế giới (FAO) thì trữ lượng hải sản của Quảng Trị có khoảng 100.000-150.000 tấn, hàng năm có thể khai thác 25.000-30.000 tấn nhiều loại quý, có giá trị kinh tế cao. 2.1.3. Về phát triển cơ sở hạ tầng [55] Trong những năm qua Quảng Trị đã tập trung nhiều công sức, huy động sức mạnh tổng lực bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, từng bước tạo dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh tế đáp ứng bức thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội. Việc nâng cấp tuyến đường quốc lộ 9, đoạn từ Cửa Việt đến cửa khẩu quốc tế Lao Bảo như một sự đón đầu, có tác dụng thúc đẩy hơn nữa khả năng phát triển các hoạt động thương mại ở Quảng Trị để hoà vào dòng chảy của thị trường các nước tiểu vùng sông MêKông (GMS) trên tuyến đường xuyến Á và trục Hành lang kinh tế Đông - Tây. Giờ đây, hàng hoá ở Quảng Trị có thể vận chuyển, trao đổi buôn bán với tất cả các địa phương trong nước cũng như các nước khác trong khu vực. 2.1.4 Tốc độ tăng trưởng GDP [55] Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001-2005 ước đạt 8,71% (thời kỳ 1996-2000, bình quân đạt 8,50%), trong đó khu vực nông - lâm - ngư nghiệp tăng 4,50%; khu vực công nghiệp xây dựng tăng 21,80%, khu vực dịch vụ tăng 6,40%. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,16 triệu đồng, tương đương 310 USD tăng gấp 1,77 lần so với năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 12,69 triệu USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 27,77 triệu USD. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 2005 đạt 20,58 vạn tấn. Trong đó, sản lượng lương thực có hạt đạt 21,95 vạn tấn. Năm 2005, đạt 21,5 vạn tấn lương thực có hạt, mức tăng bình quân hàng năm 17%. Diện tích cây công nghiệp dài ngày đến năm 2005: Cao su 11.626 ha, hồ tiêu 2.368,7 ha, cà phê 3.762,5 ha. Diện tích trồng mới hàng năm 5.500 ha rừng tập trung, độ che phủ rừng đạt 39,5 %. Sản lượng thuỷ sản năm 2005 đạt 18.136 tấn. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên năm 2005 đạt 1,289%. Hàng năm tạo việc làm mới cho 6.000 lao động [41]. 2.1.5. Năng lực cạnh tranh của Tỉnh Về năng lực cạnh tranh, qua đợt khảo sát của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Quảng Trị nằm trong nhóm trung bình cùng 18 tỉnh thành khác. Với điểm số 52,18 nằm ở thứ 34/64 tỉnh thành. Nếu so sánh với các tỉnh thành trong khu vực miền Trung được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.1: Tổng hợp xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) một số Tỉnh thành trong khu vực Miền Trung năm 2005-2006 Một số Tỉnh thành khu vực Miền Trung Năm 2005 Năm 2006 Điểm số về chỉ số PCI Thứ tự xếp hạng Điểm số về chỉ số PCI Thứ tự xếp hạng 1. Đà Nẵng 70,67 1 75,39 1 2. Quảng Trị 61,09 2 52,18 7 3. Bình Định 60,60 3 66,49 2 4. Phú Yên 60,44 4 54,93 5 5. Quảng Nam 59,72 5 56,42 3 6. Nghệ An 59,56 6 54,43 6 7. Thừa T.Huế 56,77 7 50,53 8 8. Khánh Hoà 54,08 8 55,33 4 9. Quảng Bình 53,07 9 47,90 9 10. Hà Tỉnh 51,67 10 42,35 12 11. Thanh Hoá 49,29 11 45,30 10 12. Quảng Ngãi 47,99 12 44,20 11 Nguồn: Chuyên mục Sự kiện vấn đề trên Báo Kinh tế Sài gòn, số ra 22/2005 và 23/2006 Năm 2005, tỉnh Quảng Trị được các chuyên gia đánh giá chỉ số PCI khá cao trong 12 tỉnh thành ở khu vực miền Trung, Quảng trị xếp thứ 2 chỉ sau Đà Nẵng. Tuy nhiên, thuận lợi này không được tiếp tục khẳng định, từ vị trí thứ 2 đã tụt xuống vị trí thứ 7 vào năm 2006 và nằm trong nhóm các tỉnh thành phố có PCI mức trung bình. Nhóm trung bình theo phân tích của VCCI là nhóm có điểm ở mức trung bình đối với hầu hết các chỉ số liên quan đến môi trường kinh doanh, có điểm khá đối với chi phí không chính thức nhưng điều có điểm dưới trung bình đối với chi phí gia nhập thị trường và ưu đãi doanh nghiệp. Đối với chi phí không chính thức Quảng Trị được chấm 6,25 điểm (đứng đầu là Bến Tre: 8,35 điểm). Nếu đạt điểm thấp ở chỉ tiêu này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải mất quá nhiều chi phí cho việc " lót tay" hay "bôi trơn" để thành lập và duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra Quảng Trị cũng đạt điểm thấp ở một số chỉ tiêu: Thiết chế pháp lý (3,32 điểm), chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân (4,12 điểm), tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh (4,26 điểm), tính minh bạch và tiếp cận thông tin (4,93 điểm), chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước (4,79 điểm). Tuy nhiên có một điểm số mà Quảng Trị đạt được rất cao 8,83 (nơi cao nhất là Đà Nẵng 9,17) chỉ tiêu này biểu hiện 7 tiêu chí: % doanh nghiệp phải mất hơn 1 tháng và 3 tháng khởi dự kinh doanh, thời gian chờ đợi thực sự để được cấp đất căn cứ vào sự nỗ lực của chính quyền, chi phí thời gian để đăng ký và đăng ký lại kinh doanh, và quan trọng nhất là % doanh nghiệp gặp khó khăn mới có đủ loại giấy phép cần thiết. Đạt điểm cao ở chỉ tiêu này là đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã gặp được nhiều thuận lợi cho việc đăng ký và hoạt động ở Quảng Trị, thuận lợi hơn cả nơi được xem là năng động nhất nước là Bình Dương (đạt 8,49 điểm). Hiện nay chỉ số PCI đang được các nhà đầu tư quan tâm và một trong số chỉ tiêu đánh giá về môi trường đầu tư khá quan trọng của các nhà đầu tư [45,15]. 2.1.6. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ thu hút vốn đầu tư vào khu vực kinh tế trong tỉnh Quảng Trị (ĐVT: triệu đồng) 2.1.6.1. Mức độ thu hút vốn đầu tư vào trong tỉnh Như vậy: Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư của các khu kinh tế so với vốn đầu tư cả tỉnh chiếm 54,55% cho thấy, mức độ, quy mô thu hút nguồn vốn đầu tư cả tỉnh Quảng Trị tập trung phần lớn tại các khu kinh tế trên địa bàn. Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài so với vốn đầu tư cả tỉnh chỉ chiếm 16,89%. Cho thấy, môi trường đầu tư và những lợi thế so sánh, cũng như nổ lực, thái độ “mở cửa” của các cơ quan công quyền tại địa phương chưa đủ sức hấp dẫn trong việc đẩy mạnh khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1.6.2. Mức độ thu hút vốn đầu tư của khu kinh tế Tỷ trọng thu hút vốn đầu tư của KKTTMĐB Lao Bảo so với các khu kinh tế trong tỉnh Quảng Trị chiếm 59,17%. Đây là tỷ lệ tương đối cao, so với hai khu kinh tế còn lại trong tỉnh ( KCN Quán Ngang và KCN Nam Đông Hà), thì sức hấp dẫn trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước của Khu kinh tế thương mai đặc biệt (KKTTMĐB) Lao Bảo cao hơn hẳn. Tỷ trọng vốn đầu tư vào KKTTMĐB so với vốn đầu tư vào toàn tỉnh Quảng Trị chiếm 21,56%. Tỷ trọng này cho thấy, khả năng thu hút vốn đầu tư của KKTTMĐB Lao Bảo so với tổng lượng vốn đầu tư vào toàn tỉnh là tương đối cao. 2.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẶC BIỆT LAO BẢO [57] Ngày 12/11/1998 Chính phủ Việt Nam đã ban hành quy chế khu vực khuyến khích phát triển kinh tế và thương mại Lao Bảo (gọi tắt là khu thương mại Lao Bảo). Để tiếp tục hoàn thiện đầu tư theo hướng ưu đãi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển khu thương mại Lao Bảo, ngày 12/01/2005 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 11/2005/QĐ-TTg ban hành Quy chế khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị. Khu thương mại Lao Bảo được đổi tên thành KKTTMĐB Lao Bảo. Tính “đặc biệt” ở đây được thể hiện là: Thứ nhất, việc thành lập KKTTMĐB Lao Bảo thể hiện sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm cụ thể hoá mối quan hệ hợp tác toàn diện với nước bạn Lào, tạo ra điểm nhấn đầu cầu của toàn Việt Nam trên EWEC để tiếp cận gần hơn tiến trình hội nhập AFTA, mở rộng giao thương với các nước thuộc tiểu vùng sông Mêkông, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cư dân vùng biên giới miền Tây tỉnh Quảng Trị. Thứ hai, đây là mô hình khu kinh tế rất mới được Chính phủ Việt Nam cho triển khai xây dựng và hoạt động theo một quy chế riêng lần đầu tiên được áp dụng thí điểm tại Việt Nam, được hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam. Cho phép khách du lịch được mua một lượng hàng hoá miễn thuế có giá trị không quá 500.000đ/người/ngày và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, việc thực hiện hợp định GMS về kiểm tra thủ tục phương tiện vận tải “một điểm dừng, tại chổ”, cho phép ô tô có tay lái bên phải được vào - ra khu vực. Thứ ba, Lao Bảo được xem là điểm đầu của Hành lang kinh tế Đông - Tây có diện tích (15.804 ha) lớn nhất trong số các khu kinh tế cửa khẩu hiện có trên cả nước với ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ chủ quyền quốc gia Việt Nam nhưng có không gian kinh tế thương mại riêng biệt. Với tổng diện tích: 15.804 ha; bao gồm thị trấn Lao Bảo, thị trấn Khe Sanh và các xã Tân Thành, Tân Long, Tân Liên, Tân Lập, Tân Hợp thuộc huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị. Dân số: Hiện tại 35.000 người, quy hoạch phát triển đến 2020 là 55.000 người. Chiều dài trải dọc theo quốc lộ 9 là 25 km, cách thị xã tỉnh lỵ Đông Hà 60 km về phía Tây. Thông thương với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân Dân Lào, Thái Lan, Mianma và các nước trong khu vực trên trục Hành lang kinh tế Đông - Tây qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo. 2.2.1. Cơ sở hạ tầng 2.2.1.1. Khu công thương mại dịch vụ Lao Bảo Với diện tích 100 ha, tập trung các loại hình hoạt động chủ yếu như: kinh doanh thương mại, cửa hàng giới thiệu sản phẩm; hội chợ triển lãm; chi nhánh, văn phòng đại diện; trung tâm thương mại .Với thiết kế hiện đại, đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng hoá, giới thiệu sản phẩm, tổ chức hội chợ, hội thảo, văn phòng cho thuê và các dịch vụ khác...v.v; kho ngoại quan; xuất nhập khẩu, chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất; quá cảnh hàng hoá; gia công, tái chế; phân loại đóng gói; lắp ráp; sản xuất hàng hoá xuất khẩu và các dịch vụ liên quan khác. 2.2.1.2. Khu công nghiệp Tây Bắc Diện tích 27 ha, tập trung các loại hình hoạt động như: Sản xuất công nghiệp, chế biến thực phẩm, hoa quả, nước uống, lắp ráp điện tử, điện lạnh, ô tô, sản xuất chế biến đồ gỗ, đồ gia dụng công nghiệp. 2.2.1.3. Khu cửa khẩu Khu cửa khẩu quốc tế Lao Bảo diện tích 30 ha. Quy hoạch xây dựng trạm cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, quốc môn, cửa hàng phục vụ cửa khẩu, kho ngoại quan, bãi đỗ xe xuất nhập cảnh, các cơ quan quản lý cửa khẩu. 2.2.1.4. Trung tâm thương mại Lao Bảo Diện tích xây dựng 35.000m2. Trong đó khối nhà chính có tổng diện tích sàn 10.205m2 gồm: Lô quầy 3200m2, hội trường 600 m2, dịch vụ khác 400 m2 với thiết kế hiện đại, đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng hóa, giới thiệu sản phẩm, tổ chức hội chợ, hội thảo văn phòng cho thuê và các dịch vụ khác. 2.2.2. Cơ cấu tổ chức quản lý khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo [27] [28] KKTTMĐB Lao Bảo là khu vực hành chính xã hội riêng biệt nằm trên lãnh thổ tỉnh Quảng Trị, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ về nội dung phát triển và cơ chế quản lý, có cơ quan quản lý nhà nước là Ban quản lý KKTMĐB Lao Bảo. Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập nhằm thực hiện việc quản lý tập trung, thống nhất hoạt động trên các lĩnh vực đầu tư, phát triển kinh tế tại KKTMĐB Lao Bảo. Ban quản lý KKTMĐB Lao Bảo là cơ quan quản lý nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu mang quốc huy, có biên chế, có kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp, là đầu mối kế hoạch được cân đối riêng vốn xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước. Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo là đơn vị dự toán ngân sách nhà nước, mọi kinh phí cho hoạt động của Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo do ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Trị cấp, trưởng Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, các Phó trưởng Ban do Chủ tịch uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Trị bổ nhiệm theo các đề nghị của Trưởng Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo. Bộ máy giúp việc gồm có: Văn phòng, thanh tra, các Ban chuyên môn là biên chế quản lý Nhà nước và các đơn vị trực thuộc. Tuỳ theo yêu cầu phát triển KKTTMĐB Lao Bảo trong từng giai đoạn cụ thể, Trưởng ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo trình tổ chức bộ máy để Chủ tịch UBND tỉnh quyết định. Trưởng ban Phó Trưởng ban Phó Trưởng ban Văn phòng Phòng Quản lý DN Phòng KH&ĐT Phòng quản lý XD, TN&MT Ban QL TTTM Ban QLDA ĐT&XD Thanh tra Chú thích: Quan hệ trực tiếp: Quan hệ chức năng: Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn quy định đối với ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu và các quy định tại quy chế này, có các nhiệm vụ và quyền hạn: - Xây dựng quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết phát triển, xây dựng điều lệ hoạt động của UBND tỉnh Quảng Trị trình thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện theo quy hoạch được duyệt. - Xây dựng danh mục dự án đầu tư và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện theo quy hoạch được duyệt. - Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, giấy phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân và doanh nghiệp du lịch nước ngoài, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá và các chứng chỉ khác theo uỷ quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại KKTTMĐB Lao Bảo. - Giao hoặc cho các nhà đầu tư thuế đất, mặt nước để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành. - Đầu mối giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai và thực hiện các dự án đầu tư, kinh doanh và hoạt động của KKTTMĐB Lao Bảo. - Chủ trì phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan trong việc đảm bảo mọi hoạt động trong KKTTMĐB Lao Bảo phù hợp với quy chế này và điều lệ hoạt động của KKTTMĐB Lao Bảo. - Thực hiện nhiệm vụ quản lý và sử dụng các nguồn đầu tư trên địa bàn KKTTMĐB Lao Bảo, quản lý các dự án xây dựng bằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tại KKTTMĐB Lao Bảo. - Tổ chức, triển khai giới thiệu, đàm phán xúc tiến thương mại, dịch vụ trong và ngoài nước. - Phối hợp, giúp đỡ ban quản lý khu thương mại Đensavẳn (nước Lào) để đảm bảo thúc đẩy sự phát triển cho cả khu kinh tế thương mại phù hợp với các hiệp định, thoả thuận hiện hành giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Lào, cũng như các thoả thuận hiện hành giữa tỉnh Quảng Trị và tỉnh Xavanaket - Lào. 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chung để nhận thức bản chất của các hiện tượng tự nhiên - kinh tế - xã hội. Phương pháp này yêu cầu nghiên cứu các hệ tượng không chỉ đơn lẻ mà phải đặt trong mối quan hệ bản chất của các hiện tượng, không phải trong trạng thái tĩnh, mà đặt trong sự phát triển từ thấp đến cao, trong sự chuyển biến từ số lượng sang chất lượng, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. 2.3.2. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu Việc thu thập số liệu được tiến hành qua hai bước. Trước hết là thu thập nguồn số liệu thứ cấp, sau đó thu thập số liệu sơ cấp thông qua điều tra. - Nguồn số liệu thứ cấp, bao gồm: Tra cứu các giáo trình, các chính sách, các văn bản, các báo cáo tổng kết, và nguồn số liệu thống kê của các cấp, ban ngành có liên quan về thu hút vốn đầu tư tại Quảng Trị nói riêng và toàn quốc, trên thế giới. Sử dụng niên giám thống kê năm 2005, Website và các tạp chí, chuyên san, báo của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và ý kiến của các doanh nghiệp liên quan đến đề tài. - Nguồn số liệu sơ cấp: thông qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp trong địa bàn KKTTMĐB Lao Bảo, các cán bộ quản lý và công tác trên địa bàn tỉnh Quảng Trị về lĩnh vực đầu tư vốn và nhận xét về môi trường đầu tư của tỉnh Quảng Trị. Kết quả thu được 60 phiếu từ các doanh nghiệp tại KKTTMĐB Lao Bảo và một số ý kiến đánh giá nhận xét của các cán bộ quản lý trong lĩnh vực đầu tư của Tỉnh Quảng Trị. Nội dung điều tra theo phiếu điều tra (Phụ lục 1). 2.3.3. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo Với số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt động tại địa bàn KKTTMĐB Lao Bảo còn hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã hỏi ý kiến của một số cán bộ đầu ngành, các nhà quản lý trong lĩnh vực đầu tư nhằm đánh giá, phân tích và có thể kết luận phù hợp hơn với thực tiễn. Làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp có khả năng thực thi trong thời gian tới. 2.3.4. Phương pháp phân tích thống kê Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê như số tương đối, số tuyệt đối, tỷ trọng, số bình quân: phương pháp so sánh, phương pháp mô tả, hệ thống làm phương pháp luận cho nghiên cứu cả lý luận thực tiễn. Để xác định mối quan hệ giữa các nội dung nghiên cứu. Các nội dung về vốn đầu tư, số lao động, hình thức đầu tư, ngành nghề và lĩnh vực đầu tư. 2.3.5. Phương pháp phân tích SWOT [26,115] Phân tích điểm điểm mạnh, điểm yếu bên trong KKTTMĐB Lao Bảo, cơ hội, đe doạ bên ngoài đối với quá trình thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Từ đó định ra các chiến lược thích hợp cho quá trình phát triển của khu. Đây là phương pháp then chốt định hướng chiến lược và các giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. 2.3.6. Phương pháp toán kinh tế [30] Sử dụng công cụ tin học để tổng hợp và phân tích số liệu. Các số liệu được tiến hành trên phần mềm SPSS. Trước hết thực hiện kiểm tra phân phối chuẩn để xác định ảnh hưởng của các yếu tố, kiểm định độ tin cậy số liệu điều tra nhằm mục đích để đo lường các số liệu điều tra có gặp phải sai sót hay mâu thuẫn không. Tiến hành phân tích nhân tố (Factor Anaylysise) để phân tích mối quan hệ qua lại giữa nhiều biến từ đó tìm ra biến đại diện chung được giải thích dưới các khía cạnh cơ sở chung, có ý nghĩa hơn (gọi là các nhân tố - Factor). Sau đó sử dụng phương pháp phân tích phương sai ANOVA (Analysise of Variance) để kiểm định sự khác biệt giữa các đối tượng điều tra về các yếu tố của môi trường đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư. Mục đích của phân tích phương sai là so sánh trung bình của nhiều nhóm dựa trên các trung bình mẫu và thông qua kiểm định giả thuyết để kết luận về sự bằng nhau của các trung bình này. Phân tích phương sai được dùng như một công cụ để xem xét ảnh hưởng của một yếu tố nguyên nhân này đến một yếu tố kết quả kia. Cuối cùng là mô hình hoá sự ảnh hưởng các nhân tố đến việc thu hút vốn đầu tư (nếu có) bằng phương pháp phân tích hồi quy. CHƯƠNG 3 TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẶC BIỆT LAO BẢO 3.1. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI KHU KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẶC BIỆT LAO BẢO Cơ chế quản lý nhà nước KKTTMĐB Lao Bảo thực hiện theo mô hình quản lý “một cửa, tại chổ”, nhằm đảm bảo nguyên tắc thống nhất, tập trung trong hoạt động quản lý nhà nước. Các bộ ngành và các cơ quan liên quan phối hợp với UBND tỉnh Quảng Trị uỷ quyền, hướng dẫn để Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chổ” có hiệu quả. Phạm vi uỷ quyền thuộc các lĩnh vực đầu tư, xây dựng, quy hoạch, quản lý tài nguyên môi trường, quản lý phát triển đô thị, quản lý đất đai, lao động, xuất nhập khẩu và một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật và các quy định của Quy chế khu KTTMĐB Lao Bảo. Cơ chế quản lý nhà nước cho KKTTMĐB Lao Bảo chưa thống nhất, chưa có sự tách bạch rõ ràng về chức năng quản lý nhà nước giữa Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo với các cấp chính quyền. Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo chỉ được quản lý nhà nước về kinh tế trên các phương diện đầu tư, quy hoạch thương mại, xuất nhập khẩu....Quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác phụ thuộc vào bộ máy hành chính của tỉnh Quảng Trị nằm trong địa giới của KKTTMĐB Lao Bảo. Thực tế, nhiều sở, ban, ngành của tỉnh, hệ thống chính quyền của cơ sở chưa nhận thức đầy đủ quyền hạn của Ban quản lý, đẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết các vướng mắc phát sinh sau cấp giấy phép, mâu thuẫn trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Bên cạnh đó, cũng chưa coi trọng tính đặc thù của KKTTMĐB Lao Bảo, một số Bộ, ngành trung ương trong các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành công tác quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực mình lại quên không hướng dẫn hay “cào bằng” KKTTMĐB Lao Bảo với các đối tượng khác. Hoặc có ngành can thiệp quá sâu, hoặc không quan tâm, làm cho tính hiệu quả của mô hình quản lý “một cửa, tại chổ” của KKTTMĐB Lao Bảo có nguy cơ bị bào mòn. Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo không có quyền điều hành, quản lý, chỉ đạo chính quyền địa phương cấp cơ sở, mà hiện nay chủ yếu vẫn là phối hợp hoạt động, chất lượng công tác điều hành phụ thuộc rất nhiều vào ý thức tự giác của chính quyền cấp dưới. 3.2. CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ 3.2.1. Chính sách đất đai, nhà ở Tổ chức cá nhân có dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo được miễn tiền thuê đất trong 11 năm đầu (đất đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu) kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất và được hưởng mức giá thuế đất bằng 30% giá thuế đất áp dụng cho các huyện miền núi tỉnh Quảng Trị kể từ năm thứ 12 trở đi [3,8-9]. Khung giá thuê đất tại KKTTMĐB Lao Bảo + Trong các khu vực quy hoạch tập trung: 0,01USD/m2/năm. + Ngoài các khu vực quy hoạch tập trung: 0,03USD/m2/năm. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở đến bán hoặc cho thuê, đầu tư xây dựng CSHT và được mua nhà ở tạo KKTTMĐB Lao Bảo theo quy định của pháp luật. Chính sách này đã mở ra cho các nhà đầu tư kinh doanh về bất động sản, chung cư có điều kiện thực hiện, đặc biệt động viên các nhà đầu tư là Việt kiều trở về đầu tư tại quê hương làm ăn, sinh sống lâu dài [3,9-10]. So với các địa phương khác chính sách về đất đai tại KKTTMĐB Lao Bảo có ưu đãi hơn đôi chút. Tuy nhiên, đây chưa phải là nhân tố chính để KKTTMĐB Lao Bảo hấp dẫn các nhà đầu tư, bởi vì, nhiều nhà đầu tư cho rằng giá thuê đất không phải là yếu tố quyết định, nó chiếm tỷ lệ không lớn với chi phí hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này đã lý giải tại sao có nhiều địa phương có các khu kinh tế liên tục hạ giá thuê đất nhưng vẫn không thu hút được dự án. 3.2.2. Chính sách về thuế 3.2.2.1. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp [3,7-8] Các dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 04 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm kế tiếp và được áp dụng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 10% cho những năm tiếp theo. Đối với những người làm việc tại KKTTMĐB Lao Bảo là đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định pháp luật được giảm 50% thuế phải nộp. Chính sách thuế này chưa thực sự đa dạng và linh hoạt bởi ưu đãi thuế thu nhập cá nhân có rất nhiều hình thức khác nhau như: quy định mức thu nhập chịu thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...mỗi hình thức sẽ có những tác dụng ưu đãi khác nhau. 4 năm thuế suất 0% 09 năm thuế suất giảm 50% Các năm tiếp thuế suất 10% 15 năm thuế suất 10% > 50 năm, thuế suất 28% Hình 3.2. Sơ đồ về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Ta thấy, thuế suất thuế 10% là mức thuế suất ưu đãi nhất của Luật thuế hiện hành, song thời gian hưởng mức thuế suất ưu đãi này trong 15 năm là quá ngắn, thời gian chịu mức thuế phổ thông 28% là quá dài (hơn 50 năm), tổng thời gian miễn và giảm là 13 năm nhưng mức thuế suất ưu đãi 10% chỉ áp dụng trong khoảng thời gian 15 năm. Chính sách này càng không ưu đãi nhiều đối với lĩnh vực đầu tư CSHT, dự án công nghệ cao. Dễ dàng thấy, ở giai đoạn đầu của quá trình đầu tư, lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thuế thu nhập phải nộp không quá lớn, ưu đãi thuế suất 10% trong khoảng thời gian ngắn sẽ có ít tác dụng khuyến khích đầu tư. Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp như trên càng ít phát huy tác dụng đối với các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn, chiến lược kinh doanh dài hạn, thực hiện chính sách khấu hao nhanh. Đối với các dự án đầu tư xây dựng dây chuyển sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 01 năm cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mang lại và giảm 50% số thuế phải nộp 02 năm tiếp theo. Chính sách này khuyến khích các nhà đầu tư không ngừng mở rộng đầu tư, thay đổi công nghệ mới, đầu tư vào lĩnh vực sinh thái, nhưng do thời hạn ưu đãi nên phức tạp hoá công tác quản lý về thuế, dễ tạo ra kẽ hở cho hiện tượng trốn thuế. Tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoạt động trong KKTTMĐB Lao Bảo, sau khi đã quyết toán với cơ quan thuế mà bị lỗ thì được chuyển khoản các khoản lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế, thời gian được chuyển lỗ không quá 05 năm. Chính sách này mang tính khuyến khích dòng vốn đầu tư nước ngoài, song lại tạo ra sự bất bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. 3.2.2.2. Ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt [3,4-5] - Hàng hoá sản xuất tiêu thụ trong KKTTMĐB Lao Bảo và hàng hoá dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài vào KKTTMĐB Lao Bảo không phải chịu thuế giá trị gia tăng. - Hàng hoá, dịch vụ từ nội địa Việt Nam đưa vào KKTTMĐB Lao Bảo hưởng thuế xuất giá trị gia tăng là 0% hàng hoá, dịch vụ từ KKTTMĐB Lao Bảo đưa vào tiêu thụ trên thị trường nội địa Việt Nam phải chịu thuế giá trị gia tăng theo luật định. - Hàng hoá thuộc diện thuế tiêu thụ đặc biệt sản xuất, tiêu thụ trong KKTTMĐB Lao Bảo và hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu từ nước ngoài vào KKTTMĐB Lao Bảo không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Chính sách này có sự điều chỉnh của Bộ Tài chính là đối với xe ô tô dưới 24 chổ vẫn phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Bảng 3.2: Một số mặt hàng về chênh lệch thuế tiêu thụ đặc biệt Mặt hàng xem xét Giá Lao Bảo Giá bên ngoài (chưa cộng thuế NK) Chênh lệch (%) Ghi chú Xe ô tô trên 24 chổ ngồi 22.000 đến 30.000 (USD) 33.000 đến 45.000 (USD) 50 Giá tham khảo Rượu ngoại loại Redlabeb 100.000 (đồng) 130.000 (đồng) 30 Giá tham khảo Nguồn: Số liệu khảo sát Với chính sách thuế này đã đối trọng được tình trạng doanh nghiệp “lách” luật là điều kiện tốt để phát triển lĩnh vực kinh doanh thương mại dịch vu, một cơ chế mở cửa cho các nhà đầu tư nhập khẩu hàng hoá vào KKTTMĐB Lao Bảo. Và thực tế cho thấy, lưu lượng hàng hoá vào KKTTMĐB Lao Bảo đã tăng lên với nhiều chủng loại mặt hàng như mặt hàng điện tử, điện lạnh, rượu ngoại giá trị nhập khẩu mặt hàng trong 03 năm trở lại đây bình quân đạt trên 01 triệu USD, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều xe ô tô biển số 74LB trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, với mật độ dân cư tại địa bàn còn mỏng, các dự án đầu tư đi vào hoạt động chưa nhiều, lượng khách thăm quan, mua sắm đã tăng lên nhưng không đều mà mang tính thời vụ, nên nhu cầu về tiêu thụ tại KKTTMĐB Lao Bảo chưa lớn. Sự hạn chế trong chính sách thuế này là việc hoàn thuế giá trị gia tăng nên đã xảy ra tình trạng các doanh nghiệp đưa hàng sang khu kinh tế với giá không thuế, sau đó nhập lậu về Việt Nam để tiêu thụ lại và tình trạng “buôn lậu” các mặt hàng khác nhập từ nước ngoài vào khu kinh tế, sau đó các tiểu thương đưa về nội địa tiêu thụ bằng đường tiểu ngạch, làm cho tình hình buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng gia tăng. 3.2.2.3. Ưu đãi về thuế xuất khẩu, nhập khẩu [32,3-4] Hàng hoá từ nước ngoài, từ nội địa nhập vào KKTTMĐB Lao Bảo không phải nộp thuế nhập khẩu. Riêng ô tô dưới 24 chổ không do doanh nghiệp có cơ sở tại KKTTMĐB Lao Bảo nhập vào thì phải nộp thuế. Hàng hoá từ KKTTMĐB Lao Bảo nhập vào nội địa Việt Nam: + Có xuất xứ nước ngoài phải nộp thuế nhập khẩu. + Hàng hoá sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp KKTTMĐB Lao Bảo nếu phần giá trị hàng hoá xuất xứ từ ASEAN chiếm 40% trở lên áp dụng mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi CEPT; nếu từ Lào thì giảm thuế nhập khẩu trên cơ sở văn bản Điều ước ký kết giữa Chính phủ hai nước; nếu hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá xuất xứ KKTTMĐB Lao Bảo thì không phải nộp thuế nhập khẩu, nếu hàng hoá này có sử dụng nguyên liệu linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài thì phải nộp thuế nhập khẩu đối với phần nguyên liệu linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài cấu thành trong hàng hoá đó. Hàng hoá sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp tại KKTTMĐB Lao Bảo khi xuất khẩu ra nước ngoài không phải nộp thuế xuất khẩu. Hàng hoá chuyển khẩu qua KKTTMĐB Lao Bảo để xuất khẩu ra nước ngoài phải nộp thuế xuất khẩu theo quy định hiện hành. Khách du lịch trong và ngoài nước khi vào KKTTMĐB Lao Bảo được phép mua hàng hoá nhập khẩu miễn thuế (hàng không thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu) đưa vào nội địa với giá trị không quá 500.000đ/người/lượt/người. Với chính sách ưu đãi này, không những tạo điều kiện để du khách đến với Lao Bảo mà còn là cơ hội cho các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá vào tiêu thụ tại Lao Bảo, góp phần thu hút các nhà đầu tư đến với KKTTMĐB Lao Bảo nhiều hơn. Đồng thời, chính sách ưu đãi này cũng tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào Lao Bảo trong việc giảm giá thành sản phẩm, cũng như các nhà đầu tư sản xuất các mặt hàng xuất khẩu vào nội địa hoặc xuất ra nước ngoài, thì với chính sách này cũng là một ưu thế về giá khi được miễn giảm thuế xuất khẩu, nếu khai thác được những nguồn nguyên liệu sẵn có trên vùng đất này để tạo ra sản phẩm. Nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp khai thác được thế mạnh này chỉ có điển hình trong thời gian qua mặt hàng cà phê đã được Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Hoà khai thác ưu điểm này khi sử dụng nguồn nguyên liệu cà phê tại Lao Bảo làm nguồn nguyên liệu chính cho sản phẩm của mình. Qua quá trình triển khai chính sách vẫn còn bất cập, ví dụ quy chế “hàng hoá, dịch vụ sản xuất tiêu thụ trong KKTTMĐB Lao Bảo và hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài vào KKTTMĐB Lao Bảo không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt”, nhưng lại quy định xe ô tô dưới 24 chổ ngồi khi nhập khẩu vào tiêu thụ tại KKTTMĐB Lao Bảo cũng phải đóng thuế tiêu thụ đặc biệt, như vậy là chưa đúng với tinh thần của quy chế trên, thiếu sự thông thoáng, gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực này. 3.2.3. Chính sách ưu đãi tín dụng [3,9] Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư, sản xuất kinh doanh tại KKTTMĐB Lao Bảo được Ngân hàng phát triển Việt Nam xem xét cho vay vốn tín dụng của Nhà nước theo quy định hiện hành của Chính phủ Việt Nam về tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước. Đây là định chế tài chính quan trọng để xung ứng vốn với các điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư, là công cụ hỗ trợ đắc lực cho KKTTMĐB Lao Bảo trong việc ưu đãi đặc biệt trong định hướng và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, do quy mô đầu tư vào khu kinh tế chưa lớn hay việc huy động vốn của các nhà đầu tư từ nguồn vốn khác, hay vì một số lý do khách quan trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ quỹ này...v.v nên đến nay vẫn chưa nhiều nhà đầu tư được tiếp cận, sử dụng nguồn vốn này. Cho thấy, chính sách ưu đãi đã được ban hành, nhưng thực tế chưa thực sự được triển khai nên đây là một trong những yếu tố chưa tạo được động lực hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến với KKTTMĐB Lao Bảo. 3.2.4. Đánh giá chung các chính sách ưu đãi đầu tư Hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư tại KKTTMĐB Lao Bảo được thiết kế với mức ưu đãi tối đa khung ưu đãi đầu tư của Chính phủ, từ đó tạo sự hấp dẫn đặc biệt trong thu hút các nguồn vốn đầu tư. Chính sách đất đai có nhiều ưu đãi đối với nhà đầu tư; chính sách thuế ưu đãi bậc nhất Việt Nam với thuế suất thấp, thời gian miễn giảm dài; không như các khu kinh tế ở khu vực miền Trung, KKTTMĐB là một khu hoàn toàn phi thuế quan với chính sách hoàn toàn miễm thuế; chính sách xuất nhập cảnh cũng rất thông thoáng chỉ cần có giấy thông hành công dân Việt Nam có thể qua Lào một cách dễ dàng, là điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào KKTTMĐB Lao Bảo. Như vậy, bên cạnh cơ chế quản lý đặc biệt, hệ thống chính sách ưu đãi đã trở thành công cụ đặc lực của KKTTMĐB Lao Bảo trong nổ lực cạnh tranh thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách ưu đãi đầu tư mang tính khuyến khích cao đã và đang trở thành nhân tố quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, giảm tính rủi ro, bù đắp chi phí cho nhà đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Tuy nhiên, hệ thống chính sách ưu đãi của KKTTMĐB Lao Bảo còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế cần thiết khắc phục. Như chưa chú trọng đến việc hoàn thiện các quy định về hoàn thuế một nội dung rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các nhà xuất khẩu. Đồng thời, thời gian ưu đãi thuế chưa thực sự hợp lý làm phức tạp hóa công tác quản lý; một số chính sách ưu đãi chưa đủ mạnh, chưa thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư đến với KKTTMĐB Lao Bảo; một số chính sách được ban hành khá lâu nhưng đến nay vẫn chưa thực sự được triển khai. Trong thời gian gần đây, cùng với việc xuất hiện các khu kinh tế lân cận như khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Nhơn Hội có cùng cơ chế chính sách ưu đãi như nhau, “trải thảm đỏ” na ná giống nhau trong kêu gọi đầu tư, cũng như hiện tượng “xé rào” về ưu đãi đầu tư của các địa phương. Theo điều tra của Bộ tài chính, hiện có 33 địa phương tạo cơ chế ưu đãi đầu tư vượt khung quy định của Chính phủ [45.1], đã làm giảm sút tính ưu đãi đặc biệt duy nhất của KKTTMĐB Lao Bảo. Có thể thấy rằng KKTTMĐB Lao Bảo có thế mạnh về chính sách ưu đãi, nhưng xem ra lợi thế đặc biệt này đang dần bị phủ mờ bởi các khu kinh tế mới xuất hiện trong khu vực miền Trung, trong nước, các khu kinh tế trong khu vực và trên thế giới cũng như sự cạnh tranh không lành mạnh của các khu kinh tế, của các địa phương. Bảng 3.3. So sánh ưu đãi đầu tư của KKTMĐB Lao Bảo với một số địa phương Tiêu chí so sánh KKTTMĐB Lao Bảo Các KCN Đà Nẵng KKTM Chu Lai Thời hạn thuê đất Tối đa là 70 năm Tối đa 50 năm 70 năm, tăng thêm 20 năm nếu có nhu cầu Giá thuê đất 0,01-0,03 USD/m2/năm 0,6-0,8 USD/m2/năm 0,25-0,35USD/m2/ năm tại các KCN Thời gian miễn tiền thuê đất 11 năm đầu, năm thứ 12 trở đi bằng 30% giá đất các huyện miền núi Miễn 7 năm với DA<10tr.USD. Miễn 10 năm với 10<DA < 15tr.USD Đến hết năm 2015 Tiêu chí so sánh KKTTMĐB Lao Bảo Các KCN Đà Nẵng KKTM Chu Lai Thuế suất, Thời hạn miễn giảm TNDN Miễn trong 4 năm kể từ năm có thu nhập chịu thuế, 50% 9 năm tiếp theo, 10% cho những năm tiếp nữa Giảm 50%/13 năm với DA>15 tr.USD. Giảm 50%/10 năm với 10<DA<15tr.USD Giảm 50%/7 năm với DA<10 tr.USD 10% trong vòng 15 năm đầu miễn 4 năm có thu nhập, giảm 50% cho 9 năm tiếp theo Thuế VAT, thuế xuất khẩu, nhập khẩu Ưu đãi riêng theo từng sản phẩm. Nhưng đại đa số là miễn thuế nhập khẩu và VAT 0% Theo luật hiện hành Ưu đãi riêng theo tưng khu vực, đặc biệt ưu đãi với khu vực phi thuế quan Thuế thu nhập cá nhân Giảm 50% thuế thu nhập cá nhân Theo luật hiện hành Giảm 50% Thuế thu nhập cá nhân Nguồn: Từ số liệu điều tra 3.3. CÔNG TÁC MARKETING TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ Cũng như nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiệm vụ quảng bá xúc tiến đầu tư để vận động thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động vào KKTTMĐB Lao Bảo cũng hết sức được quan tâm. Tạo điều kiện cho nhà đầu tư nhanh chóng tiếp cận, tìm hiểu môi trường đầu tư, gợi mở các ý tưởng đầu tư từ họ. Xác định được vai trò quan trọng của Marketing trong những ngày đầu thành lập, Ban quản lý khu KKTTMĐB Lao Bảo tổ chức nhiều hình thức quảng bá, vận động đầu tư vào đây, liên kết với các tỉnh thành để tạo “cầu nối” thu hút đầu tư vào Lao Bảo. Ngay sau khi Chính phủ có quy chế 219/1998/QĐ-TTg ngày 12/11/1998, UBND tỉnh đã phối hợp với văn phòng Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương tổ chức họp báo công bố nội dung Quy chế có sự tham gia của đại diện 40 cơ quan thông tin đại chúng và các doanh nghiệp có quan tâm tại Thủ đô Hà Nôi. Tham mưu cho lãnh đạo tỉnh thực hiện một loại các cuộc họp báo, hội thảo chuyên đề, hội thảo xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch tại các lễ hội và diễn đàn lớn trong nước và ở nước ngoài với sự tham gia của hàng trăm doanh nghiệp, đại diện các cơ quan xúc tiến đầu tư...v.v. Quá trình đó đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác tốt với một số tổ chức quốc tế trong công tác xúc tiến quảng bá như: JETRO, JICA (Nhật Bản), ADB, Phòng kinh tế văn háo Đài Bắc - Đài Loan, đại diện tổng lãnh sứ và tham tán thương mại của một số nước tại Việt Nam và của Việt Nam tại một số nước. Cùng với hình thức trên, còn cử nhiều cán bộ tham gia làm thành viên đoàn công tác của tỉnh Quảng Trị ra nước ngoài (Lào, Thái Lan, Singapo, Mianma, Trung Quốc, Đài Loan, ...) kết hợp làm công tác quảng bá, vận động các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Ngoài ra, khu kinh tế có chính sách hoa hồng cho từng tổ chức, cá nhân kêu gọi được vốn đầu tư vào Lao Bảo tạo động lực khuyến khích các trung gian trong việc tiếp thị, môi giới đầu tư vào khu kinh tế. Nhìn chung, công tác Marketing đầu tư tại KKTTMĐB Lao Bảo đã có sự quan tâm, tuy nhiên, vẫn còn rất hạn chế, công tác xúc tiến đầu tư chỉ tập trung ở hai hình thức chủ yếu là tổ chức hội thảo, hội nghị “tại chổ” và tổ chức tại nơi mà khu kinh tế hướng đến thu hút cá nhân đầu tư tại những khu vực này. Quá trình thực hiện quảng cáo chủ yếu mang tính thời điểm chưa xây dựng chiến lược, mục tiêu xuyên suốt cho từng giai đoạn nên tính hiệu quả trong công tác quảng cáo của khu kinh tế chưa thể hiện rõ nét. Một vấn đề được xem tối quan trọng là cần phải xây dựng thương hiệu cho một khu kinh tế năng động trong tương lai cũng chưa được chú trọng. Khả năng phát huy vai trò của các kênh trung gian trong tìm kiếm các nhà đầu tư chưa tốt. Đội ngũ cán bộ công tác cho Marketing còn rất mỏng, chưa đào tạo chuyên sâu, mặt khác nguồn kinh phí đầu tư cho công tác này còn eo hẹp, hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách từ tỉnh Quảng Trị. Do vậy, KKTTMĐB Lao Bảo đang gặp nhiều vấn đề khó khăn cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động Marketing đầu tư. 3.4. CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG, TÁI ĐỊNH CƯ Là một thị trấn miền núi với địa hình hết sức khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng, trong khi đây là vấn đề quyết định tốc độ triển khai các dự án đầu tư. Do vậy, tiến độ triển khai hết sức bất lợi về mặt thời gian. Tuy nhiên, một điều thuận lợi là dân cư ở đây rất ít nên công việc tái định cư tương đối đơn giản, kinh phí công tác này không lớn lắm, phần nào giảm áp lực cho khu kinh tế. Đến nay, việc tái định cư các hộ dân đã đi vào ổn định, giải phóng mặt bằng với diện tích 130ha đất, đảm bảo bàn giao mặt bằng cho các dự án đầu tư đã hoạt động và các dự án đang xúc tiến đầu tư đáp ứng được tiến độ đầu tư của các dự án. Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng đối với dự án nằm ngoài các khu quy hoạch tập trung. Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết liên quan đến việc lập dự án của các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư lựa chọn địa điểm đầu tư thuận lợi và phù hợp nhất. 3.5. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG Đến nay, CSHT tại KKTTMĐB Lao Bảo chưa hoàn thiện việc động một nguồn vốn lớn là hết sức cần thiết. Sau 8 năm phát triển, tổng mức đầu tư cho các dự án xây dựng CSHT vốn ngân sách nhà nước vào khoảng trên 350 tỉ đồng, trong đó có hơn 65 hạng mục đầu tư xây dựng CSHT hoàn thành và đưa vào sử dụng với số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 320 tỷ đồng, trên thực tế công tác huy động vốn đầu tư CSHT tại KKTTMĐB Lao Bảo đang gặp những hạn chế. Mặc dù được sự quan tâm từ Chính phủ và địa phương tỉnh tuy nhiên vẫn không đáp ứng được nhu cầu, KKTTMĐB Lao Bảo vẫn đang cần hoàn thiện các công trình trên quy mô 130 ha khu vực đã quy hoạch sản xuất kinh doanh tập trung và triển khai hệ thống các kết cấu hạ tầng mới trên diện tích mới mở rộng thêm, đồng thời, lập quy hoạch và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của các khu dịch vụ - du lịch hỗ trợ khác. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước kể trên, bằng nhiều nguồn vốn khác các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục bảo đảm cung ứng cho KKTTMĐB Lao Bảo như: đường dây và trạm biến áp 110KV, nhà máy cấp nước Khe Sanh, nâng cấp đường 9, hệ thống cáp quang, dịch vụ bưu chính viễn thông, hệ thống các khách sạn, nhà hàng. Ước tính nguồn vốn các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác đã đầu tư hơn 600 tỷ đồng. Việc huy động nguồn vốn FDI bên ngoài cho đầu tư CSHT chưa được thực hiện được bởi tính hiệu quả của nó, đến nay CSHT thiết yếu tại KKTTMĐB Lao Bảo được ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư theo chương trình mục tiêu và được đưa vào danh mục ODA. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn ODA không dễ dàng chút nào do các vấn đề về thủ tục, phương thức tiếp vận và các nhà đầu tư vào nguồn vốn này thì chỉ những lĩnh vực mà họ quan tâm. 3.6. CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Dân số huyện Hướng Hoá hiện nay khoảng 6,5 vạn người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động chiếm 30% đến 40%, chủ yếu là lao động phổ thông. Cơ cấu sử dụng lao động của các nhà đầu tư hiện nay tại Lao Bảo là 70% lao động phổ thông và 30% lao động tay nghề. Lực lượng lao động hiện nay tại KKTTMĐB Lao Bảo chủ yếu là tiếp nhận từ trong tỉnh. Mặc dù số lượng người trong độ tuổi lao động trong tỉnh khá lớn nhưng hầu hết là lao động phổ thông. Đối với lực lượng có tay nghề, chuyên môn thì thường làm việc các thành phố lớn, nơi có môi trường làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn. Làm cho lực lượng tại KKTTMĐB Lao Bảo thừa số lượng, nhưng thiếu về chất lượng. Đặc biệt, mỗi khi mở rộng quy mô các dự án hay tiếp nhận các dự án đầu tư lớn ngày càng nhiều đòi hỏi nhiều lao động có tay nghề cao thì nguồn nhân lực tại đây sẽ thiếu trầm trọng. Tỉnh Quảng Trị và Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo đã có sự liên kết với các trung tâm dạy nghề để cung cấp lực lượng lao động cho các nhà đầu tư (đây là hình thức tương đối phổ biến tại các khu kinh tế ở nước ta hiện nay) và có chương trình hỗ trợ đào tạo đối với các dự án có nhu cầu đào tạo nghề. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả do hầu hết các doanh nghiệp vẫn “kêu” thiếu lao động có chuyên môn, tay nghề nhưng vẫn chỉ thích sử dụng lao động được đào tạo một phần trước đó hoặc “lôi kéo” lao động giỏi của các doanh nghiệp khác chứ không quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực cho chính mình. Mặt khác, sự phối hợp giữa các ban, ngành quản lý, các doanh nghiệp và các trung tâm đào tạo nghề chưa gắn kết thực sự đã tạo ra những bất cập trong thị trường lao động tỉnh. 3.7. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH Trong môi trường cạnh tranh đang ngày càng quyết liệt, các tổ chức tài chính là một trong những bộ phận tiếp sức hết sức quan trọng cho các nhà đầu tư. Trên thực tế, thị trường vốn tại Quảng Trị hoạt động khá đơn điệu, đến nay cả tỉnh chỉ có 04 Ngân hàng thương mại Nhà nước có chi nhánh tại Quảng Trị và 01 Ngân hàng cổ phần. Trong khi đó tại KKTTMĐB Lao Bảo chỉ có chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tại Quảng Trị đặt phòng giao dịch với quy mô hoạt động nhỏ chủ yếu cung cấp dịch vụ giao dịch chuyển tiền, các nghiệp vụ thương mại thông thường. Cho thấy, Các ngân hàng tại tỉnh Quảng Trị chưa mạnh dạn “đón đầu” để thực hiện các khoản cho vay khi dự án mới triển khai đầu tư, cũng như chưa sẵn sàng mở rộng các hình thức dịch vụ để cung cấp cho các doanh nghiệp tại KKTTMĐB Lao Bảo. Hầu hết, các dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo bằng nguồn vốn chủ sỡ hữu và phần vốn huy động từ các tổ chức tài chính ở các nơi khác, rất ít khi tiếp cận được các Ngân hàng tại Quảng Trị để vay vốn đầu tư, số dư nợ của các doanh nghiệp tại KKTTMĐB Lao Bảo rất hạn chế và hầu như các khoản vay dựa trên hợp đồng tín dụng thế chấp là chủ yếu. Nên cần có sự hỗ trợ từ phía Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo tạo ra sự kết hợp bổ sung lẫn nhau trong ba bên: Ngân hàng - Ban quản lý - nhà đầu tư nhằm tạo ra động lực, sự gắn kết hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến với KKTTMĐB Lao Bảo trong thời gian đến. 3.8. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI LAO BẢO Dòng khách qua lại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đang ngày càng gia tăng kể từ khi mở tuor du lịch “ngày ăn cơm ba nước” Việt Nam - Lào - Thái Lan, điều này đã kéo theo số khách đến tham quan, mua sắm hàng hoá tại khu kinh tế nhiều hơn. Tuy nhiên, một thực tế lượng khách nước ngoài có nhu cầu mua sắm tại khu kinh tế chiếm rất ít chủ yếu là khách du lịch trong nước, nguyên nhân do chủng loại mặt hàng chưa đặc biệt, các sản phẩm không mang tính đặc sản hay truyền thống, chính sách cho mua hàng nhập khẩu miễn thuế đối với du khách chỉ 500.000đồng/người/lượt là quá ít. Hiện nay, hàng Việt Nam tái xuất chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nông sản như tỏi, lạc nhân (đây là mặt hàng mang tính thời vụ) và các loại hàng hoá tiêu dùng thiết yếu với giá trị kim ngạch không cao. Hàng hoá từ Thái Lan, Lào vào Việt Nam chủ yếu các mặt hàng điện tử, điện lạnh, rượu ngoại, hàng tiêu dùng, gỗ các loại, thạch cao có giá trị kim ngạch cao và chiều hướng phát triển tốt hơn. Cho thấy, thị trường hàng hoá tái xuất và xuất nhập khẩu trực tiếp Việt Nam nhập khẩu vào Lao Bảo rồi xuất sang Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan và ngược lại còn khá đơn điệu. Tuy nhiên, điều đáng phải xem xét là những mặt hàng chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi khu kinh tế thương mại (muốn đưa vào nội địa phải đóng thuế nhập khẩu) lại được bày bán hầu hết tại chợ Đông Hà - Quảng Trị, hàng được đưa về tiêu thụ hầu hết qua con đường tiểu ngạch, năm 2006 cục hải quan Quảng Trị đã xử lý 1.123 vụ buôn lậu với giá trị 10.366 triệu đồng [48], đó là chưa kể số lượng hàng không phát hiện được. Thực tế tại chợ Đông Hà thì các mặt hàng này được bày bán công khai từ rượu, thuốc lá ngoại, đồ điện tử, mỹ phẩm với giá chênh lệch so với tại khu trung tâm thương mại Lao Bảo chỉ là khoảng trên dưới 5%, hàng ngày bình quân khoảng từ 20 đến 40 phương tiện xe ngoại tỉnh ghé đến mua sắm tại chợ Đông Hà, với lưu lượng khách bình quân khoảng từ 100-300 khách ngoại tỉnh/ngày. Điều này rõ ràng, sẽ làm giảm khả năng thu hút lượng khách đến tham quan và mua sắm tại KKTTMĐB Lao Bảo. 3.9. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẶC BIỆT LAO BẢO 3.9.1 Vốn đầu tư trong nước 3.9.1.1 Vốn đầu tư theo quy mô tiến độ thực hiện Đến ngày 31/12/2006, tức sau gần 8 năm thành lập số dự án đầu tư trong nước thực hiện và đăng ký tại KKTTMĐB Lao Bảo như sau: Bảng 3.4. Vốn đầu tư và các dự án đầu tư trong nước từ năm 2002 – 2006 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng Số dự án 8 10 1 3 19 41 Vốn đầu tư 74.264 232.330 1.100 23.383 981.678 1.312.755 B.quân/DA 9.283 23.233 1.100 7.794,3 51.667 32.018 T.trọng(%) 5 17 1 2 75 100 Nguồn: Ban quản lý Khu KTTMĐB Lao Bảo Tổng cộng có 41 dự án với tổng vốn đầu tư 1.312.755 triệu đồng, chiếm khoảng 104% tổng vốn đăng ký vào KKTTMĐB Lao Bảo. Các dự án đầu tư trong nước đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo tương đối nhỏ, bình quân vốn đầu tư trên một dự án là 32.018,40 triệu đồng. Đến năm 2006 chỉ số này đã tăng lên đáng kể, tăng gần 62% so với mức bình quân chung của các năm từ 2002-2006 và tăng 563% so với năm 2005. Sở dĩ có điều này là vì năm 2006 các dự án có vốn đầu tư trong nước tăng lên đột biến có 19 dự án (tăng 633,30 % so với năm 2005) với tổng vốn đầu tư 981.678 triệu đồng chiếm 75% tổng vốn đầu tư trong nước tại KKTTMĐB Lao Bảo. Đây là một tính hiệu hết sức khả quan cho tình hình thu hút vốn đầu tư trong nước tại KKTTMĐB Lao Bảo. Nhìn chung, số lượng cũng như quy mô vốn đầu tư trong nước “rót” vào KKTTMĐB Lao Bảo tương đối thấp. Mặc dù, mục tiêu của KKTTMĐB Lao Bảo là nhắm đến thu hút các dự án thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiên đây vẫn là những “con số” đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng và chính sách mà KKTTMĐB Lao Bảo đang có. So sánh với khu kinh tế mở Chu Lai nơi có các chính sách ưu đãi khá tương đồng với KKTTMĐB Lao Bảo, chỉ sau 2 năm thành lập đã có 86 dự án vốn đầu tư trong nước với lượng vốn đầu tư là 624,36 triệu USD tương đương 9.864,98 triệu đồng gấp trên 6,50 lần so với lượng vốn đầu tư trong nước vào KKTTMĐB Lao Bảo sau 8 năm thành lập [58]. 3.9.1.2. Vốn đầu tư theo lĩnh vực đầu tư Bảng 3.5. Vốn đầu tư trong nước theo lĩnh vực đầu tư Đơn vị: Triệu đồng Lĩnh vực hoạt động Số DA (đơn vị) Vốn đầu tư Tỷ lệ (%) B.quân/1 DA 1/ Công nghiệp 5 173.860 13 34.772 2/ Du lịch 0 0 0 0 3/ Thương mại d. vụ 29 824.173 63 28.420 4/Nông lâm thuỷ sản 5 149.872 11 29.974 5/ Xây dựng CSHT 2 164.850 13 82.425 Tổng 41 1.312.755 100 38.994 Nguồn: Ban quản lý KKTTM Lao Bảo Hình 3.3 : Biểu đồ vốn đầu tư trong nước theo lĩnh vực Qua bảng số liệu cho thấy, đầu tư trong nước chủ yếu tập trung vào ngành thương mại dịch vụ, với 32 dự án có tổng vốn đầu tư là 824.173 triệu đồng chiếm 63% tổng mức vốn đầu tư trong nước tại KKTTMĐB Lao Bảo tại thời điểm 31/12/2006. Quy mô vốn bình quân cho mỗi dự án đầu tư vào lĩnh vực này đạt 28.420 triệu đồng. Đây chính là lĩnh vực có số dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo lớn nhất và cũng là lĩnh vực có số dự án đầu tư vào tăng dần qua các năm, nhưng về quy mô dự án vẫn là con số tương đối thấp và về lâu về dài lĩnh vực này sẽ là lĩnh vực bị rơi vào trạng thái bão hoà trong thu hút đầu tư. Với sự phát triển của lĩnh vực này sẽ là cơ sở tạo “mồi” để thu hút vốn trong nước và FDI vào các lĩnh vực liên quan vào KKTTMĐB Lao Bảo, đặc biệt là vào các lĩnh vực như dịch vụ, du lịch và các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu tại chổ. Như vậy, trong giai đoạn sắp đến với chính sách ưu đãi đặc biệt, lợi thế về vị trí đầu trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây thương mại chính là cơ sở tiếp tục quyết định đến việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Đứng sau thương mại dịch vụ về tỷ trọng thu hút vốn đầu tư trong nước là lĩnh vực công nghiệp. Có 05 dự án đầu tư vào công nghiệp với số vốn đầu tư là 173.860,30 triệu đồng chiếm 13% tổng vốn đầu tư trong nước. Quy mô bình quân cho mỗi dự án là 34.772 triệu đồng, khá cao so với số vốn đầu tư bình quân trên một dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Tuy nhiên đây là lĩnh vực có số dự án “huỷ” và hoạt động kém hiệu quả nhất, đã có một số dự án phải tạm ngừng hoạt động hoặc di dời ra khỏi phạm vi KKTTMĐB Lao Bảo vì các lý do chủ yếu như: xa thị trường tiêu thụ, xa nguồn nguyên vật liệu, ô nhiễm môi trường ...v.v điển hình là công ty dệt may Lao Bảo và công ty cao su Camel. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư vào lĩnh vực này chưa có định hướng đúng thị trường tiềm năng, hay mục đích đầu tư vào đây không phải vì tiềm năng kinh tế của khu mà vì tận dụng các chính sách “lỏng” của KKTTMĐB Lao Bảo. Nên cần có một định hướng rõ ràng trong việc thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này, tuyệt đối không chạy theo thành tích mà cần xác định yếu tố hàng đầu là chất lượng dự án đầu tư. Đầu tư vào lĩnh vực nông lâm thuỷ sản có 05 dự án đạt giá trị 149.872 triệu đồng, chiếm 11% tổng vốn đầu tư trong nước, mức vốn bình quân trên một dự án là 29.974,50 triệu đồng. Như vậy, vốn đầu tư vào lĩnh vực này tương đối thấp, bởi đây là ngành kinh doanh có tỷ suất sinh lời thấp, tính rủi ro trong đầu tư cao, chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, một số dự án đã khai thác và phát huy lợi thế về chính sách ưu đãi về nguyên liệu và lợi thế về thời tiết, vùng nguyên liệu tại chổ như: gỗ, cà phê, hồ tiêu, một số cây ăn quả đặc trưng của vùng (mít, chuối, sắn..v.v) đã đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh. Đầu tư trong nước vào lĩnh vực CSHT có 02 dự án với tổng vốn đầu tư là 164.850 triệu động chiếm 13% tổng vốn đầu tư trong nước. Mặc dù số dự án đầu tư vào lĩnh vực này tương đối khiêm tốn nhưng quy mô vốn bình quân dự án cao nhất 82.425 triệu đồng/dự án so với các lĩnh vực đầu tư khác. Các nhà đầu tư trong nước thường ít quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh này, đây là đều dễ hiểu bởi kinh doanh CSHT là lĩnh vực đầu tư đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi dài, tính rủi ro trong đầu tư cao. Khi CSHT bên ngoài KKTTMĐB Lao Bảo còn rất sơ khai, chưa đồng bộ và đang là yếu tố gây trở ngại lớn cho việc thu hút vốn đầu tư vào khu KTTMĐB Lao Bảo, đồng thời, trong điều kiện vốn ngân sách dành cho lĩnh vực này còn thấp, việc thu hút FDI còn nhiều trở ngại, nên việc tăng cường huy động vốn có nguồn gốc từ các nhà đầu tư có tiềm lực trong nước cho đầu tư xây dựng và phát triển CSHT là hết sức cấp bách. Một lĩnh vực đang còn bỏ ngỏ tại KKTTMĐB Lao Bảo là du lịch. Một thực tế đáng được quan tâm là cần có sự kết hợp hài hoà thương mại - du lịch - dịch vụ, sẽ tạo ra thế kiềng ba chân vững chắc cho thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Một khi thương mại đang trở thành “tâm điểm” thu hút vồn đầu tư vào khu kinh tế sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển du lịch dịch vụ, đặc biệt các loại hình dịch vụ cao cấp cho nhà đầu tư và du khách nước ngoài. 3.9.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.9.2.1. Cơ cấu vốn đầu tư theo quy mô tiến độ thực hiện Bảng 3.6. Vốn các dự án đầu tư nước ngoài từ năm 2002 - 2006 Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng Số dự án 1,00 2,00 0,00 0,00 5,00 8,00 Vốn đầu tư 3,40 9,80 0,00 0,00 23,89 37,10 Bình quân/DA 3,40 4,90 0,00 0,00 4,80 4,60 Tỉ trọng (%) 9,20 26,40 0,00 0,00 64,40 100,00 Nguồn: Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo Kể từ khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 2002, đến nay đã thu hút được 08 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện và đăng ký vào KKTTMĐB Lao Bảo, với số lượng vốn đầu tư 37,10 triệu USD chiếm 101% tổng vốn đăng ký vào KKTTMĐB Lao Bảo. Các dự án FDI đăng ký đầu tư vào khu có quy mô không lớn lắm, bình quân trên một dự án là 4,60 triệu USD. Cho thấy gần như các nhà đầu tư nước ngoài rất ít quan tâm về KKTTMĐB Lao Bảo. Năm 2004, 2005 hầu như không có nhà đầu tư nào thực sự đầu tư vốn vào đây, tình hình có chiều hướng thuận lợi hơn khi đầu năm 2006 có 04 dự án đầu tư FDI đăng ký với số vốn 19,30 triệu USD. Đã có 02 dự án từ Thái Lan với tổng số vốn đăng ký 8,10 triệu USD đã đi vào hoạt động cho ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường cả nước và xuất khẩu, còn 01 dự án đang xây dựng và 05 dự án đến từ Trung Quốc đang chuẩn bị triển khai. Như vậy, có thể nhận thấy đến nay số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư nước ngoài tại KKTTMĐB Lao Bảo còn thấp, tiến độ triển khai còn chậm hơn nhiều so với các dự án có vốn đầu tư trong nước, số lượng dự án làm thủ tục chọn địa điểm nhưng chưa cấp phép đầu tư hoặc cấp phép rồi nhưng không tiếp tục thực hiện dự án còn rất lớn. Thực tế này đặt ra vấn đề cấp bách cho Ban quản lý KKTTMĐB Lao Bảo nhanh chóng hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để 05 dự án trên nhanh chóng thực hiện quá trình đầu tư, tạo hiệu ứng đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo, và cần chú trọng thu hút các dự án có nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở lĩnh vực thương mại - dịch vụ mà KKTTMĐB Lao Bảo đang có những lợi thế. 3.9.2.2. Theo chủ thể đầu tư Bảng 3.7: Vốn đầu tư trong nước theo chủ thể đầu tư Đơn vị: Triệu USD Quốc gia, lãnh thổ Số dự án Vốn đầu tư Tỷ lệ B.quân/DA 1/ Thái Lan 3,00 13,10 35,30 4,40 2/ Trung Quốc 5,00 23,99 64,70 4,80 Tổng 8,00 37,10 100,00 4,60 Nguồn: Khu KTTMĐB Lao Bảo Chỉ có 02 quốc gia và vùng lãnh thổ nước ngoài tham gia đầu tư tại KKTTMĐB Lao Bảo, đứng đầu là Trung Quốc với 05 dự án chiếm 64,70% tổng vốn FDI tại KKTMĐB Lao Bảo, số dự án còn lại thuộc về các nhà đầu tư Thái Lan. Các nhà đầu tư Thái Lan là những nhà tiên phong đầu tư vốn tại KKTTMĐB Lao Bảo ngay từ khi có quyết định thành lập khu của Thủ tướng Chính phủ. Nhưng đến nay, hầu như không có một nhà đầu tư Thái Lan nào tiếp tục đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Qua phân tích tình hình cho thấy, hiệu quả dự án đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo của các nhà đầu tư Thái Lan chưa cao hoặc buộc phải di dời sang vị trí khác do thải ra môi trường lượng khí thải quá mức cho phép. Làm cho tình hình đầu tư của các nhà đầu tư Thái Lan tại KKTTMĐB Lao Bảo đều có triển vọng không sáng sủa, đây chính là một trong những lý do gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư mới đến từ Thái Lan muốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo trong thời gian qua. Đến đầu năm 2006, đã đánh dấu một bước nhảy khá ngoạn mục trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại KKTTMĐB Lao Bảo, với việc thu hút được 05 dự án đầu tư đến từ Trung Quốc - quốc gia có tỷ trọng vốn đầu tư vào Việt Nam khá lớn chỉ đứng sau Nhật Bản trong các nước Châu Á có vốn đầu tư tại Việt Nam, sẽ là một dấu hiệu tốt đẹp cho quá trình thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo trong thời gian tới. Như vậy, số quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo đến nay quy mô còn quá nhỏ và số lượng còn quá ít, thiếu hẳn các nhà đầu tư có tiềm lực lớn đã đầu tư thành công tại Việt Nam như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore...v.v, trong khi quy mô di chuyển vốn đầu tư nước ngoài từ các thị trường này rất lớn, tỷ lệ vốn đầu tư dành cho các nước Châu Á cũng như năng lực công nghệ, năng lực quản lý của các nhà đầu tư từ các thị trường này là rất cao. 3.9.2.3. Vốn đầu tư theo lĩnh vực đầu tư Bảng 3.8. Vốn đầu tư nước ngoài theo lĩnh vực đầu tư Đơn vị: Triệu USD Lĩnh vực hoạt động Số dự án Vốn đầu tư Tỷ lệ B.quân/1 DA 1/ Công nghiệp 5,00 27,80 61,70 5,56 2/ Du lịch 0,00 0,00 0,00 0,00 3/ Thương mại dịch vụ 2,00 9,30 25,00 4,65 4/ Nông lâm thuỷ sản 1,00 4,88 13,30 4,90 5/ Xây dựng CSHT 0,00 0,00 0,00 0,00 Tổng 8,00 37,10 100,00 4,60 Nguồn: KKTTMĐB Lao Bảo Hình 3.4: Biểu đồ vốn đầu tư nước ngoài theo lĩnh vực Công nghiệp là lĩnh vực thu hút được số dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất 04 dự án chiếm 61,7% tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư nước ngoài tại KKTTMĐB Lao Bảo, với mức vốn bình quân 5,56 triệu USD trên một dự án. Điều này cho thấy không như các nhà đầu tư trong nước chủ yếu tập trung vào thương mại dịch vụ, công nghiệp là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều nhất khi đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo. Các lĩnh vực công nghiệp đang chiếm lợi thế như: gia công, lắp ráp, chế tạo, tái chế ngày càng gia tăng, cho thấy do giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu chuẩn hoá như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện không đòi hỏi trình độ công nghệ cao, tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều này cũng có thể giúp chúng ta một lần nữa lý giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp như dệt, may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu kinh tế của các nước đang phát triển. Hi vọng với sự thành công của các dự án này sẽ là “vết dầu loang” tích cực, góp phần thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, xoá tan trạng thái “đóng băng” mà bấy lâu nay các nhà đầu tư Thái Lan gặp phải. Một lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư của KKTTMĐB Lao Bảo là về lĩnh vực thương mại dịch vụ, với những ưu đãi và điều kiện hết sức thuận lợi, rất cần những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh và kinh nghiệm quản lý như những nhà đầu tư nước ngoài để khai thác tối đa và phát huy hiệu quả lợi thế này. Tuy nhiên, đến nay chưa nhận được sự quan tâm thích đáng từ các nhà đầu tư, đến cuối năm 2006 vẫn chưa có dự án đầu tư nước ngoài nào đầu tư Thái Lan đầu tư vào lĩnh vực thương mại, chỉ có 01 dự án đầu tư vào nông lâm sản của các nhà đầu tư Trung Quốc. Du lịch và CSHT là hai lĩnh vực hầu như không được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, trong khi, về mặt địa lý, huyện Hướng Hoá là vùng đất tốt, khí hậu thuận lợi rất phong phú về tài nguyên thiên nhiên rất thích hợp để phát triển du lịch. 3.10. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TẠI KHU KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẶC BIỆT LAO BẢO 3.10.1. Kiểm tra phân phối chuẩn Bảng 3.9: Tỷ lệ phân phối chuẩn Các yếu tố Kolmogorov-Smirnov(a) Statistic df Sig. 1/ Lợi thế so sánh của lĩnh vực đầu tư 0,271 66 0,000 2/ Giá công lao động 0,218 66 0,000 3/ Chất lượng lao động 0,241 66 0,000 4/ Thủ tục hải quan 0,228 66 0,000 5/ Đền bù và giải phóng mặt bằng 0,270 66 0,000 6/ Chính sách sau đầu tư 0,253 66 0,000 7/ Địa bàn đầu tư 0,264 66 0,000 8/ Chính sách ưu đãi đầu tư 0,261 66 0,000 9/ Hoa hồng môi giới đầu tư 0,228 66 0,000 10/ CSHT 0,228 66 0,000 11/ Chế độ một cửa, tại chổ 0,205 66 0,000 12/ Chính sách Marketing, xúc tiến đầu tư 0,237 66 0,000 13/ Chi phí cho sản xuất 0,293 66 0,000 14/ Công tác HTPL và CCTTHC 0,222 66 0,000 15/ Thủ tục thời gian cấp phép đầu tư 0,308 66 0,000 16/ Thủ tục, thời gian thẩm định thiết kế kỹ thuật 0,228 66 0,000 17/ Sự can thiệp của chính quyền vào hoạt động của dự án 0,312 66 0,000 Nguồn: Trích từ kết quả xử lý số liệu điều tra ( Phụ lục 03) Phương pháp phân tích đa biến phục vụ cho nghiên cứu quá trình thu hút vốn đầu tư vào KKTTMĐB Lao Bảo là phương pháp có thể xác định mức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI - Hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo.doc
Tài liệu liên quan