Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới

Tài liệu Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 86 Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới The theme of urban life in Ma Van Khang’s short stories in the renovation period ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân Trường Đại học Thủ Dầu Một Nguyen Thi Thanh Xuan, M.A. Thu Dau Mot University Tóm tắt Từ những năm 1980 trở đi, với mảng văn học viết về đời sống đô thị, nhà văn Ma Văn Kháng đã thực sự khẳng định tài năng và sức bút của mình. Truyện của ông đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh sinh động của cuộc sống con người. Bức tranh sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp, buồn phiền với bao nhiêu cái xấu rình rập vừa chứa đựng biết bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa cuộc đời, về cách làm người và trên hết vẫn là tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người, yêu thương cuộc đời của nhà văn. Từ khóa: đề tài, đời sống đô thị, truyện ngắn, Ma Văn Kháng, thời kỳ đổi mới. Abstract From the years 1980s onwards,...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 86 Đề tài đời sống đô thị trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới The theme of urban life in Ma Van Khang’s short stories in the renovation period ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân Trường Đại học Thủ Dầu Một Nguyen Thi Thanh Xuan, M.A. Thu Dau Mot University Tóm tắt Từ những năm 1980 trở đi, với mảng văn học viết về đời sống đô thị, nhà văn Ma Văn Kháng đã thực sự khẳng định tài năng và sức bút của mình. Truyện của ông đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh sinh động của cuộc sống con người. Bức tranh sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp, buồn phiền với bao nhiêu cái xấu rình rập vừa chứa đựng biết bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa cuộc đời, về cách làm người và trên hết vẫn là tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người, yêu thương cuộc đời của nhà văn. Từ khóa: đề tài, đời sống đô thị, truyện ngắn, Ma Văn Kháng, thời kỳ đổi mới. Abstract From the years 1980s onwards, in a part of Ma Van Khang’s short stories written about urban life, he has actually confirmed his talent and ability. His stories open up a a vivid panorama of human life. The panorama is not only about daily life with its difference kinds of complication, melancholy, evils but also contains lots of personal philosophy about the meaning of life, about how to act as a man and about the writer’s compassion, humanity, beneficence above all. Keywords: the theme, of urban life, short story, Ma Van Khang, renovation period. 1. Mở đầu Ma Văn Kháng không chỉ là cây bút truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng, mà còn là một nhà văn được đánh giá thành công trên phương diện đề tài sáng tác (đề tài đời sống miền núi và đời sống đô thị). Bắt đầu sáng tác từ năm 1961 với truyện ngắn Phố cụt, đến nay trên 50 năm miệt mài lao động và sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã chứng tỏ thương hiệu là một cây đại thụ của văn học Việt Nam đương đại. Ông đã tự khẳng định vị trí của mình bằng những tác phẩm văn chương đích thực, gồm trên chục tiểu thuyết và khoảng hơn 200 truyện ngắn, tạp bút, tản văn cùng 3 tập sách viết cho thiếu nhi, một hồi ký văn chương. Với Ma Văn Kháng, viết là để bảo vệ, khẳng định những giá trị chân chính của cuộc sống, con người, nên dù ở đâu, viết về đề tài nào ông cũng dành những tình cảm ưu ái cho con người, vì con người, bởi“con người là thước đo mọi sự” [3; 377]. Đề tài viết về đời sống thành thị thời kinh tế thị trường đầy phức tạp trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước sau chiến thắng 1975 hầu hết được Ma Văn Kháng sáng tác sau 1980, đây cũng chính là đóng góp quan trọng của ông NGUYỄN THỊ THANH XUÂN 87 mà với nó, ông được xếp vào đội ngũ những cây bút tiên phong mở đường cho việc đổi mới nền văn xuôi nghệ thuật của dân tộc. Sự nổi tiếng của thương hiệu Ma Văn Kháng là điều dễ hiểu bởi khả năng sáng tạo và thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn của ông. 2. Sự khẳng định sức bút với đề tài về thành thị thời kinh tế thị trường Sau hơn 20 năm gắn bó với mảnh đất Lào Cai - quê hương thứ hai của mình, Ma Văn Kháng giã từ miền núi trở về Hà Nội với cuộc sống đô thị thời hội nhập. Xã hội Việt Nam sau những năm 80, nhất là từ năm 1986 bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế thị trường cùng quá trình đô thị hóa đã góp phần thúc đẩy sự giàu mạnh về đời sống vật chất của con người. Thế nhưng cũng xuất phát từ đây nảy sinh nhiều vấn đề nhức nhối, nan giải, làm xáo trộn và gây áp lực căng thẳng trong đời sống xã hội. Trong cơn lốc của thời kinh tế thị trường nhiều giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tốt đẹp có nguy cơ bị phai nhạt, đảo lộn, sự thờ ơ, lối sống đạo đức giả, sự bất ổn, phi lý luôn đe dọa, rình rập, bám riết cuộc sống con người... khiến nhà văn bị ám ảnh và không khỏi bùi ngùi, lo lắng. Bức tranh sinh hoạt đời thường vừa có sự đa tạp, buồn phiền với bao nhiêu điều bất ổn vừa chứa đựng bao triết lý nhân sinh về ý nghĩa cuộc đời, về cách làm người. Tất cả những câu chuyện tưởng chừng như vặt vãnh đó đã cho thấy: “nguyên tắc tư duy tiểu thuyết đã mở rộng tối đa khu vực tiếp xúc giữa mảng truyện ngắn viết về đời sống thành thị của Ma Văn Kháng với cuộc đời phồn tạp” [7; 18]. Viết về đề tài đời sống thị thành thời hiện đại, bên cạnh các cây bút như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp... Ma Văn Kháng đã có sự chuyển hướng rõ rệt trong tư duy nghệ thuật, cái nhìn sử thi trước đó đã được thay thế bằng cái nhìn tiểu thuyết, khoảng cách giá trị giữa người kể chuyện và đối tượng trần thuật được rút ngắn tới mức tối thiểu. Với Ma Văn Kháng viết văn là “để nối lời, tiếp lời, đúng hơn là để đối thoại, tranh biện với các ý thức xã hội, ý thức nghệ thuật của thời đại” [7; 5]. Dồn bút viết về cuộc sống đời thường nơi thành thị, thực sự một “hiện tượng Ma Văn Kháng” đã gây được ấn tượng mạnh trong lòng bạn đọc và giới phê bình khi ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện ngắn: Ngày đẹp trời (1985), Heo may gió lộng (1992), Trăng soi sân nhỏ (giải thưởng văn học Đông Nam Á 1995), Ngoại thành (1996), Vòng quay cổ điển (1997), Đầm sen (1997), Một chiều giông gió (1998), Một mối tình si (2001), Trốn nợ (2008). Đọc tập truyện Ngày đẹp trời cùng những sáng tác văn xuôi sau những năm 1980 của Ma Văn Kháng ta thấy cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn “đã đạt tới một sự sâu sắc chín muồi đầy sự chiêm nghiệm đúc kết của một nhà văn từng trải, sống hết mình với cuộc đời, trăn trở băn khoăn cho số phận con người” [2; 51]. 2.1. Với khả năng nắm bắt những vấn đề của đời sống hiện thực một cách nhạy bén, tinh tế, Ma Văn Kháng đã bày tỏ những quan điểm tư tưởng nghệ thuật sâu sắc về mọi vấn đề liên quan tới cuộc sống con người đô thị trong xã hội hiện đại và xoáy sâu vào các chủ đề thế sự nóng hổi. Nhịp sống hối hả, nhộn nhịp của đô thị đang từng ngày từng giờ chi phối vào một bộ phận dân cư chỉ chạy theo lối sống thực dụng, xô bồ, vật chất mà đánh mất lương tri, đạo lí ở đời. Dưới tác động của đồng tiền và sự xuống cấp của xã hội, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp trở nên ngả nghiêng, chao ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 88 đảo. Quan tâm sâu sắc tới vấn đề gia đình thời mở cửa, trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn nhà văn đưa ra một câu hỏi nghi vấn chứa đựng luận đề: “Ôi... Gia đình... gia đình giọt nước của biển cả, cá thể của xã hội, liệu có vững vàng trong cuộc sống xây dựng đang có nhiều khó khăn, lắm bê bối này?”. Tác giả còn đặt ra cho người đọc vấn đề quan trọng: Làm thế nào để giữ gìn gia đình, các nền tảng đạo đức truyền thống trước bão táp của nền kinh tế thị trường và làm sao để dung hòa được cuộc sống vừa có vật chất đầy đủ vừa có một đời sống tinh thần tốt đẹp? Gia đình là tế bào của xã hội. Mỗi con người khi sinh ra đã gắn bó với bao tình thân máu mủ ruột rà hết sức thiêng liêng bền chặt. Vậy mà những tình cảm thiêng liêng ấy đang ngày một bị thui chột bởi sự tha hóa của con người, đặc biệt là một bộ phận lớp trẻ - thế hệ của tương lai. Đời sống vật chất ngày càng no đủ thì dường như tình người có sự phai lạt, sự đánh mất gốc rễ đáng là điều phải lên án. Những truyện ngắn như Đợi chờ, Quê nội, Mẹ già, Ngày chủ nhật mưa ngâu, Thầy của chúng em, Nhà nhiều tầng đã phản ánh rất rõ về vấn đề này. Ma Văn Kháng đã đưa những câu chuyện tưởng như vặt vãnh như: chuyện anh em, chị em, chuyện cô cháu, chuyện xung đột giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa chị chồng em dâu, chuyện cô gái nhất thời chạy theo bản năng mà lấy phải người chồng chẳng ra gì (Chọn chồng), chuyện cô gái xinh đẹp bị người đời ganh ghét, đố kị (Chị Thiên của tôi)... vào truyện ngắn của mình. Những câu chuyện buồn ấy như dội vào mỗi chúng ta một nỗi lo lắng trăn trở trước những mối quan hệ giữa con người ngày một đáng ghê sợ. Vì sao con người ta lại chai sạn tàn nhẫn trước những tình cảm máu mủ ruột thịt như vậy? Tất cả chỉ vì con người ta chỉ biết yêu mỗi bản thân mình, vì thói vụ lợi, tính ích kỷ, vô nhân tính, mà anh trai có thể cướp vợ của em và đẩy em đến bước đường cùng, tâm thần, điên loạn (Mảnh đạn). Người chị gái vô học nhưng may mắn được hưởng lạc trong cuộc sống giàu sang với thói “học đòi hơi lố, cậy thế chồng” mà nhẫn tâm thờ ơ nguội lạnh trước cái chết của đứa em gái nghèo hèn tội nghiệp (Trung du chiều mưa buồn). Đứa con gái có học mà nhẫn tâm với người cha già sớm hôm mòn mỏi đợi chờ héo hắt nơi quê nhà, để rồi người cha vô vọng đi về cõi chết mà đứa con vẫn theo hưởng lạc ăn chơi (Đợi chờ). Cừ là đứa con trai trái tính trái nết lại phản bội Tổ quốc quê hương gây bao xót xa, đau đớn, nhục nhã cho mẹ già (Mẹ già). Phú là hiện thân của sự suy thoái nhân cách, vì cuộc sống xa hoa vật chất mà bội bạc với quê hương, Tổ tiên, cha mẹ, vợ con (Quê nội) Truyện Bồ nông ở biển chứa đựng triết luận về mối quan hệ bất hòa giữa mẹ chồng và nàng dâu, được triển khai từ lời bài hát “Nàng dâu bắt chấy cho mẹ chồng bằng trông thấy bồ nông ở biển”. Câu chuyện Người giúp việc là nỗi suy tư ngậm ngùi về thân phận và cách ứng xử giữa con người với con người. Chuyện kể về bà cụ Mạ ở nông thôn ra thành thị giúp việc cho gia đình Hoằng. Bà cụ Mạ là hiện thân của sự hy sinh tần tảo, phúc hậu giúp đỡ công việc nhà một cách chu đáo. Bà hết mực yêu thương hai cháu nhỏ như người ruột thịt và chính bà như là bà tiên cô Tấm của hai đứa con Hoằng. Thế nhưng đáp lại công ơn của bà là thái độ hết sức phũ phàng, coi thường và xúc phạm, nhục mạ muốn đòi bà ra khỏi nhà của vợ và mẹ vợ Hoằng. Và sau cuộc gây gổ của vợ, Hoằng đành cho bà “nghỉ phép”. Cũng chính từ những “tệ hại quá quắt vì những NGUYỄN THỊ THANH XUÂN 89 thói tật thâm căn cố đế cổ truyền không sao gột rửa được” ấy là nguyên nhân khiến ông Tường (Giải nguyền) phải chịu những oan ức vì bị hiểu lầm, tủi cực, đau đớn từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong cuộc sống hiện đại tồn tại đầy rẫy những kẻ ngu dốt, đểu giả, ngô nghê, lố bịch. Chủ tịch xã Chiến là kẻ vô học lại đểu giả, hung hãn (Người đánh trống trường). Trong truyện ngắn Vòng quay cổ điển những kẻ muốn đến chinh phục Uyển, từ những bậc lão thành như ông già góa vợ, ông chủ tịch huyện về hưu, ông trung tá công an tới bọn thanh niên loai choai cậy quyền học đòi... tất cả đều giống như một “lũ ngẩn ngơ” hiếu danh, lố bịch. Cái Tý Ngọ là đứa “tiên thiên bất túc” đã xấu người lại xấu cả nết, nó là hiện thân của những kẻ vô học, yểu nhược chỉ biết lấy sự đê hèn làm phương tiện để tồn tại, nó bị mọi người trong cơ quan khinh ghét đề nghị sa thải. May thay nhờ tấm lòng độ lượng của ông Hoàn giám đốc nâng đỡ nó và cho nó chỗ làm. Nào ngờ nó là đứa ăn cháo đá bát, khi ông Hoàn thôi chức giám đốc nó dựng chuyện bôi xấu nhục mạ, vu cáo ông, nó bảo ông Hoàn “cho nó một thì lột của nó mười” và bảo rằng ông Hoàn là “con dê cụ” đã từng gạ gẫm nó (Cái Tý Ngọ). Có nhiều truyện ngắn xuất sắc của nhà văn thành công về đề tài này, thể hiện ngay từ các nhan đề: Chọn chồng, Nhà nhiều tầng, Mất điện, Mẹ và con, Mẹ già, Cô giáo chủ nhiệm, Người giúp việc, Người đánh trống trường, Một chốn nương thân, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân nhỏ, Khách trọ, Tổ trưởng dân phố, Chuyến xe buýt cuối ngày, Chị em gái, Trốn nợ, Nữ họa sĩ vẽ chân dung... Ma Văn Kháng không chỉ kể lại mà còn phân tích, lý giải luận bàn hết sức sâu sắc hùng hồn về toàn bộ bức tranh đời sống hiện thực. Từ đó nhà văn hướng vào “khám phá cái ngả nghiêng chao đảo, sự vênh lệch, trật khớp của con người và đời sống của con người”. Bởi vậy truyện ngắn của Ma Văn Kháng thường không giới hạn ở mức độ miêu tả mà “mang chiều sâu của một triết luận nhân bản về đời sống” [7; 5]. Mảng truyện ngắn đặc sắc viết về đề tài đời sống đô thị hiện đại của Ma Văn Kháng tạo cho người đọc một cảm giác âu lo trước nỗi đời bao chuyện đắng cay, khốn khó, đốn mạt, trước một thực tế cuộc sống thành thị đầy những bất trắc. Sự thiếu hụt về nhân tính thói vụ lợi tầm thường, lối sống ích kỷ, căn bệnh lãnh cảm... tất cả là những nguyên nhân đang ngày một bào mòn những mối quan hệ hồn nhiên giản dị của đời sống con người. Những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng như tình cha con, mẹ con, tình thầy trò đang có nguy cơ bị thui chột ở một bộ phận lớp trẻ tha hóa nhân cách. Các truyện ngắn: Mảnh đạn; Trung du chiều mưa buồn; Heo may gió lộng; Trăng soi sân nhỏ; Chọn chồng; Cô giáo chủ nhiệm; Đợi chờ; Mất điện; Quê nội; Mẹ già... đều thể hiện rõ về tinh thần ấy. 2.2. Cuộc sống đô thị trong cảm quan của nhiều người có những ma lực hấp dẫn lớn bởi đó là chốn phồn hoa với nhiều cơ hội đủ đầy, tốc độ kinh tế phát triển nhanh, điều kiện sống tốt. Thế nhưng trong nhiều truyện ngắn của Ma Văn Kháng vấn đề không gian đô thị thực sự gợi mở nhiều điều xót xa, cay đắng. Trong truyện ngắn Một chốn nương thân, vợ chồng Huấn và Xuân ước ao có được một mái nhà để khỏi phải “ăn nhờ ở đậu” nhưng họ đã đi hết cửa này đến cửa khác chỉ nhận được lời hứa suông. Những giọt nước mắt của Huấn khi chứng kiến cảnh vợ mình và bà Nông gây chiến ở cơ quan là đỉnh điểm của sự khổ nhục. “Huấn có ước ao điều gì quá lớn lao ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 90 đâu. Mỗi một miếng ăn, một nơi trú ngụ, một công việc - nỗi mong muốn nhỏ nhoi mà sao giống như một công cuộc lớn, phải bỏ vào đấy bao nhiêu tâm sức mà vẫn không xong, trời hỡi, sao lại khổ cực thế này!”. Những tưởng cái đói, miếng ăn, sự tù túng bởi không gian sống chật hẹp, lối sống ích kỷ, tị nạnh chỉ bắt gặp trong xã hội 30 - 45 trong những tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố nào ngờ ở thời hiện đại, ngay chốn thị thành điều này lại được thể hiện riết róng trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Truyện ngắn Trốn nợ gửi tới người đọc triết lý: “Ôi! Nghèo khổ bần hàn là cái tội cái nợ, là nỗi đau đớn của cả kiếp người. Của bao kiếp người! Nghèo khổ, cái nợ tông đồ! Cái gông xiềng của chúng sinh! Nhưng để thoát ra khỏi nó mà vẫn là người lương thiện đâu có dễ dàng gì!”. Câu chuyện Thoạt kỳ thủy là nước kể về nhân vật Moan sống trong “một căn hộ ở khu dân cư mới hình thành ở xa xôi tít tịt phía nam thành phố”, nửa đêm thức dậy đi lấy nước máy nhưng chờ mãi, đợi mãi khi tới lượt mình thì bị mất nước. Nước rửa cả một ngày trời trông đợi ở cả giây phút này đây, dòng nước như dòng đời đang tuôn chảy ào ào bỗng dưng tắc nghẹn và rồi bị tịt hẳn. Cảnh dòng người đông hun hút thùng to, thùng nhỏ xếp hàng chờ nước, những cuộc dành dật xô xát xảy ra. Đúng là tấn bi kịch của đời thường, Moan thốt lên: “Chao ôi! Cuộc sống thường nhật giản dị, đơn điệu là vậy chứ có gì là phiêu lưu mạo hiểm đâu mà sao lại lắm kịch tính như vậy, hả trời! Đơn giản làm sao cái việc hứng nước mà như neo cả số phận mình vào nó, mà như thấy cả kiếp người vật vã ở đó”. Chốn thị thành hiện lên trong từng tác phẩm của Ma Văn Kháng thật phức tạp, đầy những bon chen, cạm bẫy. Lối sống lọc lừa, tàn nhẫn cùng bao nhiêu thói xấu nảy sinh trong đời sống thường ngày. Quả thật: “Mảng truyện ngắn viết về cuộc sống thành thị của Ma Văn Kháng không phải là những tiếng reo hân hoan trước sự thăng hoa của tình đời, tình người. Đằng sau câu chữ của những tác phẩm ấy, người đọc nhận ra tiếng nói ngậm ngùi, cảm khái chứa đựng tình thương và nỗi buồn mênh mông trước một nhân thế đang phai lạt nhân tình” [7, tr. 20]. Nhà văn đặc biệt quan tâm tới số phận những con người bé nhỏ trong cuộc sống muôn vàn phức tạp đan xen hiện nay. Ông lách sâu ngòi bút vào chủ đề gia đình với các mối quan hệ phức tạp, tác giả cũng dành nhiều trang viết về thân phận người trí thức trong xã hội hiện nay, đặc biệt ông dành nhiều tình cảm trân trọng yêu thương đối với số phận người phụ nữ. Từ thân phận của những con người nhỏ bé vô danh với cuộc sống mưu sinh khó nhọc giữa đời thường, thông qua những câu chuyện vặt vãnh, mè nheo gắn với sinh hoạt hằng ngày từ trong mỗi gia đình ra ngoài xã hội Ma Văn Kháng cất lên một tiếng nói thâm trầm về lẽ đời về tình người. Ông kêu gọi con người sống chan hòa và đừng đánh mất tình thương yêu giữa con người với con người. 2.3. Đến với bức tranh đời sống thành thị trong xã hội hiện đại của truyện ngắn Ma Văn Kháng người đọc vừa chứng kiến những chuyện đời đầy phức tạp “thật lắm đa đoan và buồn phiền”. Bên cạnh đó còn có những mạch khuất lấp của cuộc sống đời thường ẩn chứa một niềm tin tưởng, lạc quan của tác giả về sự hồn nhiên và bản tính lương thiện của con người thông qua cuộc đời lao động vất vả kiếm sống mưu sinh. Nhà văn hy vọng vào những điều tốt đẹp xuất phát từ ý thức, lý trí và tính năng động, hướng thiện cái căn cốt tiềm ẩn ở chiều sâu bản chất con người. Những sắc NGUYỄN THỊ THANH XUÂN 91 thái trữ tình trong trang văn của ông toát lên những vẻ đẹp nhân sinh cao cả, là tiếng reo hân hoan trước sự thăng hoa của tình đời tình người. Điều đó có khả năng lan tỏa và thuyết phục lòng người. Đó là ông Nhân (Đợi chờ) cả cuộc đời hy sinh, lo lắng và dành tình yêu thương hết mực cho con, mong cho con được hạnh phúc sung sướng. Là bà cụ Vi (Mẹ già) là bà mẹ luôn sống vì con, sống nghĩa tình với bà con lối xóm. Anh Thiều (Anh thợ chữa khóa) với “tiếng rao trẻ trung, tựa như lọt ra từ một cơ thể tràn trề sinh lực và được nuôi dưỡng trong nâng niu trìu mến”, anh đã “tặng cho đời sống một nốt nhạc nhỏ, góp vào khúc hòa tấu vui vẻ của đời người”. Bà cụ Mạ (Người giúp việc) với “một tình yêu thương cao cả, tự nhiên”. Ông Thại (Tóc Huyền màu bạc trắng) là con người “ở trên những buồn phiền, lo âu, ở ngoài những nhọc nhằn đau đớn”. Bà mẹ và vợ anh Luyến (Mất điện) sống ngay thẳng, sẵn sàng làm việc vì người khác. Chị Hồng (Một mình đi trong mưa) dành hết thảy tình thương và sự hy sinh vì chồng vì con. Chú bé Kiểm dẫu bị thiếu thốn, dập vùi nhưng lòng tràn đầy vị tha và yêu thương kẻ khác, dì ghẻ đối xử tàn tệ thì quyết ra đi lập nghiệp, nhưng khi nghe tin dì bị đau yếu Kiểm lại quay trở về thăm hỏi và chăm sóc hai em (Kiểm chú bé - con người). Ông Khang và đứa cháu nội (Bát ngát trời xanh) từ tình yêu loài vật “là đặc tính tự nhiên của con người” tới chân lý làm người “Sự sung sướng, vui vẻ của ta, rất không nên có trên nỗi đau tủi của kẻ khác” Trong thế giới nhân vật của Ma Văn Kháng, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, người trí thức luôn giữ vai trò quan trọng, là linh hồn và tư tưởng của nhiều tác phẩm. Nhà văn truyền vào lòng người đọc nỗi cảm thương sâu sắc, sự cảm thông đối với người trí thức trước gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền và còn biết bao cạm bẫy chằng chịt giữa đường đời. Cuộc sống đô thị thời hiện đại thật bộn bề, chen lấn, người trí thức biết né tránh đi đâu giữa bão táp cuộc đời. Vì muốn được giữ mình trong sạch nên người trí thức đã rơi vào bi kịch cuộc sống. Họ phải chịu biết bao buồn đau, tủi nhục, hạnh phúc bị tước đoạt, thất bại đớn đau. Vậy nguyên nhân sâu xa là do đâu? Đó là do tình thế xã hội đảo điên, cái xấu cái ác lộng hành, những mưu toan đen tối, thói a dua, xu nịnh vô đạo đức của một số phần tử đội lốt trí thức. Cũng viết về người trí thức nhưng Nguyễn Huy Thiệp thường chỉ thấy ở họ sự đê tiện thối nát và coi đó là “sự ngu dốt của bọn có học”, còn Ma Văn Kháng dường như luôn hướng ngòi bút của mình tới cái chân - thiện - mĩ và tin rằng nó sẽ tồn tại trong cuộc đời. Nhà văn tỏ lòng yêu quý, trân trọng và còn kỳ vọng đối với những nhân cách cao đẹp biết gạt đi những vặt vãnh, vụn vặt đen tối của đời thường để sống đời trong sạch. Đó là thầy Tụng (Thầy của chúng em) dù cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, tai ương, nghiệt ngã nhưng thầy không thể chết vì có sự tiếp sức cổ vũ của “những gương mặt học trò quen thân vây quanh dường bệnh sát vai nhau như một tấm tường liền”. Nam trong Trăng soi sân nhỏ là một con người có nhân cách cao đẹp, là một nhà văn, nhà báo có cách sống đúng mực, ngại đua chen danh lợi, dửng dưng trước bạc tiền. Ông Huynh (Thầy đàn) là một người tài hoa, sắc sảo, là một kẻ trí thức toàn năng, một kho báu hiểu biết về mọi lĩnh vực trong đời sống. Cuộc sống vốn là bức tranh muôn màu, còn nhiều nỗi đắng cay, ngang trái hiện hữu giừa đời thường nhưng những trang văn của Ma Văn Kháng vẫn ngời lên một niềm tin vào sự tốt lành, tin vào chiều ĐỀ TÀI ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TRUY N NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 92 sâu bản ngã ân tình, thủy chung của con người. Điều đó góp phần làm cho bức tranh đời sống thêm sinh động, đa sắc màu khiến con người ta thấy có ý nghĩa và đáng sống hơn giữa cuộc đời. 3. Kết luận Ma Văn Kháng hội tụ những nét sắc sảo của văn phong đồng thời những vấn đề được ông đề cập trong tác phẩm đã nâng lên nỗi ám ảnh nhức nhối khôn nguôi. Sống trong môi trường đô thị thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, mối quan tâm lớn nhất của nhà văn lúc này là số phận con người - những con người nhỏ bé, bình thường trước thực trạng xã hội ngày càng xuống cấp, nhân tình thế thái đảo điên, thiện - ác, thị - phi khó mà phân biệt rạch ròi, đạo đức luân lý như bị đảo lộn. Ngòi bút của nhà văn đã thực sự bám rễ vào cuộc sống hiện thực và ông đã mạnh dạn đứng trên lập trường phê phán, bức xúc với những tồn đọng, bất cập, tha hóa của con người, xã hội. Quan tâm tới mọi chiều kích của cuộc sống đời thường, mảng truyện ngắn viết về đề tài thành thị của Ma Văn Kháng đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh sinh động. Nhà văn đã lựa chọn một hệ thống giọng điệu thống nhất nhưng hết sức biến hóa xuyên suốt trong các sáng tác của mình. Những nỗi niềm cảm nhận từ bức tranh cuộc sống, những cảnh đời éo le, ngang trái đã tạo nên một giọng văn hết sức tha thiết, trầm tư sâu lắng và đầy chiêm nghiệm. Cũng có lúc nhà văn cất lên giọng điệu châm biếm đả kích bằng sự mô tả sát phạt những hiện thực trái ngang của cuộc sống, có lúc lại với một giọng văn thâm trầm, nhẹ nhàng, nhân hậu, lúc lại "buông thả" mọi chuyện. Cuộc sống giữa đời thường còn quá nhiều vất vả, khổ đau, nhọc nhằn thế nhưng ngòi bút của Ma Văn Kháng luôn thiết tha bày tỏ niềm yêu thương và tin tưởng với con người. Ông chắt lọc những gì tinh túy tốt đẹp của con người ẩn chứa sau những đa tạp, buồn khổ, trái ngang của cuộc đời. Nhà văn đã có những đóng góp thật mới mẻ, nổi bật, đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người, góp phần vào sự nghiệp đổi mới văn học hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Huệ (1998), “Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80”, Văn học, (2), tr. 51 - 57. 3. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, in trong Ma Văn Kháng, tiểu thuyết tập 6, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 4. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 5. Ma Văn Kháng (2008), Trốn nợ (tập truyện ngắn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 6. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975: những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục Việt Nam. 7. Lã Nguyên (2003), “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Lời giới thiệu trong Ma Văn kháng, truyện ngắn tập 1, Nxb Công an Nhân dân, tr. 5 - 30. Ngày nhận bài: 11/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf112_8423_2215164.pdf
Tài liệu liên quan