Đề tài Đo lường hiệu quả điều trị: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị - Nguyễn Văn Tuấn

Tài liệu Đề tài Đo lường hiệu quả điều trị: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị - Nguyễn Văn Tuấn: THỐNG KÊ Y HỌC ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị Nguyễn Văn Tuấn* Tóm tắt Kết quả nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial) thường được trình bày qua các chỉ số tương đối như tỉ số nguy cơ (relative risk – RR). Nhưng RR chỉ có thể áp dụng cho một quần thể hay một nhóm người, chứ không thể áp dụng cho một cá nhân. Những thước đo về hiệu quả của điều trị có thể áp dụng cho từng cá nhân bệnh nhân là những chỉ số mang tính nguy cơ tuyệt đối (absolute risk – AR) và số bệnh nhân cần điều trị (number needed to treat – NNT). Những “thước đo” này có thể sử dụng kết hợp với các mô hình tiên lượng để có thể nhận ra những cá nhân có nguy cơ cao và điều trị thích hợp. Bài này sẽ giới thiệu chỉ số NNT như là một thước đo hiệu quả của một thuật điều trị và cách diễn giải NNT trong bối cảnh lâm sàng. Abstract Results of randomized controlled trials are often presented in terms of relative ri...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 30/06/2023 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đo lường hiệu quả điều trị: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị - Nguyễn Văn Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỐNG KÊ Y HỌC ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị Nguyễn Văn Tuấn* Tóm tắt Kết quả nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial) thường được trình bày qua các chỉ số tương đối như tỉ số nguy cơ (relative risk – RR). Nhưng RR chỉ có thể áp dụng cho một quần thể hay một nhóm người, chứ không thể áp dụng cho một cá nhân. Những thước đo về hiệu quả của điều trị có thể áp dụng cho từng cá nhân bệnh nhân là những chỉ số mang tính nguy cơ tuyệt đối (absolute risk – AR) và số bệnh nhân cần điều trị (number needed to treat – NNT). Những “thước đo” này có thể sử dụng kết hợp với các mô hình tiên lượng để có thể nhận ra những cá nhân có nguy cơ cao và điều trị thích hợp. Bài này sẽ giới thiệu chỉ số NNT như là một thước đo hiệu quả của một thuật điều trị và cách diễn giải NNT trong bối cảnh lâm sàng. Abstract Results of randomized controlled trials are often presented in terms of relative risk (RR) or relative risk reduction (RRR). However, RR is a population measure which can only be applied to a group of individuals, not to an individual. Measures that can be meaningful to an individual include absolute risk (AR) and the number needed to treat (NNT). NNT is defined as the number of patients who needed to be treated to reduce one unfavorable outcome. The use of AR and NNT also allows clinicians to select high- risk patients for appropriate treatment. This article seeks to introduce the concept of absolute risk and NNT, and to explain the meaning of NNT in clinical setting. Có lẽ một cách cảm nhận tốt nhất về các thước đo (bằng con số) về hiệu quả của một thuật điều trị là qua một ví dụ đơn giản. Chúng ta thử xem qua 3 phát biểu sau đây: • Thuốc A giảm nguy cơ tử vong 50%; • Thuốc B giảm nguy cơ tử vong từ 2% xuống 1%; • Cần phải điều trị 100 bệnh nhân bằng thuốc C trong vòng 3 năm để ngăn ngừa một ca tử vong. Nếu bạn là bác sĩ lâm sàng và đang chăm sóc bệnh nhân, bạn chọn thuốc nào cho bệnh nhân mình? Trước khi bạn đọc suy nghĩ trả lời câu hỏi đó, có lẽ cần phải điểm qua một vài khái niệm liên quan đến y học thực chứng, mô hình nghiên cứu lâm sàng, và các chỉ số thống kê. Mô hình nghiên cứu RCT Y học thực chứng (evidence based medicine) đòi hỏi quyết định chọn lựa một thuật điều trị phải dựa vào chứng cứ từ y văn. Chứng cứ phải được đúc kết từ những nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học có giá trị cao nhất là mô hình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial – hay viết tắt là RCT), vì đây là một phương pháp hữu hiệu nhất và khách quan nhất để đánh giá hiệu quả và an toàn của một thuật điều trị. Gọi là “controlled” bởi vì bệnh nhân được tuyển chọn theo những tiêu chuẩn khách quan đã được định trước, và bệnh nhân được được theo dõi và chăm sóc trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ và có hệ thống. Gọi là “randomized” bởi vì bệnh nhân được phân chia thành 2 (hay nhiều nhóm) một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, không chịu sự tác động của bác sĩ và bệnh nhân. Phân chia bệnh nhân ngẫu nhiên hay “ngẫu nhiên hóa” cho phép chúng ta có thể phát biểu về mối liên hệ nhân quả. Thông thường trong một nghiên cứu RCT, một nhóm được điều trị bằng dược phẩm và một nhóm được cho giả dược (placebo). Nếu phương pháp ngẫu nhiên hóa được thực hiện tốt, thì 2 nhóm bệnh nhân đều có những chỉ số lâm sàng lúc ban đầu tương đương nhau. Vì các đặc tính nhân trắc và lâm sàng của 2 nhóm bệnh nhân tương đương nhau ngay từ lúc ban đầu, cho nên những kết quả thu thập được sau một thời gian can thiệp chỉ có thể do phương pháp can thiệp đem lại. Chính vì đặc tính quan trọng này mà kết quả của nghiên cứu RCT cho phép nhà nghiên cứu phát biểu về ảnh hưởng của thuốc một cách logic. Cần nói thêm rằng đối với các nghiên cứu cắt ngang, nghiên cứu bệnh chứng, hay thậm chí nghiên cứu theo thời gian, nhà nghiên cứu không thể phát biểu về nguyên nhân và hệ quả được, bởi vì kết quả có thể chịu sự chi phối của các yếu tố trung gian mà nhà nghiên cứu không thể kiểm soát được. Chính vì thế mà theo nguyên lý của y học thực chứng, kết quả từ nghiên cứu RCT có giá trị khoa học cao nhất so với các mô hình nghiên cứu khác. Khái niệm “nguy cơ” Trong bối cảnh lâm sàng, nguy cơ hay risk là xác suất một biến cố lâm sàng sẽ xảy ra trong một thời gian nhất định. Do đó, khái niệm nguy cơ là *GS Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Trường lâm sàng St Vincent’s, Đại học New South Wales, Sydney, Australia THỐNG KÊ Y HỌC một khái niệm xác suất có điều kiện, và điều kiện ở đây là thời gian. Chẳng hạn nguy cơ gãy xương trong thời gian 10 năm là 5%. Nguy cơ là một khái niệm mới trong y khoa. “Mới” hiểu theo nghĩa thuật ngữ này chỉ xuất hiện từ khi công trình nghiên cứu Framingham nổi tiếng ra đời từ năm 1961. Dựa vào kết quả của công trình nghiên cứu Framingham, các nhà khoa học phát triển khái niệm "risk factors" (yếu tố nguy cơ), đề cập đến những khía cạnh sức khỏe và lối sống có thể gia tăng khả năng (xác suất) mắc bệnh. Nguy cơ là một khái niệm bất định. Vì bản chất của nguy cơ là xác suất, nên khái niệm này thường áp dụng cho một quần thể hơn là cho một cá nhân. Chẳng hạn như khi chúng ta phát biểu “hút thuốc lá tăng nguy cơ gãy xương” thì câu này chỉ có nghĩa rằng người hút thuốc lá có nguy cơ gãy xương cao hơn người không hút thuốc lá. Câu đó không có nghĩa là tất cả người hút thuốc lá đều bị gãy xương, càng không có nghĩa tất cả những người không hút thuốc đều không gãy xương. Một cá nhân hoặc là bị gãy xương, hoặc là không, nhưng một quần thể thì có nguy cơ gãy xương tăng hay giảm. Phần lớn các nghiên cứu lâm sàng theo mô hình RCT mô tả hiệu quả qua nguy cơ. Chẳng hạn như trong nghiên cứu TROPOS,(1-2) với 719 bệnh nhân loãng xương được điều trị bằng strontium ranelate (SR) và 723 bệnh nhân nhận giả dược (placebo), sau 3 năm theo dõi / điều trị, tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nhóm SR là 20.9% so với 32.8% ở nhóm giả dược. Với số liệu này, chúng ta có thể phát biểu rằng nguy cơ gãy xương trong nhóm được điều trị bằng SR là 0.209 và trong nhóm giả dược là 0.328. Cách phát biểu này ghi nhận tình trạng bất định trong lâm sàng: không phải tất cả bệnh nhân trong nhóm không được điều trị bằng SR đều gãy xương, và không phải tất cả bệnh nhân trong nhóm SR đều không bị gãy xương; chỉ có nguy cơ gãy xương trong nhóm SR thấp hơn so với nguy cơ trong nhóm giả dược. Đo lường hiệu quả của thuốc Để đo lường hiệu quả của thuốc (hay một thuật điều trị), cần có 2 thông số nghiên cứu: chỉ tiêu lâm sàng (clinical outcome, cũng có khi gọi là endpoint) và chỉ số thống kê. Chỉ tiêu lâm sàng là một biến số phản ảnh tác động của thuốc đến một quần thể bệnh nhân. Trong nghiên cứu RCT, người ta phân biệt chỉ tiêu lâm sàng chính (primary outcome) và chỉ tiêu lâm sàng phụ (secondary outcome). Chỉ số thống kê đo lường mức độ thay đổi của chỉ tiêu lâm sàng. Chẳng hạn như trong nghiên cứu TROPOS, chỉ tiêu lâm sàng chính để đánh giá hiệu quả của thuốc là tần số gãy xương. Chỉ tiêu lâm sàng phụ là biến chuyển của mật độ xương (bone mineral density). Các chỉ tiêu lâm sàng này được ghi nhận trong 3 năm. Để đo lường các chỉ tiêu lâm sàng này, các nhà nghiên cứu sử dụng một số chỉ số thống kê. Những chỉ số này có thể tóm lược trong hai nhóm: chỉ số phản ảnh nguy cơ tương đối, và chỉ số phản ảnh nguy cơ tuyệt đối (absolute risk). Các chỉ số tương đối là relative risk (tỉ số nguy cơ), hazard ratio, và odds ratio. Các chỉ số tuyệt đối bao gồm risk difference và quan trọng nhất có lẽ là NNT (number needed to treat)(3) mà tôi sẽ giải thích dưới đây. Để tiện theo dõi, chúng ta thử xem qua kết quả của công trình nghiên cứu TROPOS trong bảng 1 dưới đây. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu quan tâm đến tần số gãy xương đốt sống (vertebral fracture) ở những nữ sau mãn kinh với chứng loãng xương. Sau 3 năm điều trị và theo dõi, có 20.9% bệnh nhân trong nhóm SR và 32.8% bệnh nhân trong nhóm giả dược bị gãy xương đốt sống. Bảng 1. Kết quả nghiên cứu TROPOS: tỉ lệ gãy xương đốt sống Strontium ranelate Placebo Số bệnh nhân điều trị 719 723 Số bệnh nhân gãy xương 150 237 Nguy cơ gãy xương 0.209 0.328 Với những kết quả trên, chúng ta có một số chỉ số để đo lường hiểu quả của SR: 1. Giảm nguy cơ tuyệt đối (absolute risk reduction – ARR). Tạm ký hiệu nguy cơ gãy xương là p. Nhưng ở đây, chúng ta có hai nhóm, cho nên chúng ta cần một ký hiệu khác để chỉ nhóm: p1 là nguy cơ mắc bệnh trong nhóm điều trị, p0 là nguy cơ mắc bệnh trong nhóm không điều trị (tức nhóm chứng). Giảm nguy cơ tuyệt đối (sẽ viết tắt là ARR) được định nghĩa như là hiệu số của hai nguy cơ: ARR = p0 – p1 [1] Trong trường hợp trên, chúng ta có thể tính toán ARR như sau: ARR = 0.328 – 0.209 = 0.119 Nói cách khác, strontium ranelate giảm nguy cơ gãy xương tuyệt đối 11.9%. 2. Nguy cơ tương đối (relative risk-RR). Thay vì tính hiệu số, chúng ta cũng có thể tính tỉ số của 2 nguy cơ, và tỉ số này được gọi là nguy cơ tương đối: 1 0 pRR p [2] THỐNG KÊ Y HỌC Chú ý ở đây, chúng ta đặt nguy cơ của nhóm điều trị (p1) lên tử số. Do đó, nếu RR < 1, chúng ta có thể nói nguy cơ gãy xương trong nhóm điều trị thấp hơn nhóm giả dược (thuốc có hiệu quả); nếu RR > 1, nguy cơ gãy xương trong nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng (thuốc gây thêm tác hại); và RR = 1 có nghĩa là cả hai nhóm có nguy cơ như nhau (tức thuốc không có hiệu quả). Bởi vì 1 là giá trị tham chiếu, cho nên nếu chúng ta lấy 1 trừ cho RR, chúng ta có một chỉ số mới: đó là giảm nguy cơ tương đối (relative risk reduction hay RRR): RRR = 1 – RR [3] Có thể ứng dụng các chỉ số này cho nghiên cứu TROPOS như sau: 64.0 328.0 209.0 RR và RRR = 1 – 0.64 = 0.36 Có thể hiểu các chỉ số này như sau: nguy cơ gãy xương trong nhóm strontium ranelate bằng 64% so với nhóm giả dược. Nói cách khác, thuốc strontium ranelate giảm nguy cơ gãy xương tương đối 36%. 3. NNT. Số người cần điều trị (number needed to treat). Chỉ số RR hay RRR phản ảnh hiệu quả lâm sàng cho quần thể. Vấn đề và cũng là khiếm khuyết lớn nhất của RR là hai nguy cơ rất khác nhau nhưng có thể cho ra cùng một RR, và vấn đề này thường gây hiểu lầm. Có thể xem xét hai trường hợp giả sau đây để minh họa cho phát biểu trên: • Một nghiên cứu hiệu quả thuốc A cho thấy nguy cơ mắc bệnh ở bệnh nhân nhóm 1 và nhóm 2 là 0.01 và 0.02 (tức 1% và 2%). Tỉ số nguy cơ, do đó, bằng: RR = 0.01 / 0.02 = 0.5. • Một nghiên cứu khác cũng có hai nhóm, nhưng lần này, nguy cơ mắc bệnh trong cộng đồng tăng 10 lần so với nghiên cứu trên, với tỉ lệ mắc bệnh ở hai nhóm là 0.10 và 0.20 (10% và 20%). Tỉ số nguy cơ vẫn RR = 0.5. Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy hai loại thuốc có cùng RR không hẳn có nghĩa là có hiệu quả như nhau, vì chúng ta không biết nguy cơ tuyệt đối là bao nhiêu. Chỉ số RR rất thông dụng trong các báo cáo nghiên cứu y khoa, nhưng cũng từng được phê bình rất nhiều lần. Tuy nhiên, vì tính đơn giản của nó, nên chỉ số RR vẫn thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả của một thuật điều trị. Như nói trên, RR là một đo lường mang tính quần thể, chứ không phải cá nhân. Khi nói RR = 0.4 hay thuốc giảm nguy cơ mắc bệnh 60% là nói đến hiệu quả của thuốc cho một quần thể, bởi vì cả tử số và mẫu số của RR như chúng ta thấy là tỉ lệ, mà tỉ lệ phản ảnh quần thể. Nhưng người thầy thuốc thì lại đối phó với một trường hợp cá thể. Nói cách khác, chúng ta cần một chỉ số để có thể truyền đạt hiệu quả của thuốc cho một cá nhân. Sau nhiều năm suy nghĩ, các nhà nghiên cứu Canada đề ra một chỉ số mới có tên là number needed to treat (NNT).(3) Có lẽ nên dịch sang tiếng Việt là “Số người cần được điều trị”, nhưng để thống nhất với y văn quốc tế, tôi sẽ viết tắt là NNT để bạn đọc khỏi ngỡ ngàng khi theo dõi các báo cáo y học quốc tế. Chỉ số này chỉ đơn giản là hàm số của hai nguy cơ tuyệt đối p0 và p1: ARRpp NNT 11 10 [4] Công thức trên cho thấy NNT chỉ đơn giản là một hàm số của ARR như định nghĩa trong công thức #1. Trong trường hợp nghiên cứu TROPOS, có thể ước tính NNT như sau: Ý nghĩa của NNT là gì? Phần lớn y văn, như trang web của Tập san British Medical Journal ( định nghĩa rằng “The number of patients who need to be treated to prevent one additional event” (số bệnh nhân cần được điều trị để ngăn ngừa một ca bệnh). Nhưng định nghĩa đó sai! Thật ra, NNT là số bệnh nhân cần được điều trị để giảm một ca bệnh. Chú ý, tôi dùng chữ giảm (reduce) chứ không phải ngăn ngừa (prevent) vì công thức trên rõ ràng đề cập đến hiệu số, tức giảm nguy cơ. Kết quả tính toán trên cho thấy cần điều trị 8 bệnh nhân bằng strontium ranelate để giảm 1 ca gãy xương đốt sống. Cách phân tích trên là hiệu quả lâm sàng nhưng có ý nghĩa đến hiệu quả kinh tế. Khi thuốc có NNT cao cũng có nghĩa là xã hội phải chi ra nhiều tiền để giảm một ca bệnh. Ngược lại, khi thuốc có NNT thấp, chi phí điều trị để giảm 1 ca bệnh cũng sẽ thấp. Tuy nhiên, vấn đề hiệu quả kinh tế là một vấn đề phức tạp, cần phải được phân tích cho đến nơi đến chốn, không nằm trong phạm vi của bài này. Nhìn qua công thức trên chúng ta thấy nếu p0 = p1 hay RR = 1 thì NNT là số vô định (vì không thể chia cho 0). Nói cách khác, nếu không có hiệu quả lâm sàng thì NNT là vô định. Nếu độ khác biệt giữa p0 và p1 (phần mẫu số) càng cao thì NNT càng thấp; và ngược lại, nếu độ khác biệt càng thấp thì NNT càng cao. Điều này có nghĩa là nếu nguy cơ mắc bệnh cao, và nếu hiệu quả của thuốc cao (giảm nguy cơ mắc bệnh nhiều), thì chúng ta chỉ cần điều trị một số ít bệnh nhân để giảm một trường hợp mắc bệnh. Bảng 2 trình bày số NNT cho từng nhóm bệnh nhân. THỐNG KÊ Y HỌC Bảng 2. Số bệnh nhân cần được điều trị (NNT) để giảm một ca gãy xương đốt sống Nguy cơ gãy xương Nhóm bệnh nhân điều trị bằng Strontium ranelate (%) placebo (%) NNT Nữ trên 80 tuổi 19.1 26.5 13 Nữ sau mãn kinh, loãng xương, không có tiền sử gãy xương 6.8 12.2 19 Nữ sau mãn kinh, thiếu xương (osteopenia) 8.1 18.6 10 Nữ sau mãn kinh, thiếu xương, tiền sử gãy xương 3.6 12.0 12 Nữ sau mãn kinh, thiếu xương, không có tiền sử gãy xương 11.1 17.8 15 Bảng 3. ARR và NNT (gãy xương đốt sống) cho một số thuốc chống loãng xương Nghiên cứu Thuốc Giảm nguy cơ tuyệt đối (%) NNT FIT(4) Alendronate 7.0 15 BONE(5) Ibandronate 4.9 21 VERT-NA(6) Risedronate 5.0 20 HORIZON(7) Zoledronate 7.6 14 MORE(8) Raloxifene 6.5 16 SOTI(1) Strontium ranelate 11.9 8 Neer et al(9) PTH 9.0 12 FREEDOM(10) Denosumab 4.8 21 Bảng 4. Số bệnh nhân cần điều trị tính cho nguy cơ bệnh từ 1% đến 20% và tỉ số nguy cơ tương đối từ 0.1 đến 0.9 RR p0= 0.01 p0= 0.02 p0= 0.05 p0= 0.10 p0= 0.15 p0= 0.20 0.9 111 56 22 11 7 6 0.8 125 63 25 13 8 6 0.7 143 71 29 14 10 7 0.6 167 83 33 17 11 8 0.5 200 100 40 20 13 10 0.4 250 125 50 25 17 13 0.3 333 167 67 33 22 17 0.2 500 250 100 50 33 25 0.1 1000 500 200 100 67 50 Bảng 2 trên đây cho thấy bệnh nhân có nguy cơ càng cao (như trên 80 tuổi, sau mãn kinh và thiếu xương) thì số NNT càng thấp. Nói cách khác, hiệu quả của strontium ranelate có vẻ tùy thuộc vào đối tượng bệnh nhân có nguy cơ cao. NNT cũng có thể ước tính cho từng thuật điều trị và trong điều kiện thích hợp cũng có thể so sánh. Bảng 3 trình bày kết quả nghiên cứu RCT của một số thuốc chống loãng xương phổ biến hiện nay. Kết quả này cho thấy NNT (tính dựa vào nguy cơ gãy xương đốt sống – vertebral fracture) dao động trong khoảng 8 đến 21. Tuy nhiên, rất khó so sánh giữa các thuốc trong trường hợp này vì đối tượng nghiên cứu khác nhau và nguy cơ gãy xương trong nhóm placebo cũng rất khác nhau giữa các nghiên cứu. Mối liên hệ giữa NNT và RR Thông thường các bài báo nghiên cứu y học trình bày RR, nhưng trong những năm gần đây chỉ số NNT cũng được quan tâm. Cho nên, vấn đề đặt ra là nếu chúng ta biết RR và nguy cơ mắc bệnh trong cộng đồng (nếu không điều trị), thì chúng ta phải suy luận thế nào về NNT? Như tôi vừa trình bày trong các công thức #1 đến #4, NNT phụ thuộc vào hai chỉ số nguy cơ p0 và p1, nhưng RR cũng phụ thuộc vào hai chỉ số này, cho nên rất dễ dàng để tìm mối liên hệ giữa NNT và RR. Có thể chứng minh rằng, nếu chúng ta biết p0 và RR, thì NNT sẽ là: 0 1 1 NNT p RR [5] Nhìn qua công thức trên chúng ta dễ dàng thấy khi RR càng thấp (tức hiệu quả lâm sàng càng cao) thì số NNT càng thấp, tức số bệnh nhân cần được điều trị ít hơn để giảm thiểu một ca bệnh. Chẳng hạn như nếu tỉ lệ mắc bệnh ngoài cộng đồng là 10% (p0 = 0.1) và qua y văn chúng ta biết rằng thuốc A có hiệu quả lâm sàng giảm nguy cơ bệnh với RR = 0.5, chúng ta có thể ước tính NNT qua công thức trên như sau: 1 20 0.1 1 0.5 NNT Bảng 4 sẽ tính NNT cho một số nguy cơ và các giá trị RR. Biểu đồ 1 sau đây cũng có thể sử dụng để ước tính NNT. Cột thứ nhất là nguy cơ mắc bệnh tính bằng phần trăm trong nhóm chứng (hay placebo); và cột thứ hai là mức độ giảm nguy cơ tương đối (RRR) cũng tính bằng phần trăm. Với 2 thông số này, chúng ta chỉ đơn giản vẽ một đường thẳng xuyên qua hai cột đến cột thứ ba là số NNT. Chẳng hạn như trong ví dụ trên p0 = 10% và RRR = 50%, nối hai điểm này đến cột 3 sẽ có NNT bằng 20. THỐNG KÊ Y HỌC Biểu đồ 1. Biểu đồ ước tính NNT dựa vào nguy cơ trong nhóm placebo và giảm nguy cơ tương đối RRR. Nguồn: Chatellier G, Zapletal E, Lemaitre D, Menard J, Degoulet P. The number needed to treat: a clinically useful nomogram in its proper context. BMJ 1996;312 (7028), 426–429. Số bệnh nhân điều trị để xảy ra một ca tác hại Khái niệm NNT cũng có thể khai triển thành số bệnh nhân cần điều trị để xảy ra một ca tác hại. Tiếng Anh gọi là number needed to harm hay NNH. Chẳng hạn như trong công trình TROPOS, tiêu chảy là tác dụng phụ hay thấy ở bệnh nhân dùng strontium ranelate, nhưng tác dụng phụ này chỉ xảy ra trong vòng 3 tháng đầu sử dụng. Theo số liệu báo cáo, trong 3 tháng đầu điều trị, 6.1% bệnh nhân trong nhóm strontium ranelate và 3.6% trong nhóm placebo. Do đó, NNH ở đây là: 40 036.0061.0 1 NNT Nói cách khác, phải điều trị 40 bệnh nhân thì sẽ có thêm một bệnh nhân bị tiêu chảy trong vòng 3 tháng sau khi dùng thuốc. Lợi ích và tác hại Hai chỉ số NNT và NNH có thể dùng để đánh giá lợi và hại của thuốc. Trong ví dụ trên, chúng ta thấy chỉ cần điều trị 8 bệnh nhân là giảm một ca gãy xương đốt sống, nhưng phải điều trị 40 bệnh nhân mới xảy ra thêm một ca tiêu chảy. Do đó, nếu tỉ số NNT / NNH thấp thì đó là một chỉ số cho thấy thuốc có lợi hơn gây tác hại. Trong trường hợp trên, 2.0 40 8 NNH NNTR Nói cách khác, NNH / NNT = 5, tức là lợi ích cao gấp 5 lần tác dụng phụ. Thật ra, cách so sánh trên chỉ mang tính minh họa, vì trong thực tế, còn phải xem xét đến trọng số liên quan đến gãy xương và tiêu chảy. Trong thực tế, chúng ta biết rằng gãy xương có hệ quả nghiêm trọng và tốn kém hơn tiêu chảy cấp tính, nên tỉ số lợi ích trên tác động phụ chắc chắn hơn 5 lần. Tóm lược Quay lại câu hỏi đặt ra trong phần đầu của bài viết, khi được hỏi, phần lớn bác sĩ và bệnh nhân đều chọn thuốc A (giảm nguy cơ 50%). Nhưng tôi có thể trả lời rằng cả 3 thuốc A, B, và C thật sự chỉ là một! Ba cách phát biểu cũng thật sự chỉ xuất phát từ một kết quả nghiên cứu. Kết quả đó là: nguy cơ tử vong trong nhóm điều trị là 1%, và nhóm không điều trị là 2%. Với hai con số đó, chúng ta có thể phát biểu: • Nguy cơ tương đối: thuốc giảm nguy cơ tử vong 50% (lấy 1 chia cho 2, trừ cho 1, và nhân cho 100); • Nguy cơ tuyệt đối: thuốc giảm nguy cơ tử vong 1% (lấy 2 trừ cho 1); • NNT: số bệnh nhân cần điều trị trong vòng 3 năm để giảm 1 ca tử vong là 1 / 0.01 = 100. Do đó, một kết quả nghiên cứu có thể trình bày bằng nhiều chỉ số thống kê. Những chỉ số ARR, RR, RRR, và NNT thường được sử dụng trong nghiên cứu lâm sàng. Nhưng vấn đề đặt ra là dùng chỉ số nào. Câu hỏi này có lý do vì cách trình bày dữ liệu có thể ảnh hưởng đến quyết định điều trị. THỐNG KÊ Y HỌC Một vài nghiên cứu trước đây(11-13) cho thấy bác sĩ có xu hướng không muốn điều trị nếu hiệu quả thuốc được trình bày bằng ARR – giảm nguy cơ tuyệt đối, và chọn thuốc dựa vào RRR – giảm nguy cơ tương đối. Tóm lại, trong ba chỉ số hiệu quả lâm sàng của một thuật điều trị -- giảm nguy cơ tuyệt đối ARR, giảm nguy cơ tương đối RRR, và số bệnh nhân cần điều trị NNT -- thì NNT là chỉ số có ý nghĩa nhất và cần được sử dụng rộng rãi để truyền đạt thông tin y khoa đến bệnh nhân. Không có một chỉ số lâm sàng nào hoàn hảo. Ngay cả NNT cũng có vài khiếm khuyết kĩ thuật của nó,(14) nhưng cái ưu điểm của nó là chỉ số này cho chúng ta một thông tin cần thiết cho người bệnh. Người thầy thuốc quan tâm đến một cá nhân, và y học đang tiến dần từ quần thể đến cá nhân, do đó NNT sẽ trở thành một chỉ số lâm sàng quan trọng trong tương lai. Để tạm kết thúc bài này, tôi muốn kể các bạn một câu chuyện khá tương quan giữa điều trị và cướp ngân hàng. Trong những người cướp ngân hàng nổi tiếng vào thập niên 1940s bên Mỹ, Willy Sutton là một nhân vật đặc biệt. Khi ông ta bị bắt và được hỏi tại sao ông ta cứ nhắm vào ngân hàng mà cướp, ông ta thản nhiên nói “vì tiền nằm ở đó”.(15) Đương nhiên! Tuy nhiên, trong chẩn đoán y khoa và điều trị bệnh, hàm ý câu nói đó rất quan trọng. Nói chính xác hơn là thế này: nếu muốn đem lại lợi ích tối đa cho bệnh nhân, cần phải tìm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh cao. Bệnh nhân có nguy cơ cao, điều trị sẽ đem lại lợi ích lớn chẳng những cho cá nhân mà còn cho cộng đồng. NNT giúp cho chúng ta chọn lựa này. Tài liệu tham khảo 1. Meunier PJ, Roux C, Seeman E, et al. The effects of strontium ranelate on the risk of vertebral fracture in women with postmenopausal osteoporosis. N Engl J Med. 2004;350:459–68. 2. Reginster JY, Seeman E, De Vernejoul MC, et al. Strontium ranelate reduces the risk of nonvertebral fractures in postmenopausal women with osteoporosis: treatment of peripheral osteoporosis (TROPOS) study. J Clin Endocrinol Metab. 2005;90:2816–22. 3. Laupacis A, Sackett DL, Roberts RS. An assessment of clinically useful measures of the consequences of treatment. N Engl J Med 1988;318:1728- 33. 4. Black DM, Cummings SR, Karpf DB et al. Randomised trial of eVect of alendronate on risk of fracture in women with existing vertebral fractures. Fracture Intervention Trial Research Group. Lancet 1996; 348:1535–1541. 5. Chesnut CH, Skag A, Christiansen C et al. EVects of oral ibandronate administered daily or intermittently on fracture risk in postmenopausal osteoporosis. J Bone Miner Res 2004; 19:1241–1249. 6. Harris ST, Watts NB, Genant HK et al Effects of risedronate treatment on vertebral and nonvertebral fractures in women with postmenopausal osteoporosis: a randomized controlled trial. Vertebral EYcacy With Risedronate Therapy (VERT) Study Group. JAMA 1999;282:1344–1352. 7. Black DM, Delmas PD, Eastell R et al Once-yearly zoledronic acid for treatment of postmenopausal osteoporosis. N Engl J Med 2007; 356:1809– 1822 8. Ettinger B, Black DM, Mitlak BH et al Reduction of vertebral fracture risk in postmenopausal women with osteoporosis treated with raloxifene. Results from a 3-year randomized clinical trial. JAMA 1999;282:637–645 9. Neer RM, Arnaud CD, Zanchetta JR et al Effect of parathyroid hormone (1– 34) on fractures and bone mineral density in postmenopausal women with osteoporosis. N Engl J Med 2001; 344:1434–1441 10. Cummings SR, San Martin J, McClung MR, et al. Denosumab for prevention of fractures in postmenopausal women with osteoporosis. N Engl J Med. 2009;361(8):756-65. 11. Forrow L, Taylor WC, Arnold RM. Absolutely relative: how research results are summarized can affect treatment decisions. Am J Med 1992;92(2):121– 124. 12. Naylor CD, Chen E, Strauss B. Measured enthusiasm: does the method of reporting trial results alter perceptions of therapeutic effectiveness?. Ann Intern Med 1992;117(11):916–921. 13. McNeil BJ, Pauker SG, Sox HC, Tversky A. On the elicitation of preferences for alternative therapies. New Engl J Med 1982;306(21):1259– 1262. 14. Wu LA, Kottke TE. Number needed to treat: caveat emptor. J Clin Epidemiol 2001; 54:111-116. 15. Câu chuyện về tay cướp ngân hàng Mĩ có thể tham khảo tại website: www.sunnysidechamber.org/OldDays/willyquestioned.html. Thuật ngữ Anh – Việt dùng trong bài Absolute risk Nguy cơ tuyệt đối Absolute risk reduction Giảm nguy cơ tuyệt đối NNT Số bệnh nhân cần điều trị Randomized controlled trial (RCT) Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên Relative risk (RR) Tỉ số nguy cơ Relative risk reduction (RRR) Giảm nguy cơ tương đối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_do_luong_hieu_qua_dieu_tri_nguy_co_tuyet_doi_va_so_be.pdf
Tài liệu liên quan