Tài liệu Đề tài Điều trị co rút mi trên mức độ vừa và nặng bằng kỹ thuật V - Y cải tiến tạo hình cân nâng mi – Đinh Viết Nghĩa: 46
ĐIỀU TRỊ CO RÚT MI TRÊN MỨC ĐỘ VỪA VÀ NẶNG 
BẰNG KỸ THUẬT V - Y CẢI TIẾN TẠO HÌNH CÂN NÂNG MI 
ĐINH VIẾT NGHĨA 
Bệnh viện TWQĐ 108 
TÓM TẮT 
 Mục đích: Đánh giá hiệu quả điều trị co rút mi trên mức độ vừa và nặng của một 
phương pháp cải tiến. 
 Thiết kế nghiên cứu: Nhóm trường hợp can thiệp. 
 Phương pháp: Tiến cứu. Phẫu thuật lùi và làm dài cân nâng mi bằng kỹ thuật tạo 
hình kiểu V – Y kép, bảo tồn cơ Muller và các nhánh thần kinh cảm giác của mi ở 16 
mắt co rút mi trên mức độ vừa và nặng. Đánh giá kết quả trong mổ và sau mổ bằng các 
chỉ tiêu hình thể và chức năng vận động mi trên. 
 Kết quả: 
- 16/16 mắt điều chỉnh đạt kết quả như mong muốn trong mổ. 
- Điều chỉnh độ cao và độ cong khe mi khá thuận lợi. 
- Tái phát thấp, biến chứng ít và nhẹ. 
- Mi mắt sinh động và còn cảm giác do bảo tồn được cơ Muller và các dây thần 
kinh cảm giác tại mi mắt. 
 Kết luận: Nghiên cứu trên cho thấy phương pháp phẫu thuật cải tiến này có một 
số ưu điểm, có thể áp dụng được ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Điều trị co rút mi trên mức độ vừa và nặng bằng kỹ thuật V - Y cải tiến tạo hình cân nâng mi – Đinh Viết Nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 46
ĐIỀU TRỊ CO RÚT MI TRÊN MỨC ĐỘ VỪA VÀ NẶNG 
BẰNG KỸ THUẬT V - Y CẢI TIẾN TẠO HÌNH CÂN NÂNG MI 
ĐINH VIẾT NGHĨA 
Bệnh viện TWQĐ 108 
TÓM TẮT 
 Mục đích: Đánh giá hiệu quả điều trị co rút mi trên mức độ vừa và nặng của một 
phương pháp cải tiến. 
 Thiết kế nghiên cứu: Nhóm trường hợp can thiệp. 
 Phương pháp: Tiến cứu. Phẫu thuật lùi và làm dài cân nâng mi bằng kỹ thuật tạo 
hình kiểu V – Y kép, bảo tồn cơ Muller và các nhánh thần kinh cảm giác của mi ở 16 
mắt co rút mi trên mức độ vừa và nặng. Đánh giá kết quả trong mổ và sau mổ bằng các 
chỉ tiêu hình thể và chức năng vận động mi trên. 
 Kết quả: 
- 16/16 mắt điều chỉnh đạt kết quả như mong muốn trong mổ. 
- Điều chỉnh độ cao và độ cong khe mi khá thuận lợi. 
- Tái phát thấp, biến chứng ít và nhẹ. 
- Mi mắt sinh động và còn cảm giác do bảo tồn được cơ Muller và các dây thần 
kinh cảm giác tại mi mắt. 
 Kết luận: Nghiên cứu trên cho thấy phương pháp phẫu thuật cải tiến này có một 
số ưu điểm, có thể áp dụng được trong lâm sàng. 
 Co rút mi là một tình trạng bệnh lý 
thường gặp nhất trong bệnh mắt liên 
quan tuyến giáp (TRO: Thyro - relative 
Ophthalmopathy) với biểu hiện mi bị rút 
ngắn làm khe mi rộng, mắt bị kích thích, 
dễ dẫn đến tổn hại giác mạc và ảnh 
hưởng đến thẩm mỹ. Cho đến nay, trên 
thế giới đã có nhiều phương pháp phẫu 
thuật điều chỉnh vị trí mi trên được đề 
xuất và ứng dụng. Năm 1995, với kỹ 
thuật tạo vạt cân nâng mi xoay, Shore và 
cs đã thành công ở 80% trường hợp co 
rút mi trên mức độ vừa và nặng. Nói 
chung, các phương pháp vẫn còn tồn tại 
một số hạn chế như khó điều chỉnh thỏa 
đáng độ cao và độ cong khe mi (nhất là 
đối với những trường hợp co rút mi nặng, 
không đều), kết quả sau mổ không bền 
vững, mắt biểu cảm kém sinh động, mi 
giảm cảm giác ở Việt nam, các kỹ 
thuật mổ điều trị co rút mi trên cho đến 
nay vẫn chưa được ứng dụng phổ biến. 
 Vì vậy, chúng tôi đề xuất một 
phương pháp phẫu thuật cải tiến trên cơ 
sở phương pháp của Shore để điều trị co 
rút mi trên nhằm cải thiện các hạn chế 
nêu trên. Những kết quả bước đầu được 
đánh giá trong nghiên cứu này. 
 47
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng: 
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các trường 
hợp co rút mi trên mức độ vừa và nặng 
(hở củng mạc, độ co rút trên 2 mm) đã 
ổn định ít nhất 6 tháng. 
- Tiêu chuẩn loại trừ : 
+ Lồi nhãn cầu nặng (trên 22 mm). 
+ Các bệnh liên quan chưa ổn định 
(Basedow chưa bình giáp,...). 
+ Các bệnh toàn thân đang tiến triển 
- Số lượng: 16 mắt/14 bệnh nhân đã 
được điều trị tại khoa Mắt – BVTWQĐ 
108 trong khoảng thời gian 2003 – 2004. 
2. Phương pháp: 
- Kỹ thuật mổ: 
 Gây tê ngấm dưới da bằng 
Lidocain 2% 
 Mở đường vào qua da theo nếp mi 
dự kiến (đường vào trước) 
 Phẫu tích nhẹ nhàng dọc theo cơ 
vòng mi. Bảo tồn các nhánh thần kinh 
cảm giác của mi ở trong lớp xơ mỡ ngay 
dưới cơ vòng. Bộc lộ cân cơ nâng mi trên 
xuống đến cách bờ mi 4mm, phía ngoài 
đến hết sừng ngoài của cân. 
 Cắt cân nâng mi khỏi sụn mi ở chỗ 
cách bờ mi 4mm, từ ngoài vào, độ dài 
tuỳ thuộc mức độ co rút mi, cắt cả sừng 
ngoài của cân. Bóc tách cân khỏi sụn mi 
và cơ Muller đến gốc cơ này. Nếu co rút 
mi nặng (trên 4 mm) thì tách hẳn cân 
khỏi gốc cơ Muller. Xẻ đầu cân bởi 3 
đường chếch 450: đường 1 ở cạnh ngoài 
cơ, đường 2 và 3 ở phần ba ngoài và giữa 
tạo thành các dải cân. Độ dài các đường 
xẻ này tùy thuộc mức độ nặng của co rút 
mi. Không làm tổn thương thân cơ 
Muller. 
 Khâu đính đầu các dải cân này vào 
bờ trên sụn mi, dịch chuyển vào trong so 
với vị trí nguyên phát của chúng bằng 
các mũi chỉ Vicryl 6.0 (nếu tách gốc cơ 
Muller trong trường hợp co rút mi nặng 
thì khâu lại gốc cơ Muller vào cân cơ 
nâng mi). Cho bệnh nhân ngồi dậy đánh 
giá độ cao và độ cong khe mi, điều chỉnh 
bằng cách xẻ đầu cân dài hơn nếu hạ mi 
chưa đủ hoặc khâu ngắn lại đường xẻ 
nếu hạ mi quá mức. 
 Khâu phục hồi da tạo nếp mi bằng 
chỉ Nilon 7.0. Khâu hai mũi chỉ kéo vào 
da - sụn gần sát bờ mi và cố định xuống 
má bằng băng dính. 
 Đường rạch cân Khâu cân - sụn 
 48
- Đánh giá kết quả: theo các chỉ tiêu 
hình thể và chức năng vận động sau 1 
tháng, 3 tháng, 6 tháng. Theo dõi và xử 
lý tai biến, biến chứng. 
- Các chỉ tiêu theo dõi (giá trị bình 
thường): 
1. Độ cao khe mi (9 mm),. 
2. MRD1 max: Khoảng cách bờ mi 
trên - ánh phản xạ giác mạc (3,5 mm) ở 
vị trí co rút cao nhất. 
3. Độ cong bờ mi trên: điểm cao nhất 
của bờ mi trên (C) 
4. Biên độ vận động mi (12 - 14mm). 
5. Sức cơ, trương lực cơ (Po = 0g; 
P1/2 = 4g; P1/2 max = 15g) 
6. Cảm giác bờ mi mắt. 
7. Độ thẩm mĩ của mi. 
- Đánh giá kết quả chung: 
Chỉ tiêu theo dõi Tốt Vừa Xấu 
Độ cao khe mi 9 - 10 mm +/- < 2 mm +/- 2mm 
MRD1 max 3 - 4 mm +/- < 2 mm +/- 2mm 
Độ cong bờ mi trên C < 2 mm 2 – 5,5 mm C 5,5 mm 
Biên độ vận động mi 12 – 14 mm +/- < 2 mm +/- 2mm 
Po 0g +/- < 2 g +/- 2g 
P1/2 4g +/- < 2 g +/- 2g 
P1/2 max 15g +/- < 4 g +/- 4g 
Cảm giác bờ mi mắt Bình thường Giảm nhẹ Kém 
Độ thẩm mỹ mi mắt Bình thường Chấp nhận được Xấu 
KẾT QUẢ 
- Nguyên nhân: 
+ Basedow: 5 mắt / 4 người. 
+ Basedow + Nhược cơ nặng: 1 mắt / 
1 người 
+ Do phẫu thuật: 2 mắt / 1 người 
+ Tiền sử bị sởi: 1 mắt / 1 người 
+ Tiền sử chấn thương sọ mặt: 2 mắt 
/ 2 người 
+ Không rõ nguyên nhân: 5 mắt / 5 
người 
- Phân loại theo mức độ: 
+ Nặng (Trên 4 mm): 6 mắt. 
+ Vừa (2 – 4 mm): 10 mắt. 
- Đánh giá kết quả chung: 
 49
 Trong mổ Sau 1 tháng Sau 3 tháng Sau 6 tháng 
Tốt 16 16 15 15 
Vừa 0 0 1 1 
Xấu 0 0 0 0 
- Biến chứng phẫu thuật: Không gặp 
trường hợp nào có biến chứng nặng. 
+ Rách kết mạc: 1 trường hợp rách 
nhỏ kết mạc được khâu vết rách ngay 
trong mổ, không ảnh hưởng đến kết quả 
điều trị. 
+ Xuất huyết nhẹ dưới da: 1 trường 
hợp, máu tiêu hết sau 1 tuần. 
+ Phù mi kéo dài: 1 trường hợp. 
- Tái phát: 1 trường hợp bị co rút tái 
phát xấp xỉ 1,5 mm. Đây là bệnh nhân bị 
co rút mi nặng do Basedow kết hợp 
nhược cơ nặng. 
BÀN LUẬN 
1. Về chỉ định phẫu thuật: 
- Trước hết cần đề cập tới nguyên 
nhân, cơ chế co rút mi. Có thể chia 
nguyên nhân co rút mi làm 3 nhóm theo 
Barley (1996): 
+ Co rút mi do thần kinh: Hội chứng 
cuống não sau 
+ Co rút mi do cơ: Thường gặp nhất 
là bệnh TRO/Basedow. 
+ Co rút mi do cơ học: Do phẫu 
thuật, chấn thương 
 Chúng tôi đã gặp các bệnh nhân 
thuộc cả 3 nhóm và chủ yếu là Bệnh mắt 
liên quan tuyến giáp (Thyro – relative 
Ophthalmopathy/TRO). Trước đây bệnh 
này hay gọi với tên là bệnh mắt do 
Basedow. Gọi như vậy không chính xác 
vì nhiều công trình nghiên cứu đã cho 
thấy cơ chế và diễn biến của bệnh lý tại 
mắt không tương quan tuyến tính với 
bệnh của tuyến giáp. Cơ chế co rút mi 
chính trong TRO là viêm miễn dịch cơ 
nâng mi trên và cơ Muller gây tăng 
trương lực, co rút mi ở giai đoạn đầu, 
giai đoạn này có thể kéo dài từ vài tháng 
đến vài năm, sau đó xơ hoá các cơ này ở 
trạng thái co. Điều trị nội khoa hoặc kết 
hợp xạ trị trong giai đoạn đầu và phẫu 
thuật tạo hình mi trong giai đoan sau là 
chỉ định thường được áp dụng hiện nay 
trên thế giới cũng như ở cơ sở của chúng 
tôi. TRO là nguyên nhân thường gặp 
nhất gây co rút mi. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi chỉ lấy 6 mắt theo tiêu chuẩn 
lựa chọn. 
 Cơ chế rối loạn vận động mi trong 
bệnh Basedow kết hợp nhược cơ nặng 
chưa được đề cập nhiều trong y văn do 
hiếm gặp nhưng chắc hẳn phức tạp nên 
chúng tôi chưa bàn luận ở đây. Điều lý 
thú là trong nghiên cứu này chúng tôi 
gặp 1 bệnh nhân như vậy nhưng biểu 
hiện ở 2 mắt hoàn toàn trái ngược nhau: 
ở mắt phải thì co rút mi nặng kết hợp lác 
lên trên và ra ngoài, lồi nhãn cầu nhẹ 
 50
(các triệu chứng của Basedow) trong khi 
ở mắt trái thì sụp mi nhẹ, không lồi nhãn 
cầu (triệu chứng của nhược cơ). 
 Hai mắt bị ngắn mi do phẫu thuật 
tạo hình mi thất bại ở cơ sở khác. Đây là 
nguyên nhân hay gặp hiện nay do tình 
trạng một số phẫu thuật viên chưa nắm 
vững chỉ định và kỹ thuật tạo hình mi. 
 Hai bệnh nhân có tiền sử chấn 
thương nhẹ vùng trán cùng bên, tụ máu 
hốc mắt, mi mắt và để lại sẹo nhỏ nhưng 
không thấy có biến dạng xương, co rút 
mi tiến triển chậm dần sau chấn thương. 
Chưa có căn cứ xác đáng để giải thích cơ 
chế co rút mi trong 2 trường hợp này. 
 Trong các trường hợp không tìm 
thấy nguyên nhân rõ ràng thì chúng tôi 
cũng chỉ định phẫu thuật nếu tình trạng 
co rút mi đã ổn định và không có chống 
chỉ định kèm theo. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: 
+ Các trường hợp lồi mắt nặng trên 
22 mm vì đây là một yếu tố ảnh hưởng 
nhiều đến việc đánh giá tình trạng co rút 
mi. 
+ Tình trạng bệnh tuyến giáp chưa ổn 
định vì tình trạng bệnh tuyến giáp có liên 
quan với bệnh tại mắt dù mối liên quan 
này nhiều khi không tuyến tính. 
+ TSH cao vì cơ chế nội tiết của 
TRO vẫn chưa thực sự sáng tỏ. Mặc dầu 
TSH cao trong một số ít các trường hợp 
TRO nhưng chúng tôi cũng loại trừ để 
tránh nguy cơ tái phát. 
+ Trong nghiên cứu này chúng tôi 
không chọn các mắt co rút mức độ nhẹ vì 
chỉ cần áp dụng các kỹ thuật đơn giản 
hơn như dịch điểm bám của cân cơ nâng 
mi hay cắt cơ Muller cũng đủ điều chỉnh 
thỏa đáng vi trí mi trên. 
- Mức độ: Hiện chưa có bảng phân 
độ thống nhất cho các loại co rút mi. 
Chúng tôi tạm chia làm 3 mức như sau 
dựa trên chỉ tiêu chính là MRD1 ở vị trí 
mi co rút cao nhất (không phải so với 
đồng tử vì điểm co rút cao nhất không 
phải bao giờ cũng ở trên đồng tử): 
+ Nặng: Co rút trên 4 mm 
+ Vừa: Co rút 2 – 4 mm 
+ Nhẹ: Co rút dưới 2 mm, bờ mi trên 
còn ở dưới rìa giác mạc. 
- Thời điểm phẫu thuật: Tất cả các 
trường hợp đều có tình trạng co rút mi ổn 
định trên 1 năm, giống ý kiến của nhiều 
tác giả. 
2. Về chỉ tiêu đánh giá tình trạng co 
rút mi trước và sau phẫu thuật: 
- Trước đây, hầu hết các tác giả đánh 
giá mức độ co rút mi chủ yếu dựa vào độ 
cao khe mi, MRD1 (khoảng cách từ bờ 
mi trên đến ánh phản xạ giác củng mạc: 
Maginal - Reflex Distance 1). Tuy nhiên, 
các đặc tính sinh lý cơ học của cơ vân 
nói chung còn có: trương lực cơ, lực cơ, 
phân bố lực của cơ, công cơ, công suất 
cơ, độ giãn cơnên chúng tôi đề xuất 
thêm chỉ tiêu biên độ vận động mi và một 
số chỉ tiêu cơ học của cơ (lực cơ và 
trương lực cơ: Po, P1/2, P1/2 max) nhờ 
bộ dụng cụ tự tạo để việc đánh giá tình 
 51
trạng cơ nâng mi toàn diện, chính xác 
hơn. 
- Ngoài ra, chúng tôi đánh giá cả độ 
sinh động của mi mà chức năng biểu cảm 
của cơ Muller tạo ra, cảm giác bờ mi do 
dây thần kinh cảm giác tại mi mắt có thể 
bị tổn thương do phẫu thuật, độ thẩm mỹ 
của mi. 
3. Về kỹ thuật: 
 Lịch sử các phẫu thuật mổ điều trị 
co rút mi từ giữa thế kỷ XX đã trải qua 
các giai đoạn từ hạ mi đơn giản đến hạ 
mi có định lượng, chọn lọc theo từng vị 
trí, mức độ, kéo dài cân cơ nâng mi bằng 
tạo hình đầu cân hoặc có sử dụng chất 
liệu nối dài (spacer), ngày càng nâng cao 
hiệu quả điều trị nhưng vẫn còn tồn tại 
một số hạn chế như sau: 
- Khó điều chỉnh được độ cao và độ 
cong khe mi thoả đáng ngay trong phẫu 
thuật vì các kỹ thuật cắt cơ Muller kết 
hợp với cắt/ nối dài cân cơ nâng mi trên 
không dễ điều chỉnh được mức độ hạ mi 
theo từng vị trí, nhất là đối với những 
trường hợp co rút nặng và không đều như 
trong TRO. Các tác giả trong các báo cáo 
gần đây đã hướng tới việc sử dụng các 
spacer nhưng tính toán kích thước của 
spacer như thế nào còn là một vấn đề khó 
khăn. Hầu hết các phẫu thuật viên đều 
phải đánh giá độ cao và độ cong khe mi 
trong mổ bằng cách cho bệnh nhân ngồi 
dậy. 
- Kết qủa không bền vững vì quá 
trình xơ hoá vùng mổ, quanh các spacer 
là không thể tránh khỏi. Kể cả phẫu thuật 
của Kohn sử dụng hai vạt sụn xoay tại 
chỗ cũng bị tái phát nhiều; kỹ thuật của 
Shore sử dụng cơ Muller làm spacer có 
thể hạn chế được hiện tượng xơ hoá 
nhưng cơ Muller quá mỏng và chịu lực 
nhiều thì mất khả năng biểu cảm và lâu 
dài cũng bị xơ hóa. 
- Mắt giảm sinh động do tổn thương 
cơ Muller. Đa số các kỹ thuật mổ hạ mi 
cắt đứt hoặc loại bỏ cơ Muller. Tất cả các 
kỹ thuật đi qua đường kết mạc đều cắt 
đứt cơ Muller. 
- Mi giảm cảm giác do tổn thương 
các nhánh thần kinh cảm giác tại mi mắt. 
Trong các tài liệu về giải phẫu và phẫu 
thuật mi mắt, chúng tôi chưa thấy tác giả 
nào mô tả đặc điểm giải phẫu và đề cập 
tới việc bảo tồn các nhánh thần kinh này. 
 Cơ sở của kỹ thuật cải tiến: 
 Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã 
vận dụng một kỹ thuật cải tiến có kế thừa 
các phương pháp phẫu thuật trước đây và 
dựa trên cơ sở nghiên cứu giải phẫu, sinh 
lý, bệnh học của các cấu trúc mi trên: 
- Trong kế thừa, đáng chú ý là các 
phương pháp của Shore (1995) sử dụng 
spacer là cơ Muller (không làm tổn hại 
cơ Muller) và các phương pháp sử dụng 
spacer bằng chất liệu tại chỗ như sụn mi 
(Kohn, 1982), cân nâng mi... Tuy nhiên, 
qua thực tế chúng tôi thấy rằng các 
phương pháp này không dễ thực hiện để 
điều chỉnh thỏa đáng độ cao và độ cong 
khe mi, nhất là với các trường hợp co rút 
mi nặng và không đều như trong TRO 
 52
(co rút phía ngoài mạnh hơn phía trong), 
việc phẫu tích cơ Muller cũng khó khăn. 
Ví dụ, tạo hình chữ Z và V - Y đơn thuần 
tạo được hiệu quả kéo dài nhưng lại gây 
co kéo theo chiều ngang và khó có thể 
điều chỉnh được độ cong khe mi khi mi 
trên co rút không đều. 
- Cấu trúc cân cơ nâng mi và cân kết 
hợp (tạo bởi cân nâng mi, vách ngăn, cân 
dưới cơ vòng mi) có các thớ sợi chạy 
chéo, chạy ngang có thể chịu lực kéo 
chếch khá tốt. 
- Giải phẫu của các nhánh thần kinh 
cảm giác tại mi mắt. Trong một nghiên 
cứu khác, chúng tôi đã đề cập về vấn đề 
này. 
 Những điểm cơ bản: 
 Kéo dài + lùi cân nâng mi bằng 
cách tạo hình đầu cân với các đường xẻ 
chéo tạo các dải cân đủ dài, đủ vững để 
chịu lực bảo đảm kết quả lâu dài, dễ điều 
chỉnh độ cao và độ cong khe mi ở từng vị 
trí ngay trong cuộc mổ bằng độ dài các 
đường xẻ này. Với cách thức này, việc 
điều chỉnh độ cao và độ cong khe mi trở 
nên dễ dàng hơn so với các cách kéo dài 
cân khác. Hiệu quả nối dài được tạo bởi 
hai yếu tố: 
 Biến dải cân từ hướng chéo 45o 
thành hướng thẳng như cạnh huyền so 
với cạnh vuông của một tam giác vuông 
cân (tăng khoảng 1,4 lần chiều dài). 
 Dịch điểm bám của cân nâng mi từ 
giữa mặt trước sụn lên gần bờ trên sụn 
(khoảng 3mm). 
 Cách nối dài này cho phép hạ mi 
hiệu quả cho các trường hợp co rút mi 
vừa và nặng, mi có độ cong không đều 
mà các phương pháp khác khó đạt được. 
 Sử dụng chất liệu nối dài là chính 
các dải cân và cơ Muller. Việc sử dụng 
chất liệu tự thân, tại chỗ như vậy sẽ hạn 
chế hiện tượng xơ hoá, bảo đảm kết quả 
ổn định lâu dài. 
 Bảo tồn cơ Muller với chức năng 
biểu cảm của nó. 
 Bảo tồn các nhánh thần kinh cảm 
giác của mi mắt, tránh tình trạng mi giảm 
cảm giác sau mổ. 
4. Kết quả: 
- Việc đạt được MRD1, độ cao và độ 
cong khe mi thỏa đáng ngay trong cuộc 
mổ ở tất cả các trường hợp là một kết 
quả tốt và là hệ quả của kỹ thuật trên. 
- Tỷ lệ tái phát thấp, mức độ nhẹ gặp 
ở một trường hợp TRO kết hợp nhược cơ 
có mức co rút mi nặng trên 4 mm. 
Nguyên nhân có thể do cơ chế bệnh phức 
tạp và mức độ điều chỉnh cần tăng nhiều 
hơn. 
- Biến chứng nhẹ và ít gặp cũng 
tương tự như các báo cáo khác. Chúng 
tôi nhận thấy rằng cầm máu tốt trong mổ 
làm trường mổ sạch giúp thao tác chính 
xác và hạn chế biến chứng chảy máu sau 
mổ. Khi phẫu tích, cơ Muller rất giàu 
mạch máu cần thận trọng khi cầm máu 
tránh làm tổn thương cơ. 
KẾT LUẬN 
 53
 Co rút mi trên là một tình trạng 
bệnh lý do nhiều nguyên nhân khác 
nhau, có những ảnh hưởng nhất định về 
chức năng và thẩm mỹ đối với bệnh 
nhân. 
 Nghiên cứu trên cho thấy kỹ thuật 
mổ cải tiến này có thể đem lại kết quả 
tốt: Điều chỉnh đạt được độ cao và độ 
cong khe mi thỏa đáng ngay trong cuộc 
mổ, không làm tổn hại cơ Muller và các 
dây thần kinh cảm giác của mi mắt nên 
giữ được chức năng biểu cảm và cảm 
giác của mi, ít tai biến và tỷ lệ tái phát 
thấp. 
 Kỹ thuật này có nhiều ưu điểm 
khắc phục được một số tồn tại của các 
phương pháp trước đây, có thể áp dụng 
trong thực hành lâm sàng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. HỘI NHÃN KHOA MỸ (Nguyễn Đức Anh dịch). Giáo trình khoa học cơ 
sở và lâm sàng 1998 - 1999. Tập 7: Hốc mắt, mi mắt và hệ thống lệ. NXB 
Y học 2001. 
2. LÊ HUY LIỆU: Bệnh Basedow. Bách khoa thư bệnh học. Tập 1. NXB Từ 
điển bách khoa, Hà Nội 2000; 32-38. 
3. LÊ MINH THÔNG, VŨ ANH LÊ: Điều trị phẫu thuật trợn mi liên quan 
đến tuyến giáp. Bản tin nhãn khoa. Số 3 –1997: 3 – 7. 
4. HÀ HUY TIẾN: Bệnh lý hốc mắt trong bệnh Graves. Nhãn khoa lâm sàng 
(dịch từ Manual of clinical problems in ophthalmology của John W. 
Gittinger, George K. asdourian). NXB Y học 2002: 47- 51. 
5. BRYAN BA.: Surgical Management of Eyelid Malpositions in Thyroid - 
associated orbitophathy. Ophthalmic Practice 1994; 12: 254 - 8. 
6. DIXON RS.: The surgical management of thyroid- related upper eyelid 
retraction. Opthalmology 1982; 89: 52-7. 
7. EMILLY JC, JUNJ RB, PETER ADR, WILLIAM FE, JOHN WS.: 
Results of Muellerectomy and Levator Aponeurosis Transposition for the 
Correction of Upper eyelid Retraction in Graves Disease. Ophthalmolgy 
1995; 102: 483-92. 
8. FRANK A, GEOFFREY J, BRIAN G, SHOIB M, EVAN H.: Eyelid 
Retraction. Ophthalmic and Facial Plastic Surgery. Section 1: Eyelid. 
SLACK Incorporated, 2001: 99-10. 
9. GEORGE BB.: The differential diagnosis and classification of Eyelid 
retraction. Ophthalmology 1996: 103-176. 
 54
10. KOHN R.: Treament of eyelid retraction with two pedicle tarsal rotation 
flaps. Am J Ophthalmol 1983; 95: 539-44. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 de_tai_dieu_tri_co_rut_mi_tren_muc_do_vua_va_nang_bang_ky_th.pdf de_tai_dieu_tri_co_rut_mi_tren_muc_do_vua_va_nang_bang_ky_th.pdf