Đề tài Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ theo yêu cầu xây dựng trường trọng điểm quốc gia

Tài liệu Đề tài Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ theo yêu cầu xây dựng trường trọng điểm quốc gia: Lời mở đầu Đại học Kinh tế Quốc dân đã có lịch sử phát triển 46 năm. Vào đầu những năm 70 Đại học Kinh tế Quốc dân đã được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định là một trong sáu trường trọng điểm quốc gia. Trong đề án “Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2002” đã được Thủ tướng chính phủ chính thức phê duyệt tại quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2001 cùng xác định 10 trường trọng điểm quốc gia trong đó có Đại học Kinh tế Quốc dân. Tuy vậy, các văn bản trên đây cũng mới chỉ xác định vị trí các trường trọng điểm quốc gia mà chưa quy định cụ thể các tiêu chí đánh giá trường đủ tiêu chuẩn là trường trọng điểm quốc gia làm cơ sở để các trường xây dựng cơ cấu tổ chức và xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên nhà trường, xây dựng điều lệ tổ chức và quản lý nhà trường... Trong bối cảnh đó, Đại học Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu và xây dựng bước đầu “ Đề án xây dựng và phát triển nhà trường Đại học Kin...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ theo yêu cầu xây dựng trường trọng điểm quốc gia, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Đại học Kinh tế Quốc dân đã có lịch sử phát triển 46 năm. Vào đầu những năm 70 Đại học Kinh tế Quốc dân đã được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định là một trong sáu trường trọng điểm quốc gia. Trong đề án “Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2002” đã được Thủ tướng chính phủ chính thức phê duyệt tại quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2001 cùng xác định 10 trường trọng điểm quốc gia trong đó có Đại học Kinh tế Quốc dân. Tuy vậy, các văn bản trên đây cũng mới chỉ xác định vị trí các trường trọng điểm quốc gia mà chưa quy định cụ thể các tiêu chí đánh giá trường đủ tiêu chuẩn là trường trọng điểm quốc gia làm cơ sở để các trường xây dựng cơ cấu tổ chức và xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên nhà trường, xây dựng điều lệ tổ chức và quản lý nhà trường... Trong bối cảnh đó, Đại học Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu và xây dựng bước đầu “ Đề án xây dựng và phát triển nhà trường Đại học Kinh tế Quốc dân thành trường trọng điểm quốc gia đến năm 2010”, “Chiến lược phát triển trung hạn Đại học Kinh tế Quốc dân đến năm 2005”... Tuy vậy, các kết quả nghiên cứu này cũng chỉ phục vụ việc xây dựng dự án vay vốn phát triển nhà trường trong khuôn khổ dự án Đại học do Ngân hàng thế giới tài trợ. Việc áp dụng đề án này vào thực tế hoạt động của nhà trường đòi hỏi phải có các nghiên cứu sâu về các mặt hoạt động cơ bản của nhà trường như: công tác đào tạo, công tác nghiên cứu khoa học và tư vấn, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ... Trên thế giới hầu như chưa có nước nào xác định và xây dựng trong thực tế các trường trọng điểm quốc gia. Quan niệm về trường trọng điểm quốc gia đang sử dụng ở nước ta hiện nay có phần đồng nghĩa với mô hình trường tổng hợp của các nước, trong đó mô hình nhà trường 3 hoặc 4 cấp quản lý, cơ cấu tổ chức nhà trường được xây dựng trên cơ sở phát triển đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Xét theo các đặc điểm trình bày ở trên thì nước ta hiện nay chỉ có 2 trường đại học quốc gia (ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) là về cơ bản theo mô hình cơ cấu của trường trọng điểm quốc gia. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức để phát triển trường Đại học Kinh tế Quốc dân theo hướng xây dựng trường trọng điểm quốc gia và do mong muốn nghiên cứu cơ cấu tổ chức của trường, đề án này nhằm đóng góp một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức của trường theo hướng xây dựng trường trọng điểm quốc gia: Xác định yêu cầu của trường trọng điểm quốc gia đối với công tác tổ chức và cán bộ, nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức cán bộ của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ của nhà trường theo yêu cầu xây dựng Đại học Kinh tế Quốc dân trở thành trường trọng điểm quốc gia như đề án Xây dựng trường đến năm 2010 và Chiến lược phát triển trung hạn Đại học Kinh tế Quốc dân đến năm 2005 đã xác định. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức bộ máy trong quá trình thực hiện đề án xây dựng Đại học Kinh tế quốc dân thành trường trọng điểm quốc gia, em đã cố gắng tham khảo các tài liệu, khảo sát đánh giá tình hình thực tế nhà trường và kinh nghiệm của các trường tổng hợp quốc gia ở một số nước trên thế giới để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Tuy nhiên, do tính chất hết sức phức tạp và nhạy cảm của các vấn đề đề cập trong đề tài nghiên cứu (vấn đề cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ) lại được nghiên cứu ngay trên một đối tượng chưa được xác định rõ ràng (Trường trọng điểm quốc gia), vì vậy đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu các vấn đề chung có tính chất phương pháp luận và đưa ra một số giải pháp. Do thời gian nghiên cứu cũng như sự hiểu biết về cơ cấu tổ chức theo hướng xây dựng trường trọng điểm quốc gia của em còn có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cũng như của các bạn để đề án được hoàn thiện. Phần 1: Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ theo yêu cầu xây dựng trường trọng điểm quốc gia I. Trường trọng điểm quốc gia và các yêu cầu cơ bản đối với cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ. I.1.1. Trường trọng điểm quốc gia, phân biệt trường trọng điểm quốc gia với các trường khác. Sự hình thành hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có hệ thống các trường đại học Việt Nam là do nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước. Ngay từ đại hội VII, nhất là sau Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam và Luật giáo dục được Quốc hội nước ta thông qua thì vấn đề xã hội hoá giáo dục có bước phát triển mạnh mẽ. Xã hội hóa giáo dục là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá về chất lượng điều kiện dạy và học trong hệ thống giáo dục đại học. Nhận thức một hệ thống cấp chất lượng cao: cao, khá và đạt yêu cầu của các trường trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay và trong tương lai là yêu cầu thực tế khách quan. Mặt khác, nguồn vốn ngân sách đầu tư trong giáo dục và đào tạo là giải pháp có tính khả thi, cần thiết và mang lại hiệu quả. Hơn nữa sức ép về hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập về giáo dục đòi hỏi phải “sớm có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế” (Nghị quyết 2 TW khóa VIII). Từ đó Đảng và Nhà nước chủ trương đầu tư xây dựng một số trường trọng điểm quốc gia phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế bao gồm: 2 đại học quốc gia và 10 trường đại học lớn khác trong đó có trường Đại học Kinh tế Quốc dân (quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến 2020 - Bộ Giáo dục và Đào tạo 8/19990). Từ việc nghiên cứu các văn bản hiện hành của Đảng và Nhà nước, có thể quan niệm rằng: Trường đại học trọng điểm quốc gia là trường có vị trí trọng yếu trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam được Nhà nước ưu tiên đầu tư và tạo mọi điều kiện xây dựng để trở thành trường đầu ngành, có quy mô lớn, có chất lượng đào tạo rất cao, có khả năng nghiên cứu khoa học và thực hiện mọi nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội và được Đảng và Nhà nước giao cho là trường phát triển đa ngành, đa lĩnh vực, hội nhập với khu vực và quốc tế. Để phân biệt trường trọng điểm quốc gia với các trường khác ta có thể dựa trên một số các tiêu chí cơ bản: Về vị trí: Trường trọng điểm quốc gia giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam, là trường đầu tàu so với các trường khác. Trường là nơi đào tạo có uy tín và là địa chỉ đáng tin cậy của người học cũng như người sử dụng lao động. Về sự quan tâm đầu tư về mọi mặt của Nhà nước: Do tầm quan trọng của trường, trường được Nhà nước đầu tư nhiều hơn nhằm phát triển giáo dục đào tạo theo nhu cầu của đất nước: cơ sở vật chất và lượng giáo viên được ưu tiên hơn. Quy mô đào tạo: Trường trọng điểm quốc gia luôn có số lượng sinh viên đông và chất lượng đảm bảo. Mô hình tổ chức bộ máy: Khác với các trường khác trường trọng điểm quốc gia ít nhất phải có mô hình tổ chức bộ máy từ 3 cấp trở lên, bộ máy phân cấp mạnh mẽ và hoạt động hiệu quả. I.1.2. Những tiêu chí để xác định một trường trọng điểm quốc gia (Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2000: Những giải pháp chủ yếu đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ ở Đại học Kinh tế Quốc dân theo yêu cầu xây dựng trường trọng điểm quốc gia). * Trường hiện sẽ chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Là trường đầu tàu, đi đầu trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học ứng dụng kiến thức chuyên ngành vào dạy và học. Vị trí này có thể do Đảng và Nhà nước hoặc do tầm quan trọng đối với xã hội tạo nên. * Là trường đầu ngành của một ngành hoặc lĩnh vực đào tạo và phải đạt được một số tiêu chí cơ bản sau đây: + Là trung tâm đào tạo của một ngành hay lĩnh vực đào tạo, nôi đào tạo các kỹ sư, bác sỹ, cử nhân có trình độ cao, là nơi cung cấp các chuyên gia trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và là nơi đào tạo mọi cấp trình độ. + Là địa chỉ đào tạo có uy tín, đáng tin cậy của người học cũng như người sử dụng lao động. Sự tin cậy này dựa trên chất lượng đào tạo và khả năng đáp ứng các yêu cầu khắt khe của người sử dụng lao động. Đồng thời, là nơi có uy tín cao đối với các trường cùng chuyên ngành đào tạo. + Có đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học đông đảo có trình độ cao chiếm tỷ trọng cao trên tổng số cán bộ giảng dạy, có khả năng đáp ứng tốt nhất mọi nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học của chuyên ngành. + Chủ trì biên soạn khung chương trình, biên soạn bài giảng, giáo trình chuẩn quốc gia để làm cơ sở cho việc biên soạn bài giảng của các trường cùng ngành khác hoặc là các tài liệu tham khảo có độ tin cậy cao, có giá trị khoa học và thực tiễn. + Là trường có đủ cơ sở vật chất cần thiết để đáp ứng mọi yêu cầu về học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học vào thực tiễn. + Là nơi tiên phong trong việc sáng tạo kiến thức khoa học chuyên ngành và ứng dụng khoa học vào giảng dạy, học tập. * Được Nhà nước quan tâm đầu tư về mọi mặt, từ việc xây dựng hệ thống giảng đường, nhà làm việc, ký túc xá sinh viên, trang thiết bị dạy và học; đến đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ quốc gia và quốc tế, có đủ khả năng giảng dạy kiến thức hiện đại nhất hiện nay. Sự quan tâm của nhà nước được cụ thể hóa thông qua nguồn kinh phí thường xuyên và không thường xuyên. * Quy mô đào tạo phải tương xứng với vị thế và trách nhiệm của trường, chất lượng đào tạo phải đạt chuẩn quốc gia và từng bước tiếp cận với chuẩn quốc tế. Theo quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo, quy mô đào tạo của trường trọng điểm quốc gia khoảng 50.000 sinh viên quy đổi bao gồm các hệ, các cấp trình độ từ cử nhân đến thạc sỹ. * Mô hình tổ chức bộ máy của nhà trường phải hợp lý đủ sức đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao cho. Mô hình này phải tiên tiến, tiếp cận với mô hình tổ chức bộ máy của các trường lớn và nổi tiếng trên thế giới. Theo quan niệm của Nhà nước (Quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường Đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến năm 2020), trường trọng điểm quốc gia là trường được ưu tiên đầu tư về mọi mặt để xây dựng trường đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Mỗi thời kỳ nhất định Nhà nước lựa chọn một số trường nhất định dựa trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở vị thế và tầm quan trọng của trường đối với hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Hiện nay, Nhà nước xác định 2 loại trường trọng điểm trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm: Loại 1: Trường trọng điểm quốc gia gồm một nhóm trường được Nhà nước ưu tiên mức đầu tư cao nhất để đạt chuẩn quốc tế. Loại 2: Trường trọng điểm vùng gồm một số trường được lựa chọn theo vùng để nhà nước ưu tiên đầu tư nhằm đạt chuẩn quốc gia. Trong giai đoạn từ 5 hoặc 10 năm sau, Nhà nước sẽ thực hiện đánh giá và lựa chọn một số trường đại học khác để thực hiện ưu tiên đầu tư để nâng dần chất lượng các trường đại học Việt Nam nhằm tiếp cận từng bước với các trường chuẩn quốc tế. Như vậy, trường trọng điểm quốc gia không phải là bất biến, nó luôn được xác định theo điều kiện lịch sử và thời gian. Giai đoạn từ 2000 đến 2010, đại học Kinh tế quốc dân vinh dự được Nhà nước chọn là 1 trong 12 trường đại học trọng điểm quốc gia để thực hiện tập trung đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu (Quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường Đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến năm 2020). Dự án “Xây dựng Nhà quản lý trung tâm Đại học Kinh tế Quốc dân” với mức kinh phí khoảng 500 tỷ đồng là một minh chứng sinh động nhất. Vấn đề đặt là phải tiếp tục đổi mới xây dựng trường sao cho xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đổi mới bắt đầu từ đâu và từ bao giờ là những vấn đề hết sức phức tạp còn nhiều tranh luận, nhưng rõ ràng đã đến lúc phải đưa ra những phương án cụ thể nếu như không muốn quá muộn. Đổi mới phải được bắt đầu từ tổ chức bộ máy với cơ cấu tổ chức hợp lý hơn và công tác cán bộ liên quan đến cụ thể của quá trình đổi mới. Nếu chỉ quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất mà xem nhẹ hoặc chậm chạp trong việc đổi mới cơ chế quản lý và công tác cán bộ thì cũng không thể xây dựng thành công trường trọng điểm quốc gia theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. I.1.3. Những yêu cầu cơ bản đối với cơ cấu tổ chức bộ máy của trường trọng điểm quốc gia. Xây dựng trường trọng điểm quốc gia là quá trình chuyển biến trường đại học cả về chất và về lượng. Trước hết, quá trình chuyển biến về chất là yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với một trường được xác định là trọng điểm quốc gia. Chuyển biến về chất là quá trình đầu tư phấn đấu nhằm nâng dần chất lượng mọi mặt của nhà trường, từ chất lượng đội ngũ đến chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy hoặc các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy mà tựu chung là chất lượng cao của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh được hưởng thụ quá trình đào tạo. Tiếp theo, chuyển biến về lượng quá trình mở rộng quy mô đào tạo nhằm tăng thêm vị thế của nhà trường với xã hội. Tăng về quy mô đào tạo đòi hỏi nhà trường phải tăng đội ngũ cũng như những điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học. Sự chuyển biến về chất và về lượng trong nhà trường đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và tổ chức bộ máy của nhà trường. Chính vì vậy đó là nguyên nhân phát sinh những thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy trường trọng điểm quốc gia so với các trường đại học khác. Sau đây là một số yêu cầu cơ bản đối với cơ cấu tổ chức bộ máy trường trọng điểm quốc gia: * Giảm bớt mối quan hệ trực tuyến giữa lãnh đạo nhà trường với các đơn vị cơ sở. Xây dựng quan hệ thông suốt tạo thuận lợi cho sự chỉ đạo của cấp trên và cấp dưới, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận liên quan. * Tăng cường phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị thành viên trong tổ chức nhằm phát huy năng lực của các tổ chức thành viên và cá nhân. * Xác định cơ cấu hợp lý giữa các đơn vị thành viên là các phòng, ban chức năng tham mưu và các đơn vị phục vụ với các đơn vị đào tạo. Tăng cường các đơn vị chuyên hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Mạnh dạn đưa mô hình công ty tổ chức dịch vụ các trường học để thực hiện xã hội hoá các khâu phục vụ. * Thực hiện mô hình trường 3 cấp hoặc 4 cấp tuỳ theo quy mô và yêu cầu nhiệm vụ được giao của nhà trường. Nếu như quy mô của trường dạy là con số 50.000 sinh viên thì mô hình trường trọng điểm 3 cấp như hiện nay không còn phù hợp. I.2. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy của trường trọng điểm quốc gia. I.2.1. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy của trường trọng điểm quốc gia. Mô hình cơ cấu tổ chức là các mối quan hệ giữa đơn vị thành viên được xác lập trong một tổ chức dựa trên cơ sở quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới và đồng cấp. Các mối quan hệ này được thể hiện ở 3 nhóm như sau: Thứ nhất, quan hệ dọc, là quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tổ chức và cá nhân. Thực chất của quan hệ này là quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo. Quan hệ này được hình thành trên cơ sở nguyên tắc nhất quán: cá nhân phục tùng tổ chức, tập thể, cấp dưới phục tùng cấp trên. Đồng thời, quan hệ này còn dựa trên nguyên tắc dân chủ, tức là mọi quyết định được coi là hợp lý của tổ chức đều dựa trên sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số cán bộ, giáo viên, dựa trên lẽ phải và sự công bằng. Thứ hai, quan hệ chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ. Quan hệ này được hình thành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị phòng ban theo sự uỷ quyền của Hiệu trưởng hướng dẫn, chỉ đạo các nghiệp vụ đối vơí các đơn vị thuộc trường. Chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ là hoạt động theo hệ thống ngành dọc từ cấp trên đối với các đơn vị tổ chức thành viện dựa trên cơ sở chế độ chính sách Nhà nước quy định và các quy định, nội quy của Nhà trường. Thứ ba, quan hệ phối hợp thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. Mối quan hệ phổ biến trong trường là quan hệ phối, kết hợp giữa các đơn vị vì mục đích và công việc chung của nhà trường. Thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trong trường hình thành mối quan hệ phối, kết hợp trong công tác. Quan hệ này thường được trực tiếp chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường hoặc hình thành một hoặc một số đơn vị có trách nhiệm chủ trì. Cụ thể, các quan hệ này được thực hiện thông qua 3 mô hình các trường hiện có ở nước ta hiện nay. Mô hình 1: Đại học (Quốc gia hoặc vùng)- Trường Đại học- Khoa- Bộ môn. Mô hình 2: Đại học – Trường Đại học- Khoa (Bộ môn). Mô hình 3: Trường Đại học – Khoa – Bộ môn. (Tham khảo quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến 2020 – Bộ Giáo dục và Đào tạo). I.2.2. Phân cấp quản lý ở một trường trọng điểm quốc gia. Hiện nay, vấn đề phân cấp là vấn đề còn nhiều tranh luận, chưa đi đến thống nhất. Đặc biệt chưa có văn bản nào quy định việc phân cấp của một trường trọng điểm quốc gia. Tuy nhiên có thể tham khảo một số ý kiến: - Phân cấp quản lý về việc tạo công ăn việc làm: Vấn đề cần xem xét ở đây là liệu một trường trọng điểm quốc gia có được tạo công ăn việc làm cho các đơn vị con của mình như các khoa, trung tâm viện không? Liệu các khoa và trung tâm có được tự mình đứng ra tổ chức tuyển sinh không? Nếu các khoa và trung tâm được tự mình tuyển sinh, có thể có một số điểm: Thuận lợi: Giảm đầu mối quản lý, giảm công việc cho lãnh đạo cấp trên, tạo ra được sự nhanh chóng trong quá trình tuyển sinh thuận lợi cho người học và người tuyển sinh, tạo được sự cạnh tranh trong nội bộ nhà trường giữa các đơn vị. Khó khăn: Lãnh đạo cấp trên khó quản lý, có thể gây ra hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, lợi dụng chức quyền để tuyển sinh không đúng. - Phân cấp quản lý về tài chính: Số tiền trường được Nhà nước giao liệu có nên để các phòng ban, khoa, viện được tự quản lý chi tiêu bằng cách tính theo số giáo viên, học sinh của khoa cũng như những chi phí hoạt động cần thiết của các đơn vị rồi giao cho các đơn vị không?, quỹ lương có nên giao cho từng đơn vị quản lý hay không? Nếu để các đơn vị tự quản lý chi tiêu cũng có hai mặt: Khó khăn: Khó xác định được liệu mỗi đơn vị nên được giao bao nhiêu, tính bằng cách nào để phân bổ số tiền Nhà nước đầu tư một cách hợp lý? Nên tính bình quân bằng số giáo viên và sinh viên của khoa để phân chia không?. Liệu có quản lý được việc chi tiêu của các đơn vị không? Thuận lợi: Các đơn vị tự chi tiêu nên dễ kiểm soát số tiền và nó có thể là hiệu quả nếu đơn vị biết sử dụng hợp lý, giảm sự quản lý quá nhiều cho cấp trên. - Phân cấp quản lý về mặt pháp nhân: Việc đóng dấu, ký một số vấn đề hiệu trưởng có nên giao cho trưởng, phó các đơn vị không? Thuận lợi: Lãnh đạo cấp trên có thể tập trung vào những việc quan trọng, có định hướng chiến lược hơn. Các thủ tục được đơn giản hoá tạo thuận lợi cho người cần xin dấu. Khó khăn: Liệu các lãnh đạo cấp dưới có làm đúng được chức năng nhiệm vụ này không, có thực sự chịu trách nhiệm khi làm sai không? I.2.3. Đặc điểm của mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy của trường trọng điểm quốc gia. Khi nghiên cứu mô hình cơ cấu tổ chức cho thấy một số đặc điểm sau đây: + Mô hình cơ cấu tổ chức được xây dựng trên cơ sở quy mô tính chất, đặc điểm hoạt động của tổ chức và quy định của cấp có thẩm quyền. + Mô hình cơ cấu tổ chức được hình thành dựa trên cơ sở mối quan hệ bền vững theo chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức. Mối quan hệ này về danh nghĩa là quan hệ giữa tập thể và tập thể nhưng lại được thực hiện giữa cá nhân với cá nhân. + Mô hình cơ câú tổ chức có thể là một hệ thống các quan hệ 2 cấp, 3 cấp hoặc nhiều cấp hơn nữa tuỳ theo quy mô, tính chất phức tạp của tổ chức. Các cấp này thể hiện mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới (quan hệ dọc), quan hệ chỉ đạo và lãnh đạo của các cấp cùng tuyến. + Quan hệ trong mô hình cơ cấu tổ chức được quy định thành các văn bản mang tính chất pháp lý có giá trị điều chỉnh chung rằng buộc mọi cá nhân trong một tổ chức. + Mô hình cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của một tổ chức thông qua hiệu lực và hiệu quả điều hành của bản thân cơ cấu tổ chức. Riêng đối với mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy của trường trọng điểm quốc gia ngoài những đặc điểm trên đây còn có một số khác biệt sau đây: - Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy ít nhất là 3 cấp trở lên (gồm các trường, khoa, bộ môn). - Có sự phân cấp mạnh mẽ trong hệ thống quan hệ dọc do quy mô của trường là lớn hoặc rất lớn nên quản lý tập trung sẽ không hiệu quả. Trường trọng điểm có sứ mệnh là trường đầu ngành phải được xây dựng theo mô hình mới tương xứng, phù hợp với vị thế và quy mô của nó. Cần nhận thức mô hình trường trọng điểm không hợp lý sẽ là một lực cản mạnh đến sự phát triển của bản thân nhà trường và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các trường đại học. Ngược lại, mô hình tổ chức bộ máy với cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện cho các trường đại học phát triển dựa trên cơ sở phân công, phân cấp, sử dụng một cách khoa học lao động; đồng thời phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh của trường, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả trong quản lý. Như vậy xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức trường trọng điểm quốc gia là kết quả của quá trình nghiên cứu sứ mệnh, tính chất, chức năng, nhiệm vụ được giao của nhà trường. Không thể quy định mô hình một cách giáo điều, máy móc, cứng nhắc mà cần có sự phân tích toàn diện các nhân tố tác động trên cơ sở kinh nghiệm ở trong và ngoài nước để lựa chọn mô hình cơ cấu tổ chức một cách tối ưu nhất. I.3. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới và Việt Nam trong việc xây dựng trường trọng điểm quốc gia Xây dựng trường trọng điểm quốc gia không chỉ riêng có Việt Nam mà nó cũng được nhiều nước trên thế giới và khu vực tiến hành. Tuy nhiên, quan niệm, cách thức tiến hành xây dựng trường trọng điểm quốc gia ở mỗi nước là có những khác biệt. ở các nước tư bản phát triển, hệ thống giáo dục đại học đã hoàn thiện, vai trò đầu tàu và vị thế của các trường trong hệ thống giáo dục đại học đã được khẳng định qua cơ chế cạnh tranh. Xây dựng các trường trọng điểm trên cơ sở tập trung hỗ trợ đầu tư của Nhà nước chủ yếu diễn ra ở các nước đang phát triển nhằm tạo ra các đầu tàu trong lĩnh vực giáo dục quốc dân. Qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển, nghiên cứu mô hình của một số trường lớn trên thế giới và khu vực, em xin rút ra một số kinh nghiệm làm cơ sở cho việc vận dụng vào Việt Nam để xây dựng trường trọng điểm quốc gia như sau: 1. Như phần mở đầu đã đề cập ở các nước phát triển, không có khái niệm trường trọng điểm quốc gia, mà chỉ có trường đại học tổng hợp của quốc gia (toàn quốc) và trường đại học tổng hợp của các bang, chức năng. Đó là các trường đại học nổi tiếng của các nước và khu vực, có uy tín cao đối với xã hội nhờ bề dày lịch sử thành tích và truyền thống lâu đời trong đào tạo. 2. Thông thường là các trường đào tạo đa ngành đa lĩnh vực (tổng hợp) có khả năng thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo ở những ngành rất khác biệt. Quá trình hình thành của các trường này là quá trình phát triển đa ngành nhằm đáp ứng mọi nhu cầu khác nhau của xã hội, đa ngành, đa lĩnh vực còn thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong đào tạo khi nhu cầu thay đổi. Trong quá trình phát triển một số ngành, lĩnh vực phát triển lên thành thế mạnh của từng trường, thậm chí có những ngành không phát triển được. 3. Mô hình tổ chức của các trường có thể là 3 cấp hoặc 4 cấp, trong đó họ đề cao vai trò của khoa, nơi đào tạo các chuyên ngành theo yêu cầu của xã hội và cấp bộ môn, trực tiếp thực hiện giảng dạy. ở Mỹ, dưới cấp trường đại học (University) là cấp trường (College nhưng không gọi là trường đại học) hoặc khoa (Faculty), dưới cấp College hoặc Faculty là bộ môn (Department). ở Anh, dưới cấp trường đại học (University) là các trường (School), hoặc học viện (institute), hoặc khoa (Faculty). Dưới cấp School (hoặc institute, hoặc Faculty) là bộ môn (Department). ở úc, dưới cấp trường đại học (University) là khoa (Faculty) và dưới cấp khoa là bộ môn (Department). ở Việt Nam, (trường đại học Quốc gia) dưới cấp trường đại học là trường con, dưới cấp trường là khoa và dưới khoa là bộ môn. Được thành lập trong hoàn cảnh khó khăn, ĐHQG Hà Nội và ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm cao, rất tâm huyết và bước đầu đã triển khai có kết quả một số hoạt động về tổ chức, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở vật chất và mở rộng quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cũng đã bộc lộ những mặt yếu, những bất cập về mô hình tổ chức, về cơ chế quản lý (ở thành phố Hồ Chí Minh bao gồm nhiều trường, còn ở Hà Nội thì chưa có các trường công nghệ). Do chưa nhận thức rõ tiêu chí của một ĐHQG cho nên còn có những ý kiến khác nhau về mô hình tổ chức và phương thức triển khai. Điều này không khỏi ảnh hưởng đến sự phát triển của hai ĐHQG. 4. Quy mô đào tạo của các trường lớn trên thế giới thường khoảng từ 20.000 đến 40.000 sinh viên. Đây là quy mô phù hợp với yêu cầu đào tạo có chất lượng cao. 5. Đảm bảo chuẩn quốc tế trong đào tạo, có khả năng liên thông đào tạo ở mọi cấp, mọi hệ đào tạo với nhiều trường ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Giá trị của văn bằng không chỉ được công nhận ở trong nước mà còn được thừa nhận ở cấp quốc tế. 6. Cơ sở vật chất của các trường là đồng bộ và hoàn thiện, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cho đào tạo và nghiên cứu khoa học như: hệ thống giảng đường hiện đại, trang thiết bị tiên tiến, thông tin nối mạng toàn cầu, ký túc xá, sân chơi đáp ứng mọi yêu cầu, diện tích trường có nơi lên đến vài trăm hecta. 7. Trên thực tế có nhiều loại trường và có sự phân cấp rõ ràng về mục tiêu và cấp đào tạo cho từng loại trường, đặc biệt trong hệ công lập. Các trường đều có sự liên thông với nhau qua việc kiểm tra về chất lượng về các mặt khác nhau như tỷ lệ giảng viên/ sinh viên, thư viện, giáo trình, trang thiết bị, cơ sở vật chất khác... 8. Các trường tổng hợp toàn quốc và của các bang, các vùng ở các nước phát triển là những trường có đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và phục vụ quá trình đào tạo khá đồng bộ và hợp lý về cơ cấu (cơ cấu theo ngành nghề, cơ cấu theo loại cán bộ, cơ cấu theo lứa tuổi, cơ cấu theo trình độ...) đầy đủ về số lượng, cao về chất lượng. Đội ngũ này chẳng những đáp ứng yêu cầu đào tạo chất lượng cao, mà còn đủ sức tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc, các yêu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội như: biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo chất lượng cao phổ biến toàn thế giới, nghiên cứu các vấn đề đang đặt ra của thời đại, nghiên cứu cơ bản định hướng phát triển các ngành, các lĩnh vực khoa học... Phần II: Phân tích thực trạng cơ cấu tổ chức của đại học Kinh tế quốc dân hiện nay II.1 Đại học Kinh tế quốc dân 45 năm trưởng thành và phát triển Trường Kinh tế tài chính (nay là Trường đại học Kinh tế Quốc dân) được thành lập theo Nghị định số: 678/TTg, ngày 25-1-1956. Theo Nghị định này Trường được đặt trong hệ thống đại học nhân dân Việt Nam trực thuộc Thủ tướng chính phủ. Ngay từ khi mới thành lập trường có nhiệm vụ đào tạo và bổ túc kiến thức kinh tế cho cán bộ quản lý kinh tế tài chính kịp thời phục vụ cho công cuộc kiến thiết đất nước đang diễn ra sôi động. Với sự nỗ lực của Nhà trường và được sự quan tâm của Thủ tướng chính phủ, ngày 5 tháng 3 năm 1956 khoá học đầu tiên của Trường kinh tế tài chính đã khai giảng tại khu Đấu Xảo cũ (nay là cung văn hoá hữu nghị Việt Xô). Khi đó trường có 149 cán bộ công nhân viên, trong đó có 30 giáo viên, 5 phiên dịch trung văn. Phương tiện học tập, ăn ở của thầy và trò còn nhiều thiếu thốn. Song với sự nỗ lực của nhà trường, tháng 10 năm 1958 sau 18 tháng học tập khoá học đầu tiên của Trường kinh tế tài chính đã tốt nghiệp, đi nhận công tác. Ngày 22 tháng 5 năm 1958 Thủ tướng chính phủ ra Nghị định số 252/TTg chuyển Trường kinh tế tài chính về Bộ Giáo dục nằm trong hệ thống Đại học gọi là Trường Đại học kinh tế tài chính. Sau khi chuyển về Bộ Giáo dục, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc Nhà trường đã tích cực xây dựng chương trình theo chương trình của các nước bạn kết hợp với thực tiễn Việt Nam và khẩn trương chuẩn bị điều kiện để tuyển sinh khoá mới. Ngày 3 tháng 11 năm 1958 khoá đại học chuyên tu đầu tiên được khai giảng với 740 học viên theo học 6 ngành. Tháng 6-1959, 2 khoá học đầu tiên của Trường đã ra đời. Đó là: khoá Công - Nông – Mậu và khoá Thống kê - Tài chính - Ngân hàng. Những năm đầu của thập niên 60 Trường đã chính thức khai giảng khóa dài hạn tập trung đầu tiên, mở đầu một số ngành mới như: Ngoại giao, ngoại thương, kinh tế vận tải (đường bộ, đường thủy và đường sắt), kế toán... Do nhu cầu và quy mô đào tạo cán bộ ngày càng lớn, trong những năm đầu thập niên 60 một số chuyên ngành của trường được tách ra để thành lập các trường đại học mới. Tháng 1 năm 1965 trường được đổi tên thành Trường Đại học Kinh tế kế hoạch trực thuộc Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp. Sau khi được đổi tên và suốt những năm từ 1965 đến 1985 trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung từ kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm này trường phát triển rất mạnh quan hệ hợp tác với các trường đại học ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhờ sự hợp tác có hiệu quả này, nhà trường đã đào tạo được một đội ngũ đông đảo các cán bộ giảng dạy, các cán bộ khoa học đầu ngành đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của Trường. Ngày 22 tháng 10 năm 1985 Bộ trưởng Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp đã ký Quyết định số 1443/ QĐ- KH đổi tên Trường thành Đại học Kinh tế quốc dân là một trong 6 trường đại học trọng điểm quốc gia lúc bấy giờ. Trường có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kinh tế có trình độ đại học và sau đại học, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành và mục tiêu đào tạo theo hướng cải cách giáo dục, phù hợp với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Trong giai đoạn đầu thập niên 90 cơ cấu tổ chức Nhà trường có sự thay đổi lớn, nhiều khoa, trung tâm, phòng, ban, bộ môn mới ra đời. Nhiều ngành đào tạo mới được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang chuyển hướng mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quy mô đào tạo của Trường tăng lên nhanh chóng, các hệ, các hình thức đào tạo được phát triển đa dạng. Thành tựu nổi bật của Nhà trường trong những năm này là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để đào tạo cán bộ giảng dạy, hoàn thiện hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu học tập.... Nhờ kết quả hợp tác quốc tế đã tạo cho Nhà trường phát triển tiên phong trên nhiều lĩnh vực xứng đáng là trường trọng điểm đầu ngành trong khối các trường kinh tế. Trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành, ngày nay Đại học Kinh tế quốc dân đã vươn lên trở thành trường đại học lớn với quy mô đào tạo khoảng 30 ngàn sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên của trường là 1079 người ( 747 người trong biên chế), trong đó hơn 500 cán bộ giảng dạy với 20 giáo sư, 58 phó giáo sư, 187 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, 181 thạc sỹ, 239 giảng viên chính. Ngoài ra, trường còn có hơn 70 giảng viên kiêm nhiệm là các giáo sư, tiến sỹ đang công tác ở các bộ, ngành trung ương và ở địa phương. Đứng đầu trong các trường kinh tế về chất lượng đội ngũ. Cơ cấu tổ chức Nhà trường không ngừng phát triển, đến năm 2002 trường đã có 20 khoa (4 khoa quản lý không đào tạo chuyên ngành; 11 tổ bộ môn, 7 trung tâm và 2 viện trực thuộc trường, 10 phòng ban. Trong đó có 10 đơn vị (khoa, trung tâm, bộ môn) trực tiếp đào tạo hơn 30 chuyên ngành của trường. Trong 45 năm xây dựng và trưởng thành đại học Kinh tế quốc dân đã thực hiện khoảng 200 đề tài khoa học cấp Nhà nước, đề tài cấp bộ và nhiều đề tài cấp cơ sở. Hoạt động nghiên cứu khoa học luôn được nhà trường coi trọng phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đại học Kinh tế quốc dân có quan hệ hợp tác với hơn 80 trường, tổ chức quốc tế thuộc hơn 30 quốc gia trên thế giới. Trong suốt lịch sử xây dựng và phát triển Trường, Đảng bộ Đại học Kinh tế quốc dân luôn giữ vững vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện sự nghiệp phát triển của trường. Các tổ chức: Công đoàn, Đoàn TNCS HCM, Hội sinh viên trường đã tổ chức nhiều phong trào thi đua thu hút cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên nhà trường tham gia rèn luyện, giảng dạy, học tập góp phần tích cực vào sự nghiệp đào tạo toàn diện, nghiên cứu khoa học và tư vấn của Trường. Với các nỗ lực toàn diện đó, ngày nay Đại học Kinh tế quốc dân đã trở thành: - Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh bậc cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ lớn ở Việt Nam. - Trung tâm nghiên cứu khoa học kinh tế phục vụ đào tạo, hoạch định chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, các ngành, địa phương và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. - Trung tâm tư vấn và chuyển giao công nghệ quản lý và quản trị kinh doanh. 45 năm xây dựng và trưởng thành Đại học Kinh tế quốc dân ngày nay đã có vị trí xứng đáng ở trong nước và có uy tín với các tổ chức quốc tế, các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Toàn bộ hoạt động trong quá trình xây dựng và phát triển Nhà trường là thành quả lao động sáng tạo của các thế hệ thầy, trò và cán bộ công nhân viên Nhà trường. Với các thành tích trong suốt 45 năm phát triển tập thể nhà trường đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới (năm 2000) và Huân chương Hồ Chí Minh đúng vào dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập trường. II.2. Quá trình đổi mới cơ cấu tổ chức của trường từ trước đến nay. Nghiên cứu quá trình đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ của đại học Kinh tế quốc dân từ khi thành lập cho đến nay cho thấy lịch sử hình thành và phát triển không ngừng của trường Đại học Kinh tế quốc dân luôn gắn với yêu cầu nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Sự vận động thường xuyên của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam và yêu cầu nhiệm vụ mới là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự thay đổi của cơ cấu tổ chức bộ máy trường Đại học Kinh tế quốc dân trong thời gian vừa qua. Từ khi thành lập đến nay trường Đại học Kinh tế quốc dân đã qua 3 lần đổi tên và 8 lần điều chỉnh về cơ cấu tổ chức. Mỗi lần điều chỉnh thay đổi là một lần đánh dấu một bước phát triển mới và trưởng thành của Đại học Kinh tế quốc dân. II.2.1. Giai đoạn 1956- 1958. Giai đoạn này theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước cần thiết phải xây dựng trường nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực về quản lý kinh tế cho đất nước. Quy mô đào tạo ban đầu chưa lớn do điều kiện kinh tế và đội ngũ cán bộ giảng dạy còn nhiều hạn chế, cơ cấu tổ chức nhà trường còn cũng đơn giản. BAN GIáM HIệU Bộ phận tham mưu Hành chính Đào tạo Quản trị Tổ chức Tài vụ v.v... Các bộ phận chuyên môn Kinh tế chính trị Chủ nghĩa M-LN và CMVN Tài chính Mậu dịch Quản lý công xưởng Thống kê Kế hoạch Bộ phận hợp đồng xây dựng trường Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức trường đại học nhân dân (thời kỳ 1956-1958) + Ban giám hiệu chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về việc lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động của nhà trường đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. + Bộ phận chức năng tham mưu cho Ban giám hiệu gồm: Hành chính, Tổ chức, Tài vụ, đào tạo, Quản trị... có nhiệm vụ giúp Ban giám hiệu trong công việc quản lý, đào tạo. + Các bộ môn giảng dạy có 30 giáo viên chính thức và các giáo viên kiêm nhiệm (học sáng giảng chiêù). Các giáo viên được bố trí trong 7 bộ môn là: - Kinh tế chính trị - Chủ nghĩa Mác- Lênin và cách mạng Việt Nam - Tài chính - Mậu dịch Quản lý công xưởng - Thống kê và toán Kế hoạch kinh tế quốc dân. Lúc này, trường có 149 cán bộ công nhân viên, trong đó có 30 giáo viên, 5 phiên dịch trung văn. Xây dựng trường Kinh tế Tài chính là một chủ trương rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm nhanh chóng xây dựng một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh. Ngay sau những năm đầu khi mới thành lập nhà trường đã tạo được 568 cán bộ quản lý kinh tế đầu tiên cho đất nước từ các sỹ quan quân đội, các cán bộ cách mạng cốt cán. Đồng thời cũng từ cán bộ được đào tạo đầu tiên này đã lựa chọn để đào tạo tiếp trở thành cán bộ giảng dạy đại học ngành kinh tế, quản lý đầu tiên của nước ta. Qua nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của giai đoạn 1956-1958 cho thấy: + Tổ chức bộ máy còn đang trong giai đoạn quá độ hình thành + Cơ cấu tổ chức còn đơn giản. + Các bộ môn chuyên môn được hình thành theo yêu cầu đào tạo chuyên ngành cán bộ quản lý kinh tế nói chung. Để đáp ứng yêu cầu của đất nước về quản lý kinh tế theo hướng chuyên sâu cần thiết phải hình thành một số chuyên ngành kinh tế. II.2.2 Giai đoạn 1958-1959. Đến 22/5/1958, Chính phủ quyết định đổi tên và thành lập trường Kinh tế- Tài chính trực thuộc Bộ Giáo dục. Theo yêu cầu đào tạo một số chuyên ngành kinh tế, tháng 6/1959 trường thành lập 2 khoa: Công-Nông-Thương, Thống kê- Tài chính Ngân hàng- Kế hoạch. Bộ máy tổ chức của trường được phản ánh qua sơ đồ 2: Bộ phận tham mưu Hành chính Tài vụ Quản trị Tổ chức v.v... 2 khoa K. Công nông thương CN NN TN K.TK.TC-KH TK TCNH KH Bộ phận hợp đồng xây dựng trường BAN GIáM HIệU Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức trường Kinh tế- Tài chính (thời kỳ 1958-1959) Việc xây dựng 2 khoa đầu tiên của trường là tất yếu khách quan và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt do sự phát triển nhanh chóng của 3 ngành: Nông nghiệp, Công nghiệp, Thương mại và yêu cầu tăng cường quản lý vĩ mô trên các hoạt động Thống kê, Tài chính, Ngân hàng và Kế hoạch. Khoá 1 hệ dài hạn tập trung của nhà trường, đã được khai giảng vào tháng 9-1959 với 242 sinh viên theo học ở 2 khoa chuyên ngành. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và yêu cầu chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng trong đời sống, kinh tế và xã hội đòi hỏi một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có trình độ cao trong các lĩnh vực khác nhau. Một trường kinh tế với 2 khoa chưa thể đáp ứng xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Giai đoạn này đã tạo ra những tiền đề cần thiết về đội ngũ và vật chất hình thành các khoa, chuyên ngành khác, đồng thời là hoạt động xây dựng các trường đại học kinh tế khác. II.2.3 Giai đoạn 1959-1963 Đáp ứng với yêu cầu mới của thời kỳ xây dựng đất nước thời kỳ 1959-1963, trường đã thành lập các bộ phận quản lý, bộ phận đào tạo đại học Tại chức và 4 khoa, 11 ngành đào tạo với 21 chuyên ngành được phản ánh qua sơ đồ 3 dưới đây: BAN GIáM HIệU Bộ phận tham mưu Hành chính Tài vụ Quản trị Tổ chức v.v... 4 khoa Mậu-Tài-Ngân Công- Nông nghiệp Quan hệ quốc tế Thống-Kế-Vận Bộ phận hợp đồng xây dựng trường Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức trường Kinh tế- Tài chính (thời kỳ 1960-1963) Cụ thể: - Khoa Mậu – Tài– Ngân gồm 4 ngành với 6 chuyên ngành. - Khoa Công Nông gồm 2 ngành với 2 chuyên ngành - Khoa Quan hệ quốc tế gồm 2 ngành với 6 chuyên ngành - Khoa Thống –Kế- Vận ( Thống kê, Kế hoạch, Vận tải) gồm 3 ngành với 7 chuyên ngành. - Bộ phận bồi dưỡng đào tạo đại học Tại chức: Cơ cấu tổ chức này có những thay đổi lớn nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước trên các lĩnh vực mới đang phát triển: Nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, quan hệ quốc tế… Sự biến đổi cơ cấu tổ chức nhà trường phù hợp với đòi hỏi khách quan của giai đoạn phát triển của đất nước. Thời kỳ này nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, một số trường đại học khối kinh tế được thành lập trên cơ sở hạt nhân là một số khoa chuyên ngành của trường đại học Kinh tế- Tài chính như: Quan hệ quốc tế… II.2.4. Giai đoạn 1963-1965 Năm 1964 cơ cấu tổ chức của trường đại học Kinh tế Tài chính được phác thảo theo sơ đồ 4 như sau: BAN GIáM HIệU Phòng ban và tương đương TCCB Giáo vụ HCQT Các khoa Công nông Mậu-Tài-Ngân Thống-Kế-Vận Tại chức Bộ môn trực thuộc TDTT Toán Ngoại ngữ Mác-Lênin Lao động Vật tư Địa lý Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức nhà trường Kinh tế- Tài chính (thời kỳ 1963-1965) Về mặt tổ chức giai đoạn này trường đã thành lập thêm một số bộ môn cơ bản, cơ sở trực thuộc trường nhằm hỗ trợ cho các chuyên ngành đào tạo. Sự ghép mối của một số khoa chuyên ngành cho thấy những trở ngại không nhỏ trong việc quản lý, đào tạo, sinh hoạt khoa học trong các khoa. II.2.5. Giai đoạn 1965-1975. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới trong công tác đào tạo, tháng 1 năm 1965 Chính phủ quyết định đổi tên trường thành trường Đại học Kinh tế Kế hoạch. Ngoài một số đơn vị phòng ban chức năng tham mưu, cơ cấu tổ chức của trường gồm 7 khoa, 6 bộ môn trực thuộc được hình thành trên cơ sở tách một số khoa như Công- Nông thành khoa Công nghiệp và khoa Nông nghiệp, khoa Thống- Kế- Vận thành khoa Thống kê, khoa Kế hoạch: Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới cơ cấu tổ chức của trường không ngừng được kiện toàn bổ sung. Đến 1972, ngoài những phòng ban chức năng, cơ cấu tổ chức của trường còn bao gồm: 8 khoa đào tạo chuyên ngành và 11 bộ môn trực thuộc. Cơ cấu tổ chức trường được thể hiện qua sơ đồ 5 sau đây: BAN GIáM HIệU Các phòng ban và tương đương TCCB Giáo vụ HCQT Tài vụ KH Tuyên huấn Y tế Thư viện Xưởng in Xưởng trường Nhà trẻ Nhà ăn Khoa Công nghiệp Nông nghiệp Lao động Vật tư Thống kê Kế hoạch Vật giá Tại chức Bộ môn Thể dục- Quân sự Ngoại ngữ Địa lý Tài chính Hạch toán Kinh tế- Chính trị Triết học Lịch sử Đảng KTCN KTNN Lịch sử-Luật kinh tế Sơ đồ 5: Cơ cấu tổ chức trường đại học Kinh tế kế hoạch (thời kỳ 1965-1975) II.2.6. Giai đoạn 1975 - 1989 Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng đất nước được thống nhất thì tạo nguồn nhân lực có trình độ cao tham gia quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ số một của các trường đại học kinh tế, trường đại học Kinh tế kế hoạch cũng có những thay đổi kịp thời và phát triển theo xu hướng trường đa ngành để đáp ứng yêu cầu của đất nước. Từ 8 khoa trường đã nhanh chóng phát triển thành 13 khoa (năm 1983), trong đó có 10 khoa đào tạo chuyên ngành. Cơ cấu tổ chức trường được thể hiện qua sơ đồ sau đây: Sơ đồ 6: Cơ cấu tổ chức trường Đại học Kinh tế quốc dân (1975-1989) BAN GIáM HIệU Phòng, ban và đơn vị tương đương TCCB Giáo vụ HCQT Tài vụ KH CTCT (Tuyên huấn) Y Tế Thư viện Xưởng in Xưởng trường Nhà trẻ Nhà ăn Khoa - Công nghiệp - Nông nghiệp - Lao động - Vật tư - Thống kê - Kế hoạch - Vật giá - Ngân hàng - Toán kinh tế - Mác- Lênin - Quân sự - Tại chức - Sau đại học Bộ môn - Thể dục thể thao - Ngoại ngữ - Địa lý - KTCS - KHQL Việc hình thành các khoa mới nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng các chuyên ngành đào tạo. Tuy thời kỳ này nền kinh tế được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nhưng vào cuối giai đoạn trên thực tế đã có những biến chuyển sâu sắc về tư duy kinh tế, nhất là sau năm 1986 đã có tác động mạnh đến cơ cấu tổ chức của trường. Năm 1985 trường được Chính phủ đổi tên thành trường đại học Kinh tế quốc dân cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Khôi phục một số ngành mà trường có truyền thống như Ngân hàng- Tài chính, Thương mại… hình thành một số chuyên ngành mới như Kế toán, Du lịch… cùng với thành lập các Bộ môn trong khoa là biểu hiện sự đa dạng, lớn mạnh của tổ chức bộ máy đại học Kinh tế Quốc dân trong giai đoạn này. Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước nhằm tạo nguồn nhân lực cho xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Điều này là nhân tố thúc đẩy cho sự thay đổi cơ bản về đào tạo cũng như cơ cấu tổ chức trong giai đoạn tiếp theo. II.2.7 Giai đoạn từ 1990 đến nay. Sau một thời kỳ quá độ, kinh tế Việt Nam thực sự được vận hành theo một cơ chế thị trường mới. Trước sự phát triển nhanh chóng về sản xuất - kinh doanh thì yêu cầu về kiến thức quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Trường đại học Kinh tế quốc dân đã đi đầu trong việc đổi mới chương trình, giáo trình giảng dạy, cập nhật kiến thức kinh tế hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của người học. Tuy khoảng thời gian không dài, hàng chục chuyên ngành đào tạo mới ra đời là điều kiện cho việc hình thành các khoa, bộ môn mới như: khoa Marketing, khoa Kế toán, khoa Du lịch & khách sạn, khoa Khoa học quản lý, bộ môn Kinh tế Vi mô, bộ môn Kinh tế vĩ mô… Do nhu cầu của xã hội, nhiều Viện, Trung tâm đã thành lập như: Viện Nghiên cứu Kinh tế và phát triển, Viện Quản trị kinh doanh, Trung tâm Ngoại ngữ kinh tế, Trung tâm tin học… Cơ cấu tổ chức của trường giai đoạn này có thể được phản ánh qua sơ đồ 7 sau đây: Sơ đồ 7: Cơ cấu tổ chức trường Đại học Kinh tế quốc dân (thời kỳ 1990-2002) BAN GIáM HIệU Các phòng, ban chức năng, khoa quản lý các đơn vị tương đương -TCCB - HCTH - HCQT - Quản trị - CTCT - Đào tạo - Tài vụ - Khoa học - Bảo vệ - QLCT - K.Tại chức - K. SĐH - TT HTĐT - TTTL Ttin Tviện - Các đơn vị tương đương Viện, trung tâm nghiên cứu khoa học - Viện KT & PT - Viện QTKD - TT Dân số - TTNN & PTNT - TT Môi trường - TT ngoại ngữ KT Các khoa, trung tâm đào tạo -QTKDCNCN & XDCB - KTNN&PTNT -KTLĐ&DS -Thống kê - Thương mại - NH-TC - KHPT - Toán KT - Kế toán - KT- KDQTế - DL& KS - Marketing - KHQL - K. MLN - K. KT và QLMT, đô thị - K.Tin học KT - TT QTKD TH - K. GDQP - Kinh tế học Các bộ môn đào tạo - Giáo dục thể chất - Luật KT - Tiếng nga - Tiếng anh - KTCN - XHH - Tiếng Pháp - KT đầu tư - KT bảo hiểm Hiện nay, đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên của trường là 1079 người ( 747 người trong biên chế), trong đó hơn 500 cán bộ giảng dạy với 20 giáo sư, 58 phó giáo sư, 187 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, 181 thạc sỹ, 239 giảng viên chính. Ngoài ra, trường còn có hơn 70 giảng viên kiêm nhiệm là các giáo sư, tiến sỹ đang công tác ở các bộ, ngành trung ương và ở địa phương. Đứng đầu trong các trường kinh tế về chất lượng đội ngũ. Sự hình thành nhiều tổ chức mới đã phản ánh xu hướng phát triển và lớn mạnh của trường. Tuy vậy, đã có nhiều dấu hiệu bất hợp lý là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trường trong giai đoạn tiếp theo. - Sự ra đời với tốc độ nhanh và có phần ồ ạt và thiếu định hướng đầy đủ ở những năm 90 của hàng loạt chuyên ngành mới, dẫn đến sự ra đời của nhiều bộ môn, khoa, trung tâm mới làm cho cơ cấu tổ chức nhà trường biến đổi nhanh chóng, điều đó tạo ra các bất cập trên các mặt sau: + Sự chồng chéo trong đào tạo các chuyên ngành dẫn đến sự thiếu mạch lạc trong sơ đồ các tổ chức (khoa, bộ môn, trung tâm) quản lý các chuyên ngành. + Có quá nhiều đầu mối trực thuộc trường. + Có đơn vị thành lập ra nhưng hoạt động kém hiệu quả. + Có bộ môn hình thành từ lâu đến nay không có giờ giảng nhưng chưa có cách giải quyết. + Khó xác định thật mạch lạc chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các đơn vị trong sơ đồ tổ chức nhà trường. Sự phát triển nhanh có phần thiếu định hướng của cơ cấu tổ chức nhà trường vào những năm 90 có nguyên nhân (hoặc bắt nguồn) từ thực tế là chưa có một mẫu hình cơ cấu tổ chức của một trường trọng điểm quốc gia. Trong tài liệu quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng cả nước đến năm 2010 thậm chí còn chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh thế nào là một trường trọng điểm quốc gia chứ chưa nói đến việc thiết kế một mô hình cơ cấu tổ chức mẫu của trường trọng điểm quốc gia. II.3. Phân tích thực trạng cơ cấu tổ chức của đại học Kinh tế quốc dân. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, tổ chức bộ máy của Nhà trường đã nhanh chóng phát triển về mọi mặt cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm đáp ứng cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng tăng gấp nhiều lần so với 10 năm về trước và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. Bộ máy tổ chức của Nhà trường có những đổi mới toàn diện, bằng cách phát triển một số chuyên ngành có truyền thống trên cơ sở có những thay đổi căn bản, đồng thời tích cực mở một số chuyên ngành mới cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Từ 9 khoa với 9 chuyên ngành đào tạo vào những năm đầu thập kỷ 90, ngày nay Trường đã hình thành 20 khoa, trung tâm, bộ môn đào tạo với hơn 30 chuyên ngành nhằm đáp ứng mọi nhu cầu về cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trong mọi lĩnh vực của nền Kinh tế Quốc dân. Để phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tư vấn và các hoạt động khác của Nhà trường, cơ cấu tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của trường không ngừng được hoàn thiện theo hướng một trường kinh tế đa ngành và trọng điểm quốc gia. Để thấy được sự cố gắng tích cực của Trường trong công tác tổ chức cán bộ, cũng như những tồn tại cần khắc phục của công tác này, đề tài tập trung vào phân tích hiện trạng cơ cấu tổ chức bộ máy của Đại học Kinh tế Quốc dân hiện nay: Để đáp ứng cho yêu cầu xây dựng trường đại học Kinh tế Quốc dân trở thành trường kinh tế đầu ngành, trường trọng điểm quốc gia, đa ngành, đa lĩnh vực với chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học về kinh tế, quản trị kinh doanh ngang tầm các trường trong khu vực và thế giới, những năm qua, cùng với việc đầu tư cho các lĩnh vực khác, trường đã dành nhiều thời gian, công sức cho việc nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cán bộ. Mỗi nhiệm kỳ Hiệu trưởng đều thành lập tổ nghiên cứu về cơ cấu tổ chức bộ máy, từng bước hoàn thiện về tổ chức bộ máy của trường. Do vậy nhà trường đã kiện toàn, giải thể những đơn vị không phù hợp, sáp nhập, hình thành và xây dựng các chuyên ngành mới, đơn vị mới để đáp ứng cho nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học mà Nhà nước, xã hội quan tâm. Đến nay, cơ cấu tổ chức bộ máy của trường đại học Kinh tế quốc dân với nhiều thành phần như phòng, ban, khoa, bộ môn, viện, trung tâm, tạp chí, thậm chí cả nhà trẻ, trạm y tế, hợp tác xã trường học với 54 đầu mối do trường quản lý cụ thể gồm 10 phòng ban chức năng, 20 khoa (trong đó có 2 khoa giảng dạy chung, 2 khoa quản lý) 11 bộ môn trực thuộc trường, 48 bộ môn thuộc khoa (hoặc tương đương) 6 trung tâm( trong đó có 2 trung tâm đào tạo chuyên ngành), 2 viện, 1 tạp chí và 4 đơn vị quản lý gián tiếp. Tuy vậy, trường vẫn tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện về tổ chức bộ máy để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và xã hội giao cho. Cơ cấu tổ chức của đại học kinh tế quốc dân được phản ánh qua sơ đồ 8 và 9 sau đây: Sơ đồ 8: Cơ cấu tổ chức đại học Kinh tế quốc dân hiện nay ( năm 2002) HIệU TRƯởNG 4 HIệU PHó Phòng ban và tương đương (12) Viện, TT không có chuyên ngành đào tạo (7) Khoa quản lý (2) Các khoa, Viện, TT có chuyên ngành đào tạo (20) Bộ môn có chuyên ngành đào tạo (3) Khoa, bộ môn tham gia giảng dạy chung (tham gia đào tạo) (10) Các bộ môn thuộc khoa, viện, trung tâm Bộ môn Bộ môn Bộ môn Bộ môn Bộ môn Ghi chú: (số): Số lượng các đơn vị Sơ đồ 9:Các bộ môn, trung tâm trực thuộc khoa, viện, trung tâm (năm2001) III.1.2.Đánh giá về cơ cấu tổ chức bộ máy hiện nay: Với cơ cấu, tổ chức bộ máy của trường hiện nay nhìn chung đã tương đối phù hợp và cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay: Đào tạo và bồi dưỡng một lực lượng cán bộ quản lý kinh tế với số lượng lớn và chất lượng cao và là trung tâm nghiên cứu tư vấn về lý luận kinh tế có tầm chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, để đạt yêu cầu một trường kinh tế đầu ngành, trọng điểm quốc gia, đa ngành, đa lĩnh vực với hệ thống chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học về kinh tế, quản trị kinh doanh cũng như làm tư vấn về kinh tế, khoa học ngang tầm các trường trong khu vực và thế giới thì vẫn chưa đáp ứng được; trường cần phải có những đổi mới một cách toàn diện hơn, trong đó có cơ cấu, tổ chức bộ máy là một trong những nội dung quan trọng có ý nghĩa quyết định… Tuy hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy của trường đã có những chuyển biến, thay đổi tích cực do nhà trường đã có nhiều biện pháp điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, nhưng việc đánh giá thực tế về cơ cấu tổ chức bộ máy hiện tại của trường cũng như những hoạt động về công tác này trong thời gian qua cho thấy có những ưu điểm và hạn chế như sau: Ưu điểm: - Vẫn đảm bảo tính ổn định trên cơ sở kế thừa về cơ bản mô hình tổ chức bộ máy truyền thống. - Tổ chức bộ máy hiện nay đã đáp ứng cơ bản được nhiệm vụ quản lý, đào tạo cán bộ có trình độ đại học và trên đại học về kinh tế, quản trị kinh doanh. - Nhiệm vụ của các đơn vị về cơ bản là phù hợp với chức năng. Các đơn vị được hình thành hoặc giải thể, sáp nhập là nhằm hoàn thiện từng bước tổ chức bộ máy của Nhà trường. Việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, nhân sự vừa qua giữa các đơn vị tương đối phù hợp v.v. - Đầu mối các đơn vị được điều chỉnh theo hướng hợp lý hơn so với trước đây. - Việc quản lý, điều hành, phối hợp giải quyết công việc liên quan giữa các đơn vị trong trường đã có nhiều thuận lợi hơn so với trước đây. Hạn chế: - Đầu mối quản lý trong trường nhiều (tới 54 đầu mối) đã làm phức tạp thêm mối quan hệ trong trường và khó kiểm soát của lãnh đạo trường. - Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của khối phòng ban, bộ phận phục vụ còn bất hợp lý, nhất là trong lĩnh vực quản lý đào tạo, như: quan hệ giữa khoa Tại chức, khoa Sau đại học, phòng Đào tạo với các khoa, bộ môn trong trường. - Quy định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, phạm vi hoạt động của một số đơn vị trong trường chưa thật hợp lý và rõ ràng nên dẫn đến tình trạng chồng chéo, “mạnh ai người ấy làm”, phân tán, suy yếu lực lượng… - Một số chuyên ngành, bộ môn (kể cả mới hình thành) chưa đủ mạnh về số lượng và chất lượng nên hoạt động hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay. - Đội ngũ giáo viên còn thiếu; bộ máy hành chính phục vụ còn yếu về công tác quản lý, chưa sắc sảo trong công tác tham mưu cho lãnh đạo trường. - Việc sắp xếp, điều chỉnh lại một số chuyên ngành có nội dung gần nhau cho phù hợp và khoa học hơn tuy đã thực hiện nhưng vẫn còn những vướng mắc chưa tháo gỡ được ở một số đơn vị. - Chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu trong việc xử lý các đơn vị do quá khứ để lại hoặc mới hình thành nhưng không còn phù hợp với tình hình hiện nay. - Tiến độ của việc nghiên cứu hoàn thiện tổ chức bộ máy thực hiện còn chậm, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu. - Cơ cấu ngành, cơ cấu tổ chức theo hướng chuyên môn hoá sâu, tuy có nhiều ưu điểm nhưng ngày càng bộc lộ sự kém thích nghi với yêu cầu sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường đã gây không ít khó khăn cho người học, người sử dụng lao động. Mặt khác, việc đổi mới cơ cấu ngành, cơ cấu tổ chức luôn vấp phải những trở ngại do bảo thủ, do quyền lợi, cát cứ… trong đội ngũ cán bộ, công chức gây ra. Đánh giá chung: Thời gian qua cơ cấu tổ chức bộ máy đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của đào tạo. Tuy nhiên, có thể đây mới là một giai đoạn quá độ trong việc hình thành một mô hình tổ chức mới, cần có sự nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức theo hướng tiên tiến hiện đại nhằm đáp ứng từng bước yêu cầu của một trường trọng điểm quốc gia và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Sự tồn tại trên đây chính là những bài học, những gợi ý cho việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy của Trường cho hợp lý hơn. II.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của trường và các bộ phận trong trường. II.3.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của trường. “Trường ĐH KTQD là trường trọng điểm cho cả nước, trường có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế; trường tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành và mục tiêu đào tạo theo hướng cải cách giáo dục, phù hợp với yêu cầu của các ngành KTQD” (Quyết định số 1443/ QĐ KH ngày 23/10/85 của Bộ ĐH và THCN). Trường còn là trung tâm nghiên cứu tư vấn, đặc biệt là nghiên cứu các vấn đề lý luận có tầm chiến lược của đất nước về cơ chế thị trường, là cơ quan chủ trì nhiều chương trình khoa học cấp Nhà nước có uy tín trong nước và quốc tế, cung cấp các công trình nghiên cứu quan trọng, tham gia hoạch định chính sách, đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Trường có quan hệ hợp tác về đào tạo và nghiên cứu khoa học với các trường đại học và các tổ chức trên thế giới nhằm nâng cao trình độ của cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và đội ngũ quản lý cũng như từng bước đổi mới chương trình, nội dung đào tạo theo hướng Việt Nam – Cơ bản – Hiện đại. Là trường đại học đầu ngành, đào tạo chất lượng cao, cung cấp các khung chương trình và giáo trình chuẩn cho khối các trường Đại học Kinh tế của cả nước. II.3.2.2.Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong trường * Chức năng của các đơn vị - Chức năng của các phòng ban và tương đương Theo Quyết định số 1545/QĐ- TCCB của Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Quốc dân về việc ban hành quy chế tạm thời về chức năng, nhiệm vụ, quan hệ và lề lối làm việc trong trường Đại học Kinh tế Quốc dân ngày 30 tháng 1 năm 1997, các phòng ban có chức năng tham mưu cho hiệu trưởng về các công tác quản lý của trường tương ứng với tên gọi của từng phòng ban: công tác tổ chức và cán bộ (Phòng Tổ chức cán bộ), công tác hành chính tổng hợp (Phòng hành chính tổng hợp), công tác quản lý đào tạo (Phòng Quản lý đào tạo), công tác chính trị tư tưởng (Phòng công tác chính trị), công tác nghiên cứu khoa học (Phòng Quản lý khoa học), công tác quản lý tài sản (Phòng Quản trị), công tác quản lý tài chính – trang thiết bị (Phòng Tài vụ, thiết bị), công tác bảo đảm trật tự an toàn (Phòng Bảo vệ), hoạt động quan hệ quốc tế (Ban Hợp tác quốc tế), công tác kiến thiết xây dựng trường (Ban Quản lý công trình). Các đơn vị tương đương có chức năng thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực mình phụ trách. - Chức năng của các Trung tâm,Viện và tương đương. Các trung tâm, viện và tương đương có chức năng tư vấn, tham mưu cho hiệu trưởng đồng thời thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học, thiết kế thực thi dự án thuộc lĩnh vực chuyên môn được giao. - Chức năng của các Khoa, bộ môn Các khoa và bộ môn có chức năng tham mưu, giúp hiệu trưởng quản lý, thực hiện công tác đào tạo bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực chuyên môn được giao. * Nhiệm vụ của các đơn vị trong trường (theo Quyết định số 15457 QĐ- TCCB của Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Quốc dân về việc ban hành quy chế tạm thời về chức năng, nhiệm vụ, quan hệ và lề lối làm việc trong trường Đại học Kinh tế Quốc dân ngày 30 tháng 1 năm 1997): Để thực hiện được đúng chức năng của mình, từng đơn vị đã được quy định cụ thể các nhiệm vụ cần phải làm ( có thể dao động từ 3 đến 12 nhiệm vụ), xong xét chung có thể kể đến một số nhiệm vụ chính của các đơn vị như sau: Lập và tổ chức, thực hiện các chương trình, kế hoạch về các mặt liên quan đến chức năng, chuyên môn của mình. Thường trực các hội đồng Quản lý và sử dụng có hiệu quả các mặt: Lao động, tài sản được giao theo pháp luật hiện hành và quy định của nhà trường. Lưu trữ, quản lý các hồ sơ về các vấn đề do phòng đảm nhiệm. Phối hợp với các đơn vị có liên quan thực hiện nhiệm vụ. Mở rộng quan hệ đối ngoại nâng cao uy tín của trường. Nghiên cứu các đề tài khoa học các cấp. Thực hiện một số nhiệm vụ ngoài nhiệm vụ đã được quy định khi được Hiệu trưởng giao Hướng dẫn, theo dõi các đơn vị, bộ phận, cá nhân khác về vấn đề thuộc trách nhiệm của mình. II.3.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của các lãnh đạo trong trường Trách nhiệm của hiệu trưởng: Theo quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường (Ban hành kèm theo Quyết định số 04/2000 1.1. Là người lãnh đạo cao nhất trong trường, quản lý trường theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về toàn bộ hoạt động của trường, về chính trị, tư tưởng của công chức và lao động hợp đồng thuộc Đại học Kinh tế Quốc dân. 1.2. Lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của Đại học Kinh tế Quốc dân theo quy định của Nhà nước, nghị quyết của Đảng bộ Nhà trường và của cấp trên, cụ thể: a.Tổ chức xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển Đại học Kinh tế Quốc dân theo hướng phát triển thành trường Đại học Kinh tế trọng điểm quốc gia. b.Tổ chức lập và thực hiện kế hoạch đào tạo ngắn hạn và dài hạn về quản lý, kinh tế và kinh doanh cho tất cả các đối tượng thuộc các hệ và các loại hình đào tạo của trường. c.Tổ chức lập và thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học theo yêu cầu của Đảng và Chính phủ, của các dự án và hợp đồng đã ký kết. d. Chỉ đạo các đơn vị trong trường phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị: đào tạo, nghiên cứu khoa học, tư vấn. e. Chỉ đạo các đơn vị trong trường xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác với cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước nhằm nâng cao uy tín của trường. f. Chỉ đạo các đơn vị xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy đủ năng lực cải tiến chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, từng bước hội nhập với các nước trên thế giới và khu vực. g. Đầu tư xây dựng một cách hợp lý, hiệu quả nhằm tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và làm việc của trường. 1.2. Đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, đoàn kết trong trường, không ngừng nâng cao mức thu nhập hợp pháp, cải thiện đời sống, điều kiện làm việc của công chức và lao động hợp đồng trong trường. 1.3. Thực hiện chế độ báo cáo trước Đảng uỷ nhà trường, Đại hội đại biểu cán bộ, công chức và cấp trên. Hiện nay hiệu trưởng của trường đang thực hiện được tốt trách nhiệm được giao. * Phó hiệu trưởng: Là người giúp việc cho hiệu trưởng, thay mặt hiệu trưởng trực tiếp điều hành các hoạt động được hiệu trưởng giao. Là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước hiệu trưởng về kết quả hoạt động của các mảng công việc được giao, cụ thể: a. Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch và nắm vững tình hình họat động thuộc mảng công việc phụ trách. b. Định kỳ báo cáo hiệu trưởng tình hình, kết quả công việc theo quy định c. Trực tiếp phụ trách một số phòng, ban, bộ phận trong trường theo sự phân công của hiệu trưởng. * Trưởng các phòng, ban chức năng, khoa quản lý, viện nghiên cứu, trung tâm và các đơn vị tương đương (trực thuộc trường) là người chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về lãnh đạo, quản lý và điều hành mọi hoạt động và nhân sự của đơn vị theo quy định tại phần chức năng, nhiệm vụ và: - Phối hợp với chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo nghị quyết của Đảng bộ nhà trường và của chi bộ. - Tổ chức chỉ đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao theo kế hoạch công tác và các nhiệm vụ đột xuất khác. - Phối hợp với các đơn vị phòng, ban chức năng khác và các đơn vị trong toàn trường hoàn thành các nhiệm vụ được giao trên tinh thần đoàn kết và hợp tác. - Tham mưu đề xuất với Ban giám hiệu tổ chức, chỉ đạo và quản lý mọi hoạt động của trường thuộc lĩnh vực chuyên môn (nếu có). - Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị (nếu có). - Xây dựng và phát triển đơn vị vững mạnh toàn diện về các mặt lao động, cơ sở vật chất, nề nếp, kỷ cương. - Đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, đoàn kết, thống nhất trong một đơn vị. - Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong đơn vị. * Trưởng các khoa, bộ môn, viện, trung tâm (trực thuộc trường, có chuyên ngành đào tạo). Là người chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về việc lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động và quản lý nhân sự của đơn vị, quản lý sinh viên theo quy định tại phần chức năng, nhiệm vụ và: - Phối hợp với chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo nghị quyết của Đảng bộ nhà trường và của chi bộ. - Tổ chức chỉ đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao theo kế hoạch công tác và các nhiệm vụ đột xuất khác. - Phân cấp trách nhiệm: Quản lý lịch trình, giảng dạy, chuyên môn, sinh hoạt khoa học cấp bộ môn, biên soạn giáo án, giáo trình cho các trưởng bộ môn trực thuộc (nếu có). - Chỉ đạo các bộ môn trực thuộc (nếu có), các thành viên thuộc đơn vị không ngừng cải tiến, hoàn thiện nội dung, giáo trình, chương trình thuộc chuyên ngành, cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. - Phối hợp và điều hoà nhiệm vụ của các bộ môn trực thuộc (nếu có) và các thành viên trong đơn vị, đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, đoàn kết, thống nhất trong đơn vị. - Xây dựng và phát triển đơn vị vững mạnh toàn diện về các mặt tổ chức, lao động, cơ sở vật chất, đời sống, nề nếp, kỷ cương. * Trưởng các khoa, bộ môn (trực thuộc trường, không có chuyên ngành đào tạo) là người chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về việc lãnh đạo, quản lý và điều hành mọi hoạt động và quản lý nhân sự của đơn vị theo quy định tại phần chức năng, nhiệm vụ và: - Tổ chức chỉ đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao theo kế hoạch công tác và các nhiệm vụ đột xuất khác. - Phối hợp với chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo nghị quyết của đảng bộ nhà trường và của chi bộ. - Chỉ đạo các thành viên thuộc đơn vị nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện nội dung, chương trình, giáo trình và cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. - Điều hoà nhiệm vụ của các thành viên thuộc đơn vị, bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai, đoàn kết, nhất trí cao. Xây dựng và phát triển vững mạnh toàn diện về các mặt tổ chức, lao động, cơ sở vật chất, nề nếp, kỷ cương. Trưởng các phòng ban hiện nay hầu như đã điều hoà tốt nhiệm vụ của các thành viên trong đơn vị nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, họ vẫn chưa thể cải tiến được phương pháp giảng dạy và chưa toàn tâm toàn lực hoàn thiện nội dung giáo trình do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan gây ra. * Trưởng các bộ môn, giám đốc trung tâm (thuộc khoa, viện hoặc trung tâm). Là người chịu trách nhiệm trước trưởng khoa (hoặc viện trưởng, giám đốc trung tâm) về lãnh đạo mọi hoạt động và quản lý nhân sự của bộ môn (hoặc trung tâm) theo quy định tại phần chức năng, nhiệm vụ và : - Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân cấp của trường. - Tổ chức chỉ đạo bộ môn hoặc trung tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao theo kế hoạch công tác về các nhiệm vụ đột xuất khác. - Phân công và điều hoà nhiệm vụ giữa các thành viên, bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai, đoàn kết. - Xây dựng và phát triển bộ môn hoặc trung tâm vững mạnh toàn diện về các mặt tổ chức, lao động, cơ sở vật chất, nề nếp, kỷ cương. * Quyền hạn: Hiệu trưởng: - Bố trí, sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của trường. - Đề nghị Bộ giáo dục và đào tạo thành lập hoặc giải thể các tổ chức trực thuộc trường quản lý. - Đề nghị Bộ giáo dục và đào tạo bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi miễn các phó hiệu trưởng - Phân công, phân nhiệm trưởng ban giám hiệu. - Bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi miễn lãnh đạo các đơn vị thuộc trường. - Thành lập các Hội đồng tư vấn, các ban giúp việc trong các hoạt động cuả trường. - Ra quyết định chỉ thị, mệnh lệnh đối với các đơn vị, cá nhân trực thuộc nhằm thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ của trường. - Quyết định tuyển dụng lao động theo quy định và uỷ quyền của cơ quan nhà nước. - Phê duyệt kế hoạch, dự án đầu tư phát triển trường. - Sử dụng các phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác theo quy định của nhà nước. Được hưởng các chế độ, quyền lợi vật chất theo chế độ Nhà nước và quy định của trường. Hiện nay, hiệu trưởng đã sử dụng được tương đối tốt quyền hạn của mình. * Phó hiệu trưởng: - Tư vấn, giúp việc trong những lĩnh vực, hoạt động theo sự phân công của Hiệu trưởng, thay mặt hiệu trưởng chủ trì giải quyết các công việc được ủy quyền. - Duyệt các khoản chi theo quy định của hiệu trưởng và của Nhà nước. - Sử dụng các phương tiện cơ sở vật chất phục vụ cho nhiệm vụ, công tác được giao và theo quy định của Nhà nước. - Được hưởng các chế độ, quyền lợi vật chất theo chế độ Nhà nước và quy định của trường. * Trưởng các phòng, ban chức năng, khoa quản lý, viện nghiên cứu, trung tâm và các đơn vị tương đương (trực thuộc trường). - Tổ chức lao động, bố trí, sắp xếp nhân sự phục vụ cho công tác của đơn vị. - Đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi miễn cấp phó của đơn vị. - Đề nghị bổ sung hoặc thuyên chuyển lao động khi cần thiết. - Tham mưu cho hiệu trưởng về lĩnh vực chuyên môn theo quy định. - Phân công, phân nhiệm cho các thành viên trong đơn vị. - Sử dụng các phương tiện,cơ sở vật chất phục vụ công tác theo quy định theo quy định của nhà trường. - Kí thừa lệnh hiệu trưởng và đóng dấu những công văn được hiệu trưởng uỷ quyền thuộc lĩnh vực chuyên môn do đơn vị phụ trách. - Được phép chi một khoản kinh phí từ nguồn thu đào tạo để phục vụ cho hợp đồng của đơn vị. - Được hưởng các chế độ, quyền lợi vật chất theo quy định của trường. * Trưởng các khoa, bộ môn, viện, trung tâm (trực thuộc trường, có chuyên nghành đào tạo). - Tổ chức lao động, bố trí, sắp xếp nhân sự phục vụ cho công tác của đơn vị. - Đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi miễn cấp phó của đơn vị. - Đề nghị bổ sung hoặc thuyên chuyển lao động khi cần thiết. - Phân công, phân nhiệm cho các thành viên trong đơn vị. - Sử dụng các phương tiện cho cơ sở vật chất phục vụ công tác theo quy định của nhà trường. - Được phép chi một khoản kinh phí từ nguồn thu đào tạo để phục vụ công tác giảng dạy, văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao của đơn vị. - Tổ chức bồi dưỡng nghiên cứu khoa học nhằm tăng nguồn chi cho đơn vị và uy tín cho trường. - Được phép giao dịch, quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước (sau khi báo cáo với hiệu trưởng theo đúng quy định) để phát triển đào tạo và nghiên cứu khoa học. - Được phép ký thừa lệnh hiệu trưởng và đóng dấu xác nhận điểm tư cách sinh viên, cấp giấy phép cho sinh viên thuộc đơn vị quản lý. Được phép ký thừa lệnh hiệu trưởng các hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu tư vấn với các tổ chức bên ngoài sau khi được sự đồng ý của hiệu trưởng. - Được hưởng các chế độ, quyền lợi vật chất theo quy định của trường. * Trưởng các khoa, bộ môn (trực thuộc trường, không có chuyên nghành đào tạo). - Tổ chức lao động bố trí sắp xếp nhân sự phục vụ cho công tác của đơn vị. - Đề nghị bổ sung hoặc thuyên chuyển lao động khi cần thiết. - Phân công phân nhiệm cho các bộ môn (nếu có) và các thành viên trong đơn vị. - Sử dụng các phương tiện cơ sở vật chất phục vụ công tác theo quy định của nhà trường. - Được phép chi một khoản kinh phí từ nguồn thu đào tạo để phục vụ công tác giảng dạy và học tật theo quy định của trường. - Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng nghiên cứu khoa học nhằm phát triển nguồn thu cho đơn vị và uy tín cho trường. - Được phép giao dịch phát triển quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước (sau khi báo cáo HT theo đúng quy định) để phát triển đào tạo và nghiên cứu khoa học. - Được phép ký thừa lệnh hiệu trưởng các hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu tư vấn với các tổ chức bên ngoài sau khi được sự đồng ý của hiệu trưởng. - Được hưởng các chế độ quyền lợi vật chất theo quy định của trường. * Trưởng bộ môn giám đốc trung tâm (thuộc khoa, viện, trung tâm). - Tổ chức lao động, bố trí, sắp xếp nhân sự hợp lý nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Phân công, phân nhiệm cho các thành viên trong đơn vị. - Đề nghị bổ sung, bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi miễn cấp phó của đơn vị. - Đề nghị bổ sung hoặc thuyên chuyển lao động thuộc đơn vị khi cần thiết. - Sử dụng cơ sở vật chất phục vụ cho công tác theo quy định của nhà trường. - Được hưởng các chế độ, quyền lợi vật chất theo quy định của nhà trường. * Hiệu trưởng là thủ trưởng cao nhất chỉ đạo trực tiếp các phó hiệu trưởng và trưởng các đơn vị thuộc trường. Các phó hiệu trưởng là cấp dưới giúp việc cho hiệu trưởng, chỉ đạo trực tiếp trưởng một số đơn vị được hiệu trưởng phân công. - Hiệu trưởng chủ trì các cuộc họp (thường kỳ, đột xuất) thuộc trường. Khi được uỷ quyền các phó hiệu trưởng thay mặt hiệu trưởng chủ trì các cuộc họp thuộc mảng công việc mình phụ trách. - Đối với những vấn đề quan trọng có quan hệ, ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài, hiệu trưởng trao đổi, bàn bạc với tập thể ban giám hiệu và có sự chỉ đạo của đảng uỷ trường trước khi quyết định. - Hiệu trưởng tổ chức giao ban hàng tuần (với ban giám hiệu) và hàng tháng (với cán bộ chủ chốt trong toàn trường). - Hàng tuần hiệu trưởng phân công các phó hiệu trưởng trực ban giám hiệu. Phó hiệu trưởng trực tiếp nắm tình hình, kiểm tra gay gắt các công việc được ủy quyền. Cuối tuần phó hiệu trưởng trực tiếp báo cáo hiệu trưởng bằng văn bản các công việc đã giải quyết trong tuần. - Trước khi ký các văn bản, quyết định công việc quan trọng có ảnh hưởng lớn đến hợp đồng của trường thuộc mảng công tác, phó hiệu trưởng phải báo cáo và xin ý kiến của hiệu trưởng hoặc tập thể ban giám hiệu. - Định kỳ, các phó hiệu trưởng phải báo cáo hiệu trưởng bằng văn bản các công việc đã giải quyết hoặc chưa giải quyết trong kỳ. - Quan hệ giữa các phó hiệu trưởng là quan hệ đồng cấp, hợp tác, hỗ trợ. Phó hiệu trưởng này không có thẩm quyền phủ định các kết luận hoặc quyết định của phó hiệu trưởng khác. - Khi cần hiệu trưởng uỷ quyền cho một phó hiệu trưởng phụ trách chung để điều hành các mặt công tác của trường. - Ban giám hiệu tổ chức đánh giá kết quả công tác so với chương trình kế hoạch theo từng học kỳ, năm học và nhiệm kỳ. II.3.3. Lề lối làm việc, mối quan hệ giữa các bộ phận trong trường II.3.3.1. Quan hệ, lề lối làm việc của các đơn vị, cá nhân trong trường. Quan hệ và lề lối làm việc ở Đại học Kinh tế Quốc dân dựa trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của các đơn vị trong trường. * Quan hệ và lề lối trong ban giám hiệu 1) Căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết, chủ trương công tác của cấp trên và Đảng uỷ trường, Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch công tác hàng năm và từng học kỳ. Hiệu trưởng có trách nhiệm cao nhất, các Phó hiệu trưởng là giúp việc cho Hiệu trưởng. 2) Căn cứ vào nhiệm vụ được phân công các Phó hiệu trưởng phải: - Cụ thể hóa kế hoạch công tác thuộc lĩnh vực phụ trách - Báo cáo kế hoạch để Hiệu trưởng thông qua - Tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch đó - Từng học kỳ khi họp ban giám hiệu phải báo cáo Hiệu trưởng kết quả có đánh giá nhận xét bằng văn bản các mặt công tác do mình phụ trách. - Chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, giải quyết và ký các văn bản có liên quan đến mảng công tác của mình sau đó định kỳ phải báo cáo Hiệu trưởng biết. 3) Hiệu trưởng chủ trì các cuộc họp ( thường kỳ, đột xuất... ) thuộc những nhiệm vụ và hoạt động chủ yếu trong trường. Khi được uỷ quyền các phó hiệu trưởng chủ trì các cuộc họp thuộc mảng công việc mình phụ trách. 4) Những vấn đề quan trọng có quan hệ, ảnh hưởng rộng, lâu dài trước khi quyết định Hiệu trưởng cần trao đổi, bàn bạc kỹ với tập thể Ban giám hiệu. 5) Hiệu trưởng tổ chức giao ban hàng tuần (đối với Ban giám hiệu) và hàng tháng (đối với cán bộ chủ chốt trong toàn trường) 6) Hàng tuần Hiệu trưởng phân công trực giám hiệu. Phó hiệu trưởng trực tuần cần nắm tình hình, kiểm tra, giải quyết các công việc đột xuất và báo cáo Hiệu trưởng. 7) Quan hệ giữa các Phó hiệu trưởng là quan hệ đồng cấp, hợp tác, hỗ trợ giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Phó hiệu trưởng này không có thẩm quyền phủ định các kết luận hoặc quyết định của Phó hiệu trưởng khác. 8) Khi Hiệu trưởng đi công tác vắng uỷ quyền cho một Phó hiệu trưởng phụ trách chung để điều hành các mặt công tác của trường. * Quan hệ và lề lối làm việc giữa ban giám hiệu với thủ trưởng các đơn vị trong trường - Hiệu trưởng (và các phó hiệu trưởng được uỷ quyền) là lãnh đạo cấp trên trực tiếp của thủ trưởng các đơn vị trực thuộc. - Hiệu trưởng (và các phó hiệu trưởng được uỷ quyền) giao nhiệm vụ và chỉ đạo thực hiện kế hoạch công tác của các đơn vị trong trường theo quy định tại phần chức năng , nhiệm vụ. - Hiệu trưởng (hoặc các phó hiệu trưởng được uỷ quyền) phê duyệt các văn bản, quyết định thuộc mảng công tác phụ trách. - Hiệu trưởng (hoặc các phó hiệu trưởng được uỷ quyền) thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát hợp đồng của các đơn vị thuộc mảng công tác phụ trách. - Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc là cấp dưới chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng được uỷ quyền phụ trách. - Thủ trưởng các đơn vị nêu cao vai trò tham mưu, tư vấn chủ động đề xuất với hiệu trưởng kế hoạch làm việc hàng tháng, học kỳ, năm học. - Thủ trưởng các đơn vị chịu trách nhiệm triển khai công việc và hàng tháng, học kỳ, năm học báo cáo hiệu trưởng (hoặc phó hiệu trưởng được uỷ quyền phụ trách) tình hình thực hiện kế hoạch công tác được giao. - Các văn bản hoặc quyết định của các đơn vị chức năng soạn thảo phải trình ký hiệu trưởng (hoặc phó hiệu trưởng phụ trách đơn vị). - Các báo cáo, văn bản, quyết định và xin làm việc với giám hiệu phải qua phòng hành chính tổng hợp (trường hợp khẩn cấp hoặc giám hiệu yêu cầu). - Các văn bản, quyết định trình hiệu trưởng (hoặc phó hiệu trưởng ủy quyền phụ trách) ký đều phải có chữ ký “nháy” của thủ trưởng đơn vị ở cuối các trong văn bản. * Quan hệ và lề lối làm việc giữa các đơn vị, cá nhân trong trường. - Quan hệ giữa các thủ trưởng các đơn vị là quan hệ đồng cấp, phối hợp hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ hiệu trưởng giao. Các đơn vị chức năng có trách nhiệm chỉ đạo chuyên môn, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong trường. - Các đơn vị cần thường xuyên hợp tác, chủ động bàn bạc, thảo luận với các đơn vị có liên quan giải quyết kịp thời những vướng mắc trong công việc được giao . Trường hợp không thống nhất cần xin ý kiến của hiệu trưởng(hoặc phó hiệu trưởng được uỷ quyền phụ trách). - Khi được giao hoặc phát sinh công việc ngoài chức năng, một mặt tìm mọi cách hoàn thành tốt công việc, mặt khác thông báo cho các đơn vị có liên quan đồng thời báo cáo với hiệu trưởng (hoặc phó hiệu trưởng được uỷ quyền phụ trách) biết và quyết định. - Định kỳ tổ chức và đóng góp ý kiến cho các đơn vị chức năng, nhằm rút kinh nghiệm, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ để phục vụ tốt các hoạt động trong trường.Yêu cầu hoặc nguyện vọng của đơn vị hoặc cá nhân được nhà trường giải quyết hoặc chưa được giải quyết cần thông báo cho đơn vị và cá nhân đó. - Các yêu cầu và nguyện vọng của các đơn vị cá nhân thuộc trách nhiệm trường gg cần được tiến hành theo trình tự qua các phòng, ban, chức năng để theo dõi và đề xuất hướng giải quyết trước khi trình hiệu trưởng (hoặc phó hiệu trưởng được uỷ quyền phụ trách). - Quan hệ và lề lối làm việc trong các phòng, ban chức năng, khoa quản lý, viện ,trung tâm nghiên cứu và các đơn vị tương đương (trực thuộc trường) - Trưởng các phòng, ban quản lý hoặc viện trưởng, giám đốc trung tâm thuộc trường và trưởng các đơn vị tương đương khác (sau đây gọi chung là trưởng phòng) là lãnh đạo trực tiếp các phòng, ban, khoa quản lý, viện, trung tâm và các đơn vị tương đương khác (sau đây gọi chung là phòng) thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp của hiệu trưởng. - Phó trưởng phòng, ban, khoa quản lý hoăc phó viện trưởng, phó giám đốc trung tâm và phó trưởng các đơn vị tương đương khác (sau đây gọi chung là phó trưởng phòng) là cấp dưới giúp việc thay mặt trưởng phòng thực hiện nhiệm vụ công tác theo phân công của trưởng phòng. - Phó trưởng phòng thường xuyên báo cáo trưởng phòng tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao. - Đầu tuần, hàng tháng, học kỳ, năm học, trưởng phòng tổ chức họp phòng để phổ biến, bàn bạc, đôn đốc cán bộ, nhân viên hoàn thành tốt kế hoạch, nhiệm vụ được giao. - Công chức và lao động hợp đồng nếu có nguyện vọng được học tập, bồi dưỡng và các chế độ khác phải được đồng ý của thủ trưởng trực tiếp trước khi đề nghị nhà trường giải quyết. - Công chức và lao động hợp đồng phải chấp hành sự phân công, phân nhiệm của nhà trường và lãnh đạo đơn vị. Mọi bất đồng ý kiến của cá nhân được giải quyết theo trình tự từ cơ sở trước khi vượt cấp. Công chức và lao động hợp đồng có trách nhiệm đóng góp ý kiến cho lãnh đạo và các đơn vị thành viên trong đơn vị, cho xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện mọi hợp đồng của đơn vị để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. * Quan hệ và lề lối làm việc giữa Ban giám hiệu và các đơn vị trong trường 1) Ban giám hiệu với các đơn vị - Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng được uỷ quyền chỉ đạo thực hiện kế hoạch công tác của các đơn vị trong trường theo sự phân công. - Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng được uỷ quyền giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong trường khi có công việc phát sinh - Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng được uỷ quyền thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động, xem xét và quyết định tiến độ hoàn thành các công việc của các đơn vị và mảng công việc mình phụ trách - Hiệu trưởng, hoặc Phó hiệu trưởng phê duyệt các báo cáo công tác, các văn bản của các đơn vị và mảng công việc mình phụ trách với thời hạn ngắn nhất. 2. Các đơn vị với Ban giám hiệu - Thủ trưởng đơn vị nêu cao vai trò tham mưu, tư vấn của đơn vị chủ động đề xuất với hiệu trưởng kế hoạch làm việc hàng tháng, quý, năm. - Thủ trưởng các đơn vị chịu trách nhiệm triển khai công việc và báo cáo cho đồng chí giám hiệu trực tiếp phụ trách đơn vị mình. Những việc không thuộc đồng chí giám hiệu phụ trách trực tiếp thì thủ trưởng đơn vị báo cáo Hiệu trưởng qua các đơn vị chức năng. - Tuỳ theo quy định về phân công nhiệm vụ của hiệu trưởng các loại văn bản phải báo cáo hoặc trình ký đồng chí giám hiệu trực tiếp phụ trách đơn vị hoặc đồng chí giám hiệu phụ trách mảng công việc - Các văn bản trình giám hiệu ký đều phải có chữ ký “nháy” của thủ trưởng đơn vị vào cuối các trang văn bản. II.3.3.2. Quan hệ và lề lối làm việc giữa các đơn vị trong trường - Các đơn vị cần thường xuyên hợp tác, phối hợp với nhau để hoàn thành công việc thuộc về trách nhiệm của nhiều bên. - Để tránh chồng chéo, hoặc bỏ sót và không quản lý được, các đơn vị không được làm các công việc không thuộc chức năng nhiệm vụ nếu không được hiệu trưởng giao. Trong trường hợp được giao nhiệm vụ đột xuất (nhiệm vụ không thuộc chức năng) cần thảo luận bàn bạc với các đơn vị chức năng để đảm bảo cho việc quản lý và hoàn thành tốt nhiệm vụ. - Theo dõi, quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ thuộc chức năng nhiệm vụ được phân công. Chủ động bàn bạc thảo luận với các đơn vị có liên quan giải quyết kịp thời những vướng mắc trong công việc được giao. Trong trường hợp không thống nhất giải quyết những vướng mắc đó cần xin ý kiến chỉ đạo của đồng chí giám hiệu phụ trách. Định kỳ tổ chức đóng góp ý kiến của các đơn vị có liên quan đối với hoạt động của từng đơn vị chức năng nhằm rút kinh nghiệm, hoàn thiện khả năng nghiệp vụ và phục vụ tốt các hoạt động trong trường. II.3.4. Phân cấp quản lý trong trường - Phân cấp quản lý về mặt tạo công ăn việc làm. Với cơ cấu tổ chức bộ máy như hiện nay, các đơn vị trong trường chưa được quyền tự tuyển sinh. Việc tuyển sinh hàng năm hoàn toàn do ban lãnh đạo nhà trường quyết định. Với số lượng sinh viên dự thi đông, việc tuyển sinh này còn gặp một số khó khăn khi nhập học cũng như thi tuyển đầu vào cho cả sinh viên lẫn cán bộ thực hiện công tác tuyển sinh. - Phân cấp quản lý về tài chính: Các đơn vị chưa được giao riêng một số tài khoản để tự chi tiêu. Nếu thiếu các đơn vị phải làm đơn xin cấp. Nếu thấy hợp lý thì mới được Nhà trường đầu tư kinh phí. Điều này gây khó khăn vì có thể trong một thời gian, các đơn vị bị thiếu thốn trang thiết bị cơ sở vật chất để hoàn thành nhiệm vụ. - Phân cấp quản lý về mặt pháp nhân: Nhiều quyền hạn, trách nhiệm, con dấu vẫn còn chưa được giao hoàn toàn cho các đơn vị trong khi các đơn vị có thể gánh vác được, vì vậy về thủ tục hành chính của trường không thể tránh khỏi rườm rà, phải qua nhiều phòng ban mới được xác nhận. Phần 3: Những biện pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức ở đại học Kinh tế quốc dân theo yêu của trường trọng điểm quốc gia. III.1. Thách thức và vận hội đối với công tác tổ chức bộ máy trong mô hình trường trọng điểm quốc gia. Cơ cấu tổ chức bộ máy của trường cơ bản phù hợp với yêu cầu đào tạo trong tình hình hiện nay. Nhưng nếu xét theo yêu cầu trường đại học trọng điểm quốc gia, trường kinh tế đầu ngành ngang tầm các trường đại học trong khu vực và trên thế giới thì tổ chức bộ máy và công tác cán bộ chưa đáp ứng được mà cần phải nghiên cứu tiếp tục đổi mới, hoàn thiện. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức bộ máy là một công việc phức tạp cần phải đầu tư nhiều thời gian công sức để nghiên cứu và giải quyết nhiều vấn đề trên cơ sở nhận thức đúng các vận hội và thách thức đối với công tác đổi mới cơ cấu tổ chức trong tình hình hiện nay. Những thách thức và vận hội đối với công tác đổi mới cơ cấu tổ chức ở trường đại học Kinh tế quốc dân khi xây dựng trường trọng điểm quốc gia có thể tóm tắt ở một số vấn đề chính sau đây: III.1.1. Vận hội - Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục nói chung, các trường đại học nói riêng được ưu tiên đầu tư phát triển. Thế và lực của các trường đều đã được tăng cường đáng kể. Điều đó đã tạo ra áp lực cạnh tranh giữa các trường ngày một gia tăng. - Trong bối cảnh chung, Nhà nước đang tích cực cải cách hành chính, tăng cường pháp chế đã tạo nhiều thuận lợi cho việc nghiên cứu hoàn chỉnh về tổ chức bộ máy, sắp xếp lại công tác cán bộ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao ở các đơn vị hành chính, sự nghiệp. - Trường đại học Kinh tế Quốc dân là đơn vị đầu ngành có uy tín, có truyền thống và có bề dày lịch sử trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản trị. Ngoài ra, trường còn tham gia nghiên cứu khoa học, làm tư vấn về các chính sách kinh tế quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Được Nhà nước giao trọng trách xây dựng để trở thành trường trọng điểm quốc gia về kinh tế để là điểm tựa quan trọng để toàn thể Đảng bộ, cán bộ, công chức đại học Kinh tế quốc dân phấn đấu vươn lên về mọi mặt trong đó có công tác tổ chức cán bộ. - Từ ngày thành lập đến nay, Đảng uỷ, Ban giám hiệu trường luôn coi công tác hoàn thiện cơ cấu tổ chức là một công tác quan trọng trong việc xây dựng phát triển trường nên đã thường xuyên quan tâm, chỉ đạo trực tiếp công tác này. Do vậy, qua nghiên cứu về công tác tổ chức cán bộ của trường trong nhiều năm qua có thể thấy được một phần sự phát triển không ngừng của đại học Kinh tế Quốc dân. - Trường có đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu đông đảo, đầu ngành đủ sức gánh vác trọng trách của Đảng và Nhà nước giao cho, đủ sức xây dựng thành công trường trọng điểm quốc gia có tầm cỡ khu vực. Đây chính là niềm tin vững chắc của trường quyết tâm đổi mới cơ cấu tổ chức hoàn thiện công tác cán bộ theo hướng xây dựng trường trọng điểm quốc gia. Mặt khác, nhờ mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng đã tạo điều kiện cho cán bộ công chức của trường có nhiều cơ hội tiếp xúc, quan hệ với cộng đồng quốc tế để học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, chuyên môn phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý trong đó có công tác tổ chức và quản lý nguồn nhân lực. III.1.2. Thách thức. Tuy có nhiều cơ hội nhưng công tác tổ chức cán bộ trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng đang đứng trước một thách thức như sau: Đổi mới cơ cấu tổ chức phải bắt đầu từ việc đổi mới cơ cấu ngành nghề đào tạo của trường. Với yêu cầu xây dựng Đại học Kinh tế quốc dân thành trường trọng điểm quốc gia đa ngành, đa lĩnh vực cần nghiên cứu, giải đáp các vấn đề cơ cấu ngành nghề đào tạo? Đa ngành theo hướng nào? Đa lĩnh vực là như thế nào? Phát triển ra sao? - Mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới sắp xếp lại tổ chức bộ máy trong toàn trường cho phù hợp mô hình trường trọng điểm quốc gia với tư tưởng ngại thay đổi, với quyền lợi của tổ chức, cá nhân có thể phải mất với chuyên môn có thể thay đổi... Việc sắp xếp, sáp nhập đã giảm dần đầu mối sẽ là nguyên nhân gây ra lo lắng, tâm tư đến một bộ phận không nhỏ của cán bộ, công chức trong trường. - Về trình độ, chất lượng đội ngũ, cán bộ công chức cũng còn gặp phải một số nguy cơ và nhiều bất cập. Số cán bộ đầu ngành, có trình độ cao, có năng lực, kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, công tác đào tạo nay tuổi cao nên có những hạn chế nhất định khi tiếp cận các nhận thức, các kỹ năng mới hiện đại của kinh tế thị trường, trong việc sử dụng các công cụ hiện đại trong công tác nghiên cứu, giảng dạy. Đội ngũ giáo viên trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát có nhiều cơ hội, điều kiện và khả năng để tiếp thu các kiến thức mới, hiện đại nhưng nhận thức chưa thật đầy đủ, chưa đủ độ chín, còn thiếu kinh nghiệm thậm chí còn có hiện tượng thiên lệch về nhận thức và hành động học tập, trong rèn luyện toàn diện phẩm chất của người cán bộ giảng dạy. - Sự bất cập về ngoại ngữ, về khả năng ứng dụng toán, tin... vào công tác nghiên cứu của đội ngũ cán bộ giảng dạy nhà trường đang là thách thức, thậm chí cản trở lớn trong phát triển các chương trình hợp tác quốc tế, các chương trình đào tạo liên thông... III.2. Một số quan điểm khi xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy đại học Kinh tế quốc dân theo yêu cầu trường trọng điểm quốc gia. Để có cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy trường, hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ theo yêu cầu trường kinh tế trọng điểm quốc gia cần xác định một số quan điểm chủ đạo sau: Quan điểm 1: Cơ cấu tổ chức trường phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm thống nhất sự lãnh đạo của Đảng và Ban giám hiệu trên cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của các đơn vị và tất cả cán bộ, công chức trong trường thông qua phân cấp mạnh mẽ hơn nữa. Quan điểm 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức trường phù hợp với quy hoạch phát triển trường trong những năm đầu của thế kỷ 21 nhằm duy trì phát triển ổn định, bền vững. Quan điểm 3: Đổi mới cơ cấu bộ máy và công tác cán bộ phải đi liền với yêu cầu nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của bộ máy. Vậy phải tạo ra một cơ cấu lao động tối ưu xử lý tích cực đội ngũ lao động do lịch sử để lại. Đổi mới cơ cấu tổ chức trường dựa trên nguyên tắc hiệu quả nhằm phát huy tối đa sức mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức, khả năng đào tạo nghiên cứu khoa học của nhà trường, tận dụng tối đa cơ sở vật chất hiện có. Quan điểm 4: Kết hợp đổi mới cơ cấu tổ chức nhà trường với cải tiến đồng bộ công tác tổ chức cán bộ,công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, công tác tài chính, quản lý cơ sở vật chất và công tác phân phối thu nhập theo đó cần chú trọng giải quyết các vấn đề sau: - Lề lối làm việc, mối quan hệ công tác giữa các đơn vị chưa rõ ràng, còn nhiều chồng chéo nên hiệu quả hoạt động không cao. Nguyên nhân là chậm đổi mới quy định về chức năng, nhiệm vụ ( được ban hành từ 1997) trong khi thực tiễn hoạt động của bộ máy tổ chức trường đã thay đổi nhiều. - Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay, nhu cầu của xã hội về cán bộ ngành kinh tế và quản lý kinh doanh tăng nhanh, quy mô đào tạo cũng tăng trong khi đó biên chế của trường tăng chậm. Hướng giải quyết còn gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là một thách thức cần được giải quyết khi xây dựng trường kinh tế trọng điểm quốc gia. - Đời sống và thu nhập của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong trường không đều, cá biệt có một số giáo viên, cán bộ, công nhân viên kinh tế còn nhiều khó khăn mà hiện nay chưa thể giải quyết đã ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng tình cản của mọi người và sự không công bằng trong nhà trường. III.3. Những vấn đề cần thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của trường hiện nay. Mô hình cơ cấu tổ chức: Cần phát triển trường có mô hình 4 cấp với sự phân cấp mạnh mẽ Các đầu mối quản lý: Cần được giảm bớt để dễ quản lý Quyền hạn, trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong trường: Hiệu trưởng cần giao thêm cho các lãnh đạo trong trường một số quyền hạn và trách nhiệm nhằm phát huy hết khả năng nhân lực, giảm bớt sự quản lý cho cấp trên. Quan hệ giữa ban giám hiệu với các cấp dưới quyền và quan hệ giữa các đơn vị trong trường cần được mở rộng và thúc đẩy hơn nữa. III.4. Những giải pháp và kiến nghị về xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy theo yêu cầu trường trọng điểm quốc gia. Trên cơ sở những phân tích đánh giá ở chương 2 và một số quan điểm đã nêu ở phần em xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị về đổi mới cơ cấu tổ chức của trường như sau: III.4.1 Xác định mục tiêu, yêu cầu phải đổi mới cơ cấu tổ chức Đổi mới về cơ cấu tổ chức phải hướng tới một số mục tiêu cơ bản sau đây: - Xây dựng cơ cấu tổ chức theo hướng hình thành từng bước cơ cấu tổ chức của trường trọng điểm quốc gia từ 3 cấp chuyển dần sang 4 cấp. Trong thực tế không có một hình mẫu cố định của một trường trọng điểm quốc gia, ở đây chủ yếu được xét đến một số tiêu chuẩn trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, trong quản lý và xây dựng cơ sở vật chất trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường. Có nghĩa là cải tiến và xây dựng cơ cấu tổ chức trường phải đảm bảo thực hiện tốt các chỉ tiêu về một trường trọng điểm quốc gia và bám sát yêu cầu trong quy hoạch mạng lưới các trường đại học đến năm 2010. - Cơ cấu tổ chức trường phải hợp lý, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn phát triển trường sắp tới là phát triển hướng Đại học Kinh tế quốc dân thành một trường đại học đa ngàng, đa lĩnh vực, hội nhập với các trường trong khu vực và quốc tế. Cơ cấu tổ chức trường mà thấp hơn hoặc cao hơn so với yêu cầu, nhiệm vụ đều gây ra những bất hợp lý cản trở đến sự phát triển của trường. Nếu thấp hơn sẽ phát sinh tình hình quá tải trong hoạt động quản lý và trong thực thi các nhiệm vụ chính trị được giao. Nếu cao hơn sẽ gây ra sự lãng phí nguồn lực, kém hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của bộ máy tổ chức nhà trường. - Cơ cấu tổ chức trường phải quán triệt yêu cầu từng bước vươn lên hiện đại, tiên tiến, năng động, uyển chuyển thích nghi hoàn cảnh và điều kiện hoạt động mới. Tổ chức bộ máy không thể chỉ chờ đủ điều kiện thực tiễn mà phải đi trước thực tiễn, nhanh chóng tiếp cận với các mô hình tổ chức hiện đại, tiên tiến. Đồng thời phải biết cải tiến, thay đổi khi cần thiết. III.4.2. Một số yêu cầu cơ bản đặt ra khi đổi mới cơ cấu tổ chức. * Đổi mới cơ cấu tổ chức phải được tiến hành nghiên cứu và tổ chức thực hiện một cách thận trọng và có những bước đi thích hợp. Sự chuyển đổi quá nhanh chóng về tổ chức bộ máy có thể gặp phải sự chống trả quyết liệt của nhiều cá nhân, sự không đáp ứng nảy sinh từ chất lượng cán bộ. Do vậy cần phải lựa chọn thời điểm bắt đầu thực hiện một cách thích hợp có bước đi thích hợp để cải tiến tổ chức bộ máy, kết hợp cải tổ tổ chức với công tác tư tưởng. * Đổi mới cơ cấu tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với công tác cán bộ. Suy cho cùng sắp xếp lại tổ chức bộ máy sẽ đụng chạm đến bố trí lại con người với tâm tư, nguyện vọng, năng lực trình độ khác nhau. Nếu không quan tâm đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và thậm chí lợi ích con người thì đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy cũng khó có thể thành công. * Khi thời cơ đến thì phải thực hiện triệt để đổi mới cơ cấu tổ chức hữu khuynh có thể xảy ra khi thực hiện những biện pháp liên quan đến con người. Chống hữu khuynh làm cho đổi mới thành công có thể phải chấp nhận hy sinh để đạt được thắng lợi lớn hơn. * Đổi mới cơ cấu tổ chức phải dựa trên cơ sở “nhìn xa, trông rộng”. Để cho cơ cấu tổ chức có “sức sống” tương đối dài, ít nhất điều chỉnh không cần thiết phải có dự báo, dự toán tương lai về nhu cầu đào tạo của xã hội, khả năng và nguồn lực phát triển và khả năng đáp ứng nhu cầu của trường mà hình thành cơ cấu tổ chức thích hợp nhất. * Đổi mới cơ cấu tổ chức và công tác cán bộ phải quán triệt yêu cầu từng bước tập trung vào nhiệm vụ chính trị của nhà trường là đào tạo và nghiên cứu khoa học, từng bước xã hội hoá các hoạt động hỗ trợ đào tạo trong nhà trường. III.4.3. Sứ mệnh và mục tiêu phát triển của Đại học Kinh tế quốc dân Việc xác định cơ cấu tổ chức của Đại học Kinh tế quốc dân theo mô hình trường trọng điểm quốc gia xuất phát từ việc xác định sứ mạng và mục tiêu phát triển của Nhà trường: a. Sứ mệnh của Đại học Kinh tế Quốc dân: Với tư cách là một trường trọng điểm quốc gia trong mạng lưới các trường đại học của đất nước, Đại học Kinh tế Quốc dân có sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, có uy tín, có bản lĩnh chính trị vững vàng; thực hiện nghiên cứu khoa học, tư vấn thuộc lĩnh vực khoa học kinh tế, quản lý, kinh doanh và khoa học xã hội nhân văn cho Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước. b. Mục tiêu phát triển của Đại học Kinh tế Quốc dân. Phấn đấu trở thành trường trường đại học đầu ngành trong khối các trrường Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh đủ sức hội nhập với các trường trong khu vực và thế giới. Trong năm năm tới phát triển thành trường đa ngành: kinh tế, quản lý, kinh doanh, xã hội nhân văn và một số ngành giao thoa; phát triển thành trường đa lĩnh vực: đào tạo, nghiên cứu, tư vấn, chuyển giao công nghệ quản lý kinh tế và kinh doanh. III.4.4 Xác định cơ cấu tổ chức của Đại học Kinh tế quốc dân theo mô hình trường trọng điểm quốc gia: Mô hình tổ chức của Đại học Kinh tế quốc dân đến năm 2010 a. Các định hướng cơ bản về đào tạo, nghiên cứu khoa học và tư vấn đến năm 2005 và 2010: a.1 Về đào tạo Trong những năm tới trường không tuyển sinh cao đẳng, đồng thời ổn định về quy mô đào tạo sinh viên ở cấp đại học. Dự kiến quy mô đào tạo chính quy, tại chức giữ ở mức 3000- 3200, văn bằng thứ hai khoảng 800 đến 1000 sinh viên mỗi năm. Phát triển các hình thức đào tạo bồi dưỡng ngắn ngày. Đối với đào tạo sau đại học, tỷ lệ đào tạo sau đại học so với số sinh viên của trường còn rất thấp, khoảng 5%, phấn đấu đến năm 2005 tỷ lệ này là 10% tiến tới 15% vào năm 2010. Xây dựng cơ cấu ngành học theo hướng sắp xếp các ngành hiện tại thành 5 nhóm ngành là: ngành Kinh tế, ngành Kinh doanh, ngành Toán-Tin-Thống kê, ngành Ngân hàng-Tài chính, ngành Kế toán-Kiểm toán tiến tới hình thành ngành Xã hội nhân văn, trong đó ngành Kinh tế và ngành Kinh doanh là mũi nhọn. Ngành kinh tế gồm các chuyên ngành: Kế hoạch hoá; Kinh tế quốc tế; Kinh tế phát triển; Kinh tế công nghiệp; Luật kinh tế và kinh doanh; kinh tế và quản lý môi trường; Kinh tế bảo hiểm; Kinh tế đầu tư; Kinh tế và quản lý đô thị; Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn; Kinh tế và quản lý địa chính, Tài chính công, Kinh tế lao động, Quản lý nhà nước về kinh tế. Ngành kinh doanh gồm các chuyên ngành: Quản trị kinh doanh (Kinh doanh thương mại; Kinh doanh quốc tế; Thương mại quốc tế; Kinh doanh du lịch; Marketing; Quản trị chất lượng; Quản trị nhân lực); Quản trị kinh doanh công nghiệp và xây dựng cơ bản. Ngành ngân hàng- tài chính gồm các chuyên ngành: tài chính công, tài chính doanh nghiệp, thuế,... Ngành Toán-Tin-Thống kê gồm có các chuyên ngành: Toán kinh tế; Tin học kinh tế; Thống kê kinh tế xã hội, Toán tài chính... Ngành kế toán, kiểm toán gồm hai chuyên ngành: Kế toán tổng hợp, Kiểm toán. Ngành xã hội nhân văn có thể nghiên cứu hình thành các chuyên ngành sau: Dân số học, Triết học, Kinh tế chính trị; Ngoại ngữ chuyên ngành. Trong tương lai, từ 2005 đến 2010, nghiên cứu hình thành chương trình đào tạo quốc tế về kinh tế và quản trị kinh doanh. Cải tiến và hoàn thiện mục tiêu, chương trình đào tạo sau đại học theo hướng bổ sung và hoàn thiện cơ cấu chương trình, đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Từng bước mở rộng quy mô đào tạo sau đại học để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực có trình độ cao ngày càng lớn của xã hội. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thông qua các hình thức hợp tác quốc tế và tự đào tạo của Trường. Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo tỷ lệ 100% giáo viên giảng sau đại học có trình độ tiến sỹ, số lớn có khả năng giao dịch trực tiếp bằng tiếng anh và các ngoại ngữ thông dụng khác. a.2 Về nghiên cứu khoa học Để thực hiện mục tiêu “trở thành một trung tâm nghiên cứu khoa học và tư vấn có chất lượng và uy tín cao trong nước và khu vực”, hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ phát triển theo những định hướng sau: - Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận phục vụ đổi mới mục tiêu, chương trình, giáo trình đào tạo đại học và sau đại học về kinh tế và quản trị kinh doanh; Tăng cường nghiên cứu ứng dụng phục vụ hoạt động tư vấn chính sách cho Đảng và Nhà nước ở tầm vĩ mô và đổi mới hoạt động quản trị doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Tăng cường nghiên cứu phục vụ đổi mới công tác quản lý nhà trường và góp phần đổi mới công tác quản lý đào tạo của ngành. Tổ chức nghiên cứu đón đầu và nghiên cứu tổng kết. - Tập trung sức lực, tận dụng mọi cơ hội và khả năng nhằm bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực hoạt động tư vấn và chuyển giao công nghệ, tăng cường sự phối hợp giữa các cán bộ trong và ngoài trường. - Tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nghiên cứu với các trường và các tổ chức quốc tế. a. Mô hình phát triển nhà trường Đại học Kinh tế quốc dân đến năm 2010: - Việc xác định mô hình phát triển nhà trường đến năm 2010 cần được xây dựng trên các căn cứ chủ yếu sau: + Căn cứ vào luật giáo dục với các văn bản hướng dẫn thực hiện luật giáo dục + Căn cứ vào quy hoạch phát triển mạng lưới các trường đại học và cao đẳng cùng nước ta đang được chính phủ phê duyệt năm 2010. + Căn cứ vào các định hướng phát triển được xác định trong chiến lược phát triển nhà trường đến năm 2010 (trong đó các hướng phát triển các hình thức hoạt động chủ yếu của trường được trình bày ở mục a) Theo đó mô hình phát triển nhiều trường được xác định theo 2 giai đoạn: + Giai đoạn đến năm 2005: Nhà trường tiếp tục phát triển theo mô hình 3 cấp như hiện nay, đó là: Sơ đồ 10: Mô hình trường quản lý 3 cấp Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa, Vi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24394.DOC
Tài liệu liên quan