Đề tài Điện quang – dòng chảy văn hóa

Tài liệu Đề tài Điện quang – dòng chảy văn hóa: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP PHÚ XUÂN KHOA Xà HỘI NHÂN VĂN š¯› ĐIỆN QUANG – DÒNG CHẢY VĂN HÓA BÁO CÁO THỰC TẬP NGÀNH VĂN HỌC Huế, 07/2009 MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Văn hóa là nền tảng của xã hội. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội. Do đó, chúng tôi chọn đề tài này để tìm hiểu và nghiên cứu những nét văn hóa dân gian của xã Điện Quang. Điện Quang – một vùng đất có bề dày truyền thống yêu nước, nơi đây đã sinh ra bao vị anh hùng cho dân tộc, họ đã hy sinh vì một lý tưởng cao quý như Phan Thanh, Hoàng Diệu, Phan Khôi, Phan Bôi, Trần Thị Lý, Trần Cao vân, Phan Triêm…. Giữ gìn bản sắc văn hóa làng xã và tiếp nối những gì tốt ...

doc78 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Điện quang – dòng chảy văn hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP PHÚ XUÂN KHOA Xà HỘI NHÂN VĂN š¯› ĐIỆN QUANG – DÒNG CHẢY VĂN HÓA BÁO CÁO THỰC TẬP NGÀNH VĂN HỌC Huế, 07/2009 MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Văn hóa là nền tảng của xã hội. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội. Do đó, chúng tôi chọn đề tài này để tìm hiểu và nghiên cứu những nét văn hóa dân gian của xã Điện Quang. Điện Quang – một vùng đất có bề dày truyền thống yêu nước, nơi đây đã sinh ra bao vị anh hùng cho dân tộc, họ đã hy sinh vì một lý tưởng cao quý như Phan Thanh, Hoàng Diệu, Phan Khôi, Phan Bôi, Trần Thị Lý, Trần Cao vân, Phan Triêm…. Giữ gìn bản sắc văn hóa làng xã và tiếp nối những gì tốt đẹp của thế hệ cha anh đi trước là một việc làm hết sức cần thiết mà chính quyền và nhân dân trong xã đang cố gắng phát huy “tình làng nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có nhau” đã trở thành đạo lý nhân nghĩa trong mỗi gia đình. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…Trong những năm qua nhân dân xã Điện Quang đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về mặt văn hóa không những về vật chất mà cả tinh thần. Để cho văn hóa thấm sâu vào từng gia đình, từng khu dân cư, làm cho văn hóa thực sự là động lực, là nền tảng tinh thần của xã hội. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính chất vật chất hoặc tinh thần. Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Từ xưa nhân dân xã Điện Quang đã có một nền văn hóa dân gian rất phong phú và đa dạng với các lễ hội, nghề truyền thống… tạo nên nét đẹp văn hóa đặc sắc riêng cho con người nơi đây. Qua lễ hội con người được biết thêm những giá trị thuở xưa mà cha ông để lại đồng thời nó cũng như khôi phục lại nét đẹp đang mất dần qua thời gian và sự du nhập của các nền văn hóa từ bên ngoài. Các làng nghề truyền thống như nấu đường, nghề trồng dâu nuôi tằm, nghề nấu rượu, nghề dệt… ngày càng mai một dần, do việc đi theo nghề của nhân dân trong xã Điện Quang nói riêng và nhân dân huyện Điện Bàn nói chung còn nhiều bất cập. Đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, các nghề truyền thống không mang lại kinh tế cao mà chỉ tồn tại trong sự manh mún, nhỏ lẻ, nhân dân bỏ nghề nhiều, chuyển sang các nghề khác theo xu thế chung của thị trường và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên vẫn còn một số gia đình vẫn duy trì được nghề truyền thống, nếu trước kia là thủ công vất vả cần nhiều sức lao động thì ngày nay đã bắt kịp với tốc độ phát triển ngày càng nâng cao, khoa học kỹ thuật phát triển đã giúp người dân giảm bớt những công đoạn phức tạp trong quá trình làm ra sản phẩm cần thiết phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người. Trên mảnh đất vẫn thuần nông, nhiều gia đình thiếu lao động, không có vốn và gặp bộn bề gian khó trong cuộc áo cơm nên có nơi gần như cả cuộc đời họ phải gửi thân trong những căn nhà ọp ẹp. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của chính quyền với những chiến lược phát triển thì cuộc sống đói nghèo dần dần được đẩy lùi. Nghèo khó không đồng nghĩa với sự kém cỏi về tri thức, vấn đề giáo dục được huyện Điện Bàn nói chung và huyện Điện Quang nói riêng hết sức chú trọng. Giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng những giá trị đang hình thành. Bởi lẽ văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người). Để xứng đáng với truyền thống vùng đất học, các thế hệ trong huyện luôn nêu cao chí khí “có nghèo cũng ráng nuôi con cháu ăn học? Danh sách thạc sĩ, tiến sĩ các nhà khoa học ngày càng nỡ rộ trên vùng đất địa linh nhân kiệt này. Phải nói rằng để tạo nên một Điện Quang với một bề dày văn hóa cả trong quá khứ lẫn hiện tại có một phần đóng góp không nhỏ của các tộc họ, các tộc trong xã đều phát động xây dựng được nguồn quỷ khuyến tài, nhiều cá nhân sống xa quê sẵn sàng đứng bên cạnh bà con quê hương để hổ trợ xây dựng trường học, nâng cấp di tích, dây dựng nhà văn hóa thôn. Ngày nay, xã Điện Quang đã có một bộ mặt hoàn toàn khác xưa, vẫn giữ được những nét truyền thống tốt đẹp quý báu nhưng cũng hòa chung vào tốc độ phát triển của xã hội, có tiếp nhận, có chọn lọc những nét tinh túy của văn hóa xưa và nay. Nghề truyền thống và các phong tục, tập quán lâu đời đang được chính quyền địa phương cố gắng lập nên các kế hoạch và chiến lược nhằm đưa Điện Quang nói riêng và huyện Điện Bàn nói chung phát triển, tạo hiệu quả cao trong việc cải thiện đời sống cho nhân dân nơi đây xóa được đói giảm được nghèo. Đưa Điện Quang trở thành một xã công nghiệp hóa hiện đại hóa. Như vậy, xã Điện Quang đang ngày một bắt kịp với tình hình chung của đất nước. Không chỉ phát triển những nét đẹp với nền văn hóa dân gian xưa kia mà còn làm cho nó ngày càng một phong phú hơn. Nhờ sự quan tâm của Đảng và chính quyền địa phương, Điện Quang hôm nay đang ngày một đổi mới với trạm đường, trường trạm liên thông, liên xã. Qua đó chúng ta có thể tin tưởng trong tương lai xã Điện Quang anh hùng, cùng với cả nước từng bước thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn trong giai đoạn mới. Nền văn hóa của xã Điện Quang sẽ ngày một phát huy các thế mạnh với những con người mới, bộ mặt mới, một bộ mặt hoàn toàn mới. B. NỘI DUNG Chương 1. Khái quát về Điện Quang 1.1. Vị trí địa lý điều kiện tự nhiên Điện Quang là xã thuộc tiểu vùng một (Gò Nổi) của huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Xã nằm về phía tây của huyện, là một xã có vị trí địa lý khá đặc biệt, cả ba mặt phía bắc, tây, nam đều có sông bao bộc. Xã cách thị trấn Vĩnh Điện 15km, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 50km về phía bắc, cách quốc lộ 1A 10km. Nhìn chung, vị trí địa lý của xã được xác định như sau: Phía bắc giáp xã Điện Thọ Phía đông giáp xã Điện Trung Phía nam giáp huyện Duy Xuyên Phía tây giáp xã Điện Hồng Nhìn bao quát thì xã Điện Quang có hình của một con chim bói cá và vị trí địa lý ít thuận lợi hơn so với các xã khác trong huyện.Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa vị trí địa lý của xã không có thuận lợi gì cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của xã. Dù cách các trung tâm kinh tế, văn hóa khá xa nhưng xã vẫn giao lưu với các địa phương khác khá thuận lợi vì có sông, nhánh sông Thu Bồn nối xã liền với các xã khác và đặc biệt là các trung tâm kinh tế và văn hóa như thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An. Trước đây sông Thu Bồn là mạch nối duy nhất giữa xã với các địa phương khác thì bây giờ xã đã có tỉnh lộ ĐT 610B chạy qua. Đây là trục giao thông huyết mạch nối xã với quốc lộ 1A nối xã với trung tâm hành chính huyện Điện Bàn và tạo điều kiện thuận lợi để xã giao lưu bên ngoài. Điện Quang là một xã có địa hình khá đặc biệt, nó là sản phẩm của sự bồi tụ của hệ thống sông Thu Bồn trên nền cát biển cổ. Chính vì thế mà địa hình của xã tương đối đồng nhất, bằng phẳng và có xu hướng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chảy của dòng sông Thu Bồn, độ cao tuyệt đối dao động từ 8-10m. Hằng năm về mùa mưa (khoảng tháng 9 - 10), phần lớn diện tích đất đai đều bị ngập lụt gây thiệt hại hoa màu và tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, sau mùa lũ thường để lại bề mặt một lớp phù sa màu mỡ tạo điều kiện sản xuất trồng trọt. Tài nguyên thiên nhiên khá phong phú thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển. Trước hết là về hệ thống thuỷ văn. Hệ thống thuỷ văn của xã chủ yếu là sông Thu Bồn và sông Bà Rén, chảy uốn khúc quanh co theo đường ranh giới phía Bắc và Tây Nam của xã với chiều dài 20km đổ về Cửa Đại (Hội An). Sông Thu Bồn là ranh giới phía Bắc giữa xã Điện Quang với các xã Điện Hồng - Điện Thọ, đoạn chảy qua xã dài 12km, lòng sông rộng trung bình từ 100 - 250m, lưu lượng nước trung bình 240m³. Còn sông Bà Rén là ranh giới phía Nam của xã Điện Quang với huyện Duy Xuyên, đoạn chảy qua xã có chiều dài 8km chiều rộng trung bình 18 - 25km. Về mùa khô mực nước thường xuống thấp và cạn kiệt. Với hệ thống thuỷ văn như trên, vừa có thuận lợi vừa gây khó khăn cho cư dân sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Vào mùa mưa lũ thì do nước sông lên cao gây lũ lụt, người dân không thể gieo trồng. Còn mùa khô thì nước sông hạ thấp, cạn kiệt gây hạn hán, thiếu nuớc để sản xuất nông nghiệp đặc biệt là lúa nuớc. Tuy nhiên, luợng phù sa được sông bồi đắp hàng năm làm cho đất đai nơi đây màu mỡ hơn, do đó các loại cây trồng có điều kiện phát triển tốt và cho năng xuất cao. Về khí hậu, cũng như một số xã khác của huyện Điện Bàn, khí hậu xã Điện Quang có những đặc điểm sau: Nhiệt độ bình quân hàng năm 25,6% Luợng mưa trung bình 2200mm Tổng số nắng trong năm 2370 giờ Độ ẩm trung bình 82% Lượng bốc hơi trung bình 84% Gió thịnh hành theo hai hướng đó là gió mùa đông bắc và gió mùa đông nam. Gió mùa đông bắc xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, sức gió trung bình 2 - 3m/s. Gió mùa đông nam xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9, sức gió trung bình 1,3 - 2 m/s. Nhìn chung khí hậu của xã không được thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm trung bình lớn do đó tạo điều kiện cho sâu bọ phát triển phá hoại cây màu. Khí hậu khô thích hợp với các loại cây trồng như dưa hấu, bắp ngô.. Về nguồn nước thì bao gồm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Nguồn nước mặt của xã chủ yếu là nguồn nước sông Thu Bồn và sông Bà Rén. Hiện tại các con sông này là nguồn nước chính được khai thác sử dụng, cung cấp cho hầu hết diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã. Về nguồn nước ngầm, qua thực tế cho thấy, nguồn nước ngầm trong các khu dân cư có chất lượng tương đối tốt, độ sâu mực nước dao động từ 3 - 5m, được nhân dân khai thác phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất từ giếng đào và giếng đóng. Về thổ nhưỡng, theo thống kê đất đai ngày 01/10/2000 xã Điện Quang có diện tích đất tự nhiên 1461,5ha. Trong đó diện tích đất nông nghiệp 652,37ha (chiếm 44,6%). Đất đai của xã phần lớn nằm dọc theo hai bên con sông Bà Rén và sông Thu Bồn, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhưng khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và giao thông đường bộ. Đất ở đây thuộc hai nhóm đất chính đó là đất phù sa và đất cát. Đất phù sa gồm đất phù sa Glây và đất phù sa chua. Đất phù sa Glây là loại đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, tầng dày trên 100cm, phân bố chủ yếu ở phía bắc, dọc theo sông Thu Bồn. Đây là loại đất tốt, thích hợp cho cây lúa nước phát triển, chính vì vậy mà hiện nay số diện tích đất này phần lớn dược xã sử dụng để trồng lúa và các loại cây công nghiệp. Đất phù sa chua kém màu mỡ hơn đất phù sa Glây nhưng loại đất này có khả năng giữ nước, giữ ẩm rất tốt, phù hợp với nhiều loại cây nông nghiệp do đó hiện nay một phần nhỏ diện tích đất này được sử dụng để sản xuất nông nghiệp. Đây là loại đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, có địa hình tương đối cao, phân bố hầu hết trên địa bàn xã do đó một phần còn lại của diện tích đất này được dùng để xây dựng các khu dân cư và phát triển hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng. Còn đất cồn cát trắng vàng phân bố tập trung phân bố ở cồn Long Hội, bờ bắc sông Bà Rén và ven bờ nam sông Thu Bồn (bãi Phú Tây). Đặc điểm của loại đất này là đất có màu xám trắng, xám vàng, thành phần cơ giới hạt thô, tượng rời rạc. Loại đất này phù hợp với cây công nghiệp hàng năm, do đó được cư dân tận dụng để phát triển các loại cây hoa màu và cây công nghiệp hàng năm như thuốc lá, dâu, ớt, đậu các loại… Đây cũng chính là cơ sở để các làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển, đặc biệt là các nghề như nghề trồng dâu nuôi tằm, nghề ươm tơ, nghề dệt vải… Như vậy, tuy vị trí của xã không thuận lợi bằng các xã khác nhưng với lòng quyết tâm, tinh thần chịu khó, cần cù thông minh sáng tạo của mình người Điện Quang đã và đang vươn lên phát triển cùng đất nước. Với nhánh sông Thu Bồn chảy qua, dòng sông mang phù sa cho mảnh đất Điện Quang ngày thêm màu mỡ, cây cối xanh tươi, cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng ấm no hạnh phúc… Cũng từ những nhánh sông Thu Bồn và Bà Rén, những con người thuộc thế hệ trước ở Điện Quang đã bắt đầu hành trình đến với những vùng đất văn minh khác, tiếp thu những tinh hoa của dân tộc cộng với những nét đẹp truyền thống vốn có của mình họ đã làm nên một nền văn hoá Điện Quang vừa hiện đại vừa truyền thống. Phát huy tinh thần đó thế hệ trẻ Điện Quang hôm nay vẫn luôn ý thức được nghĩa vụ của mình, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống của xã, vừa giao lưư học hỏi tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhiều nơi khác trên khắp mọi miền của tổ quốc, kể cả thế giới để làm cho văn hoá của xã nhà càng phong phú và đặc sắc. Hiện nay cư dân của xã vẫn còn gìn giữ và phát triển các làng nghề truyền thống như nấu rượu, làm bánh tráng, dệt vải, nuôi tằm… 1.2. Kinh tế, văn hóa - Xã hội 1.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế Theo báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội Điện Quang năm 2008, cơ cấu kinh tế của xã là: nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - thương mại dịch vụ. Từ năm 2000 đến nay nền kinh tế của xã phát triển khá ổn định, các ngành kinh tế có hướng chuyển biến tích cực. Ngành nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu của xã chiếm tỷ trọng cao (85%) trong cơ cấu của xã. Trong đó ngành trồng trọt của xã phát triển khá mạnh và có chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa đáp ứng theo nhu cầu của thị trường. Trong những năm gần đây thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, các loại cây công nghiệp được quan tâm đầu tư có hiệu quả thay thế các loại cây trồng hàng năm có giá trị kinh tế thấp các cây công nghiệp và cây thực phẩm chủ yếu ở xã là các loại cây: Dâu, Thuốc Lá, Ớt, Đậu các loại… Đồng thời, những năm gần đây xã đã chuyển đổi cơ cấu mùa vụ từ 3 vụ bấp bênh xuống còn hai vụ ăn chắc. Tìm tòi thử nghiệm các loại giống lúa, ngô, dưa hấu mới, có kết quả năng xuất cao, kháng được các loại sâu bệnh để thay thế các giống củ có năng suất thấp. Mặc dù giảm từ 3 vụ xuống còn 2 vụ nhưng tổng sản lượng lương thực của xã vẫn không thay đổi, về hiệu quả sản xuất 2 vụ lúa cao hơn 3 vụ, tạo điều kiện cho nhân dân có thời gian tập trung sản xuất cây màu và phát triển các ngành nghề, mở rộng thương mại dịch vụ. Bên cạnh đó ngành chăn nuôi ở xã cũng phát triển, tuy còn hạn chế trong từng hộ gia đình. Ngoài ra phần lớn hộ gia đình ở đây đều có nuôi lợn, tận dụng phế thải của nghề nấu rượu và làm bánh tráng… công tác phòng trừ bệnh dịch cho gia súc, gia cầm luôn được nhân dân quan tâm, vì vậy tỷ lệ dịch bệnh hàng năm xảy ra rất thấp. Về sản xuất lâm nghiệp, đất đai chủ yếu của xã là đất phù sa sông, hiệu quả sản xuất các loại cây hàng năm cao, do vậy việc trồng cây lâm nghiệp chủ yếu tập trung phân tán ở các vùng bờ thửa. Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trên địa bàn xã tuy có phát triển nhưng mức tăng trưởng còn chậm. Các ngành ở đây tập trung chủ yếu là các ngành khai thác cát sạn, xay xát, cơ khí, vật liệu xây dựng, vật tư sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ, chủ yếu phát triển ở lĩnh vực tư nhân. Ngành công nghiệp - thủ công nghiệp đang có chiều hướng phát triển tích cực. Hiện nay, xã đang triển khai dự án khôi phục nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, nhằm thúc đẩy cơ cấu cây trồng, tăng nhanh giá trị sản xuất hàng hóa, góp phần giải quyết lao động tại đia phương. Về thương mại - dịch vụ, từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đa dạng các thành phần kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế mở, hệ thống thuế được cải cách. Tình hình thương mại - dịch vụ trong xã có chuyển biến tích cực, hàng hóa dồi dào, đa dạng, vật tư phục vụ cho nông nghiệp hàng hóa thiết yếu được cung cấp đầy đủ cho nhân dân, sản phẩm nông nghiệp nông dân sản xuất ra đều được tiêu thụ. Trong xã có chợ, đã quy tập trên 75 hộ kinh doanh. Ngoài ra còn có trên 55 hộ kinh doanh cố định tại nhà ở khắp các địa bàn dân cư, làm cho tình hình mua bán khá thuận lợi. Riêng với hợp tác xã nông nghiệp cũng đa dạng các loại hình thức phục vụ. Những loại hình thức nào nhân dân không đảm nhận được, hợp tác xã mở rộng phục vụ cho nhân dân, tập trung chủ yếu các dịch vụ và kinh doanh các mặt hàng sau: dịch vụ sản xuất nông nghiệp gồm: dịch vụ làm đất, thủy lợi, vật tư, về giống, thuốc bảo vệ thực vật; các dịch vụ tổng hợp khác gồm: dịch vụ sản xuất và sơ chế thuốc lá, cung cấp điện sinh hoạt và sản xuất… Về giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Mạng lưới giao thông trong xã hiện nay đã khác trước nhiều và có nhiều thuận lợi hơn xưa. Trước kia, Điện Quang chỉ có giao thông thủy, xã được bao bọc chung quanh bởi hai con sông Thu Bồn và Bà Rén, chạy dọc ở phía bắc và phía nam của xã nối liền với các xã miền núi, đồng bằng tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng và di sản văn hóa thị xã Hội An. Do đó ở đây hàng năm, vào ngày 2 - 9 hoặc lễ hội Thanh Minh xã thường tổ chức đua ghe trên sông Thu Bồn. Điều đó tạo nên một nét đặc sắc trong văn hóa của người Điện Quang, văn hóa vùng sông nước. Đến nay, do quá trình phát triển giao thông của xã không chỉ gói gọn trong mạng lưới đường thủy nữa mà có cả đường bộ và đường sắt. Dù vậy hội đua thuyền vẫn không hề biến mất mà ngày càng được nhân dân hưởng ứng và tổ chức có quy mô lớn hơn. Nếu trước kia, cư dân trong xã chỉ dùng đường thủy để giao lưu và buôn bán, văn hóa với các vùng khác thì bây giờ, khi có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy ngang qua xã, khi con đường tỉnh lộ 610 B chạy suốt từ quốc lộ 1A đến Văn Ly đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho việc giao lưu giữ xã với các vùng khác. Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy ngang xã ở phía đông, có chiều dài 4,5km và có một trạm ga Gò Nổi phục vụ cho nhân dân đi lại Điện Quang – Đà Nẵng, Điện Quang - Quy Nhơn và ngược lại, còn tỉnh lộ 610B đi qua xã với chiều dài 5,5km, rộng trung bình 6m, đã được thảm bằng nhựa là trục giao thông chính để xã mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa với tất cả mọi vùng miền trong nước. Ngoài ra, đường xã và liên thôn cũng được cải tiến và phân bố đồng đều trong toàn xã. Tổng chiều dài là 38.000m, được phân bố tập trung theo mạng lưới bàn cờ nối với trục lộ ĐT 610B đã bê tông hóa. Vì vậy mà nhân dân trong xã đi lại thuận tiện và mở rộng các mối quan hệ xã hội. Xã có một bưu điện văn hóa xã được xây dựng tại khu trung tâm và 72 máy điện thoại cố định thuê bao, tỷ lệ máy điện thoại trong nhân dân bình quân còn thấp. Xã có một đài truyền thanh phát sống FM và 11 trạm truyền thanh thôn, tiếp sóng đài trung ương, tỉnh, huyện, xã, nhưng chất lượng còn kém. Tuy chất lượng còn kém nhưng hệ thống thông tin liên lạc của xã đáp ứng được phần nào nhu cầu liên lạc, giao lưu với bên ngoài. Đặc biệt là đã có các trạm truyền thanh thôn, từ đây các thông tin văn hóa, xã hội, thông tin kinh tế của đất nước và quốc tế đều đến được với nhân dân trong xã. Đây cũng là một cơ sở để xã phát triển hơn về mọi mặt, đặc biệt là nâng cao tầm hiểu biết và giao lưu văn hóa. 1.2.2. Văn hóa – Xã hội So với nhiều nơi trong và ngoài tỉnh Quảng Nam, người xã Điện Quang trong phong tục tập quán, nếp sống ứng xử vẫn có nét riêng. Không kể trong hoạt động kinh tế có nhiều ngành nghề, làm ruộng, nuôi tằm, dệt vải, buôn bán chợ búa sầm uất, mà ngay cả quang cảnh làng xóm cũng sắp xếp trật tự theo những ô vuông đường ngang lối dọc sánh như một đô thị nho nhỏ. Hoạt động kinh tế đa dạng, đặc biệt là thương nghiệp giao lưu với nhiều miền đất nước nên người Điện Quang cũng học nhiều, biết nhiều cái hay cái đẹp xa gần. Hẳn những điều kiện đó đã tạo cho con người Điện Quang nếp sống, phong cách ứng xử có khác, thoáng đạt, cởi mở, nhanh nhạy với cái mới, năng động trong cuộc sống. Từ xa xưa, Điện Quang đã nổi tiếng bởi truyền thống ham học, nhiều người theo nghiệp văn, về góp sức cho đời cho làng nước. Đời sống văn hóa của người Điện Quang bên cạnh cái chung của một làng Việt Nam, có cái nét riêng của xã Điện Quang trong lịch sử. Văn hóa của Điện Quang hôm nay là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại (được du nhập từ bên ngoài vào). Khi nói đến đời sống văn hóa ở đây, điều đặc biệt đầu tiên cần nhắc đến đó là phong tục tập quán lễ hội, cũng như một số địa phương khác ở Điện Quang, phong tục và tín ngưỡng được hiển thị trong cuộc sống gia đình cũng như những sinh hoạt của dòng họ, xóm làng. Điện Quang là vùng đất có tên lâu đời, do đó tuy cuộc sống hiện nay đã khác trước nhưng nhìn chung các gia đình ở xã Điện Quang phần lớn chịu ảnh hưởng của nếp sống tôn ti trật tự phong kiến. Con người nơi đây vẫn giữ vững những cái thuần phong mỹ tục truyền thống mà vẫn có thể tiếp thu một cách cởi mở nền văn minh phương tây. Chính điều này làm cho xã có một nếp sống khá hài hòa. Trong nếp sống người Điện Quang luôn giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của tổ tiên. Mặt khác, cũng không bảo thủ, sẵn sàng đón nhận, học hỏi cái hay cái đẹp của nếp sống văn minh. Điều này tạo cho xã có một nền văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa tiến bộ văn minh. Người Điện Quang cho đến nay vẫn giữ vững những lễ hội truyền thống, ngoài những lễ hội chung của đất nước như tết Nguyên Đán, tết Đoan Ngọ, còn có nhiều lễ hội khác như lễ hội Thanh Minh, lễ hội Kỳ Yên, tế Âm Linh, lễ tế Cầu Tằm… Một đặc điểm rất đặc biệt ở đây đó là lễ hội Thanh Minh được tổ chức rất lớn, có khi lớn hơn cả tết Nguyên Đán. Đây là một nét sinh hoạt văn hóa khá đặc sắc, nó thể hiện truyền thống hiếu nghĩa của người dân. Vào những ngày này, con cháu nội ngoại đều phải quy tụ tại nhà thờ tộc, cùng nhau làm lễ cáo yết tổ tiên. Còn lễ Kỳ Yên là để cầu mưa thuận gió hòa nhân dân làm ăn yên ổn, không xảy ra thiên tai dịch bệnh. Lễ tế Âm Linh nhằm mục đích tạ ơn quỷ thần vong linh cô hồn thập loại đã phò trì nhân dân bình an. Ngoài những lễ hội đó, cư dân nơi đây còn vài nghi lễ đặc biệt trong gia đình như: Khao Thổ, Tạ Thổ, Mãi Thổ… Nhìn chung các phong tục tập quán, các lễ hội ở đây đều xuất phát từ ngành sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (các làng nghề truyền thống). Lễ tế cầu tằm xuất phát từ nghề nuôi tằm dệt lụa; lễ Kỳ Yên xuất phát từ tư duy nông nghiệp luôn mong muốn cây cối tốt tươi, muốn thế thì cần phụ thuộc vào thời tiết do đó cầu trời cho mưa thuận gió hòa. Trong các lễ hội, xã có tổ chức các trò chơi nhân gian, các món ăn truyền thống, hát bội, hát bài chòi… Chính vì thế trong các dịp lễ hội này thể hiện rất rõ những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất Điện Quang. Điện Quang là một xã có nhiều tôn giáo, nhưng nhìn chung số tín đồ không đông lắm. Chủ yếu là đạo phật, đạo thiên chúa và đạo cao đài. Chính vì thế nơi đây, về văn hóa, tập quán có sự khác nhau giữa những người không theo tôn giáo và người theo tôn giáo như lễ cưới, đám ma và các nghi lễ trong các lễ hội. Về ăn uống và nhà ở thì ở đây cũng giống với các vùng khác trên đất nước. Vườn tược đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho ẩm thực. Đặc biệt, ở xã ngoài những món ăn bình thường hàng ngày như các vùng khác thì có các món đặc sản như: mì quảng, bê thui (cách chế biết khác hẳn so với các vùng khác), rồi có món Nộm Nhộng (đó là sản phẩm của nghề nuôi tằm). Nhà ở là một vấn đề được quan tâm nhất, theo quan niệm của ông cha ta là: “sống cái nhà, già cái mồ ”. Khi sống thì phải lo xây dựng nhà cửa để an cư lạc nghiệp, khi qua đời phải được mồ êm mả đẹp. Trước kia người dân thường làm nhà tranh. Nhà tranh thường có phên đan bằng tre thành từng bức, lấy phân trâu chà xát lên rồi phơi khô. Cửa chính có khung bằng tre, bên trên lợp một lớp tranh gọi là rèm. Nền nhà bằng đất nệm, còn có sáng kiến là trộn tro với đất, để phủ lên cho mặt nền được láng và có màu đen. Bên trên cạnh nhà trên có một nhà nhỏ hơn gọi là nhà dưới. Thường thì nhà dưới được dùng dể nấu ăn hay dựng khung cửi, hoặc đường truớc khi đem đi bán. Một số nhà giàu hơn thì người ta không lợp mái bằng tranh mà lợp mái nhà bằng ngói. Dưới thời nhà nguyễn, thường dân dẫu giàu đến đâu thì cũng không được làm nhà chữ Môn, chữ Công và làm thềm tam cấp, các kiểu kiến trúc này chỉ dành cho nhà quan. Hiện nay, do điều kiện kinh tế phát triển người dân trên toàn xã đã xây dựng nhà ở bằng cách xây dựng hiện đại, với nhiều vật liệu bền hơn, thuận tiện hơn. Như đã nói ở trên Điện Quang là một xã chịu sự ảnh hưởng của nếp sống tôn ti trật tự phong kiến, nên văn hóa ứng xử cũng chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến. Ngày xưa, khi khách đến nhà, chỉ những người ngang vai hoặc cao hơn mới được chủ nhà mời ngồi ở bộ bàn ghế chính được bố trí ở gian giữa nhà trên (nhà chính); còn khách thấp hơn chủ nhà, hay khách thường thì được tiếp ở nhà ngang. Vợ chủ nhà hay con gái chủ nhà thường tiếp khách ở gian bên nhà trên hay ở nhà ngang chứ không được tiếp ở nhà chính. Chịu ảnh hưởng khá nặng nề của tư tưởng phong kiến, quan niệm “trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ phải nằm ngủ và ăn uống ở nhà ngang. Đặc biệt trong các nhà thờ tộc, trưởng nam, diện tích nhà trên phần lớn được dùng để thờ cúng, ngày xưa, thông thường đàn bà con gái rất ít được lên nhà trên, nơi thờ cúng ông bà tổ tiên. Tuy nhiên, ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, những quan niệm của chế độ phong kiến không còn phù hợp nữa, người dân cũng dần dần bỏ những quan niệm khắt khe đối với người phụ nữ. Hiện nay cùng với sự phát triển của tư duy, quan niệm tiến bộ, văn hóa ứng xử của người dân nơi đây đã có nhiều đổi khác. Khách vào nhà dù nam hay nữ, cao hơn hay thấp hơn chủ nhà đều được chủ nhà tiếp ở gian giữa nhà trên. Về văn học nghệ thuật, kho tàng văn học nghệ thuật dân gian ở Điện Quang khá phong phú, với nhiều loại hình, chủ yếu là các loại: hát hò khoan, hát ru con, hát bội, vè Quảng, hò bài chòi, ca xuân sắc bùa… Hát hò khoan thường được hát trong khi đi hái dâu trên bãi, cấy lúa trên đồng, hoặc kéo sợi, căn bông, quay tơ, giã gạo, làm nhà… Hò khoan là lối hát đối đáp giữa trai gái đôi khi được nhiều người đệm theo (xô). Đầu tiên là hát chúc, sau đó là hát chào các cô gái tham dự cuộc hò, nói lên ý muốn giao duyên, kết bạn tâm giao. Loại hình này ngày nay đã bị thất truyền. Hát ru con, bất kỳ một người mẹ, người bà nào nắm lấy tao nôi đều cất giọng buồn buồn êm êm ru con trẻ. Ở đâu cũng có những câu hát ru rất riêng của mình nhưng chung quy lại thì chúng đều là những câu hát à ơi nhẹ nhàng thắm đẫm tình yêu thương. Hát bội (còn gọi là hát bộ hay hát tuồng) có nguồn gốc từ đất bắc được nhân dân Điện Quang tiếp nhận và phát triển nó. Trong lễ tế âm linh ở Cồn cây Da người dân thường tổ chức hát bội ba năm một lần. Điện Quang vẫn giữ những tập tục đó cho đến những năm trước cách mạng Tháng Tám. Vè Quảng, thường đề cập đền những chuyện thời sự hoặc khen hay chê. Ở Điện Quang còn nhiều bài vè truyền miệng, không biết ai là tác giả, như vè “năm đói”, vè “bão lụt năm Tỵ”, “lính mộ”… Hô bài chòi là hình thức diễn xướng trong dip tết. Thường được tổ chức ở ngã ba đường làng, sân chợ… Nói chung ở nơi rộng rãi, có thể làm 10 cái chòi con. Sáng sớm mồng một tết, bài chòi được chính thức khai mạc. Tiếng trống vang lên để mời dân làng đến chơi lấy hên đầu năm. Ca xuân sắc bùa, đây là tục lễ có từ lâu đời. Nội dung chính của nó vẫn là chúc mừng xuân, mừng tuổi theo phong tục của xã. Vào giữ thập kỷ 40, ngành nghề tiểu thủ công và thương mại phát triển, kéo theo các mặt văn hóa nghệ thuật từng bước thay đổi. Thanh niên, học sinh tìm hiểu tình hình trong nước và thế giới qua báo chí, phim ảnh, thấy được sự tiến hóa của xã hội. Về văn hóa, nghệ thuật tiếp thu tân nhạc ca kịch, phim ảnh. Về giáo dục, Điện Quang là một xã có truyền thống hiếu học. Trên vùng địa danh ấy đã sản sinh ra biết bao con người ưu tú. Cuộc đời và sự nghiệp của họ không chỉ làm rạng rỡ quê nhà mà góp phần làm rạng rỡ các miền đất linh thiêng khác của đất nước như: Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội xưa và nay, kể cả những vùng đất xa xôi ngoài Tổ Quốc của chúng ta. Trong các khoa thi dưới triều đình nhà Nguyễn, Điện Quang có 33 vị đỗ đạt từ cử nhân đến tiến sĩ. Đó là truyền thống hiếu học qúy báu. Nhiều gia đình theo nghề giáo trọn vẹn như gia đình cụ Phan Thành Tích, cha của nhà giáo, nhà yêu nước Phan Thành Tài và các đời cháu con như Phan bá Lân… mà tên tuổi trường Chấn Thanh Sài Gòn, Đà Nẵng, đã vang dội gắn liền tên tuổi của họ. Ở xã, trước đây có những người học rộng, đỗ đạt cao vẫn không chịu làm quan, về mở trường dạy học chữ Hán như Lương Văn Nhã, cụ có hàng ngàn môn sinh, không chỉ con cháu ở Bảo An nơi ở các làng lân cận khác cũng đến học. Ở xã từ xưa đến nay đã có rất nhiều gia đình hiếu học và có truyền thống khoa cử như: gia đình ông Ngô Thản và bà Lê Thị Bích ở thôn Bảo An có 3 con trai đã đỗ thành chung đến cử nhân, các cháu nội ngoại của ông bà có 15 người đỗ cử nhân trở lên, trong đó có một tiến sĩ và ba phó tiến sĩ. Ông Nguyễn Bá Tổn là một nhà nho, gia đình thường xuyên dệt vải ta khổ hẹp. Ông mở lớp dạy chữ Nho tại nhà cho đến 1940. Gia đình ông Nguyễn Minh Cảnh (Bảo An) là một trong 5 người đổ thành chung năm 1939 được bổ làm lục sự. Con trai ông là Nguyễn Minh Thọ từng được chọn làm viện sĩ Viện Hàn Lâm khoa học Hoa Kỳ được ghi tên vào từ điển Who’s who Gia đình ông Phan Triêm, Phan Đức Mỹ, Phạm Tương, Phạm Thường… Nối tiếp truyền thống hiếu học của cha ông, lớp trẻ Điện Quang hôm nay đang thi đua học tốt, dạy tốt để rèn luyện thành tài, trở thành những bông hoa tươi đẹp để góp sức mình xây dựng quê hương giàu đẹp. Điện Quang hôm nay đã có hai ngôi trường, đó là một ngôi trường cấp một Phan Thanh và trường trung học cơ sở Trần Cao Vân. Trong đó trường tiểu học Phan Thanh trước đây là trường tiểu học Bảo An. Đây là ngôi trường có lịch sử lâu đời trên 80 năm, là một trong 10 trường có tuổi đời cao nhất không chỉ ở quê hương Gò Nổi mà còn ở cả tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1989 thì trường được đổi tên thành trường tiểu học Phan Thanh - một nhà trí thức cách mạng lỗi lạc, một người con xuất sắc của quê hương Điện Quang. 1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển Xã Điện Quang vốn được hình thành từ cuối thế kỉ 14, tổ tiên các dòng họ gốc Nghệ An, Thanh Hóa vào khai cơ, lập nghiệp, đi từ thủa Lê Triều lập ấp. Từ buổi ban sơ, bao gian lao, nguy hiểm các dòng họ đã đoàn kết, chống chọi thiên tai, địch họa để giữ làng lập ấp, sinh con nuôi cháu, giữ gìn nề nếp gia phong, lưu lại cho con cháu đời sau một cơ nghiệp và truyền thống quý giá về tinh thành đoàn kết thủy chung, tương thân, tương ái, trong nghĩa xóm tình làng, quan hệ huyết thống và đạo lý làm người. Trước hết ta nói đôi nét về công cuộc khai phá lập làng xã Điện Quang. Tháng 3 năm 1301 vua Trần Nhân Tông đến thăm Chiêm Thành nhằm mục đích giao hảo lâu dài. Trong thời gian lưu lại đây, vua có nhiều cuộc tiếp xúc với Chế Mân. Tháng 2 năm 1305, tức là bốn năm sau đó, Chế Mân sai Chế Bồ Đài và hơn 100 lính đem hương trầm và bảo vật sang Đại Việt cầu hôn. Các quan trong triều nhiều người khuyên vua Anh Tông nên từ chối. Nhưng Lý Đạo Tài và Trần Khắc Chân bàn với vua nên nhận lễ theo đúng lời hứa của thượng hoàng Nhân Tông. Tháng 6 năm 1306, Chiêm - Việt trở thành thông gia, qua việc kết hôn của công chúa Huyền Trân với vua Chế Mân. Vua Chiêm dâng hai Châu Ô và Châu Lý để làm đất sính lễ. Đến năm 1307 Trần Nhân Tông đổi Châu ô thành Thuận Châu và Châu Lý thành Hóa Châu. Huyện Điện Bàn thuộc Hóa Châu. Tuy đất thuộc về nước ta nhưng giữa hai nước vẫn xảy ra tranh chấp liên miên. Người Việt chỉ vào định cư từ sau khi vua Lê Thánh Tông bình Chiêm Thành, lấy các xứ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa lập thành đầu thừa tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện vào năm 1471 Theo gia phả các họ lâu đời nhất trong làng để lại, tổ tiên các họ lớn hình thành nên xã đều có gốc là huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, thừa tuyên Nghệ An. Đến nay thì toàn xã đã có hơn 97 tộc họ đang chung sống bình yên thịnh vượng. Hàng năm các tộc họ đã tổ chức lễ hội Thanh Minh gắn với việc tảo mộ. Đó là một nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của nhân dân Điện Quang. Truyền thống ấy được truyền từ đời này sang đời khác phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Từ khi hình thành cho đến nay xã đã trải qua nhiều biến đổi, nhiều lần đổi tên. Trước năm 1945, Điện Quang bao gồm hai xã Chương Dương và Hoàng Diệu, thời Mĩ Diệm gọi là Phú Mỹ và Phú Tân, sau này đổi thành Điện Hồng và Điện Quang. Sau năm 1975 sát nhập Điện Hồng, Điện Quang và một phần Điện Trung lấy tên là xã Điện Quang. Năm 1976 lại tách một phần xã Điện Trung ra, đến năm 1977 thì hợp nhất Điện Hồng và Điện Quang thành Xã Điện Quang ngày nay. Chương 2. Lễ hội, phong tục tập quán 2.1. Lễ hội Lễ hội là một trong những văn hóa thể hiện tinh thần dân chủ giữa các thành viên trong làng xã. Lễ hội là sự tổng hợp giữa cái linh thiêng (lễ) và cái trần thế (hội) nhưng nó thiên về tinh thần (chơi) hơn là về vật chất. Nếu lễ tết phân bố theo thời gian thì lễ hội phân bố theo không gian. Hai trục này một dọc một ngang – kết hợp với nhau làm nên một nhịp sống âm dương hài hòa suốt bao đời của người dân Việt. Thông qua các lễ hội, con người thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống, đồng thời nó đã củng cố, xác lập những quan hệ xã hội, liên kết các lứa đôi thành những gia đình mới. Nhờ thế, lễ hội là một nét đẹp văn hóa truyền thống thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu nước, yêu quê hương tha thiết. Qua đó, nó giúp cho con người thêm lạc quan, tin tưởng, giúp cho con người hiểu và đồng cảm, chia sẻ với nhau hơn. Ở Điện Quang có rất nhiều lễ hội lớn, tiêu biểu như: Lễ hội Thanh Minh, lễ tế Kỳ Yên, lễ Âm linh, lễ tế cầu tằm… 2.1.1. Lễ hội Thanh Minh “Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Cứ trung tuần tháng ba hằng năm, ở xã Điện Quang có tổ chức một lễ hội rất lớn, đó là lễ hội Thanh Minh. Lễ Thanh Minh là một lễ hội truyền thông đặc sắc của xã này và cũng là lễ trọng đại nhất trong năm. Đặc biệt là ở làng Bảo An. Do quy luật thời tiết, mỗi năm có 24 tiết, trong đó có tiết thanh minh – Tiết đẹp nhất trong năm. Đó là mùa lễ hội, mùa ăn chơi. Cùng với văn hóa truyền thống của dân tộc, ở xã Điện Quang hưởng ứng nhiệt tình lễ hội này. Khác với các vùng đất khác, lễ hội Thanh Minh ở đây được tổ chức rộng lớn, linh đình, được xem như là nét văn hóa nổi bật nhất. Lễ hội Thanh Minh còn được xem trọng hơn cả lễ Tết Nguyên Đán truyền thống. Gắn với lịch sử lập làng xã và sự phát triển của vùng đất Gò Nổi là nguồn gốc của lễ hội Thanh Minh: Từ thời Nguyên của Trung Quốc, do lịch sử đấu tranh, di dân, khai khẩn, lập làng của cụ Nguyễn Hoàng, dân cư từ phía Bắc (Thanh – Nghệ - Tĩnh) vào đây chọn vùng đất thuận lợi – được phù sa bồi đắp, nằm gần sông Thu Bồn, thuận lợi giao thông vận tải, kinh tế - vùng đất trù phú (Điện Quang ngày nay) làm nơi an cư lập nghiệp. Vì vậy, lễ hội Thanh Minh cũng từ đó mà có. Nhưng trong quá trình giữ gìn, phát triển, người dân xã Điện Quang đã tiếp thu, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bổ sung, làm mới thêm cho lễ hội ngày càng phong phú và đa dạng. Lễ hội Thanh Minh là ngày lễ hội của các dòng họ. Con cháu nội, ngoại đều phải quy tụ tại nhà thờ tộc, cùng nhau làm lễ cáo yết tổ tiên, trước khi đi tu tảo phần mộ. Lễ hội Thanh Minh diễn ra đa dạng, phong phú các món ăn, trò chơi, cũng như các bước diễn ra rất phức tạp. Người đứng ra tổ chức lễ hội gồm các bậc cao niên lớn tuổi (do họ sống trong điều kiện, tình hình của cuộc sống xưa, gắn liền với những năm tháng đấu tranh gian khổ với các giá trị văn hóa truyền thống, gần gũi với cuộc sống của họ. Họ hiểu, trân trọng và hưởng ứng hết mình). Ngoài việc cúng tế riêng của từng nhà thờ dòng họ (Có tất cả 97 dòng họ trong xã), còn có lễ hội chung của cả xã do hội đồng chư tộc của cả xã đứng ra tổ chức. Với 97 tộc họ, 75 nhà thờ, các tộc họ trên địa bàn xã Điện Quang, hằng năm tổ chức tế xuân dịp Thanh Minh gắn với việc “Tảo mộ” nhằm tri ân công đức tổ tiên, ông bà, quy tụ con cháu nội ngoại gần xa về sum họp, hương khói nhớ ơn tổ tiên, ông bà. Trong hai cuộc kháng chiến: chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân Quảng Nam nói chung và nhân dân xã Điện Quang nói riêng đã cùng với cả nước kiên cường, bất khuất, trung dũng đấu tranh vì độc lập, vì tự do, chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, ôn lại những chặng đường lịch sử hào hùng đã qua nhằm để tưởng nhớ công ơn của các anh hùng, liệt sĩ, của những người con hi sinh vì tổ quốc thân yêu. Tiêu biểu cho các vị anh hùng ấy, xã Điện Quang – một xã có bề dày truyền thống cách mạng, chưa tới 10.000 dân, qua hai cuộc kháng chiến đã có 13 danh nhân như cụ Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Trần Công Chương, Lê Đình Dương, Lê Đình Thám, Đình Tài, Phan Thanh, Phan Bôi, Phan Khôi, Phan Thao,… với các anh hùng trong kháng chiến như: Trần Công Tư, Trần Thị Lý, Trần Thị Bình, Phan Triêm,… là mảnh đất sinh ra những con người anh hùng, giàu lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc cao độ. Cho nên, ôn lại những truyền thống đó nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn những giá trị truyền thống cách mạng. Đồng thời, qua đó nó giúp cho việc giáo dục thế hệ trẻ những truyền thống, tư tưởng đạo đức tốt đẹp. Để từ đó, thế hệ trẻ tự suy ngẫm, để trở thành một công dân tốt, một thế hệ tương lai đầy hy vọng. Đây là nét đẹp truyền thống phi vật thể phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Với việc tổ chức lễ hội nhằm giữ gìn, phát huy nét văn hóa truyền thống của các tộc họ, hướng các tộc họ đi vào nề nếp hơn, đồng thời tăng cường sự đoàn kết giữa các tộc họ. Ngoài việc tri ân tổ tiên, hướng các tộc họ giữ gìn, phát huy nề nếp, gia phong, đoàn kết, giúp đỡ, thương yêu nhau trong đời sống, trong công tác khuyến học, khuyến tài… xây dựng tộc, họ văn hóa, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp văn minh. Việc tổ chức lễ hội còn tạo tiền đề cho việc tham quan, du lịch về làng nghề truyền thống, các di tích lịch sử cách mạng, văn hóa trên địa bàn xã trong tương lai nhằm khai phá tiềm năng, thế mạnh của địa phương, xây dựng văn hóa và từng bước nâng cao chất lượng xã văn hóa. Việc tổ chức lễ hội Thanh Minh hằng năm nhằm khôi phục lại những giá trị của lễ hội, thu hút đông đảo người dân trở về quê, nhìn về quê hương (vì trước đây, do chiến tranh tàn khốc, quê hương làng xóm bị “san phẳng”, hầu hết đình chùa, nhà cửa,… bị phá hủy, người dân đi xa quê hương để tránh đạn bom, cảnh ly tán, ly hương đau thương mất mát rất lớn) và kêu gọi tinh thần “nhân tâm” của con người đặc biệt là con cháu của xã ở mọi miền của Tổ quốc, ở nước ngoài. Vào dịp Thanh Minh, các nhà thờ tộc họ đều tổ chức cúng tế rất lớn, mổ heo, làm bò. Con cháu các nơi dù ở xa (tận thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…) hay ở gần đều nhớ ngày lễ của quê mình, trở về họp mặt, “vinh quy bái tổ”. Nhà thờ dòng tộc mở ra các lễ tiếp đón rất chu đáo con cháu, nhất là con cháu ở xa về. Chuẩn bị đầy đủ nơi ăn, chốn ở, phục vụ tận tình, vui vẻ. Không khí diễn ra ở tất cả các tộc họ, trên toàn xã rất nhộn nhịp, vui như ngày tết. Ban tổ chức lễ hội do Ủy ban nhân dân xã ra quyết định thành lập, chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là trưởng ban và mời các phòng, ban của huyện làm thành viên. Ban tổ chức thành lập 16 tiểu ban để phục vụ lễ hội bao gồm: chuyên viên các phòng, ban của huyện, cán bộ Ủy ban nhân dân xã và hợp tác xã. Chương trình lễ hội Thanh Minh gồm hai phần chính: lễ và hội. Phần lễ gồm: Lễ rước kiệu và lễ tế tại địa điểm trung tâm Lễ tế 75 nhà thờ tộc ngày Thanh Minh Lễ dâng hương và tưởng niệm các anh hùng có công với nước với làng Phần hội gồm: Đại hội thể dục thể thao gồm các môn thi đầu: Đua ghe trên sông Thu Bồn Bóng chuyền Têm trầu Kéo co Cờ làng Cà kheo Hội trại Văn hóa ẩm thực Bán hàng lưu niệm Trưng bày nghệ thuật cây cảnh, đá cảnh Trưng bày ảnh nghệ thuật Viết thư pháp Văn nghệ: Hát dân ca, ca nhạc, bài chòi, sắc bùa, văn nghệ phụ nữ. Lễ hội Thanh Minh diễn ra ở 3 khu vực là: Khu vực ẩm thực, trưng bày cây cảnh, đã cảnh, trưng bày ảnh nghệ thuật, bán hàng lưu niệm, viết thư pháp, hát bài chòi. Khu vực được tổ chức tại công viên văn hóa xã Khu vực tiếp theo là khu vực tiếp khách vãng lai Khu vực thứ ba là khu vực cắm trại, tế lễ. Con cháu nội ngoại đều phải quy tụ tại nhà thờ tộc, cùng nhau làm lễ cáo yết tổ tiên, trước khi đi tu tảo phần mộ. Trước tiên đến mộ thủy tổ rồi đến các tổ tiên khác theo thứ bậc để giẫy cỏ, đắp nấm (nếu mộ chưa xây), hoặc đồ bia, sửa chữa lăng mộ, thắp hương, khấn vái. Việc chăm sóc phần mộ tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu nội ngoại, đã trở thành truyền thống tốt đẹp mà người làng không bao giờ quên. Buổi tế lễ ở nhà thờ diễn ra rất trang nghiêm, có đọc văn ghi nhớ công đức tổ tiên. Sau đó, con cháu nội, ngoại ăn uống liên hoan trong tình bà con thân thiết, nhờ thế mà tránh được quan niệm yêu đương trai gái giữa bà con họ hàng. Buổi chiều Tảo mộ có bữa cơm thân mật, gặp mặt. Rước sắc (đưa về nhà thờ) để thờ cúng gọi là Tiên Thừa. Tối đó, cả họ họp nội tộc, bàn về vấn đề tổ chức lễ hội vào ngày mai. Họ phân công công việc cho những người trong ban tổ chức lễ hội của họ. Trưởng họ là người đứng đầu dòng họ, chịu trách nhiệm lãnh đạo chung và là người đứng ra cúng bái, đọc văn tế tổ tiên bàn việc tổ chức lễ hội xong, họ xoay sang các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế, xã hội của dòng tộc cũng như trò chuyện về các sự kiện xảy ra với con em trong họ. Có thể tin vui, tin buồn,… để chia sẻ, thông cảm hay trưng bày ý kiến, góp ý giải quyết. Đồng thời, đó cũng là dịp gặp gỡ, giao lưu của con cháu trong dòng tộc. Nhất là con cháu đi xa, lâu chưa có dịp về quê, nay là dịp để mối quan hệ dòng tộc thắm thiết, gần gũi hơn. Lễ hội Thanh Minh thường diễn ra trong 3 ngày nhưng 2 ngày chính thức. Ngày thứ nhất là ngày khai mạc lễ hội: sáng sớm, tất cả các tộc họ (97 tộc họ) làm lễ rước kiệu từ nhà thờ các tộc họ đến địa điểm trung tâm (sân vận động xã). Các đoàn nghinh rước kiệu lần lượt về lễ đài của lễ hội đặt kiệu. Đoàn rước kiệu có cờ hoa rực rỡ, trang nghiêm. Dân binh cầm cờ, khiêng kiệu cầm lọng: nón dấu, quần trắng, áo cụt tay màu xanh rin, có viền đỏ, giày vải. Kiệu được sơn màu đỏ, bốn chân khiêng kiệu được chạm hình bốn con rồng. Trước bàn kiệu có hai cây nến màu đỏ. Trong kiệu có bài vị tổ tiên dòng họ và lư hương bằng đồng, có hoa tươi đặt cạnh. Theo sau kiệu có người đội mâm ngũ quả. Học trò và người khiêng chinh cổ với trang phục: khăn xanh phủ, quần trắng áo dài xanh màu rêu lục. Trưởng các tộc họ mặc áo rộng, màu xanh chữ thọ, khăn đóng xanh, đi giày vải. Phu đội lễ: nam mang áo dài, khăn đóng, nữ mặc áo dài khăn vành. Đồ lễ được sắp vào khay nhựa tròn đường kính 50cm. Người đi lễ tháp tùng theo đoàn, trang phục chỉnh tề, số lượng ít nhất là 20 người. Sau lễ rước kiệu là múa lân. Khắp nơi, từ các ngã 11 kiệu của 11 thôn đổ về sân vận động, đưa lên lễ đài. Bên cạnh là người đại diện với trang phục áo dài khăn đóng. Bài lễ chính trong lễ hội Thanh Minh được đặt chính giữa, hai bên hai lọng, trên bàn gồm lư đồng to, cắm hương, hoa, cây bánh in và hai cây đèn. Sau khi tập trung 11 thôn (Bảo An Đông, Bảo An Tây, Thạnh Mỹ, Bến Đền Tây, Na Kham, Bến Đề Đông, Phú Đông, Xuân Đài, Phú Tây, Kỳ Lam, Văn Ly), lễ khai mạc bắt đầu. Mở đầu buổi lễ khai mạc, lễ với trang phục khăn đóng đỏ, quần trắng, áo vải đỏ có chữ thọ, đi hia hoặc giày hạ lên tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu. Đọc xong diễn văn khai mạc lễ hội, một hồi trống khai hội nổi lên. Chính thức vào lễ hội Thanh Minh. Đến phần tế lễ, đại diện ban tổ chức của xã lên đọc văn tế (nghi thức lễ theo truyền thống). Văn tế nêu về nguồn gốc, lịch sử dựng làng xã và quá trình vận động phát triển của xã Điện Quang, nêu ra công lao của tổ tiên, lòng tự hào của dân tộc đối với truyền thống làng nghề, nghiệp dùi mài kinh sử… của quê hương, tự hào về thủy tổ. Qua đó, bài văn tế còn thể hiện lòng biết ơn của con cháu thế hệ sau, nghiêng mình, kính cẩn trước các vị lão thành, thế hệ ông cha đi trước. Nhằm giáo dục thế hệ trẻ truyền thống đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, noi gương người đi trước. Đó cũng là mục đích, ý nghĩa của bài văn tế và cũng là mục đích, ý nghĩa chính của lễ tế này. Sau đây là bài văn tế trong lễ hội Thanh Minh của xã Điện Quang năm 2008: VĂN TẾ LỄ HỘI THANH MINH DUY Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuế thứ Kỷ Sửu niên, tam ngoạt, sở cửu nhựt Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn huyện, Điện Quang xã, Bảo An thôn, Ba Trai xứ. Tư nhơn xuất tiết lễ hội Thanh Minh Bổn xã cẩn trạch chánh tế: Phan On Tả, hữu phân hiến: Hiệp cán, chính binh, dân, nam phụ lão, ấu đồng bổn xã Cẩn dụng hồng trư, tư thành, hương đăng, hoa quả, thanh chước, phù lan tửu, hào soạn thứ phẩm chi nghi Trí tế vu Cung thỉnh: Chư vị tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh, chư tiên linh thần vị. Cảm thỉnh chư vị anh hùng liệt sĩ, vị quốc, vị dân Viết cung duy: Đất Quảng Nam – địa linh nhân kiệt. Trời Điện Bàn - võ nghiệp văn tài. Một tấm lòng son hòa huyết sử. Điện Quang truyền thống rạng tương lai. Bên dòng Thu sừng sững với thời gian, Xứ Gò Nổi đã đi vào di tích. Ngày ánh tiêu dương, đêm trăng cô tịch, Vẫn trào dâng một nhịp sống hào hùng. Niệm tiên linh: Từ cõi Bắc vào Nam dựng nghiệp. Theo đoàn quân Hồng Đức nam chinh, chúa Nguyễn Hoàng mở đất Quận Quảng, chọn Diên Phước, Điện Bàn lập trấn Cả trăm họ vun bồi địa cứ Cây tốt tươi cội phúc gieo trồng… Ngày nay trên dưới một lòng, Kết đoàn con Lạc cháu Hồng ngàn năm Sông với núi nặng tình đằm thắm, Nước với dân sâu đậm nghĩa nhơn Đời ta có Đảng vui hơn Tự do – hạnh phúc, giang sơn phú cường… Tự hào thay: Nghề canh cửi, tằm tam, thục nữ đảm đang, chăm chỉ giữ gìn câu tứ đức. Nghiệp sách đèn, kinh sử, nam nhi trung liệt, miệt mài vun đắp đạo cang thường. Nhớ linh xưa: Thăng trầm lịch sử biết bao năm, Cuộc dâu bể bao lần thành đạt. Bình Chiêm, kháng Pháp chẳng tiếc máu xương, Nghĩa hội, Cần Vương, Bài phong, Phản Đế. Đánh Mỹ, diệt Tề - dũng sĩ kiên cường Trung Đảng, hiếu dân – anh hùng tuyên thệ Gương trung liệt còn ghi danh Nghĩa Hội Ngọn lửa thiên Hoàng Chấn cháy rạng ngời Đầu Đề Như, Tú Dĩnh dẫu đã rơi Khí tiết ấy lưu danh trang sử đỏ Tử thủ thành Hà Nội, vang danh Tổng trấn Hoàng Diệu, Lê Đình Đỉnh. Thà chết mà nêu chí khí rỡ ràng Hưởng ứng phong trào Duy Tân, khẳng khái chí sĩ Trần Cao Vân, Lê Đình Dương, Phan Thành Tài. Dẫu thác cũng đập tan gông cùm nô lệ. Xưa đã hay các cụ Phan Thâm, Phan Thanh Lên đường theo tiếng non sông. Nay còn Đoàn Ngọc Nhạc, Nguyễn Trọng Nghĩa, Hà Văn Trí, Trần Thị Lý, Nguyễn Quang Vinh Hy sinh vì rửa thù quốc thể. Tham gia lãnh đạo đất nước nêu gương Phan Bôi, Phan Triêm Khi học lừng danh Hoàng Chúng Phạm Tuấn ghi danh bảng vàng “Ngũ phụng, Tề phi” Lê Đình Kỵ sáng danh nhà giáo nhân dân muôn thế hệ. Mãi đồng vọng: Bảo An, Văn Ly, Kỳ Lam, Xuân Đài, Bom đạn xới cày, ruộng đồng rơi lệ. Hoài reo vang: Bến Đền, Phú Đông, Phú Tây, Thạnh Mỹ, Na Kham Con đường bám trụ, tuyết sương chi nệ Nam phụ lão ấu quyết tử, đồng một lòng Dân quân, lương giáo hy sinh, thân nào kể. Xảo quyệt mưu sâu: Chiếm đất, đốt nhà, ấp chiến lược – cõi chết… Lòng kiên trung dẫu một tất đất cũng không đi, một ly không rời Ranh ma kế độc: Napan, da cam, hủy diệt, làng Tân Sinh – Địa ngục… Chí quyết tử dù xương có chất thành đồi, máu trôi thành bể. Tiền hiền khai khẩn, buổi ban đầu dựng ấp lập làng. Hậu hiền khai cơ thì nay đã xây nhà, mở xóm Người ở lại kiệm, cần, liêm, chính trở trăn nước bước đường đi Kẻ đi xa nặng nghĩa tình sâu, góp sức, góp tài, bền chí Dực bảo trung hưng, sắc xưa được phong Linh phò tôn thần, nhuận nay còn để. Bao tộc họ đức chí, vun nền học vấn, giành khôi nguyên, Thám hoa Bảng nhãn, Cử nhân, Tiến sĩ, Tú tài Nhiều gia đình bền lòng dạy cháu, nuôi con, lấy học vị vi tính, văn chương, khoa kỹ, ngữ ngôn, kinh tế. Ôi: Công cha ngút ngàn dường núi chúa Nghĩa mẹ dằng dặc tựa sông Thu. Đội sương, đêm – mẹ đào hầm nuôi cán bộ Gánh nắng, ngày – Cha tải gạo giúp quân dân. Cho nên: Con nghĩa tử, vì là con của mẹ Cha sinh con, vì Tổ quốc quyết sinh Mẹ - anh hùng, con của mẹ - anh hùng Thương cha mẹ - ấm ngôi nhà tình nghĩa... Đất nước như cây nhờ ơn nước, cảnh mai sau xanh tốt thắm tươi Dào dạt ơn Đảng lẫn ơn Người, nguồn nhân hậu lưu danh vạn tuế Nay: Tưởng nhớ tiền linh công đức, buổi thái bình mở hội Thanh Minh, Hương đăng, thanh chước lòng thành, xin các tiền nhân chứng giám. Kính cẩn nghiêng mình Đốt hương dâng lễ Phục duy cẩn tế! Đọc xong văn tế, lễ dâng hương tổ tiên: Đại biểu tỉnh, huyện, xã, Đại biều tộc họ (Chủ lễ xã và chủ lễ của 10 đoàn), thế hệ trẻ Đoàn viên thanh niên... thay nhau lên dâng hương. Tiếp theo là các tiết mục văn nghệ chào mừng lễ hội Thanh Minh. Chiều hôm đó là lễ khai mạc văn hóa ẩm thực, các quầy bán hàng lưu niệm, viết thư pháp, trưng bày cây cảnh, đá cảnh, bài chòi. Làm lễ tế chung của xã xong, các thôn tổ chức rước kiệu về lại đình họ, đội sắc bùa đến một số nhà thờ tộc khác và chúc mừng lễ hội Thanh Minh. Kết thúc phần tế lễ. Phần hội là phần tổ chức các trò chơi dân gian, các đại hội thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ nhằm mục đích vui chơi giải trí. Phần hội thiên về mặt tinh thần. Cho nên các trò chơi như đua ghe, bóng chuyền, thi têm trầu, kéo co, cờ làng, cà kheo, hát hò, hội trại,... được tổ chức rầm rộ, lôi kéo rất nhiều người tham gia. Ví dụ trong hội đua thuyền năm 2006, Nguyễn Thời Điệp – con cháu xa quê, khi trở về dự lễ hội có sáng tác ra bài thơ: “Người xa quê gặp hội”, trong đó có câu: “Ban tổ chức thuyền hoa ra lệnh Cờ phất ra cho cả đoàn ghe Mười một ghe rập tiếng “hè” Lao ra sông nước, một ghe bị chìm... ... Về phong cách trò chơi dự hội Tạo người xem hồ hởi trên bờ Vỗ tay vang dội ước mơ Dân càng cổ động bến bờ reo vui...” Qua đó, để thấy được không khí của hội thi, người trong cuộc quyết tâm, đoàn kết, gắng chơi hết mình, khán giả (bà con) hồ hởi reo vang, hết lòng cổ vũ. Hội đua thuyền truyền thống: Trên sông Thu Bồn hàng năm, đến lễ hội Thanh Minh lại diễn ra lễ hội đua thuyền. Đua thuyền có hai cự li; cự li 5500m là giải tiền, còn cự li 3500m là giải rượu. Đó là lễ hội đua thuyền người xưa. Đua trên một khúc sông nhưng đua nhiều vòng. Một ghe có 9 vận động viên (người chèo), trong đó có 7 người của địa phương, nhưng không phải là dân chài, còn hai người quan trọng có thể từ địa phương khác. Hai người quan trọng nhất là bơi mũi và bơi lái. Bơi tất cả 11 vòng (tổng cộng 5500m). Hội đua thuyên không chỉ để phân thắng bại, mà nó còn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng, sự nhanh nhạy, tinh thần thể dục thể thao của hội đua thuyền nói riêng và nhân dân Điện Quang nói chung. Đặc biệt, trong phần lễ hội có phần văn hóa ẩm thực rất độc đáo. Các món ăn rất đa dạng, phong phú. Tất gồm 65 món ăn dân dã: Mì Quảng gà Mì Quảng cá lóc Mì Quảng tôm thịt Bún giò Bún thịt quay Bún thịt nạm Bún chả cá Bún mít trộn Bánh bèo Bánh đúc Bánh Rò Bánh Nổ Bánh Tổ Bánh bột đậu (các loại) Bánh bột nếp Thịt bò tái Thịt heo quay Thịt vịt (chặt) Thịt vịt (hầm đậu) Giò bò hầm đậu đen Giò heo hầm đậu đen Bánh xèo Xôi đậu (các loại) Hến xào Mít trộn Mì cá lóc Cá lóc nấu chuối chát Cá lóc nướng Gà giò hầm đậu đen Thịt heo cuốn bánh tráng Bánh đập Xôi vò Xôi gà Xôi tráng xáo thịt Xôi ngọt Lươn nấu măng Ốc hút Ốc hấp Bún ốc Cháo gà Lẫu gà Gà hấp xôi Gà quay Gà trộn rau răm Miến xào các loại Miến lòng heo Miến lòng gà Thịt vịt giả cầy Thịt heo giả cầy Thịt bò xào lá lốt Thịt bò cuốn lá cải Ếch xào sả Lươn xào sả Cháo lươn Lẩu lươn Thịt gà lòng thả Lẩu cá lóc Lẩu tươi sống Thịt Nghé xào lá lốt Thịt bò nấu cháo Cháo chay Mì chay Cơm chay Các món nướng chay giả mặn Bê thui Điều cần chú ý đó là những món ăn rất bình dân, đạm bạc, do nhân dân làm ra. Mì Quảng là món ăn vừa dễ chế biến nhưng mang một hương vị rất độc đáo, rất Quảng Nam, ngay từ cách đặt tên món ăn. Sợi mì do người dân trong xã làm, mọi nguyên liệu đậu phộng, rau (các loại), thịt gà ăn cùng bánh tráng nướng của đất Quảng. Một món ăn rất đơn giản nhưng đã tổng hợp được rất nhiều hương vị khác nhau kết hợp tạo nên một mùi vị rất đặc trưng của khẩu vị món ăn Quảng Nam. Món bê thui là món ăn hấp dẫn mang đặc trưng riêng của xã Điện Quang. Bê thui nóng ăn với một số loại rau sống. Du khách có thể thưởng thức một lần sẽ nhớ mãi. Món này ăn lúc nóng (trên lò mới đưa xuống) sẽ có cảm giác rất ngon, ngọt, thơm... Ngày hôm sau, người trưởng họ đứng ra cúng bái, đãi con cháu trong dòng họ. Việc tổ chức ăn uống trong dòng họ được tổ chức riêng ở nhà thờ mỗi dòng họ. Có họ làm lớn, từ 100 đến 1000 mâm (như các họ lớn: Lê, Phạm, Trần, Phan Đình, Phan Hữu,...) Chiều tối kết thúc phần hội (khoảng 19 giờ, có hội thảo hoa đăng trên bến đò ông Dốc). Lễ tổng kết bế mạc lễ hội Thanh Minh được tổ chức ngay chiều tối hôm đó. Lễ hội Thanh Minh là một trong những lễ hội lớn của xã Điện Quang, một đặc sắc về văn hóa dân gian ở vùng này. Lễ hội diễn ra được sự ủng hộ nhiệt tình của người dân địa phương, con em quê hương xa quê và sự lưu ý, quan tâm của Đảng, xã, chính quyền địa phương là điều kiện giữ gìn và phát triển lễ hội Thanh Minh này. Theo ý kiến của chú Phan On – Chủ tịch Ủy ban mặt trận xã Điện Quang, lễ hội này là niềm vui, niềm tự hào của nhân dân xã Điện Quang. Hưởng ứng chủ trương khôi phục những lễ hội có giá trị văn hóa truyền thống, xã Điện Quang dần dần khôi phục lại lễ hội Thanh Minh này. Bên cạnh nhiều thuận lợi để cho việc khôi phục lễ hội truyền thống này, còn có một số vấn đề khó khăn cho lễ hội như: các di tích lịch sử, các đình chùa, miếu... bị tàn phá hết do chiến tranh ác liệt, hay việc nhận thức của thế hệ trẻ về lễ hội Thanh Minh nhiều hạn chế, chưa nhận thức rõ và sâu sắc lễ hội này,... Tuy nhiên, cùng với sự nổ lực, phấn đấu của các cơ quan chính quyền của làng xã, của thôn và nhân dân trong xã lễ hội Thanh Minh đã được công nhận là lễ hội văn hóa cấp tỉnh. Trong tương lai, lễ hội Thanh Minh ở xã Điện Quang sẽ thu hút một số lượng khách lớn, tham gia vào lễ hội. Đây sẽ là một điểm du lịch thú vị trong tương lai không xa. Tóm lại, lễ hội Thanh Minh là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của xã Điện Quang. Giữ gìn, phát triển và khôi phục lễ hội Thanh Minh là giữ gìn, phát triển những nét đẹp, các giá trị truyền thống của quê hương Điện Quang 2.1.2. Lễ tế Kỳ Yên Tháng Giêng đến Tháng Ba là mùa lễ hội. Vào thời gian từ mùng mười đến rằm tháng Giêng là thời gian của lễ hội Kỳ Yên (Lễ cầu an). Lễ hội này có quy mô nhỏ hơn lễ hội Thanh Minh. Lễ hội này tổ chức ở đình làng và mỗi thôn tự đứng ra tổ chức, thời gian tổ chức lễ hội Kỳ Yên giữa các làng có sự chênh lệch nhau, nhưng đều nằm trong vòng từ mùng mười đến rằm tháng Giêng. Được biệt ở Bảo An khi tổ chức lễ từ chiều 12 tháng Giêng âm lịch và kéo suốt qua ngày 13 mới chấm dứt. Về kinh phí thì trước đây mỗi làng đều có quỹ chung được trích ra từ phần đấu giá đất công điền để tổ chức. Còn ngày nay là do người dân đóng góp để làm lễ, vì họ theo quan niệm muốn đóng góp phần nào đó tấm lòng của mình đối với các thần linh. Lễ Kỳ Yên là để cầu mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn yên ổn, không xảy ra thiên tai địch họa, không dịch bệnh hoành hành... Đặc biệt chúng tôi được ông Phan On ở thôn Bảo An Đông – Điện Quang – Điện Bàn – Quảng Nam kể về lễ hội Kỳ Yên của làng mình như sau: Lễ bắt đầu ở đình từ chiều 12 tháng Giêng âm lịch và kéo dài qua suốt ngày 13 mới chấm dứt (không hiểu tại sao lễ Kỳ Yên đúng vào ngày vía Quan Thánh?). Vào chiều 12 cờ xí được trần thiết từ ngoài cổng đình vào sân. Trong đình các ngai thờ được trang hoàng. Các quan viên chức sắc và những người lo việc tế lễ đều tề tựu đông đủ. Ngai thờ để trong bàn kiệu sơn son thiếp vàng uy nghi, được bốn người dân khiêng đi trước, theo sau là những người vác cờ xí, học trò lễ... Họ đến rước sắc tại chùa làng, miếu ngũ hành, miếu âm linh và nhà thủ sắc của làng về tại đình. Sau khi rước sắc về đình, lễ trần thiết và lễ nghinh thành được cử hành cùng một giờ. Lễ điện tế vào khoảng 1 giờ khuya ngày 13. Lễ vật gồm hoa quả, heo bò được mổ thịt trong đêm, trước khi mổ thịt người ta cho con vật lên trước đình cáo yết. Tùy theo nghi lễ quy định của làng mổ thịt súc vật để cúng nhiều hay ít theo các lão làng còn sống kể lại thì hàng năm mỗi làng cúng hai con heo hoặc bò. Trong dịp tế lễ Kỳ Yên già trẻ trai gái đều được vào xem tế lễ, và có các trò diễn trong sân đình. Không khí lễ hội nhộn nhịp suốt ngày đêm, đây cũng là dịp vui vẻ của nam thanh, nữ tú trong vùng. Chiêng trống lễ nhạc rộn ràng, trầm hương ngào ngạt, hai bên có hai cây đèn Liệu (bó bằng hom dâu, bã mía) to đến hai người ôm không xuể, cao hơn 5m, được thắp sáng tỏa trước sân đình. Lễ Kỳ Yên là lễ lớn nhất của làng, cúng thập thể các vị thần do triều đại phong kiến, nhất là nhà Nguyễn tôn phong. Ở Bảo An cũng như toàn tỉnh Quảng Nam không có vị thành hoàng cho mỗi làng như ở miền Bắc, văn tế nhắc tới hàng trăm vị thần nam nữ, mà cao nhất là: Đại càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương Thượng đẳng thần. Đây là bốn vị thần đàn bà có tích như sau: “Khoảng niên hiệu Tường Hưng nhà Tống, quân Tống bị quân Nguyên đánh ở Nhai Sơn, Thái hậu cùng ba công chúa chạy ra biển, chợt bão nỗi lên, bị chết đuối, xác trôi dạt vào cửa Cờn, nhan sắc vẫn như lúc sống, người địa phương lập đền thờ. Năm Hưng Long thứ 12 (1304), vua Anh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, thuyền qua cửa Cờn, đêm nhà vua mộng thấy thần nhân báo rằng: “Thiếp là cung phi nhà Tống, vì giặc bức bách, lênh đênh sóng gió, trôi dạt đến đây, Thượng đế sắc phong làm thành biển đã từ lâu, nay xin giúp thánh thượng đi giết giặc” nhà vua tỉnh giấc, sai người làm lễ tế. Đi ra mặt biển yên lặng, kéo quân thẳng đến Đồ Bàn (Bình Định) thắng trận lớn.” Năm Hồng Đức 1 (1471) thuyền vua Lê Thánh Tông vào đến Chiêm Thành qua đây vào viếng đền, khi đi ra cũng được thắng lợi. Thần được lịch triều phong tặng, riêng các vua nhà Nguyễn phong đến Thượng Thượng đẳng thần, là thần cao nhất và ra lệnh cho cả nước đều thờ. Thiên Y A Na diễn chúa Ngọc Phi là một nữ thần người Chiêm được “gia tặng hàm Hoằng Quảng trị chi đức phổ bát hiển hóa trang huy dực bảo trung hưng thượng thượng đẳng thần”. Kỷ Mùi khoa tiến sĩ Phi vận tướng quan trung đẳng thần. Trấn Nam dinh phó đô tương dương võ công Quang chiếu Vương Kiêm tri lưỡng lộ thành hoàng Đại vương tôn thần. Vị thần này theo Đại Nam nhất thống chí cho biết là thành hoàng chung cho Quảng Nam – Quảng Ngãi. Cũng theo sách này cho biết ông thành này hiện vẫn còn mộ ở Quảng Ngãi. Đình làng Đình Bảo An, được xây dựng lần thứ nhất vào năm Nhâm Ngọ (1702) xoay mặt về hướng bắc gió ra sông Thu Bồn, gần bên nhà thờ họ Bùi, cạnh nhà ông Sáu Tình (dạy học), lần thứ hai được xây sau đó. Đình mới được xây dựng rất công phu vào năm Bính Ngọ (1846) đến năm Mậu Thân (1848) thì hoàn thành, nhìn về phía nam trên trục đường công hương liên xã, đình gồm 5 gian 2 chái, cột to người dân ôm không xuể, kèo tránh đều chạm rồng ngậm ngọc gần như cung điện nhà vua. Nội điện chính giữa thờ thần, phía trước bái đường chia làm 5 gian, gian giữa nhìn thẳng vào trong nội điện, có một bán án sơn son thiếp vàng, cao khoảng 1,6m chạm trổ công phu, có cặp hạc cao quá đầu cầu hai bên, bộ tam sự đồng to lớn sáng loáng. Hai gian phía tây của đình thuộc làng Tây, hai gian phía đông thuộc làng Đông. Mỗi bên có hai bàn thờ tả ban, hữu ban thờ vọng các ngài tiền hiền, hậu hiền, có công với làng. Phía trước là tiền đường, mỗi làng có một căn ván bằng gỗ mù u, gồm 2 tấm ván với kích thước 4m x 1,3m để cho hai vị tiên chỉ làng Đông và làng Tây ngồi, còn quan viên chức sắc cấp thấp thì ngồi trên chiếu bông trải dưới sàn đình, lý trưởng, hương chức, lão nhiêu được ngồi hai bên bệ vôi gần tường đình. Phía trước đình có bình phong lớn, trụ biểu, tường hoa bao bọc xung quanh. Trên trụ biểu có cặp câu đối sau đây: Bảo ngã lê dân, tam xã phồn xương Diên Phước chỉ An như bàn thạch, song giang hoàn nhiễu hộ thần cư. Tạm dịch: Hãy giúp dân ta, ba xã giàu sang Diên Phước ở Vững như tảng đá, đôi sông ôm kín giữ gìn nơi. Việc điều hành các nghi lễ trong đình làng, miếu làng cũng như viết văn tế đều do tư lễ, có nơi gọi là hương lễ. Giúp việc nghi lễ cho tư lễ có mười học trò lễ, hai người xướng (người điều hành chương trình lễ), hai người đọc văn, một người đánh đại đồng chung, một người đánh trống lớn, một người đánh tiểu cổ, một người đánh vạc bằng gỗ như cái mõ, mười học trò thay nhau hát, dâng bông, dâng rượu, dâng trà và ban nhạc. Khi tế lễ người xướng nội (trong đình) xướng trước tiên: các hiệu lệnh như “ban liệt chỉnh tề”, “chấp nhật sự giã các tư kỳ sự”... “Khởi chinh cổ”, “Khởi nhạc”,... chánh “tế dữ phân hiến tựu vị”... rồi xứng ngoại từ ngoài sân đình xướng to lặp lại cho mọi người đang hành lễ nghe rõ. 2.1.3. Lễ tế Âm linh Lễ tế Âm linh là một trong những lễ hội có vị trí trong đời sống xã hội, nhất là đời sống tâm linh của mỗi con người. Cứ tới ngày 25 tháng Chạp hằng năm, lễ tế âm linh được tổ chức nhằm mục đích tạ ơn quỷ thần, và vong linh cô hồn thập loại, các chiến sĩ vô danh đã phò trì cho dân làng bình an. Ngày xưa, việc tế lễ do lí trưởng – người đứng đầu làng của chế độ xã hội phong kiến tổ chức. Cùng với lí trưởng có ban tư lễ của làng giúp đỡ và chịu trách nhiệm mua sắm cũng như mọi hoạt động tổ chức trong buổi lễ đó. Ví dụ, nấu các món ăn như xôi, thịt,... phải có chén muối, gạo, rượu, nước để cúng cho các vong hồn vất vưởng, không nơi cúng bái. Sau này, khi chế độ xã hội chủ nghĩa, chức lí trưởng không còn nữa thì được thay vào đó là thôn trưởng. Thôn trưởng giao lại cho hội người cao tuổi và hội người cao tuổi lại thông qua hội đồng chư tộc (hội đồng nhiều tộc họ) để lãnh đạo, tổ chức buổi lễ. Kinh phí của buổi lễ là do nhân dân tự nguyện đóng góp. Họ rất vui lòng đóng góp tiền bạc cho lễ này, vì họ cũng mong muốn thần thánh sẽ phù trì phù hộ cho họ cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn. Nhưng ngày xưa, khoản chi phí này không cần dân đóng góp mà do mỗi làng đều có ruộng đất công, cho nên cứ hàng năm, diện tích đất công ấy được đấu thầu. Người ta lấy tiền đó, trích ra khoảng 5 – 10% để làm kinh phí cho buổi lễ. Đặc biệt, ở thôn Bảo An, lễ tế âm linh được tổ chú rất đầy đủ nghi lễ. Ba năm mới tổ chức lớn một lần, có rước một đoàn hát bội về hát cho nhân dân xem, không bán vé, nên số người đến xem tụ họp rất đông đảo. Lễ được tổ chức ở cồn Cây Da, xung quanh rạp có nhiều hàng quán ăn nhậu và có các sòng bạc do dân chơi trong vùng tổ chức. Chi phí cho lễ này là do hai làng Đông và Tây góp lại. Tuồng tích hát trong 3 đêm 2 ngày cũng do hai làng chọn lựa. Trong thời gian tế lễ, quang cảnh cồn cây Da, vốn là nơi hoang vắng ngày thường trở nên vô cùng tấp nập. Người đi xem hát cũng có, người đi ăn chơi cũng có. Rạp thường bằng tre, rộng rãi, thoáng mát trên nền xã tắc gần cồn cây Da. Bên trong, ở một đầu rạp có bài tri các bàn thờ, hương đèn, hoa quả, trầu nước. Vọng bái ngày đêm, cầu mong thổ võ chứng giám lễ hát. Ở đầu kia của rạp là phần sân khấu và buồng trang điểm, mặc quần áo cho ban hát. Trống chầu đặt hai bên trược khán đài, cao hơn mặt đất độ một thước tây. Đêm hát đầu tiên gọi là hát lễ, làng và ban hát chọn một vở tuồng thật trung hậu như đoạn “Đào viên kết nghĩa” trong Tam quốc chí. Ông cầm chầu là người có địa vị ở trong làng, sành về hát bội và đầy đủ sức khỏe để có thể cầm roi chầu cả buổi. Cầm chầu rất khó, nếu đánh không đúng thì bị thức giả chê cười, nên ca dao có câu: Ở đời có bốn cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, cắm cu, cầm chầu Đêm hát lễ khai mạc khoảng 8 giờ tối và vãn trễ lắm vào khoảng 12 giờ khuya. Trước khi hát làng tổ chức lễ quan trọng, văn tế âm linh có đoạn như sau: Hỡi ơi! Cỏ ái trăng tà, quê người đất khách, mấy dặn ba cù liễu mạch, cuộc dâu bể ai thấy cũng đau lòng, một thời mộ võ hàm phong, mồ vô chủ biết ai thăm viếng. Nhớ âm linh xưa! Trăng gió một bầu, Gươm đàn nữa gánh, Thẳng non nước dạo chơi bèo cánh, đất đông tây, nam bắc cũng là nhà; Đem tài tình trả nợ yên ba, người nông, sĩ, công, thương đủ việc. Cũng có kẻ anh hùng hào kiệt, công danh trăm trận nổi trên trần; Cũng có người tài tử giai nhân, phong cảnh năm hồ theo ngọn nước; Cũng có kẻ ra tài thao lược, kết lòng trung mà tá guốc an bang; Cũng có người gánh vác giang san, ra sức dõng khai cương tịch nhưỡng; Cũng có kẻ danh vị Thượng tướng, đầu đội trời, chân đạp đất, chưa phỉ nguyền hồ thỉ bốn phương; Cũng có người xuất thân tự nho lưu, cắp sách ôm đàn chưa phỉ chí tang bồng ngàn dặm; Cũng có kẻ rừng sau vực thẳm, thấp thoáng cánh buồm lá gió, lội dòng sông mà theo vực ngư dao; Cũng có người núi thẳm non cao, bơ vơ kẻ lạp người tiều, lỡ lạc bước sa vào hang hổ, báo... đời đời chẳng quên cô hồn thập loại. Thương thay xin hưởng!” Tuồng tích hát đêm hôm sau do làng và ban hát cùng chọn, nhưng thông thường ban hát đưa ra những tuồng mà họ hay hát, chủ yếu để được thưởng nhiều. Đêm hát sau cùng kết thúc với lời từ tạ thổ võ và hồi trống dứt chầu. Ở Bảo An, mỗi xóm có xây miểu, tổ chức cúng tế, và làm vệ sinh giếng hàng năm. Xóm phân công cho từng người tham gia vét giếng. Giếng ở mỗi xóm, nằm ở vị trí thuận lợi cho người trong xóm đi lấy nước. Giếng sâu hơn 8m phần nhiều do bằng đá miếng, đẽo tròn theo lòng giếng có khứa nhỏ, cho khớp liền từ dưới đáy giếng lên. Trước giếng thường có bia đá, biểu dương công đức của những người đóng góp xây giếng. Giếng nước cũng là nơi hẹn hò, trò chuyện của nam thanh, nữ tú trong những đêm trăng, do đó có câu thơ để lại: Em ra giếng gánh nước trong Còn anh ra giếng để... không làm gì. Ngày xưa người ta thường cử đào giếng, ở Bảo An lại có đến 18 cái giếng từ làng Đông đến làng Tây, mỗi giếng thường là tên của người ở gần giếng nhất như giếng ông Vuông (Duân), Biện Thừa, Bà Hộ, Phó Mười (họ Phạm), Thập Rớ, Tri Hậu, Trường học (làng Đông), Hương Thìn, Trưởng Quế, Dốc Lân hay Cửu Bốn, Thủ Bạ Hoàng (họ Ngô), Thủ Sum, Trưởng Ất, Ông Lễ, Bà Tú Tý (Bà họ Ngô vợ ông Tú Khuất họ Phạm Phú ổ Đông Bàn), giếng chùa Cửu Bảy (trong vườn), Bà Lân (làng Tây), Giếng ông Án (ông Thị). Tóm lại, lễ Âm linh là một lễ làm cho con người cảm thấy an tâm, có niềm tin vào cuộc sống hơn và đời sống tâm linh là một trong những mặt quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Lễ tế Âm linh có ý nghĩa quan trọng với mỗi người nhất là thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa con người càng hướng về đời sống tâm linh. 2.1.4. Lễ tế cầu tằm Ngoài các lễ hội lớn như lễ hội Thanh Minh, lễ hội Kỳ Yên, lễ Âm linh, là lễ hội chung của mọi người, mọi nhà trong xã, thì còn có những lễ chỉ dành riêng cho một đơn vị nhỏ ít người. Tiêu biểu ở xã Điện Quang, gắn liền với nghề nuôi tằm, có lễ cầu tằm. Mỗi nghề đều có mỗi lễ riêng. Chẳng hạn như lễ cầu ngư của các ngư dân nhằm mục đích cầu cho trời yên biển lặng, tôm cá đầy thuyền, thì lễ tế cầu tằm được tổ chức từ tháng Giêng đến tháng Ba, đó là vì vậy yếu tố thời tiết là yếu tố cơ bản, mùa lễ hội, tháng Giêng là tháng ăn chơi. Lễ tế cầu tằm do các bô lão trong làng nuôi tằm đứng ra tổ chức. Trong một làng nuôi tằm, hộ họp nhóm lại thành một hội làm tằm, người xưa bảo “buôn có bạn, bán có phường” là vậy. Đứng đầu hội làm tằm có phường trưởng. Phường trưởng là người có uy thế, có năng lực và tài năng lãnh đạo hội làm tằm. Phường trưởng lo việc tổ chức cúng bái, lễ tế. Lễ vật trong lễ tế thường có xôi trắng, chè, thịt luộc (từng khúc, có găm nhọn hai đầu ở miếng thịt), có gạo, muối hạt, rượu, nước để tế thần. Lễ tế cầu tằm nhằm cầu thần nông giúp đỡ nghề nuôi tằm được mùa. Nhằm thể hiện mong muốn trời thuận, gió hòa giúp cây dâu phát triển, bởi đó là nguyên liệu, là thức ăn duy nhất cho tằm. Nếu được mùa dâu là một yếu tố góp phần cho vụ nuôi tằm thành công. Hơn nữa, tằm là một loại có hiệu quả kinh tế cao nhưng có yêu câu khắt khe về vệ sinh, về nhiệt độ, nhiệt độ quá cao, lên đến 28oC hay xuống quá thấp dưới 15oC là tằm có thể chết. Vì vậy mà yếu tố thời tiết, khí hậu là yếu tố cơ bản quan trọng quyết định đến sự phát triển của tằm. Nhân dân quan niện có thần dân là thần bảo vệ mùa màng, bảo vệ tằm. Cho nên, cúng bái, lễ tế hàng năm cho thân Nông để các thân thuận lòng ủng hộ thêm nữa công việc hô mưa gọi gió, giệt trừ các loại vi khuẩn, sây hại, tạo điêu kiện tốt nhất cho tằm phát triển. Như vậy, lễ tế cầu tằm cũng là một trong những lễ hội mang yếu tố tâm linh, cầu cúng. Nó vừa thể hiện được quan niện về tín ngưỡng thần thánh (thần Nông) vừa thể hiện được mong muốn trời đất hòa hợp để tạo ra sự tương thông hài hòa giữa các yếu tố thiên, địa, nhân, hòa. Và qua tế lễ cầu tằm, nhân dân các phường nuôi tằm như Bảo An, Lệ Trạch, Phú Tây,... họ càng có niền tin, lạc quan hơn cho vụ nuôi tằm tiếp theo. Do đó, nó tạo ra đông lực thúc đẩy các phường nuôi tằm có tinh thần tốt nhất để sản xuất, mang lại hiệu quả, năng suất lao động. Cho nên, lễ tế cầu tằm còn mang yếu tố tinh thần rất rõ trong đời sống của con người. 2.2. Phong tục tập quán Phong tục tập quán là một trong những thói quen ăn sâu vào đời sống từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo (phong: gió, tục: thói quen, phong tục: thói quen lan rộng). Phong tục có trong mọi mặt đời sống, ở mọi lúc mọi nơi, và nó đi vào từng nếp sống, lối nghĩ của mỗi con người. Phong tục tập quán thể hiện ở nhiều mặt mà chủ yếu xem xét trên 3 nhóm sau: phong tục hôn nhân, tang ma và lễ Tết. 2.2.1. Phong tục hôn nhân Hôn nhân là việc liên quan đến hạnh phúc cả đời của mỗi con người. Cho nên phong tục hôn nhân được xem là một trong những phong tục quan trọng nhất. Xuất phát từ một nền nông nghiệp trồng lúa nước, một trong hai đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng. Vì thế, việc của cá nhân đồng thời cũng liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn nhân là lĩnh vực riêng tư nhất. Hôn nhân của người Việt Nam truyên thống không phải là việc của hai người lấy nhau mà là việc của “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái. Tục lệ này xuất phát từ quyền lợi của tập thể. Trước hết là quyền lợi của gia tộc: việc hôn nhân là việc của hai người nhưng lại kéo theo cả việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc. Vì vậy, điều cần làm đầu tiên chưa phải là lựa chọn một cá nhân cụ thể, mà lựa chọn một dòng họ, một gia đình, xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối không. Điều đó có nghĩa là sự hạnh phúc của một đôi vợ chồng cũng đòi hỏi sự cân bằng vị thế của hai gia đình trong xã hội đó như thế nào, và điều kiện kinh tế của hai gia đình có tương xứng với nhau không. Sự chênh lệch giàu nghèo của hai bên là điều không thể hoặc rất khó để chấp nhận việc hai bên kết thông gia. Đặc biệt là thời kì phong kiến, những đòi hỏi về môn đăng hộ đối càng khắt khe. Hôn nhân đối với cộng đồng gia tộc, đó là một cộng đồng duy nhất và thiêng liêng để duy trì nòi giống và phát triển nguồn nhân lực. Với những mục đích, ý nghĩa của hôn nhân như thế nên họ đưa ra những cách nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn dâu hiền, rể thảo như: chọn con dâu tốt nhất là chọn người thắt đáy lưng ong. Theo quan niệm xưa, người phụ nữ có vai trò quan trọng và thiêng liêng nhất là duy trì nòi giống, không chỉ duy trì nòi giống, người con tương lai còn trách nhiện làm lợi cho gia đình. Con gái phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi về cho nhà chồng; con trai phải giỏi giang, đem lại vẻ vang nguồn lợi tinh thần) cho gia đình nhà vợ: Chồng sang vợ được đi giày Vợ ngoan chồng được tối ngày cậy trông Trai không kén vợ chợ đông Gái khôn chọn chồng giữa chốn ba quân. Hôn nhân còn phải đáp ứng các quyền lợi làng xã. Nằm trong vùng kinh tế nông nghiệp, tính hướng nội là nét cơ bản trong tư duy của con người Việt Nam, họ thích sự ổn định của làng xã. Vì thế, việc dựng vợ gả chồng cho con cái, họ thường chọn người trong làng: Ruộng giữa đồng Chồng giữa làng Điều đó đã kéo theo tục nộp cheo, nghĩa là khi lấy vợ, nhà trai phải nộp cho làng xã bên nhà gái một khoản “lệ phí” gọi là cheo đám cưới thì mới được công nhận là hợp pháp. Ca dao tục ngữ có câu: Nuôi lợn thì phải vớt bèo Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng Lấy vợ mười heo, không cheo cũng mất Lấy vợ không cheo, tiền gieo xuống suối Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (chỉ mang tính tượng trưng), gọi là cheo nội, lấy ngoài làng thì cheo rất nặng, gấp đôi gấp ba cheo nội, gọi là cheo ngoại. Nhìn chung, lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì lợi ích cộng đồng, tập thể: từ những cuộc hôn nhân vô danh của thường dân đến những cuộc hôn nhân nổi danh như công chúa Huyền Trân với vua Chàm Chế Mân,... gắn liền với lịch sử vùng Ô Châu, Ô Lý. Rồi vô số những cuộc hôn nhân của các con vua cháu chúa qua các triều đại được triều đình gả bán cho tù trưởng các miền biên ải nhằm củng cố đường biên giới quốc gia, tất cả đều là làm theo ý nguyện của tập thể cộng đồng lớn nhỏ: gia đình, gia tộc, làng xã, đất nước. Khi các quyền lợi tập thể của cộng đồng đã được tính đến và đáp ứng cả rồi, lúc ấy người ta mới lo đến những nhu cầu riêng tư. Trước hết là sự phù hợp của một đôi trai gái xết một cách trừu tượng bằng hỏi tuổi (lễ vấn danh, mà ngày nay gọi là chạm ngõ, hay lễ dạm) xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau hay không, còn nếu xung khắc thì thôi. Để cho quan hệ vợ chồng được bền vững, khi cưới, đôi vợ chồng trẻ thời hùng vương có tục trao cho nhau nắm đất và gói muối: nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó với đất đai, làng xóm, gói muối là lời chúc cho hai người mặn mà chung thủy (Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau). Sau này, thay cho đất và muối, trong lễ vật dẫn cưới luôn có một loại bánh đặc biệt, bánh su sê (tên đọc chệch của bánh phu thê): bánh Phu thê (vợ chồng) hình tròn bọc bằng hai khuôn hình vuông úp khít vào nhau. Đó chính là biểu tượng của triết lí âm dương (vuông tròn) và ngũ hành (ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, sắc vừng đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ) biểu tượng cho sự vẹn toàn, hòa hợp – hòa hợp của đất trời và con người. Khi làm lễ hợp cẩn, có tục hai vợ chồng ăn chung một đĩa cơm nếp, uống chung một chén rượu: ý nghĩa của tục này cũng là chúc cho hai vợ chồng gắn bó với nhau, dính nhau như cơm nếp và say nhau như rượu. ở xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, phong tục hôn nhân bên cạnh mang những đặc tính chung của một hôn lễ dân tộc thì ở đây, nó còn có một số nét đặc trưng riêng của địa bàn này. Phong tục do những thói quen, lề lối tạo thành. Nhưng mỗi vùng miền, mỗi làng lại có những phong tục mang nét riêng đặc sắc phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa của mỗi địa phương. Điện Quang như đã nói ở trên là một xã có nền lịch sử lập làng lâu đời, từ thời Nguyễn Hoàng đưa dân vào khai khẩn. Dân cư ở đây có nguồn gốc từ phía Bắc( vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh) đi vào đây lập nghiệp. Nằm gần sát sông Thu Bồn, Điện Quang thuận lợi giao thông đi lại cũng như giao lưu buôn bán. Xã có nhiều người đỗ đạt, làm quan và là một trong những đất hiếu học. Với những thuận lợi đó phong tục hôn nhân ở xã Điện Quang cũng mang màu sắc riêng, độc đáo. Theo ông Phan Hữu Nguyên ở thôn Bảo An Tây – là người làm ở hợp tác xã nông nghiệp, qua cuộc trò chuyện và tìm hiểu chúng tôi được biết phong tục đám cưới ở đây diễn ra như sau: Từ lúc quen nhau cho đến lúc cưới trải qua 6 giai đoạn: Lễ vấn danh Lễ dạm nhà Lễ hỏi (đính hôn) Nói giá (định sính) Thỉnh kỳ Lễ cưới Các bước diễn ra rất phức tạp và tốn kém cho cả hai bên, tuy nhiên đã là phong tục tâp quán thì ai (dù giàu hay nghèo) cũng phải tuân theo các bước đó. Lễ vấn danh là việc hỏi tuổi tác xem đôi trai gái có hợp tuổi không, được xem như một buổi ra mắt hai bên trai, gái biết nhau, hay ba má biết mặt con dâu, con rể tương lai. Và để xin ngày đi dạm nhà. Lễ dạm nhà, cũng như lễ vấn danh là nhà trai đưa trầu cau và rượu đến nhà cô gái, vừa để thăm nhà, vừa để tạo quan hệ gần gũi giữa hai bên và đồng thời xin ngày để đi hỏi. Lễ hỏi (đính hôn), theo ngày đã định, họ nhà trai mang lễ vật gồm: một quả trái cây, một cặp rượu, trà thuốc, vàng (nếu có). Số lượng người có thể là 14, 18, hoặc 22 người tùy theo số người hai bên đã định ở lễ dạm nhà. Có những con số trên (số người đi) là do quan niện “sinh – lão – bệnh – tử” của Nho giáo. Trước đây, họ nhà trai thường có lễ vật gồm cả heo, để sau khi làm lễ xong, thủ heo ấy dùng trả công cho bà mai, ông mối. Lễ hỏi được tổ chức linh đình, có mâm cỗ, tiệc mặn đãi khách nhà gái, họ nhà trai. Mọi chi phí của lễ hỏi thường là họ nhà gái chịu hết. Đây là lễ ra mắt, trình bày giữa hai họ, đặc biệt là họ nhà gái. Nó dược xem như là một giao kèo, xem cô gái đã có nơi chốn, công bố nhằm mục đích giữ cô gái, khỏi có ai tới tán tỉnh và cô gái được xem chính thức như con dâu trong nhà. Vì thế, các cô gái sau khi hỏi phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với chàng trai, đặc biệt là đối với gia đình chàng trai. Các đám giỗ, tiệc hay bất cứ một việc gì liên quan đến dòng họ của nhà trai, cô gái phải đến giúp đỡ, nấu nướng, dọn dẹp. Chàng trai cũng phải có trách nhiệm nghĩa vụ đối với nhà gái. Các lễ tết, nếu hỏi (đính hôn) rồi mà vẫn chưa cưới được vì bất kì lí do gì, có thể là do điều kiện kinh tế chưa cho phép hay có tang,... thì lúc đó, chàng trai thường đi tết nhà gái như: trà, thuốc, rượu, bánh,... cô gái được đi hỏi rồi thì xem như gái đã có chồng, nếu vì lí do nào đấy mà không cưới (hủy hôn) thì cô gái ấy cũng coi như đã qua một đời chồng. Do đó, người ta rất kiêng kị về vấn đề hủy hôn. Lễ nói giá (định sính), là giai đoạn bước đệm cho lễ cưới. Định sính có nghĩa là định ra những sính lễ sẽ có trong lễ thỉnh kỳ. Nó đưa ra ngày lễ thỉnh kỳ, nhà trai sẽ đi bao nhiêu người (có thể là số người bằng trong lễ đính hôn, hoặc nhiều hơn nhưng bắt buộc phải là số lão (tốt), tránh các số xấu như số tử), heo mấy con, định ra số bàn tiệc, bao nhiêu gạo nếp,... Điều này tùy vào hoàn cảnh của mỗi gia đình và phụ thuộc vào thỏa thuận của cả hai bên. Lễ thỉnh kỳ, như đã định, ngày tốt, chàng trai mang sính lễ tới nhà gái. Bắt buộc phải có cặp rượu, trầu cau, trà thuốc và áo quần cho cô dâu (ngày nay có thể thay vào đó là tiền để nhờ nhà gái tự lo liệu áo quần cho cô dâu). Xưa có “tiền giẻ” và “tiền heo”. Nhưng nay hầu hết “tiền giẻ’ và “tiền heo” không còn nữa mà thay vào đó là vàng và phong bì (lấy đó là tiền của hồi môn, tiền làm vốn cho đôi vợ chồng trẻ). Lễ thỉnh kỳ đã chuẩn bị rất chu đáo cho lễ cưới tiếp theo. Lễ cưới, nhà trai gọi là lễ thành hôn, nhà gái thì gọi là lễ vu quy. Lễ cưới thường tổ chức rất linh đình ở nhà nam. Mở đầu, họ nhà trai bưng 5 quả (có thể là hơn, nhưng là số lẽ). Đi đầu là quả trầu cau, tiếp theo là quả chả nem, quả trà rượu, quả tiền vàng, quả trái cây (ngày nay có thêm bánh gatô). Sau khi trình bày lễ vật cũng như nêu mong muốn, nguyện vọng của nhà trai: “Hôm nay là ngày lành tháng tốt, họ nhà trai xin rước cô dâu về”. Cô dâu được ra mắt, khi đó cô dâu được trang điểm, ăn mặc đồ mới, đeo đồ trang sức đã được nhà trai đưa đến. Sau khi cô dâu ra mắt, nhà trai tuyên bố những của hồi môn cho thêm như đất đai, vàng, trâu bò,... (nếu có). Cô dâu, chú rể lạy bàn thờ tổ tiên để ra mắt chàng rể, đồng thời để báo cáo tình hình cho tổ tiên biết, cô dâu lạy từ biệt tổ tiên, xin phép được qua nhà chồng. Lễ rước dâu, có thể đi bộ hoặc khiêng kiệu, khiêng võng (thời phong kiến), có thể đi xe máy, ô tô (thời kì đổi mới). Nếu ở gần, rước dâu bằng phương tiện đi bộ thì cô dâu chú rể đi sau hai họ. Còn đi bằng ô tô (xe hoa) thì xe hoa chạy trước. Một điều đặc biệt là ngày xưa, theo quan niệm dân gian, xã Điện Quang cũng như một số vùng khác (Quảng Tân – Quảng Bình, Lệ Thủy – Quảng Bình), khi rước dâu, bố mẹ của cô dâu không được đi cùng. Vì theo quan niệm của nhân dân, họ nghĩ rằng ba mẹ của cô dâu đi theo thì chẳng khác gì một cuộc gả bán con gái. Cũng theo quan niệm cho rằng, ba mẹ đi theo làm con gái không dứt, lưu luyến nhà mình. Dần về sau, ba mẹ cô dâu có thể đi theo nhưng không đi chung trong họ mà đi sau cách khoảng 5 – 10 phút. Và khi tới nhà trai, như phong tục xưa có nổ pháo râm ran, tưng bừng, không khí của một đám cưới. Cả làng đều biết nhà đó có đám cưới, họ tới chung vui. Cùng với pháo nổ là sự tiếp đón nhiệt tình của bà con, họ hàng nhà trai đối với cô dâu mới và nhà gái. Cô dâu về nhà trai, vào trình với bàn thờ gia tiên nhà trai. Ngày xưa, có lễ lạy ông bà rất nghiêm trang, mặc áo dài, khăn đóng để làm lễ. Nhưng ngày nay, lễ lạy tổ tiên quá phức tạp nên họ bỏ bớt và không làm cầu kỳ như thế nữa. Họ nhà gái cử người đại diện, thay mặt cha mẹ cô dâu có những lời dặn dò, gửi gắm cô dâu cho đằng trai. Nhà trai cử người đại diện nhận cô dâu và có đôi lời với nhà gái và bà con hai họ. Trong lúc đó, ba mẹ cô dâu không được cùng lên làm lễ, có thể chỉ tham dự buổi cưới đó mà thôi. Sau khi ra mắt nhà trai, cô dâu vào phòng, còn lại hai họ tổ chức ăn uống (Trước đây, nhà gái cũng dọn đãi bạn, đãi họ nhà trai. Nhưng mấy năm gần đây, hưởng ứng chủ trương tiết kiệm của Đảng và Nhà nước, nhân dân xã Điện Quang đã thay đổi đôi chút về việc tiệc tùng, đãi họ. Khi cưới, nhà trai rước dâu, nhà gái chỉ dọn kẹo bánh, hạt dưa và cà phê. Nó vừa phù hợp với tinh thần tiết kiệm tiền của, tiết kiệm được thời gian để họ nhà trai về tổ chức sớm. Hơn nữa, việc rút gọn như thế cũng rất hợp lý, với việc ăn bên nhà trai (không ăn bên nhà gái) sẽ ngon miệng hơn, tránh ăn dồn dập. Đây là một sự tiến bộ hơn trong nhận thức và trong đám cưới của xã. Nhân dân trong xã ai nấy cũng đồng tình với việc đổi mới này). Trong buổi lễ, nam nữ thanh niên cùng với cả hai họ, khách mời đều ăn chung một lần. Việc đó vừa tạo ra sự nhanh chóng, rút ngắn thời gian, lại phù hợp với tình hình nam nữ bình đẳng, mọi người bình quyền, xã hội công bằng, dân chủ, với nhịp độ khẩn trương của quá trình công nghiệp hóa đất nước. Trước năm 1996, tiệc cưới được tổ chức đãi bạn vào hai lần: một buổi đãi bà con, bạn của ba mẹ; buổi chiều đãi thanh niên nam nữ (10 người/1 bàn). Rõ ràng, sự thay đổi trên đã nói lên một bước phát triển mới trong lễ cưới, các phong tục tập quán của người dân địa phương. Và một lần nữa là, nay loa đài, nhạc thay cho pháo. Pháo không còn phù hợp với thời đại nữa. Đám cưới được tổ chức đông vui có hát hò, nhảy múa vui của bạn bè. Cần lưu ý, ở xã Điện Quang quan niệm rằng nhà trai đón dâu phải về trước 11 giờ trưa và họ nhà gái bắt buộc phải trở về trước 12 giờ (theo phong tục của người xưa) họ quan niệm sau 12 giờ là xấu. Khi họ nhà gái bắt đầu ra về, cô dâu bưng khay trầu ra đứng ở giữa, theo tục lệ, họ nhà gái bỏ vào một ít tiền lẻ để lấy lộc. Chiều lại, vợ chồng trẻ cùng nhau về lạy cha mẹ vợ mang theo một cặp bánh chưng, 0,5 – 1kg thịt, một chai rượu, một cặp bánh tráng, 1 cặp chả. Và còn một phong tục riêng ở xã Điện Quang là họ quan niệm, cô dâu về nhà chồng, trong 3 ngày đầu không được quét nhà. Như vậy, đám cưới ở xã Điện Quang nói riêng và phong tục tập quán ở Quảng Nam nói chung có những điểm tương đồng với phong tục tập quán ở các nơi khác, đồng thời nó mang nhưng nét độc đáo riêng của một vùng đất Gò Nổi, một xã có hình chim bói cá. Đám cưới ở đây ngày càng được cách tân, rút gọn vừa phù hợp với xu hướng của thời đại, văn minh của nhân loại, vừa tiết kiệm được tiền bạc, thời gian, tránh lãng phí nhưng vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống. 2.2.2. Tang ma Con người ta lúc linh ra là khởi đầu cho một sự sống và chết đi là lúc con người yên giấc ngàn thu, đi vào cõi vĩnh hằng. Đời người ta, trong một kiếp người trải qua nhiều giai đoạn quan trọng như sinh ra, lớn lên, trưởng thành, lập thành gia thất và lúc lìa trần cũng là một mốc quan trọng đánh dấu sự chấm hết của một kiếp người. Người Việt Nam quan niệm chết là con người kết thúc cuộc sống ở trần gian và bắt đầu cuộc sống mới ở thế giới bên kia, tức quan niệm về tâm linh và có linh hồn, nên việc tang ma được xem như là việc “đưa tiễn”, mặt khác là quan niệm trần tục coi chết là hết, nên tang ma là việc “xót thương”. Xem tang ma như việc “đưa tiễn” và với thói quen sống bằng tương lai, cho nên người Việt Nam rất bình tĩnh, yên tâm đón chờ cái chết. Chết già vì vậy được xem là sự mừng: trẻ làm ma, già làm hội. Nhiều nơi có người già chết còn đốt pháo, chắt chút để tang thì đội khăn đỏ, khăn vàng. Người Việt Nam chuẩn bị rất chu đáo cho cái chết của mình. Các cụ già tự mình lo sắm áo quan. Quan tài của người Việt làm bằng hình vuông tượng trưng cho cõi âm, làm xong, kê dưới bàn thờ như một việc hết sức bình thường. Có cỗ thọ rồi (tức quan tài), các cụ lo đến việc nhờ các thầy địa lý đi tìm đất rồi xây sinh phần. Các vua chúa bao giờ cũng lo chu tất những việc này, thường là ngay khi mới lên ngôi, các lăng mộ vua còn giữ được ở Huế đồng thời cũng là những nơi thắng cảnh là vì thế. “Xót thương” nên muốn níu kéo, giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục gọi hồn thể hiện hy vọng người chết sống lại. Vì xót thương nên có tục khóc than, con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ tốt (Đồ tang bằng các loại vải thô, xấu như xô, gai), không tâm trí nào nghĩ tới việc ăn mặc (nên gấu xổ, áo trái, đầu bù...) đau buồn quá nên không đứng vững (trai phải chống gậy, gái phải lăn đường), đau buồn quá nên dễ sinh quẫn trí và đập trùng tang (nên phải đội mũ dây chuối). Ngày nay nhiều tục lệ trong số đó không còn tồn tại nữa, không phải vì chúng vô nghĩa mà có lẽ vì chúng quá cầu kỳ, chi ly. Qua tang lễ ta cũng biết nhiều về con người Việt Nam, đặc biệt là tính cộng đồng: Biết nhà có tang, bà con xóm làng bao giờ cũng chạy đến giúp đỡ, lo toan chỉ bảo cho mọi việc. Theo quan niệm của nhân dân ta, đám tang là việc cuối cùng mà người còn sống làm để tưởng nhớ đến người đã khuất, vì lẽ đó nên đám ma được làm khá chu tất. Có thể nói hai sự kiện quan trọng đối với dân Việt là: đám cưới và đám tang. Trên đây, là những bình diện chung về cách tổ chức đám tang, quan niệm chung của người dân Việt. Bên cạnh đó ở mỗi vùng khác nhau thì lại có một nét khác nhau, tạo thành đặc trưng, khác biệt của từng vùng. Sau đây là những quan niệm về tang lễ của người dân xã Điện Quang. Sau nhiều ngày đi sâu vào thực tế, sống trong dân, và đi đến nhiều hộ gia đình để tìm hiểu về phong tục tập quán của địa phương, chúng tôi đã đến gặp nhiều người và đặc biệt được ông Phan Tín và ông Phạm Văn Năm thôn Bảo An Đông – Điện Quang – Điện Bàn – Quảng Nam cho biết về quy trình tổ chức một đám tang ở đây như sau: Khi một người trút hơi thở cuối cùng thì ngoài việc xót thương họ bắt đầu chuẩn bị cho một đám tang. Thường thường thì từ khi chết cho đến khi chôn ít nhất phải qua một ngày và theo bình thường ở đây là ba ngày. Trước khi chôn cất, người ta coi ngày giờ, chọn ngày tốt mới đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cũng chính vì quan niệm này nên thời gian của đám tang đôi lúc rất cập rập (1 ngày) vì sợ qua ngày sau, ngày sau nữa là ngày xấu, nhưng có lúc phải để quá 3 ngày vì những ngày trước đó không tốt. Ngày nay do nếp sống văn minh, nên số ngày chôn cất chỉ giới hạn (không quá 3 ngày). Nhìn chung một cách tổng thể thì đám tang trải qua 9 giai đoạn: Khâm liệm Nhập quan Phát dẫn Lễ viếng Lễ tế văn Nôm Đọc điếu văn Động quan Triệt linh sàng Di quan Lễ khâm liệm là lễ chuẩn bị cho người chết trước lúc nhập quan, trước khi khâm liệm người ta làm lễ Mộc dục, tắm gội cho người chết lần cuối cùng và mặc vào cho họ bộ đồ màu trắng bằng vải xô hoặc vải gai. Tiếp đó thực hiện lễ Phạm hàm, họ bỏ hoặc gạo hoặc muối và 3 đồng tiền vào miệng của người chết. Vì theo quan niệm của họ, người chết không phải là hết mà họ còn phải bắt đầu cuộc sống ở thế giới bên kia, và tiền để đưa họ bước vào ngưỡng cửa của cõi âm, để nhờ người lái đò chở về thế giới mới của mình. Khi mới Khâm liệm mà chưa Nhập quan thì người ta trùm lên đầu người chết một cái khăn trắng. Việc làm đó, người dân quan niệm rằng, làm như thế người chết đỡ đi phần nào thấy cảnh người thân của mình đau khổ và mặt khác người ta muốn làm giảm bớt sự đau khổ của người thân khi phải nhìn trực tiếp vào khuôn mặt của người đã mất. Còn nữa, khi chưa nhập quan thì trên đầu người chết người ta để một ít trái cây (đặc biệt là chuối) và thứ luôn luôn có là bát cơm và quả trứng cũng như hương khói. Khi Khâm liệm người nhà cùng tuổi không được nhìn, kể cả những người thân trong nhà cũng không được nhìn. Lễ nhập quan: trong lễ nhập quan người ta chia làm nhiều công đoạn, thứ nhất là quan tài, người ta lấy đất sét hoặc các loại keo... để bôi quanh những cạnh của ván quan tài giữa hai miếng ván đóng vào với nhau, điều này xuất phát từ việc xem ngày, vì có những thi hài coi ngày chôn cất không tốt nên thời gian để xác lại kéo dài người ta sợ xác vữa ra làm mất vệ sinh. Ngoài ra người ta còn làm cho người chết một cái gối kê, hoặc bằng đất sét hoặc bằng thân của cây chuối, và có thể là một cái gối được bọc bởi cát. Sau đó người ta lót dưới quan tài một lớp hòm đỏ, rồi đến một lớp vải trắng, rồi đến một lớp cát, sau đó đưa xác người vào. Có thể liệm ở trên mặt bằng trà hoặc bằng cát trắng (nếu bằng cát trắng thì phải sàng lọc sạch sẽ) nhưng tốt nhất là bằng trà, vì trà có thể hút ẩm và diệt khuẩn. Ngoài ra lúc nhập quan người ta còn buộc hai ngón chân cái của người đã khuất. Sau khi nhập quan xong, đậy nắp quan tài, người ta dùng dây thừng để buộc quanh quan tài, sau đó trên nắp quan tài nếu là nam thì đặt 7 cây đèn, còn nếu là nữ thì đặt 9 cây đèn. Lễ Phát dẫn: Đây là lễ phát khăn tang cho những người thân trong gia đình. Ở Điện Quang, đặc biệt không phân biệt màu khăn tang, tất cả con cháu, chắt, chút, chít đều một màu trắng như nhau. Con, cháu thì khăn tang màu trắng, chắt, chút, chít thì đội mũ tang màu trắng. Đặc biệt nếu là chức cháu mà quá nhỏ thì người ta cũng có thể cho đội mũ tang màu trắng. Con dâu thì áo tang bên cánh tay có thêm cái nơ hoặc cái hoa nhỏ màu trắng để phân biệt với con gái. Con trai thì sau lưng có biểu tượng chiếc lá. Ngoài ra những người con dâu, con rể đã ly hôn, khi nghe bố mẹ chồng, bố mẹ vợ đã mất thì xin về phục tang, có nhà thì đồng ý, có nhà thì không, tùy theo từng hộ gia đình. Thêm nữa, trước đây khi trong gia đình có người chết thì người ta cũng để tang cho cây cối bằng cách buộc khăn tang cho chúng. Ngày nay phong tục đó hầu như không còn. Lễ viếng là lễ kéo dài nhất trong tất cả các lễ, nó kéo dài từ khi nhập quan cho đến trước lúc động quan. Lễ viếng nhằm mục đích cho những người thân thuộc, quen biết đến thăm viếng, thắp hương cho người đã khuất lần cuối cùng, để tỏ sự tiếc thương, tôn trọng. Khi người đi viếng đến thắm hương trước linh cửu của người chết thì người đứng ra tổ chức tang lễ trong gia đình đánh 3 hồi chiêng và 3 hồi trống. Đánh 3 hồi chiêng và 3 hồi trống như thế có ý nghĩa thể hiện sự tôn trọng của người đi viếng đối với người chết. Người đi viếng thường mang theo hương và kẹp vào đó một ít giấy bạc. Đặc biệt là sui gia thì khi đi viếng thì có một mâm cỗ gồm có trầu cau, rượu (hai thứ đó luôn luôn có), ngoài ra còn có thêm bức liễn, phong bì. Trầu cau tượng trưng cho lễ nghĩa sui gia với nhau. Người đi viếng lạy hai lạy khi linh cửu vẫn còn ở đó, còn đối với những người thân về chịu tang không kịp, người chết đã được đưa đi chôn cất thì lạy bốn lạy. Lễ tế văn Nôm, lễ này người thân trong gia đình soạn thảo một bài văn rồi đọc. Bài văn Nôm này kể về công đức của người đã khuất đối với con cháu, người thân trong gia tộc. Lễ này có thể có hoặc không tùy theo điều kiện của từng gia đình. Đọc điếu văn, đây là lúc người ta đọc tên những người thân thuộc của gia đình người đã khuất và vai vế của họ, tỏ lòng thương tiếc, đau buồn đối với người đã chết trước khi đưa linh cửu về nơi an nghỉ cuối cùng. Động quan tức là trước lúc di quan người tổng Cai điều hành âm công (tức là những người làm nhiệm vụ khiêng quan tài) chạy quanh linh cữu và làm động tác nhấc hẳn quan tài lên rồi hạ xuống. Lễ triệt linh sàng, lúc này người ta đem tất cả những thứ để trước quan tài đi nơi khác, chuẩn bị bưng di ảnh và lư hương ra khỏi gian chính của nhà. Lễ Di quan, khi nhấc quan tài lên, thì người trong nhà xán vỡ một cái gì đó. Khi quan tài ra khỏi cửa thì phải giật một cái thật mạnh vào miếng tôn hoặc những thứ tương tự trước mái nhà. Vì theo quan niệm của người dân là như thế để tránh những điều đau khổ không may mắn sẽ xảy ra cho gia đình sau đám tang. Ngoài nhưng lễ chính đó, còn một số điều mà ta cần biết như: tiếng nhạc trong đám tang. Tiếng nhạc chỉ xuất hiện sau khi đã hoàn thành xong lễ nhập quan. Đối với đội ngũ kèn trống thì gia đình của người chết phải lo việc ăn uống của họ trong suốt qua trình đám tang. Một điều đặc biệt nữa là khi đánh chiêng và đánh trống thì người đánh quay mặt vào trong nhà và đánh bật cho tiếng chiêng trống đi ra theo hướng bên ngoài. Nghi lễ Di quan, đưa người chết đến nơi chôn cất như sau: Chiêng trống đi trước (hay còn gọi là phướng), sau đó đến vòng hoa và tiếp nữa là bàn kiệu của người chết. Tiếp theo con lớn bưng bát hương, cháu nội hoặc cháu đích tôn bưng di ảnh. Ngày trước sau khi đưa tang xong xuôi thì người thân trong gia đình người quá cố làm tiếc mặn để mời khách, nhưng dần dần họ đã bỏ đi việc này. Không kể ngày chôn thì hai ngày sau mở cửa mã, sau đó làm tuần 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, rồi tới một năm thì làm lễ giáp năm, đến 2 năm thì làm lễ mãn khó, lúc này mới đem di ảnh và lư hương của người chết lên bàn thờ chính. Bên cạnh những điều nói trên thì còn có một số việc khác như, lúc chôn cất người chết về thì người thân trong gia đình lạy 3 lạy sau đó thắp hương và đặt khăn tang lên bàn thờ, khi mãn khó thì người ta đem khăn ra mộ đốt. Ngày xưa người ta quan niệm chết nước, chết tai nạn... thì không cho đưa vào nhà chỉ để ngoài đường nhưng quan niệm đó ngày nay đã bỏ. Đó là phong tục tập quán của người dân bình thường. Còn theo đạo thì khác. Chẳng hạn như theo đạo Thiên Chúa thì không coi ngày và chỉ để 24 giờ, họ chỉ đọc Kinh Thánh chứ không thổi kèn. Còn theo đạo Phật thì bàn thờ của người chết có đặc biệt hơn: trước hết là bàn thờ Phật sau đó mới đến bàn thờ người chết. Lúc Di quan, ở bàn kiệu người chết đầu tiên là ảnh của Phật, đến bàn thờ Phật sau đó mới đến di ảnh của người chết. Tang ma là một trong những phong tục tập quán mà người Việt vẫn còn giữ nguyên nét truyền thống xưa, dù ngày nay vẫn có sự thay đổi, nhưng sự thay đổi đó không nhiều. Đây là lễ nghi mà người Việt tổ chức khá chu đáo, nó được xem như là sự tôn trọng, luyến tiếc vô cùng của người sống đối với người chết. 2.2.3. Một số phong tục tập quán khác Ngoài các phong tục tập quán như đám cưới, đám ma, người Việt còn có một số phong tục tập quán khác như Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Tết Thượng Nguyên, Hạ Nguyên, Hàn Thực, Tết Ngâu,... trong đó nổi bật lên là Tết Nguyên Đán và Tết Đoan Ngọ. Tết Nguyên Đán: như chúng ta đã biết, nền kinh tế của nước ta bắt nguồn từ nền kinh tế lúa nước mang tính thời vụ cao, lúc có việc thì tối tăm mặt mũi, ngay miếng ăn cũng đại khái cốt được việc thì thôi, cho nên lúc rãnh rỗi người nông nghiệp có tâm lý ăn bù, chơi bù. Vì vậy mà ở Việt Nam Tết Nguyên Đán rất được coi trọng. Tết Nguyên Đán (nguyên có nghĩa là bắt đầu, đán có nghĩa là buổi sáng) nó còn được gọi là tết ta để phân biệt với tết tây (theo dương lịch) hoặc tết cả để phân biệt với các tết còn lại. Có thể nói, đặc trưng văn hóa điển hình nhất của tết Nguyên Đán là nếp sống cộng đồng: từ 23 tháng Chạp (ngày ông Táo về trời), người dân nô nức đi chợ Tết – có người đi để săm Tết, có người đi du xuân, ngắm chợ ngày Tết. Rồi người ta chung nhau giết lợn, chung nhau gói bánh chưng, bánh tét, cùng ngồi bên bếp lửa nấu nồi bánh. Tết là dịp duy nhất trong năm có sự sum họp đầy đủ của tập thể gia đình, gia tiên và gia thần. Con cháu dù đi đâu đến ngày Tết cũng cố gắng giành thời gian về ăn Tết với gia đình, hương hồn ông bà tổ tiên cũng về gặp mặt gia đình, các vị thần phù hộ cho gia đình đều được chăm lo cúng bái. Tết là sự tổng hợp giữa cái thiêng liêng và cái trần thế. Tết nhằm duy trì quan hệ tôn ti trật tự của các thành viên trong gia đình. Có điều kiện công tác ở Điện Quang – Điện Bàn – Quảng Nam, chúng tôi đã tìm hiểu về phong tục tập quán của người dân ở đây, và được người dân ở đây cho biết về tết Nguyên Đán như sau: Theo lệ xưa ở xã Điện Quang vào ngày 25 tháng Chạp các làng có lễ dựng nêu tại sân đình, chùa, miếu âm linh, miếu ngũ hành... đó là một cây tre rong sạch, để ngọn, trên có treo một tấm đan bằng nan tre gồm bốn dọc, nằm ngang biểu thị bùa yểm bốn phương và ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), một cái giỏ đan bằng tre có đựng trầu cau, giấy tiền vàng bạc, một cái phướng bằng giấy điều, phía dưới có rẽ tua. Cây nêu được dựng đến ngày mùng 7 tháng Giêng mới hạ xuống trong lễ khai hạ. Nhờ cây nêu, ông bà từ cõi âm về vui vầy cùng với con cháu, không bị các loại ma quỷ quấy rối. Mỗi nhà cũng dựng nêu trong lúc cúng rước ông bà vào chiều 30 Tết (tháng thiếu ngày 29) nên có câu: Ba mươi dựng phướng lên nêu Mồng bảy khai hạ, hạ đều ren ren. Thường thường ở nhà buôn bán, lễ tất niên cũng gọi là lễ tạ, được cúng trước ngày 23 theo tín ngưỡng xưa, sau khi đưa ông Táo và các thần về trời, nghĩa là sau ngày 23 tháng Chạp âm lịch thì các thân đi vắng nên không dự được. Trong lễ tạ có mời bà con bạn bè, các nhà không buôn bán thì cúng tất niên và rước ông bà luôn một dịp vào khoảng 13 giờ ngày 30 âm lịch cuối năm. Trước đó, ở đình, chùa, miếu, nhà thờ họ, nhà riêng, các đồ như bàn thờ, tủ thờ được lau chùi sạch sẽ, bóng loáng, lư hương được thay đổi cát mới, chân nhang củ được bỏ. Nhà cửa trang hoàng đẹp đẽ. Bếp lửa khói um tùm, mọi người đều sẵn sàng ăn Tết, đường làng, kiệt xóm được dọn sạch. Đúng giờ giao thừa, đại hồng chung, chiêng, trống của đình làng, chùa và nhà thờ các họ được đánh lên âm vang một hồi, và sau đó mấy phút lại đánh suốt cho tới sáng mới nghỉ. Lúc giao thừa mọi nhà đều cúng hành khiển, hành binh, là các vị thần mới từ trên trời xuống thay thế các vị thần cũ. Pháo hồng được đốt lên nổ khắp hàng xóm đón xuân về. Mùi hương trầm hòa quyện với khí trời se lạnh tạo nên những giờ phút vừa thiêng liêng, vừa rạo rực trong lòng mọi người. Ai cũng lắng nghe tiếng con vật nào kêu vào giờ giao thừa, để đoán định sự tốt xấu trong năm mới. Sáng mồng một, cha mẹ thường dặn dò con cái đừng đến mở hàng nhà người khác (gọi là đạp đất đầu năm). Và chỉ được quanh quẩn chơi trong nhà. Chỉ khi thấy ngoài đường các cụ bắt đầu đi lễ đình, chùa, nhà thờ họ sau đó đến xông đất nhà bà con thân thuộc thì mới bắt đầu đi thăm chơi. Vào khoảng 8 giờ sáng trở đi làng xóm trở nên nhộn nhịp vô cùng. Ba ngày Tết, mọi người trong làng, trong họ đều thăm viếng và chúc Tết nhau. Họ đến nhà thờ họ, đình, chùa, lễ bái ông bà, thần Phật để cầu sự bình an trong năm mới. Ngày mồng hai thăm sui gia, thăm bên ngoại, rể về thăm nhà vợ, mùng ba chúc Tết thầy, bà con, bạn bè. Trong ba ngày Tết, làng cũng tổ chức những trò chơi vui náo nhiệt. Ngoài ra Tết còn hiện lên qua sự hồi tưởng của nữ thi sĩ Hằng Phương, từng sống ở quê ngoại Quảng Nam: Sáng mồng một, tôi mặc quần áo mới, Theo mẹ tôi, mừng tuổi các nhà quen. Lễ bàn thờ xong, cỗ Tết bưng lên, Nào nem trưỡi, bánh in rồi bánh tét,... Ngoài Tết Nguyên Đán này ra, Việt Nam còn nhiều cái Tết khác nữa, trong đó phải kể đến Tết Đoan Ngọ. Tết Đoan Ngọ: Dân ta ngày xưa quan niệm, Tết Đoan Ngọ (5/5) là Tết của xứ nóng phương Nam ta kỉ niệm thời điểm giữa năm. Đây là thời điểm nóng nực, nhiều bệnh tật phát sinh nên dân ta gọi ngày này là Tết giết sâu bọ, với phong tục dùng lá móng nhuộm móng tay móng chân cho trẻ, ăn rượu nếp và hoa quả, chuối chát (để “sâu bọ” trong người say và chết) vào giờ ngọ họ đi hái lá (các loại lá như lá ngãi, ích mẫu, lá muỗm, lá vối,...) phơi khô để dùng uống cả năm. Tuy là lễ được tổ chức trong cả nước, nhưng bên cạnh những nét chung thì mỗi vùng lại có những nết khác biệt khác nhau. Ở Điện Quang – Điện Bàn – Quảng Nam thì có những nét đặc trưng sau: Theo lời của cô Thái Thị Sen thôn Bảo An Đông, Lễ này cúng vào trưa ngày mồng 5/5 âm lịch với bánh ú tro, chè, xôi, mít, thơm... Trước đó dân làng đi hái các cây thuốc nam về phơi để uống quanh năm vì cho là chữa được bách bệnh. Người ta tin rằng cặp thằn lằn giao đầu đúng giờ ngọ ngày mùng 5 là linh, chữa được bệnh hen suyễn, thằn lằn lột vỏ đúng giờ ngọ cũng là thuốc chữa bệnh. Theo quan niệm người dân, gióng bò sát thuộc về âm, nên nó xuất hiện đúng giờ ngọ là thuần dương nên thành một thứ nước có hiệu lực. Người ta tin ằng đúng tưa mồng 5 thì thằn lằn đều trốn đi hết để khỏi bị bắt làm thuốc. Các phong tục tập quán của người Việt nói chung và nhân dân xã Điện Quang nói riêng rất phong phú và đa dạng. Ngoài đám tang, đám cưới, Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ chúng ta còn có các phong tục tập quán khác như: Tết ông Táo, Tết Ngâu, Tết Thượng Nguyên, Tết Trung Nguyên, Tết Hạ Nguyên, Tết Trung Thu... Chương 3. Một số làng nghề truyền thống 3.1. Nghề dệt 3.1.1. Nghề dệt vải ta Vải ta là vải dệt từ sợi chỉ lấy từ cây bông vải. Đây là nghề truyền thống nổi tiếng lâu đời của Bảo An, nghề này không ngừng được cải tiến nhờ sự trao đổi kỹ thuật dệt vải với người Hoa ở Hội An: người Hoa c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc272i7879n Quang dng ch7843y v259n ha sua.doc
Tài liệu liên quan