Đề tài Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức hoạt động vào tháng 7/2000 đánh dấu một bước tiến quan trọng của thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, hoạt động của Thị trường chứng khoán trong gần 4 năm qua mới đạt được những kết quả rất nhỏ, chưa thực sự đóng vai trò là phong vũ biểu của nền kinh tế hiện đại. Quy mô thị trường còn nhỏ; pháp luật, chính sách cho vận hành thị trường còn chưa phù hợp; cơ sở vật chất chưa hiện đại; các đối tượng tham gia còn nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sự tham gia của các Ngân hàng thương mại vào TTCK còn nhiều hạn chế mặc dù đây là những định chế tài chính có tiềm lực kinh tế và có vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển của TTCK Việt Nam. Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại đã tham gia hoạt động trên TTCK Việt Nam và thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu, hoạt động của tổ chức trung gian n...

docx80 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức hoạt động vào tháng 7/2000 đánh dấu một bước tiến quan trọng của thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, hoạt động của Thị trường chứng khoán trong gần 4 năm qua mới đạt được những kết quả rất nhỏ, chưa thực sự đóng vai trò là phong vũ biểu của nền kinh tế hiện đại. Quy mô thị trường còn nhỏ; pháp luật, chính sách cho vận hành thị trường còn chưa phù hợp; cơ sở vật chất chưa hiện đại; các đối tượng tham gia còn nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sự tham gia của các Ngân hàng thương mại vào TTCK còn nhiều hạn chế mặc dù đây là những định chế tài chính có tiềm lực kinh tế và có vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển của TTCK Việt Nam. Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại đã tham gia hoạt động trên TTCK Việt Nam và thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu, hoạt động của tổ chức trung gian này mới chỉ mang tính chất thăm dò, thử nghiệm, vì vậy chưa hiệu quả và các Ngân hàng thương mại chưa khẳng định được vị thế của mình trên TTCK. Nhiều Ngân hàng thương mại vẫn ngoài cuộc bởi lẽ còn nhiều các trở ngại về cơ sở pháp lý, các điều kiện tham gia. Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu phát triển TTCK trong thời gian tới, đề tài : “ Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các Ngân hàng thương mại và hoạt động của các NHTM trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương: Chương I : Hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Chương II : Thực trạng hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương III : Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán Việt Nam Chương I Hoạt động của Ngân hàng thươnG mại trên Thị trường chứng khoán 1.1. Tổng quan về Thị trường chứng khoán 1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm, khi đó các hàng hóa thông thường, ngoại tệ và chứng khoán cùng được giao dịch trên một thị trường chung. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã không thể đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì vậy, thị trường chứng khoán đã được tách riêng và hình thành cùng với thị trường hàng hóa và thị trường ngoại hối. Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ngày thứ năm đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ hai đen tối”, 19/10/1987. Song, trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thế chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTCK cung ứng phần lớn nhu cầu vốn dài hạn, góp phần phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Trong đó, chứng khoán là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán và thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản. Như vậy, bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. 1.1.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán Tùy theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường người ta xem xét theo ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hóa, phân loại theo hình thức tổ chức thị trương và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. 1.1.2.1. Phân loại theo hàng hóa Theo cách thức phân loại này, người ta phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các chứng khoán phái sinh. Thị trường trái phiếu (Bond Market) là thị trường mà hàng hóa được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể trung hạn hay dài hạn. Thị trường cổ phiếu ( Stock Market ) là nơi giao dịch, mua bán trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của các cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Việc sở hữu cổ phiếu cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn không xác định. Thị trường các chứng khoán phái sinh (Derivative Markets) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư. 1.1.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn Theo cách phân loại này có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market ) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư. Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market ) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi lại các chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp với việc tích tụ và tập trung vốn. 1.1.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường Theo cách thức phân loại này thì có Sở giao dịch chứng khoán, thị trường phi tập trung và thị trường thứ ba. Sở Giao dịch (Stock Exchange) là thị trường chính thức, tại đây người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Vì vậy, Sở giao dịch chứng khoán còn được gọi là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và TTCK. Thị trường phi tập trung hay thị trường giao dịch qua quầy (OTC: Over-The-Counter Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường. Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như những nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn nhiều lần so với Sở giao dịch chứng khoán. Quản trị thị trường này là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quốc gia. Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và khai trừ các thành viên, giám sát việc thi hành quy chế thành viên của Hiệp hội. Thị trường thứ ba là thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và OTC. 1.1.3. Vai trò của Thị trường chứng khoán Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế: Thứ nhất, TTCK thực hiện việc tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Qua TTCK, Chính phủ và các doanh nghiệp phát hành các chứng khoán để huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và chi tiêu. Thông qua TTCK nguồn vốn tiết kiệm được chuyển thành vốn đầu tư. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. Trên TTCK, tất cả các thông tin được cập nhật và chuyển tải tới tất cả các nhà đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các doanh nghiệp. Chỉ có những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường. Điều này khuyến khích tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp này phải làm ăn có hiệu quả cao và minh bạch. Hơn nữa, sự tồn tại của TTCK cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. TTCK cũng tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải tỏa quyền lực tập trung tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, yêu cầu về năng lực quản trị, điều hành công ty cũng tăng theo. TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát cao của TTCK đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. Thứ tư, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư và việc phân bổ nguồn lực của họ. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. Thứ năm, hiệu quả quốc tế hóa của TTCK. Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước. Ngoài những tác động tích cực trên đây, TTCK cũng có những tác động tiêu cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các thị trường mới nổi, các thông tin được chuyển tải tới nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy, giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách hiệu quả các nguồn lực. Một số tiêu cực khác của TTCK như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường... Như vậy, vai trò của TTCK được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự được phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước. 1.1.4. Các chủ thể tham gia trên Thị trường chứng khoán 1.1.4.1. Chính phủ Chính phủ tham gia vào TTCK với hai tư cách: Thứ nhất, Chính phủ là người tổ chức, quản lý và giám sát thị trường thông qua đại diện là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Vai trò của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là tổ chức, hướng dẫn và quản lý TTCK, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK để trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, cũng như tổ chức và hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. Ngoài Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước, các cơ quan quản lý Nhà Nước khác như NHNN, Bộ Tài chính, Các bộ chủ quản cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý đối với các thành viên tham gia thị trường. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước trong hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động của thị trường. Thứ hai, Chính Phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính Phủ có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn như Trái phiếu Chính Phủ, Tín phiếu Kho Bạc nhằm mục đích tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Những chứng khoán này là loại hàng hoá chủ đạo của TTCK. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHNN có thể tham gia thị trường để thực thi chính sách tiền tệ. Chính Phủ cũng có thể tham gia thị trường cổ phiếu khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước hoặc muốn tham gia quản lý, nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp. Có thể nói, vai trò của Chính Phủ đối với sự vận hành TTCK một cách ổn định và hiệu quả là rất quan trọng, đặc biệt là đối với những thị trường mới nổi như Thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 1.1.4.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng với vai trò của tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư. Các doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp các loại hàng hóa cho TTCK bằng cách phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu, qua đó, doanh nghiệp huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. So với trái phiếu của chính phủ thì chứng khoán của doanh nghiệp có độ rủi ro cao hơn nhưng đổi lại nó có thể mang lại cho nhà đầu tư mức sinh lợi cao hơn, vì vậy đối với các nhà đầu tư đây là những công cụ hấp dẫn. Trong các loại hình doanh nghiệp, công ty cổ phần là hình thức doanh nghiệp chủ yếu có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để huy động vốn trên TTCK. Công ty có thể tự mình phát hành chứng khoán hoặc phát hành thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành. Với vai trò là nhà đầu tư trên thị trường, các doanh nghiệp tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK để với hai mục đích: thực hiện nghiệp vụ đầu tư và nghiệp vụ ngân quỹ. Khi thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ, doanh nghiệp chủ yếu mua bán các chứng khoán có độ thanh khoản cao để đáp ứng các nhu cầu thanh toán nhanh, ngược lại, khi thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán, doanh nghiệp thường lựa chọn một danh mục đầu tư theo nguyên tắc đa dạng hóa tài sản và giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra, các doanh nghiệp mua bán chứng khoán còn nhằm mục đích thâu tóm và sáp nhập doanh nghiệp. Phát triển các hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán của doanh nghiệp sẽ làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư cho TTCK đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện các nghiệp vụ như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn, môi giới, quản lý danh mục đầu tư. 1.1.4.3. Cá nhân và hộ gia đình Các cá nhân và các hộ gia đình tham gia trên TTCK với tư cách là các nhà đầu tư cá thể, họ đầu tư chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Các nhà đầu tư cá thể có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá thể tạo ra tính sôi động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung gian tài chính phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường. 1.1.4.4. Trung gian tài chính Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK. Tùy theo luật pháp của mỗi nước, các trung gian tài chính tham gia trên TTCK không chỉ để huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán hay kinh doanh chứng khoán như một doanh nghiệp thông thường mà còn có thể là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường qua các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán ... Trong các trung gian tài chính, NHTM là tổ chức quan trọng nhất, tham gia thường xuyên và đa dạng trên TTCK. Sự tham gia của các NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển và tăng tính hiệu quả của thị trường. Điều này được lý giải bởi sự giảm thiểu chi phí giao dịch và giảm thiểu rủi ro. NHTM có thể giảm chi phí giao dịch từ việc tiết kiệm do quy mô. Với lợi thế chuyên môn hoá, các NHTM có thể giảm chi phí cho việc thu thập và xử lý thông tin, từ đó, chi phí thông tin trên một đơn vị giao dịch sẽ nhỏ hơn so với chi phí loại này của cá nhân một nhà đầu tư. Các NHTM cũng có thể tiết kiệm được các khoản chi phí do tận dụng khai thác triệt để cơ sở vật chất, nhân lực trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư. Các NHTM có thể giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá đầu tư và kiểm soát thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức - điều mà một nhà đầu tư cá thể khó có thể thực hiện được. 1.1.4.5. Các tổ chức khác liên quan đến thị trường Ngoài các chủ thể trên, còn có các tổ chức quan trọng khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của TTCK, như: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành TTCK thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường. Các tổ chức hỗ trợ là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua hoạt động như cho vay tiền để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các loại hình tổ chức này. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của các tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các nhà đầu tư có thể dựa vào hệ số tín nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. Như vậy, trên TTCK có rất nhiều các chủ thể tham gia với những mục đích và vai trò khác nhau trong đó NHTM là tổ chức có vai trò rất quan trọng. Mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK và các hoạt động của tổ chức này trên TTCK sẽ được trình bày trong phần dưới đây. 1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán 1.2.1. NHTM và các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK 1.2.1.1. Tổng quan về NHTM NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và làm các dịch vụ ngân hàng, là một trong các tổ chức tài chính trung gian quan trọng nhất trong nền kinh tế. NHTM thực hiện các hoạt động chủ yếu như: Hoạt động huy động vốn Đây chính là hoạt động tạo vốn cho NHTM và đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là một bộ phận quan trọng trong nguồn vốn của NHTM. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, NHTM cũng có thể tiến hành vay NHTW, các tổ chức tín dụng khác hoặc có thể phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu. Cùng với quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế thị trường các NHTM có thể có những nguồn vốn khác không mang tính thường xuyên từ những hoạt động cung cấp dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, đầu tư, cấp phát, giải ngân... Hoạt động cho vay, đầu tư Với số vốn huy động được, các ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với Chính Phủ, các doanh nghiệp, cá nhân. Cho vay là tài sản lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Các sản phẩm cho vay có thể được phân chia theo các tiêu thức khác nhau như là thời gian, đối tượng vay vốn và tính chất sử dụng. Đây là hoạt động sinh lợi lớn nhất cho ngân hàng song cũng gây ra rủi ro lớn nhất cho ngân hàng nếu như khách hàng không hoàn trả đúng hạn hay không có khả năng hoàn trả. So với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn song cũng có ý nghĩa rất quan trọng về mặt thu nhập và tạo điều kiện cho các ngân hàng thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế. Hoạt động đầu tư góp phần làm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức không những mang lại cho ngân hàng sự an toàn trong thanh toán mà còn để các NHTM có những phản ứng phù hợp với sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của ngân hàng còn được thể hiện bằng việc mua bán một số loại chứng khoán trên thị trường hoặc có thể góp vốn liên doanh với các tổ chức khác để cùng kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy ngân hàng tiến hành việc đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thanh khoản và sinh lời. Trên thực tế, trước khi thực hiện hoạt động cho vay và đầu tư, các ngân hàng đã dự trữ một phần nguồn vốn của mình để đáp ứng nhu cầu chi trả nhanh chóng, đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh. Khoản mục này được gọi là ngân quỹ. Mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được do đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp song lại có tính thanh khoản cao. Ngoài ra, NHTM còn có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào các loại tài sản khác như: nhà cửa, các tài sản ngoại bảng... Hoạt động trung gian khác Ngoài hoạt động huy động vốn và cho vay, đầu tư, các NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như bảo quản vật có giá, thực hiện các dịch vụ thanh toán, quản lý thu nhập cho khách hàng, môi giới, tư vấn, các dịch vụ bảo hiểm...Đây chính là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM thực hiện các dịch vụ chứng khoán như tư vấn, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, môi giới chứng khoán trên TTCK. 1.2.1.2. Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK Hoạt động của NHTM trên TTCK theo các mô hình là khác nhau, phụ thuộc vào quy định luật pháp mỗi nước. Tuy nhiên, trên thế giới tồn tại 3 mô hình sau: Mô hình đa năng toàn phần. Theo mô hình này, không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các NHTM được phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Mô hình này được áp dụng tại các nước như Đức, Hà Lan, Bắc Âu, Thụy Sỹ và Aó. Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư và tăng khả năng chịu đựng trước những biến động trên TTCK. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có đội ngũ nhân viên chuyên môn cao, có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế là không tạo cho TTCK phát triển vì hoạt động chủ yếu của ngân hàng là dùng vốn để cho vay và thực hiện dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Điều này không những thể hiện rõ ở các TTCK kém phát triển mà ở ngay TTCK Châu Âu khi so sánh với TTCK Mỹ. Đồng thời, trong trường hợp có sự biến động trên TTCK, thì các biến động này có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Ví dụ điển hình nhất là cuộc đại khủng hoảng kinh tế ở Mỹ 1929-1933, hay vụ phá sản của ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại trong trường hợp thị trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan là một minh chứng. Mô hình đa năng một phần. Theo mô hình này, các ngân hàng muốn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ, do vậy đã hạn chế được nhược điểm của mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tạo ra sự trùng chéo về tổ chức, làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM. Anh, Canada, úc là những nước áp dụng mô hình này. Mô hình ngân hàng đa năng một phần phù hợp với những nước mới thành lập thị trường chứng khoán. Mô hình chuyên doanh. Trong mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán thực hiện, đó là các CTCK. Các NHTM không được phép tham gia vào việc kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan... Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình chuyên doanh đã có xu hướng nới lỏng các điều kiện để cho phép các NHTM tham gia trên TTCK. Từ những phân tích trên cho thấy, mỗi mô hình đều có những ưu nhược điểm riêng và không có mô hình nào là tối ưu đối với một quốc gia. Tùy theo quan điểm của các nhà quản lý thị trường, vào sự phát triển của ngân hàng và sự phát triển của TTCK mà mỗi quốc gia sẽ lựa chọn mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK và có sự điều chỉnh phù hợp cho sự phát triển kinh tế. 1.2.2. Các hoạt động của NHTM trên TTCK 1.2.2.1. Hoạt động phát hành chứng khoán NHTM là một doanh nghiệp và TTCK được xem là kênh dẫn vốn quan trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt này. Để huy động vốn trên TTCK, các NHTM có thể phát hành các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư. Việc phát hành chứng khoán của các NHTM chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau như Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng. Các NHTM muốn phát hành chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện phát hành và tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục phát hành. Điều kiện phát hành được quy định tùy theo luật pháp của mỗi nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc cơ bản trong quy định phát hành là: quy mô về vốn, tính liên tục trong hoạt động kinh doanh, đội ngũ quản lý, phương án khả thi về việc sử dụng vốn từ đợt phát hành... Các NHTM có thể thực hiện các phương thức phát hành chứng khoán: phát hành riêng lẻ (phát hành mang tính nội bộ) hoặc phát hành ra công chúng( phát hành rộng rãi ) tùy theo điều kiện và mục đích. Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định với những điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Chứng khoán dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung. NHTM chọn hình thức phát hành này khi không đủ điều kiện để phát hành ra công chúng; số lượng vốn cần huy động nhỏ, phát hành nhằm mục đích duy trì các mối quan hệ trong kinh doanh hay phát hành cho cán bộ nhân viên của ngân hàng. Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định, trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ. Ngoài ra, tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng phải đạt mức theo quy định. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán. Hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM cung cấp cho TTCK hàng hóa có chất lượng và tăng hiệu quả của thị trường. Các chứng khoán do các NHTM phát hành thường có độ hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư do uy tín, do mối quan hệ của các NHTM. Các NHTM có thể đứng ra thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, một tổ chức quan trọng trên TTCK nhằm giúp các nhà đầu tư nhỏ, cá thể có thể phân tán rủi ro và giảm chi phí đầu tư. Bằng cách phát hành chứng chỉ quỹ, các NHTM có thể thu hút, tập trung lượng vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư thành lượng vốn lớn để đầu tư chứng khoán một cách chuyên nghiệp và đa dạng hóa. Là một doanh nghiệp đặc biệt với tính chất chuyên nghiệp và uy tín cao trên TTCK, hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp thông thường khác. Các ngân hàng có thể tự đứng ra phát hành làm giảm chi phí huy động vốn. Do vậy, các NHTM có thể dễ dàng huy động vốn hơn so với các doanh nghiệp khác trên TTCK. 1.2.2.2. Hoạt động đầu tư chứng khoán Tín dụng được coi là hoạt động sinh lời lớn nhất song trong hoạt động này các NHTM thường phải đối mặt với các rủi ro cao nhất có thể xảy ra. Chính vì vậy, các NHTM không ngừng mở rộng những lĩnh vực đầu tư mới. Thực tế cho thấy rằng các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy động để tiến hành cho vay mà nó còn thực hiện hoạt động kinh doanh trên TTCK như một nhà đầu tư có tổ chức. Hoạt động đầu tư chứng khoán cuả các NHTM được xem như là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường. Điều này là do các lợi thế sẵn có của NHTM, đó chính là tính chuyên nghiệp trong thu thập và xử lý thông tin, có quy mô lớn và tính đa dạng hóa cao. Khi đầu tư chứng khoán, NHTM thường quan tâm đến tính thanh khoản và sinh lời. Các nhà quản trị ngân hàng tùy theo mục tiêu, chiến lược trong từng giai đoạn phải liên tục xem xét mối quan hệ đánh đổi giữa tính sinh lời và thanh khoản của các chứng khoán nắm giữ. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu mà NHTM khi lựa chọn chứng khoán đầu tư là khả năng trao đổi và bán lại trên thị trường. Các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao là những chứng khoán có khả năng được mua và bán nhanh trên thị trường, giá cả ổn định và có khả năng thu hồi vốn đầu tư ban đầu ( tức là có rủi ro về tổn thất vốn đầu tư là thấp ). Mục đích khi đầu tư vào chứng khoán thanh khoản cao song sinh lợi thấp ( như Trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc ) của các NHTM là nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, dự phòng và tích trữ. Còn đối với các chứng khoán có tính thanh khoản thấp hơn, mức độ rủi ro cao hơn và thường có tính sinh lời cao được các NHTM đầu tư dài hạn và xây dựng danh mục đầu tư đa dạng nhằm giảm thiểu rủi ro: danh mục đầu tư trái phiếu, danh mục đầu tư cổ phiếu, danh mục đầu tư hỗn hợp. Hoạt động đầu tư chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động NHTM: cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung cho ngân hàng, tạo nguồn thanh khoản, giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế ảnh hưởng của thuế và chứng khoán có thể được sử dụng như những vật thế chấp cho các khoản đi vay của ngân hàng. Có thể nói, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM là cầu nối quan trọng giữa thị trường tín dụng và TTCK. Khi thị trường tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn trên thị trường tín dụng sẽ được dịch chuyển sang TTCK thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại, khi nhu cầu tín dụng tăng lên, các NHTM sẽ bán các chứng khoán để tăng lượng vốn cho hoạt động tín dụng. Việc dịch chuyển vốn giữa hai thị trường giúp cho các NHTM có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, dù hoạt động trên thị trường tín dụng hay đầu tư chứng khoán thì các NHTM đều đã thực hiện chức năng tài trợ cho nền kinh tế. Hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM ngày càng phát triển. Sự phát triển của TTCK cùng với sự xuất hiện và phát triển của các chứng khoán phái sinh đã làm tăng khả năng đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại, hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM làm tăng tính chuyên nghiệp và sự sôi động của TTCK. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý bởi vì hoạt động này sẽ làm tăng rủi ro không chỉ với các ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế. Chẳng hạn như, rủi ro về việc người phát hành chứng khoán không thể thanh toán được vốn gốc và lãi đã buộc các nhà chức trách nghiêm cấm các NHTM tham gia hoạt động mua bán chứng khoán mang tính đầu cơ. Hay do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, các ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán và khi TTCK biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Việc mất khả năng thanh toán của các NHTM thường dẫn đến những phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hệ thống ngân hàng và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đây cũng chính là lý do mà các nhà quản lý thường muốn hạn chế hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM. 1.2.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là hoạt động giúp cho chủ thể phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Cơ sở để các NHTM có thể thực hiện được hoạt động bảo lãnh phát hành bắt nguồn từ vị thế là trung gian tài chính trên TTCK. Các ngân hàng với lợi thế kinh nghiệm, thông tin đầy đủ cùng với trình độ chuyên môn hóa cao có thể dễ dàng hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện việc phát hành chứng khoán thành công. NHTM thực hiện các công việc với chi phí thấp hơn, đồng thời tư vấn cho doanh nghiệp các yếu tố pháp lý và kỹ thuật: thủ tục, hồ sơ phát hành, số lượng và loại chứng khoán, chi phí vốn, định giá chứng khoán. Hơn thế nữa, với uy tín sẵn có, mạng lưới tổ chức rộng rãi, quan hệ truyền thống với khách hàng, sự bảo lãnh của NHTM sẽ giúp các chứng khoán phát hành được công chúng đầu tư tin tưởng và chấp nhận dễ dàng hơn. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp tự đảm nhận việc phân phối chứng khoán, họ sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề và rủi ro. Khi thực hiện bảo lãnh phát hành, các NHTM đã nhận toàn bộ hay một phần rủi ro trong việc phân phối chứng khoán. Do đó, tổ chức phát hành phải trả cho tổ chức bảo lãnh phí bảo lãnh phát hành. Phí này được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên khối lượng chứng khoán được phân phối. Tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của pháp luật, vào tính chất của đợt phát hành, loại hình bảo lãnh và phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức phát hành và tổ chức phân phối chứng khoán. Ngoài phí phát hành, ngân hàng còn có thể được hưởng thu nhập từ khoản chênh lệch giữa giá phát hành và thị giá chứng khoán. Tuy nhiên, cũng có thể không nhận được phần thu nhập này hoặc bị thua lỗ nếu như phán đoán không chính xác. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể được thực hiện bởi sự kết hợp giữa NHTM với các trung gian tài chính khác tạo nên một nghiệp đoàn bảo lãnh phát hành. Việc thành lập nghiệp đoàn này sẽ giúp ngân hàng san sẻ rủi ro, tận dụng lợi thế của các trung gian tài chính khác và có thể thực hiện bảo lãnh phát hành lượng chứng khoán lớn hơn khả năng cho phép của ngân hàng. Các NHTM có thể thực hiện việc bảo lãnh phát hành chứng khoán theo các phương thức là: Bảo lãnh cam kết tối đa: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức bảo lãnh chỉ cam kết phân phối tối đa số chứng khoán của tổ chức phát hành tới mức có thể. Phương thức này gần giống với phương thức đại lý trong trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn lại được trả lại cho nhà phát hành. Vì vậy, với phương thức bảo lãnh này, tổ chức phát hành có thể gặp rủi ro do không huy động đủ vốn như dự định. Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là phương thức mà tổ chức bảo lãnh phải cam kết mua toàn bộ số chứng khoán chưa phân phối hết của tổ chức phát hành. Như vậy, tổ chức bảo lãnh phát hành phải đảm bảo mang lại chính xác toàn bộ tổng giá trị của đợt phát hành cho tổ chức phát hành. Mọi rủi ro của đợt phát hành sẽ do người bảo lãnh chịu. Bảo lãnh cam kết tất cả hoặc không: Trong phương thức này, nếu số chứng khoán được phân phối chưa tới một mức tối thiểu như thỏa thuận thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, số tiền đặt mua chứng khoán sẽ trả lại cho người mua. Bảo lãnh tối thiểu- tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức bảo lãnh phát hành phải cam kết bán tối thiểu một số lượng chứng khoán nhất định ( mức sàn ). Ngoài số lượng này, tổ chức bảo lãnh phát hành có thể tự do chào bán chứng khoán nhưng không vượt quá mức tối đa quy định ( mức trần ). Nếu số lượng chứng khoán bán ra thấp hơn mức tối thiểu đã được quy định thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. NHTM có thể tham gia hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ. Họ chính là những thành viên chủ yếu của thị trường đấu thầu tín phiếu, Trái phiếu chính phủ và là những nhà đầu tư lớn, đảm nhiệm vai trò nhà tạo thị trường đối với các chứng khoán này. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của TTCK nói chung và sự phát triển của chính bản thân ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, cũng như các hoạt động kinh doanh chứng khoán khác, sự tham gia vào hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM phụ thuộc vào quy định cụ thể của mỗi nước. 1.2.2.4. Hoạt động tư vấn chứng khoán Đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như nhà đầu tư cá thể, tổ chức phát hành, việc đánh giá chất lượng chứng khoán, xác định thời điểm phát hành... là rất khó khăn. Điều này là do họ không có đủ thông tin chính xác, không đủ thời gian và sự hiểu biết cần thiết để theo dõi diễn biến thị trường, thu thập và xử lý thông tin. Với ưu thế của mình trong việc phân tích và xử lý thông tin, phân tích tài chính chuyên nghiệp, NHTM đã giúp những nhà đầu tư, tổ chức phát hành khắc phục những yếu điểm, tiết kiệm chi phí, tránh rủi ro và đưa ra những quyết định đúng đắn thông qua hoạt động tư vấn. Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Có hai hình thức tư vấn là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Hình thức tư vấn trực tiếp được thực hiện khi phân tích, xử lý các tình huống đầu tư của chính khách hàng, từ đó có những khuyến nghị trực tiếp trên cơ sở một khoản lệ phí tư vấn thỏa thuận. Trong khi đó, thông qua hình thức tư vấn gián tiếp các ngân hàng có thể chia sẻ thông tin của mình bằng việc phát hành các báo cáo phân tích trên các tạp chí, sách báo chuyên đề. Trong mô hình tổ chức của các NHTM trên thế giới đều có bộ phận chuyên môn phòng môi giới, tư vấn chứng khoán. Phòng môi giới và tư vấn sẽ tiếp nhận những thông tin cần thiết và phù hợp sau đó tiến hành phân tích chỉ ra xu hướng và khuyến nghị cụ thể. Khi đó các NHTM phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của những lời tư vấn của mình đối với khách hàng và đôi khi hoạt động tư vấn phải được quản lý và cấp phép. Tuy nhiên, trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, khách hàng vẫn là người tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. 1.2.2.5. Hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là điều kiện cơ bản kiến tạo nên hoạt động của TTCK. Đối với nhiều nước, hoạt động môi giới chứng khoán được xem là hạt nhân của thị trường. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động của TTCK - nguyên tắc trung gian. Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hoa hồng. Theo đó, NHTM đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, NHTM sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư mua chứng khoán và nhà đầu tư bán chứng khoán. Và tấc nhiên trong hoạt động này, ngân hàng sẽ được hưởng tiền hoa hồng từ phía khách hàng, thường được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng giá trị giao dịch. Hoạt động môi giới là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới. Sự tham gia ngày càng nhiều hơn của ngân hàng trong hoạt động môi giới làm tăng tính cạnh tranh, và trên cơ sở đó, làm giảm chi phí trong giao dịch chứng khoán cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới. Việc thực hiện nguyên tắc trung gian của TTCK nhằm đảm bảo cho các hoạt động trên thị trường được diễn ra hợp pháp, công khai cũng như đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư và cho cả thị trường. Để được phép hoạt động môi giới chứng khoán, các NHTM phải có đủ điều kiện cần thiết như là: vốn pháp định, giấy phép hành nghề đối với các nhân viên môi giới, các yêu cầu về cơ sở vật chất và phải được UBCK cấp giấy phép hoạt động môi giới. Hoạt động môi giới chứng khoán có những tác động tích cực đối với TTCK, nhưng hoạt động này cần phải có luật pháp đảm bảo với những quy định chặt chẽ nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường. 1.2.2.6. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo uỷ thác vì quyền lợi của khách hàng. Thực chất hoạt động này là một dạng của hoạt động tư vấn mang tính tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được thỏa thuận. Trong hoạt động này, các NHTM phải đảm bảo tách biệt giữa tài sản của khach hàng với tài sản của ngân hàng. Khách hàng có thể uỷ quyền một phần hay toàn bộ đối với chứng khoán của họ tùy theo mức độ tín nhiệm của họ đối với ngân hàng. Ngân hàng phải gửi các bản kê sao về tình hình tài sản trong danh mục cho khách hàng theo định kỳ, hoặc theo yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt các NHTM phải đảm bảo an toàn và bí mật các thông tin về tài sản của khách hàng trừ các trường hợp đặc biệt. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua lệ phí quản lý tài sản từ phía khách hàng. Hoạt động này cũng góp phần tăng uy tín và phát triển hoạt động khác như lưu ký, thanh toán, tư vấn. Song để tạo lòng tin đối với công chúng đầu tư, các ngân hàng phải luôn tôn trọng và đặt quyền lợi của khách hàng trước quyền lợi của ngân hàng. 1.2.2.7. Các hoạt động khác Ngoài các hoạt động chính trên, NHTM có thể tham gia vào các hoạt động phụ trợ khác: Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ ) hoặc ký gửi chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất ). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, NHTM sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Quản lý thu nhập của khách hàng: xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, ngân hàng sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng: đối với các nước có TTCK phát triên, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, ngân hàng có thể cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện các giao dịch bán khống (short sale ) hoặc cho khách hàng vay tiền để thực hiện việc ký quỹ chứng khoán ( margin purchase ). Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho các khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do ngân hàng ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thanh toán, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc và lãi cho ngân hàng. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư : ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép các NHTM được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, NHTM cử đại diện của mình để quản lý quỹ, sử dụng vốn và tài sản của quỹ để đầu tư vào chứng khoán. 1.3. Các điều kiện cần thiết để ngân hàng thương mại hoạt động trên Thị trường chứng khoán Từ những phân tích trên cho thấy, hoạt động của các NHTM trên TTCK có một ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả và sự phát triển của thị trường. Nhận thức được điều đó, hầu hết các nước trên thế giới đã gắn kết hai lĩnh vực hoạt động ngân hàng và chứng khoán nhằm xây dựng và phát triển TTCK trên nền tảng phát triển của ngân hàng. Song để có thể tham gia trên TTCK, các NHTM cần phải đáp ứng các điều kiện về pháp lý; vốn; trình độ công nghệ; năng lực quản trị, điều hành; trình độ nhân sự, hiệu quả kinh doanh... 1.3.1. Các điều kiện pháp lý TTCK là một thực thể phức tạp, ở đó có sự tham gia của rất nhiều đối tượng khác nhau, với các mục đích khác nhau. Vì vậy các hoạt động trên TTCK cần phải có một cơ sở pháp lý chặt chẽ, đầy đủ và đồng bộ để điều chỉnh hoạt động cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia trên thị trường. Các điều kiện pháp lý có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút các NHTM tham gia trên TTCK. Hoạt động của tổ chức này trên thị trường có liên quan đến quyền lợi của nhiều đối tượng khác nhau, do đó thường chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau: Luật Ngân hàng, Luật chứng khoán, Luật doanh nghiệp. Như đã đề cập trong phần các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK, mỗi nước đều có những quy định khác nhau về việc ngân hàng có được tham gia hay không trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, các nước theo mô hình chuyên doanh cũng đã nới lỏng các điều kiện để ngân hàng có thể hoạt động trên TTCK theo mô hình đa năng. Mặc dù các điều kiện có khác nhau nhưng tựu trung lại các NHTM phải đảm bảo các điều kiện về mặt pháp lý khi tham gia trên TTCK. Việc kiểm soát các hoạt động của NHTM trên TTCK sẽ làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư đối với TTCK nói chung và NHTM nói riêng. Song nếu các cơ sở pháp lý quá phức tạp và thiếu hoàn thiện sẽ cản trở sự tham gia của các NHTM. Tùy theo mức độ phát triển của TTCK, mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp để đảm bảo cho thị trường ổn định và phát triển. 1.3.2. Uy tín, tiềm lực tài chính, quy mô và chất lượng hoạt động Trên TTCK, uy tín là một điều kiện cần thiết để ngân hàng có thể hoạt động hiệu quả. Nguyên tắc hoạt động trung gian của TTCK không cho phép khách hàng được thực hiện mua bán chứng khoán trực tiếp mà phải thông qua một trung gian tài chính hoạt động trên TTCK. Như vậy, khách hàng luôn phải tìm đựơc một người đại diện có uy tín để thực hiện đầu tư theo ý mình. Các ngân hàng có uy tín trên thị trường sẽ nhanh chóng thu hút được các nhà đầu tư có nguyện vọng được tư vấn đầu tư hay môi giới. Hơn thế nữa, khi ngân hàng có uy tín lớn thì họ có thể dễ dàng huy động vốn qua thị trường bằng cách phát hành chứng khoán. Song, uy tín của ngân hàng lại được quyết định bởi tiềm lực tài chính, quy mô và chất lượng hoạt động của ngân hàng. Để tham gia trên TTCK, NHTM cần phải có tiềm lực tài chính đủ lớn. Bởi lẽ khi tham gia trên TTCK, NHTM phải trang bị các cơ sở vật chất kỹ thuật, chi phí đào tạo, chi phí khác cũng như phải đáp ứng mức vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đối với các hoạt động trên thị trường. Hơn thế nữa hoạt động trên TTCK chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho các hoạt động, tạo niềm tin cho các khách hàng và cổ đông vào khả năng quản lý và phát triển của ngân hàng, các NHTM phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản) là một trong các chỉ tiêu đánh giá khả năng tài chính đảm bảo an toàn cho các hoạt động của ngân hàng. Đây là tỷ lệ xác định mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu với tất cả các khoản nợ, phản ánh khả năng bù đắp các tổn thất của vốn chủ sở hữu đối với các cam kết hoàn trả của ngân hàng. Tuy nhiên, việc quy định tỷ lệ này có thể hạn chế việc mở rộng quy mô của ngân hàng. Quy mô hoạt động của ngân hàng cũng là một yếu tố cần được cân nhắc. Các khách hàng dễ có niềm tin với các ngân hàng lớn hơn là các ngân hàng nhỏ. Tuy nhiên, khi quy mô hoạt động của ngân hàng là quá lớn, mức độ gánh chịu các rủi ro cũng rất lớn, trong khi đó các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ thì khả năng cạnh tranh thấp. Như vậy là các ngân hàng phải có sự lựa chọn quy mô hoạt động thích hợp với từng giai đoạn cụ thể sao cho có thể phát huy tối đa những điểm mạnh. Chất lượng và hiệu quả hoạt động là một nhân tố quan trọng tạo nên uy tín cho NHTM. Nếu chất lượng hoạt động không tốt như tỷ lệ nợ quá hạn cao, hiệu suất hoạt động và khả năng thu hồi vốn thấp thì tiềm lực tài chính và uy tín của ngân hàng nhanh chóng giảm sút. Vì vậy, để đảm bảo uy tín, các NHTM không phải chỉ có vốn lớn mà còn phải đảm bảo chất lượng hoạt động tốt thông qua các chỉ tiêu tài chính đáp ứng theo yêu cầu. Như vậy, để có thể tham gia và hoạt động hiệu quả trên TTCK, các NHTM phải có uy tín mà thể hiện qua tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động và chất lượng kinh doanh. 1.3.3. Công nghệ ngân hàng Nếu như tiềm lực tài chính và chất lượng hoạt động của một NHTM là điều kiện quyết định đến sự tham gia của ngân hàng đó trên TTCK thì trình độ công nghệ lại là cơ sở để thực hiện các hoạt động đó. Để cung cấp các dịch vụ chứng khoán cho khách hàng trong điều kiện hiện nay, các NHTM phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, hệ thống thông tin, xử lý thông tin, hệ thống thanh toán nhanh chóng- chính xác - kịp thời đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Điều này sẽ đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng như các hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ. 1.3.4. Trình độ nhân sự Ngoài các điều kiện trên, để có thể tiến hành các hoạt động trên TTCK, NHTM cần phải đảm bảo điều kiện về nhân sự. Có hai loại nhân sự cần thiết hỗ trợ cho các hoạt động của NHTM trên TTCK là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ nghiệp vụ. Đối với hoạt động phát hành và đầu tư chứng khoán, để có thể thu hút vốn từ những nhà đầu tư trên thị trường, một trong những điều kiện cần phải có các nhà quản lý của ngân hàng phải thể hiện được khả năng quản trị điều hành để có thể sử dụng vốn của các cổ đông một cách hiệu quả. Muốn vậy, Ban giám đốc điều hành và Hội đồng quản trị của ngân hàng phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý. Đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng trên TTCK, đội ngũ nhân viên phải có kiến thức, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực để có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ cần thiết và giúp khách hàng đưa ra các quyết định đúng đắn và hiệu quả nhất. Hầu như các nước trên thế giới đều yêu cầu nhân viên phải có giấy phép hành nghề. Những người có chức danh quản lý còn phải có giấy phép đại diện. Qua phân tích chương một cho thấy các NHTM có vai trò rất quan trọng trong phát triển TTCK. Hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam như thế nào, các NHTM Việt Nam đã thực hiện được vai trò quan trọng trên TTCK hay chưa, xin được trình bày tiếp chương hai về thực trạng hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam. Chương 2 Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1. Sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam Nhận thức đúng về vai trò thị trường chứng khoán trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế nói chung và việc hoàn thiện thị trường tài chính nói riêng, việc thiết lập và phát triển TTCK đã được đặt ra ngay từ đầu thập niên cuối thế kỷ XX. Sự ra đời của TTCK Việt Nam với việc khai trương và chính thức hoạt động TTGDCK TPHCM vào ngày 20/7/2000 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển thị trường tài chính Việt Nam, tạo ra một kênh mới thu hút và phân bổ các nguồn vốn trung dài hạn cho công cuộc phát triển kinh tế. Tham gia trên TTCK Việt Nam có các chủ thể: UBCKNN, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, các CTCK, các tổ chức phát hành chứng khoán, các nhà đầu tư chứng khoán, các tổ chức phụ trợ khác. TTCK mặc dù chưa phát triển như mong muốn, song hơn 3 năm hoạt động đã đạt được kết quả tương đối, bước đầu tạo điều kiện cho sự phát triển sau này. Cho đến ngày 20/12/2003, TTGDCK đã tổ chức được 692 phiên giao dịch chứng khoán liên tục, an toàn với tổng giá trị chứng khoán giao dịch đạt 5189 tỷ đồng. Qua TTCK, đã huy động được một khối lượng vốn cho Nhà nước thông qua bảo lãnh phát hành, đấu thầu trên 100 loại trái phiếu chính phủ và niêm yết trên TTGDCK với khối lượng trên 11000 tỷ đồng. Đã có 23 công ty cổ phần niêm yết trên TTCK với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1120 tỷ đồng; trong đó có 5 công ty phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn với tổng giá trị 155 tỷ đồng. Tổng giá trị chứng khoán niêm yết trên tính theo mệnh giá là 12.397 tỷ đồng. Đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK bao gồm 13 CTCK, 1 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 573.75 tỷ đồng; các tổ chức lưu ký, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán đã hình thành. Các trung gian tài chính đã làm tốt vai trò môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư; thực hiện tốt việc thanh toán, bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường. Công chúng đã dần làm quen với một phương thức đầu tư mới với khoảng trên 20000 tài khoản giao dịch, trong đó có 152 nhà đầu tư có tổ chức và 85 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của TTCK Việt Nam. Hoạt động quản lý, vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Trong năm 2003, UBCKNN đã kết hợp với Bộ Tài chính để ban hành các quy định mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm tác động vào thị trường như tăng số lần khớp lệnh, giảm lô giao dịch, bổ sung thêm lệnh ATO giao dịch tại mức giá khớp lệnh, hạ tỷ lệ ký quỹ giao dịch, cho phép sửa lệnh, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn mở tài khoản lưu ký chứng khoán. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng đã tăng cường thực hiện việc kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết nhằm ổn định hoạt động của TTCK. Mặc dù đạt được một số kết quả như trên TTCK Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế: Quy mô thị trường còn nhỏ bé, tổng giá trị chứng khoán niêm yết mới chỉ chiếm 1.9% GDP, chưa đáp ứng nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu quả đối với trái phiếu, đặc biệt là Trái phiếu Chính phủ. Hàng hóa trên TTCK tuy đã tăng về số lượng nhưng chưa nhiều, chưa đa dạng về chủng loại và chất lượng chưa cao. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự chủ động huy động vốn qua TTCK, mà trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước và vẫn chủ yếu tìm kiếm qua vay ngân hàng. Một số công ty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu Nhà nước còn khá cao do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp. Các công ty niêm yết cổ phiếu có quy mô không lớn và chưa phải là những doanh nghiệp hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Một số công ty sau khi niêm yết đã bộc lộ những yếu kém trong quản trị kinh doanh, đầu tư không có hiệu quả ảnh hưởng lòng tin của giới đầu tư. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hóa DNNN chưa gắn liền với với phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết trên TTCK. Về phía các nhà đầu tư, kiến thức và sự hiểu biết về hoạt động đầu tư còn hạn chế, họ chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài với lượng vốn lớn và dài hạn góp phần tăng tính ổn định, chuyên nghiệp cho thị trường chưa nhiều. Các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đến 99% là các nhà đầu tư cá nhân. Một bộ phận các nhà đầu tư đã suy giảm lòng tin và thoái lui do công tác công khai hóa thông tin thị trường nói chung và công ty niêm yết nói riêng còn chưa đáp ứng được mong đợi của họ. Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là sự tham gia của các NHTM trên TTCK còn hạn hẹp về quy mô, phạm vi và chưa đạt được hiệu quả cao mặc dù đây là những tổ chức có tiềm lực tài chính khá mạnh. Các NHTM chưa tham gia niêm yết chứng khoán nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường. Các NHTM cũng chưa đóng vai trò tích cực là các nhà đầu tư chuyên nghiệp và tạo lập thị trường. Các dịch vụ chứng khoán được ngân hàng thực hiện thông qua các CTCK nhằm định hướng và ổn định thị trường. Các CTCK chưa triển khai đầy đủ các nghiệp vụ luật cho phép, phần lớn chỉ tập trung chủ yếu tại 2 địa bàn Hà Nội và TPHCM. Nghiệp vụ thực hiện chủ yếu là môi giới, các nghiệp vụ khác như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư còn hạn chế. Hơn thế nữa, do quy mô nhỏ nên các công ty chưa thể sử dụng nghiệp vụ như một công cụ tăng tính thanh khoản cho giao dịch cổ phiếu niêm yết. Việc quản lý và giám sát thị trường còn nhiều bất cập do sự thiếu chủ động và kinh nghiệm. Đặc biệt là hệ thống pháp lý về TTCK còn thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý chưa cao. 2.2. hoạt động của các NHTM trên ttck việt nam 2.2.1. Khái quát về các NHTM Việt Nam Từ khi thành lập đến cuối những năm cuối thập kỷ 80, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Từ tháng 6/1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mô hình ngân hàng dần được hình thành, thay thế cho mô hình ngân hàng một cấp trước kia. Tháng 5 năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ( pháp lệnh NHNN; pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng) ra đời, được đánh giá là những văn bản pháp quy khá toàn diện, góp phần khẳng định thêm mô hình ngân hàng hai cấp với NHNN đóng vai trò Ngân hàng Trung ương, nằm trong cơ cấu chính phủ; các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Đánh giá chung về hoạt động của các NHTM Việt Nam, Bộ chính trị đã có nhận định “Từ khi chuyển sang chuyên doanh, các NHTM đã huy động một khối lượng vốn đáng kể thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế ”. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã tác động mạnh tới các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các NHTM cổ phần, có nguy cơ de dọa tới tính an toàn của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để tiếp tục cải cách các NHTM ngày 12/12/1997, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật các tổ chức tín dụng đánh dấu một giai đoạn phát triển mới và tạo điều kiện cải cách mạnh mẽ các NHTM Việt Nam. Mục tiêu của củng cố và phát triển các NHTM Việt Nam là xây dựng một hệ thống ngân hàng vững mạnh, tăng cường huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế, thực hiện cơ chế an toàn trong hoạt động, cải tiến quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM, phát triển các dịch vụ theo hướng ngân hàng đa năng. Việc triển khai thực hiện Luật các tổ chức tín dụng và cải cách NHTM theo hướng đa năng đã tạo điều kiện nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng. Tính đến nay, các NHTM Việt Nam gồm 6 NHTMNN; 36 NHTMCP trong đó có 24 NHTMCP đô thị và 12 NHTMCP nông thôn. Như vậy, các NHTM Việt Nam đã có những bước phát triển về số lượng, loại hình và khung pháp lý cho hoạt động. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn còn chưa hoàn thiện. Những hạn chế này sẽ được phân tích ở phần sau. 2.2.2. Hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam 2.2.2.1. Hoạt động phát hành chứng khoán Trong thời gian qua, một số các NHTM đã phát hành trái phiếu khá thành công, tiêu biểu là NHĐT&PTVN, NHNTVN. Các trái phiếu có thời hạn chủ yếu từ 2 đến 7 năm, huy động tiền đồng Việt Nam hoặc Đô la Mỹ, có lãi suất cố định hoặc thả nổi, với các hình thức trái phiếu vô danh, ghi danh và trái phiếu ghi sổ. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có NHĐT&PTVN là đã phát hành trái phiếu dài hạn ra công chúng và đăng ký lại trái phiếu để niêm yết trên TTGDCK với tổng giá trị đăng ký là 1069 tỷ đồng. Thực tế mới niêm yết 157.7 tỷ Việt Nam đồng trái phiếu vô danh. Trái phiếu của NHĐT&PTVN có lãi suất thả nổi tương đối hấp dẫn và được người đầu tư cá thể nắm giữ rộng rãi nên giao dịch thường xuyên hơn trái phiếu Chính phủ. Song số lượng giao dịch cũng rất hạn chế. Để tăng tính hấp dẫn cho các trái phiếu, ngân hàng đã cung cấp các tiện ích cho khách hàng như cho phép sử dụng trái phiếu để cầm cố để vay vốn tại NHĐT&PTVN với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay cùng loại tối đa đến 0.5% và khách hàng được vay tới 90% giá trị trái phiếu cầm cố. Khách hàng cũng có thể sử dụng trái phiếu này để làm đảm bảo mở tài khoản sử dụng thẻ tín dụng, thẻ rút tiền tự động qua máy ATM, được sử dụng thay cho tiền ký quỹ trong thanh toán quốc tế... NHNTVN cũng đã thực hiện đợt phát hành trái phiếu ngoại tệ đầu tiên từ 24/9/2001 đến ngày 23/11/2001. Đây là trái phiếu có lãi suất thả nổi với thời hạn 5 năm và được phát hành theo cả 3 phương thức là trái phiếu đích danh, trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi sổ. Từ ngày 15/9/2003, NHNN&PTNTVN phát hành 3000 tỷ đồng Trái phiếu, với kỳ hạn 2-5 năm. NHCT, NHĐT&PTVN ..đang tiếp tục thực hiện phát hành trái phiếu của mình để tăng quy mô vốn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Theo luật định, các NHTM cổ phần có thể phát hành cổ phiếu lần đầu để thành lập và phát hành các lần tiếp theo để tăng vốn theo yêu cầu của NHNN hoặc do nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, vốn góp của các NHTM cổ phần chủ yếu là hùn vốn của các NHTM Nhà nước, của các tổng công ty Nhà nước và một số cổ đông lớn. Tất cả các NHTM cổ phần mới chỉ thực hiện phương thức phát hành riêng lẻ. Chưa có một loại cổ phiếu nào của các NHTM được niêm yết trên thị trường tập trung và cũng chưa có ngân hàng nào tổ chức phát hành cổ phiếu ra công chúng. Như vậy có thể thấy, hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM còn chưa nhiều. Điều này là do những nguyên nhân xuất phát từ chính các NHTM cũng như từ phía các cơ quan quản lý, sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Thứ nhất là sự yếu kém của các NHTM. Các NHTM có quy mô vốn nhỏ, chất lượng kinh doanh còn thấp khi phát hành chứng khoán, tính thanh khoản trên thị trường rất thấp. Hơn nữa, do sợ bị chia sẻ hoặc bị quyền kiểm soát, các ngân hàng không muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn. Thứ hai là do thủ tục quá chặt chẽ khi NHTM phát hành chứng khoán để niêm yết trên TTCK. Các NHTM muốn phát hành chứng khoán trên TTCK phải chịu được sự đồng ý của cả NHNN và UBCKNN, mà trên thực tế quan điểm của hai cơ quan này vẫn còn nhiều sự khác nhau. Vì vậy, các NHTM vẫn tập trung huy động vốn ngắn hạn qua phát hành kỳ phiếu và các loại chứng chỉ tiền gửi. Thứ ba, do thị trường tài chính chưa phát triển làm cho các tổ chức phát hành không xác định được yếu tố chi phí vốn và khả năng phát hành thành công sẽ không cao. Các nhân tố này ảnh hưởng không nhỏ, hạn chế khả năng phát hành trái phiếu của các NHTM. Nâng cao năng lực tài chính, mà chủ yếu tăng vốn chủ sở hữu, đó là nội dung cơ bản để cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam trước xu thế hội nhập. Theo dự kiến của NHNN Việt Nam, cả 5 NHTM quốc doanh sẽ được cổ phần hóa và niêm yết trên TTCK. Trước mắt, trong năm tới, sẽ tiến hành cổ phần hóa đối với NHNTVN và Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long. Tuy nhiên, những quy định cụ thể vẫn còn phải chờ như Nhà nước nắm giữ bao nhiêu cổ phần sau khi cổ phần hóa, cổ phiếu bán cho đối tượng nào, thậm chí đã có những vấn đề rất mới như phát hành trái phiếu chuyển đổi thành một số cổ phiếu sau một thời gian nắm giữ. Cũng trong thời gian sắp tới, hai NHTMCP là ACB và Sacombank sẽ là những ngân hàng đầu tiên tiến hành niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Điều này sẽ là những tiền đề góp phần cho sự phát triển của các NHTM nói riêng và TTCK nói chung. 2.2.2.2. Hoạt động đầu tư chứng khoán Hoạt động đầu tư chứng khoán được xem là hoạt động quan trọng của các NHTM. Với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM cũng là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả thị trường. Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán trực tiếp hoặc thông qua hoạt động tự doanh của các CTCK thuộc ngân hàng. Cho tới nay, chưa có một NHTM nào có chiến lược cụ thể đối với hoạt động đầu tư chứng khoán. Điều này được thể hiện qua danh mục đầu tư. Các NHTM là thành viên quan trọng của thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Thị trường đấu thầu Tín phiếu Kho bạc qua NHNN được đưa vào hoạt động từ năm 1994. Đây là một kênh huy động vốn rất quan trọng để đáp ứng kịp thời vốn cho Ngân sách Nhà nước nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Theo đó, tạo tiền đề cho phát triển TTCK. Đến nay, thị trường đấu thầu Tín phiếu Kho bạc có 44 thành viên trong đó có 6 NHTM Nhà nước; 16 NHTM cổ phần. Trong năm 2002, NHNN đã tổ chức được 58 phiên đấu thầu Tín phiếu Kho bạc, tổng khối lượng trúng thầu Tín phiếu kho bạc đạt 7245 tỷ đồng trong đó thành viên tham gia chủ yếu vẫn là các NHTMNN, chiếm đến 97,2% tổng lượng trúng thầu. Đối với các NHTM việc đầu tư vào Tín phiếu Kho bạc không chỉ là một hình thức đầu tư đơn thuần mà còn là một hình thức dự phòng đảm bảo khả năng thanh khoản. Các NHTM tham gia đại lý phát hành Trái phiếu Chính phủ và là thành viên của thị trường đấu thầu Trái phiếu Chính phủ. Trung tâm giao dịch chứng khoán là đầu mối phát hành Trái phiếu Chính phủ thông qua hoạt động đấu thầu. Tính đến cuối năm 2003, Trung tâm đã tổ chức được 75 phiên với tổng khối lượng phát hành được là 3588 tỷ đồng. Tuy nhiên thành viên tham gia chủ yếu là các NHTMNN, các CTCK, NHTMCP. Các NHTM còn đầu tư vào trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị tuy nhiên hầu như mới chỉ có một số NHTMNN là thực hiện còn các NHTM khác vẫn đứng ngoài cuộc. Đợt phát hành trái phiếu đô thị của TPHCM bắt đầu thực hiện từ đầu tháng 9/2003 với tổng mệnh giá là 1200 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 9%/ năm. Trong số đó, NHNTVN và NHĐT&PTVN đã đăng ký mua 950 tỷ đồng, số còn lại 250 tỷ đồng do CTCK VCBS bảo lãnh phát hành cũng đã được khách hàng đăng ký mua hết. Thực hiện Luật các tổ chức tín dụng và chủ trương của Chính phủ, các NHTMNN đã tham gia đầu tư vào cổ phiếu các doanh nghiệp, trong đó, khoảng 70% là đầu tư vào cổ phiếu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên danh mục đầu tư của các NHTM chưa đa dạng và quy mô đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng. Một phần là do các NHTM còn tập trung ở các thị trường truyền thống, chưa chủ động tìm kiếm và đầu tư sang các lĩnh vực khác, mặt khác, tính tự chủ của các NHTM còn chưa cao do sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài hoạt động đầu tư chứng khoán trực tiếp, các NHTM có thể thực hiện hoạt động này thông qua nghiệp vụ tự doanh của các CTCK thuộc ngân hàng. Theo nghị định 144/NĐ-CP, số vốn pháp định tối thiểu để các CTCK có thể hoạt động tự doanh là 12 tỷ đồng, đây là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo hoạt động tự doanh của công ty. Hiện nay, cả 6 công ty chứng khoán của các NHTM đều được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này. Các CTCK mua chứng khoán niêm yết và chứng khoán không niêm yết. Tuy nhiên do hạn chế về vốn, lượng chứng khoán còn hạn chế nên lượng chứng khoán do các CTCK nắm giữ không nhiều. Các CTCK chia hoạt động tự doanh làm hai mảng: tự doanh trái phiếu và tự doanh cổ phiếu. Hoạt động tự doanh phổ biến của các CTCK hiện nay là mua chứng khoán niêm yết lô lẻ dựa trên cơ sở thỏa thuận về giá cả, sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để bán lại trên thị trường. Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các CTCK thuộc ngân hàng. Vào quý I/2001, tổng giá trị tự doanh CTCK ACBS đạt doanh thu trên 5 tỷ. Đến quý II/2001, tổng giá trị tự doanh của các CTCK giảm mạnh còn 50% so với quý I, chỉ có VCBS là tăng nhẹ. Sang đến quý III, quý IV chỉ tiêu này có tăng, tuy nhiên tổng giá trị tự doanh của các CTCK năm 2001 là trên 80 tỷ đồng so với lượng phí thu được từ hoạt động môi giới là trên 90 nghìn tỷ thì con số này chưa thực sự thuyết phục trong khi các CTCK đăng ký nghiệp vụ này đều có tiềm lực vốn khá lớn ( ít nhất là 20 tỷ đồng). Trong quý II/2002, nghiệp vụ tự doanh tiếp tục tăng ở các công ty như ARSC, ACBS với tổng giá trị tự doanh của các công ty tăng gấp 2 lần so với quý trước. Đến quý III và quý IV, tuy giá trị tự doanh ở các công ty đều giảm, thậm chí ở ARSC qua cả hai quý đều không có một hoạt động giao dịch tự doanh nào nhưng tổng giá trị giao dịch toàn thị trường vẫn tăng gấp 3 lần so với quý II là do nghiệp vụ này được VCBS khai thác mạnh với giá trị 91 tỷ trong quý III và đặc biệt tháng 11 thì tới 90% giá trị toàn thị trường là hoạt động tự doanh trái phiếu của công ty này. Trong năm 2003, một số thành viên VCBS, BSC, ARSC, IBS đã khai thác tối đa vốn điều lệ của mình cộng với sự hỗ trợ của ngân hàng mẹ, thực hiện hoạt động tự doanh mua lại trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng và đã thực hiện bán lại trên thị trường thứ cấp. Trong khi đó, hoạt động tự doanh cổ phiếu chưa thực sự tương xứng với quy mô và tầm hoạt động của các CTCK của NHTM. Nhìn chung, do đánh giá, nhận định và chiến lược kinh doanh của từng công ty là khác nhau nên mức độ và chủng loại chứng khoán được đầu tư giữa các công ty cũng khác nhau. Hoạt động tự doanh của các công ty chủ yếu tập trung vào mua bán lô lẻ, mua bán chứng khoán niêm yết. BSC, IBS đã tập trung phần lớn trong tổng giá trị vốn tự doanh cuả mình vào trái phiếu NHĐT&PTVN và Trái phiếu Chính phủ. Còn ACBS đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết nhưng chủ yếu là đầu tư chứng khoán dài hạn, trong khi VCBS đầu tư chủ yếu vào Trái phiếu Chính phủ. Việc các CTCK thuộc NHTM tích cực tham gia vào thị trường bằng nghiệp vụ tự doanh đã góp phần tăng sức cầu đáng kể cho thị trường nhất là trong giai đoạn thị trường giảm sức cầu. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh của các CTCK tập trung chủ yếu vào đầu tư trái phiếu đã được niêm yết. Đây là loại chứng khoán có độ an toàn cao. Trên thực tế, chỉ một số ít công ty tiến hành đầu tư vào một vài loại cổ phiếu mang tính thí điểm, thực hiện mua cổ phiếu lô lẻ và bán lại cho thị trường. Do vậy, tổng thu từ nghiệp vụ này còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu của các CTCK. 2.2.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Khi các doanh nghiệp có nhu cầu vốn, họ có thể tìm cách phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp có thể tự đảm nhiệm việc phân phối chứng khoán. Tuy nhiên, trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề, mà một trong các rủi ro là doanh nghiệp không huy động đủ vốn, đáp ứng yêu cầu kinh doanh. Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp phải thực hiện phát hành qua hình thức bảo lãnh hoặc đại lý. Bảo lãnh phát hành là điều bắt buộc đối với một đợt phát hành ra công chúng nếu tổng giá trị cổ phiếu phát hành theo mệnh giá lớn hơn 10 tỷ đồng. Theo nghị định 144/2003/NĐ-CP, để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chứng khoán thì tổ chức bảo lãnh phải đáp ứng các điều kiện: Có giấy phép hoạt động bảo lãnh. Tổ chức bảo lãnh không có liên quan tới tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không được bảo lãnh phát hành một số lượng chứng khoán có giá trị lớn hơn 30% vốn tự có. Vốn pháp định cho hoạt động này là 22 tỷ đồng. Nhu cầu vốn của Chính Phủ, các doanh nghiệp, các Quỹ hỗ trợ phát triển và các trung gian tài chính Việt Nam rất lớn, mở ra một tiềm năng lớn cho các NHTM thực hiện nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, việc các NHTM đứng ra bảo lãnh chứng khoán chưa được phát triển. Thực tế này một mặt do nhu cầu bảo lãnh phát hành của các công ty niêm yết trên TTGDCK chưa có. Mặt khác, có thể thấy ngay chính các CTCK, NHTM cũng còn dè dặt trước lĩnh vực này. Trong năm 2001, chỉ có IBS là có doanh thu từ hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành. Ngân hàng Công thương đã bước đầu thành công trong nghiệp vụ đại lý phát hành chứng khoán thông qua 2 đợt phát hành trái phiếu của công ty tài chính Việt Nam (VIFC) với tổng giá trị đạt 20 tỷ đồng. Tháng 10 năm 2001, IBS đại lý phát hành cổ phiếu cho NHTM cổ phần Kỹ thương với tổng mệnh giá lên tới 60 tỷ đồng, trong đó có 30 tỷ đồng cổ phiếu được phát hành ra công chúng. Năm 2002, chưa có CTCK nào thuộc ngân hàng thực hiện bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Công ty VCBS thực hiện bảo lãnh 6 đợt phát hành Trái phiếu Chính Phủ qua Quỹ hỗ trợ phát triển. Một số CTCK khác như ARSC, ACBS và VCBS đã làm đại lý phát hành kỳ phiếu của một số tổ chức tín dụng như Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long, NHNN&PTNTVN hoặc đại lý phát hành cổ phiếu công ty cổ phần bảo hiểm Nhà rồng. Trong năm 2003, các công ty VCBS, ARSC, IBS đã thực hiện tham gia bảo lãnh và đại lý phát hành hàng ngàn tỷ đồng Trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị. Các CTCK BSC, ARSC, VCBS đã tham gia và đạt kết quả cao trong đấu thầu Trái phiếu Chính phủ qua TTGDCK TPHCM...Ngoài ra, các công ty còn ký tiếp các hợp đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu cho Quỹ hỗ trợ phát triển Việt Nam. Một loại trái phiếu doanh nghiệp do tổng công ty dầu khí Việt Nam phát hành, đợt đầu từ tháng 9/2003 với tổng mệnh giá 300 tỷ đồng để huy động vốn cho các dự án dầu khí, thời hạn 5 năm, lãi suất năm đầu tiên là 8,7%/ năm, do NHĐT&PTVN bảo lãnh phát hành và NHCTVN bảo lãnh thanh toán. Đối với cổ phiếu, lần đầu tiên, VCBS đã thực hiện bảo lãnh phát hành theo phương thức cam kết chắc chắn cho một công ty cổ phần với tổng giá trị bảo lãnh gần 6 tỷ đồng vào cuối năm 2003. Hiện nay, theo chủ trương cải cách hệ thống các NHTM của Chính Phủ, để tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động, các NHTM sẽ phát hành cổ phiếu để nâng vốn chủ sở hữu, đồng thời các ngân hàng sẽ tăng cường phát hành trái phiếu để huy động vốn trung và dài hạn. Các Tổng công ty cũng đang trong quá trình cổ phần hóa và sẽ phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn. Đây là cơ hội để các NHTM phát triển nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Thực tế cho thấy, các NHTM đang cạnh tranh rất mạnh mẽ trong việc phát hành trái phiếu, cạnh tranh đứng ra làm đại lý phát hành và bảo lãnh thanh toán trái phiếu đô thị, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình và trái phiếu của các Tổng công ty. Xu thế cạnh tranh đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam. 2.2.2.4. Hoạt động tư vấn chứng khoán Hoạt động tư vấn đã bắt đầu được sự quan tâm phát triển tại các NHTM. Tuy nhiên, các hoạt động này còn đơn điệu, chưa có chiến lược phát triển rõ ràng. Hình thức tư vấn còn đơn giản, thông tin còn nghèo nàn và chất lượng chưa cao, chủ yếu qua các tạp chí, chuyên san hoặc các Website. Một số các NHTM đã thực hiện tư vấn cổ phần hóa, tư vấn tài chính doanh nghiệp. Các CTCK của ngân hàng đều tổ chức tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng thông qua việc phát các bản phân tích đánh giá về thị trường và hoạt động của các công ty niêm yết. Đa số các công ty như BSC ,VCBS ...đã có trang Web cập nhật các thường xuyên các thông tin để các nhà đầu tư có thể tham khảo. Trước tình hình hoạt động giao dịch kém sôi động, một số thành viên đã chuyển sang thực hiện hoạt động tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết... Tuy nhiên, thành công lớn nhất trong năm 2003 là hoạt động tư vấn và tổ chức bán cổ phần lần đầu cho các DNNN cổ phần hóa sau khi Nghị định 64/NĐ-CP về cổ phần hóa DNNN được ban hành thay thế Nghị định 44/NĐ-CP. Các CTCK đã tổ chức tư vấn và tổ chức cổ phần bán lần đầu cho hơn 50 DNNN cổ phần hóa. Cho tới nay, hoạt động tư vấn chứng khoán được hầu hết các CTCK chú trọng bởi vì đây được xem là nghiệp vụ quan trọng và chủ yếu đối với các công ty này. Các công ty đã và đang triển khai hoạt động tư vấn miễn phí cho các nhà đầu tư. Hoạt động này nhằm tạo lòng tin, thu hút khách hàng, hơn thế nữa giúp nhân viên của các công ty nâng cao nghiệp vụ, định hướng đầu tư cho khách hàng. Các CTCK đã tiến hành hoạt động này qua khá nhiều hình thức phong phú và đa dạng như đã đưa ra bản tin chứng khoán hàng tuần cung cấp cho khách hàng và đưa lên trang Web thông tin về thị trường được khách hàng đánh giá cao. Cho đến nay, hầu hết các CTCK của các ngân hàng đã có bản tin cập nhật, phân tích, bình luận cho từng phiên giao dịch. Tuy nhiên, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty hiện nay vẫn được đánh giá là chưa đáp ứng được nhu cầu nhà đầu tư. 2.2.2.5. Hoạt động môi giới chứng khoán Hoạt động môi giới là một đặc quyền của các CTCK. Cả 7 CTCK thuộc ngân hàng đều có giấy phép thực hiện nghiệp vụ này, song hoạt động này mới ở giai đoạn còn đơn giản, tính chủ động chưa cao. Theo quy định tại điều 30 Nghị định 48/NĐ-CP và điều 66 Nghị định 144/NĐ-CP, một CTCK muốn cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán phải được UBCKNN cấp phép, vốn pháp định tối thiểu là 3 tỷ đồng. Hoạt động môi giới của các CTCK thuộc ngân hàng có kết quả như sau: Hoạt động mở tài khoản giao dịch chứng khoán Số lượng tài khoản mở tại các CTCK thuộc ngân hàng tăng mạnh qua các năm. Tính đến cuối năm 2003, số lượng tài khoản mở tại các CTCK của các NHTM chiếm tới 70% toàn bộ số lượng tài khoản khách hàng mở tại tất cả các CTCK. Trong năm 2003, trước tình hình hoạt động giao dịch giảm sút, các CTCK không ngừng nâng cao dịch vụ khách hàng và mở nhiều đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố do đó số lượng tài khoản tăng ở hầu hết các công ty. Trong đó, VCBS là CTCK có số lượng tài khoản tăng cao nhất trong năm nhờ việc phát triển công nghệ kinh doanh chứng khoán thông qua cung cấp dịch vụ đặt lệnh qua mạng Internet. Tuy nhiên, việc tăng số lượng các tài khoản không thể hiện mức độ hoạt động môi giới của các thành viên. Bảng sau đây sẽ thể hiện mức tăng trưởng số lượng tài khoản mở tại các CTCK qua các năm 2000- 2003: Bảng 2.1: Số lượng tài khoản giao dịch mở tại các CTCK từ năm 2000-2003 Đơn vị: Tài khoản CTCK Năm BSC TSC ACBS IBS ARSC VCBS Tổng Năm 2000 409 177 635 89 _ _ 1310 Năm 2001 1355 549 1725 263 88 _ 3980 Năm 2002 1990 572 2280 620 255 323 6040 Năm 2003 2322 689 2565 899 359 1207 8041 %thay đổi 2001/2000 231.3 210.17 171.65 195.51 # # 203.82 %thay đổi 2002/2001 46.86 4.19 32.17 135.74 189.77 # 51.76 %thay đổi 2003/2002 16.68 20.45 12.5 45 40.78 273.68 33.13 Nguồn: UBCKNN Về trình độ của các nhà môi giới Xuất phát từ đặc điểm của nghề môi giới đòi hỏi những người làm nghiệp vụ này phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Người môi giới phải có kỹ năng truyền đạt thông tin, tìm kiếm khách hàng và kỹ năng khai thác thông tin. Tuy nhiên, nghiệp vụ môi giới của các CTCK hiện nay chưa thực sự đúng với nghiệp vụ môi giới thường thấy trên TTCK thế giới. Các nhà môi giới Việt Nam chỉ chủ động chờ và bán hộ, mua hộ khi khách hàng có yêu cầu. Trình độ của các nhà môi giới còn hạn chế. Theo Nghị định 144, các nhà môi giới phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức, có trình độ chuyên môn. Yêu cầu về trình độ chuyên môn là tối thiểu phải có bằng trung học phổ thông và có đủ các chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán do UBCKNN cấp. Tuy nhiên, các yêu cầu này là chưa đủ đối với một nghề như nghề môi giới. Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã có Hiệp hội môi giới và kinh doanh chứng khoán nhưng tổ chức này chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Phí môi giới thu được của các CTCK trong năm 2002 giảm mạnh so với năm 2001. Theo số liệu thống kê của UBCKNN, lượng phí môi giới thu được trong năm 2002 của 6 CTCK này đạt hơn 3.2 tỷ đồng trong khi con số của 2001 là hơn 4.1 tỷ đồng. Nguyên nhân là năm 2001 các CTCK đồng loạt áp dụng mức phí môi giới là 0.5% trên tổng gá trị giao dịch nên tổng phí môi giới thu được khá cao. Kể từ tháng 4 năm 2002, để nâng cao sức cạnh tranh, các công ty đua nhau giảm phí. Do vậy, doanh thu từ phí môi giới của năm 2002 giảm rõ rệt. Điều này thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.2: Doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán của các CTCK Đơn vị: triệu đồng CTCK Năm BSC TSC ACBS IBS ARSC VCBS Tổng Năm 2001 1157 768 1388 811 7 0 4131 Năm 2002 673 386 1218 517 352 82 3228 % thay đổi -41.83 -49.74 -12.25 -36.25 4928.5 # -21.86 Nguồn:UBCKNN 2.2.2.6. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán còn chưa phát triển. Các CTCK của ngân hàng đều được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này. Song mới chỉ có IBS, TSC triển khai thực hiện và doanh thu từ hoạt động này còn khiêm tốn so với tiềm năng. Gần đây nhất là TSC đã ký hợp đồng quản lý danh mục đầu tư với NHTM cổ phần Quân đội. Tuy nhiên, việc triển khai không được tốt và mang tính tập dượt. Trong quý I/2003, không CTCK nào thực hiện có doanh thu từ hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Các công ty vẫn tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã ký kết nhưng gặp rất nhiều khó khăn do tình hình thị trường diễn biến không ổn định. Theo luật các tổ chức tín dụng, bản thân các NHTM cũng có thể thực hiện nghiệp vụ này. Tuy nhiên, cho đến nay, các ngân hàng chưa triển khai mạnh hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Tham gia quản lý quỹ đầu tư, hiện nay mới chỉ có NHTMCP Sacombank thực hiện thông qua liên doanh với công ty Dragon Capital quản lý quỹ VIETFUND. Hai đơn vị này có trách nhiệm đóng góp vốn vào quỹ đầu tư như đã cam kết, trong đó Sacombank góp 70% vốn pháp đinh của quỹ( 8 tỷ đồng). Quỹ này huy động khoảng 300 tỷ đồng để thực hiện việc đầu tư chứng khoán qua danh mục đa dạng nhằm giảm rủi ro và đem lại mức sinh lời cao cho các nhà đầu tư vào quỹ. 2.2.2.7. Các hoạt động khác Hoạt động lưu ký chứng khoán hiện nay do các thành viên lưu ký thực hiện. Đến nay, có 5 NHTM và các CTCK được cấp giấy phép thực hiện hoạt động này, trong đó có 2 NHTM Việt Nam là NHĐT& PTVN ; NHNTVN và 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài là ngân hàng Hồng Kông(HSBC), ngân hàng Deutsche Bank, Standard Chartered Bank. Sự tham gia của 5 NHTM làm thành viên lưu ký được xem là sự tham gia trực tiếp của các ngân hàng vào dịch vụ chứng khoán mà không cần thiết phải thành lập công ty con. Hoạt động lưu ký chứng khoán đã được các thành viên lưu ký và các CTCK tích cực triển khai ngay từ những ngày đầu được phép thực hiện. Mọi quy định của UBCKNN và của TTGDCK đều được thực hiện nghiêm túc. Nhìn chung, các thành viên luôn tìm cách thu hút khách hàng vào lưu ký tại công ty mình, song do ngày càng có nhiều thành viên được cấp giấy phép hoạt động nên đã diễn ra sự cạnh tranh giữa các thành viên. Có thành viên mới được cấp phép hoạt động đã khẳng định vị thế của mình trên thị trường như VCBS chiếm 5.09% thị phần. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức lưu ký còn thấp, các NHTM chưa quan tâm phát triển đến hoạt động này một cách đúng mức nên chưa có hoạt động tuyên truyền, vận động về lợi ích các dịch vụ quản lý, bảo quản và thanh toán chứng khoán. Thủ tục thanh toán, quản lý chứng khoán còn phức tạp và chưa thuận lợi, chưa tạo lòng tin của công chúng đầu tư. Ngân hàng chỉ định thanh toán NHĐT&PTVN được chỉ định là ngân hàng thanh toán vào ngày 26/11/1999. Việc phát triển hệ thống thanh toán và lưu ký đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các giao dịch của thị trường chính thức. NHĐT&PTVN đã xây dựng được cơ sở vật chất và công nghệ vững mạnh đáp ứng hiệu quả các yêu cầu phục vụ thanh toán của TTGDCK. Ngân hàng cũng cung ứng ngày càng nhiều dịch vụ liên quan đến hoạt động thanh toán của NHCĐTTCK như mở tài khoản cho các thành viên tham gia, thực hiện các lệnh thanh toán bù trừ, đối chiếu, kiểm soát, cho vay tạm thời... Bảng 2.3 : Một số chỉ tiêu hoạt động chính của NHCĐTTCK Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Số đơn vị mở tài khoản 13 18 20 27 Giá trị thanh toán bù trừ 38.509 396.465 452.182 838.655 Doanh số cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán 0 4500 6.178 57.659 Nguồn: NHĐT&PTVN Số đơn vị mở tài khoản tại NHCĐTTCK tính đến ngày 31/12/2003 là 27 đơn vị, bao gồm 12 CTCK, 01 Ngân hàng lưu ký và các thành viên đấu thầu Trái phiếu Chính phủ. Doanh số thanh toán bù trừ tiền mua bán chứng khoán tăng đều qua các năm. Tổng cộng 4 năm 2000-2003 đạt 1699 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2003 đạt 839 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 50%. Nghiệp vụ tín dụng Mặc dù hoạt động cho vay để mua chứng khoán không được khuyến khích song các NHTM đã triển khai dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán với tổng giá trị chứng khoán cầm cố tính đến tháng 10/2001 là 65 tỷ đồng. Tham gia hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ với tư cách là Ngân hàng giám sát Điều 76 Nghị định 144/NĐ-CP quy định rằng, các bên tham gia hoạt động quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư chứng khoán. Trong đó công ty quản lý quỹ có nhiệm vụ thực hiện việc quản lý QĐTCK, còn ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của QĐTCK và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Theo quy định tại điều 93 Nghị định 144/NĐ-CP, để được đảm nhận vai trò ngân hàng giám sát thì ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau: Phải được NHNN Việt Nam cấp giấy phép thành lập và hoạt động; được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán, là ngân hàng độc lập với công ty quản lý quỹ, không sở hữu bất kỳ tài sản nào của QĐTCK. Khi thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng có thể đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư vào các quỹ, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty quản lý quỹ. Đồng thời các ngân hàng có thể thu phí với tư cách là người tham gia thành lập công ty quản lý qũy hoặc với tư cách là người bảo quản tài sản ... Mới đây, NHNTVN đã thực hiện vai trò là Ngân hàng giám sát cho công ty quản lý quỹ VF1. 2.3. Đánh giá hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam 2.3.1. Kết quả đạt được Từ những phân tích trên cho thấy, các hoạt động của NHTM trên TTCK bước đầu đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Các NHTM đã tham gia gần như đầy đủ các loại hình hoạt động của thị trường. Cụ thể như sau: Thứ nhất, hoạt động phát hành chứng khoán: Các NHTM đã tạo lập được lượng hàng hóa quan trọng cho thị trường qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các chứng khoán này có chất lượng khá tốt và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Ngân hàng ĐT& PT Việt Nam đã niêm yết hai loại trái phiếu trên thị trường tập trung. Các NHTM cổ phần cũng đã phát hành khoảng 200 nghìn tỷ cổ phiếu để huy động vốn, thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đây chính là cơ sở để tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng, nâng cao năng lực tài chính nhằm cạnh tranh và đa dạng hóa được các hoạt động cuả các ngân hàng. Thứ hai, hoạt động đầu tư chứng khoán: các NHTM chính là những chủ thể quan trọng trong thị trường Trái phiếu Chính Phủ và Tín phiếu Kho bạc. Hoạt động này nhằm đáp ứng khả năng thanh khoản cho các ngân hàng. Hơn nữa, các ngân hàng còn đầu tư vào các cổ phiếu theo hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần. Bằng việc nắm giữ các chứng khoán, NHTM đã thực hiện đa dạng hóa tài sản và góp phần tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán, tạo hiệu quả cho hoạt động của TTCK. Thứ ba, hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành của NHTM đã hỗ trợ các tổ chức phát hành trong huy động vốn, từ đó, tăng một lượng hàng hóa đáng kể cho thị trường. Trong các đợt phát hành trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc NHTM là những thành viên đấu thầu chủ yếu và giúp Chính Phủ phân phối chứng khoán qua phương thức đại lý, bảo lãnh phát hành. Các NHTM cũng đã thực hiện đại lý phát hành cho các cổ phiếu của các công ty niêm yết trên TTCK. Thứ tư, hoạt động tư vấn, môi giới chứng khoán phát triển khá mạnh. Doanh thu của các CTCK thuộc ngân hàng từ hoạt động môi giới tăng qua các năm. Các CTCK cũng đã quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí cho các nhà đầu tư về các loại hàng hóa trên thị trường và tư vấn cho các công ty cổ phần dự kiến niêm yết trên TTGDCK, góp phần làm tăng tính chuyên nghiệp của hoạt động tư vấn, nâng cao kiến thức và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Thứ năm, hoạt động quản lý danh mục đầu tư đang dần được các NHTM hình thành và phát triển. Hiện có hai CTCK IBS, TSL thuộc ngân hàng là thực hiện nghiệp vụ này, tuy doanh thu đạt được chưa cao nhưng đây chính là sự tập dượt cho các bước phát triển sau này. Thứ sáu, các hoạt động khác cũng đã được triển khai khá tốt. Hoạt động lưu ký chứng khoán được thực hiện ở cả 6 CTCK của các ngân hàng và 5 NHTM. NHĐT&PTVN được chỉ định là ngân hàng thanh toán đã thực hiện khá tốt các hoạt động thanh toán đảm bảo cho các giao dịch của thị trường. NHNTVN đóng vai trò là ngân hàng giám sát của công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam ( VF1 ). Như vậy, các hoạt động của NHTM trên TTCK đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của TTCK cũng như của các NHTM thông qua sự đa dạng và mở rộng các hoạt động kinh doanh chứng khoán bên cạnh các hoạt động ngân hàng truyền thống. 2.3.2. Hạn chế - nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, hoạt động của các NHTM trên TTCK còn nhiều hạn hẹp về quy mô, khá đơn điệu về hình thức và thấp kém về hiệu quả. Thứ nhất, các NHTM trên TTCK mới chỉ thực hiện một số hoạt động như phát hành, đầu tư, tư vấn, đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, đối với những hoạt động này, các NHTM cũng mới chỉ thực hiện trên một phạm vi nhỏ. Các hoạt động khác như quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành cổ phiếu chưa được triển khai. Thứ hai, mặc dù là những trung gian tài chính có tiềm lực tài chính khá mạnh, song quy mô các hoạt động của các NHTM trên TTCK còn nhỏ, mới chỉ mang tính thử nghiệm, chưa tương xứng với tiềm năng. Thứ ba, chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán còn chưa cao. Các nghiệp vụ còn đơn giản, thiếu tính chuyên nghiệp. 2.3.2.2. Nguyên nhân Những hạn chế trên bắt nguồn từ các nguyên nhân sau: Thứ nhất, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ Luật doanh nghiệp Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, là cơ sở đầu tiên, đặt nền móng cho sự tham gia của các NHTM trên TTCK. Luật này sẽ điều tiết hoạt động kinh doanh và phát hành chứng khoán của các công ty cổ phần. Tại điều 51 của Luật quy định công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Các loại cổ phiếu mà các công ty cổ phần có thể phát hành là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi và các loại trái phiếu theo quy định của pháp luật và điều lệ ngân hàng. Cũng theo luật này, các công ty cổ phần có thể tham gia góp vốn, chuyển nhượng cổ phần, đại lý, bảo lãnh phát hành. Về hoạt động bảo lãnh, các tổ chức bảo lãnh có thể được hưởng chênh lệch giữa giá phát hành và giá thị trường ngoài hoa hồng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo điều 61c về chào bán và chuyển nhượng cổ phần quy định giá chào bán cổ phần đối với người bảo lãnh không được thấp hơn giá thị trường trừ đi phần hoa hồng dành cho bảo lãnh. Điều này có nghĩa là tổ chức bảo lãnh chỉ được hưởng hoa hồng bảo lãnh mà thôi. Luật các tổ chức tín dụng Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997. Theo luật này, các tổ chức tín dụng có thể được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được sự chấp thuận của NHNN (điều 46). Về hoạt động đầu tư, các tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật ( điều 69 ). Các hoạt động uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân theo hợp đồng, cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng về tài chính, tiền tệ. Các tổ chức tín dụng cũng được cung ứng dịch vụ bảo quản các giấy tờ có giá, cấp tín dụng và cầm cố, chiết khấu các giấy tờ có giá. Ngoài ra, Luật cũng cho phép các tổ chức tín dụng thành lập các công ty trực thuộc có tư cách pháp nhân bằng vốn chủ sở hữu để hoạt động trên một số lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm theo quy định của Chính phủ. Như vậy, rõ ràng là theo Luật các tổ chức tín dụng, nếu được Nhà nước cho phép các NHTM có thể tham gia tất cả các hoạt động kinh doanh chứng khoán trên TTCK. Tuy nhiên, do được ban hành khi TTCK Việt Nam chưa hình thành nên luật mới chỉ mang tính chung chung chứ chưa quy định, hướng dẫn cụ thể đối với các hoạt động của ngân hàng trên TTCK. Cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết của NHNN. Đặc biệt trong các quy định của luật các tổ chức tín dụng còn nhiều rào cản, hạn chế đối với hoạt động của NHTM trên TTCK. Cụ thể là: Hạn chế về mức vốn góp, mua cổ phần: Ngân hàng là định chế tài chính có tiểm lực kinh tế lớn nhất trong hệ thống tài chính Việt Nam nhờ có lợi thế về khả năng huy động vốn và đầu tư vốn với quy mô vốn lớn. Tuy nhiên do yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng bị hạn chế về mức vốn góp, mua cổ phần của các doanh nghiệp ( điều 80 ).Cụ thể là tổng các khoản hùn vốn của NHTMNN không lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu và tỷ lệ này đối với các NHTMCP là 20%. Quy định về chấp thuận: Các NHTM còn chịu quy định về mức vốn điều lệ theo quy định của Chính phủ và mọi sự thay đổi về mức vốn điều lệ của NHTM phải được sự chấp thuận trước văn bản của NHNN (điều 31). Ngoài ra, NHTM chỉ được phát hành các giấy tờ có giá để huy động khi được thống đốc NHNN cho phép ( điều46 ). Tất cả những quy định trực tiếp và gián tiếp dựng lên rào cản đối với sự tham gia của các NHTM trên TTCK, kể cả thị trường trái phiếu. Quy định về cổ đông, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTM cổ phần của Nhà nước và nhân dân ban hành kèm theo quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN là sự cụ thể hóa Luật doanh nghiệp trong hoạt động của NHTM cổ phần và là sự bổ sung cho Luật tín dụng để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, xét về góc độ tạo điều kiện cho NHTM cổ phần cung cấp hàng hóa ra thị trường thì các quy định ở văn bản này có những hạn chế. Đó là: Ràng buộc về cơ cấu cổ đông Quy định bắt buộc NHTMCP phải có cổ đông là doanh nghiệp Nhà nước hoặc công ty cổ phần (có vốn góp của doanh nghiệp Nhà nước trên 30% vốn điều lệ) tham gia. Đây là quy định nhằm phát triển NHTMCP phù hợp với định hướng của Nhà nước trong phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, quy định này hạn chế việc NHTM cổ phần huy động vốn chủ sở hữu từ khu vực tư nhân vì những ngân hàng chưa có vốn của Nhà nước thì chưa được tiếp tục tăng vốn. Ràng buộc về đối tượng cổ phần Quy định hiện hành chỉ cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài mua cổ phần của NHTM cổ phần khi có sự chấp thuận của NHNN và hiện nay mới chỉ dừng ở mức cho phép thí điểm, nhằm hạn chế sự chi phối của yếu tố nước ngoài vào nền kinh tế trong nước. Quy định về loại cổ phiếu Theo quy định này, NHTMCP chỉ được phép phát hành cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết chỉ do cổ đông sáng lập nắm giữ, chỉ có hiệu lực trong 3 năm kể từ ngày NHTMCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nghĩa là các NHTMCP chỉ còn một loại cổ phiếu duy nhất là cổ phiếu phổ thông. Giới hạn này đã hạn chế khả năng huy động vốn của các NHTMCP trên TTCK. Nghị định 48/1998/NĐ-CP và 144/2003/NĐ- CP Nghị định 48/NĐ-CP được chính phủ ban hành ngày 11/7/1998 về chứng khoán và TTCK. Trong 3 năm qua, hoạt động của TTCK được dựa trên cơ sở pháp lý là nghị định này. Tuy nhiên, nghị định này được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh TTCK Việt Nam chưa đi vào hoạt động, các quy định mang tính nguyên tắc cho vận hành của thị trường được xây dựng chủ yếu dựa trên khung pháp luật kinh tế của Việt Nam vào thời điểm ban hành ( nghị định xây dựng theo Luật công ty cũ, nay đã được thay thế bằng Luật doanh nghiệp) và tham khảo pháp luật về TTCK của các nước trên thế giới, đặc biệt là thị trường mới nổi của các quốc gia trong khu vực, chưa có cơ sở thực tiễn nên trong quá trình vận dụng còn nhiều quy định tỏ ra thiếu tính khả thi. Ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/CP thay thế Nghị định 48/ CP. So với NĐ 48, NĐ144 đã có những đổi mới hơn. Trước hết là việc tách riêng việc phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Khi tách biệt hai loại hoạt động nghiệp vụ này, các quy định về phát hành chứng khoán ra công chúng có điều kiện nới lỏng hơn nhằm khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia phát hành. Yêu cầu về vốn điều lệ để doanh nghiệp thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đã giảm từ 10 tỷ xuống còn 5 tỷ đồng và doanh nghiệp chỉ cần hoạt động có lãi ở năm liền trước năm phát hành thay vì 2 năm trong NĐ 48/CP. Thứ hai là những thay đổi trong quy định liên quan đến bảo lãnh phát hành. Tại NĐ này đã khuyến khích sự tham gia bảo lãnh của các tổ chức tài chính khác ngoài CTCK. Hơn nữa, phương thức bảo lãnh cũng đã được sửa đổi để phù hợp với thực tế. Theo NĐ 48 thì tổ chức bảo lãnh chỉ được thực hiện theo phương thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Điều này sẽ hạn chế hoạt động bảo lãnh của các CTCK bởi lẽ số vốn nhỏ. Theo NĐ mới thì đơn vị bảo lãnh phát hành có thể lựa chọn cho mình hình thức bảo lãnh phù hợp. Tuy nhiên theo NĐ 144 thì quy định tổ chức bảo lãnh phát hành chỉ được bảo lãnh cho đợt phát hành không vượt quá 30% vốn tự có sẽ tiếp tục tạo ra những “ khoảng trống ” đối với hoạt động này. Thời gian gần đây, tuy một số các CTCK đã thực hiện việc tăng vốn điều lệ nhưng vẫn rất khó khăn khi muốn tham gia bảo lãnh cho các đợt phát hành lớn. Trong điều kiện các công ty chứng khoán chưa có thói quen liên kết để thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành thì thị trường bảo lãnh phát hành cho các đợt phát hành lớn vẫn bị bỏ ngỏ. Ngoài ra, theo Nghị định 144 còn có nhiều điểm mới về công bố thông tin, giao dịch chứng khoán và các quy định liên quan đến quỹ đầu tư. Nói chung, NĐ 144 đã khắc phục được nhiều nhược điểm của NĐ 48 nên hứa hẹn hiệu lực thực thi cao. Tuy nhiên, để hoàn thiện đầy đủ thì vẫn còn nhiều nội dung phải được cụ thể hóa trong các thông tư hướng dẫn. Theo các Nghị định này, các NHTM không được phép thực hiện trực tiếp các hoạt động kinh doanh chứng khoán mà phải thành lập các CTCK độc lập để cung cấp các dịch vụ này. Điều này là hoàn toàn phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của thị trường tài chính Việt Nam và khả năng quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, việc thành lập các CTCK của NHTM cũng đã được NHNN điều chỉnh bằng việc ban hành thông tư số 04/1999/TT-NHNN5 ngày 02/11/1999 “Hướng dẫn về việc thành lập CTCK của NH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx_DCQ32984.docx
Tài liệu liên quan