Đề tài Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020

Tài liệu Đề tài Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm 96% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào Tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong quá trình vận hành, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo ra một đội ngũ doanh nhân và công nhân, với kiến thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu mới trong cạnh tranh. Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Trong thời gian qua, với việc ra đời hàng loạt các Luật, Nghị định, Văn bản hướng dẫn… đặc biệt là Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 đã có tác động tích cực đến việc phát triển doanh n...

doc76 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 942 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm 96% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào Tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong quá trình vận hành, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo ra một đội ngũ doanh nhân và công nhân, với kiến thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu mới trong cạnh tranh. Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Trong thời gian qua, với việc ra đời hàng loạt các Luật, Nghị định, Văn bản hướng dẫn… đặc biệt là Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 đã có tác động tích cực đến việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải không ít những khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghệ còn yếu, khó khăn trong việc gia nhập thị trường, phân biệt đối xử, cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài khi sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Đặc biệt là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho các DNNVV càng gặp nhiều bất lợi trong hoạt động sản xuất. Yêu cầu đặt ra là cần phải có một cơ chế chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam phát triển, vượt qua khủng hoảng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, em chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020”. Thực hiện đề tài nhằm thúc đẩy việc trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam một cách đồng bộ, thích ứng với xu thế hội nhập giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Mục đích và nội dung nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước trên thế giới, qua đó đề xuất một số giải pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn tới. Nội dụng của nghiên cứu như sau: - Thứ nhất, tham khảo khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa của các quốc gia trên thế giới, qua đó tìm ra tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với Việt Nam. Tìm hiểu vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Phân tích kinh nghiệm hỗ trợ phát triển doanh nghiêp nhỏ và vừa trên thế giới. Trên cơ sở đó xây dựng các chính sách trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta. - Thứ hai, Phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra được những điểm còn vướng mắc cân giải quyết trong thời gian tới. - Thứ ba, Đề xuất một số giải pháp trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam để tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu sử dụng đựơc vận dụng tổng hợp từ các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, suy luân logic. - Nguồn thông tin dữ liệu được lấy từ nhiều ngồn như từ các khảo sát về doanh nghiệp nhỏ và vừa, các báo cáo hàng năm về doanh nghiệp nhỏ và vừa, , bài viết của các nhà nghiên cứu, thông tin trên web, dữ liệu trên Tổng cục Thống kê và trên Cục Phát triển doanh nghiệp… 5. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 phần như sau: - Chương 1: Lý luận chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Chương 2: Thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian qua. - Chương 3: Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1 Tổng quan chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia trên thế giới. Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hay SMEs (Small and Medium enterprises) nói chung là những doanh nghiệp có số lao động hay doanh số ở dưới một mức giới hạn nào đó. Từ viết tắt SMEs được dùng phổ biến ở Cộng đồng các nước Châu Âu và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), Liên Hiệp Quốc (United Nation), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). SMEs được sử dụng nhiều nhất là ở Mỹ. Các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu truyền thống có cách định nghĩa về SMEs của riêng họ, ví dụ như ở Đức, SMEs được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao động dưới 500 người, trong khi đó ở Bỉ là 100 người. Nhưng cho đến nay Liên minh Châu Âu (EU) đã có khái niệm về SMEs chuẩn hóa hơn. Những doanh nghiệp có dưới 50 lao động được gọi là doanh nghiệp nhỏ còn những doanh nghiệp có trên 250 lao động được gọi là những doanh nghiệp vừa. Ngược lại, ở Mỹ những doanh nghiệp có số lao động dưới 100 người được gọi là doanh nghiệp nhỏ, dưới 500 người là doanh nghiệp vừa. Trong hầu hết các nền kinh tế, doanh nghiệp nhỏ chiếm đa số. Ở EU, DNNVV chiếm khoảng 99% và số lao động lên đến 65 triệu người. Trong một số khu vực kinh tế, DNNVV giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc cải tạo và là động lực phát triển của nền kinh tế. Trên phạm vi thế giới, DNNVV chiếm 99% tổng số doanh nghiệp và đóng góp 40%-50% tổng thu nhập quốc dân (GDP). Ở Mỹ, cách định nghĩa về DNNVV có ý nghĩa rộng hơn ý nghĩa nội tại của DNNVV. Và ở các quốc gia Châu Phi họ cũng có cách định nghĩa riêng và các định nghĩa này là khác nhau ở các quốc gia. EU thì dùng định nghĩa về DNNVV chuẩn như trên. Sự khác nhau về định nghĩa khiến cho việc nghiên cứu về DNNVV trở nên khó khăn hơn. - Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Để xác định DNNVV, các quốc gia căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau như số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng. Ở mỗi quốc gia khác nhau, tiêu chí để phân biệt DNNVV cũng khác nhau. Ở nước ta, tiêu chí xác định DNNVV được dựa trên điều kiện thực tiễn của Việt Nam (là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý còn hạn chế, thị trường chưa phát triển, chưa có chuẩn mực đo quy mô doanh nghiệp một cách chính thức) và khung khổ pháp luật hiện hành nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Theo đó, việc phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chủ yếu dựa vào hai tiêu chí là lao động bình quân và vốn đăng ký, vì các lý do sau đây: - Tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này. - Có thể xác định tiêu thức này ở mọi cấp độ: toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp. - Trong điều kiện thực trạng thống kê về các doanh nghiệp còn chưa đầy đủ của Việt Nam thì hai tiêu chí này ta có thể xác định chính xác trị số của chúng. Trên cơ sở đó, ta có thể lượng hóa được tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với hai lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp và thương mại qua bảng dưới đây. Công nghiệp Thương mại, dịch vụ DNNVV Trong đó: DN nhỏ DNNVV Trong đó: DN nhỏ Vốn đăng ký Dưới 10 tỷ đồng Dưới 5 tỷ đồng Dưới 5 tỷ đồng Dưới 3 tỷ đồng Lao động thường xuyên Dưới 300 người Dưới 100 người Dưới 200 người Dưới 50 người Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhưng còn có nhiều hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tại điều 3 của nghị định đã quy định cụ thể về doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh lao động theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, Chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên. DNNVV ở Việt Nam có những điểm khác so với DNNVV ở các nước. Ở các nước Châu Âu, doanh nghiệp có một vài ngàn công nhân và nhân viên, quy mô vài chục triệu đô cũng được coi là DNNVV, nhưng có khi không có nhiều công nhân vẫn được xem là doanh nghiệp lớn. Chẳng hạn như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nano, công nghệ cao không cần thiết phải có đông công nhân. 1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy cách định nghĩa DNNVV ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung các DNNVV ở các quốc gia đều có đặc điểm chung đó là: - Quy mô về vốn nhỏ bé, gặp phải nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn chính thức. - Trình độ khoa học công nghệ, tay nghề lao động, trình độ quản lý nói chung là thấp so với các doanh nghiệp lớn. - Thiếu thông tin, thị trường nhỏ bé, quan hệ kinh doanh hạn hẹp. - Sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất ra là thấp, khó tiêu thụ, độ rủi ro cao. - Hoạt động phân tán, rải rác khắp cả nước nên khó hỗ trợ. Ở Việt Nam, DNNVV có những đặc điểm sau: - Kinh tế tư nhân tuy rộng lớn nhưng về cơ bản là kinh tế hộ quy mô nhỏ và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. - Trình độ công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, hơn nũa tốc độ đổi mới lại quá chậm. Hạn chế về năng lực cán bộ, công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp, nghiên cứu để ứng dụng trong sản xuất - kinh doanh. - Trình độ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Tuy Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, trình độ học vấn tương đối cao so với các nước có cùng trình độ phát triển, nhưng chủ yếu là lao động làm việc giản đơn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, hạn chế về sức khỏe, năng suất lao động không cao. - Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ còn thấp. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ thấp dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, mẫu mã không đa dạng khiến giá trị gia tăng của sản phẩm thấp. Hạn chế về thông tin, hạn chế về vốn… sự bảo hộ của Nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước làm hạn chế năng lực cạnh tranh của DNNVV. - Quản trị nội bộ doanh nghiệp còn yếu, nhất là quản trị tài chính; ý thức chấp hành các chế độ chính sách chưa cao; còn lúng túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một nghành nghề. 1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Trên thế giới, người ta đã thừa nhận khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước mà vai trò của doanh nghiêp nhỏ và vừa cũng được thể hiện khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao như Cộng hòa Liên bang Đức, Nhật Bản, Mỹ mặc dầu có nhiều công ty cực lớn, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đối với các nước ở Châu Á như: Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonexia doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò cực lớn làm giảm các tiêu cực trong các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế - xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế. Đối với các nước phát triển và chậm phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì ngoài vai trò là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có vài trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa đất nước, xóa đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Sở dĩ, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước vì nó có tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu của khách hàng. Bên cạnh đó, nhu cầu vốn đầu tư ít, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật – công nghệ nhanh nhạy hơn, đào tạo người lao động và người quản lý ít tốn kém hơn, yêu cầu về quản lý kinh doanh cũng không cần đòi hỏi cao. 1.2 Kinh nghiệm trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước. 1.2.1 Nhật Bản. Trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển khu vực DNNVV. Những thay đổi về chính sách nhằm đặt khu vực DNNVV vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. Xét một cách tổng quát, các chính sách phát triển DNNVV của Nhật Bản tập trung vào các mục tiêu chủ yếu sau đây: - Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các DNNVV. - Tăng cường lợi ích kinh tế và xã hội của các nhà doanh nghiệp và người lao động tại các DNNVV. - Khắc phục tính bất lợi của DNNVV gặp phải. - Hỗ trợ tính tự lực của DNNVV. Một số nội dung chủ yếu của các chính sách: Cải cách pháp lý: Luật cơ bản về DNNVV được ban hành năm 1999 hỗ trợ cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của DNNVV với những thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho việc tái cơ cấu công ty. Các Luật tạo thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp mới và Luật hỗ trợ DNNVV đổi mới trong kinh doanh, khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở DNNVV hỗ trợ cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến các khu vực bán hàng. Một hệ thống cứu tế hỗ trợ cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của các DNNVV… Hỗ trợ về vốn: - Hỗ trợ có thể dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi xuất cơ bản hoặc các khoản vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách. Hệ thống hỗ trợ tăng cường cơ sở quản lý các DNNVV ở từng khu vực, các khoản vay được thực hiện tùy theo điều kiện của khu vực thông qua một quỹ được đóng góp chung bởi chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương và được ký quỹ ở một thể chế tài chính tư nhân. - Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý của các doanh nghiệp nhỏ (kế hoạch cho vay Marukei) được áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ không đòi hỏi phải có thế chấp bảo lãnh. - Hệ thống bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các thể chế tài chính tư nhân. Còn hiệp hội bảo lãnh tín dụng có chức năng mở rộng các khoản tín dụng bổ sung và bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt, đã hoạt động từ năm 1998, có chức năng như một mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những rối loạn về tín dụng nhằm góp phần làm giảm các vụ phá sản của DNNVV. - Công ty TNHH tư vấn và đầu tư DNNVV (SBIC), thành lập năm 1963, đã thực hiện nhiều kế hoạch và chương trình đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm góp vốn cổ phần, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đầu tư cho các công ty R&D và các công ty đã trưởng thành. - Hỗ trợ về công nghệ và đổi mới: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể nhận được các chính sách hỗ trợ cho hoạt động R&D hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mới dựa trên công nghệ. Các khoản trợ cấp, bảo lãnh vốn vay và đầu tư trực tiếp cho DNNVV được tiến hành theo các quy định của Luật xúc tiến các hoạt động sáng tạo của DNNVV. Các DNNVV thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới muốn tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần và trái phiếu công ty được hỗ trợ bởi các quỹ rủi ro bởi các địa phương. Còn Hệ thống nghiên cứu đổi mới kinh doanh nhỏ ở Nhật Bản (SBI) cung cấp tài chính cho DNNVV có hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới trong các giai đoạn đầu thiết kế sản phẩm hoặc các quy trình sản xuất mới. Để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua áp dụng công nghệ thông tin, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực truyền bá thông tin và ứng dụng các phần mềm tin học được hỗ trợ bởi chính quyền địa phương, bao gồm các dịch vụ tư vấn và dịch vụ phát triển doanh nghiệp kiểu mẫu. Hỗ trợ về quản lý: - Hoạt động tư vấn quản lý kinh doanh được thực hiện thông qua Hệ thống đánh giá DNNVV. Mỗi quận, huyện, chính quyền của 12 thành phố lớn đánh giá các điều kiện quản lý của DNNVV, đưa ra các khuyến nghị cụ thể và cung cấp hướng dẫn. - Viện Quản lý kinh doanh nhỏ và Công nghệ thực hiện các chương trình đào tạo cho các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật của DNNVV và đội ngũ nhân sự của các quận huyện. Việc tăng cường tiếp cận DNNVV là một ưu tiên của Chính phủ. Sách trắng của DNNVV được xuất bản hàng năm chứa đựng nhiều thông tin về khu vực doanh nghiệp này dựa trên các cuộc điều tra về thực trạng trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp. Xúc tiến xuất khẩu: - Chính phủ Nhật Bản cung cấp những hướng dẫn và dịch vụ thông tin cho các DNNVV nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chương trình môi giới tư vấn và kinh doanh tạo cơ hội cho các DNNVV của Nhật Bản cũng như của nước ngoài có thể đăng ký trực tiếp vào cơ sở dữ liệu trên mạng Internet và quảng cáo các loại liên kết kinh doanh hoặc liên minh chiến lược mà doanh nghiệp tìm kiếm. 1.2.2 Hàn Quốc Quá trình định hướng và hỗ trợ của Bộ DNNVV trải qua nhiều giai đoạn với chiến lược và giải pháp khác nhau. Có thể rút ra một số bài học bổ ích cho định hướng phát triển DNNVV của Việt Nam như sau: - Xây dựng tầm nhìn và mục tiêu chiến lược cho NNVV trong nước. - Thực hiện chiến lược tăng cường hỗ trợ phù hợp với các đặc tính của từng giai đoạn tăng trưởng. Chính sách này tập trung vào 3 giai đoạn đầu đời của doanh nghiệp: Khởi nghiệp – Nuôi dưỡng thúc đẩy tăng trưởng – Tăng trưởng, toàn cầu hóa. - Thực hiện nhóm chính sách cân bằng tăng trưởng cho DNNVV và các tập đoàn. 1.2.3 Cộng hòa Liên Bang Đức. Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động. Do doanh nghiệp nhỏ ở CHLB Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công nghiệp. Năm 1953 Quốc hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái niệm, nội dung hoạt động và các điều khoản liên quan đến ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Thứ hai, hoạt động tư vấn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động tư vấn gồm các nội dung chủ yếu về quản lý kinh doanh, về pháp lý, về thuế, về kỹ thuật, về tư vấn đối ngoại,.. Thứ ba, hỗ trợ về tài chính. Cấp đất với giá rẻ để lập doanh nghiệp có thể sản xuất với giá ưu đãi hơn giá thị trường tự do, nhưng không được chuyển nhượng kiếm lời. Nhà nước đưa ra các dự án phát triển kinh tế và cấp kinh phí cho dự án, ai tham gia sẽ được lợi, hỗ trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo, cấp tiền để thuê văn phòng đại diện trong vòng nửa năm đầu không phải trả tiền thuê phòng. Hoạt động quan trọng nhất về hỗ trợ tài chính là cấp tín dụng và bảo lãnh vay tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.2.4 Philippines, Indonexia và Thái Lan. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, vì thế ở mỗi nước đều có chính sách hỗ trợ phát triển loại hình doanh nghiệp này. Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Philippines, Indonexia, Thái Lan đều tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây: Một là, tạo cơ sở pháp lý đối với các DNNVV. Hai là, hỗ trợ về tài chính cho các DNNVV, mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng. Ba là, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa: Đối với DNNVV tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là một khó khăn lớn nhất, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế. Để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của DNNVV, vấn đề cơ bản là hỗ trợ về khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng – sản phẩm, coi trọng các sản phẩm mang tính truyền thống dân tộc độc đáo. Bốn là, hỗ trợ về khoa học – công nghệ, đào tạo tư vấn, thông tin: Việc hỗ trợ khoa học – công nghệ cho DNNVV chủ yếu là chuyển giao công nghệ, đào tạo nâng cao chất lượng tay nghề lao động và người quản lý, cung cấp thông tin cần thiết. Như vậy, vừa nâng cao năng suất và hiệu quả, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm hàng hóa của DNNVV. Năm là, tạo mối quan hệ hợp tác giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn, đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong các DNNVV. Các nước đều coi trọng tạo mối quan hệ hợp tác DNNVV và các doanh nghiệp lớn, có quy định pháp lý bắt các doanh nghiệp lớn phải hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, cả vốn, kỹ thuật, công nghệ và hoạt động kinh doanh; còn DNNVV trở thành vệ tinh, tham gia chế tạo các phụ tùng, phụ kiện cho doanh nghiệp lớn. Ở Indonexia còn quy định mỗi doanh nghiệp lớn có trách nhiệm hỗ trợ một số doanh nghiệp vừa và một số doanh nghiệp vừa có trách nhiệm hỗ trợ một số doanh nghiệp nhỏ. Các nước rất coi trọng các hình thức tổ chức hợp tác của các doanh nghiệp nhỏ và vừa do yêu cầu của sản xuất kinh doanh, giúp nhau giải quyết đầu vào và đầu ra cho DNNVV, đặc biệt tạo thuận lợi cho vay vốn ngân hàng. Do tính cấp thiết của DNNVV về mặt hợp tác, ở Indonexia đã thành lập Bộ hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ. Sáu là, thành lập các cơ quan quản lý, đại diện hỗ trợ DNNVV. Các nước đều có cơ quan chuyên quản và hỗ trợ DNNVV. 1.3 Một số bài học kinh nghiệm của nước ngoài về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc phát triển DNNVV ở các nước không phải là mục đích tự thân vận động, mà là một chiến lược tăng trưởng hiệu quả trên cơ sở kết hợp hài hòa chiến lược tạo việc làm với chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, để giải quyết đồng thời hai vấn đề kinh tế là: - Sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước, trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất. - Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ cho đổi mới thiết bị và công nghệ, tức là để hiện đại hóa nền kinh tế. Kinh nghiệm của các nước cho thấy chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu giải quyết những vấn đề sau: - Tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Sự yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ. - Máy móc thiết bị kém hiệu quả. - Năng suất lao động thấp. - Mức độ giá trị gia tăng thấp. - Mức vốn trung bình cho mỗi lao động thấp. Sau đây là một số nội dung cơ bản về chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV đã được áp dụng với các nước trên trong thời gian qua: Khung khổ pháp lý về doanh nghiệp nhỏ và vừa: Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về DNNVV. Luật về doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định khung khổ chung nhưng không mâu thuẫn với các Luật khác về kinh doanh và thương mại. Sở dĩ khung khổ luật pháp về DNNVV không mâu thuẫn với các đạo luật kinh doanh khác là vì luật DNNVV chỉ quy định những vấn đề riêng có liên quan trực tiếp đến DNNVV, như xác định quy mô nào là DNNVV, đường lối chính sách chủ yếu đối với DNNVV. Luật ở các nước không quy định quy trình thành lập và đăng ký DNNVV, cũng không quy định cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng chính sách, thực thi chính sách, phối hợp các hoạt động về DNNVV giữa các tổ chức và cơ quan vì mục đích chung là phát triển DNNVV. Chính sách khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa: - Đơn giản tối đa các thủ tục đăng ký kinh doanh. - Chính phủ thành lập quỹ “khởi sự” để các doanh nghiệp mới thành lập vay vốn kinh doanh. - Xây dựng các khu công nghiệp tập trung dành cho DNNVV để khuyến khích các DNNVV phát triển sản xuất, tránh sự tập trung quá mức ở các đô thị và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ tập trung khác, cũng như để kiểm soát môi trường. Chính sách thị trường và cạnh tranh: - Ngăn chặn tình trạng cạnh tranh quá mức giữa các DNNVV với nhau cũng như giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn. - Xác định loại sản phẩm dành riêng cho DNNVV sản xuất, các doanh nghiệp lớn dù có năng lực, thậm chí sản xuất với hiệu quả kinh tế có thể cao hơn nhưng không được sản xuất sản phẩm đó. - Yêu cầu các doanh nghiệp lớn thầu phụ với DNNVV thích hợp: quy định hạng mục các sản phẩm mà các cơ sở công nghiệp lớn phải cho các DNNVV làm thầu phụ. - Xác định danh sách các DNNVV tham gia làm thầu phụ. - Thành lập Hội đồng khuyến khích thầu phụ gồm đại diện Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, các doanh nghiệp lớn và đại diện của các DNNVV. - Yêu cầu cơ quan nhà nước phải mua sản phẩm, dịch vụ của DNNVV. - Khuyến khích các DNNVV liên kết trong việc cùng mua nguyên vật liệu, cùng bán sản phẩm ra thị trường cho Nhà nước. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa: - Miễn hoặc giảm thuế cho DNNVV với các loại sau: Thuế thu nhập, thuế môn bài, thuế lợi tức công ty, thuế tài sản với mức tối đa đến 50%, thời hạn từ 2 đến 5 năm kể từ khi thành lập. - Cho phép khấu trừ 15% doanh thu chịu thuế trước khu tính thuế để khuyến khích đầu tư mới. - Cho phép áp dụng chế độ khấu hao chung là 50%, ở các ngành đặc biệt được áp dụng khấu hao 100%. - Cho phép trừ thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu gấp đôi so với mức áp dụng cho một doanh nghiệp bình thường để khuyến khích xuất khẩu. - Cho phép khấu trừ 1,5% thu nhập hay khoảng 20% doanh thu trước khi tính thuế để khuyến khích phát triển công nghệ. Chính sách tài chính, tín dụng, đầu tư trong lĩnh vực này là: - Hỗ trợ tài chính cho việc hiện đại hóa máy móc thiết bị. - Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập có áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và phân tích kinh tế. - Hỗ trợ tài chính cho DNNVV mới thành lập ứng dụng công nghệ mới. - Cho phép quỹ đầu tư bỏ vốn vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạng lưới thông tin tiếp thị. - Ngoài các quỹ, Chính phủ còn lập các Ngân hàng để cung cấp tài chính cho các DNNVV. Các quỹ của chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: - Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghiệp cho DNNVV. - Quỹ hỗ trợ DNNVV mới thành lập - Quỹ bảo lãnh tín dụng nói chung giúp các DNNVV sử dụng công nghệ mới và phát triển công nghệ. - Cho phép các DNNVV liên kết với nhau để lập ra Quỹ tương trợ trên cơ sở cùng đóng góp thêm vào phần tài trợ ban đầu của Nhà nước để ngăn chăn tình trạng phá sản dây truyền do khách hàng bị phá sản và để cấp vốn cho các hoạt động cùng mua cùng bán. Thông thường khi lập qũy, Nhà nước đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn. Nếu hoạt động của Quỹ mang lại hiệu quả cho các bên (doanh nghiệp, hiệp hội, ngân hàng…) thì các bên này sẽ tự nguyện tham gia bằng cách góp thêm vốn vào các quỹ đó. Lúc này, Nhà nước có thể rút bớt vốn của mình khỏi các quỹ để làm công việc khác. Thông tin, công nghệ: - Hỗ trợ về thông tin thị trường, tiếp thị. - Thành lập Viện công nghệ chuyên nghiên cứu hỗ trợ phát triển công nghệ cho DNNVV. - Chính phủ lập kế hoạch phát triển công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc dành một số vốn ngân sách sản xuất sản phẩm mới; liên quan tới sản xuất và sử dụng nguyên vật liệu mới; liên quan đến tự động hóa hay các máy móc thiết bị có năng suất cao; liên quan đến các phần mềm tin học… Phát triển nguồn nhân lực: - Chương trình đào tạo thường có nội dung nâng cao năng lực kinh doanh để chủ doanh nghiệp nhận biết thời co và chớp được thời cơ. - Các tổ chức hỗ trợ DNNVV của Nhà nước tuyển chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật và quản lý nước ngoài để hỗ trợ cho DNNVV. - Lựa chọn và tổ chức đội ngũ chuyên gia trong nước để đáp ứng nhu cầu tư vấn cho DNNVV. - Chọn một số tổ chức nghiên cứu, các trường đại học làm “các đơn vị hướng dẫn chuyên ngành” và khuyến khích các cơ quan này tự tổ chức và cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM 2.1 Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008. 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Theo các tài liệu lịch sử, DNNVV ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá trình ra đời của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng và nổi tiếng phần lớn ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa vừa mang tính sáng tạo nghệ thuật. Thời kỳ năm 1954 đến năm 1975, DNNVV ở hai miền có sự phát triển khác nhau. Ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh nên doanh nghiệp nhỏ và vừa của tư nhan tiến hành cải tạo, chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc xóa bỏ. Còn ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Đồng Nai, Cân Thơ, Đà Nẵng được phát triển, mặt khác các DNNVV thuộc sở hữu tư nhân, cũng được khuyến khích phát triển mạnh. Sau ngày đất nước thống nhất, trong thời kỳ 1976 – 1985, các DNNVV ở miền Nam hoặc là được quốc hữu hóa, hoặc là được cải tạo, xóa bỏ. DNNVV ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã, công tư hợp danh… Cho tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra chủ chương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển. Từ năm 1988 đến năm 1995, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết số 16 của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam (1988), Nhị định 27, 28, 29 của Hội đồng Bộ trưởng (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HDBT về hộ kinh doanh cá thể và ban hành các luật như: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước… đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các DNNVV phát triển. Trong thời kỳ đổi mới (1986 – 1995), số lượng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số doanh nghiệp nhà nước giảm đi đáng kể, riêng ngành công nghiệp từ 3.141 đơn vị ( năm 1986) xuống còn 2.002 đơn vị (năm 1994), khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh từ 567 doanh nghiệp (năm 1986) lên 959 doanh nghiệp (năm 1995). Ngoài ra, còn có khoảng 1,88 triệu hộ và nhóm kinh doanh, chủ yếu là doanh nghiệp rất nhỏ, có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50 người trong ngành thương mại dịch vụ. Từ năm 2001 đến năm 2005, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các DNNVV phát triển. Luật Doanh nghiệp 2000 ra đời và đi vào thực tiễn đã tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động kinh doanh, tạo bước đột phá về cải cách hành chính, nâng cao đáng kể tính nhất quán, tính thống nhất, minh bạch và bình đẳng của khuôn khổ pháp luật về kinh doanh ở nước ta. Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2001 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nước ta quy định việc trợ giúp các DNNVV. Cuối năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để quản lý nhà nước và điều phối các hoạt động của Chính phủ liên quan tới xúc tiến phát triển DNNVV. Năm 2003, Hội đồng Khuyến khích Phát triển DNNVV được thành lập theo Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tham vấn cho Thủ tướng về cơ chế chính sách khuyến khích sự phát triển của DNNVV ở Việt Nam. Giai đoạn này, DNNVV đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội (GDP), 31% gía trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nôn nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 – 26% lực lượng lao động trong cả nước. Từ năm 2005 trở lại đây, cơ chế chính sách đối với các DNNVV tiếp tục được hoàn thiện. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (được Quốc hội thông qua vào ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006) đã kế thừa những thành công của Luật Doanh nghiệp 2000, đồng thời phát triển thêm nhiều mặt. Luật Doanh nghiệp 2005 đã tạo ra khung pháp lý cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, bao gồm cả DNNVV và doanh nghiệp không thuộc nhóm DNNVV, công ty trong và ngoài nước, công ty Nhà nước và tư nhân, hoạt động trên cùng một sân chơi. Bên cạnh đó, Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006 – 2010 ra đời đã xác định mục tiêu quan trọng, định hướng cho các hoạt động phát triển DNNVV và tạo ra một cấu trúc thông qua đó phối hợp các hoạt động để đạt hiệu quả tối ưu, nhằm hỗ trợ cho việc hình thành một khu vực DNNVV lớn mạnh ở Việt Nam. Kế hoạch xác định mục tiêu tổng thể cho phát triển DNNVV là: “Đẩy nhanh tốc độ phát triẻn DNNVV, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, các DNNVV đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng kinh tế” 2.1.2 Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. Luật doanh nghiệp 2000 là văn bản pháp lý quan trọng mở ra sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Thời điểm trước khi Luật doanh nghiệp ra đời, cả nước có khoảng 12.000 DNNN thì hiện nay các doanh nghiệp ở Việt Nam đã đa dạng hơn, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Ngoài 3.700 DNNN, khoảng trên 4.200 doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nước ta còn có một bộ phận lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao gồm: hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và công ty cổ phần, với số lượng trên 123.000 doanh nghiệp. Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2001 – 2007. Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Với cơ chế mới thông thoáng hơn, các DNNVV đã phát triển nhanh chóng, hàng năm đều có một số lượng lớn các doanh nghiệp đăng ký mới, nếu như năm 2001 (năm Luật doanh nghiệp 2000 có hiệu lực) mới chỉ có 19.800 doanh nghiệp đăng ký mới thì chỉ sau 5 năm số lượng các doanh nghiệp đăng ký mới đã tăng gấp 4 lần, 51.000 doanh nghiệp đăng ký mới vào năm 2007. Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 đã có hơn 17.300 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký lên tới gần 140.000 tỷ đồng. 2.1.3 Cơ cấu của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 2.1.3.1Cơ cấu theo quy mô lao động. Dựa theo tiêu chí quy đinh tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nghị định 90), xét theo quy mô lao động (dưới 300 lao động) ta có được số lượng các DNNVV như ở trên Bảng 1. Điều dễ nhận thấy là các DNNVV chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu như năm 2000 cả nước ta có 38.987 DNNVV thì chỉ sau 5 năm (2006) số lượng các DNNVV đã gấp gần 4 lần với 127.600 doanh nghiệp, chiếm 97,12% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Đây là một bước tiến vượt bậc của DNNVV của Việt Nam về mặt số lượng. Bảng 2: Số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xét theo quy mô lao động giai đoạn 2000 – 2006. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số doanh nghiệp 42.288 51.680 62.908 72.012 91.756 112.850 131.332 DNNVV 38.897 49.062 59.853 68.687 88.222 109.336 127.600 Tỷ lệ (%) 94,34 94,93 95,14 95,38 96,12 96,89 97,12 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Phân chia số lượng các DNNVV theo hình thức sở hữu ta có thể thấy rằng, các DNNVV của Việt Nam không chỉ chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà một phần không nhỏ trong đó là các DNNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nhìn vào Bảng 2, ta thấy các DNNVV là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các DNNVV (từ 88% - 90%), hơn nữa tỷ lệ này ngày càng tăng, nếu như năm 2000 chiếm 88,67% thì đến năm 2006 đã là 95,51%. Bên cạnh sự tăng lên trong tỷ trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đó là sự giảm sút về tỷ trọng của các DNNN (năm 2000 chiếm 10,78% thì đến năm 2006 giảm xuống còn 1,93%). Các DNNVV là doanh nghiệp có vốn ĐTNN chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các DNNVV, tỷ lệ này có xu hướng tăng lên song chưa thật sự rõ rệt, bởi vẫn có những năm giảm sút. Bảng 3: Số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xét theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2001 – 2006. Số lượng DNNVV phân theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 - 2006 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 DNNN là DNNVV 4.194 3.752 3.653 3.145 2.959 2.675 2.464 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV 34.490 43.664 54.400 63.523 82.840 103.792 121.875 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV 1.213 1.646 1.800 2.019 2.423 2.869 3.216 Tổng số 38.897 49.062 59.853 68.687 88.222 109.336 127.600 Tỷ lệ % trên tổng số doanh nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 DNNN là DNNVV 10,78 7,64 6,10 4,58 3,35 2,45 1,93 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV 88,67 88,99 90,89 92,48 93,90 94,93 95,51 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV 0,55 3,37 3,01 2,94 2,75 2,62 2,16 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Để có cái nhìn chi tiết hơn, ta phân chia các DNNVV theo tiêu chí về lao động như sau: - Dưới 5 lao động. - Từ 5 – 9 lao động. - Từ 10 – 49 lao động. - Từ 50 – 199 lao động. - Từ 200 – 299 lao động. Bảng 4: Số lượng các doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000 – 2006. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dưới 5 lao động 10.169 11.932 12.079 13.091 17.977 23.188 16.834 Từ 5 – 9 lao động 10.900 13.896 18.139 20.438 16.459 34.632 57.980 Từ 10 – 49 lao động 12.071 15.737 20.718 25.220 32.443 38.957 39.366 Từ 50 – 199 lao động 5.633 6.304 7.541 8.531 9.808 10.933 11.683 Từ 200 – 299 lao động 1.124 1.193 1.354 1.407 1.535 1.626 1.737 Tổng số 39.897 49.062 59.831 68.687 88.222 109.336 127.600 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Nhìn vào Bảng 3 ta có thể thấy được rằng quy mô lao động của các DNNVV thường từ 10 đến 49 lao động . Số lượng các doanh nghiệp có số lao động dưới 49 người chiếm tới 90% tổng số DNNVV ở Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp có số lao động cao (từ 200 – 299) chiếm một tỷ lệ nhỏ (dưới 1%). 2.1.3.2 Cơ cấu theo quy mô vốn. Căn cứ theo Nghị định 90, phân chia các DNNVV theo quy mô vốn (dưới 10 tỷ VND) ta có được bảng sau. Bảng 5: Số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xét theo quy mô vốn giai đoạn 2000 – 2006. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số doanh nghiệp 42.288 51.680 62.908 72.012 91.756 112.850 131.332 DNNVV 36.305 44.670 54.216 61.977 79.420 98.205 114.340 Tỷ lệ (%) 85,85 84,44 86,18 86,06 86,56 87,02 87,06 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Cũng giống như tiêu chí về quy mô lao động, các DNNVV vẫn chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam với tỷ lệ 85% - 87%. Số lượng các DNNVV xét theo tiêu chí này cũng liên tục tăng qua các năm, năm 2000 chỉ có 36.305 doanh nghiệp thì năm 2006 đã là 114.340 doanh nghiệp. Bảng 6: Số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa xét theo quy mô vốn và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 – 2006. Số lượng DNNVV phân theo quy mô vốn và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 - 2006 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 DNNN là DNNVV 2.496 2.040 1.763 1.346 1.091 874 740 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV 33.433 41.967 51.770 59.888 77.374 96.177 112.321 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV 376 663 683 743 955 1.181 1.279 Tổng số 36.305 44.670 54.216 61.977 79.420 98.205 114.340 Tỷ lệ % trên tổng số doanh nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 DNNN là DNNVV 6,88 4,57 3,25 2,17 1,37 0,89 0,65 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV 92,09 93,95 65,49 96,63 97,42 97,93 98,23 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV 1,03 1,48 1,26 1,2 1,21 1,18 1,12 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Phân chia các DNNVV theo tiêu chí hình thức sở hữu ta cũng thu được kết quả gần giống với kết quả ở phần trên. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp. Năm 2006 chiếm tới 98,23 % trong tổng số các DNNVV. Qua đó, một lần nữa khẳng định sự phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bảng 7: Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 2000 – 2006. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dưới 0,5 tỷ 16.276 18.326 18.591 18.790 23.187 26.687 15.908 Từ 0,5 – 1tỷ 6.534 8.403 10.994 12.954 16.191 20.434 21.808 Từ 1 – 5 tỷ 10.759 14.556 20.141 24.737 32.739 41.856 63.954 Từ 5 – 10 tỷ 2.745 3.385 4.490 5.496 7.303 9.255 12.670 Tổng số 36.305 44.670 54.216 61.977 79.420 98.232 114.340 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Một điều đáng chú ý đó là, các DNNVV ở Việt Nam mặc dù đông về số lượng nhưng quy mô về vốn lại rất nhỏ bé. Nhìn vào Bảng 6 có thể nhận thấy rằng đa phần các doanh nghiệp có số vốn dưới 0,5 tỷ đồng và từ 1- 5 tỷ đồng; trong khi số doanh nghiệp có nguồn vốn lớn từ 5 – 10 tỷ đồng lại rất ít. Kết quả này cho ta thấy được một mặt các chính sách thông thoáng của Chính phủ đã khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp, mặt khác với đa phần các DNNVV có số vốn hạn chế như vậy thì các DNNVV sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không phải là DNNVV và sẽ chịu ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế hiện nay. 2.1.3.3 Cơ cấu theo hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Hiện nay, ở Việt Nam các DNNVV thường tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp như sau: - Doanh nghiệp tư nhân (DNTN). - Công ty trách nhiệm hữu hạn (Cty TNHH). - Công ty cổ phần (CTCP). - Công ty hợp danh (CTHD). - Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Cty TNHH 1Tv). - Doanh nghiệp nước ngoài (DNNN). Số lượng của các DNNVV phân theo loại hình doanh nghiệp được trình bày ở bảng dưới đây. Bảng 8: Số lượng đăng ký của doanh nghiệp phân theo hình thức pháp lý giai đoạn 2001 – 2006. 2001 2002 % so với 2001 2003 % so với 2002 2004 % so với 2003 2005 % so với 2004 2006 % so với 2005 DNTN 7.100 6.532 92,00 7.813 119,61 10.405 133,18 9.295 89,33 10.246 110,23 Cty TNHH 11.121 12.627 113,54 15.781 124,98 20.190 127,94 22.341 110,65 25.777 115,38 CTCP 1.550 2.305 148,71 4.058 176,05 6.497 160,10 8.010 123,29 9.664 120,65 CTHD 2 0 0,00 1 7 700,00 13 185,71 4 30,77 Cty TNHH 1Tv 0 59 98 166,10 125 127,55 292 233,60 906 310,27 DNNN 27 12 44,44 20 166,67 6 30,00 8 133,33 9 112,50 Tổng số 19.800 31.535 67,81 27.771 216,30 37.230 16,33 39.959 2001,47 46.606 198,55 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Qua bảng trên ta thấy, tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp có sự thay đổi. Doanh nghiệp tư nhân ngày càng ít được lựa chọn là loại hình để nhà đầu tư thành lập, trong khi đó, loại hình Cty TNHH, CTCP ngày càng được lựa chọn nhiều hơn như là một hình thức đầu tư để gia nhập thị trường. Nếu như trong năm 2000, loại hình DNTN chiếm tới 36%, Cty TNHH chiếm 56% và CTCP chiếm 8% trên tổng số doanh nghiệp thành lập và đăng ký kinh doanh thì trong năm 2006, tỷ lệ này lần lượt là 22%, 55,3%, 20,7% và trong năm 2007 là 17,2%, 43,8%,25%. 2.1.3.4 Cơ cấu theo ngành nghề kinh doanh. Theo ngành nghề kinh doanh thì các DNNVV ở Việt Nam được chia thành các ngành sau: - Nông nghiệp và lâm nghiệp. - Thủy sản. - Công nghiệp khai thác mỏ. - Công nghiệp chế biến. - Xây dựng. - Thương mại. - Khách sạn và nhà hàng. - Giao thông vận tải. - Các ngành khác. Thống kê về các DNNVV phân theo ngành nghề kinh doanh được thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 9: Số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp phân theo ngành, nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006. Số lượng doanh nghiệp phân theo ngành, nghề kinh doanh 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông nghiệp và lâm nghiệp 925 875 972 939 1.015 1.071 1.092 Thủy sản 2.453 2.563 2.407 1.468 1.354 1.358 1.307 Công nghiệp khai thác mỏ 427 634 879 1.029 1.193 1.277 1.369 Công nghiệp chế biến 10.399 12.353 14.794 16.916 20.531 24.017 26.863 Xây dựng 3.999 5.693 7.845 9.717 12.315 15.252 17.783 Thương mại 17.547 20.722 24.794 28.369 36.090 44.656 52.505 Khách sạn và nhà hàng 1.919 2.405 2.843 3.287 3.957 4.730 5.116 Giao thông vận tải 1.796 2.545 3.242 3.976 5.351 6.754 7.695 Các ngành khác 2.823 3.890 5.132 6.311 9.950 13.835 17.602 Tỷ lệ % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông nghiệp và lâm nghiệp 2,2 1,7 1,5 1,3 1,1 0,9 0,8 Thủy sản 5,8 5,0 3,8 2,0 1,5 1,2 1,0 Công nghiệp khai thác mỏ 1,0 1,2 1,4 1,4 1,3 1,1 1,0 Công nghiệp chế biến 24,6 23,9 23,5 23,5 22,4 21,3 20,5 Xây dựng 9,5 11,0 12,5 13,5 13,4 13,5 13,5 Thương mại 41,5 40,1 39,4 39,4 39,3 39,5 40,0 Khách sạn và nhà hàng 4,5 4,7 4,5 4,6 4,3 4,2 3,9 Giao thông vận tải 4,2 4,9 5,2 5,5 5,8 6,0 5,9 Các ngành khác 6,7 7,5 8,2 8,8 10,8 12,2 13,4 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Nhìn vào bảng trên ta thấy được có khoảng 40% các DNNVV ở Việt Nam thuộc lĩnh vực thương mại, 20% trong lĩnh vực sản xuất, và 14% trong lĩnh vựa xây dựng. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng thể hiện rõ trong ngành nghề kinh doanh của các DNNVV. Tỷ lệ các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp lâm nghiệp ( từ 2,2% năm 2000 xuống còn 0,8% năm 2006), và thủy sản (từ 5,8% năm 2000 xuống còn 1,0% năm 2006). Trong khi tỷ lệ các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tăng đều qua các năm (từ 9,5% năm 2000 đến 13,5% năm 2006). 2.1.4 Phân bố của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có 64 tỉnh thành phố được phân thành 6 vùng kinh tế lớn bao gồm: - Trung du và miền núi phía Bắc (14 tỉnh): Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. - Vùng đồng bằng sông Hồng (15 tỉnh thành): Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Hà Tây. - Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (10 tỉnh): Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. - Tây Nguyên (4 tỉnh): Đắk Lak, Đắk Nông, Kon Tum, Gia Lai. - Vùng Đông Nam Bộ và kinh tế trọng điểm phía Nam (8 tỉnh thành): Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh. - Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh thành): An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đông Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Dựa theo số liệu của Trung tâm thông tin Doanh Nghiệp – Cục Phát triển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoach và Đầu tư, ta có được biểu đồ phân bố các DNNVV ở các vùng trong cả nước như sau. Bảng 10: Biểu đồ phân bố các doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh theo các vùng kinh tế trong cả nước năm 2007. Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp Các DNNVV ở Việt Nam không phân bố một cách đồng đều, phần lớn các DNNVV tập trung ở vùng Đông Nam Bộ và khu kinh tế trọng điểm phía Nam, sau đến là vùng Đồng bằng sông Hồng. Tây Nguyên là khu vực có ít DNNVV nhất trong cả nước. Giữa các tỉnh thành với nhau cũng có sự khác biệt rất lớn. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhiều nhất, với 17.313 doanh nghiệp trong khi đó Bắc Kạn chỉ có 71 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, theo thống kê của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp có tới gần 55% doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tập trung ở 3 thành phố lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội , Hải Phòng. Đây cũng là 3 địa phương dẫn đầu trong cả nước về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong giai đoạn 2000 – 2007. Bảng 11: Địa phương có trên 3.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giai đoạn 2000 – 2007. STT Địa phương Số lượng doanh nghiệp 1 Thành phố Hồ Chí Minh 82.591 2 Hà Nội 53.339 3 Hải Phòng 9.852 4 Đà Nẵng 6.625 5 Bình Dương 5.564 6 Đồng Nai 5.290 7 Khánh Hòa 3.962 8 Cần Thơ 3.720 9 Quảng Ninh 3.708 Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp 2.2 Đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam. 2.2.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV đã khơi dậy một sức sản xuất rất lớn và giải quyết một số lượng lớn lao động xã hội, kể cả ở vùng xâu vùng xa. Năng lực sản xuất hàng hóa của thành phần này tăng mạnh, đóng góp đáng kể vào GDP. Ở Việt Nam, các DNNVV đã tạo ra một khối lượng sản phẩm chiếm 45% GDP (Niên giám thống kê 2007). Số lượng các DNNVV tăng lên kéo theo đó là các mặt hàng trở nên phong phú hơn, sức cạnh tranh cao hơn khiến chất lượng các hàng hóa dịch vụ tăng lên, thị trường sôi động hơn. DNNVV còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn, thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc. Nhờ phát huy lợi thế của DNNVV nên thời gian qua, tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của DNNVV đạt khá cao. Trong lĩnh vực xuất khẩu, với chính sách mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. DNNVV đã năng động đầu tư vào các ngành nghề có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác thị trường quốc tế qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ của đất nước, chủ yếu qua hình thức xuất khẩu gián tiếp nhất là các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ công – mỹ nghệ, chế biến nông sản, thủy sản. 2.2.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Với một lực lượng doanh nghiệp hùng hậu hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị mà các DNNVV mang lại cho nền kinh tế là rất lớn, là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua các chính sách quản lý, điều hành chính sách thuế. Trong thời gian qua, các DNNVV đóng góp khoảng 17,46% tổng thu ngân sách Nhà nước. 2.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa giúp giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội. Hàng năm, Việt Nam có khoảng 1,5 triệu người gia nhập thị trường lao động; ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển xang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Chính sự xuất hiện ngày càng nhiều các DNNVV ở các thành phố, địa phương, vùng nông thôn, góp phần giải quyết bài toán việc làm cho số lao động trên. Theo thống kê, có tới 90% việc làm mới được tạo ra từ các DNNVV. Lao động trong các DNNVV cũng co thu nhập cao hơn rất nhiều so với thu nhập cảu lao động nông nghiệp. Do đó, việc thu hút các lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp của các DNNVV là một giải pháp xóa đói giảm nghèo cơ bản thiết thực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, DNNVV cũng tham gia tích cực trong việc xây dựng các công trình văn hóa, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước. Một số doanh nghiệp còn trực tiếp xây dựng nhà tình nghĩa tặng gia đình chính sách, gia đình hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cung cấp học bổng cho sinh viên,v.v… 2.2.4 Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nhiều năm trở lại đây cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng) đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp, tăng giá trị sản lượng công nghiệp và dịch vụ. Có được kết quả trên là nhờ một phần đóng góp không nhỏ của các DNNVV. Bởi vì, DNNVV phần lớn thuộc khu vực kinh tế tư nhân và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, sự phát triển của DNNVV thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng, góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.2.5 Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần khôi phục, giữ gìn và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. Các làng nghề thủ công truyền thống tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại với chất lượng, kỹ - mỹ thuật ngày càng cao, có khả năng cạnh tranh trên khu vực và thế giới, phát triển các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho các thị trường có dung lượng nhỏ mà các doanh nghiệp lớn không quan tâm. Chính vì vậy các làng nghề này có tầm quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn nhàn rỗi và xuất khẩu. 2.2.6 Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào hình thành mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. Mối liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn, kể cả các tập đoàn xuyên quốc gia đã được hình thành và phát triển trong thời gian qua. Các DNNVV liên kết với các doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm. Có thể nói, đây là mối quan hệ hai chiều, ràng buộc lẫn nhau, các doanh nghiệp lớn đảm bảo vững chắc cho các DNNVV về thị trường, tài chính công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại, các DNNVV đảm bảo cho các doanh nghiệp lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ rộng khắp cả nước. Những kết quả và đóng góp tích cực của DNNVV đã nêu ở trên có nhiều nguyên nhân. Trước hết là do chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, do tính tích cực sáng tạo và nhạy bén của các DNNVV; các chủ doanh nghiệp có tâm huyết, biết làm ăn. Sự đóng góp tích cực còn do ưu thế của bản thân DNNVV, được thể hiện ở một số đặc điểm sau: - Việc thành lập doanh nghiệp đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản. - Nhạy cảm với những thay đổi của thị trường. - Dễ dàng thay đổi mặt hàng, thay đổi thiết bị công nghệ kỹ thuật. - Quản lý đơn giản. 2.3 Đánh giá thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Nhằm khuyến khích phát triển DNNVV thực hiện vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển các DNNVV. Theo Nghị định này, phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích tạo thuận lợi cho DNNVV phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Bên cạnh Nghị đinh 90, còn có rất nhiều các văn bản pháp quy hướng dẫn khác của Chính phủ nhằm trợ giúp các DNNVV như: - Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg ngày 25-6-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ. - Thông tư số 42/2002/TT-BTC ngày 7-5-2002 của Bộ Tài Chính hướng dẫn một số điểm Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ. - Thông tư số 09/2000/TT-BYT ngày 28-4-2000 của Bộ Y tế hướng dẫn chăm sóc sức khỏe người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17-01-2003 của Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, và thành viên của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg ngày 11-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg ngày 10-8-2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004-2008. - Quyết định số 384/QĐ-TTg ngày 11-5-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thay đổi thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg ngày 16-12-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20-02-2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Thông tư sô 82/2006/TT-BTC ngày 13-9-2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Quyết định sô 48/2006/QĐ-BTC ngày 14-9-2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về ban hành chế độ kế toán doanh nghiepẹ nhỏ và vừa. - Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006-2010). 2.3.1 Thực trạng chính sách hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2.3.1.1 Vai trò của hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một là, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNNVV. Trong nền kinh tế thị trường, ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó, những nhà doanh nghiệp vì mục đích sinh lời rất cần vay thêm vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn đó, ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và của các tầng lớp dân cư khác, mang lại cho nhà doanh nghiệp cần vay vốn. Hoạt động này tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất – kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện. Hai là, tín dụng tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh của các DNNVV. Hoạt động tín dụng góp phần đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển và chuyển dịch cơ cấu của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ba là, với tư cách cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng ngân hàng trở thành động lực kích thích tổ chức kinh tế và dân cư trong các nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như: trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả châm… Như vậy, nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư cho doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu được thu hút qua kênh tín dụng ngân hàng. Bốn là, tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao đã thúc đẩy doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, nâng cao hiệu quả kinh tế về sử dụng vốn. Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV. Các DNNVV có vốn lưu động rất ít song nhu cầu cần nhiều. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hóa, dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và nhập khẩu) hiện tại chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng. Mặt khác tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông qua mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hóa có chất lượng cao, có sức cạnh tranh, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng tiến lên hiện đại hóa. Sáu là, tín dụng ngân hàng với công cụ lãi suất đã góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của từng địa phương, từng vùng, ngành kinh tế. Qua đó, góp phần tác động mạnh khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hoặc việc xóa bỏ sự phân biệt lãi suất cho vay các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh, đã góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. 2.3.1.2 Thực trạng tín dụng ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. Thực hiện mục tiêu về trợ giúp phát triển các DNNVV theo các Nghị quyết của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian qua ngành ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực trong việc đổi mới cơ chế chính sách tín dụng để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, nhất là các DNNVV tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực. Với chính sách mở rộng tín dụng cho khách hàng, dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng qua các năm (Bảng 12). Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tháng 7/2008, dư nợ cho vay của nền kinh tế tăng 18,36% so với thời điểm cuối năm 2007. Theo báo cáo mới nhất từ 6 ngân hàng thương mại (NHTM)Nhà nước, 31 NHTM cổ phần, 33 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh cho biết, đến nay tổng số doanh nghiệp còn quan hệ tín dụng với ngân hàng là 163.673 doanh nghiệp, chiếm trên 50% tổng số DNNVV với tổng nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ đồng. Trong 7 tháng đầu năm 2008, doanh số cho vay của các NHTM với DNNVV là 289.100 tỷ đồng. Trong đó, khối NHTM Nhà nước là 141.816 tỷ đồng chiếm 47,7% khối NHTM cổ phần là 139.837 tỷ đồng chiếm 47,07%, khối ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 7.446 tỷ đồng, chiếm 2,5%. Bảng 12: Tổng dư nợ tín dụng ngân hàng giai đoạn 2005 – 2008. Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước 2008. Một số chính sách tín dụng của các ngân hàng dành cho các DNNVV có thể kể tới như sau: - Đối với ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) bên cạnh các sản phẩm truyền thống, Vietinbank đã có 8 sản phẩm tín dụng dành riêng cho khách hàng DNNVV cùng với hàng loạt các dịch vụ phi tài chính như đào tạo, tư vấn, giới thiệu và hỗ trợ khách hàng tham gia các hoạt động dành cho DNNVV. Hiện tại DNNVV chiếm khoảng 60% tổng số khách hàng của Vietinbank với số dư nợ tín dụng chiếm khoảng 50%. Ngân hàng Công thương Việt Nam là ngân hàng duy nhất được Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước chỉ định tham gia ký Biên bản ghi nhớ (MOU) với các tổ chức tài chính APEC tài trợ DNNVV và được nhiều tổ chức quốc tế lựa chọn là đối tác thực hiện các chương trình dành cho DNNVV. - Đối với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NN &PTNT VN) cũng xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhóm khách hàng quan trọng cần được ưu tiên. Đến 31/08/2007 dư nợ cho vay DNNVV tại ngân hàng tăng gấp 20 lần so với năm 2001, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 100%. Dự kiến, đến năm 2010 tổng dư nơ cho vay đối với các DNNVV vào khoảng 35 %– 40%. - Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải (HSBC) với tiêu chí xếp loại doanh nghiệp có doanh thu dưới 10 triệu USD, có vốn từ 2 triệu USD trở xuống thì số lượng doanh nghiệp này chiếm 35 %– 40% trong tổng số khách hàng của HSBC. - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã công bố chương trình Hỗ trợ tính dụng cho DNNVV góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và đảm bảo an sinh xã hội giai đoạn 2008 – 2010 như sau: + Về tín dụng, BIDV dành riêng nguồn vốn 33.000 tỷ đồng với lãi suất hợp lý để hỗ trợ cho chương trình tái cấu trúc nợ đối với DNNVV vượt qua khó khăn trong lạm phát cao. Theo lộ trình, năm 2008 là 3.000 tỷ đồng, 2009 là 10.000 tỷ đồng, năm 2010 là 20.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng dư nợ cho vay của BIDV. + Về dịch vụ, BIDV cung ứng các dịch vụ như tư vấn hỗ trợ lập dự án và thu xếp vốn, tư vấn phát hành trái phiếu, niêm yết chứng khoán,…, các dịch vụ trọn gói như tiền gửi, dịch vụ tài khoản, dịch vụ trả lương, các sản phẩm phái sinh,… + Về cấu trúc tài chính, BIDV tư vấn miễn phí cho các doanh nghiệp nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính, quản lý dòng tiền, tăng khả năng huy động vốn, hoặc giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. + Về cơ cấu nợ, bao gồm việc gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ và cơ cấu nợ. - Ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank ) với khoản tài trợ 320 tỷ đồng từ IFC dành riêng cho việc cấp vốn cho các DNNVV Việt Nam, Techcombank đã mở rộng thêm các sản phẩm, dịch vụ mới, nhằm nâng cao hơn nữa khả năng hỗ trợ, cấp vốn cho các DNNVV, các DNNVV sẽ có dịp tiếp cận nguồn tài chính dễ dàng hơn. - Ngân hàng TMCP Việt Nam (Vietcombank), tháng 9 năm 2008 cũng đã đẩy mạnh Chương trình cho vay DNNVV bằng việc dành thêm 3.000 tỷ đồng trong kế hoạch phát triển tín dụng năm 2008. Hiện tại cho vay đối với DNNVV chiếm 22% tổng danh mục cho vay của Vietcombank. Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới đây của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) mức độ đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp của ngân hàng chỉ vào khoảng 30% - 40% (Bảng 13). Bảng 13: Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp Tỷ lệ % - Đúng nhu cầu 10,5 - Thỏa mãn ¾ nhu cầu 26,1 - Đáp ứng ½ nhu cầu 33,5 - Chỉ vay được ¼ nhu cầu 29,8 Nguồn: VCCI, 2008 Nguyên nhân của tình trạng trên có thể liệt kê là: Lãi suất cao, thiếu tài sản thế chấp, vướng mắc về thủ tục hành chính, khó khăn về lập phương án kinh doanh. Trong số các nguyên nhân kể trên, lãi suất cao chiếm tỷ lệ cao, khoảng 73,8%( Nguồn: VCCI, 2008). Doanh nghiệp phải hoạt động có lãi trên 20% mới đủ trả lãi vay ngân hàng đã là một vấn đề hết sức khó khăn chưa kể đến phần lợi nhuận đủ để trang trải các chi phí khác của doanh nghiệp. 2.3.1.3 Những cản trở trong việc hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo cuôc điều tra gần đây của Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có trên 32% DNNVV có khả năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng (chủ yếu là NHTM), trong khi đó có hơn 35% số DNNVV khó tiếp cận và trên 32% số doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ các ngân hàng và từ chính các DNNVV. 2.3.1.3.1 Từ phía các ngân hàng. - Trong thời gian trước đây, tỷ lệ lạm phát cao với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, NHNN giới hạn tăng trưởng tín dụng của NHTM không quá 30% khiến các NHTM hạn chế cho vay hoặc cho vay câm chừng. - NHNN bắt buộc các NHTM mua trái phiếu của Chính phủ với số tiền lớn khiến các NHTM khan hiếm nguồn tiền, đẩy lãi suất huy động lên cao, điều này dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng lên khiến các DNNVV không thể vay vốn. - Cơ chế thế chấp, tín chấp áp dụng đối với các DNNVV còn hạn chế khiến các doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vay vốn. 2.3.1.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Các doanh nghiệp chưa có một hệ thống sổ sách, báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch khiến cho các ngân hàng có ít thông tin về doanh nghiệp nên rất khó khi cho vay. - Các doanh nghiệp thường không có tài sản đảm bảo, về hình thức cho vay tín chấp thì hầu như là không thể vì đây là những doanh nghiệp nhỏ chưa tạo được thương hiệu, uy tín trên thị trường, hoạt động kinh doanh chưa ổn định. - Các DNNVV chưa có kỹ năng lập dự án nên rất khó thuyết phục được ngân hàng. 2.3.1.4 Thực trạng về Quỹ bảo lãnh tín dụng. Nghị định 90 và một số văn bản của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng, nhưng đến nay chỉ có 9 tỉnh đang thí điểm hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng. Việc thành lập các Quỹ Bảo lãnh tín dụng còn một số bất cập trong quy định về góp vốn điều lệ, mức phí,… Hơn nữa các quỹ hoạt động không hiệu quả, nhiều địa phương còn sử dụng sai mục đích của Quỹ. 2.3.2 Thực trạng chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đất đai là một vấn đề lớn và khó giải quyết đối với các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội và là một trong những cản trở lớn nhất đối với đầu tư sản xuất – kinh doanh. Đât đai là nguồn tài nguyên quan trọng, có thể sử dụng làm tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó, nếu không có khả năng tiếp cận đất đai với chi phí và thủ tục hợp lý, quyền sử dụng và quyền chuyển giao không được đảm bảo thì các DNNVV sẽ không thể tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng phục vụ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Một thực trạng đang xảy ra ỏ Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đựoc giao đất và sử dụng không hiệu quả thì các DNNVV lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh bởi chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp đã có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiều công sức và tiền bạc. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương và Tổ chức trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa CHLB Đức (GTZ), một doanh nghiệp Việt Nam phải mất trung bình 230 ngày và 7 thủ tục để có được giấy chứng quyền sử dụng đất. Doanh nghiệp thường sử dụng đất để sản xuất kinh doanh trong khi không có giấy chứng quyền sử dụng đất. Tuy Chính phủ có quy định địa phương phải lập và công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhưng hiện nay các thông tin này thường không được công khai minh bạch, làm ảnh hưởng tới tâm lý ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những thủ tục liên quan đến đất đai ở các địa phương còn rườm rà và chưa minh bạch, đặc biệt mỗi địa phương khác nhau lại có những quy định khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thuê đất để sản xuất kinh doanh. Trên 53% DNNVV nước ta chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại và hầu hết phải sử dụng diện tích nhà ở của mình, hoặc đi thuê lại các diện tích nhỏ lẻ để làm trụ sở, cơ sở kinh doanh. Các doanh nghiệp sản xuất phần lớn cũng trong tình cảnh tương tự. Cách này thường được các DNNVV sử dụng bởi vì thủ tục thuê đất trực tiếp của Nhà nước thường quá phức tạp và mất thời gian, mặc dù giá thuê thường là khá cao. Bên cạnh đó, cũng có không ít các DNNVV phải đi thuê lại mặt bằng của các DNNN, các tổ chức, các cơ quan nhà nước với giá cao nhưng lại không thể đầu tư dài hạn để sản xuất vì thiếu đảm bảo pháp lý. Thời gian gần đây, nhiều địa phương đã tiến hành quy hoạch và xây dựng nhiều khu công nghiệp cụm công nghiệp nhỏ và vừa nhằm mục đích quy tụ các DNNVV vào sản xuất kinh doanh. Một số địa phương như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng nhiều khu, cụm công nghiệp tạo thuận lợi cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thời gian qua, nhất là sau khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực, với các cơ chế chính sách mới được ban hành, các doanh nghiệp đã tạo được nhiều điều kiện hơn để tiếp cận đất đai, mặt bằng. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế trung ương phối hợp với Cơ quan phát triển và trợ giúp quốc tế Đan Mạch (DANIDA) đối với các DNNVV (bao gồm cả hộ kinh doanh cá thể, các hợp tác xã) ở 10 tỉnh thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh và Long An) tiến hành năm 2007 cho thấy, chỉ có khoảng 10% DNNVV trả lời còn gặp khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất. Điều này cho thấy các chính sách về đất đai ở các địa phương đã được cải thiện đáng kể. 2.3.3 Thực trạng chính sách lao động và đào tạo lao động kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo báo cáo Môi trường kinh doanh 2007, Việt Nam là một trong những nước có cải cách về chính sách lao động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lao động và có chính sách hợp lý với người lao động. Điều này khiến cho các doanh nghiệp hoạt động tốt, thúc đẩy sản xuất. Công tác giáo dục, đào tạo đã đạt được một số kết quả nhất định: Hệ thống các trường, cơ sở đào tạo đã được hình thành và phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng; quy mô và số lượng học sinh được đào tạo ngày một tăng, tổ chức; chất lượng đào tạo đã từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu đội ngũ chuyên gia, giảng viên có kinh nghiệm về đào tạo doanh nghiệp, chương trình, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới, chủ yếu nặng về lý thuyết; máy móc thiết bị đào tạo cho trường dạy nghề còn thiếu và chậm đổi mới, chưa đáp ứng được nhu cầu. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo còn lỏng lẻo. Mặc dù chất lượng đào tạo đã từng bước được nâng lên xong nhìn chung còn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu cầu về lao động có tay nghề và kỹ thuật cao của doanh nghiệp là rất lớn xong vẫn chưa thể đáp ứng. Nhiều doanh nghiệp đã phải giành thời gian và kinh phí để đào tạo lại lao động trước khi đưa vào sử dụng. Mặc dù Nhà nước ngày càng quan tâm hơn đến các chương trình đào tạo ngồn nhân lực cho DNNVV nhưng do kinh phí thực hiện các chương trình này còn hạn chế, chất lượng và nội dung đào tạo chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu; và bản thân DNNVV cũng chưa thật sự quan tâm và nhận thức đầy đủ của tầm quan trọng của việc đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho doanh nghiệp, do đó chất lượng nguồn nhân lực của DNNVV còn bộc lộ nhiều hạn chế. 2.3.4 Thực trạng chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2.3.4.1 Những thuận lợi trong chính sách thuế đối với doanh nghiệp. Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn là một trong những vấn đề trọng tâm. Một trong những đạo luật đầu tiên được ban hành và áp dụng khi chuyển xang cơ chế thị trường là các luật thuế. Hệ thống thuế có sự cải cách cơ bản, chuyển từ ba hệ thống cũ xang một hệ thống mới thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế. Đến nay, chính sách thuế và hệ thống thuế đã được điều chỉnh sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế. Hệ thống thuế hiện hành gồm 9 sắc thuế cơ bản là: - Thuế giá trị gia tăng. - Thuế thu nhập doanh nghiệp. - Thuế tiêu thụ đặc biệt. - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. - Thuế sử dụng đất nông nghiệp. - Thuế tài nguyên. - Thuế thu nhập. - Thuế nhà đất. - Thuế chuyển quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó còn có một số loại thuế mang tính lệ phí như: Lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, lệ phí sân bay, lệ phí chứng thư và các loại phí như: phí qua cầu, phí qua phà. Đồng thời, thuế cũng được sử dụng trong các luật khác như Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm công cụ khuyến khích một số đối tượng trong một số ngành nghề và ở một số địa bàn, vùng lãnh thổ. Sự đầy đủ và hoàn chỉnh của hệ thống thuế có tác động rất lớn đến các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các DNNVV. Hệ thống thuế hoàn chỉnh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình; tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 2.3.4.2 Những hạn chế của chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhìn chung, hệ thống thuế và chính sách thuế mặc dù có nhiều cải cách nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các DNNVV xong vẫn còn nhiều hạn chế như: - Hệ thống chính sách thuế còn phức tạp do mỗi loại thuế còn nhiều mức thuế suất; nhiều trường hợp ưu đãi miễn giảm thuế cà thậm chí có một số loại thuế có cách tính thuế phức tạp. Tính phức tạp của hệ thống thuế còn biểu hiện ở chỗ có nhiều loại văn bản về một sắc thuế do nhiều cấp, ngành quy định, hướng dẫn nhiều khi gây lúng túng trong việc thực hiện thậm chí còn có những điểm gây mâu thuẫn, trái ngược gây tâm lý không tin tưởng đối với người nộp thuế. Sự phức tạp của chính sách thuế khiến cho các doanh nghiệp thường trốn thuế. Thủ tục xin miễn, giảm thuế và việc thẩm định rất phức tạp nên các doanh nghiệp thuộc diên được miễn giảm không mấy mặn mà cho lắm. - Chính sách thuế chưa ổn định, thường xuyên thay đổi trong thời gian ngắn; lộ trình sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách thuế và thực hiện các cam kết quốc tế còn diễn ra chậm, khiến các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc định hướng đầu tư kinh doanh. - Chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế, biểu hiện là: mỗi sắc thuế vẫn còn nhiều mức thuế suất, điều kiện ưu đãi, miễn giảm thuế giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa các DNNVV với các DNNN. - Cơ chế thu thuế còn thiếu khoa học, không chặt chẽ, chưa đảm bảo đúng sự độc lập giữa người định thuế, người thu và người kiểm tra thuế, nên vẫn mang tính áp đặt thuế từ cơ quan nhà nước, khó kiểm tra lẫn nhau thiếu cơ chế kiểm soát việc tính thuế dẫn tới việc định thuế còn tùy tiện. Bộ máy quản lý thuế còn kém hiệu quả, một số cán bộ còn non kém về trình độ, nghiệp vụ khiến một phần thuế bị thất thoát. 2.3.5 Thực trạng chính sách thương mại hỗ trợ phát triển doanh nghiêp nhỏ và vừa. 2.3.5.1 Chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Trong thời gian qua với nền kinh tế mở, thương mại của Việt Nam đã có sự thay đổi như đa dạng hóa sản phẩm và mặt hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến sâu, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu thô, khai thác tiềm năng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng truyền thống và nỗ lực tìm kiếm những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của các DNNVV Việt Nam vẫn còn gặp nhiều hạn chế như sau: - Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Nguyên nhân là do thiếu chính sách khuyến khích và chưa thực sự quan tâm đúng mức tới nghiên cứu cải tiến mẫu mã, thiết kế, chế tạo mẫu mới phù hợp thị hiếu, nhu cầu khách hàng. Hoạt động thiết kế mẫu mã đã có trong một số ngành như dệt may, gia dầy, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu nhưng còn nhiều hạn chế. Nhiều DNNVV còn phải dựa vào mẫu do khách hàng gửi đến. - Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu trong khi lao động ở các DNNVV nhìn chung đang dư thừa nhiều. Xuất khẩu dạng thô không những có giá trị sản phẩm thấp mà còn làm nhanh chóng cạn kiệt nguồn tài nguyên. - Trong mấy năm gần đây, tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc đầu tư cho công nghiệp chế biến chưa tương xứng với tốc độ phát triển của những ngành sản xuất nguyên liệu, nhất là nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Thực tê cho thấy, xuất khẩu hàng thô và sơ chế thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị xuất khẩu thấp, còn xuất khẩu hàng đã qua chế biến thì giá trị cao nhưng lại khó kiếm thị trường. - Chất lượng sản phẩm hàng hóa của DNNVV còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay cả trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. Nhìn chung, các DNNVV Việt Nam vẫn còn ở trong tình trạng sản xuất manh mún, các sản phẩm chỉ dừng lại ở một vài loại, không có nhiều sản phẩm “độc đáo”. Nguyên nhân là do bản thân các DNNVV còn yếu kém trong năng lực sản xuất và Nhà nước thiếu hệ thống chính sách hỗ trợ nói chung và hỗ trợ thương mại nói riêng đối với doanh nghiệp này trong nền kinh tế. 2.3.5.2 Chính sách thị trường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong mấy năm qua, chính sách thương mại của Việt Nam đã có nhiều tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thị trường nước ngoài, khai thông thị trường nội địa. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường trong thời gian qua còn một số hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô nhỏ. 2.3.5.2.1 Đối với thị trường nội địa. Việc xác định hệ thống các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thị chưa thực hiện hiệu quả. Trong thời gian qua, khâu này yếu vẫn do tư thương làm nhiều mà doanh nghiệp thương mại tư nhân vẫn là loại hình quy mô nhỏ buôn bán kiểu “phi vụ” qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh còn mang tính tự phát. Chưa có tổ chức, biện pháp hỗ trợ DNNVV trong nền kinh tế. Việc quản lý thị trường còn nhiều sơ hở, dẫn tới tình trạng hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và người sản xuất. 2.3.5.2.2 Đối với thị trường nước ngoài. Cac DNNVV rất thiếu thông tin về thị trường, khách hàng công nghệ, đối thủ cạnh tranh,… Một số doanh nghiệp chỉ có thông tin chắp vá, không có điều kiện kiểm tra. Vì vậy, các DNNVV thường chịu nhiều thua thiệt. Nhà nước đã cố gắng thay nhiều biện pháp phi thuế quan bằng các chinh sách thuế quan hiệu quả hơn. Song việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu còn được áp dụng tương đối nhều trong việc bảo hộ một số mặt hàng. Việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu có rất nhiều tác hại mà một trong những tác hại lớn do việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu gây ra tình trạng độc quyền khá nhiều dưới các hình thức khác nhau. 2.4 Đánh giá những tiến bộ đạt được trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 2.4.1 Những kết quả đạt được. Thứ nhất, Khung pháp lý liên quan đến khâu đăng ký kinh doanh (ĐKKD) và gia nhập thị trường của DNNVV đã được rút ngắn. Hiện tại các DNNVV khởi sự kinh doanh dễ dàng hơn nhiều so với một vài năm trước đây. Thủ tục, thời gian và chi phí liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp đã thật sự được cắt giảm. Kết quả dễ nhận thấy nhất đó là số lượng các doanh nghiệp thành lập mới trong những năm qua tăng mạnh mẽ (năm 2001 chỉ có 19.800 doanh nghiệp thành lập mới thì đến năm 2007 có 51.000 doanh nghiệp thành lập mới). Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng số lượng DNNVV (tính trên 10.000 người dân) tỷ lệ nghịch với thời gian cần thiết để thành lập doanh nghiệp. Nếu thời gian để tiến hành ĐKKD giảm thì số lượng DNNVV sẽ tăng lên. Và một khu vực DNNVV lớn mạnh là điều kiện của một nền kinh tế hùng mạnh. Dựa vào những con số này, có thể thấy, việc ĐKKD dễ dàng hơn cũng là một nhân tố đảm bảo các DNNVV sẽ không tồn tại một cách phi chính thức hay trốn tránh các quy định cần thiết của pháp luật để đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn, và vì vậy đảm bảo việc các doanh nghiệp sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế. Thứ hai, Các DNNVV tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Các ngân hàng hiện nay đã sẵn sàng hơn trong việc cho các DNNVV vay và tăng trưởng tín dụng ngân hàng đã tăng lên đáng kể. Các sản phẩm và dịch vụ tài chính cho DNNVV cũng tăng lên bao gồm hoạt động cho thuê tài chính và một vài hoạt động bao thanh toán bắt đầu được triển khai. Tiếp cận vốn là một nhân tố đầu vào quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp, bao gồm cả DNNVV, và là một nhân tố chính yếu quyết định sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là việc tiếp cận tài chính hiện nay đối với các DNNVV đã trở nên phong phú vì thực tế hiếm có quốc gia nào trên thế giới đạt được điều này. Trong tương lai, các DNNVV sẽ cần tiếp cận nhiều hơn tới các cách thức huy động vốn dài hạn – ví dụ: huy động vốn cổ phần, hoặc các khoản vay dài hạn hơn – nhằm tạo nguồn ngân sách để đầu tư vào công nghệ mới, để các DNNVV Việt Nam tiến xa hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ 3, Năng lực cạnh tranh của các DNNVV đã dần được cải thiện đáng kể. Năng lực cạnh tranh của các DNNVV ở Việt Nam vốn được coi là yếu, nhất là so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV giai đoạn 2004 – 2008 thực hiện theo Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là một trong những chương trình mang lại hiệu quả tích cực cho DNNVV. Chính phủ đã giành 119 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương cho Chương trình này để trợ giúp đào tạo về khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp và đào tạo nâng cao năng lực của giảng viên. Vài năm gần đây, ngân sách Trung ương của Chương trình tập trung bố trí cho 20 tỉnh miền núi, Tây Nguyên có khó khăn nhằm gia tăng số lượng, chất lượng của khu vực DNNVV ở các vùng khó khăn, đồng bào dân tộc. Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của DNNVV, hầu hết các địa phương đều bố trí một phần ngần sách để trợ giúp các DNNVV trên địa bàn. Một số tổ chức quốc tế, các dự án trong và ngoài nước triển khai thực hiện tại các địa phương cũng giành một phần kinh phí để đào tạo nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV. Thứ tư, Việc tạo dựng văn hóa kinh doanh cũng đã đạt được một số thành tựu mặc dù để thay đổi quan niệm về văn hóa và xã hội trong ngắn hạn là rất khó. Các doanh nhân hiên nay đã được xã hội coi trọng hơn, và đề tài doanh nghiệp đã và đang được giới thiệu ở nhiều chương trình phù hợp. Thứ năm, Gánh nặng trong thanh tra và kiểm tra tại các DNNVV đã được giảm nhẹ tại các DNNVV. Các chi phí nhằm tuân thủ các quy định là rất lớn ở các DNNVV khi các nhà quản lý phải dành một phần đáng kể thời gian của họ cho các đợt thanh tra, kiểm tra khác nhau, đặc biệt nếu các đợt thanh tra này không thực hiên với tần suất hợp lý, hay nói cách khác là không cần thiết. 2.4.2 Những vấn đề tồn tại. Mặc dù Luật phá sản năm 2004 đã được ban hành, song còn nhiều tồn tại liện quan đến việc đóng cửa và phá sản doanh nghiệp. Một thực tế là có rất nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng cuối cùng không thể tồn tại và đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau. Điều này là một phần vòng đời tự nhiên của doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp đóng cửa một cách chính thức, điều quan trọng là tài sản của các doanh nghiệp phải được tái sử dụng một cách có hiệu quả, để các doanh nghiệp khác có thể khai thác một cách triệt để. Tuy nhiên, ở Việt Nam các doanh nghiệp đóng cửa một cách chính thức tương đối hiếm. Thay vào đó, phần lớn các DNNVV đi vào trạng thái tạm ngừng hoạt động thay vì thực hiện các thủ tục cần thiết để giải thể doanh nghiệp. Mặt khác, các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh chỉ có số liệu về các doanh nghiệp đăng ký thành lập mới chứ chưa có số liệu về các doanh nghiệp ngừng hoạt động. Các chính sách thuế đối với các DNNVV còn phức tạp, thời gian để tuân thủ các quy định về thuế vẫn còn khá nhiều so với các tiêu chuẩn trong khu vực. Các DNNVV vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, bởi nguồn lực khan hiếm trong điều kiện quốc gia đông dân số như Việt Nam. Các thủ tục về quyền sử dụng đất vẫn là một vướng mắc của doanh nghiệp, điều này gây cản trở doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề nghiệp đối với các DNNVV là một mục tiêu dài hạn phải có thời gian để đạt được quy mô đề ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng chất lượng đào tạo nghề đã dần tăng lên. Tiêu chí xác định DNNVV chưa rõ ràng. Tiêu chí xác định DNNVV trong Nghị định 90 có ưu điểm là đơn giản, dễ sử dụng song lại bộc lộ những hạn chế là: Vốn đăng ký (vốn điều lệ) chỉ là căn cứ ban đầu để xác định trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp, các nhà đầu tư với nhau và với bên thứ ba. Còn quy mô của doanh nghiệp được xác định thông qua chỉ tiêu vốn đầu tư thực hiện (bao gồm vốn cố định, vốn lưu động). Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, vốn của doanh nghiệp, nhất là vốn lưu động thường xuyên thay đổi tùy theo yêu cầu sản xuất - kinh doanh, nên tiêu chí vốn đăng ký (vốn điều lệ) không phản ánh thực chất quy mô doanh nghiệp. Tiêu chí về vốn cũng không phân biệt các ngành nghề mặc dù giữa các ngành có sự khác nhau. 2.4.3 Nguyên nhân của những yếu kém trên. 2.4.3.1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước. - Về mặt nhận thức: mặc dù Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số phân biệt giữa các DNNVV với các DNNN. - Về thể chế chính sách: Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng để phù hợp với hòan cảnh mới, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa ổn định, chồng chéo, thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao làm cho các DNNVV gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Cải cách hành chính diễn ra chậm khiến doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian và tiền bạc. - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đối với việc khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển DNNVV còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ công chức thực hiện nhiêm vụ còn thiếu và yếu, nhất là đối với các cơ quan cấp huyện, xã, một số cán bộ còn sách nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Ở một số khâu, bộ máy còn xảy ra tình trạng thiếu các phương tiện làm việc, dẫn đến sự quá tải, chậm chễ trong việc giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp. - Nhà nước vẫn dồn một số lượng lớn vốn đầu tư vào các DNNV trong khi các DNNVV được rất hạn chế. Quỹ bảo lãnh tín dụng được vận hành kém, không hiệu quả. - Công tác quản lý doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh còn nhiều hạn chế, thường xuyên không thống kê được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, số các doanh nghiệp ngưng hoạt đông và giải thể. 2.4.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Phần lớn các DNNVV chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể. - Các DNNVV còn lúng túng trong viêc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một ngành nghề để cùng nhau phát triển. Hoạt động của một số các Hiệp hội DNNVV còn thiếu hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 3.1.1 Những yếu tố tác động tới sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cơ hội và thách thức. 3.1.1.1 Tình hình quốc tế. Kinh tế thế giới trong hai năm trở lại đây đang ở trong tình hình khủng hoảng nặng nề. Tất cả các nước đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc thoát ra khỏi khủng hoảng. Viễn cảnh nền kinh tế thế giới còn ảm đạm trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đánh giá chung thì nền kinh tế thế giới sẽ dần được phục hồi và phát triển, sẽ mang lại những cơ hội và thách thức mới. Quá trình hội nhập toàn cầu và khu vực nhất là sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO dẫn đến việc xuất hiện nhanh chóng các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như các thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của công đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng. Các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới không ngừng được phát minh và đưa vào thực tế sản xuất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. 3.1.1.2 Tình hình trong nước. Nước ta được thế giới đánh giá cao về sự ổn định cao về kinh tế - xã hội; nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành và vận hành có hiệu quả. Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng được phát triển bình đẳng, cam kết tạo điều kiện mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đã bắt đầu thích nghi với hội nhập. Đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng trong các năm qua, một số tập đoàn xuyên quốc gia đã có mặt tại Việt Nam, đây là một trong những yếu tố kích thích phát triển doanh nghiệp trong nước thông qua tiếp quản kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ,… 3.1.1.3 Những thách thức đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới. Tuy đã đạt được một số thành tựu trong việc phát triển kinh tế xong thực tế xuất phát điểm của Việt Nam còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tâng (đường xá, thông tin liên lạc, điện nước..) còn thiếu và yếu; mặt bằng sản xuất kinh doanh còn nhỏ bé lại xen lẫn các khu dân cư dẫn đến khó cung cấp các tiện ích công cộng và cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm. Khung pháp lý hỗ trợ đối với các DNNVV đã có xong vẫn chưa hoàn thiện, chưa được xây dựng một cách đẩy đủ. Các văn bản còn nhiều mâu thuẫn nhau, có khi mâu thuẫn giữa luật và các văn bản dưới luật. Thị trường nội địa kém phát triển và chưa hoàn chỉnh, tuy nhu cầu của dân cư là rất lớn, nhưng thu nhập hiện nay lại chưa cao nên các doanh nghiệp có ít cơ hội để đầu tư phát triển. Thiếu sân chơi bình đẳng cho các DNNVV phát triển, điều này thể hiện ở điểm Nhà nước vẫn giành nhiều ưu đãi hơn đối với các DNNN, gây tâm lý đối với các chủ doanh nghiệp. Hội nhập quốc tế khiến các doanh nghiệp phải chịu nhiều cạnh tranh hơn. Nhưng so sánh với các doanh nghiệp quốc tế thì DNNVV của Việt Nam thua thiệt về mọi mặt, khiến cho họ khó lòng cạnh tranh nếu như không có một cơ chế hỗ trợ kịp thời. Cải cách hành chính nhà nước diễn ra chậm, thiếu kiên quyết, bộ máy hành chính nặng nề hoạt động kém hiệu quả khiến các doanh nghiệp gặp nhiêu khó khăn khi giải quyết các vấn đề liên quan. 3.1.2 Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước. Theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm 2006 – 2010, quan điểm của Nhà nước ta về phát triển DNNVV như sau: - Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. - Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. - Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phát triển DNNVV gắn với các mục tiêu quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Chú trọng phát triển DNNVV ở cá c vùng xâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ưu tiên phát triển các DNNVV do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật, … làm chủ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển DNNVV đầu tư sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao. - Hoạt động hỗ trợ của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp xang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNNVV. - Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. - Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội. 3.1.3 Mục tiệu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Số doanh nghiệp thành lập mới khoảng 320.000 (hàng năm tăng khoảng 20%). - Tỷ lệ doanh nghiệp mới thành lập tại các tỉnh khó khăn là 15% đến năm 2010. - Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3% - 6% trong tổng số các DNNVV. - Tạo thêm 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006 – 2010. - Có thêm 165.000 lao động kỹ thuật làm việc tại các DNNVV. 3.2 Các nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 3.2.1 Tăng cường quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ nhận thức, quản lý của Nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung, doanh nghiệp nói riêng, bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về kinh tế - tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tê nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế - chính trị - xã hội đất nước. Ở mỗi quốc gia nền kinh tế thị trường có sự giông nhau là đều chịu sự tác động và chi phối của các quy luật kinh tế và các quy luật đặc thù của xã hội đó. Nhà nước nhận thức, vận dụng các quy luật đố vào quản lý điều hành nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện. Tùy bản chất kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và trình độ khác nhau về sự nhận thức, vận dụng các quy luật kinh tế của Nhà nước mà nền kinh tế của nước đó phát huy hiệu lực và hiệu quả khác nhau. Song cũng có sự khác nhau cơ bản xuất phát từ bản chất của mỗi quốc gia. Như vậy, việc vận hành cơ chế quản lý nhà nước ở nước ta đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và DNNVV nói riêng, không nằm ngoài những chính sách và cơ chế quản lý phải: - Một là, khuyến khích được những nhân tố tích cực trong đội ngũ doanh nhân nước ta – lực lượng chủ yếu làm giàu cho dân, cho nước. - Hai là, phát hiện, hạn chế những mặt sai trái của cơ chế thị trường, kịp thời phát hiện và sử lý những hành vi, vi phạm pháp luật, gây nên những tiêu cực tổn hại cho nền kinh tế. Căn cứ vào thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với DNNVV là: - Thứ nhất, tập trung sức để phát triển mạnh và xã hội hóa lực lượng sản xuất, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ kém hiệu quả phát triển lên phát triển ổn định vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Thứ hai, tập trung xây dựng nội lực trong xu hướng hội nhập. Đây là tiền đề và là điều kiện để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chu nghĩa. Nội dụng tăng cường quản lý nhà nước. Xây dựng chiến lược phát triển các DNNVV ở Việt Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể về phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực nói riêng. Tiếp tục xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ DNNVV phù hợp với tình hình kinh tế mới và định hướng mục tiêu phát triển. Hòan thiện một số chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn hiện nay cho DNNVV : vốn, mặt bằng kinh doanh, thuế. Xây dựng, ban hành, hướng dẫn và thực hiện các quy chế liên kết giữa DNNVV và các doanh nghiệp lớn, giữa các DNNVV với nhau để nâng cao tính cộng đồng, bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích của chính các doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế chính sách để theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để kịp thời chỉ đạo hướng dẫn các doanh nghiệp trong lúc khó khăn. 3.2.2 Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các doanh doanh nghiệp nhỏ và vừa. 3.2.2.1 Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các DNNVV phải xây dựng phương án sản xuât kinh doanh mang tính khả thi cao làm cơ sở vay vồn, nội dung của phương án tập trung vào các vấn đề: Mục tiêu cần đạt được. Dự tính được kết quả kinh doanh. Khả năng tiếp cận vốn. Khả năng hòan trả vốn. Phan tích tài chính kinh tế (dự toán tổng kinh phí đầu tư, chí phí tài sản cố định, vốn lưu động). Tổ chức quản lý sản xuất, lao động, đào tạo. Dự trù cần đối thu chi và kế hoạch vay trả ngân hàng. 3.2.2.2 Đối với các ngân hàng Cơ chế thế chấp, tín chấp cần có sự đổi mới, chỉnh sửa pháp lệnh về đăng ký giao dịch đảm bảo. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức đảm bảo bằng các khoản phải thu của doanh nghiệp chỉ cần doanh nghiệp cam kết thu tiền hàng qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản của doanh nghiệp mở tại ngân hàng. Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách trích trừ vào tại khoản của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp do thiếu thông tin nên chưa am hiểu các điều kiện và thủ tục vay của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng phải mở rộng thông tin, hướng dẫn thủ tục cho doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông hoặc qua các cuộc hội thảo,… Trợ giúp các doanh nghiệp trong khâu lập dự án kinh doanh. Nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm dịch vụ cho vay ưu đãi hơn đối với các DNNVV. 3.2.3 Đổi mới các chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh cho doanh nghiệp. Yêu cầu đổi mới chính sách đất đai đối với DNNVV nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, đồng thời phải thúc đẩy quá trình vận động và sinh lời của đất đai, mặt khác phải đảm bảo giữ gìn kỷ cương, pháp luật. Để hỗ trợ các DNNVV, việc hoàn thiện chính sách đất đai phải thực hiện một số vấn đề sau: - Nhà nước đứng ra thiết lập một thị trường bất động sản (trong đó có chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai). Cho phép các đối tượng sử dụng đất đai được chủ động sử dụng theo cơ chế thị trường và pháp luật quy định. Thiết lập một khung giá đất chung phù hợp với cơ chế thị trường. - Ban hành các văn bản dưới luật không được gây sự khó hiểu, không chồng chéo và mâu thuẫn nhau. - Thúc đẩy cải cách thủ tục, rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6163.DOC
Tài liệu liên quan