Tài liệu Đề tài Hiện trạng sản xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận: I. GIỚI THIỆU 
1.1 Đặt Vấn Đề 
Những năm gần đây nghề nuôi tôm sú ở nước ta ngày càng phát triển mạnh. 
Song song với sự phát triển đó, nhu cầu con giống cũng ngày càng tăng cao. Trước 
tình hình đó, nhiều tỉnh ven biển có đủ điều kiện sản xuất giống tôm sú đã dần dần 
hình thành mạng lưới hệ thống trại sản xuất giống, nhằm đáp ứng được nhu cầu giống 
cũng như sẽ tìm được nguồn lợi nhuận không nhỏ từ việc sản xuất và cung cấp giống. 
Cũng không ngoại lệ, nằm trên vùng lãnh thổ Việt Nam, Ninh Thuận là một 
tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ có bờ biển dài 105km. Dọc theo bờ biển Ninh 
Thuận có nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông, bãi triều có thể sử dụng cho nuôi trồng 
thủy sản. Ninh Thuận là một tỉnh có lượng mưa ít nhất trong cả nước (trung bình 
750mm), ít sông ngòi, độ mặn nước biển luôn cao và ổn định (trung bình 32 – 350/00). 
Trong thực tế ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
70 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hiện trạng sản xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. GIỚI THIỆU 
1.1 Đặt Vấn Đề 
Những năm gần đây nghề nuôi tôm sú ở nước ta ngày càng phát triển mạnh. 
Song song với sự phát triển đó, nhu cầu con giống cũng ngày càng tăng cao. Trước 
tình hình đó, nhiều tỉnh ven biển có đủ điều kiện sản xuất giống tôm sú đã dần dần 
hình thành mạng lưới hệ thống trại sản xuất giống, nhằm đáp ứng được nhu cầu giống 
cũng như sẽ tìm được nguồn lợi nhuận không nhỏ từ việc sản xuất và cung cấp giống. 
Cũng không ngoại lệ, nằm trên vùng lãnh thổ Việt Nam, Ninh Thuận là một 
tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ có bờ biển dài 105km. Dọc theo bờ biển Ninh 
Thuận có nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông, bãi triều có thể sử dụng cho nuôi trồng 
thủy sản. Ninh Thuận là một tỉnh có lượng mưa ít nhất trong cả nước (trung bình 
750mm), ít sông ngòi, độ mặn nước biển luôn cao và ổn định (trung bình 32 – 350/00). 
Trong thực tế các năm qua cho thấy, nuôi trồng thủy sản ven biển ở Ninh 
Thuận thực sự là thế mạnh của ngành thủy sản và không ngừng phát triển với tốc độ 
khá cao, trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quan trọng của địa phương. Nuôi 
tôm thương phẩm và sản xuất giống tôm sú là hai nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao 
nhất. Ninh Thuận hiện có khoảng 1.513ha nuôi tôm sú, hàng năm cung cấp khoảng 
4.000 tấn tôm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đồng thời giải quyết công ăn việc 
làm cho hơn 5.000 lao động, điều này không thể không kể đến sự góp phần không 
nhỏ của nghề sản xuất giống của huyện Ninh Hải nói riêng và trong cả tỉnh nói chung 
đã đống góp tích cực nhất trong nhiệm vụ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho 
nhân dân trong địa phương. 
Tuy nhiên trong những năm vừa qua, từ cuối năm 2001 đến đầu 2002 và đặc 
biệt là từ cuối năm 2003 đến nay các trại nuôi tôm giống đã và đang đối mặt với rất 
nhiều khó khăn. Trên tất cả các vùng sản xuất giống tôm sú của cả nước đều xuất 
hiện bệnh đỏ thân, đốm trắng, ngoài ra còn các bệnh nhiễm khuẩn thông thường và 
chủ yếu do nhóm Vibrio gây ra cũng trở nên khó điều trị. Dịch bệnh xảy ra liên miên, 
kéo theo vấn đề môi trường và nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm đã dẫn đến hàng 
loạt thiệt hại cho các hộ nuôi như: tôm chậm lớn, năng suất nuôi đạt thấp, lượng tôm 
hao hụt lớn, thời gian nuôi kéo dài, chi phí thức ăn, nhân công, nhiên liệu,… đã làm 
cho giá thành sản xuất tăng cao, trong khi đó giá tôm giống trên thị trường ngày càng 
không ổn định và có xu hướng hạ thấp trong vài năm trở lại đây. Tất cả những điều 
nêu trên đã làm cho một bộ phận người sản xuất tôm giống hoang mang, sản xuất bị 
đình đốn. 
Nhằm tìm hiểu hiện trạng nghề sản xuất giống tôm sú tại huyện Ninh Hải, 
tỉnh Ninh Thuận và được sự chấp thuận của khoa Thủy Sản Trường Đại Học 
 Download» Agriviet.com 
2
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi thực hiện đề tài: “Hiện trạng sản 
xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận”. 
Qua đề tài này chúng tôi sẽ điều tra để tìm hiểu và thu thập số liệu về tình 
hình sản xuất giống tôm sú cũng như tìm hiểu về qui trình kỹ thuật đang được áp 
dụng ở các địa phương trong huyện. 
1.2 Mục Tiêu Đề Tài 
- Điều tra hiện trạng, kinh tế xã hội và kỹ thuật của nghề sản xuất giống tôm 
sú ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. 
- Xác định hiệu quả kinh tế của nghề sản xuất giống tôm sú. 
- Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của nghề này. Để có những giải pháp 
nâng cao năng lực sản xuất cho những năm tiếp theo. 
- Tìm hiểu mối tương quan giữa năng suất và các yếu tố khác. 
 Download» Agriviet.com 
3
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1 Đặc Điểm Sinh Học của Tôm Sú 
Tôm sú hay còn gọi là tôm sú rằn hay tôm cỏ là loài tôm biển có kích thước 
lớn, trên cơ thể tôm sú có nhiều sọc màu xám đậm hơi xanh hoặc nâu đỏ, tôm có 
chủy dài hơi cong và có 6 – 8 gai trên chủy. 
2.1.1 Phân loại 
 Tôm sú thuộc: 
Ngành: Arthropoda 
Ngành phụ: Branchiata 
Lớp: Cructacea 
Lớp phụ: Melacostrace 
Bộ: Decapoda 
Bộ phụ: Nantatia 
Họ: Penaeidae 
Giống: Penaeus 
Loài: Penaeus monodon 
Tên khoa học: Penaeus monodon (Fabricius 1798) 
Tiếng Anh: Tiger shrimp 
Tiếng Việt: Tôm sú, tôm cỏ 
2.1.2 Vùng phân bố 
Phạm vi phân bố của tôm sú trên thế giới khá rộng như ở các thủy vực từ Ấn 
Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam châu Úc và 
phía Tây châu Phi (Racek, 1955; Holthuis và Rosa, 1965; Motoh, 1981, 1985, trích bởi 
Phạm Văn Tình, 1996). 
Ở Việt Nam tôm sú (Penaeus monodon) phân bố tự nhiên ở cả ba miền Bắc, 
Trung và Nam nhưng tập trung nhiều ở duyên hải miền Trung. 
2.1.3 Khả năng thích nghi 
 Download» Agriviet.com 
4
Trong môi trường nước có rất nhiều chỉ tiêu thủy lý hóa ảnh hưởng đến quá 
trình sinh trưởng và phát triển của tôm như nhiệt độ, độ mặn, oxy, pH và một số yếu 
tố khác. Sự biến động của các chỉ tiêu này phụ thuộc vào môi trường bên ngoài và 
biến động bên trong của thủy vực. 
Nền đáy thủy vực có ảnh hưởng khá lớn đối với sự phân bố của các loài tôm 
trong tự nhiên. Một số loài thích nền cát, cát bùn, thủy vực nước trong có độ mặn cao 
như tôm sú,… 
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài biến nhiệt, khi nhiệt độ của môi trường 
biến đổi thì nhiệt độ của cơ thể biến đổi theo và điều này không thuận lợi đối với 
tình trạng sức khỏe của tôm, nhưng đây lại là loài rộng nhiệt, có khả năng thích nghi 
trong khoảng nhiệt độ từ 15 – 350C, tuy nhiên khoảng nhiệt độ thích hợp cho tôm là 
từ 25 – 300C, nếu thấp hơn 150C và cao hơn 350C sẽ gây nguy hiểm và tôm bắt đầu 
chết (theo Trần văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm, 2001). 
Trong khoảng pH từ 7,5 – 8,5 là thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của 
tôm, tuy nhiên tôm có thể thích nghi được trong khoảng pH từ 6,0 – 10,0 nhưng sự dao 
động trong ngày phải nhỏ hơn 0,5 đơn vị (theo Đào Mạnh Sơn, Đào Tấn Hỗ, Hà Đức 
Thắng, Nguyễn Chính, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Hữu Phụng, 
Nguyễn Thị Xuân Thu, Nguyễn Văn Chung, Phạm Thị Nhàn, Phạm Thược và các 
ctv., 2003). 
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài rộng muối nhưng cũng tùy từng giai đoạn 
phát triển của tôm mà có khả năng tồn tại và phát triển ở diêm độ từ 0 – 450/00 
(Trần Văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm, 2001). 
Giống như các loài sống trong nước khác, tôm sú cũng cần có oxy để hô hấp, 
hàm lượng oxy hòa tan cần thiết để tôm sống và phát triển từ 3 – 12mg/L, mức oxy 
hòa tan tối ưu để tôm phát triển tốt là từ 4 – 7mg/L. 
Ngoài ra tôm sú sống thích hợp với hàm lượng Amoniac (NH3) thấp hơn 
0,1mg/L, mức độ gây độc của NH3 tùy thuộc vào pH, khi pH càng cao thì sẽ tăng độc 
tính của NH3. 
2.1.4 Chu kỳ đời sống 
Tôm là loài giáp xác có vỏ kitin bao bọc bên ngoài cơ thể, cho nên sự sinh 
trưởng của chúng mang tính gián đoạn và đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích 
thước và trọng lượng. Tôm muốn gia tăng kích thước (hay sinh trưởng) phải tiến hành 
lột bỏ lớp vỏ cũ để cơ thể tăng kích thước. Quá trình này thường tùy thuộc vào môi 
trường nước, điều kiện dinh dưỡng và giai đoạn phát triển của cá thể. 
 Download» Agriviet.com 
5
Vòng đời của tôm biển trải qua một số giai đoạn bao gồm giai đoạn trứng; ấu 
trùng với Nauplii, Zoae và Mysis; hậu ấu trùng; ấu niên và giai đoạn trưởng thành. 
Mỗi giai đoạn phân bố ở những thủy vực khác nhau như vùng cửa sông, vùng biển 
ven bờ hay vùng biển khơi và có tính sống trôi nổi hay sống đáy. 
Hình 2.1 Vòng đời của tôm biển 
(Nguồn: Phạm Văn Nhỏ, 2002) 
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước lớn hơn con đực ở 
cùng độ tuổi. Có thể phân biệt đực cái khi tôm trưởng thành thông qua cơ quan sinh 
dục phụ bên ngoài. 
Cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực, bên 
ngoài có cơ quan giao cấu phụ nằm ở nhánh ngoài của đôi chân ngực thứ hai, lỗ sinh 
dục đực mở ra ở hốc háng đôi chân ngực thứ năm. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong 
túi. 
Ở con cái: buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng 
mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ ba. Bộ phận chứa túi tinh gồm có hai tấm 
phồng lên ở đôi chân ngực thứ tư và thứ năm (gọi là Thelycum). 
 Download» Agriviet.com 
6
Hình 2.2 Phân biệt tôm đực (phải) và tôm cái (trái) 
(Nguồn: Phạm Văn Nhỏ, 2002) 
Tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và tôm cái trong tự nhiên từ tháng thứ 
tám trở đi. Xác định sự thành thục của tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở 
cơ quan sinh dục phụ. Phương pháp xác định sự thành thục của con đực khó hơn, chỉ 
khi nào tìm thấy được tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Thường thì dựa vào trọng lượng 
để xác định khi con đực nặng từ 50g trở lên. 
Số lượng trứng đẻ của tôm cái nhiều hay ít là phụ thuộc vài chất lượng của 
buồng trứng và trọng lượng của cơ thể. Con cái có trọng lượng cơ thể từ 100 – 300g 
cho 300.000 – 1.200.000 trứng nếu thành thục ngoài tự nhiên, còn nếu cắt mắt nuôi 
vỗ trong bể xi măng thì thành thục và đẻ cho số lượng trứng từ 200.000 – 600.000 
trứng. 
Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ ), trứng sau khi đẻ 
được 14 – 15 giờ, ở nhiệt độ 27 – 280C sẽ nở thành ấu trùng và sau đó phát triển qua 
các giai đoạn sau: 
- Nauplius (N): trải qua sáu giai đoạn biến thái từ (N1 – N6), giai đoạn này 
chưa ăn mà chỉ sống dựa vào chất noãn hoàng trong cơ thể. Thời gian biến thái từ N1 
– N6 là 36 – 51 giờ, chiều dài 0,43 – 0,58mm. 
 Download» Agriviet.com 
7
- Protozoea có ba giai đoạn, mỗi giai đoạn biến thái từ 36 – 48 giờ, thức ăn là 
tảo có kích thước bốn đến mười micron, chiều dài Z1 = 1mm, Z2 = 1,7mm, 
Z3 = 2,5mm. 
Hình 2.3 Ba giai đoạn phát triển của ấu trùng Zoea 
(Nguồn: Phạm văn Nhỏ, 2002) 
- Mysis: Mysis xuất hiện ở ngày nuôi thứ năm, Mysis có ba giai đoạn phụ. 
+ Mysis (M1) có chiều dài 3,5mm, xuất hiện năm đôi chân bụng, bơi chúi đầu 
xuống. 
+ Mysis (M2) có chiều dài hơn M1 đôi chút, chân bơi bắt đầu phân đốt. 
+ Mysis (M3) có chiều dài 4mm, chân bơi phân nhánh, sau 24 – 48 giờ thành 
Postlarvae. 
Z1 Z2 
Z3 
 Download» Agriviet.com 
8
Hình 2.4 Các giai đoạn phát triển của hậu ấu trùng 
(Nguồn: Phạm văn Nhỏ, 2002) 
- Postlarvae đã phát triển các phần phụ như tôm trưởng thành, bắt đầu hướng 
về trước, có tập tính sống đáy (công ty TNHHSX – TM – DV Ngọc Hà, kỹ thuật nuôi 
từ nauplii thành phostlarvae, 2004). 
Tôm sú đẻ quanh năm nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính là từ tháng 
3 – 4 và tháng 7 – 10. 
2.1.5 Tập tính dinh dưỡng 
Tôm sú là loài ăn tạp và đặc biệt là giáp xác, vật chất hữu cơ dưới nước 
(mảnh vụn hữu cơ,…), có tập tính ăn lẫn nhau. Chúng thường hoạt động bắt mồi tích 
cực vào ban đêm và thường tập trung ở đáy ao vào ban ngày. Tôm sú có khả năng 
tận dụng nguồn đạm động thực vật cao hơn các loài tôm khác. 
2.1.6 Trị một số bệnh thường gặp 
Trong quá trình sản xuất cần phải thường xuyên quan sát ấu trùng qua kính 
hiển vi, khi thấy xuất hiện dấu hiệu gây bệnh thì cần phải trị ngay mới mang lại hiệu 
quả cao hơn. 
2.1.6.1 Bệnh vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria) 
Bệnh này thường gặp ở giai đoạn Poslarvae, các sợi nấm bám đầy các phần 
phụ của tôm, làm cho tôm khó bơi, ăn yếu và sẽ xuất hiện các bệnh khác kèm theo 
như hoại tử (necrosis), nếu phát hiện sớm có thể trị bệnh có hiệu quả. Trị bệnh bằng 
Sunfat đồng (CuSO4) với nồng độ 0,15 – 0,25ppm trong 24 giờ. 
Mysis 1 Mysis 2
Mysis 3 Postlarvae 1 
 Download» Agriviet.com 
9
2.1.6.2 Bệnh hoại tử (necrosis) 
Bệnh hoại tử có hai dạng: vi khuẩn ăn mòn các phần phụ hoặc các phần phụ 
bị chết (chẳng hạn như hoại tử các nhánh chân bụng). Trong hai loại này thì dạng thứ 
hai khó trị hơn. Nếu phát hiện sớm có thể điều trị có hiệu quả bằng cách sử dụng 
Oxytetracylin 5 – 10ppm hay Furazon 2 – 3ppm, trị liên tiếp ba ngày. Nguyên nhân 
chủ yếu gây ra bệnh này là do môi trường không thuận lợi. 
2.1.6.3 Bệnh lột xác dính vỏ (Exuvia Entrapment) 
Loại bệnh này thường xảy ra ở giai đoạn Poslarvae, khi lột xác một phần vỏ 
dính lại trên các phần phụ như chân ngực, chân bụng làm cho tôm khó hoạt động. 
Nguyên nhân gây bệnh là do NH4 trong bể chứa từ 0,01ppm trở lên. Nowser 
và cộng sự (1981) cho rằng thêm Lexitin (Photpholipit) trong thức ăn sẽ hạn chế được 
bệnh này. 
2.1.6.4 Bệnh phát sáng (Liminescent vibriosis) 
Đối với loại bệnh này thường xảy ra trong tất cả các giai đoạn của tôm nuôi. 
Nếu trong bể tôm có các đốm sáng lớn trên những con tôm chết, đó là do 
những tập đoàn Coccobacilli tấn công vào các con chết gây phát sáng thì hiện tượng 
này không quan trọng. 
Khi nước biển xử lý không tốt sẽ thường gặp hiện tượng này. Nếu phát sáng 
trên các con tôm sống, đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ thịt của tôm thì đó là 
bệnh Vibrio harveyi và Vibrio splendidus gây nên. 
Do bản thân các loại Vibrio này có nguồn gốc từ nước biển nên việc phòng 
bệnh sẽ thông qua việc xử lý thật kỹ nguồn nước nuôi. 
2.1.6.5 Bệnh do nguyên sinh động vật (Protozoea) 
Bệnh này do một số loài nguyên sinh động vật như Zoothammium, Rpistylis, 
Vorticella, Acineta,… chúng tấn công vào mắt, mang, các phần phụ của tôm làm cho 
tôm yếu, kém ăn và di chuyển khó khăn rồi chết. 
Nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu là do chăm sóc kém, làm cho môi trường 
nuôi bị xấu, hàm lượng các chất hữu cơ trong bể cao, tạo điều kiện cho nguyên sinh 
động vật phát triển. 
Với bệnh này có thể điều trị bằng Chloroquin disphosphate 1,1ppm liên tục 
trong hai ngày, hay tắm Formaline 25 – 30ppm trong vòng 15 – 20 phút. 
 Download» Agriviet.com 
10
2.2 Điều Kiện Tự Nhiên của Tỉnh Ninh Thuận 
2.2.1 Vị trí địa lý 
Ninh Thuận là một tỉnh cực Nam Trung bộ, được tách ra từ tỉnh Thuận Hải cũ 
(tháng 04/ 1992), vị trí địa lý từ 11018’14” độ vĩ Bắc và 108039’08” – 109014’25” độ 
kinh Đông, phía Bắc giáp Khánh Hòa, phía Nam giáp Bình Thuận, phía Tây giáp 
Lâm Đồng, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích của tỉnh là 3.360,06km2 với 
năm huyện thị. 
Ninh Hải là một huyện ven biển, nằm về phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận, nằm 
trong phạm vi tọa độ từ 11037’05” Bắc đến 11061’10” Bắc và từ 106027’30” Đông đến 
109014’00” Đông. Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 60km, phía Tây giáp 
huyện Ninh Sơn, phía Nam giáp thị xã Phan Rang, phía Bắc giáp huyện Cam Ranh 
(Khánh Hòa). 
Huyện có quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất chạy qua, nằm liền kề với 
huyện Cam Ranh – nơi có cảng Cam Ranh, cách thị xã Phan Rang không xa. 
Với vị trí địa lý, vùng biển như trên sẽ là yếu tố khai thác các tiềm năng về 
nuôi trồng, khai thác đánh bắt thủy sản, về du lịch của Ninh Hải nói riêng và của 
Ninh Thuận nói chung phát triển qua việc tiếp cận khoa học kỹ thuật, chuyển giao 
công nghệ, đẩy mạnh phát triển hàng hóa và giao lưu kinh tế với các tỉnh Đông Nam 
bộ, vùng duyên hải miền Trung. 
2.2.2 Đặc điểm địa hình 
Địa hình của huyện có độ dốc thấp dần từ Bắc xuống Nam, toàn huyện được 
chia làm ba loại địa hình chính: 
2.2.2.1 Địa hình đồi núi 
Vùng đất đồi núi chủ yếu phân bố ở phía Bắc của huyện. Địa hình chủ yếu là 
các đồi núi Granit có độ dốc lớn, độ cao từ +500 -> +1.000m, nơi cao nhất là đỉnh núi 
Chúa +1.130m, địa hình này có diện tích 23.440 ha chiếm 41,03% diện tích toàn 
huyện. 
2.2.2.2 Địa hình đất cát ven biển 
Loại địa hình này nằm ở phía Đông và phía Nam của huyện, thuộc bốn xã: 
Vĩnh Hải, Khánh Hải, Tri Hải và Phương Hải. Địa hình chủ yếu là các dãi đất cát đến 
cát pha có độ cao dưới 10m, tạo thành một dãy dài và hẹp chạy dọc ven biển. Diện 
tích tự nhiên là 26.508,2ha chiếm 46,40% diện tích toàn huyện. 
 Download» Agriviet.com 
11
2.2.2.3 Địa hình đồng bằng 
Phần lớn đất đai có độ cao từ 10 – 30m, địa hình tương đối bằng phẳng, hướng 
dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam và dốc dần ra biển, diện tích tự nhiên là 7.170ha 
chiếm 12,55% diện tích toàn huyện. 
2.2.3 Khí hậu thủy văn trong đất liền 
Huyện Ninh Hải có đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do tính chất của 
địa hình nên ở Ninh Hải có khí hậu khô hạn và nắng nóng đặc biệt so với các vùng 
khác. 
Nhiệt độ không khí: 
- Trung bình năm: 27,70C. 
- Nhiệt độ cao nhất: 39,90C (06/1937). 
- Nhiệt độ thấp nhất: 11,40C (12/1934). 
Tháng có nhiệt độ bình quân cao nhất là 29,40C (tháng tám), tháng thấp nhất 
là 250C (tháng một). Nhiệt độ cao nóng quanh năm không có mùa đông lạnh, những 
nơi có nước cây trồng xanh tươi quanh năm. 
Bảng 2.1 Phân bố nhiệt độ theo các tháng 
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 
to 
Lớn nhất 35,5 35,2 35,5 36,4 38,9 39,0 39,9 38,3 37,7 34,1 33,8 33,2 
Trung bình 24,4 25,4 26,9 28,1 28,8 28,7 28,6 28,8 27,2 26,4 25,9 29,8 
Nhỏ nhất 16,9 17,9 19,6 21,2 22,9 23,2 22,2 21,2 20,8 20,8 18,7 17,2 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Lượng mưa: 
- Lượng mưa bình quân nhiều năm: 717 – 750mm. 
- Lượng mưa năm cao nhất: 1.390mm. 
- Lượng mưa năm thấp nhất: 290mm. 
 Download» Agriviet.com 
12
Số ngày mưa trong năm bình quân là 60 ngày, mưa tập trung vào ba tháng 
9, 10, 11 chiếm 80% lượng mưa cả năm. Trong mùa khô từ tháng 12 – 08 năm sau 
lượng mưa rất nhỏ và không đáng kể. Lượng mưa hàng năm biến đổi lớn và vùng đồi 
núi có số ngày mưa nhiều hơn. 
Là một huyện mưa ít nhất toàn quốc, khô hạn kéo dài tám đến chín tháng. 
Chế độ mưa ẩm, khô hạn và nóng quanh năm. 
Bảng 2.2 Phân phối lượng mưa trong năm 
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 
Lượng mưa 
mm 6,5 1,5 6,8 14,1 55 46,8 34,8 45,9 120 162,7 139 58,8 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Bão lụt và áp thấp nhiệt đới: 
- Đặc trưng của bão là gió xoáy kết hợp mưa lớn trên diện rộng và di chuyển 
theo hướng gió, sức gió lên đến cấp 8 – 12. Áp thấp nhiệt đới là những vùng áp suất 
thấp của không khí hình thành trên vùng biển nhiệt đới, sức gió ở trung tâm áp thấp 
nhiệt đới đạt tới cấp 6 – 7. 
- Theo số liệu thống kê hàng năm thì Ninh Hải cũng như Ninh Thuận nói 
chung bão ít xuất hiện và thường chỉ vào tháng 9 – 12 gây sóng lớn và ảnh hưởng đến 
nguồn nước nuôi tôm và các công trình nuôi trồng thủy sản. 
- Gió theo hai mùa rỏ rệt: từ tháng chín đến tháng hai năm sau, gió Đông Bắc 
ban ngày và Tây Nam ban đêm. Từ tháng ba trở đi, gió Đông Nam là chủ yếu. 
Theo kết quả điều tra, đặc điểm thủy – lý hóa như sau: 
 Download» Agriviet.com 
13
Bảng 2.3 Các chỉ tiêu chất lượng nước 
 STT Chỉ tiêu Đơn vị Theo TCN Theo đo đạc 
 1 Nhiệt độ nước Độ C 28 – 33 28 – 33 
 2 pH 7,5 – 8,5 7,8 – 8,2 
 3 Độ mặn ppt > = 28 28 – 34 
 4 Độ trong Cm > 30 66 
 5 02 hòa tan Mg/L > 5 5.86
 6 Hàm lượng Hg “ < 0,01 - 
 7 Kim loại nặng khác “ < 0,01 - 
 Fe “ 0,128 
 Mn 0,0057 
 Cu 0,0039 
Zn 0,0012-0,0037 
 pb 0,0009-0,022 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Chú thích: 
TCN: Tiêu chuẩn ngành 
Theo yêu cầu chung của Bộ Thủy Sản về việc sản xuất giống cũng như tiêu 
chuẩn về trại sản xuất giống thì cần có một số yếu tố thủy lý hóa phù hợp cho nhu 
cầu này là: 
- Các yếu tố cơ bản về độ mặn, pH, oxy hòa tan và một số yếu tố khác đều 
thích hợp với yêu cầu kỹ thuật sản xuất tôm giống. 
- Nước biển trong sạch không màu, không mùi, độ trong tốt, không bị ô nhiễm 
nên bảo đảm cho quá trình sản xuất tôm giống. 
2.2.4 Sông ngòi 
Ninh Hải là huyện nằm trong vùng thiếu nước của tỉnh, các sông suối tự nhiên 
có lưu vực nhỏ, ngắn, dốc, chỉ có lượng nước mùa mưa, mùa khô thiếu nước. Nguồn 
nước cấp và hệ thống sông suối hiện tại có: 
- Suối Bà Râu: diện tích lưu vực là 33km2, chiều dài dòng chính là 5,5km. 
 Download» Agriviet.com 
14
- Suối Đồng Nha: diện tích lưu vực là 37km2, chiều dài sông chính là 11km. 
- Suối Kiền Kiền: diện tích lưu vực là 22km2 và một số sông suối nhỏ không 
đáng kể như suối Nước Ngọt,… 
2.2.5 Tài nguyên đất 
Là một huyện ven biển nên tài nguyên đất ở đây chủ yếu là đất cát, bên cạnh 
đó còn có một số loại khác, Ninh Hải có các loại đất và có diện tích từng loại như 
sau: 
- Đất cát ven biển có diện tích là 870ha chiếm 1,52% diện tích đất tự nhiên 
của huyện. Phân bố ở các xã: Nhơn Hải, Khánh Hải, Vĩnh Hải,… đất có tầng dày 
trung bình 100cm, độ dốc từ 3 – 150, thành phần cơ giới là cát đến cát pha, tầng màu 
mỏng, chủ yếu là cát rời. 
- Nhóm đất mặn có diện tích 1.590ha chiếm 2,78% diện tích tự nhiên, trong đó 
đất mặn trung bình là 1.130ha ở các xã Khánh Hải, Tri Hải, Nhơn Hải và 
Phương Hải. 
2.2.6 Một số nét thủy văn vùng biển 
Vùng biển Ninh Hải nói riêng cũng như của tỉnh Ninh Thuận nói chung thể 
hiện rõ tính gió mùa và có ảnh hưởng của dải ven bờ. Gió mùa Tây Nam thể hiện rõ 
từ tháng sáu đến tháng tám, gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 – 3 năm sau, các 
tháng gió chuyển tiếp là tháng 4 – 5 và tháng 9 – 10. Gió Đông Bắc thổi mạnh hơn 
gió Tây Nam, tốc độ trung bình 10 – 11m/s, gió Tây Nam vùng ven bờ có hướng song 
song với mép bờ và có tốc độ 7 – 8m/s. Ngoài ra còn có gió Tây Nam và gió Đông 
trong mùa gió Đông Bắc. 
2.2.6.1 Sóng và thủy triều 
a) Sóng 
Theo tài liệu thống kê của phòng kinh tế huyện Ninh Hải cho thấy độ cao 
sóng lớn nhất là 8m về mùa gió hướng Đông Bắc và 5m về mùa gió hướng Tây Nam, 
tuy nhiên cấp độ ổn định nhất là sóng Đông Bắc cấp ba (tương đương độ cao 
2 – 3,4m) và sóng Tây Nam cấp hai (tương đương độ cao 1 – 1,9m). Sóng Đông Bắc 
ổn định sáu tháng, chênh lệch giữa hai mùa là tháng năm và tháng mười. Hai tháng 
này sóng đổi hướng truyền, thường có sóng nhỏ và lặng sóng 
Về thực tiễn sản xuất, nếu sóng Tây Nam là loại sóng nhỏ và không gây trở 
ngại thì trong một năm có sáu tháng thuận lợi cho hoạt động sản xuất, đó là thời kỳ 
 Download» Agriviet.com 
15
từ tháng năm đến tháng mười. Về mặt khoa học thì đây là những nét đặc trưng của 
địa phương về chế độ sóng vùng biển. 
b) Thủy triều 
Thủy triều là dạng chuyển động có chu kỳ của nước biển do tổ hợp các lực 
hấp dẫn vũ trụ gây ra, trong đó chủ yếu là tổ hợp sức hút của mặt trăng và mặt trời. 
Chế độ thủy triều vùng biển Ninh Hải có chế độ nhật triều không đều. Các dao động 
triều cực đại từ tháng 6, 7 và tháng 11, 12. Số ngày nhật triều khống chế khoảng 18 
– 20 ngày trong một tháng. Kỳ nước cường dao động từ 1,2 – 2,3m, kỳ nước kém 
khoảng 0,5m. Các tháng dao động mức nước nhỏ nhất là tháng 3 – 4 và tháng 8 – 9. 
Sóng nhật triều chuyển động tịnh tiến băng qua vùng biển theo hướng từ Đông Bắc 
xuống Tây Nam. 
2.3 Kinh Tế Xã Hội 
Cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước và của tỉnh Ninh Thuận 
trong thời kỳ đổi mới, trong những năm qua nền kinh tế của huyện Ninh Hải đã đạt 
được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhất là trong việc chuyển đổi cơ cấu 
kinh tế – chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. 
Hệ thống giao thông rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của huyện như 
tuyến đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A, tuyến đường tỉnh lộ nối liền với quốc lộ 27 
đi Tây Nguyên, nhiều tuyến đường trong huyện được nâng cấp mở rộng. 
Người dân sinh sống chủ yếu bằng bốn nghề chính là: nuôi trồng thủy sản 
(gồm các xã: xã Khánh Hải, Tri Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải, Phương Hải, Công Hải, Hộ 
Hải, Tân Hải), làm ruộng muối: xã Khánh Hải, xã Tri Hải, Nhơn Hải, nghề biển (bao 
gồm cả khai thác và làm nước mắm): xã Khánh Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải, làm nông: 
xã Khánh Hải, Hộ Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải,… ngoài ra hiện nay nghề chăn nuôi gia 
súc có sừng như bò, dê, cừu đang rất phát triển ở địa phương với tổng đàn gia súc hơn 
mười nghìn con. 
Tình hình kinh tế xã hội của huyện cho đến nay đã phát triển tương đối khá, 
đời sống kinh tế của người dân ở đây tương đối ổn định, thu nhập của người dân đã 
được nâng lên, hiện nay thu nhập của người dân vùng trung tâm thành thị đạt 
460.000 đồng/tháng tức 5.520.000 đồng/năm và 390.000 đồng/tháng tức là 4.680.000 
đồng/năm đối với khu vực miền núi, khi ngành nuôi trồng thủy sản phát triển đã giúp 
giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động trong và ngoài huyện. Nhiều cơ sở kinh 
doanh thức ăn tôm và thuốc thú y thủy sản đã ra đời và ngày một tăng về số lượng 
(từ 13 cơ sở năm 2000 tăng lên 34 cơ sở năm 2004). 
2.4 Sản Xuất Giống Tôm Trên Thế Giới 
 Download» Agriviet.com 
16
Nghề nuôi tôm trên thế giới cũng như ở khu vực châu Á đã và đang trong thời 
kỳ phát triển rất mạnh, đặc biệt là các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines,… 
trong đó Thái Lan là một trong những nước hàng đầu thế giới về nuôi tôm từ năm 
1991. 
Với sự phát triển của nghề nuôi tôm sú, nghề sản xuất giống đóng một vai trò 
hàng đầu rất quan trọng, nếu không có nghề sản xuất giống ra đời thì không thể phát 
triển nghề nuôi tôm sú. Vì vậy có thể nói nghề sản xuất giống tôm sú trên thế giới 
rất phát triển mà đặc biệt là Thái Lan. 
Sở dĩ châu Á có nghề nuôi và sản xuất giống phát triển mạnh mẽ là do điều 
kiện tự nhiện thuận lợi như khí hậu, đất đai,… cùng với sự tiến bộ vượt bậc trong 
công nghệ sản xuất thức ăn và sinh sản nhân tạo, sự hỗ trợ của chính phủ trong việc 
lập chương trình, kế hoạch chuyển giao công nghệ, hợp tác đầu tư,… 
Tuy nhiên nghề sản xuất giống đang bị ngưng trệ ở một số nước do tình hình 
nuôi tôm đang dịch bệnh làm giảm mức tiêu thụ con giống, đặc biệt Đài Loan là nơi 
gây ra và lây lan sang các nước khác trong khu vực. Nguyên nhân là do nguồn nước 
nuôi tôm bị ô nhiễm nặng nề bởi chất thải của ngành công nghiệp và cũng bởi việc 
nuôi tôm thâm canh gây ra. 
2.5 Tình Hình Sản Xuất Giống Tôm ở Việt Nam 
Nghề sản xuất giống tôm ở nước ta đã hình thành và phát triển từ những 
năm 1989 – 1990. Cho đến nay, số lượng các trại sản xuất đã phát triển lên đến hàng 
nghìn trại. Đây là con số cho chúng ta thấy sự gia tăng nhanh chóng của nghề sản 
xuất giống tôm sú trong cả nước. 
Từ cuối năm 2001 và đầu năm 2002 các trại nuôi tôm giống đã và đang đối 
mặt với rất nhiều khó khăn. Trên tất cả các vùng sản xuất giống tôm sú trong cả nước 
đều xuất hiện bệnh đỏ thân, đốm trắng, ngoài ra còn có các bệnh nhiễm khuẩn thông 
thường và chủ yếu là do nhóm Vibrio gây ra cũng khó điều trị. 
Với chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản và các chủ trương chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp của chính phủ đã tạo ra sự chuyển đổi một phần lớn 
diện tích đất, đặc biệt là đất cát ven biển được khai khẩn để sản xuất và nuôi trồng 
thủy sản, đưa diện tích nuôi trồng thủy sản trong hai năm gần đây tăng gần gấp đôi 
và hiện nay ở mức gần một triệu ha trong phạm vi cả nước. Hàng vạn gia đình có 
công ăn việc làm và thu nhập ổn định. 
Tuy nhiên ở một số nơi quy hoạch vùng nuôi tôm chưa đáp ứng nhu cầu phát 
triển nuôi tôm bền vững, hiệu quả. Việc chuyển đổi diện tích nuôi tôm ồ ạt trong khi 
các điều kiện cần thiết như hạ tầng thủy lợi cấp thoát nước, trang bị kỹ thuật nuôi, 
 Download» Agriviet.com 
17
Nước 
biển 
kiểm dịch, kiểm soát môi trường chưa đáp ứng kịp thời dẫn đến hiện tượng tôm nuôi 
bị chết hàng loạt ở nhiều nơi như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Ninh Thuận,… 
Cả nước có hơn 4.000 trại sản xuất giống tôm sú với sản lượng trên 16 tỷ Post, 
khu vực sản xuất giống nhiều nhất là tỉnh Khánh Hòa 
Nghề sản xuất giống phát triển cả về hình thức, số lượng lẫn chất lượng, người 
sản xuất đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật để dần tăng năng suất cũng như chất 
lượng con giống. 
2.6 Tình Hình Sản Xuất ở Ninh Thuận 
Toàn tỉnh có khoảng 3000 – 4000ha diện tích mặt nước lợ, mặn gồm các đầm, 
vịnh (đầm Nại, đầm Vua, vịnh Vĩnh Hy, đầm Sơn Hải, khu Nam cửa sông Dinh,…) 
thuận lợi cho việc đưa vào phát triển nuôi trồng thủy sản. 
Dọc theo bờ biển Ninh Thuận hầu hết có thể quy hoạch vùng sản xuất tôm 
giống vì môi trường trong sạch, nguồn nước đáp ứng điều kiện sản xuất tôm giống khi 
cơ sở hạ tầng được xây dựng. 
Tính đến cuối năm 2004, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của cả tỉnh là 
2.059ha, tăng 118,83% so với năm 2003. Trong đó nuôi nước mặn và lợ chiếm 
1.931,2ha tăng 116,49% so với năm 2003. 
Năm 2004 toàn tỉnh có 1.190 trại sản xuất tôm giống tập trung ở bốn khu vực: 
khu quy hoạch sản xuất tôm giống An Hải, Bình Sơn, Khánh Hội, Nhơn Hải và một 
số địa phương khác không đáng kể. Sản lượng giống sản xuất được trong năm đạt 4,4 
tỷ con, tăng 112,82% so với năm 2003, năng suất trại năm 2004 đạt 3,69 triệu 
PL/trại/năm tăng 113,76% so với năm trước. 
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình sản xuất tôm giống năm 2004 còn 
gặp nhiều khó khăn, đó là: số lượng và chất lượng tôm bố mẹ không đáp ứng nhu cầu 
khi phần lớn các trại hoạt động cùng một lúc, tôm bố mẹ đánh bắt tại địa phương 
hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 5% nhu cầu và giá thường cao từ 4 – 5 triệu đồng/con 
tôm mẹ, lượng tôm bố mẹ còn lại phải mua từ địa phương khác hoặc nước ngoài giá 
dao động từ 1 – 3 triệu đồng/con tôm mẹ tuy nhiên số tôm bố mẹ này chất lượng 
không ổn định và thường bị dịch bệnh. Tình hình thời tiết bất lợi, chất lượng nước 
biển không đảm bảo, nhiều mầm bệnh, thị trường con giống không ổn định, giá tôm 
giống trong năm dao động từ 18 – 50 đồng/con, lúc thấp nhất chỉ còn 16 
đồng/con. 
Bơm vào bể 
chứa 
Chảy qua
bể lọc 
Cấp nước sử dụng 
trong nuôi ấu trùng 
 Download» Agriviet.com 
18
Sơ đồ 2.1 Quy trình xử lý nước giai đoạn 1983 – 1988 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Sơ đồ 2.2 Quy trình xử lý nước giai đoạn 1990 – 1995 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Sơ đồ 2.3 Quy trình xử lý nước giai đoạn 1995 – 1998 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1 Thời Gian và Địa Điểm 
Bơm qua 
bể lọc 1 
Xử lý thuốc kháng sinh 
hoặc hóa chất được phép 
sử dụng 
Nước 
biển 
Nước 
chảy qua 
bể lọc 2
Xử lý hóa chất như: 
chlorin: 10 – 20ppm 
Nước cấp cho 
bể ương nuôi
Nước tự 
chảy vào 
bể chứa
Nước 
biển 
Các biện pháp 
làm giàu oxy
Phân tích kiển tra để xác 
định vi sinh vật gây bệnh 
Xử lý thuốc kháng sinh hoặc 
hóa chất cho phép sử dụng 
Bể lọc 
1 
Bể chứa 
2 
Bơm qua 
bể chứa1 
Bể lọc 
2 
Nước cấp cho 
bể ương nuôi 
ấu trùng 
 Download» Agriviet.com 
19
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 04/ 2005 đến tháng 07/ 2005. 
Địa điểm thực hiện tại các xã như xã Nhơn Hải, Khánh Hải, Tri Hải, Vĩnh Hải 
thuộc huyện Ninh Hải. 
3.2 Phương Pháp Nghiên Cứu 
3.2.1 Phương pháp điều tra 
3.2.1.1 Số liệu sơ cấp 
Điều tra 65 hộ có sản xuất giống tôm bằng hình thức chọn mẫu ngẫu nhiên, 
phỏng vấn trực tiếp với chủ trại, kết hợp với điều tra và trực tiếp thảo luận với người 
dân về các vấn đề: môi trường, sản lượng, nguồn tín dụng, dịch bệnh. Mỗi địa phương 
có diện tích sản xuất khác nhau nên cũng có số hộ điều tra khác nhau. 
3.2.1.2 Số liệu thứ cấp 
Thu thập số liệu thứ cấp từ các phòng ban của Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh 
Hải như: phòng Nông Nghiệp, phòng Thống Kê, phòng Kinh Tế, phòng Địa Chính, 
phòng Văn Hóa Thông Tin, Sở Thủy Sản Ninh Thuận và Trung tâm Khuyến Ngư tỉnh 
Ninh Thuận. 
3.2.2 Phương pháp phân tích kết quả và xử lý số liệu 
Sau khi điều tra thu thập số liệu chúng tôi sử dụng phần mềm Excel để tính 
các giá trị trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất,… của các yếu tố sản xuất dựa trên những 
số liệu điều tra và tổng hợp được, tính mối tương quan giữa năng suất và các yếu tố 
đầu vào trong sản xuất (tuổi chủ hộ, thể tích bể, số lượng con giống bố mẹ,…). 
 Download» Agriviet.com 
20
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI HUYỆN NINH HẢI 
Tỷ lệ 1:10.000
 Download» Agriviet.com 
21
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
4.1 Khái Quát Tình Hình Sản Xuất Giống từ Trước Năm 2003 
Nhờ điều kiện tự nhiên có nhiều yếu tố thuận lợi như: nguồn nước biển trong 
sạch, độ mặn ổn định từ 32o/oo – 35o/oo, nhiệt độ cao,... nên huyện Ninh Hải nói riêng 
và Ninh Thuận nói chung có nhiều thuận lợi cho việc phát triển nghề sản xuất giống 
tôm sú. 
 Nghề sản xuất giống ở Ninh Thuận bắt đầu từ những năm 1986 với cơ sở sản 
xuất ở Bình Sơn của Seaprodex liên kết với Nhật, công suất mười triệu Post/năm. 
Tuy nhiên vào thời điểm đó chủ yếu là cho sinh sản tôm thẻ bạc, quy trình chưa ổn 
định, hiệu quả chưa cao. Phong trào sản xuất giống tôm sú thật sự phát triển vào 
những năm 1992 khi Ninh Thuận được tái lập tỉnh và được ngành thủy sản chú trọng 
đầu tư cho lĩnh vực này. Hiện nay, nghề sản xuất tôm giống của tỉnh được tập trung ở 
ba khu vực chính đã được quy hoạch thuộc ba đơn vị là Ninh Hải, Bình Sơn và Ninh 
Phước ngoài ra còn có nhiều trại rải rác ở những địa phương khác. Do hiệu quả kinh 
tế của nghề sản xuất tôm giống nên tốc độ phát triển nhanh. 
Bảng 4.1 Số trại và sản lượng tôm giống toàn tỉnh từ năm 1992 – 2003 
Năm 1992 1996 1998 1999 2000 2002 2003 
Số trại 14 66 140 210 250 850 1.169 
Số m3 bể 560 2.910 17.610 11.385 13.875 80.000 100.000 
Công suất thiết kế 70 500 1.042 1.630 1.980 4.000 5.000 
(triệu PL/năm) 
Thực tế sản xuất 50 340 900 1.150 1.300 2.500 3.500 
(triệu Post) 
Năng suất bình quân 3,6 5,15 6,4 5,4 6,0 5,0 5,2 
triệu Post/trại 
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004) 
Chú thích: 
PL: Post Larvae 
Qua thực tế của nghề sản xuất tôm giống như bảng số liệu trên đây có thể 
nhận xét và đánh giá như sau: 
 Download» Agriviet.com 
22
- Tốc độ phát triển các trại giống khá nhanh, năm 1992 cả tỉnh mới chỉ có 14 
trại, năm 1996 phát triển lên 66 trại và trong vòng 5 năm (từ 1996 – 2000) số trại đã 
tăng lên 250 trại (tức tăng gấp 3,78 lần). Bình quân mỗi năm phát triển thêm 30 trại, 
trong đó giai đoạn từ 1996 – 2000 bình quân mỗi năm tăng 46 trại. Từ năm 2000 
– 2002 số trại giống đã tăng đột biến, chỉ riêng hai xã An Hải và Nhơn Hải đã có gần 
500 trại sản xuất tôm giống và đây là giai đoạn ăn nên làm ra của nghề sản xuất 
giống tôm sú nên đã có nhiều trại giống mới được xây dựng và phát triển một cách tự 
phát, không tuân theo quy hoạch tổng thể chung của nhà nước. 
- Tính bình quân thì mỗi trại sản xuất được từ 5 – 6 triệu Post/năm, theo số 
liệu thứ cấp thu thập được từ Sở Thủy Sản thì năng suất này cao so với các hệ thống 
trại khác trong cả nước. Nếu tính theo số trại thực tế tổ chức sản xuất thì năng suất 
bình quân có thể đạt từ 6 – 7 triệu Post/năm. 
- Ninh Thuận có sản lượng PL15 sản xuất hàng năm đứng thứ hai trong cả nước 
sau Khánh Hòa (1,15 tỷ PL15 năm 1999 và 1,3 tỷ PL15 năm 2000, năm 2002 khoảng 
2,5 tỷ PL15 và đến năm 2003 đạt 3,5 tỷ PL15). 
Sản xuất giống là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy trong những 
năm qua nghề sản xuất giống trên địa bàn huyện Ninh Hải đã đạt được tốc độ phát 
triển khá nhanh và một số thành công nhất định, cụ thể như: 
12
48
25
96
30
160
47
216
71
410
72
300
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Số trại Năng suất
Đồ thị 4.1 Số trại và năng suất những năm đầu mới hình thành 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2001) 
Số lượng
Năm 
 Download» Agriviet.com 
23
Qua Đồ thị 4.1 có thể nhận xét như sau: 
- Qua sáu năm trên địa bàn huyện Ninh Hải đã phát triển khá nhanh chóng, số 
trại sản xuất giống đã tăng lên từ 12 trại (năm 1995) lên 72 trại (năm 2000), tăng gấp 
sáu lần, tức tăng 600%. 
- Sản lượng tôm giống đã được nâng lên từ 48 triệu con (năm 1995) lên 300 
triệu con (năm 2000), tăng 6,25 lần tức tăng 625%. Tuy nhiên, do con giống sản xuất 
ra còn phụ thuộc vào tình hình nuôi và mức tiêu thụ của nghề nuôi tôm thịt trong khu 
vực và các tỉnh (đặc biệt là các tỉnh phía Nam) nên dù sản lượng Post hàng năm có 
tăng theo tỷ lệ tăng của trại nhưng trong đó có giai đoạn 1997 – 1998 do tình hình 
dịch bệnh đốm trắng trên diện rộng của tỉnh và các tỉnh lân cận nên sản lượng giống 
tăng không phù hợp với mức tăng của số lượng trại và theo chu kỳ cứ khoảng hai 
năm lặp lại một lần, đến năm 2000 mặc dù số lượng trại có tăng nhưng sản lượng 
Post sản xuất ra lại giảm hơn năm trước 26,8% do vào năm này tình hình dịch bệnh 
diễn ra rất phức tạp (nhất là vùng đầm Nại). 
Mặc dù vậy nhưng không làm ảnh hưởng đến chất lượng con giống mà ngược 
lại tôm giống sản xuất ở địa phương trong các năm qua được đánh giá là có chất 
lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của người nuôi tôm và được thị trường tín nhiệm. 
4.2 Thực Trạng Sản Xuất Giống ở Ninh Hải 
Song song với sự phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi tôm, nghề sản xuất giống 
tôm sú ở Ninh Hải cũng đồng thời phát triển trong những năm gần đây với một tốc độ 
khá nhanh, từ một huyện không có trại sản xuất giống (trước năm 1995) nay đã có 
715 trại. Điều này đã giúp giải quyết khó khăn về vấn đề con giống cho những hộ 
nuôi tôm và góp phần phát triển kinh tế địa phương. 
Hầu hết các vùng sản xuất đều nằm gần bờ biển và khu vực ít dân cư (chỉ có 
xã Khánh Hải là nằm trong khu vực đông dân cư sinh sống nhưng cũng cách bờ biển 
không xa) nên thuận tiện cho việc mở rộng diện tích sản xuất cũng như ít bị ảnh 
hưởng bởi chất thải sinh hoạt của người dân. 
Bên cạnh những thuận lợi trên, người dân sản xuất giống nơi đây cũng gặp 
nhiều khó khăn như giá Post không ổn định, nguồn nước thường biến động, chi phí 
đầu tư cho sản xuất còn hạn chế và một số yếu tố khác ảnh hưởng đến việc sản xuất 
giống như thời tiết, môi trường, cách điều hành - quản lý,… 
Từ những yếu tố trên đã tác động đến nghề sản xuất giống của huyện, đặc 
biệt là những trại sản xuất có quy mô nhỏ lẻ, thiếu vốn đầu tư, quy trình sản xuất 
không ổn định, thua lỗ kéo dài nên đã có nhiều trại liên kết sản xuất với các cơ sở 
sản xuất có hiệu quả khác hoặc bỏ hoang hay bán trại chuyển sang nghề khác. 
4.2.1 Diện Tích 
 Download» Agriviet.com 
24
Do lợi nhuận mang lại từ nghề sản xuất giống cao hơn nhiều ngành nghề khác 
nên trong năm 2001 và nhất là năm 2002 số trại giống đã tăng lên đáng kể, đa phần 
là tự phát nên chính quyền địa phương không nắm hết được toàn bộ số liệu thống kê 
về diện tích trại sản xuất giống, chiếm đa số là khu vực Khánh Nhơn, Mỹ Tường 
thuộc xã Nhơn Hải. 
Sau bảy năm hình thành và phát triển, trên địa bàn huyện Ninh Hải đã phát 
triển khá nhanh về số lượng trại, khi mới hình thành (năm 1995) toàn huyện chỉ có 12 
trại nhưng đến năm 2002 số lượng trại đã tăng lên 723 trại (tăng 60,25 lần) và sản 
lượng tôm Post sản xuất ra cũng được tăng lên từ 48 triệu con (năm 1995) lên 900 
triệu con (năm 2002) tăng gần 19 lần. 
2%
5%
25% 27%
41%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
Đất ở Chuyên
dùng
Nông
nghiệp
Lâm
nghiệp
Đất chưa
sử dụng 
Đồ thị 4.2 Tỷ lệ các loại đất trong huyện 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 01/10/2003) 
Tuy nhiên kể từ cuối năm 2002 đến nay, do ảnh hưởng của tình hình thời tiết 
khắc nghiệt, nhiều vùng nuôi tôm sú thương phẩm trên địa bàn huyện cũng như trên 
toàn tỉnh ngưng sản xuất, dịch bệnh hoành hành,… vì thế cho nên đã đưa đến những 
trại có quy mô nhỏ lẻ, vốn đầu tư thấp đã tự chuyển hướng kinh doanh, có những trại 
chuyển sang sản xuất giống ốc hương hoặc sáp nhập với những trại có quy mô lớn 
cũng như uy tín trên thị trường, nên tính đến tháng 04 năm 2005 toàn huyện chỉ còn 
lại 715 trại. 
Bảng 4.2 Số trại tăng – giảm trước và sau năm 2004 
Tỷ lệ
(%)
Loại đất 
 Download» Agriviet.com 
25
Đơn vị Trước năm 2004 Sau năm 2004 Giảm Tăng 
Khánh Hải 72 54 18 0 
Tri Hải 115 116 0 1 
Nhơn Hải 519 526 0 7 
Vĩnh Hải 17 19 0 2 
Toàn huyện 723 715 8 0 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2005) 
Trong những năm từ 2002 – 2004 đã có sự phân bố về số lượng trại giống ở 
các địa phương trong huyện có sự thay đổi rõ rệt. 
Do điều kiện trại sản xuất nằm trong vùng dân cư như ở xã Khánh Hải (phần 
lớn là ngư dân khai thác biển) nên quy mô trại không lớn, ngoài ra còn bị ảnh hưởng 
bởi hoạt động đời sống dân cư ở đây nên trong giai đoạn khó khăn này đã có nhiều 
trại không đủ sức để đứng vững nên đã phải chuyển đổi hình thức kinh doanh hoặc 
sát nhập với những trại khác có uy tín hơn,… 
Có thể nói Nhơn Hải là một xã có nghề sản xuất giống tôm sú ra đời sau các 
xã khác trong huyện như Khánh Hải, Tri Hải nhưng nhờ có điều kiện tự nhiên ưu đãi 
như có bờ biển dài hơn các xã khác, bờ biển ở đây không nằm trong khu vực có đông 
dân cư sinh sống nên không bị ảnh hưởng bởi chất thải sinh hoạt,… nên chỉ mới ra 
đời cách đây không lâu nhưng số lượng trại đã lên đến 526 trại (nhiều hơn các xã 
khác). 
Khu vực sản xuất giống của xã Tri Hải nằm trong vùng có địa hình và điều 
kiện tương đối thích hợp cho hoạt động của nghề sản xuất giống, tuy nhiên ở đây 
chưa phát huy được ưu điểm của vùng. Để phát huy được các điều kiện mà thiên 
nhiên ưu đãi này và để cho nghề sản xuất giống nơi đây phát triển cả về chiều sâu 
và chiều rộng thì cần phải có chương trình quy hoạch cụ thể – phát triển bền vững. 
Bảng 4.3 Quy mô diện tích trại sản xuất giống 
 Download» Agriviet.com 
26
Thể tích Số lượng Tỷ lệ 
 (m3) (hộ) (%) 
<= 200 28 43,1 
200 < 300 34 52,3 
> 300 3 4,6 
Tổng số hộ điều tra 65 100 
Qua Bảng 4.3 cho thấy tỷ lệ trại sản xuất có thể tích nhỏ hơn hoặc bằng 
200m3 chiếm tỷ lệ tương đối cao (43,1%) do đa số là trại được xây dựng trên đất bờ 
biển có diện tích hẹp và kéo dài (như khu vục thôn Khánh Tường), địa phận xã 
Khánh Hải bị ngăn cách bởi cửa biển Ninh Chữ nên điều này đã làm cho vùng sản 
xuất giống ở Khánh Hải nằm biệt lập với các xã có sản xuất giống khác và làm cho 
việc sát nhập thành vùng sản xuất tập trung trở nên khó khăn hơn. 
Qua số liệu thống kê cho thấy hầu hết phần lớn các trại sản xuất có quy mô 
thể tích lớn nằm thuộc khu vực xã Nhơn Hải, vì nơi đây hội tụ được nhiều điều kiện 
thuận lợi để thiết kế xây dựng trại. 
Trong bốn địa phương có sản xuất giống của huyện Ninh Hải thì chỉ có xã 
Vĩnh Hải là có số trại ít nhất (19 trại) và có quy mô diện tích trại cũng không lớn, vì 
nơi đây có vị trí nằm xa khu vực sản xuất tập trung, điều kiện hậu cần hỗ trợ cho 
nghề sản xuất không có và ở xa nguồn nước ngọt,… nên vấn đề tiêu thụ sản phẩm 
cũng gặp nhiều khó khăn. Ở vùng này tiêu thụ sản phẩm chủ yếu thông qua thương 
lái nên giá bán ra cũng giảm so với các nơi khác. 
8%
16%
73%
3%
Khánh Hải Tri Hải Nhơn Hải Vĩnh Hải
Đồ thị 4.3 Tỷ lệ trại sản xuất giống ở từng địa phương 
Số lượng cũng như quy mô trại sản xuất giống ở từng địa phương cũng có 
phần khác nhau do tác động của nhiều yếu tố khác nhau lên vùng sản xuất. 
 Download» Agriviet.com 
27
Nằm ở vị trí xa vùng sản xuất trung tâm của huyện, tình hình đời sống dân cư 
thuộc khu vực miền núi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn mọi mặt về phương diện đầu 
tư,… nên xã Vĩnh Hải khó phát triển nghề sản xuất giống. Vì vậy mà nơi đây có số 
trại sản xuất giống ít nhất trong toàn huyện (19 trại). 
Hiện nay trong toàn huyện chỉ có xã Nhơn Hải là có số trại nhiều nhất 
(với 526 trại) chủ yếu thuộc khu vực thôn Khánh Nhơn, Mỹ Tường I và Mỹ Tường II, 
vì nơi đây hội đủ các điều kiện để phát triển nghề sản xuất giống tôm sú và trong 
tương lai, một khi điều kiện xã hội và tình hình kinh tế ngành thủy sản ổn định trở lại 
thì ở đây sẽ còn phát triển hơn nữa cả về chiều rộng và chiều sâu của nghề ăn nên 
làm ra đầy hứa hẹn này. 
Bên cạnh đó còn có xã Tri Hải, một xã có số trại sản xuất giống tôm sú hàng 
thứ hai trong huyện (116 trại). Trại giống của Tri Hải chủ yếu tập trung ở thôn Khánh 
Hội, xét về điều kiện tự nhiên thì nơi đây có điều kiện tương tự như xã Nhơn Hải 
nhưng lại có chiều dài bờ biển ngắn hơn và ngoài ra còn không thể tận dụng được hết 
diện tích bờ biển để đưa vào sản xuất giống. 
Số trại sản xuất giống ở xã Khánh Hải không nhiều (chỉ có 54 trại, tập trung ở 
thôn Ninh Chữ), trong những năm qua số trại nơi đây đã giảm và trong tương lai có lẻ 
sẽ còn giảm nhiều vì khu vực sản xuất này nằm trong khu vực dân cư sinh sống mà 
tình hình sản xuất thì ngày một khó khăn hơn. 
4.2.2 Về sản xuất 
Do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu và tình hình kinh tế chung của cả nước 
nên trong những năm gần đây số hộ (trại) có tham gia sản xuất giảm đi rõ rệt và được 
thể hiện qua bảng sau: 
Bảng 4.4 Số trại có tham gia sản xuất ( tính đến tháng 09 năm 2004) 
Đơn vị Tổng số Có sản xuất Tỷ lệ (%) Không sản xuất Tỷ lệ (%) 
Khánh Hải 54 21 38,9 33 61,1 
Tri Hải 116 43 37,1 73 62,9 
Nhơn Hải 526 184 35 342 65 
Vĩnh Hải 19 2 10,5 17 89,5 
Toàn huyện 715 250 35 465 65 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2005) 
4.2.3 Năng suất 
 Download» Agriviet.com 
28
Mặc dù diện tích trại trong toàn huyện có giảm, song không phải vì lý do đó 
mà sản lượng tôm giống sản xuất ra giảm. Trong thực tế, năng suất của các năm sản 
xuất được trình bày ở đồ thị sau: 
72
300
531
770 723
900
723
1400
715
1850
0
500
1000
1500
2000
2000 2001 2002 2003 2004
Số trại Sản lượng
Đồ thị 4.4 Năng suất giống của huyện Ninh Hải 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2005) 
Qua Đồ thị 4.4 cho thấy trong hai năm 2002 và 2003 mặc dù số trại không 
tăng nhưng sản lượng tôm PL15 làm ra trong năm 2003 tăng 500 triệu PL so với năm 
2002. Hơn thế nữa, mặc dù số trại trong năm 2004 có giảm so với năm 2003 và công 
suất hoạt động của trại cũng không triệt để (chỉ có 35%) nhưng sản lượng cũng tăng 
450 triệu PL. Qua đây chúng tôi nhận thấy năng suất sản xuất của các trại ở đây 
không ngừng tăng lên. 
4.3 Đặc Điểm Kinh Tế Xã Hội của Vùng Sản Xuất Giống 
4.3.1 Dân số 
Tính đến cuối năm 2004 toàn huyện Ninh Hải có tổng số dân là 124.851 
người, trong đó nam giới có 61.676 người chiếm 49,4% và nữ giới có 63.175 người 
chiếm 50,6%. Toàn huyện có 24.723 hộ, bình quân mỗi gia đình có năm nhân khẩu 
và mỗi gia đình có ba con. Qua đây cho thấy, mức sinh đẻ của người dân không cao 
và có thể nói với mức sinh đẻ này là hợp với chương trình kế hoạch hóa gia đình của 
Ủy Ban Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia Đình. 
(Triệu Post) 
Năm 
Số lượng
 Download» Agriviet.com 
29
49%
51%
Nam Nữ 
Đồ thị 4.5 Sự phân chia giới tính trong nhân dân 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2004) 
4.3.2 Trình độ văn hóa 
Tỉnh Ninh Thuận nói chung và huyện Ninh Hải nói riêng là khu vực nắng 
nhiều mưa ít (Ninh Thuận có lượng mưa ít nhất trong cả nước) nên việc sử dụng đất 
có hiệu quả là một vấn đề không thể xem nhẹ. 
Trong những năm đầu tái lập tỉnh thì các cấp các ngành có chức năng đã có 
công văn quyết định phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên vào thời điểm 
của những năm đó, trình độ văn hóa và đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn còn 
hạn chế nên việc phát triển ngành nghề còn gặp phải nhiều khó khăn. 
Với đặc điểm tình hình kinh tế đổi mới trong những năm gần đây, vấn đề bồi 
dưỡng văn hóa và nâng cao dân trí ở địa phương đã được chú trọng và đã đạt được 
kết quả tốt. Ngày nay với chính sách của Trung Ương và của tỉnh về việc phát triển 
ngành nghề nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi hình thức sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu 
cây trồng vật nuôi. Và để nâng cao được hiệu quả trong nghề nuôi trồng thủy sản, 
vấn đề kỹ thuật đã được đặt lên hàng đầu, trong những năm qua tỉnh và huyện luôn 
luôn tổ chức các lớp tập huấn để cung cấp cho người dân nuôi tôm nắm bắt thêm về 
trình độ kỹ thuật và ngoài ra cũng thường xuyên, hằng năm đều có mở các lớp hội 
thảo tạo điều kiện để người dân nắm bắt thêm những tình hình mới có liên quan đến 
ngành, đồng thời cũng là nơi để họ có thể giao lưu trao đổi những kinh nghiệm trong 
sản xuất góp phần nâng cao năng suất sản xuất,… 
Sau khi điều tra 65 hộ dân làm nghề sản xuất giống tôm sú tại bốn xã (Khánh 
Hải, Tri Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải) của huyện Ninh Hải cho thấy trình độ học vấn của 
họ được phản ánh qua đồ thị sau: 
 Download» Agriviet.com 
30
24,6%
40%
35,4%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
Cấp II Cấp III Trên cấp III
Đồ thị 4.6 Tỷ lệ về trình độ học vấn của người dân sản xuất 
Trình độ học vấn của người dân nơi đây đã được nâng lên tương đối cao, qua 
Đồ thị 4.6 cho thấy số người trực tiếp sản xuất không có ai học dưới cấp II, số người 
học cấp II chỉ có 24,60%, còn lại 40% học cấp III và 35% có trình độ trên cấp III. 
Đây là điều đáng mừng và đáng để những địa phương khác noi theo. Nhờ có trình độ 
dân trí tương đối khá và thêm tính chất người dân nơi đây chịu thương chịu khó, có 
tinh thần học hỏi nên trong những năm qua năng suất tôm giống sản xuất ra được 
nâng lên rõ rệt. 
Tuy nhiên bên cạnh đó thì trình độ của người dân ở các xã khác nhau thì 
không đều nhau, đặc biệt là xã Vĩnh Hải vì đây là xã thuộc vùng sâu vùng xa đời 
sống kinh tế và văn hóa của người dân còn thấp, số trại giống ở đây ít nhất huyện và 
chủ trại nơi đây phần lớn là người ở các xã khác tới sản xuất (họ là những người có 
trình độ tương đối cao) nên tỷ lệ người có trình độ cao ở đây nhiều hơn. 
Thông qua điều tra thực tế sản xuất, trình độ văn hóa của người sản xuất cũng 
ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế. Theo số liệu điều tra thì đa số những 
trại ngưng hoạt động sản xuất là những trại không có kỹ thuật được đào tạo về 
chuyên môn mà chỉ qua học hỏi trong quá trình làm rồi tự sản xuất. 
4.3.3 Độ tuổi 
Hiện nay dân số trong độ tuổi lao động của huyện là 67.333 người. Số hộ 
nghèo có 2.464 hộ với 9.840 người. 
Theo số liệu điều tra từ 65 hộ dân sản xuất giống tại bốn xã của huyện Ninh 
Hải, độ tuổi của họ được thể hiện ở bảng sau: 
Tỷ lệ
Trình độ học vấn 
 Download» Agriviet.com 
31
Bảng 4.5 Độ tuổi của người dân sản xuất 
Độ tuổi Số người Tỷ lệ (%) 
Từ 20 – 30 10 15,4 
Từ 31 – 40 19 29,2 
Từ 41 – 50 22 33,9 
Từ 51 – 60 14 21,5 
Theo số liệu thống kê ở Bảng 4.5 cho thấy số người có tuổi cao (từ 41 – 60 
tuổi) chiếm hơn 50%, phần đông số người này có trình độ học vấn cấp hai đến cấp ba 
chỉ một số ít là có trình độ đại học và đa số họ sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên 
kinh nghiệm, học hỏi chung quanh và học hỏi từ các lớp tập huấn hay hội thảo. 
Tuy nhiên bên cạnh đó thế hệ trẻ có học thức và có trình độ chuyên môn được 
đào tạo từ các trường Đại học, Cao đẳng đang dần dần thay thế các thế hệ đi trước, 
hiện nay thế hệ trẻ có chuyên môn đã được các trường đào tạo chỉ mới chiếm 39% 
và trong tương lai tỷ lệ này sẽ được nâng lên cao hơn nữa. 
4.3.4 Nghề ngiệp 
Trong những năm trước đây (từ trước năm 2000 – 2003) đa số những hộ sản 
xuất giống trong huyện sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau như nuôi tôm thương 
phẩm, khai thác thủy sản, kinh doanh,… song do thấy mức lợi nhuận cao trong nghề 
sản xuất giống tôm sú nên họ đổ xô vào xây dựng và sản xuất. Thời gian đầu khi 
chưa có kinh nghiệm và kỹ thuật thì họ thuê cán bộ kỹ thuật đứng ra sản xuất và 
những người kỹ thuật này hưởng lương dựa trên phần trăm lợi nhuận của trại làm ra. 
Mặc dù vậy nhưng trong những năm từ năm 2003 đến nay do tình hình sản 
xuất gặp nhiều khó khăn nên đã làm cho một số hộ dân sản xuất gặp nhiều trắc trở, 
những hộ không đủ khả năng bám trụ nổi đã phải đóng cửa trại hoặc bán hay cho 
thuê để chuyển về sinh sống bằng nghề trước đây, điển hình như hộ ông Nguyễn 
Minh Hải và ông Võ Thanh Hiền trước đây sinh sống bằng nghề nuôi tôm thương 
phẩm và kinh doanh buôn bán và nay đã phải quay lại với nghề cũ. 
 Download» Agriviet.com 
32
Hình 4.1 Trại sản xuất tôm giống của hộ ông Nguyễn Minh Hùng 
Do ảnh hưởng bởi sự khó khăn trong nghề sản xuất giống đã kéo theo nhiều 
ngành nghề khác cũng bị ảnh hưởng, chẳng hạn như các dịch vụ kinh doanh thuốc 
thủy sản, cửa hàng buôn bán dụng cụ sử dụng trong trại và hơn thế nữa một số lượng 
lớn công nhân lao động trong trại bị mất việc và phải thất nghiệp. 
Tình hình trật tự xã hội hiện nay khá ổn định tuy nhiên bên cạnh đó còn có 
một số ít phần tử không có công ăn việc làm ổn định, kinh tế gia đình khó khăn 
thường hay trộm cắp gây thất thoát tài sản của các hộ dân sản xuất, đặc biệt là đối 
với các ao đìa và các trại sản xuất đang trong thời kỳ ngưng sản xuất. 
4.3.5 Kinh nghiệm sản xuất 
Người dân hoạt động trong nghề sản xuất giống ở các xã trong huyện Ninh 
Hải chủ yếu học hỏi lẫn nhau trong sản xuất, từ sách báo, truyền thông đại chúng và 
các lớp tập huấn khuyến ngư, đặc biệt là nhiều người được đào tạo từ các trường Đại 
học Cao đẳng hay các lớp huấn luyện đào tạo ngắn hạn. 
Vì là một huyện có tuổi nghề sản xuất giống không cao nên vấn đề kinh 
nghiệm không nhiều và chỉ với một số ít người. Theo số liệu điều tra thì trong 65 hộ 
thì hộ có số năm sản xuất lâu nhất là mười năm và chỉ có một hộ, hộ có số năm sản 
xuất ít nhất là ba năm và có bốn hộ. Tuy nhiên với mức dao động từ ba đến mười 
năm tham gia sản xuất cũng giúp cho họ rút ra được ít nhiều về kinh nghiệm. 
 Download» Agriviet.com 
33
Bảng 4.6 Số năm kinh nghiệm trong sản xuất giống của các nông hộ 
Số năm kinh nghiệm Số hộ Tỷ lệ % 
 < 3 0 0 
 3 – 9 63 96,92 
 > 9 2 3,08 
 Tổng 65 100 
4.3.6 Sở hữu đất và quy mô của đất 
Huyện Ninh Hải có tổng diện tích đất là 57.122,0ha. Trong đó: 
Bảng 4.7 Diện tích các loại đất trong huyện 
Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 
Ngông nghiệp 14.038,97 25 
Lâm nghiệp 15.514,24 27 
Chuyên dùng 2.942 5 
Đất ở 870,13 2 
Đất chưa sử dụng 23.756,66 42 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2003) 
Trong toàn bộ 715 trại sản xuất giống của toàn huyện thì có trên 50% là của 
chủ trại làm chủ sở hữu, còn lại là do những người có hộ khẩu thuộc huyện hoặc các 
địa phương khác trong tỉnh đến thuê hoặc mua đất để sản xuất. 
Khu vực sản xuất giống ở xã Khánh Hải thuộc quyền sở hữu của các chủ đầu 
tư, ở đây hầu hết là do người dân bản địa sản xuất và chỉ có một số ít là do các chủ 
đầu tư từ các xã khác trong tỉnh đến mua để sản xuất. 
Đối với khu vực sản xuất giống của các xã Tri Hải, Nhơn Hải và Vĩnh Hải 
hầu hết là nằm gần sát bờ biển, chỉ có một số ít trại nằm hơi xa bờ biển (trại xa bờ 
biển nhất là khoảng 700m). Trước đây nơi này là vùng bờ cát biển không bằng phẳng 
có nhiều đồi cát và cây cối chưa được đưa vào sử dụng, sau khi nhận thấy tình hình 
nuôi tôm và sản xuất giống tôm sú phát triển và mang lại hiệu quả cao nên người dân 
đã chiếm dụng đất sau đó mới đăng ký giấy quyền sử dụng đất, những hộ có khả 
năng thì tự đầu tư xây dựng và sản xuất, còn những hộ không có khả năng thì cho 
thuê hoặc bán cho các hộ khác trong và ngoài huyện. Đa phần chủ trại giống không 
phải là dân địa phương nơi xây trại giống. Theo số liệu điều tra cho thấy có trên 50% 
 Download» Agriviet.com 
34
chủ trại là dân ngoài tỉnh như Khánh Hòa, Thành Phố Hồ Chí Minh, Tuy Hòa trong 
đó chủ yếu là Khánh Hòa. 
Tuy nhiên về quy mô đất thì còn phụ thuộc vào vị trí, có những nơi khoảng 
cách từ mép mặt biển vào đến đường giao thông chỉ có năm mét nhưng họ vẫn xây 
dựng trại (chẳng hạn như khu vực cầu Khánh Hội xã Tri Hải). 
4.3.7 Hoạt động khuyến ngư 
4.3.7.1 Tham gia các hoạt động khuyến ngư 
Công tác khuyến ngư có vai trò quan trọng trong nghề nuôi trồng thủy sản nói 
chung và sản xuất giống tôm sú nói riêng. Công tác này nhằm phổ biến những vấn đề 
cần lưu ý trước mỗi vụ sản xuất, khi thời tiết diễn biến phức tạp, cảnh báo nguy cơ ô 
nhiễm môi trường, phổ biến và chuyển giao những tiến bộ khoa học – kỹ thuật từ nhà 
nghiên cứu đến nhà sản xuất, hỗ trợ và giúp đỡ người sản xuất nhằm đạt hiệu quả 
cao nhất. 
Từ những năm mới hình thành nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và đối với 
nghề sản xuất giống tôm sú nói riêng, chính quyền tỉnh cũng như huyện đã có mở 
nhiều lớp tập huấn, đặc biệt trong những năm gần đây vì tình hình bất ổn đã và đang 
diễn ra đối với ngành nuôi trồng thủy sản, vấn đề sản xuất gặp nhiều khó khăn hơn 
đòi hỏi cần phải có biện pháp khắc phục và cần phải áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật 
mới vào quy trình sản xuất, chính vì lý do đó Sở Thủy Sản Ninh Thuận và chính 
quyền địa phương huyện Ninh Hải nói riêng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho người 
dân trong sản xuất để giúp người dân biết được những tiến bộ mới trong quy trình kỹ 
thuật nhằm đạt mục tiêu trong sản xuất. 
Để nâng cao năng suất trong sản xuất thì việc đưa công tác khuyến ngư vào 
quá trình hoạt động sản xuất của người dân là một việc làm hết sức thiết thực và phù 
hợp với tốc độ phát triển của ngành thủy sản như hiện nay. Đã có nhiều người dân 
không có điều kiện tiếp cận để lĩnh hội những kỹ thuật trong quy trình sản xuất giống 
thì cũng nhờ vào sự tham gia các lớp tập huấn và các chương trình khuyến ngư mà 
người dân đã tiếp cận được với những tiến bộ kỹ thuật, cập nhật thông tin mới mà 
người dân sản xuất tránh được nhiều thiệt hại đáng kể. 
Qua điều tra khảo sát 65/715 trại của cả huyện chúng tôi có được số hộ có 
tham gia tập huấn như sau: 
Bảng 4.8 Số hộ có và không có tham gia tập huấn 
 Download» Agriviet.com 
35
Tập huấn Số hộ Tỷ lệ % 
Có 60 92 
Không 5 8 
4.3.7.2 Đánh giá về tầm quan trọng của khuyến ngư 
Mặc dù đội ngũ những người tham gia sản xuất giống có trình độ chuyên môn 
và trình độ học vấn khác nhau tuy nhiên đa số trong số họ lại có chung nhận xét và 
nhận thấy được tầm quan trọng của việc tập huấn. 
Qua kết quả điều tra cho thấy trên 90% số hộ sản xuất có tham gia các lớp tập 
huấn, hội thảo, ngoài ra họ còn quan tâm theo dõi các chương trình khuyến ngư phát 
trên truyền hình của tỉnh. 
Thông qua các chương trình khuyến ngư, nhiều đề tài nghiên cứu phục vụ cho 
ngành nuôi trồng thủy sản đã được phổ biến đến người sản xuất. Đề tài nghiên cứu 
có ý nghĩa và tác động tích cực đối với nghề sản xuất giống tôm sú nói riêng, của 
tỉnh cũng như của huyện Ninh Hải. Ngoài ra, nghiên cứu mùa vụ nuôi tôm hợp lý tại 
Ninh Thuận góp phần làm giảm thiệt hại cho nghề nuôi tôm, qua đây nghề sản xuất 
giống cũng nắm bắt thời gian để sản xuất đúng thời vụ và kịp thời gian cung cấp cho 
người nuôi tôm thịt. Điều này đã giúp làm giảm thiệt hại hằng năm hàng chục tỉ đồng 
do dịch bệnh phát sinh mà nguyên nhân trực tiếp là nuôi không đúng vụ. 
Thông qua hoạt động khuyến ngư, người sản xuất tôm giống đã được trang bị 
khá đầy đủ về những kiến thức và quy trình sản xuất mới. Có thể nói, trình độ sản 
xuất tôm giống của người sản xuất giống ở Ninh Hải hiện nay khá cao. 
Sau khi điều tra, đa số các chủ trại ở các địa phương trong huyện đều có nhận 
xét đánh giá cao hoạt động khuyến ngư, nó có tác động tích cực đến hiệu quả sản 
xuất giống. Và sau đây là kết quả sau khi điều tra 65 hộ sản xuất được thể hiện qua 
Đồ thị sau: 
 Download» Agriviet.com 
36
24%
76%
Trung bình Tốt
Đồ thị 4.7 Đánh giá chất lượng tập huấn 
Thông qua Đồ thị 4.7 ta có thể nhận thấy mặc dù trình độ của các nông hộ có 
khác nhau, mức độ lĩnh hội kiến thức mới có khác nhau nhưng trong những hộ có 
tham gia các lớp tập huấn hay tham dự các lớp khuyến ngư thì có đến 76% ý kiến 
nhận xét chất lượng của chương trình là tốt, còn lại chỉ có 24% nhận xét là trung bình 
và không có hộ nào đánh giá thấp chương trình này. 
4.3.8 Diễn biến về tình hình thời tiết, môi trường 
Với đặc điểm là một huyện nằm trong tỉnh có thời tiết nắng và khô hạn nhất 
cả nước nên Ninh Hải gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động nuôi trồng thủy sản. 
Trong năm 2002, do nắng nóng và hạn hán kéo dài cùng với việc đóng nước 
để kiên cố hóa tuyến kênh Bắc (từ 30/04 – 30/08) đã gây ảnh hưởng đến nhiều vùng 
nuôi tôm, khu vực đầm Nại và các xã An Hải, Nhơn Hải,… thiếu nước ngọt trầm 
trọng nên tôm chậm phát triển và dễ gây ra dịch bệnh, điều này gây ảnh hưởng đến 
mức tiêu thụ tôm Post trong vụ hai. Trong năm này vùng biển Ninh Thuận cũng bị 
ảnh hưởng lớn bởi hiện tượng thủy triều đỏ kéo dài từ giữa tháng bảy đến giữa tháng 
tám làm cho môi trường ven biển xấu đi. 
Trong thời gian gần đây tình trạng phát triển mở rộng vùng nuôi và vùng sản 
xuất giống không tuân theo quy hoạch, tình trạng lấn chiếm kênh mương cấp thoát 
nước vẫn còn xảy ra phổ biến. Một điều đáng nói là ý thức cộng đồng của người sản 
xuất chưa cao trong việc bảo vệ môi trường chung làm cho môi trường nước ngày 
càng trở nên xấu đi, nhất là khu vực đầm Nại. 
 Download» Agriviet.com 
37
Hơn thế nữa, trong hai năm gần đây tình hình thời tiết càng trở nên khô hạn 
và kéo dài hơn, tình trạng khan hiếm nước ngọt đã trở thành vấn đề thời sự, sự việc 
này đã gây ảnh hưởng đến tình hình nuôi trồng thủy sản trong cả tỉnh và đặc biệt là 
huyện Ninh Hải. Trong năm 2004 toàn huyện có 1.077,2ha diện tích ao đìa nuôi tôm 
nhưng chỉ có 840ha diện tích thả nuôi trong đó vụ chính chỉ thả nuôi 656 ha. Mặc dù 
chỉ có khoảng 2/3 diện tích thả nuôi nhưng đã có đến 1/2 diện tích bị dịch bệnh, trong 
đó có 95,6ha bị mất trắng. Trong sáu tháng đầu năm nay (năm 2005) toàn huyện có 
gần 100% diện tích ao đìa bỏ hoang, có những ao phải san lấp để chuyển sang hình 
thức hoạt động khác. 
Hình 4.2 Một ao nuôi tôm bị san lấp của hộ bà Bùi Thị Sáu 
Do bị ảnh hưởng bởi tình hình chung và tình hình nuôi tôm sú thương phẩm 
gây ô nhiễm nguồn nước nên tình hình sản xuất giống cũng bị ảnh hưởng rất lớn, từ 
đầu năm 2004 đến nay đã có nhiều trại giống đã phải đóng cửa vì giống sản xuất 
không bán được, giá rẻ (thời điểm thấp nhất chỉ có 16 đồng/con) dẫn đến thua lỗ và 
có nhiều hộ phải bán trại để chuyển sang nghề khác. 
4.3.9 Sự hình thành và phát triển dịch vụ hậu cần 
Cùng với sự phát triển của phong trào sản xuất giống tôm sú trong huyện, 
nghề dịch vụ tôm giống cũng ra đời và phát triển mạnh mẽ. 
4.3.9.1 Cung ứng và tiêu thụ tôm bố mẹ 
 Download» Agriviet.com 
38
Hiện nay, trong huyện đã có được vài cơ sở chuyên kinh doanh giống tôm sú 
bố mẹ, những cơ sở này đã liên kết với các dịch vụ giống tôm sú bố mẹ của các tỉnh 
(nhất là khu vục phía Nam) nên đã kịp thời đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của các cơ sở 
sản xuất giống trong huyện. 
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu giống trong những lúc cao điểm và khi các chủ 
trại cần mua giống của nước ngoài, đặc biệt là hiện nay trong địa bàn huyện đã có 
nhiều trại sản xuất “Nau CP” (Nauplius do công ty CP của Thái Lan sản xuất) thì 
hiện nay trong tỉnh cũng đã có các tổ chức kinh tế nhập tôm bố mẹ từ các nước trong 
khu vực như Đài Loan, Thái Lan,… bên cạnh đó trong khu vực cũng có các cơ sở thu 
mua tôm giống bố mẹ bắt được từ vùng biển bản địa để cung ứng cho các trại sản 
xuất giống. Theo người sản xuất giống thì mức tiêu thụ tôm giống bố mẹ bản địa 
mạnh hơn tôm giống của các tỉnh khác cung cấp vì tôm này có chất lượng tốt hơn và 
do tôm đã quen với môi trường nước ở đây. 
4.3.9.2 Cung ứng thức ăn và thuốc thú y thủy sản 
Cùng với sự phát triển của phong trào sản xuất tôm giống trong toàn huyện, 
nghề dịch vụ hậu cần phục vụ cho nghề sản xuất tôm giống cũng ra đời và phát triển 
mạnh mẽ. 
Các cơ sở thức ăn, thuốc thú y thủy sản từ năm 1996 đến nay đã từ bước hình 
thành và phát triển khá nhanh tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung nên đã đáp 
ứng nhu cầu của người sản xuất. 
6 6
15
20
34
0
5
10
15
20
25
30
35
1996 1998 2000 2002 2004
Đồ thị 4.8 Sự phát triển số lượng dịch vụ thuốc thú y thủy sản 
Qua Đồ thị trên ta nhận thấy sự ra đời của các dịch vụ hậu cần ngành thủy sản 
vào những thời điểm mà nghề nuôi trồng và sản xuất giống tôm sú phát triển, đặc 
biệt là giai đoạn từ 1998 đến năm 2000, giai đoạn này số lượng trại sản xuất giống 
Số lượng
Năm 
 Download» Agriviet.com 
39
phát triển rất mạnh và diện tích ao đìa nuôi tôm sú thương phẩm cũng tăng rất nhanh 
(gần 100ha ruộng lúa ở xã Khánh Hải đã chuyển sang nuôi tôm). Giai đoạn từ năm 
2002 – 2004 tuy ngành thủy sản gặp nhiều khó khăn và số lượng cơ sở dịch vụ cũng 
không tăng nhưng đây là số lượng thực tế so với những năm trước là số cơ sở có đăng 
ký kinh doanh tại phòng kinh tế của huyện Ninh Hải. 
34
24
Không đăng ký Có đăng ký
Đồ thị 4.9 Số cơ sở có đăng ký và không đăng ký kinh doanh 
Sự phát triển nhanh chóng của các trại sản xuất giống tôm sú tạo điều kiện 
cho lực lượng dịch vụ thú y và lượng dịch vụ khác như làm bao bì, lưới cụ, xe chuyên 
dùng,… và cũng nhờ sự phát triển này đã đáp ứng kịp thời cho những nhu cầu của 
trại giống. 
4.4 Một Số Vấn Đề Kỹ Thuật Đáng Lưu Ý Trong Hoạt Động của Trại Giống 
Qua đợt điều tra, khảo sát 65 trong số 715 trại giống ở các địa phương trong 
huyện, chúng tôi có một số nhận xét như sau: 
4.4.1 Vấn đề xử lý nước 
Theo lời của người sản xuất thì vào giai đoạn đầu năm 2002, các trại giống có 
xử lý nước cấp nhưng thấy ấu trùng hao hụt nhiều nên những đợt sau không xử lý nữa 
mà chỉ dùng “nước trắng” (nước không qua xử lý). Có lẽ do họ không trung hòa hoặc 
trung hòa không hết lượng Clor dư trước khi sử dụng nên gây ngộ độc cho ấu trùng 
tôm nên sau vài vụ sản xuất tình hình vẫn không cải thiện và họ chuyển sang sử dụng 
nước lọc và có xử lý. 
Cho đến nay toàn bộ trại sản xuất ở huyện Ninh Hải đều sử dụng nước biển 
đã qua lọc và xử lý để sản xuất. Tuy nhiên chất lượng bể lọc của các trại không 
giống nhau và số lần lọc của các trại giống ở đây cũng khác nhau, đa số trại giống 
34 hộ 
24 hộ
 Download» Agriviet.com 
40
lọc nước qua hai hệ thống lọc là lọc thô và lọc tinh, còn lại một số ít trại chỉ qua một 
lần lọc là đã đưa vào sử dụng. 
Trên đây là vấn đề sử dụng nguồn nước biển tự nhiên, còn đối với nguồn 
nước ngọt dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất thì sao? 
Như đã nói trên, Ninh Hải là huyện nằm tiếp giáp với biển nên dễ bị nước 
biển xâm nhập vào đất liền gây thiếu nước ngọt. Hầu như 100% số trại giống ở đây 
đều sử dụng nước máy sinh hoạt để cung cấp cho trại. Đối với những trại ở khu vực 
các xã Tri Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải, nước được chở đến từng trại bằng xe bồn còn 
đối với khu vực sản xuất của xã Khánh Hải thì người ta sử dụng nước máy trực tiếp 
vào bể ương ấu trùng cũng như các bể khác. Điều này có thể gây nguy hiểm cho ấu 
trùng tôm vì trong nước có thể còn tồn dư lượng hóa chất xử lý nước. 
Hình 4.3 Hình thức cung cấp nước ngọt cho trại 
Ngoài ra, vấn đề xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường chưa được bà con 
thực hiện một cách triệt để. Còn nhiều trại thải nước thải đã qua sử dụng xuống hầm 
rút, để từ đó nước rút trực tiếp vào đất. Điều này dễ gây ra tình trạng ô nhiễm nguồn 
nước, đặc biệt là đối với những trại có sử dụng thêm nguồn nước giếng khoan. 
4.4.2 Vấn đề xây dựng bể chứa nước biển 
 Download» Agriviet.com 
41
Hầu hết tất cả các trại sản xuất giống ở đây đều xây dựng hệ thống bể chứa 
nước biển nằm ở vị trí thuận lợi cho việc điều tiết nước cho các bể nuôi trong trại. 
Tuy nhiên, trong số 65 trại điều tra không có trại nào có thể tích bể chứa bằng 1/2 
hoặc hơn 1/2 thể tích bể nuôi. Điều này có thể gây thiếu nước khi cần phải cấp hoặc 
thay nước cho nhiều bể một lúc. 
Ngoài ra, hầu hết hệ thống bể chứa và lắng nước ở các trại không có mái che 
nên rất dễ bị những chất dơ bẩn bay vào gây nhiễm bẩn nguồn nước nuôi. 
Hình 4.4 Hệ thống bể chứa và lắng nước không có mái che của trại Minh Trung 
4.4.3 Vấn đề ấp trứng artemia 
Hiện nay hầu như 100% số trại sản xuất giống đều ấp trứng artemia bằng xô 
nhựa mặc dù trại nào cũng có xây dựng bể ấp loại 1m3. 
Qua khảo sát cho thấy 100% số trại đều không khử vỏ artemia trước khi ấp. 
Khi cho ấu trùng tôm ăn artemia, đa số các trại giống cho luôn vỏ trứng 
artemia vào bể ương ấu trùng tôm, điều này dễ gây nguy cơ nhiễm trùng nước và lây 
bệnh cho ấu trùng tôm rất cao. 
 Download» Agriviet.com 
42
Hình 4.5 Ấp trứng artemia trong xô nhựa 
4.4.4 Vấn đề vệ sinh trại giống 
Sau khi điều tra, 100% số trại đều không có bồn khử trùng chân và không có 
giầy dép để đi vào khu nhà sản xuất. Một số trại, công nhân và khách tới đi giày dép 
vào thoải mái vào trong khu nhà sản xuất, đôi khi người ta còn hút thuốc lá trong khu 
nhà ương ấu trùng. Điều này rất nguy hiểm vì ấu trùng tôm rất nhạy cảm với chất 
nicotine trong thuốc lá, qua hệ thống sục khí các chất độc trong khói thuốc lá sẽ vào 
trong bể ương và nguy hiểm cho ấu trùng tôm. 
4.4.5 Vấn đề sử dụng kháng sinh 
Tuy hiện nay vấn đề về sử dụng thuốc kháng sinh đã và đang bị lên tiếng rất 
mạnh, nhất là đối với những loại kháng sinh cấm sử dụng. Thế nhưng hầu như có đến 
100% số trại sản xuất tôm giống có sử dụng thuốc kháng sinh trong quá trình sản 
xuất. Mặc dù việc sử dụng hóa chất, kháng sinh là điều cần thiết để kiểm soát các vi 
khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên nếu sử dụng kháng sinh lâu dài thì sẽ làm cho vi khuẩn 
kháng thuốc, làm mất hiệu quả của thuốc và làm tăng chi phí sản xuất. Ngoài ra việc 
lạm dụng thuốc kháng sinh sẽ làm suy giảm sức đề kháng của Post, sau này khi đưa 
ra ao nuôi sẽ có tỷ lệ sống thấp. Có nhiều trại sử dụng kháng sinh một cách mù 
quáng mà không cần biết tôm mình bị bệnh là do vi khuẩn hay virus gây ra. 
4.4.6 Mô tả hệ thống trại sản xuất giống ở Ninh Hải 
 Download» Agriviet.com 
43
4.4.6.1 Vị trí và mặt bằng xây dựng trại sản xuất 
Qua điều tra 65 hộ sản xuất tôm giống chúng tôi nhận thấy đa số các trại được 
xây dựng nằm dọc theo bờ biển (giáp với biển Đông) từ xã Vĩnh Hải đến xã Khánh 
Hải, đảm bảo được nguồn nước mặn cung cấp cho hoạt động sản xuất giống của trại. 
Các trại được xây dựng trên vùng đất cao có thể tránh được úng lụt hoặc thủy triều 
lớn nhất hàng năm. 
Môi trường nước biển vùng này không bị ô nhiễm bởi các chất thải từ các lĩnh 
vực công nghiệp, nông nghiệp như hóa chất, dầu khí, thực phẩm, kim loại nặng, 
thuốc trừ sâu,… Các yếu tố thủy lý hóa thích hợp cho việc phát triển nghề sản xuất 
giống tôm sú. 
4.4.6.2 Nguồn nước và chất lượng nước 
a) Nước mặn 
Nguồn nước mặn được bơm trực tiếp từ biển với các chỉ tiêu về lý – hóa 
như sau: 
Bảng 4.9 Các chỉ số chất lượng nước vùng sản xuất giống 
STT Chỉ tiêu Đơn vị Theo đo đạc 
 1 Nhiệt độ nước Độ C 28 - 33 
 2 pH 7,8 – 8,2 
 3 Độ mặn ppt 28 – 34 
 4 NH3 0,014 – 0,042 
 5 NO2-N 0 – 0,00012 
 6 Kim loại nặng Mg/L - 
 Fe “ 0,128 
 Mn 0,0057 
 Cu 0,0039 
Zn 0,0012-0,0037 
 pb 0,0009-0,022 
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Ninh Hải, 2003) 
b) Nước ngọt 
 Download» Agriviet.com 
44
Mặc dù không là yếu tố quyết định trong quy trình sản xuất nhưng nếu có 
được nguồn nước ngọt tốt sẽ thuận lợi hơn cho nhiều vấn đề như vệ sinh sau mỗi đợt 
sản xuất, cho sinh hoạt, cho thuần hóa giảm độ mặn tôm bột khi cần thiết,… 
Vì vị trí xây dựng trại là vùng bờ biển nên không có nguồn cung cấp nước 
ngọt tại chỗ. Do đó nguồn nước ngọt được sử dụng ở đây là nước máy. 
Nước ngọt thích hợp để sử dụng trong trại tôm cần đảm bảo các yếu tố sau: 
Bảng 4.10 Các chỉ tiêu nước ngọt thích hợp cho sản xuất giống 
STT Chỉ tiêu Đơn vị Chỉ số 
 1 Nhiệt độ nước 0C 28 – 32 
 2 pH 7,5 – 8,5 
 3 Oxy hòa tan ppm > 5 
 4 Độ cứng “ > 20 
 5 NO-2 “ < 0,02 
 6 NH+4 “ < 0,1 
 7 Fe “ < 1 
 8 Mn “ < 0,2 
 9 Hg ppb < 0,001 
(Nguồn: Công Ty TNHH Sản Xuất Thương Mại Dịch Vụ Ngọc Hà, 2004) 
4.4.6.3 Một số yếu tố khác 
a) Nguồn cung cấp tôm bố mẹ 
Khu vực sản xuất giống của huyện Ninh Hải cũng như trong cả tỉnh Ninh 
Thuận, có nhu cầu về tôm bố mẹ rất lớn, trong khi đó lượng tôm bố mẹ đánh bắt tự 
nhiên từ vùng biển ở địa phương rất ít không đủ để cung cấp cho thị trường. Chính vì 
vậy từ trước đến nay các hộ sản xuất đã phải mua tôm bố mẹ thông qua các cơ sở 
chuyên cung cấp tôm giống bố mẹ trong huyện và trong tỉnh, và nguồn gốc của 
chúng được đưa về từ các tỉnh miền Trung, miền Nam, một số ít được nhập về từ 
nước ngoài. 
b) Nguồn năng lượng 
 Download» Agriviet.com 
45
Khu vực sản xuất giống của bốn xã trong huyện đều nằm dưới mạng lưới điện 
quốc gia nên việc cung cấp điện cho quá trình hoạt động của trại rất thuận lợi, liên 
tục và hạn chế được mức chi phí sản xuất. 
Bên cạnh đó, để phòng ngừa khi mất điện đột xuất gây ảnh hưởng đến hiệu 
quả kinh tế, 100% số trại trong huyện đều có trang bị thêm máy phát điện và bình 
quân trên một cái trên trại. 
c) Giao thông 
Trại giống nơi đây nằm gần trục đường chính của huyện, gần biển và gần với 
cảng Ninh Chữ nên rất thuận lợi cho việc vận chuyển cung cấp tôm bố mẹ đến và 
chuyển tôm giống đi. 
d) Không gian 
Hệ thống trại sản xuất trong huyện được xây dựng theo kiểu tập trung từng 
vùng. Các trại xây dựng sát nhau, khoảng cách bình quân của các trại không quá một 
mét, thậm chí còn nhiều trại xây dựng chung vách nhau. Điều này dễ dẫn đến vấn đề 
lây lan mầm bệnh từ trại này sang trại khác. 
4.4.6.4 Kết cấu xây dựng 
Trại giống toàn huyện được xây dựng bằng nguyên vật liệu cổ truyền (đá, 
gạch, xi măng, sắt thép,…) hệ thống bể được xây dựng bằng gạch còn các hạng mục 
khác được xây dựng bằng “tắp lô”, mái che được làm bằng tôn xi măng. 
Nhìn chung, về kết cấu xây dựng: các trại xây dựng theo quy mô sản xuất gia 
đình. Các công trình phụ phục vụ cho sản xuất như bể lọc, bể chứa, hố xử lý nước 
thải chưa đảm bảo theo tỷ lệ cho hợp lý. 
 Download» Agriviet.com 
46
Hình 4.6 Trại sản xuất tôm giống đang được xây dựng 
 Download» Agriviet.com 
47
 C 
 B 
 E 
 D 
Sơ đồ 4.1 Trại đôi sản xuất giống điển hình ở khu vực Khánh Nhơn 
Ghi chú: 
1/ A1 -> A4: Bể nuôi bố mẹ. 
2/ B, C, D, E: Bể đẻ và ương nuôi. 
3/ F1, F2: Bể lọc nước biển. 
4/ G1, G2: Bể lắng nước biển. 
5/ H: Nhà bếp. 
6/ I: Nhà máy. 
7/ J: Nhà vệ sinh. 
1 
4 
2 
3 
5 
7 
6 
8 1 2 
3
5
4 
8 7
6 
7 
6 
8 
5 
3 
1 
4 
2 
7
6 
8 
5
3
1
4 
2 
Phòng 
khách 
Phòng 
khách 
H 
Phòng 
 trực 
G1
G2
F1
F2
I J 
Bể chứa 
 nước ngọt 
A1
A4
A2
A3
C2 C1
D2 D1
 Download» Agriviet.com 
48
Sơ đồ 4.2 Trại đơn điển hình ở địa phương 
Ghi chú: 
1/ A: Bể đẻ và ương nuôi. 
2/ B: Bể nuôi vỗ bố mẹ. 
3/ C1, C2: Bể lắng. 
4/ D1, D2: Bể lọc. 
5/ E: Nhà bếp. 
6/ F: Nhà máy. 
7/ G: Nhà vệ sinh. 
 Download» Agriviet.com 
49
 Than hoạt tính 
80 - 100cm Cát biển 
 Lưới ruồi 
5 - 10cm 
 Đá nhỏ 
15 - 20cm 
 Đá lớn 
Sơ đồ 4.3 Cấu tạo bể lọc nước (một trong những dạng bể lọc ở địa phương) 
4.4.6.5 Hoạt động nuôi tôm 
Trại sản xuất giống tôm sú ở gần vùng có hơn 1.000ha diện tích sản xuất tôm 
thịt nên đây là nguồn tiêu thụ tôm Post không nhỏ. 
4.4.6.6 Điều kiện thời tiết, khí hậu và địa thế 
Trại sản xuất được xây dựng trong vùng có khí hậu nhiệt đới nên thuận lợi cho 
việc sinh sản và ương nuôi ấu trùng. 
Trại tôm ở đây được xây dựng trong vùng ít có giông bão hay lũ lụt diễn ra 
trong năm, ngoài ra bờ biển nơi đây có đặc điểm là ngày càng bồi lấn biển nên cũng 
không bị xói mòn, xâm thực gây ảnh hưởng đến công trình sản xuất. 
4.4.6.7 Khoảng cách giữa các trại giống 
Với tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp như hiện nay nhưng khoảng cách 
giữa các trại giống trong vùng quá gần càng tạo điều kiện để dịch bệnh lây lan. Do 
đó cần xây dựng các trại giống có khoảng cách theo tiêu chuẩn ngành. 
a) Bể lắng, bể lọc, bể chứa, bể xử lý nước thải 
 Bể lắng: bể được làm bằng xi măng cốt thép, bể xây dựng dạng chìm 
và bán chìm – bán nổi. 
 Bể lọc: khu vục trại giống nơi đây chỉ xây dựng một loại bể lọc là lọc 
xuôi, nhược điểm của loại bể lọc này là dễ bị ngẹt sau một thời gian sử dụng. 
 Download» Agriviet.com 
50
 Bể chứa nước: ở đây bể chứa được xây dựng bằng xi măng và có hai 
dạng là bán nổi và nổi. Tuy nhiên, sau khi điều tra 65 trại sản xuất giống thì có 100% 
số trại có thể tích không bằng với tổng thể tích bể nuôi. 
b) Bể nuôi vỗ tôm bố mẹ 
Trong sản xuất tôm giống, trở ngại lớn nhất là thiếu nguồn tôm bố mẹ tự 
nhiên. Vì thế, việc nuôi vỗ tôm bố mẹ là khâu rất cần thiết để chủ động sản xuất. Bể 
nuôi vỗ bố mẹ nơi đây được làm bằng xi măng. Bể có thể có dạng tròn, đáy bể dạng 
phẳng và chóp. Tùy theo quy mô của trại mà bể có thể tích từ 5m3 trở lên và sâu một 
mét. Bể nuôi vỗ tôm bố mẹ được sục khí liên tục. 
Hình 4.7 Nuôi vỗ tôm bố mẹ trong bể xi măng 
c) Bể cho đẻ 
Trong một trại sản xuất hoàn chỉnh luôn có bể cho đẻ riêng biệt với bể nuôi 
vỗ hay ương nuôi ấu trùng, bể này chỉ dùng lúc tôm sắp đẻ đến lúc tôm đẻ. Tuy 
nhiên hầu hết các trại đều sử dụng bể ương nuôi ấu trùng để cho đẻ. 
d) Bể ương ấu trùng 
Thông thường ở các địa phương của huyện Ninh Hải cũng như các vùng trại 
khác trong tỉnh hay nhiều vùng sản xuất giống trong cả nước, bể ương nuôi ấu trùng 
 Download» Agriviet.com 
51
thường làm bằng xi măng có thể tích 2m x 3m x 1,2m hoặc 2,5m x 2,5m x 1,2m. Bể 
được đặt trong nhà và có mái che bằng tôn xi măng. Bể này được người dân dùng cho 
đẻ, nở, ương ấu trùng và ương Postlarvae cho đến khi xuất bán. 
e) Bể nuôi tảo, ấp artemia 
Ngày nay, thị trường cung cấp thức ăn cho quá trình ương nuôi ấu trùng tôm 
rất đa dạng, nhiều loại thức ăn trước đây phải qua quá trình nuôi cấy mới có (như 
tảo) thì nay đã có các loại tảo khô thay thế và artemia cũng được người ta ấp trong 
xô nên hiện nay mặc dù các trại đều có xây dựng bể ấp 1m3 nhưng không sử dụng. 
f) Hệ thống sục khí 
Sục khí là khâu luôn được các trại duy trì xuyên suốt trong quá trình ương 
nuôi của trại giống nhằm đảm bảo đủ oxy hòa tan trong nước, đảm bảo nhiệt độ ổn 
định trong bể, giảm hàm lượng khí độc, phân tán đều ấu trùng và thức ăn. Sục khí 
bằng máy thổi hoặc máy nén chạy bằng nhiên liệu và điện, tuy nhiên theo chúng tôi 
chạy bằng điện là tốt nhất nhằm tránh ảnh hưởng của dầu lên ấu trùng. Trong một 
trại thường có ít nhất hai máy sục khí chạy luân phiên nhau để đảm bảo an toàn cho 
máy và đảm bảo sục khí được liên tục. 
g) Hệ thống cấp và thải nước 
Đây là công đoạn trong quá trình xây dựng trại không thể thiếu. Hệ thống 
bơm và ống nước trong các trại tôm đã được lắp đặt hoàn chỉnh để đảm bảo việc cấp 
thải nước dễ dàng cho các bể. Nước biển sau khi bơm vào được qua bể lắng, bể lọc, 
bể chứa và dẫn vào các bể ương nuôi. Nước thải ít được các trại xử lý trước khi thải 
ra ngoài môi trường mà cho rút trực tiếp xuống cống. 
 Download» Agriviet.com 
52
Hình 4.8 Vị trí cấp nước ngoài biển 
h) Các dụng cụ khác 
Ngoài các phương tiện sản xuất trên, các trại giống còn sử dụng một số dụng 
cụ như chậu nhựa, xô nhựa, vợt,… những loại dụng cụ này chủ yếu được dùng khi thu 
hoạch tôm Post. 
Hình 4.9 Một số dụng cụ sử dụng trong trại 
 Download» Agriviet.com 
53
4.4.7 Những lợi thế và hạn chế của nghề sản xuất giống Ninh Hải 
4.4.7.1 Những lợi thế 
a) Lợi thế về điều kiện tự nhiên 
Ninh Hải với bờ biển dài 60km, môi trường nước biển còn trong sạch, ít bị ảnh 
hưởng của các chất thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, ít sông ngòi đổ ra 
biển nên nước biển có độ mặn ổn định. Đây là lợi thế lớn đối với nghề sản xuất 
giống tôm sú ở Ninh Hải. 
Dọc theo bờ biển Ninh Hải, phần lớn là đất xây dựng trại giống chưa được sử 
dụng triệt để nên có khả năng mở rộng diện tích trại sản xuất giống trong tương lai. 
Toàn huyện Ninh Hải có hơn 1.000ha diện tích nuôi tôm, nếu số diện tích này 
đưa vào sản xuất triệt để và mỗi năm hai vụ, thả nuôi với mật độ 30 con/m2 thì mỗi 
năm huyện Ninh Hải tiêu thụ hơn 700.000.000 con tôm PL15. đây là một nguồn tiêu 
thụ không nhỏ cho các trại sản xuất giống của địa phương. 
b) Công tác quản lý nhà nước 
Do được xác định sản xuất tôm giống cung cấp cho lĩnh vực nuôi tôm trong 
tỉnh và các khu vực khác của cả nước là một thế mạnh của ngành thủy sản của tỉnh 
Ninh Thuận nói chung cũng như của huyện Ninh Hải nói riêng nên từ những năm 
1992 sau khi chia tách tỉnh, ngành thủy sản đã tập trung quy hoạch đầu tư và tăng 
cường đầu tư công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, cụ thể một số biện pháp 
như: 
- Tiến hành quy hoạch những vùng có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển 
trại sản xuất giống tôm sú như Tri Hải, Nhơn Hải, Vĩnh Hải là ba vị trí có điều kiện 
tốt. 
- Quản lý chặt chẽ khâu xây dựng trại theo đúng như quy hoạch của nhà nước, 
tránh hình thức tự phát gây khó khăn cản trở việc sản xuất. 
- Quản lý chất lượng tôm giống nhằm mục tiêu duy trì và nâng cao chất lượng 
tôm giống. Chi cục Bảo Vệ Nguồn Lợi Thủy Sản được giao nhiệm vụ kiểm tra, kiểm 
soát chất lượng tôm giống trên địa bàn tỉnh. 
Để thuận lợi cho công tác quản lý, ngành thủy sản đã chỉ đạo chi cục Bảo Vệ 
Nguồn Lợi Thủy Sản lập mã số trại, cấp thẻ cho từng trại giống kèm theo hồ sơ công 
bố chất lượng tôm giống. 
 Download» Agriviet.com 
54
c) Lực lượng lao động kỹ thuật trại giống 
Hiện nay trong nghề sản xuất tôm giống có một đội ngũ kỹ thuật có trình độ 
cao và một lực lượng lao động lành nghề có tay nghề khá vững vàng, đây là nguồn 
vốn rất quý cho sự phát triển nghề tôm giống ở Ninh Hải cũng như trong toàn tỉnh 
trong những năm kế tiếp. 
Mặt khác, Ninh Hải là huyện nằm giáp ranh với tỉnh Khánh Hòa là cái nôi 
của ngành sản xuất giống của cả nước nên có lợi thế tiếp thu những tiến bộ khoa học 
kỹ thuật về sản xuất tôm giống để áp dụng trên địa bàn của mình. 
4.4.7.2 Những khó khăn 
Mặc dù được đánh giá cao trong nhiều năm qua, song thời gian gần đây nghề 
sản xuất tôm giống ở Ninh Hải cũng đang gặp nhiều khó khăn như là: 
- Nguồn tôm bố mẹ cung cấp cho các trại sản xuất ngày càng trở nên khan 
hiếm, trước kia phần lớn nguồn cung cấp cho các trại là từ khai thác tại các vùng biển 
trong tỉnh và một số ít là từ các tỉnh ngoài, nhưng hiện nay nguồn cung cấp này đã 
không còn đáp ứng đủ. Vì vậy các trại phải mua tôm bố mẹ từ các tỉnh khác hạn chế 
về chất lượng và tỷ lệ sống. Điều này làm cho các chủ trại khó chủ động được trong 
sản xuất và làm cho giá thành tôm PL cao. 
- Tình trạng sản xuất tôm giống còn phát triển tự phát ngoài vùng quy hoạch, 
lực lượng cán bộ làm công tác kiểm tra chất lượng tôm giống hiện nay còn mỏng so 
với tốc độ phát triển của nghề sản xuất tôm giống. Nếu tình hình này kéo dài thì công 
tác kiểm dịch kiểm tra chất lượng tôm giống không thể tổ chức một cách chặt chẽ sẽ 
xảy ra tình trạng giảm chất lượng làm ảnh hưởng đến uy tín con tôm giống của huyện 
cũng như của tỉnh. 
Cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư nhưng chưa đồng bộ, tình hình nuôi trồng thủy 
sản còn mang tính phong trào tự phát, công tác quản lý đất đai còn chưa chặt chẽ do 
đó gây ảnh hưởng đến môi trường tạo ra nguy cơ xảy ra dịch bệnh cao, hạn chế định 
hướng phát triển bền vững. Mật độ trại dày đặc, có nhiều trại không có cán bộ kỹ 
thuật, việc sử dụng kháng sinh còn nhiều. 
Nhà nước chậm quy hoạch đối với nghể sản xuất giống tôm sú, số trại có 
đăng ký hoạt động còn ít, lượng tôm giống xuất trại qua kiểm dịch chỉ mới đạt 
khoảng 50%. 
Chưa quản lý được nguồn tôm bố mẹ về số lượng cũng như chất lượng. 
Đa số các trại chưa thực hiện quy trình xử lý nước thải, điều này có thể dẫn 
đến nước biển ven bờ bị ô nhiễm, nhiều trại xây dựng đã lâu nhưng không được tu 
sửa nên bị xuống cấp nghiêm trọng. 
 Download» Agriviet.com 
55
4.5 Kỹ Thuật Sản Xuất Giống 
4.5.1 Quy trình kỹ thuật sản xuất giống tôm 
4.5.1.1 Nguồn tôm bố mẹ 
Hiện nay, tôm bố mẹ dùng cho sinh sản nhân tạo được các trại sử dụng từ hai 
nguồn là tôm từ tự nhiên và tôm nuôi trong các ao, đầm. Tùy theo nguồn tôm khác 
nhau mà có những ưu nhược điểm khác nhau và tùy từng nơi mà dùng phổ biến tôm 
tự nhiên hay tôm đầm. Nhìn chung tôm tự nhiên có kích thước lớn hơn và cho sức sinh 
sản lớn hơn tôm đầm, đôi khi chất lượng ấu trùng cũng kém hơn. Thế nhưng tôm đầm 
có giá rẻ hơn và chủ động hơn tôm biển nên được các trại sử dụng nhiều hơn. 
Tôm có trọng lượng 150 – 300g có thể dùng làm tôm bố mẹ để nuôi vỗ. 
4.5.1.2 Thả nuôi 
Tôm bố mẹ sau khi chuyển về đến trại thường được chọn kỹ, những con tôm 
chưa thành thục hay mới vừa thành thục, khỏe mạnh, vỏ sạch và cứng, không thương 
tích, mang bình thường được chọn để nuôi vỗ. Sau đó họ tiến hành xử lý tôm bố mẹ 
bằng Formaline 200ppm trong 30 phút, mật độ tôm bố mẹ hai con/m2 (1 đực : 1 cái) 
4.5.1.3 Cắt mắt 
Tôm mẹ sau khi được chọn mua về nuôi khoảng hai đến ba ngày, khi tôm đã 
khỏe (hồi phục sức khỏe) lại thì được tiến hành cắt mắt tôm. 
Trên thực tế tôm bố mẹ bắt từ biển về nhiều trường hợp có thể cho đẻ được 
ngay trong đêm đó hay hôm sau mà không cần phải cắt mắt nuôi vỗ. Đó là do tôm đã 
thành thục (đến giai đoạn IV). Tuy nhiên đa số các trường hợp tôm chưa thành thục 
nên tôm mẹ cần được cắt mắt nuôi vỗ để sớm thành thục và đẻ trứng. 
Trước khi tiến hành cắt mắt tôm cái được kiểm tra thelycum, chỉ cắt mắt 
những con đã có gắn tinh nang. Những con tôm cái chưa gắn tinh nang thì được giữ lại 
nuôi đến khi nào chúng lột vỏ và giao vĩ xong mới cắt mắt. 
Chỉ cắt một mắt (có thể cắt mắt phải hoặc mắt trái) và cắt mắt yếu hoặc hư, 
giữ lại mắt khỏe. 
Có thể cắt mắt tôm bằng một trong những phương pháp sau: 
- Rạch và bóp cầu mắt. 
- Thắt cuốn mắt. 
- Đốt cầu mắt bằng điện hay bằng thanh Nitrate bạc. 
 Download» Agriviet.com 
56
- Cắt cuống mắt bằng kéo. 
Tuy nhiên người dân nơi đây chủ yếu cắt cuống mắt bằng kéo. 
Eyestalk Ablation
Hình 4.10 Cắt mắt tôm bằng cách rạch và bóp cầu mắt 
(Nguồn: Phạm văn Nhỏ, 2002) 
 Quản lý môi trường nuôi tôm bố mẹ 
Quản lý môi trường nước trong quá trình nuôi vỗ tôm bôm bố mẹ là khâu rất 
quan trọng. Chất lượng nước bao gồm các yếu tố và các thông số kỹ thuật sau: 
Bảng 4.11 Các chỉ tiêu nước trong bể nuôi bố mẹ 
STT Chỉ tiêu Đơn vị Chỉ số 
 1 Nhiệt độ nước 0C 25 – 30 
 2 pH 7,5 – 8,5 
 3 Oxy hòa tan ppm > 5 
 4 Độ mặn ppt 28 – 35 
 5 Đạm tổng số ppm < 0,5 
 6 Nitrite “ < 0,1 
(Nguồn: Trường Đại Học Thủy Sản – Trung Tâm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 
Gia Huy Co.,LTD, 2002.) 
Trong quá trình nuôi, hàng ngày thay nước với tỷ lệ 100 – 400% thể tích nước 
trong bể, ít nhất là 60 – 70% thể tích. 
a. Rạch mắt tôm b. Bóp cầu mắt
 Download» Agriviet.com 
57
Mực nước bể nuôi vỗ dao động từ 0,35 – 1m. Trong quá trình nuôi vỗ tôm 
được giữ yên tỉnh để tránh gây ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản. 
4.5.1.4 Thức ăn và cách cho ăn 
Các loại thức ăn thường dùng cho tôm bố mẹ ở các trại giống là thức ăn tươi 
sống gồm có mực, sò huyết, ốc mượn hồn,… với lượng 10% trong lượng tôm. Trong 
quá trình nuôi vỗ, tôm được cho ăn hai lần/ngày, thức ăn thừa được siphon đáy sạch 
sẽ. 
4.5.1.5 Cho đẻ và cho nở trứng 
Trước khi cho đẻ, tôm được xử lý bằng hóa chất như Formaline, KMnO4,… 
Sau khi cho tôm vào bể đẻ đã chuẩn bị kỹ, bể được che tối lại bằng vải bạt và giữ 
yên tỉnh để tránh làm động tôm và tôm sẽ đẻ ngay trong đêm đó. 
Sáng hôm sau tôm mẹ được vớt ra khỏi bể đẻ và siphon trứng vào túi lọc mịn. 
Trứng đươc xử lý bằng Formol, Iodin hay KMnO4 trước khi đem ấp, mật độ trứng ấp 
khoảng từ 100 – 200 trứng/lít. Trứng nở sau thời gian ấp từ 12 – 15 giờ (phụ thuộc vào 
nhiệt độ môi trường). 
4.5.1.6 Ương nuôi ấu trùng 
a) Thả ấu trùng 
Trứng sau khi nở thành ấu trùng Nauplius thì được chuyển sang bể ương, nếu 
nhiệt độ và độ mặn giữa nước bể ương và nước vận chuyển chênh lệch không quá 
0,50C và 1ppt thì không cần phải thuần hóa, nhưng nếu nhiệt độ chênh lệch quá 0,50C 
thì cần phải thuần hóa trước khi thả. Tuy nhiên công việc này ít được người dân thực 
hiện. Mật độ ương ấu trùng trung bình 100 – 200 Nauplius/lít nước. 
b) Môi trường nước 
Trong quá trình ương nuôi ấu trùng, những yếu tố nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa 
tan, ánh sáng là những yếu tố quan trọng được người nuôi kiểm tra và kiểm soát kỹ 
để quản lý môi trường nước ương, vì vậy bể ương được thay nước khi cần thiết và 
nước trước khi nuôi cũng được xử lý kỹ bằng hóa chất. 
Tùy theo nhiệt độ môi trường chung quanh mà người dân có thể che phủ bể 
bằng tấm bạt để giữ tối bể, ổn định nhiệt độ, không để tảo phát triển và tránh lây lan 
bệnh. Trong quá trình ương, bể được sục khí liên tục để đảm bảo lượng oxy > 
5ppm, hàm lượng NH3 đảm bảo dưới mức nguy hại. 
 Download» Agriviet.com 
58
Trong quá trình ương nuôi không có thay nước ở giai đoạn Nauplii. Giai đoạn 
Zoea thay nước khoảng 30% mỗi ngày, giai đoạn Mysis thay khoảng 50% nước mỗi 
ngày và giai đoạn Postlarvae thay từ 50 – 80% nước mỗi ngày. 
Thức ăn và cách cho ăn 
Ở giai đoạn Nau
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Unlock-a8.PDF